Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 66

Vợ chồng A Phủ

A – KIẾN THỨC CƠ BẢN

1 – Tác giả:

 Tô Hoài (1920 – 2014), quê ở Hà Đông


 Chỉ học hết cấp tiểu học, làm nhiều nghề kiếm sống và dừng lại ở nghề viết văn.
 Là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
 Là nhà văn viết hay nhất về cuộc sống đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc.
 Là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Sau hơn
60 năm lao động nghệ thuật, ông đã để lại gần 200 đầu sách gồm nhiều thể loại: truyện
ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện…
 Tác phẩm tiêu biểu: “Dế Mèn phiêu lưu kí”, “O chuột”, “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”,
“Cát bụi chân ai”…
 Quan điểm sáng tác: “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”.
 Phong cách nghệ thuật:
 Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường.
 Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền.
 Lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của một người từng trải.
 Vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục nhưng được sử dụng một cách
đắc địa, tài ba.

2 – Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh ra đời:

 Sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.


 Là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải cứu Tây Bắc…cùng
ăn, cùng ở, cùng chiến đấu với những con người nơi mảnh đất này.
 Tập “Truyện Tây Bắc” được tặng giải Nhất Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam, gồm 3
tác phẩm: “Cứu đất cứu Mường”, “Mường Giơn”, “Vợ chồng A Phủ”.

b. Bố cục:

 Phần 1: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài

1
 Phần 2: Mị và A Phủ ở Phiềng Sa

c. Nội dung:

 Giá trị hiện thực:


 Phản ánh bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị nơi vùng cao Tây Bắc.
 Phản ánh cuộc sống tăm tối, cực nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng khỏi ách áp bức
ở người lao động.
 Giá trị nhân đạo:
 Thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với những thân phận khổ đau.
 Tố cáo tội ác của giai cấp thống trị đã tước đoạt cả quyền sống và sức sống của con người.
 Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, đặc biệt là sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng lên giải
phóng ở người lao động.
 Tô Hoài còn chỉ cho người lao động con đường để sống và hạnh phúc: vùng lên đấu tranh
và đi theo cách mạng.

d. Nghệ thuật:

 Tình huống truyện độc đáo.


 Miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, tài hoa.
 Khắc họa được những nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ.
 Kết hợp giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật rất đặc sắc.
 Nghệ thuật tả cảnh, tả phong tục tập quán sắc nét.
 Cách trần thuật hấp dẫn linh hoạt.
 Giọng văn nhẹ nhàng, mang đậm màu sắc miền núi (phong vị dân tộc) vừa giàu tính tạo
hình, vừa giàu chất thơ.

2
Đề 1: Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn.

A – MỞ BÀI:

Tô Hoài quan niệm: “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước
tiên”… nhân vật là chỗ dựa chắc chắn để nhà văn thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm và tình
cảm đối với cuộc sống, với con người. Viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng khắc họa được
những nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ để làm nổi bật cuộc sống tăm tối, cực nhục và sức
sống tiềm tàng ở người lao động vùng cao Tây Bắc. Những đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng
Mị trong đêm tình mùa xuân đã giúp ta thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm của
người nghệ sĩ tài hoa,gắn bó sâu nặng với đất và người Tây Bắc.

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung

 Giới thiệu tác giả, tác phẩm


o Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền.
Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường.
o Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”, là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải
cứu Tây Bắc…cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu với những con người nơi mảnh
đất này.
 Vài nét về nhân vật Mị:
o Mị vốn là một người con gái đẹp, có tài thổi sáo, thổi ken lá, “có nhiều người
mê, ngày đêm đã thổi sáo theo Mị”.
o Mị từng yêu và từng được yêu, cũng hồi hộp, khao khát trước những âm thanh
hò hẹn của tình yêu.
o Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm
nương ngô trả nợ thay cho bố.
o Mọi khao khát đều bị dập tắt khi Mị bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:
bị đem ra cúng trình ma nhà thống lí (ách thống trị của thần quyên và cường
quyền) ép Mị cam phận làm nô lệ.

3
o Những ngày đầu khi làm dâu “hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc”, Mị tủi
nhục đắng cay, uất ức cho số phận.
o Mị muốn chết nhưng thương cha, Mị đành chấp nhận kiếp làm thân trâu ngựa.
o Mấy năm sau, cha Mị mất, Mị đã không còn muốn chết nữa vì đã chai sạn tâm
hồn: “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”,
cuộc đời bị giam cầm trong căn phòng tối đen.
o Thống lí Pá Tra đã áp dùng cương quyền, thần quyền áp chế khiến Mị cam chịu
kiếp sống nô lệ: Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa.
o Từ một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, Mị đã bị cướp về làm con dâu gạt nợ, bị đày đọa
cả về thể xác lẫn tinh thần. Bông hoa ban rừng nay héo tàn vì chai sạn cảm
xúc… Khi đào sâu vào hiện thực, Tô Hoài còn phát hiện ra một quy luật tất
yếu: nếu có một hoàn cảnh làm tê liệt sức sống của Mị thì cũng có một hoàn
cảnh làm phục sinh tâm hồn Mị. Đêm tình mùa xuân với tiếng sáo thiết tha réo
rắt đã trở thành yếu tố ngoại cảnh giúp Mị hồi sinh, khao khát được sống hạnh
phúc theo tiếng gọi của trái tim mình.

2. Khung cảnh mùa xuân đầy sức sống (nguyên nhân thức tỉnh)
Khung cảnh mùa xuân tưng bừng náo nhiệt, ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu đã
khiến Mị trỗi dậy sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
 Xuân qua rồi xuân lại…đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã đến “cỏ gianh vàng
ửng”, “hoa thuốc phiện nở đỏ au rồi chuyển sang màu đỏ tím”, “những chiếc váy
hoa được đem ra phơi trên những mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ”…
 Trong cảnh đẹp của núi rừng, không khí tưng bừng náo nhiệt cũng rộn ràng khi
Tây Bắc vào xuân: “Đám trẻ đợi Tết chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”,
“tiếng sáo vọng về từ nơi đầu núi”… lời của tiếng sáo là biểu tượng cho khát vọng
tình yêu, hạnh phúc; cho khát vọng tự do.
 Là nhà văn có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của miền núi, Tô Hoài
đã tạo nên những câu văn đặc sắc về khung cảnh Tây Bắc mang vẻ đẹp hoang sơ,
thơ mộng.

3. Tâm trạng bồi hồi, xao động của Mị:


Tiếng sáo rủ bạn nơi đầu núi tuy ở rất xa nhưng cũng khiến trái tim Mị bồi hồi, xao
động.

4
 Ở trong căn buồng tối như một ngục thất tinh thần “Mị nghe tiếng sáo vọng lại
thiết tha bổi hổi”, cô “nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”.

 Nghe tiếng sáo của những kẻ yêu nhau đang khao khát yêu đương mà lòng Mị xốn
xang, rạo rực. Sau bao ngày tháng sống như một công cụ lao động biết nói mà
không dám nói, hôm nay Mị đã cất lên những lời thì thầm mùa xuân.
 Bản tình ca Tây Bắc đã được cất lên trên đôi môi Mị đánh dấu sự hồi sinh ,thức
tỉnh trong tâm hồn người phụ nữ yêu đời, ham sống thuở nào.
 Tiếng sáo làm thức dậy cả một thế giới tưởng như đã ngủ quên, âm thanh náo nức
ấy vang vào nơi sâu thẳm trong trái tim khiến Mị bước qua ranh giới của sự câm
lặng để cất lên những tiếng nhẩm thầm hòa lòng mình vào cuộc sống.
 Tô Hoài đã lách ngòi bút thật sâu vào cõi lòng nhân vật để khơi mở tâm trạng thổn
thức để khắc họa tâm trạng bồi hồi say đắm khi khát vọng mùa xuân trong trái tim
Mị ùa về.

3, Uống rượu
Trong cảm giác rạo rực đắm say, Mị đã tìm đến với rượu để vơi đi nỗi buồn
 Cách uống rượu của người con dâu gạt nợ ấy thật đặc biệt: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ
uống ực từng bát”.
 Hành động lén lút vội vã cho thấy Mị vẫn sống trong nỗi sợ hãi vì luôn bị đọa đầy.
Cô uống “ực từng bát”…uống mà như nuốt hờn, nuốt tủi, nuốt đắng, nuốt cay. Mị
tìm đến với rượu để được say, để quên đi thực tại phũ phàng, để giải tỏa bao nỗi
buồn đau bức bối. Cô uống rượu mà như uống hờn căm uất hận của phần đời đã
qua, uống cái khao khát của phần đời chưa tới.
 Tâm trạng hồi sinh cùng hành động phản kháng lại số phận ấy đã cho thấy Mị đang
mong muốn được sống thật với chính bản thân mình.
 Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế tài hoa, tác giả đã giúp ta cảm nhận
được nỗi cay cực và sự quẫy đạp, hồi sinh trong tâm hồn Mị.

4, Mị nhớ về quá khứ


5
Men rượu đã đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, Mị nhớ lại cả quá khứ tươi đẹp và
những ngày tháng khổ đau.
 Tiếng sáo nơi đầu làng đánh thức một đoạn đời tươi đẹp đã qua – những ngày chưa
làm dâu gạt nợ. Ngày ấy, “Mị thổi sáo giỏi”, “mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp
và thổi sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao
nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
 Kí ức đã qua là phần đời tự do hạnh phúc của đóa hoa rừng trẻ đẹp tài hoa, đang tin
yêu cuộc sống. Nghĩ tới thời thanh xuân mơn mởn “Mị thấy phơi phới trở lại, trong
lòng đột nhiên vui sướng”, Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi
chơi”.
 Ngôn ngữ nửa trực tiếp giúp Tô Hoài nhập thân vào nhân vật để diễn tả cảm giác
phơi phới hạnh phúc và cuộc nổi loạn trong lòng. Thấy mình còn trẻ, thấy mình
muốn đi chơi là vẫn còn ý thức về giá trị của bản thân. Mị yêu đời, ham sống khi
nhớ về quá khứ trẻ trung, đầy mơ ước.
 Không chỉ nhớ lại những năm tháng đẹp đẽ, Mị còn hồi tưởng lại quá khứ khổ đau
“Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nỗi cô đơn buồn
chán vì cuộc hôn nhân không tình yêu nơi địa ngục trần gian ấy đã làm nảy sinh
trong Mị một ước muốn hãi hùng mà chân thực “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”.
 Mị lại muốn ăn lá ngón để giải thoát mình khỏi kiếp ngựa trâu, cô phản kháng lại
số phận vì không chấp nhận cuộc sống tăm tối như kiếp vật, muốn sống và chết
như con người. Nghĩ đến cái chết lúc này là thể hiện cao nhất của sự tự nhận thức
thực tại của thái độ phản kháng, của sức sống tiềm tàng.
 Tô Hoài đã đạt đến cái gọi là “phép biện chứng tâm hồn” khi tái hiện những mâu
thuẫn giằng xé gay gắt mà hợp lí trong nội tâm nhân vật.

5, Mị chuẩn bị đi chơi
Tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường đã cứu Mị ra khỏi trạng thái cực đoan
và thôi thúc Mị chuẩn bị đi chơi theo tiếng gọi của khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
 Những giai điệu tình yêu và cả những lỗi hẹn đáng tiếc vẫn văng vẳng đâu đây:

“Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi…”

6
 Âm thanh ấy dường như lại làm hồi sinh một trái tim đang muốn giã từ sự sống.
“Mị xuống góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng…
quấn lại tóc…với tay lấy cái váy hoa”.
 Ba hành động liên tiếp đã làm nên một cuộc nổi loạn, một cuộc vượt ngục về tinh
thần. Hình ảnh ngọn đèn trên đĩa được khêu lên cho thấy Mị muốn thắp sáng quãng
đời còn lại của mình, muốn xua đi cái đen tối của cuộc sống thực tại.
 Mị không muốn làm con rùa lùi lũi nơi xó cửa nữa. Mị muốn làm cánh chim tung
bay giữa bầu trời chào đón mùa xuân. Khi đốt lên niềm hi vọng mới cho cuộc đời
mình “trong đầu Mị như rập rờn tiếng sáo” bởi tiếng sáo gọi bạn yêu cứ réo rắt mãi
không thôi. “Truyện không chỉ là hành trình tái hiện lịch sử đời sống” mà còn là
hành trình “đi tìm con người trong con người” (M.Bakhtin). Viết “Vợ chồng A
Phủ”,
 Tô Hoài đã tìm thấy những hạt ngọc khuất lấp ấy trong tâm hồn người phụ nữ có
trái tim nhân hậu và sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

6, Vùng bước đi ngay cả khi bị trói


Ngay cả khi bị trói đứng, Mị vẫn vùng bước đi theo tiếng gọi của khát vọng sống,
khát vọng tự do cháy bỏng.
 Sợi dây trói tàn bạo của A Sử như một phép thử để vùi dập hi vọng vừa được hồi
sinh. Hắn lấy thắt lưng trói hai tay Mị, “xách cả một thúng sợi dây đay”, “trói đứng
Mị vào cột”, tóc Mị xõa xuống A Sử quấn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi
không nghiêng đầu được nữa rồi “tắt đèn”, “khép cửa” đi ra. Hắn muốn dập tắt tất
cả ánh sáng hi vọng của người vợ khổ đau. Thế nhưng trong bóng tối Mị vẫn nghe
thấy tiếng sáo đưa mình đến những cuộc chơi:

“Em không yêu, quả pao rơi rồi

Em yêu người nào, em bắt pao nào”

 Mị đã “vùng bước đi” dù chân tay đau không cựa được. Ba chữ “vùng bước đi”
thật quyết liệt lãng mạn lạ lùng, khát vọng cứ trào ra ngoài thân xác. A Sử có thể
giam Mị giữa ngày xuân nhưng không thể ngăn được sức sống mùa xuân đang tràn
về trong Mị.
 Tô Hoài thật tài năng khi sáng tạo được hai chi tiết nghệ thuật đắt giá song hành:
tiếng sáo và dây trói. Nếu tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng tự do, khát vọng tình
yêu hạnh phúc thì dây trói lại gợi về thực tại phũ phàng, tội ác của cường quyền.

7
 Nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con
ngựa”. So sánh mình không bằng kiếp vật là trạng thái cao nhất của sự thức tỉnh
khi nhận ra quyền sống của con người.

7, Sợ chết
Sợ chết cũng là biểu hiện của lòng ham sống trong Mị.
 Trời tảng sáng Mị bàng hoàng nghĩ đến cảnh những người đàn bà cả đời chỉ biết đi
theo đuôi con ngựa nhà chồng, nghĩ đến chuyện đời trước ở nhà thống lí Pá Tra có
người trói vợ trong nhà 3 ngày rồi đi chơi, khi về đến thì vợ chết rồi. “Nghĩ thế, Mị
sợ lắm, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết”.
 Mị ham sống ngay cả khi cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng
mảnh thịt. Sự quẫy đạp trong đêm tình mùa xuân không thay đổi được số phận của
Mị nhưng đó là những trang văn dạt dào cảm xúc, trĩu nặng tình yêu thương của
nhà văn đối với con người.

3. Đánh giá chung

 Qua những đoạn văn tái hiện cung bậc cảm xúc của Mị trong đêm tình mùa xuân,
người đọc thấy tư tưởng nhân đạo sâu sắc cũng như tài năng nghệ thuật của Tô
Hoài.
 Tác giả bày tỏ tấm lòng thương cảm vô hạn trước thân phận khổ đau của người con
dâu gạt nợ, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, hủy hoại quyền sống, sức sống của
con người, đồng thời viết lên bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong tâm hồn
người lao động vùng cao Tây Bắc.
 Từ tâm trạng bồi hồi xao động, niềm khao khát hạnh phúc ,tự do của Mị… tác giả
đã khẳng định: giai cấp thống trị có thể đày đọa con người xuống đáy cùng nỗi đau
thương nhưng không thể dập tắt được sức sống diệu kì trong tâm hồn họ.
 Nhà văn đã tái hiện sự hồi sinh thức tỉnh trong Mị qua tình huống truyện độc đáo,
khắc họa những nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ, miêu tả tâm lí nhân vật tinh
tế, tài hoa.
 Nghệ thuận tả cảnh, tả phong tục tập quán sắc nét, sự kết hợp giữa ngôn ngữ tác giả
và ngôn ngữ nhân vật, cách trần thuật hấp dẫn đã giúp nhà nhân đạo ấy thể hiện
cảm quan hiện thực và tình yêu thương đối với con người.

C – KẾT BÀI:

8
Một làn sóng tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô
Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy sức sống của con người dù bị
giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm
yêu mến con người. Thứ hai chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm chống lại
con người và sư sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân danh quyền sống
của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ

ĐỀ 2: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT MỊ TRONG ĐÊM MÙA ĐÔNG CỞI TRÓI
CHO A PHỦ

A – MỞ BÀI:

Tô Hoài quan niệm: “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước
tiên”… nhân vật là chỗ dựa chắc chắn để nhà văn thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm và tình
cảm đối với cuộc sống, với con người. Viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng khắc họa được
những nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ để làm nổi bật cuộc sống tăm tối, cực nhục và sức
sống tiềm tàng ở người lao động vùng cao Tây Bắc. Những đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng
Mị trong đêm tình mùa xuân đã giúp ta thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm của
người nghệ sĩ tài hoa,gắn bó sâu nặng với đất và người Tây Bắc.

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung

 Giới thiệu tác giả, tác phẩm

9
o Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền.
Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường.
o Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện
Tây Bắc”, là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải
cứu Tây Bắc…cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu với những con người nơi mảnh
đất này.
 Vài nét về nhân vật Mị:
o Mị vốn là một người con gái đẹp, có tài thổi sáo, thổi ken lá, “có nhiều người
mê, ngày đêm đã thổi sáo theo Mị”.
o Mị từng yêu và từng được yêu, cũng hồi hộp, khao khát trước những âm thanh
hò hẹn của tình yêu.
o Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm
nương ngô trả nợ thay cho bố.
o Mọi khao khát đều bị dập tắt khi Mị bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:
bị đem ra cúng trình ma nhà thống lí (ách thống trị của thần quyên và cường
quyền) ép Mị cam phận làm nô lệ.
o Những ngày đầu khi làm dâu “hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc”, Mị tủi
nhục đắng cay, uất ức cho số phận.
o Mị muốn chết nhưng thương cha, Mị đành chấp nhận kiếp làm thân trâu ngựa.
o Mấy năm sau, cha Mị mất, Mị đã không còn muốn chết nữa vì đã chai sạn tâm
hồn: “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”,
cuộc đời bị giam cầm trong căn phòng tối đen.
o Thống lí Pá Tra đã áp dùng cương quyền, thần quyền áp chế khiến Mị cam chịu
kiếp sống nô lệ: Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa.
o Từ một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, Mị đã bị cướp về làm con dâu gạt nợ, bị đày đọa
cả về thể xác lẫn tinh thần. Bông hoa ban rừng nay héo tàn vì chai sạn cảm
xúc… Khi đào sâu vào hiện thực, Tô Hoài còn phát hiện ra một quy luật tất
yếu: nếu có một hoàn cảnh làm tê liệt sức sống của Mị thì cũng có một hoàn
cảnh làm phục sinh tâm hồn Mị. Đêm tình mùa xuân với tiếng sáo thiết tha réo
rắt đã trở thành yếu tố ngoại cảnh giúp Mị hồi sinh, khao khát được sống hạnh
phúc theo tiếng gọi của trái tim mình.
o Đóa hoa ban rừng trẻ đẹp tài hoa từng bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần đã
không thể thay đổi số phận của mình khi thức tỉnh trong đêm tình mùa xuân. Là

10
nhà văn hiện thực cách mạng, Tô Hoài cũng phát hiện ra: Nếu đã có một hoàn
cảnh làm tê liệt sức sống của Mị thì nhất định cũng sẽ có một hoàn cảnh làm
phục sinh khát vọng tự do trong Mị. Sự đồng cảm với một cảnh đời cùng cảnh
ngộ trong đêm mùa đông giá lạnh đã khiến người con dâu gạt nợ trỗi dậy lòng
can đảm để lật sang một trang đời mới cho bản thân mình.

2. Giới thiệu sơ lược về nhân vật A Phủ:

 A Phủ là một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để
gạt nợ.
 Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này sang ngày kia.

3. Thái độ dửng dưng, vô cảm của Mị:


Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn ở trong trạng thái dửng dưng,vô cảm.

 Chứng kiến mắt A Phủ “trừng trừng”, biết người ở trừ nợ ấy còn sống nhưng Mị
vẫn “,thản nhiên thổi lửa hơ tay…A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
 Nhà văn đã diễn tả thật sâu sắc sự vô cảm đến đáng sợ trong tâm hồn Mị. Sống quá
lâu trong nỗi đau, Mị dường như đã tê liệt về sức sống, chai sạn về cảm xúc. Người
phụ nữ nhân hậu giàu lòng trắc ẩn thuở nào nay lạnh lùng trước nỗi đau của đồng
loại còn bởi cô đã quá quen với cảnh tượng người bị đánh, người bị trói bị giết
trong nhà thống lí Pá Tra. Bao nhiêu năm tháng bị đọa đày nơi địa ngục trần gian
Mị đã bắt gặp bao cảnh đời bên bờ vực của cái chết. A Phủ chỉ là một trong vô vàn
nạn nhân khốn khổ có thể bị chết dưới tội ác của cường quyền.
 Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, gió rét buốt như cắt da cắt thị, Mị
chỉ còn biết tìm đến với ngọn lửa để níu giữ sự sống, sưởi ấm tâm hồn lạnh giá côn
đơn và hướng về ánh sáng.
 Từng bị chà đạp tới tê dại, bất lực trước cảnh ngộ của bản thân…khả năng thương
mình còn không có làm sao có thể nghĩ đến tình cảnh bi thương của người khác?
 Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế đã giúp tác giả tố cáo giai cấp thống trị
miền núi Tây Bắc khi hủy hoại những phẩm chất tốt đẹp vốn có trong tâm hồn con
người.

2, Đồng cảm

11
Tình thương và sự đồng cảm trong trái tim Mị đã trỗi dậy khi cô bắt gặp dòng nước
mắt đớn đau tuyệt vọng của A Phủ.

 Nhờ có ánh lửa giữa đêm đen cô độc Mị lé mắt trông sang bắt gặp “một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ”. Đó là dòng nước
mắt của cảm giác đắng cay ,bất lực và bế tắc khi hình dung cái chết đang ở rất gần.
 Nam Cao coi nước mắt là “giọt châu chưng cất bản chất lương thiện trong tâm hồn
con người”. Nhân vật của ông khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi kịch hay thức tỉnh
thường gắn liền với nước mắt…Đó là hình ảnh Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, là hình ảnh nhân vật Hộ “khóc nức nở” khi
nhận ra mình chỉ là một “đời thừa”.
 Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng lấy dòng nước mắt lấp lánh để cực tả nỗi
đau và khát vọng sống của một thân phận nô lệ. Phận người rẻ rúng hơn cả một con
vật, thần chết đã vẽ lên những đường nét bi thương trên gương mặt của chàng trai
cường tráng từng là niềm kiêu hãnh của núi rừng.
 Dòng nước mắt ấy của người đàn ông đang tuyệt vọng đã làm hồi sinh trái tim đầy
thương tích của Mị, lay tỉnh lòng trắc ẩn ở một người phụ nữ nhạy cảm, vị tha.
Trong giây phút ấy Mị nhớ lại đêm mùa xuân từng bị A Sử trói đứng, nước mắt
tràn xuống miệng, xuống cổ mà không biết lau đi được. Mị còn thấy thương cả
người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong cái nhà này.
 Mị còn hình dung cả cái chết tất yếu sẽ đến với A Phủ “cơ chừng này chỉ đêm mai
là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
 Điệp từ “chết” được nhắc lại nhiều lần tô đậm bi kịch ngang trái đau thương. Xúc
cảm thương thân trong một trái tim nhân hậu tất yếu sẽ dẫn đến xúc cảm thương
người.
 Nguyễn Minh Châu coi sứ mệnh của nhà văn là phải tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người”,Tô Hoài đã tìm thấy những hạt ngọc khuất
lấp ấy trong tâm hồn người con dâu vị tha, nhân hậu.

3, Nhận rõ tội ác và sự bất công


Cũng trong giây phút nhìn thấy tình cảnh bi thương của A Phủ, Mị còn nhận rõ tội
ác và sự bất công trong nhà thống lí.

12
 Người con dâu khốn khổ không nén nổi cảm giác căm phẫn “chúng nó thật độc
ác”, “chúng nó” là thống lí Pá Tra và A Sử, rộng hơn là giai cấp thống trị miền núi
với sức mạnh cường quyền và thần quyền. Mị đã so sánh giữa mình và A Phủ để
nhận ra hai cảnh ngộ nhưng cùng một nỗi đau: “ta… chỉ còn biết đợi ngày rũ
xương ở đây thôi…người kia việc gì mà phải chết thế”.
 Lòng căm thù mạnh mẽ và ý thức giai cấp sâu sắc khiến Mị “không thấy sợ” ngay
cả khi nghĩ đến cảnh “trói thay vào đấy”, “phải chết trên cái cọc đấy”.
 Nghệ thuật trần thuật linh hoạt đã giúp tác giả diễn tả tinh tế bao cung bậc cảm
xúc: sợ hãi, đồng cảm, yêu thương trong tâm hồn nhân vật.

4, Cứu người
Tình thương cũng như lòng căm thù đã mang đến cho Mị sức mạnh để cắt dây trói
cứu A Phủ.

 Vượt qua cả sức mạnh cường quyền và thần quyền, “Mị rón rén bước lại…rút con
dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây”, đến lúc gỡ được hết dây trói thì Mị cũng “hốt
hoảng”, chỉ thì thào được một tiếng “đi ngay” rồi nghẹn lại.
 Hành động cắt dây trói của Mị thật táo bạo, mạnh mẽ, phù hợp với khát vọng tự do
âm ỉ trong lòng. Cả tác phẩm hầu như Mị không nói, câu nói gần như duy nhất lại
chứa đựng tình cảm yêu thương, lòng thương người lấn át cả nỗi thương thân, đó là
quy luật của trái tim nhân hậu. Cô dám chống lại cha con nhà thống lí vì lòng căm
thù đã lên đến đỉnh điểm.
 Tô Hoài là “nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê khốp) khi xây dựng được một
tình huống truyện giàu kịch tính để làm nổi bật trái tim nhân hậu và khát vọng tự
do luôn tiềm ẩn trong trái tim con người.

5, Cứu mình
Không chỉ giải thoát cuộc đời A Phủ, người phụ nữ can đảm ấy còn cắt dây trói vô
hình để cứu chính bản thân mình.

 Khi A Phủ quật sức vùng lên chạy, “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Nỗi sợ hãi ập
đến, lòng Mị rối bời: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết. Bản năng sống trỗi dậy
thôi thúc Mị “vụt chạy ra…băng đi…đã lăn…chạy, chạy”.Hàng loạt những từ cùng

13
trường nghĩa diễn tả thật lãng mạn bước chân Mị băng đi giữa đêm tối, đạp đổ cả
sự thống trị của cường quyền và thần quyền.
 Câu nói của Mị làm quặn thắt trái tim bạn đọc: “A Phủ cho tôi đi…ở đây thì chết
mất”. Mị hối hả “đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” (Chế Lan Viên)
cũng là giã từ những đêm đông băng giá của cuộc đời để đến với một mùa xuân
mới tràn đầy tình yêu và hạnh phúc.
 Dù là tự phát hay tự giác thì hành động cứu A Phủ và chạy trốn của Mị cũng có ý
nghĩa cửa sự tháo cũi sổ lồng, vỡ bờ vì tức nước.
 Từ hành động phản kháng ấy, Tô Hoài đã khẳng định một chân lí sống: những con
người đau khổ phải biết tìm cho mình một liên minh để chống kẻ thù chung.

4. Đánh giá chung:

 Qua những đoạn văn miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa đông cắt dây
trói cứu A Phủ, người đọc có thể thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác
phẩm và tài năng nghệ thuật ở người nghệ sĩ bậc thầy.
 Nhà văn đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo để làm nổi bật sự gặp gỡ giữa hai
mảnh đời cùng cảnh ngộ, không chỉ bày tỏ lòng thương cảm trước những thân phận khổ
đau bất hạnh, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị khi hủy hoại quyền sống, sức sống của
con người…
 Nhà văn còn thể hiện niềm tin yêu trân trọng đối với sức sống tiềm tàng, sức mạnh vùng
lên giải phóng của người lao động vùng cao.
 Tác giả đã viết lên bài ca về cuộc vượt thoát từ bóng tối ra ánh sáng ở Mị và A Phủ để gửi
gắm một quan niệm sâu sắc: sự sống chẳng bao giờ chán nản, ở đời không có con đường
cùng.
 Giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm được thể hiện qua nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật tinh tế, khắc họa hình tượng nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ, cách
trần thuật hấp dẫn.

C – KẾT BÀI:

Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận
thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết
một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên,
có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá

14
Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu liên của tuyên ngôn
các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp,
áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.”

ĐỀ 3: phân tích hình tượng nhân vật a phủ

A – MỞ BÀI:

Tô Hoài quan niệm: “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước
tiên”… nhân vật là chỗ dựa chắc chắn để nhà văn thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm và tình
cảm đối với cuộc sống, với con người. Viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng khắc họa được
những nhân vật mang tính cá thể hóa cao độ để làm nổi bật cuộc sống tăm tối, cực nhục và sức
sống tiềm tàng ở người lao động vùng cao Tây Bắc. Những đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng
Mị trong đêm tình mùa xuân đã giúp ta thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm của
người nghệ sĩ tài hoa,gắn bó sâu nặng với đất và người Tây Bắc.

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung

 Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Sáng tác của
ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường.
 Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”,
là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải cứu Tây Bắc…cùng ăn,
cùng ở, cùng chiến đấu với những con người nơi mảnh đất này.

2. Xuất thân- lai lịch

 Tác giả đã cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong hoàn cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt,
bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lí rồi mới kể về lai lịch của nhân vật.
 Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng- bla,
vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai hoạ khủng khiếp.
 Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị
em cũng bị chết hết, chỉ còn sót lại một mình A Phủ.

15
 Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của
người Thái dưới cánh đồng.
 Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên
núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài.

3. A Phủ có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao đông

 Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô
đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của
người lao động miền núi.
 Chính cuộc sống hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh sống khắc nghiệt, ở đợ làm thuê
nhiều cực nhọc, vất vả đã hun đúc nên một A Phủ có tính cách mạnh mẽ, tràn đầy sức
sống, lao động giỏi; gan góc, táo bạo đầy nghĩa khí.

Chăm chỉ, khéo léo, là người giàu khả năng lao động:

 A Phủ sớm tự khẳng định tính cách tự lập, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “ biết
đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”.
 Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khoẻ hơn người: “
công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “ A Phủ chạy nhanh như
ngựa”.
 Con gái trong làng nhiều người mê, rất nhiều người con gái ước ao: “ Đứa nào được A Phủ
cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.

Là một người tự do, phóng khoáng, yêu đời:

 A Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm
mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ bởi anh không có cách nào vượt qua
được phép làng và tục lệ cưới xin rất nặng nề ở đây.
 Nhưng vượt lên hoàn cảnh bất hạnh của bản thân, của gia đình, A Phủ vẫn sống một cuộc
sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. A Phủ không có nhà cửa, tiền
bạc, chẳng có quần áo đẹp và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như
bao chàng trai khác.
 Anh chỉ có một chiếc vòng đeo từ nhỏ nhưng ngày Tết, anh vẫn đi chơi như những trai
bản khác. Mùa xuân đến anh cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay, quả pao…thổi
kèn, thổi sáo đi tìm người yêu: “ Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo

16
mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng,
đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”.

Là con người giàu nghĩa khí, không sợ hãi trước cường quyền, bạo ngược.

 Ngày từ nhỏ, A Phủ đã có một cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi
không chịu được một điều gì bất công. Anh yêu cuộc sống bình yên và chuộng chính
nghĩa, chuộng lẽ phải.
 Trong cuộc vui xuân của anh và bạn bè, A Sử đã đến phá đám vui, A Phủ biết kẻ đó là con
nhà quan nhưng anh vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối. A Phủ đánh A
Sử: “ Chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa kịp bưng tay lên. A
Phủ đã xộc tới, nắm lấy cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”.
 Một đoạn văn ngắn với hàng loạt các động từ cùng lối miêu tả các động tác nhanh, gấp:
chạy vụt ra, ném, vung, xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới
tấp… cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động. Hành động đó của
A Phủ phải chăng xuất phát từ mối căm hờn giai cấp sâu sắc.

4. A Phủ phải chịu một số phận bất hạnh trong nhà thống lí Pá Tra
A Phủ vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ

 Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống
lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu,
mạnh bạo và không chịu khuất phục: “ A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.
 Sau đó, anh phải chịu một cảnh xử kiện quái gở ở nhà thống lí. Có đến mấy chục người
hút thuốc phiện, hút suốt từ trưa cho đến hết đêm, “ khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ
tun hút xanh như khói bếp”, “ khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ của sổ”. Sau một
lượt hút lại một lượt A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập
chảy máu. “ Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi,
càng hút”. A Phủ phải đứng im lặng chịu đòn “ suốt chiều, suốt đêm”.
 Người phát đơn kiện cũng là người ngồi trên ghế quan toà xử kiện, xử tội A Phủ nên
không còn công lí cho A Phủ. Lí do mà cha con thống lí phạt vạ A Phủ không phải vì cuộc
va chạm, ẩu đả thường tình của đám thanh niên trong những cuộc chơi mà là do A Phủ “
đã đánh con quan làng”, đáng lẽ A Phủ phải bị xử tội chết nhưng làng đã xử cho anh được
sống để anh nộp vạ. A Phủ đã phải chịu nợ một trăm đồng bạc trắng.

17
 A Phủ mồ côi cha mẹ, A Phủ nghèo không có trăm bạc trắng nên anh phải chịu làm con ở
không công cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt
đời để trả nợ.
 Pháp luật ở trong tay của kẻ thống trị, kẻ bóc lột nên một chàng trai khoẻ mạnh, phóng
khoáng, yêu đời đã phải đem cuộc đời mình để trả nợ phạt vợ cho nhà thống lí Pá Tra- chỉ
vì một lẽ công bằng đơn giản của đám thanh niên trong những ngày Tết.

A Phủ thành người ở không công bị đối xử tàn tệ

 Vừa ra khỏi cảnh xử kiện, vừa phải quỳ và bị đánh suốt từ trưa cho đến hết đêm, thân thể
đầy thương tích đã phải đi mổ lợn hầu “ các quan làng”, hầu những kẻ ép mình vào vòng
nô lệ.
 A Phủ phải chịu một kiếp sống bị khinh rẻ, ngược đãi, làm tất cả những việc nặng nhọc và
nguy hiểm nhất: “ cày ruộng, cuốc nương và săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một
thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Có những khi đói, hổ gấu thường tìm
đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ “ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng”.
 Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối
cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và tự đi lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình.
Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị khinh rẻ, anh phải thế mạng cho
một con bò đã bị hổ ăn thịt- Pá Tra đã nói với A Phủ: “ Tao trói mày ở chỗ kia. Bao giờ
chúng nó bắt được con hổ về thì tao cho mày khỏi chết. Nếu không được hổ thì tao cho
mày đứng chết ở đấy”. Đau khổ cùng cực, suốt mấy ngày bị trói đứng như thế, đói rét và
có thể chỉ “ đêm mai” là A Phủ chết “ chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
 Một người mang trong mình bao nhiêu sức mạnh, sự gan góc và dũng mãnh, tự do như
người nguyên thuỷ, có lúc lẫn cả vào núi rừng Tây Bắc nguyên sơ, lẫn vào muông thú, thế
mà mất hết sức phản kháng, phải chờ chết bên cái cọc tự tay mình đóng ấy. Giọt nước mắt
“ trên hõm má đã xám đen lại” của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất
lực và tuyệt vọng.

Ở A Phủ cũng có một sức phản kháng mạnh mẽ

 Sức sống ấy được nuôi dưỡng từ quãng đời thơ ấu cay cực trong kiếp mồ côi và lớn dần
lên từng ngày tháng cùng cuộc sống bất định của anh. Cuộc sống trong nhà thống lí vô vàn
cực khổ nhưng cũng đã có lúc anh quên mất thân phận của mình, có những lúc anh vẫn
sống như quãng đời tự do.

18
 Anh đi chăn bò và phải ở luôn ngoài rừng nhưng anh vẫn say mê bẫy nhím bẫy chim nhưu
thuở nào. Anh chịu đựng trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì
anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ, nó còn giá
trị hơn con bò rất nhiều lần.
 Với bản chất gan góc, bất khuất, tình yêu tự do, A Phủ cố gắng tìm cách tự giải thoát. Bị
trói từ chân đến vai nhưng “ Đêm đến. A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần
dây trói một bên tay”. Và khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị
đói khát, đau đớn nhưng anh vẫn vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí,
thoát khỏi cuộc đời nô lệ: “ A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái
chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. A Phủ còn cùng với Mị chạy
thoát khỏi nhà thống lí Pa Tra. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi
bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này
 A Phủ vượt quãng đường khá dài để đến được vùng đất Phiềng Sa. Và ở đây, chính sức
sống mạnh mẽ và tinh thần phản kháng là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu- người cán bộ
của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, trở thành một đội
trưởng du kích dũng cảm tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê hương.

5. Đánh giá chung

 Điều đặc sắc của Tô Hoài khi khắc hoạ một A Phủ là một nhân vật hành động với tính
cách mạnh mẽ để đồng hành với nhân vật Mị.
 Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập để
thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số
phận của Mị và của bao người dân miền núi khác. Họ đã luôn phải đấu tranh để giành lại
hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải
phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
 Câu chuyện về A Phủ- người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện của Mị- người con
dâu gạt nợ để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người lao động
lương thiện ở miền núi trước cách mạng, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt của
họ. Có thể nói, nhân vật A Phủ đã được khắc hoạ rất thành công.
 Sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là
hai yếu tố đã giúp nhà văn chỉ với mấy nét đơn sơ mà tạo dựng được một hình tượng đặc
sắc.

19
 Từ cuộc đời, số phận A Phủ trong tác phẩm “ VCAP”, tác giả đã tố cáo những tội ác dã
man của giai cấp thống trị miền núi đã đẩy những con người hiền lành, chất phác vào tình
trạng thê thảm, bị cướp đoạt quyền sống, quyền tự do, quyền hưởng hạnh phúc. Viết về họ,
Tô Hoài đã thể hiện tấm lòng yêu thương đồng cảm với hoàn cảnh ấy, đồng tình với sự
phản kháng của nhân vật khi tìm ra lối thoát cho ho

C – KẾT BÀI:

Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để
thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số
phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh
phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng
bằng sức mạnh quật khởi của chính minh

ĐỀ 4: PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO

A – MỞ BÀI:

Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại với hơn 70
năm cầm bút với một gia tài văn học đồ sộ để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả nhiều
thế hệ. Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm
1952 kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Thông qua cuộc đời, số
phận của Mị và A Phủ, “Vợ chồng A Phủ” đã thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo
sâu sắc thể hiện góc nhìn tinh tế và nhạy bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về
con người và cuộc đời.

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung

20
 Tô Hoài có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Sáng tác của
ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường.
 Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”,
là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải cứu Tây Bắc…cùng ăn,
cùng ở, cùng chiến đấu với những con người nơi mảnh đất này.

2. Giá trị hiện thực:

 Giải thích giá trị hiện thực: Đó là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh
trong tác phẩm của mình. Đó là bức tranh đời chân thực nhất được người nghệ sĩ cải biến
đưa vào trang văn của mình, từ đó phản ánh lên những sự thực ở đời đến người đọc. Mỗi
tác phẩm văn học đều có giá trị hiện thực, bởi văn chương không thể xa rời thực tế, cũng
như “Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại” (Balzac).
 Giới thiệu khái quát về tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được Tô Hoài viết sau
khi 8 tháng ở miền núi Tây Bắc với bộ đội và những người dân tộc nơi đây. Chính vùng
đất thiêng liêng ấy đã để lại nhớ thương trong lòng ông, khiến ông phải cầm bút lên viết
ngay tác phẩm này như một lời chào trở lại với miền đất thân yêu ấy. Tác phẩm kể về nhân
vật Mị, vì món nợ của gia đình mà bị bắt về làm con dâu gạt nợ. Từ đó, cuộc đời khổ đau,
bị bóc lột liên tục của Mị bắt đầu. Bên cạnh đó còn vô số những mảnh đời khác như A
Phủ, người chị dâu của Mị, bố mẹ Mị… cũng bị như thế.

Phản ánh chế độ phong kiến miền núi tàn bạo, độc ác:

 Tất cả đều được thể hiện qua đám cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng:
bọn chức việc, lí dịch, thống quán… ở Hồng Ngài. Những cảnh ăn vạ và “xử kiện”, cảnh
hút thuốc phiện, cảnh hành hạ A Phủ, trói Mị… đều thể hiện rõ điều này.
 Chúng cho người dân vay nặng lãi, dùng cách cúng trình ma để hù dọa người dân, mỗi
năm lãi càng thêm nhiều. Điển hình là gia đình Mị. Bố mẹ Mị chỉ vì muốn lấy được nhau
mà phải vay nhà thống lí tiền để làm cơm mời cả làng, nếu không sẽ không được đồng ý.
Món nợ ấy ngày qua ngày sinh lãi, lãi mẹ đẻ lãi con, đến khi mẹ Mị mất đi, bố Mị già rồi
vẫn chưa hết. Mỗi năm nhà Mị đều phải trả tiền lãi là một nương ngô. Chính món nợ ấy
cùng trò cúng trình ma khiến gia đình Mị không thể nào trốn được, khiến Mị mất đi tự do,
bố Mị mất đi đứa con gái duy nhất. Hạnh phúc phải đánh đổi bằng cả cuộc đời, bằng tự do.

21
 Vì đánh A Sử - đánh con quan, dẫu cho lí do có chính đáng, ấy nhưng người sai vẫn là A
Phủ, phải chịu hình phạt nặng nề và xử kiện một cách oan uổng. A Phủ bị nhà thống lí
khiêng mang về, trói và ném giữa nhà không khác gì đối xử với một con vật. Phiên tòa ấy
được tiến hành một cách man rợ và khó hiểu. Suốt đêm chỉ nghe thấy tiếng mắng chửi,
hình ảnh hút thuốc phiện, cứ xong một đợt thuốc là lại đánh A Phủ. Không được thanh
minh, không được lên tiếng giải thích, cứ thế bị quy chụp cho cái mũ tội lỗi, nộp 100 đồng
bạc trắng phạt vạ. Nhưng A Phủ nào có tiền, lại phải vay nhà thống lí. Và đó là lần đầu
tiên A Phủ thấy nhiều tiền tới vậy, có lẽ cũng là lần cuối cùng được chạm tới tự do.

Bức tranh chân thực về cuộc sống thống khổ bị bóc lột của người dân miền núi bởi cường
quyền và thần quyền thể hiện qua các nhân vật:

Nhân vật Mị:

 Mị vốn là một cô gái người Mèo có đủ khả năng và điều kiện hưởng một cuộc sống
hạnh phúc, có một tương lai tươi sáng. Ấy vậy nhưng không, món nợ truyền đời
truyền kiếp của cha mẹ Mị, với những yêu cầu quá quắt của phong tục miền núi
khiến Mị mất đi tự do, trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
 Gọi là con dâu, nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, chẳng khác gì một con ở không
công đến suốt đời suốt kiếp cho nhà thống lí, không được ngơi nghỉ. Lúc nào cũng
là “những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết
xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và
dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi.
Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn
được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.”
Một cô gái ấy nhưng làm việc không ngơi nghỉ, ngày đêm làm việc, bị vắt kiệt sức
lao động. Thậm chí Mị còn nghĩ mình không bằng cả con trâu, con ngựa bởi chúng
nó còn có lúc được nghỉ ngơi, chăm sóc cẩn thận.
 Căn phòng Mị ở chỉ là một căn buồng nhỏ kín mít, duy nhất có một “chiếc cửa sổ
một lỗ vuông mờ mờ trăng trắng” chẳng rõ được là đêm hay là ngày.
 Mị thậm chí còn bị đày đọa về tinh thần. Bản thân Mị và A Sử vốn không có lòng
với nhau, vậy mà phải ở với nhau. A Sử đối với Mị chẳng khác gì chủ nhà với con
ở: Trong đêm tình mùa xuân, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử không cho. phũ phàng
trói Mị lại ở góc cột, quấn tóc Mị vào cột để Mị không nghiêng đầu được. Và, ở
nhà này đã từng có người bị trói đứng mà chết rồi. Ngay cả khi A Sử đi chơi về bị

22
thương, Mị ra rừng lấy thuốc bôi cho A Sử, trong lúc mệt quá mà thiếp đi, Mị bị A
Sử bị đạp xuống giường. Trong những đêm đông, thấy Mị ngồi thổi lửa hơ tay, A
Sử đá Mị ngã…
 Khổ, bị áp bức, bị bóc lột nhưng Mị không dám bỏ trốn, bởi Mị đã bị chúng nó
đem đi cúng trình ma rồi. Mị đi đâu, con ma nhà thống lí sẽ theo tới đó bắt Mị trở
lại. Cách duy nhất chỉ có một con đường chính là chết thôi, nhưng Mị không thể
chết được. Sự mê tín vào thần quyền đã ràng buộc Mị lại cuộc sống không khác gì
địa ngục này, vùng vẫy thế nào cũng không thể thoát ra được.
 Từ một cô gái trẻ trung, Mị mất dần sức sống, trở thành loài thảo mộc chẳng còn
biết rung rinh trước gió, bị ràng buộc. Mị đã bị tha hóa, thay đổi, trở thành nô lệ.
Đau khổ quá người ta còn nghĩ đến cái chết, nhưng bản thân Mị đã tê liệt cảm xúc,
như một cái xác không hồn không hề còn cảm giác gì nữa.

Nhân vật A Phủ

 Sau khi thành con ở, A Phủ bị đọa đày về thân xác, làm hết việc này đến việc khác,
đều là những việc vô cùng nguy hiểm. Đỉnh điểm hành động độc ác của chúng chính là
khi A Phủ làm mất bò, con bò bị hổ tha đi mất, chúng mắng A Phủ là quân ăn cướp,
bắt A Phủ tự tay lấy dây trói mình lại, đào hố chôn cọc, chờ khi nào tìm được con bò
thì tính tiếp. Bò đã bị ăn mất rồi, làm sao tìm lại được nữa? Sự vô lí của giai cấp thống
trị không khỏi khiến ta phẫn nộ vô cùng.

Nhân vật khác

 Người đàn bà trong gia đình nhà thống lí từng bị trói đứng ở cột rồi chết rũ, người chị
dâu của Mị… tất cả những con người ấy dù không được kể ra rõ ràng nhưng ta cũng
hiểu được họ đã phải trải qua những đau khổ đến thế nào.

C – KẾT BÀI:

Với những cảnh đời éo le, với những nỗi khổ đau đến cùng cực, tưởng như mãi mãi phải
chìm trong u tối, thì các nhân vật đã tỉnh ngộ, vùng dậy một cách bất ngờ và cương quyết,
đó chính là thành công lớn nhất của tác phẩm và lá giá trị cao đẹp của tác phẩm. Tác giả đã
có sự cảm thông sâu sắc trước nỗi đau của Mị và A Phủ, trân trọng ý thức nhân phẩm, khát
vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ
này.

23
ĐỀ 5: PHÂN TÍCH VỀ CHẤT THƠ TRONG TÁC PHẨM

A – MỞ BÀI:

Tô Hoài là cây bút nổi tiếng ở thể loại truyện ngắn của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh
là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Nhắc đến truyện ngắn của ông không thể không nhắc đến tác
phẩm "Vợ chồng A Phủ". Trong thiên truyện ngày, người đọc không chỉ ấn tượng bởi những giá
trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn dễ dàng rung động trước chất thơ thấm đượm qua từng câu
chữ.

B – THÂN BÀI:

Giải thích chất thơ:

 Chất thơ trong tác phẩm văn học chính là vẻ đẹp lãng mạn. Nó tương phản với đời
sống hiện thực nhưng thoát lên từ đời sống hiện thực. Hiện thực là những cái vốn có,
chân thật thì chất thơ là ước mơ, lý tưởng nâng đỡ con người. Trong truyện ngắn "Vợ
chồng A Phủ", chất thơ bàng bạc bao phủ khắp mọi ngóc ngách, lan tỏa những giá trị
vô cùng đẹp đẽ.

Chất thơ trong hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc

 Tây Bắc hiện lên với núi rừng trùng điệp quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù.
 Chất thơ được thể hiện rõ nét khi Tô Hoài miêu tả khung cảnh mùa xuân nơi rẻo cao
Tây Bắc.
 Những trang văn viết về thiên nhiên rẻo cao và mùa xuân ấy hài hòa, đẹp như bài thơ
trữ tình viết bằng văn xuôi.

24
Chất thơ qua đời sống sinh hoạt và phong tục tập quán của con người

 Xây dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc như
ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông không, công việc cõng nước, quay sợi...
 Ngày Tết: Không giống như người miền xuôi, người vùng cao ăn tết khi ngô lúa đã gặt
xong. Không khí ngày Tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng Tây
Bắc khi "trai gái tìm nhau để tỏ tình", chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống
rượu...
 Đặc biệt, tác giả dành nhiều tình cảm và câu chữ cho việc miêu tả tiếng sáo - cầu nói
truyền tải ngôn ngữ của người H'Mông, thay họ cất lên tiếng lòng sâu thẳm, vượt qua dòng
chảy thời gian, trở thành dòng chảy tâm hồn của biết bao đôi trai gái miền sơn cước.

Chất thơ trong con người - Mị

 Mị là cô gái trẻ, nết na xinh đẹp như một bông hoa ban trên rẻo cao Tây Bắc, vì món nợ
truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ và rơi vào cảnh tăm
tối. Những tưởng Mị có lẽ sẽ héo hắt, sống mòn mỏi lầm lũi hết cuộc đời song ẩn sau tâm
hồn ấy vẫn le lói những ánh lửa của khát vọng tự do và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
 Vẻ ngoài của Mị đều toát lên vẻ âm thầm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng kỳ thực bên trong
đó lại tiềm tàng 1 sức sống vô cùng mãnh liệt.
 Âm thanh tiếng sáo quen thuộc của núi rừng Tây Bắc ấy đã chạm vào sâu thẳm tâm hồn
Mị, làm rạo rực tâm hồn người con gái trẻ đẹp
 Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy tựa như ánh sáng nâng đỡ, ngăn cản sự
lụi tàn của tâm hồn. Khi bùng cháy lên lại biến thành sức mạnh có thể xua tan tất cả.
 Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật
 Tô Hoài sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rỡ màu sắc vừa
rất đỗi nên thơ.
 Ngôn ngữ văn xuôi vừa cụ thể rõ ràng vừa trừu tượng vô hình.
 Âm điệu và tiết tấu cũng như giọng kể nhẹ nhàng theo mạch cảm xúc êm đềm chảy trôi
trong tâm trạng
 Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng sự mượt
mà của văn phong điêu luyện.

C – KẾT BÀI:

25
"Vợ chồng A Phủ" với chất thơ bàng bạc len lỏi thực sự là tác phẩm văn học chân chính với nhiều
giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Với những giá trị ý nghĩa về nội dung và sáng tạo mang dấu ấn
riêng về nghệ thuật, truyện ngắn xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu nổi bật cho hồn thơ Tô Hoài.

VỢ NHẶT
A – KIẾN THỨC CƠ BẢN

1 – Tác giả:

 Kim Lân (1920 – 2007), quê ở Bắc Ninh, tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.
 Do hoàn cảnh gia đình khó khăn ông chỉ học hết cấp tiểu học và làm nhiều nghề để kiếm
sống.
 Là cây bút chuyên viết truyện ngắn, thường viết về nông thôn và người nông dân.
 Là nhà văn “một lòng đi về với đất với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống
nông thôn” (Nguyên Hồng)
 Tác phẩm tiêu biểu: “Nên vợ nên chồng”, “Con chó xấu xí”
 Phong cách nghệ thuật:
- Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê.
- Có giọng văn đôn hậu, hóm hỉnh.
- Khả năng miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.

2 – Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh ra đời:

 In trong tập “Con chó xấu xí” (1962)

26
 Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau CMT8
nhưng dang dở và bị thất lạc bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một
phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
 Được khơi nguồn cảm hứng từ nạn đói năm 1945.

b. Nội dung:

 Là bức tranh chân thực về tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.
 Là bài ca về bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu trong tâm hồn người lao động: ngay cả
trên bờ vực của cái chết họ vẫn hướng về sự sống, vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau và
khao khát tổ ấm gia đình.

3, Nghệ thuật:

 Tình huống truyện độc đáo (lạ lùng, éo le, cảm động)
 Cách kể chuyện hấp dẫn.
 Miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
 Dựng đối thoại sinh động.
 Kết cấu mở đặc sắc.
 Ngôn ngữ giản dị phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người nông thôn (dân quê)

ĐỀ 1: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRÀNG

A – MỞ BÀI:

M.Gor-ki đã từng có lời nhắn gửi rất chân thành: “Các bạn hãy học cách viết ở những nhà văn có
phong cách điêu luyện nhưng các bạn hãy tìm lấy nốt nhạc và lời ca của chính mình”. Văn học
27
nghệ thuật luôn đòi hỏi những người nghệ sĩ phải “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những cái gì chưa có” (Nam Cao). Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tìm được “nốt nhạc” và “lời ca”
riêng khi đi sâu khám phá bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu trong tâm hồn người lao động.
Nhân vật Tràng tiêu biểu cho số phận khổ đau, tình yêu thương đùm bọc và niềm khát khao tổ ấm
ở những người nông dân đang sống trong hoàn cảnh khốn cùng

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung:

 Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn viết chân thật, xúc động về cảnh nông thôn, hình
tượng người nông dân lao động.
 Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân
vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
 Để làm nổi bật thân phận, tính cách cũng như khát vọng của Tràng, Kim Lân đã chọn
nạn đói năm Ất Dậu làm bối cảnh tang thương “người chết như ngả rạ”, những cái thây
nằm “còng queo bên đường”, “bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng
ma”, “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết”. Nghệ thuật so sánh khiến cõi âm tràn vào cõi
dương, sự sống đang cận kề cái chết, hạnh phúc được tìm thấy trong đói khát, tình yêu
thương được gieo mầm từ những khổ đau. Nhà văn đã xây dựng được một tình huống
truyện lạ lùng, éo le và cảm động để viết lên bài ca về khát vọng một tổ ấm trong trái
tim Tràng.

2. Số phận khổ đau, bất hạnh của Tràng

Tràng là người nông dân có thân phận khổ đau, bất hạnh

a, Xuất thân: Dân ngụ cư

 Tràng xuất thân là dân ngụ cư nên thường bị khinh rẻ, coi thường, sống lép vế với cộng
đồng làng xã.
 Xóm ngụ cư tập trung nhiều mảnh đời phiêu bạt lang thang, không rõ quê quán ở đâu.
Họ phải đối mặt với những ngày tháng lam lũ cơ cực và khi cái đói “tràn đến” như một
trận đại hồng thủy thì nỗi đau cũng gõ cửa từng xóm trọ, căn nhà.
 Câu ca dao “Trai làng ở góa còn đông/ Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư” đã phần nào
khái quát được tình cảnh éo le mà bao người lao động phiêu bạt phải đối mặt. Tràng

28
giống như thứ cỏ dại chốn hương thôn khiến người đọc phải xót xa trước địa vị thấp
kém của anh trong xã hội.

b, Gia cảnh: Nghèo nàn

 Người đàn ông nhặt được vợ ấy là một gã trai có gia cảnh nghèo nàn, thiếu thốn. Cái
nghèo tột cùng của anh hiện hữu ở “chiếc áo nâu tàng”, “cái nhà vắng teo đứng rúm ró
bên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “tấm phên rách”, cả những bộ quần
áo “rách như tổ đỉa” trong mái nhà xiêu vẹo.
 Những chi tiết chân thực đã phơi mở nỗi khổ đau của biết bao người nông dân Việt
Nam khi nạn đói hoành hành.

c, Ngoại hình: Xấu xí, thô kệch

 Tràng ngật ngưỡng bước vào trang văn của Kim Lân với ngoại hình xấu xí, thô kệch
“hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “cái đầu
trọc nhẵn”, “thân hình to lớn vập vạp”, “cái lưng to như lưng gấu”.
 Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa, Tràng hiện ra như một bức chân dung vẽ vội,
một nhân dạng bị “hóa công đẽo gọt quá sơ sài” (Đỗ Kim Hồi)

d, Tính cách: Ngờ nghệch

 Không chỉ xấu xí, Tràng còn là người đàn ông ngờ nghệch. Hắn có tật “thỉnh thoảng
ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “tật vừa đi vừa nói”. Tràng có lớn mà chưa có
khôn, luôn bị đám trẻ con trêu cợt, đến người lớn cũng gọi là “cu Tràng”. Đi bên người
vợ nhặt mà anh còn dùng những từ ngữ cục mịch, thô lỗ “rích bố cu”, “làm đếch gì có
vợ”. Cách nói năng vụng về ấy cho thấy người nông dân khốn khổ chưa thực sự trưởng
thành.

3. Phẩm chất và khát vọng của Tràng

 Tràng là người hiền lành, thật thà, chất phác, phóng khoáng, nhân hậu
 Tràng có khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai
tươi sáng

a, Tâm trạng, tình cảm của Tràng trong tình huống nhặt vợ: Đùa vui một cách tầm
phơ tầm phào.

29
 Trong tình huống nhặt vợ một cách ngẫu nhiên tình cờ qua những lời đùa vui tầm
phơ tầm phào, Tràng đã bộc lộ mình là người nông dân hiền lành, chất phác, có
tính cách phóng khoáng và tấm lòng nhân hậu.
 Khi kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, Tràng đã hò lên một câu cho đỡ nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”

 Câu hò ấy chỉ nhằm mục đích đùa vui để quên đi công việc nặng nhọc. Nhưng
trong lời hò ở gã trai sống lạc quan vui vẻ lại có cả “cơm trắng mấy giò” nên đánh
thức được khát vọng về miếng ăn ở người phụ nữ đang lâm vào bước đường cùng
vì đói rách.
 Lần thứ 2 gặp lại, Tràng không nhận ra thị trong bộ quần áo “tả tơi như tổ đỉa”,
“khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”. Anh đã thể hiện sự đồng cảm và tính cách hào hiệp
bằng việc mời thị “4 bát bánh đúc” vì tấm lòng nhân hậu biết yêu thương. Ngay cả
câu nói “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” cũng
chỉ là đùa vui. Lời ướm hỏi mang sắc thái tỏ tình đường đột cũng hé mở khát khao
hạnh phúc đang âm ỉ trong lòng Tràng.Kim Lân đã dựng lên những lời đối thoại
sinh động để gợi về hoàn cảnh éo le trong tình huống nhặt vợ vô cùng cảm động.

b, Khi mới nhặt được vợ: Ngạc nhiên, hoảng sợ, đánh liều

 Khi mới nhặt được vợ, Tràng sống trong tâm trạng ngạc nhiên, hoảng sợ sau đó là
tâm lí đánh liều.
 Chi tiết “ai ngờ thị về thật” giúp ta thấy được cảm giác ngỡ ngàng trong tâm hồn
người nông dân khốn khổ. Tràng không thể tin nổi một người xấu xí, ngờ nghệch
lại nghèo nàn như mình bỗng nhiên có vợ theo không. Chỉ hai bận tầm phơ tầm
phào và 4 bát bánh đúc se duyên mà nên vợ nên chồng.
 Trong giây phút ngỡ ngàng “mới đầu anh chàng cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi hay không lại còn đèo bòng”. “Chợn” là
sợ, còn “đèo bòng” là đeo thêm gánh nặng cho bản thân mình. Anh nông dân cũng
biết mình đang đối mặt với nạn đói, đang cận kề cái chết.
 Thế nhưng nỗi sợ hãi qua đi rất nhanh mà thay vào đó là một sự chấp nhận đầy
quyết đoán “hắn tặc lưỡi một cái: - Chậc, kệ!”. Đằng sau cái “tặc lưỡi” giản đơn
đầy nhân tính ấy là tình thương của anh với người phụ nữ cùng cảnh ngộ, là khát

30
vọng hạnh phúc mãnh liệt đang ùa về. Ý định rủ người đàn bà về nhà chỉ thực sự
nảy sinh khi Tràng chứng kiến thị ăn một chặp bánh đúc thật ham hố khổ sở.
Nhưng sự quyết đoán cho thấy Tràng có bản lĩnh hơn người, khát khao về mái ấm
mạnh hơn cả nỗi lo sợ về cái chết. Tràng dám đương đầu với khó khăn trở ngại vì
đang mơ đến hạnh phúc lứa đôi.
 Anh là minh chứng tiêu biểu cho chất người kì diệu trong tâm hồn người nông dân,
ngay cả khi cận kề cái chết họ vẫn biết sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau, vẫn
khao khát tổ ấm gia đình.

c, Trên đường về nhà: Vui sướng, hãnh diện

 Trên đường về nhà, Tràng thấy lòng mình vô cùng vui sướng và hãnh diện
 Niềm hạnh phúc bộc lộ qua nét mặt, cử chỉ của anh: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn
phở khác thường”, “hắn tủm tỉm cười nụ một mình”, còn “hai mắt thì sáng lên lấp
lánh”. Hai chữ “phớn phở” chứa đựng bao cảm giác hớn hở, mừng vui. Trước đó
Tràng đi làm về trong bóng chiều chạng vạng, mặt lúc nào cũng cúi xuống vậy mà
hôm nay niềm hân hoan hớn hở lại đang bừng nở trong lòng
 Khi bị lũ trẻ trêu đùa, dân xóm ngụ cư chỉ trỏ “hắn thích ý, cái mặt cứ vênh lên tự
đắc”. Đó là niềm hãnh diện vì đang sống trong niềm vui tràn ngập, vì lần đầu tiên
được đi bên cạnh một người phụ nữ trước con mắt chứng kiến của bao người.
 Xúc động nhất là đoạn văn miêu tả cảm giác hồi sinh trong trái tim Tràng: “Tràng
hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát
ghê gớm đang đe dọa…trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn
bà đi bên. Một cái gì đó mới mẻ lạ lắm… Nó ôm ấp mơn man khắp da thịt, tựa hồ
như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”,
 Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tài hoa, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc những đổi thay
ở người đàn ông đang chạm tay vào hạnh phúc. Hoàn cảnh đói khát từng đẩy bao
người nông dân lương thiện vào con đường tha hóa. Tám Bính trong “Bỉ vỏ” của
Nguyên Hồng, Binh Tư trong “Lão Hạc” của Nam Cao…
 Viết “Vợ nhặt” Kim Lân lại lấy cái đói làm phép thử để bản chất lương thiện và
khát khao đầy nhân tính trỗi dậy. Tràng không bị tha hóa vì biết lấy tình yêu
thương để sống và vì cũng được sống trong tình yêu thương rất mộc mạc chân
thành.

31
 Tràng còn hãnh diện khoe: “Dầu thắp tối đây này. Hai hào đấy. Vợ mới vợ miếc
cũng phải cho nó sáng chứ”. Câu văn đọc lên vừa buồn cười vừa tội nghiệp lại
rưng rưng cảm động. Anh nông dân thô kệch, ít văn hóa ấy lại hào phóng mua dầu
thắp đèn đêm tân hôn vì nâng niu trân trọng tổ ấm. Ngọn đèn có thể được khêu lên
ấy cũng đem đến ánh sáng hi vọng về ngày mai tốt đẹp.

d, Về đến ngôi nhà quen thuộc: Tràng vẫn chưa hết cảm giác ngượng nghịu, hồi hộp,
lo lắng và hạnh phúc.

o Nhìn người vợ nhặt ngồi mớm ở mép giường mà Tràng không dám lại gần, chỉ
dám “nhìn trộm vào trong”. Hắn thấy “ngượng nghịu rồi sờ sợ…lấm lét”, “hết chạy
ra ngõ đứng ngóng lại thở dài sốt ruột. Sao hôm nay bà lão về muộn thế không
biết”. Sự việc sảy ra quá nhanh khiến Tràng không khỏi bối rối, ngỡ ngàng.
o Dù chỉ là người vợ nhặt nhưng Tràng vẫn muốn ra mắt mẹ một cách trịnh trọng:
“Kìa nhà tôi nó chào u. Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ. Chúng tôi phải
duyên phải kiếp với nhau chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Câu thoại kiệm lời, mộc
mạc mà chứa đựng bao tình cảm trân trọng yêu thương xen lẫn cảm xúc hãnh diện
tự hào. Những câu nói rành mạch có phần hoa mĩ kia được cất lên từ người đàn
ông khổ đau, ngờ nghệch. Cái đói vẫn còn nguyên bóng, cái chết vẫn lởn vởn ngoài
kia nhưng sự đổi đời đổi kiếp đã diễn ra trong tâm hồn Tràng rồi. Hạnh phúc nhỏ
nhoi bị bủa vây bởi tiếng khóc nhưng hạnh phúc là bất diệt, nó ươm mầm ngay cả
khi cái chết bủa vây.
o Ngỡ ngàng: Sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng trước niềm
hạnh phúc đích thực.
 Mặt trời lên bằng con sào Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn
ngỡ ngàng như không phải. Kim Lân đã tái hiện buổi sáng mùa hè, tươi
mới, đầy sức sống đang lan tỏa khắp căn nhà để gợi tả cảm giác hồi sinh
trong tâm hồn nhân vật. Sau một đêm nên vợ nên chồng, Tràng vẫn ngạc
nhiên vì hạnh phúc bất ngờ ập đến. Niềm vui có thật mà anh cứ ngỡ mình
đang mơ. Cụm từ “êm ái lửng lơ” phơi mở chân thực cảm giác rạo rực xốn
xang trong tâm hồn Tràng sau một đêm có vợ.
 Nếu ở phần mở đầu tác phẩm, Tràng xuất hiện với dáng đi “ngật ngưỡng”
trong bóng chiều chạng vạng thì hôm nay hắn biết “chắp tay sau lưng, lững

32
thững bước ra sân”. Tư thế đàng hoàng đĩnh đạc ấy là cả một sự thay đổi
lớn về thân phận và ý thức.
o Cảm động: Chứng kiến khung cảnh gia đình đổi thay trong lòng Tràng còn thấy
thấm thía cảm động.
 Tràng nhận ra “nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn
sạch sẽ gọn gang. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa… đem ra sân hong.
Hai cái ang nước…đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót
sạch”. Dấu ấn của người vợ hiền hậu, đảm đang đang lan tỏa khắp căn nhà.
Nhìn “mẹ đang lúi húi giẫy những mớ cỏ mọc nham nhở, vợ hắn quét lại
cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Cảnh tượng bình
thường nhưng đối với hắn lại rất đỗi thấm thía cảm động. Với Tràng đó là
biểu hiện chân thực của một mái ấm gia đình. Trước đây Tràng sống với mẹ
trong không khí buồn tẻ, quạnh quẽ. Họ cùng đi về trong tủi cực, câm lặng,
đắng cay…giờ đây Tràng mới được sống trong một mái ấm gia đình thực
sự. Kim Lân đã tái hiện cảm giác xốn xang của Tràng để gửi gắm quan
niệm: Hãy biết tự thắp sáng cho tổ ấm bằng những hành động đời thường
giản dị.
 Vui sướng: Niềm vui sướng tràn ngập trong cõi lòng người đàn ông nhặt
vợ.
 “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn
đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy… một nguồn vui
sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Bằng nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật tinh tế tài hoa, Kim Lân đã phơi mở được niềm hạnh phúc
trào dâng trong cõi lòng người nông dân khốn khổ. Từ một gã trai ngờ
nghệch, Tràng biết hướng về tương lai để gây dựng một tổ ấm gia đình.
 Bây giờ “hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo
lắng cho vợ con sau này”. Tràng biết lo nghĩ cho người mẹ già nua, cho
người vợ hiền hậu. Hắn ý thức được trách nhiệm của người con trai và trách
nhiệm của một người chồng. Hắn còn “xăm xăm chạy ra giữa sân” vì muốn
làm một việc gì để tu sửa lại căn nhà. So với dáng đi ngật ngưỡng thì bước
chân “xăm xăm” là cả một sự thay đổi về tình cảm, tính cách và thân phận:
từ ngây dại sang ý thức, từ khổ đau sang hạnh phúc.
o Khao khát đổi đời và hướng về tương lai tươi sáng.

33
 Ở phần cuối tác phẩm, Kim Lân rất tinh tế khi để cho từ cõi sâu thẳm tâm
tư của Tràng nảy mầm khao khát giữ gìn hạnh phúc hiện hữu qua ước mơ
đổi đời và hướng về tương lai tươi sáng.
 Khi nghe người vợ nhặt nói về chuyện “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta không chịu đóng thuế nữa đâu, người ta còn phá cả kho thóc của
Nhật chia cho người đói” thì trong ý nghĩ của Tràng vụt hiện ra cảnh
“những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá
cờ đỏ to lắm”. “Đám người đói” là biểu tượng cho quần chúng lao động còn
“lá cờ đỏ” là tín hiệu của cách mạng. Tràng thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ vì
từng sợ quá và đi tắt sang lối khác”. Kết thúc tác phẩm “trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
 Kết cấu mở đã tạo ra âm hưởng lạc quan đầy ánh sáng cho số phận con
người. Cuộc sống của Tràng sẽ không bế tắc như chị Dậu trong “Tắt đèn”
của Ngô Tất Tố hay Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao bởi
trước mắt anh là một con đường mới: vùng lên đấu tranh và đi theo cách
mạng.

4, Đánh giá chung

 Nhân vật Tràng tiêu biểu cho số phận khổ đau và vẻ đẹp tâm hồn của những người
nông dân trong nạn đói.
 Dù xấu xí, ngờ nghệch lại nghèo khổ nhưng Tràng lại là người đàn ông phóng khoáng
nhân hậu, luôn khao khát một mái ấm gia đình. Kim Lân đã diễn tả tâm trạng ngỡ
ngàng, vui sướng cùng cảm giác hãnh diện ở người đàn ông nhặt vợ để thể hiện giá trị
hiện thực và tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
 Phản ánh chân thực tình cảnh thê thảm của người nông dân khi đứng trên bờ vực của
cái chết, thương cảm vô hạn trước nỗi đau của con người, đồng thời viết lên bài ca về
sức sống kì diệu trong tâm hồn người lao động: dù đứng ở trên bờ vực thẳm, họ vẫn
hướng về sự sống, yêu thương đùm bọc lẫn nhau… Nội dung nhân đạo ấy được tái
hiện qua tình huống truyện lạ lùng, éo le, cảm động; cách kể chuyện hấp dẫn; nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tài hoa; xây dựng đối thoại sinh động.
 Không chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhà văn còn chỉ ra con
đường để những mảnh đời khốn khổ được sống, được hạnh phúc: biết đấu tranh, biết đi
theo cách mạng.

34
 Văn học hiện thực phê phán đi sâu khám phá nỗi đau của những người nông dân bị áp
bức để thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc: một chị Dậu chạy vào trong đêm tối… đêm tối
đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một lão Hạc
phải chọn cái chết thảm khốc sau bao tháng ngày vật lộn mưu sinh trong “Lão Hạc”
của Nam Cao…
 Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân lại tô đậm sức sống mãnh liệt, ánh sáng của niềm tin ở người
nông dân để bộc lộ cái nhìn lạc quan vào một tương lai tươi sáng. Sê-khốp cho rằng:
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ trở thành nhà văn, nếu
anh ta không có giọng điệu riêng thì anh ta không thể trở thành nhà văn thực thụ”. Với
“Vợ nhặt”, Kim Lân đã trở thành một trong những nhà văn thực thụ vì tìm được lối đi
riêng cho tác phẩm của mình.

C – KẾT BÀI:

Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong nạn đói
1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng với
con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên
trong họ. Đó là tình yêu thương con người, là ý thức trách trách nhiệm của mình đối với gia đình
và và xã hội. Trên cái nền đen tối ấy, con người đã vượt lên và tỏa sáng những vẻ đẹp rực rỡ nhất.
Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến bạn
đọc.

ĐỀ 3: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ NHẶT

A – MỞ BÀI:

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên.
Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn.
Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện
rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ
nhặt trong tác phẩm cùng tên.

B – THÂN BÀI:

35
1. Khái quát chung:

 Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn viết chân thật, xúc động về cảnh nông thôn, hình
tượng người nông dân lao động.
 Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân
vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
 Để nổi bật nỗi đau và khát vọng của người vợ nhặt, Kim Lân đã đặt nhân vật vào hoàn
cảnh bi thương. Người phụ nữ ấy phải đối diện với nạn đói thê thảm “người chết như
ngả rạ”, những cái thây “nằm còng queo bên đường”, “bóng những người đói dật dờ đi
lại lặng lẽ như những bóng ma”…Ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như
sợi tóc, trần gian mấp mé miệng vực âm phủ. Trong hoàn cảnh đói khát, con người dễ
lầm đường lạc lối, dễ bị tha hóa nhưng cô vợ nhặt khốn cùng ấy lại tiêu biểu cho niềm
khao khát “muốn sống, sống cho ra con người”

2. Số phận khổ đau

 Người vợ nhặt bước vào trang văn của Kim Lân tựa như một loài cỏ dại : không tên,
không tuổi, không tiền bạc, không nhan sắc, không chốn nương thân. Chắc hẳn người
phụ nữ ấy cũng có một quê hương nhưng cái đói đã đánh bạt chị ra khỏi làng phải lang
thang phiêu bạt, tha phương cầu thực.

 Thị xuất hiện trong hoàn cảnh “ngồi vêu” ở gần kho thóc để nhặt hạt rơi, hạt vãi hoặc
đợi người đến mướn làm. Kiếp đời của chị như ngọn nến tàn trước gió, nói như Tố
Hữu: “Kiếp người cơm vãi cơm rơi/ Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”.

 Cái đói đã hủy hoại cả hình hài của thị “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ
đỉa”, “thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.
Hình ảnh “cái ngực gầy lép” và “hai con mắt trũng hoáy” đã gợi lên bao nỗi xót xa về
sự tiều tụy khổ sở của con người.

 Chỉ bằng vài nét phác họa chân dung, Kim Lân đã giúp người đọc thấy được bộ dạng
nhếch nhác tội nghiệp của người đàn bà khốn khổ. Chị không có tên tuổi cụ thể vì hiện
thân cho bao người phụ nữ phải sống lay lắt giữa nạn đói thê thảm năm Ất Dậu này.

3. Tính cách, phẩm chất, khát vọng


36
a. Trước khi theo Tràng về làm vợ, người đàn bà hiện lên với tính cách táo bạo, liều lĩnh
đến trơ trẽn.

 Chỉ bằng mấy câu hò vu vơ của một người đàn ông xa lạ: “Muốn ăn cơm trắng mấy
giò, này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”, thị đã “cong cớn: Có khối cơm trắng mấy
giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy”, rồi “ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng”. Bị cái đói hành hạ nên khi nghe trong câu hò có tín hiệu của sự sống “cơm
trắng mấy giò” thị như bị chào mời vẫy gọi, sẵn sàng gọi người đàn ông lạ mặt là “nhà
tôi ơi” không hề ngượng ngùng hay e thẹn, thị đã bị cái đói làm mất một phần vẻ đẹp
nữ tính của mình. Đằng sau vẻ “cong cớn, chỏng lỏn” ấy là lòng ham sống mãnh liệt
trong tâm hồn người đàn bà khốn khổ.

 Lần sau gặp ở ngoài chợ, thị dường như còn thay đổi cả về tâm tính “sầm sập chạy
đến”, đứng trước mặt Tràng “sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu!”. Được mời ăn
thị đon đả: “Ăn thật nhá!” rồi “cắm đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc liền chẳng chuyện
trò gì”. Người phụ nữ ấy hiện nguyên hình là một con ma đói, thị cong cớn gạt phăng
miếng trầu xã giao, bất chấp lí trí để ăn một cách chua xót thảm hại, đánh mất cả cảm
giác xấu hổ ngượng ngùng.

 Kim Lân hiện thực biết bao mà cũng nhân đạo biết bao khi miêu tả một người phụ nữ
đói khát ,đanh đá, lẳng lơ mà rất tội nghiệp.

 Chi tiết “thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”, thật đắt giá vì đã cho thấy một
cử chỉ không được đẹp khi người phụ nữ bị đẩy vào bước đường cùng.

 Cũng vì cái đói mà thị đã tự hạ giá mình một cách rẻ mạt khi theo không một người
đàn ông xa lạ về làm vợ. Người vợ nhặt bám vào câu nói đùa của Tràng: “Này nói đùa
chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” để bước vào một cuộc hôn nhân
không lễ nghi, không cưới hỏi. Như người chết đuối vớ được cọc, thị liều lĩnh bấu víu
vào người đàn ông tốt bụng để kiếm miếng ăn. Sự liều lĩnh của thị khiến Tràng cũng
phải ngỡ ngàng “ai ngờ thị về thật”. Chỉ một câu đùa vu vơ, hai lần gặp mặt, 4 bát
bánh đúc mà nên vợ nên chồng. Mối tình giữa nạn đói thật éo le.

 Nếu ở truyện ngắn “Một đám cưới”, Nam Cao nhìn đám cưới của Dần như một đám
ma thì trong “Vợ nhặt”, Kim Lân lại phát hiện giữa những đám ma là một đám cưới

37
cảm động. Câu chuyện nhặt vợ là một tình huống hài hước mà xót đau về thân phận rẻ
rúng của con người.

b. Sau khi theo Tràng về làm vợ, người đàn bà khốn khổ đã dần tìm lại được vẻ đẹp nữ
tính: trở nên hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.

Trên đường về nhà thị đã biết ngượng ngùng ,e thẹn:

 “Thị có vẻ rón rén, e thẹn”, thị đi theo sau Tràng “chừng ba bốn bước”, cắp cái thúng
con, đầu hơi cúi xuống, “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”.

 Đằng sau vẻ ngượng ngùng xấu hổ là cả một nỗi niềm thương thân tủi phận trong lòng.
Người đàn bà “chao chát, chỏng lỏn” dường như đã biến mất, thay vào đó là một cô
dâu ngoan ngoãn đang về nhà chồng.

 Khi người dân xóm ngụ cư cười rung rúc và bình phẩm “thị ngượng nghịu, chân nọ
bước ríu vào chân kia”. Thậm chí “chỉ dám càu nhàu nhỏ đến mức Tràng đi bên cạnh
cũng không nghe thấy”. Hàng loạt câu hỏi: nhà có ai không, sắp đến chưa gợi bao nỗi
lo âu, hồi hộp. Hóa ra vẻ ngoài táo bạo liều lĩnh kia chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài. Khi
được sống trong tình yêu thương, thị lại trở về với những nét đẹp đáng trân trọng.

Bước vào mái ấm đơn sơ, dù có thất vọng nhưng người vợ nhặt vẫn thể hiện mình là
con người ý tứ, nết na, hiền thục.

 Chứng kiến “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi
cỏ dại” thị đã không “nén nổi một tiếng thở dài”. Nghịch cảnh éo le gợi bao xót xa tủi
hổ. Đi đến tận cùng, chạy đến mỏi chân mà cái đói vẫn đeo đuổi bám riết. Bỏ qua cả sĩ
diện, liêm sỉ để trốn chạy cái đói mà hoàn cảnh nhà chồng cũng rách rưới khổ đau.

 Tư thế “ngồi mớm ở mép giường…tay vân vê tà áo rách bợt” cho thấy thị đang
ngượng ngùng trong ngôi nhà mới. Không chỉ rụt rè ngượng nghịu, thị còn lễ phép
chào bà cụ Tứ: “Con chào u ạ” rồi lắng nghe những tâm sự của bà. Kim Lân đã khẳng
định với bạn đọc: vẻ hiền thục, chất phác của người phụ nữ lao động thôn quê vẫn còn
đó nguyên vẹn trong chị. Vẻ đẹp đó đã bị làm khuất lấp nay lại tỏa sáng vì được sống
trong sự đồng cảm, bao dung.

38
 Đêm hôm ấy, giữa không khí ảm đạm cùng sự bủa vây của bóng tối và cái chết, thị
“giơ tay củng nhẹ vào trán Tràng” kèm theo “cái lườm” tình tứ. Chi tiết này khiến ta
liên tưởng đến câu văn đặc sắc trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao: “một
người đàn bà dù xấu đến đâu khi yêu cũng lườm”. Chính cái lườm của thị đã đem đến
cho người chồng cảm giác ngất ngây vui sướng, đã giúp cả hai vượt lên trên cái đói cái
rách để đi đến tình yêu thương lứa đôi và khát vọng hạnh phúc đời thường.

Sáng hôm sau, người vợ nhặt đã trở thành người vợ, người con dâu kín đáo tế nhị,
đảm đang, biết yêu thương và gắn bó máu thịt với gia đình chồng.

 Thị dậy sớm quét dọn nhà cửa, cùng mẹ chồng chuẩn bị bữa ăn để vun đắp cho tổ ấm.
Hình ảnh “tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất” đã làm nổi bật sự chu toàn
ngăn nắp của người vợ hiền. Toàn bộ khung cảnh đổi thay “nhà cửa sân vườn đều
được quét tước thu dọn sạch sẽ, gọn gang. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được
đem ra sân hong. Hai cái ang nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã
hót sạch” đều in bóng của người vợ nhặt. Đến người chồng vô tâm như Tràng còn nhận
ra vợ mình rất đáng yêu “nom thị hôm nay khác lắm, rõ rang không còn vẻ gì chao
chát chỏng lỏn như mấy bận Tràng gặp ngoài tỉnh”. Người vợ khốn khổ không đánh
mất nhân cách, thậm chí còn trở thành cô con dâu hiền lành ngoan ngoãn, một người
vợ biết vun vén, lo toan.

 Trong bữa cơm ngày đói, khi đón lấy bát cháo cám “hai con mắt thị tối lại” nhưng thị
vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, im lặng là vàng. Sự im lặng đúng lúc đúng chỗ đã cho
thấy đây là người phụ nữ kín đáo tế nhị, biết đồng cảm, yêu thương. Dù phải ăn thức
ăn của loài vật, song người vợ ấy vẫn chấp nhận vì thấu hiểu và nuôi dưỡng hi vọng
sống cho mình.

 Ở phần cuối tác phẩm, người vợ nhặt đã khơi dậy cho chồng ý thức đấu tranh cùng ước
mơ đổi đời cao đẹp:“Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng
thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”.
Những thông tin mới mẻ về thời cuộc đã giúp Tràng nảy mầm khao khát giữ gìn hạnh
phúc hiện hữu và biết hướng tới tương lai. Thị đã đánh thức một người đàn ông ngây
dại thành một người chồng sống chung thủy, nghĩa tình, đã thổi một luồng sinh khí
mới vào căn nhà rách nát.

39
3. Đánh giá chung

 Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh,
người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh
ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê
hương, không quá khứ.

 Phản ánh chân thực tình cảnh thê thảm của người nông dân khi đứng trên bờ vực của
cái chết, thương cảm vô hạn trước nỗi đau của con người, đồng thời viết lên bài ca về
sức sống kì diệu trong tâm hồn người lao động: dù đứng ở trên bờ vực thẳm, họ vẫn
hướng về sự sống, yêu thương đùm bọc lẫn nhau… Nội dung nhân đạo ấy được tái
hiện qua tình huống truyện lạ lùng, éo le, cảm động; cách kể chuyện hấp dẫn; nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tài hoa; xây dựng đối thoại sinh động.

 Không chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhà văn còn chỉ ra con
đường để những mảnh đời khốn khổ được sống, được hạnh phúc: biết đấu tranh, biết đi
theo cách mạng.

 Văn học hiện thực phê phán đi sâu khám phá nỗi đau của những người nông dân bị áp
bức để thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc: một chị Dậu chạy vào trong đêm tối… đêm tối
đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một lão Hạc
phải chọn cái chết thảm khốc sau bao tháng ngày vật lộn mưu sinh trong “Lão Hạc”
của Nam Cao…

 Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân lại tô đậm sức sống mãnh liệt, ánh sáng của niềm tin ở người
nông dân để bộc lộ cái nhìn lạc quan vào một tương lai tươi sáng. Sê-khốp cho rằng:
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ trở thành nhà văn, nếu
anh ta không có giọng điệu riêng thì anh ta không thể trở thành nhà văn thực thụ”. Với
“Vợ nhặt”, Kim Lân đã trở thành một trong những nhà văn thực thụ vì tìm được lối đi
riêng cho tác phẩm của mình.

C – KẾT BÀI:

Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học.
Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ
nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ

40
đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người
có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

ĐỀ 3: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ

A – MỞ BÀI:

Những người mẹ luôn là người đem lại tình thương yêu lớn nhất, tình yêu bao la ấy có thể vượt
qua những khó khăn, những thiếu thốn vật chất để mang lại một cuộc sống an lành hạnh phúc cho
nhau. Trong nền văn học Việt nam biết bao nhiêu nhà văn xây dựng được hình tượng người mẹ
như thế. nếu như Nguyễn Minh Châu xây dựng người mẹ đầy đức hi sinh là người đàn bà hàng
chài thì Kim lân lại xây dựng thành công nhân vật Bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt. ngoài
những phẩm chất của bà thì nhà văn đi vào miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật này. Để từ đó chúng
ta càng thấy được những hi sinh, những nỗi niềm thương con vô bờ bến của bà.

B – THÂN BÀI:

1, Khái quát chung:

 Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn viết chân thật, xúc động về cảnh nông thôn, hình
tượng người nông dân lao động.
 Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân
vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.
 Cụ Tứ là một người đã có tuổi, chồng thì đã mất con gái tên Đục thì đã đi lấy chồng bà
sống với con trai tên là Tràng.
 Hai mẹ con bà xuất hiện trong nền cảnh của nạn đói năm 1945. Có thể nói chính hoàn
cảnh khó khăn ấy càng làm nổi bật lên diễn biến tâm lý và phẩm chất của bà. Bà vẫn
còn phải ra ngoài kiếm đồng rau cái muối, vẫn biết bao nhiêu nắng mưa, gánh nặng đổ
lên đầu và trong buổi chiều hôm ấy bà bất ngờ trước hành động của con trai mình.

41
2. Giới thiệu khái quát tình huống nhận dâu của bà cụ Tứ

 Để làm nổi bật vẻ đẹp tình người của bà cụ Tứ, Kim Lân đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh trớ
trêu: bà nhận dâu vào những ngày đói quay quắt của gia đình và xã hội: “người chết như
ngả rạ”, những cái thây “còng queo bên đường”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người”, “bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng
ma”, “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết”….
 Kim Lân hai lần so sánh người với ma gợi cảm giác ghê rợn: cuộc sống được nhìn như
một bãi tha ma khổng lồ, trần gian mấp mé miệng vực âm phủ. Trong hoàn cảnh đói khát,
con người dễ ích kỉ tàn nhẫn, tha hóa bởi miếng ăn ghì sát đất. Ta đã từng bắt gặp sự tha
hóa ấy trong tác phẩm của Nam Cao như người bà trong “Một bữa no”, người bố trong
“Trẻ con không được ăn thịt chó”, Binh Tư trong “Lão Hạc”.
 Song Kim Lân lại đặt người nông dân vào hoàn cảnh trớ trêu để ngợi ca “hạt ngọc ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người”. Tuy chỉ là một nhân vật phụ nhưng bà cụ Tứ đã trở
thành điểm sáng đặc biệt trong vô vàn thân phận khổ đau vì nạn đói năm Ất Dậu.

3. Bà cụ Tứ mang thân phận của người mẹ góa bụa khổ đau

 Bà xuất hiện trong “tiếng ho húng hắng”, “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa lẩm bẩm
tính toán”, “đôi mắt nhoèn hấp háy”. Dấu vết của thời gian đã in sâu trên ngoại hình khắc
khổ của bà lão triền miên trong những nhọc nhằn lam lũ.
 Hai chữ “lọng khọng” thật giàu sức tạo hình. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy cong cong vì
sương gió cuộc đời của biết bao người mẹ nghèo khổ, già nua còm cõi, trĩu nặng những lo
toan.
 Nhà văn luôn gọi nhân vật một cách trân trọng trìu mến là “bà cụ”, “bà lão”, “người mẹ
nghèo khổ”. Đằng sau vẻ già nua ấy tiềm ẩn bao nét đẹp đáng quý của con người.

4. Phẩm chất, khát vọng (bản chất tốt đẹp và sức sống diệu kì)

 Người mẹ nghèo khổ nhưng rất giàu lòng yêu thương con.
 Người phụ nữ vị tha, bao dung, nhân hậu.
 Một con người biết hướng về tương lai tươi sáng.
 (Những phẩm chất đáng quý ấy được thể hiện rõ nét ở diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ khi
cậu con trai “nhặt” người đàn bà xa lạ về làm vợ).

42
a. Ngạc nhiên: Tâm trạng đầu tiên của người mẹ ấy khi thấy cậu con trai mang một người
đàn bà xa lạ về nhà là sự ngạc nhiên, sửng sốt.

 “Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn: Quái sao lại có người đàn
bà nào ở trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình
thế kia? Sao lại chào mình bằng u?Ai thế nhỉ?”. Hàng loạt câu hỏi liên tiếp xuất hiện đã lột
tả rõ nét tâm trạng ngỡ ngàng của bà cụ Tứ, bà không tin vào mắt mình, không tin cả vào
tai mình “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn” vì tự dưng “bà lão thấy mắt mình nhoèn
ra thì phải”. Bước chân phấp phỏng lập cập đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi ngạc
nhiên rất chân thực của người mẹ cơ cực, khổ đau.
 Bà ngạc nhiên vì ý thức rất rõ sự xấu xí, ngờ nghệch của con trai và hoàn cảnh nghèo khổ
của gia đình mình. Bà không tin giữa thời buổi đói khát nuôi thân chẳng nuôi nổi mà nó lại
còn rước thêm một miệng ăn nữa về nhà. Lẽ thường trái tim người mẹ vốn nhạy cảm về
chuyện riêng tư của con cái khi chúng đến tuổi dựng vợ gả chồng. Song Kim Lân lại để
cho bà cụ Tứ ngơ ngác quá lâu, chứng tỏ cái đói đã làm cho người lao động như bà không
dám mơ đến hạnh phúc.
 Nhà nhân đạo ấy đã thể hiện những trạng thái tâm lí, cảm xúc của nhân vật rất chân thực
tinh tế trước một tình huống dở khóc dở cười.

b, Đan xen mừng vui, buồn tủi, thương lo: Sau khi nghe con trai giãi bày xong đầu đuôi
câu chuyện thì lòng người mẹ nghèo khổ lại đan xen bao tâm trạng: mừng vui, buồn tủi, lo
lắng, thương yêu.

Buồn tủi:

 Lòng người mẹ buồn tủi biết bao cho số kiếp của đứa con mình, “bà lão cúi đầu nín lặng.
Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa
xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…
trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Cái cúi đầu nín lặng chứa
đựng bao nỗi âu lo. Người mẹ từng trải đã hiểu tất cả những uẩn khuất éo le trong việc
nhặt vợ của con. Bà hình dung ra cả nỗi sợ hãi, tủi hổ, bẽ bàng trong tâm hồn người vợ
nhặt. Trong hai chữ “cơ sự” ấy là tất cả những cái bi hài trong duyên kiếp của Tràng.
 Hai dòng nước mắt là những giọt châu còn sót lại của tuổi già, dòng nước mắt cạn khô vì
đã khóc quá nhiều cho kiếp phù du trôi nổi. Đọc dòng văn này ta như có cảm giác trái tim
người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên vì xót xa đau đớn.

43
 Bà buồn tủi vì bổn phận làm mẹ không dựng vợ gả chồng đàng hoàng tử tế được cho con
mà để nó phải đi “nhặt” vợ về… Cô dâu vu quy trong bộ quần áo rách như tổ đỉa, một cái
thúng làm của hồi môn. Họ đưa nhau về không dạm hỏi, không nghi lễ, không người thân
bạn bè đưa đón, chỉ có mấy xác chết bên đường chứng kiến, tiếng quạ kêu thê thiết từng
hồi. Hạnh phúc của họ nhỏ nhoi và quá đỗi mong manh, thân phận của họ bèo bọt rẻ rúng
như cỏ rác.
 Cuộc đời là bản tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đẩy người nông dân vào
nạn đói khủng khiếp. Đằng sau nỗi buồn tủi của người mẹ, người đọc cũng thấy được sự
đồng cảm xót thương của nhà văn nhân đạo Kim Lân trước hoàn cảnh nghiệt ngã của con
người.

Mừng vui:

 Trong nỗi đau người mẹ vẫn ánh lên tâm trạng mừng vui trước hạnh phúc của con cái. Bà
nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng
lòng”. Nếu “bằng lòng” thể hiện thái độ miễn cưỡng chấp nhận một sự thật đã rồi thì
“mừng lòng” có nghĩa trong sự chấp nhận có cả niềm vui. Chính tấm lòng nhân hậu của
người mẹ đã tạo nên cách dùng từ tinh tế của tác giả.
 Bà vui vì thằng con trai nay đã yên bề gia thất, đã có một người bạn đời để chung vai sát
cánh sau này. Bỗng nhiên có con dâu mà không phải mai mối cưới hỏi. Đó là niềm ao ước
bà chưa từng nghĩ đến kể cả trong mơ.
 Bà cụ Tứ là minh chứng đẹp đẽ cho tâm hồn người nông dân ngay cả khi cận kề cái chết,
họ vẫn hướng về sự sống.

Thương yêu:

 Điểm sáng đặc biệt trong trái tim người mẹ nông dân triền miên vì nhọc nhằn mưa nắng là
tình cảm thương yêu “Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót…chúng mày lấy nhau
lúc này u thương quá”. Trước hạnh phúc của các con, bà thấy thương cả con trai lẫn đứa
con dâu khốn khổ. Mẹ thương con trai là chuyện bình thường, mẹ chồng thương con dâu
mới là điều đáng quý. Tấm lòng ấy chỉ có thể có được ở một con người rất vị tha, nhân
hậu, bao dung.
 Giây phút yêu thương khiến bà cụ nghẹn lời không nói được nữa “nước mắt cứ chảy
xuống ròng ròng”. Bà khóc vì hạnh phúc, vì biết ơn người vợ nhặt đã lấy con mình, đã thổi
một luồng gió mát vào căn nhà âm u rách nát.

44
 Không phải ngẫu nhiên hình ảnh tội nghiệp đáng thương của người con dâu đánh thức dậy
trong bà lòng thương xót, tình cảm thương yêu quý trọng “người ta có gặp bước khó khăn
đói khổ này người ta mới lấy đến con mình”. Tình thương của bà thể hiện qua mối đồng
cảm sâu xa của những con người khốn khổ.

Lo lắng:

 Vốn là người từng trải, hiểu thấu lẽ đời nên bà cũng không ngừng lo lắng cho tương lai sắp
tới: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”, “Vợ
chồng chúng nói lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?” và
“chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
 Gần trọng một đời khổ sở, nếm đủ mùi cay đắng, người mẹ dấy lên bao nỗi lo âu cho
tương lai sắp tới của gia đình. Trong lòng bà còn ngổn ngang dòng hồi tưởng về những
năm tháng dài dằng dặc của quá khứ, về người chồng và đứa con gái út. Kim Lân đã miêu
tả tâm lí bà cụ Tứ theo chiều gấp khúc với bao cảm xúc đan xen.
 Phải có vốn sống sâu sắc về người nông dân, tác giả mới có thể diễn tả những dòng nội
tâm của bà cụ chân thực và tài tình đến thế. “Vợ nhặt” không chỉ là trang văn, đó còn là
những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tủi nhục xót xa và cả những nụ cười hạnh
phúc trong trái tim người mẹ.

c. Niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng (thể hiện rõ nhất vào buổi sáng hôm sau)

Niềm vui:

 Niềm vui đã khiến bà cụ Tứ thức dậy sớm để chuẩn bị bữa ăn sáng cho con mình.
 Tràng thức dậy và nhìn thấy cảnh tượng người mẹ đang “lúi húi rẫy những búi cỏ mọc
nham nhở”, khuôn mặt của bà “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa” với hi vọng “thu
xếp nhà cửa cho quang quẻ…thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”.
 Hành động của người mẹ không chỉ diễn tả niềm vui vô bờ bến mà còn khẳng định ý thức
vun đắp cho cuộc sống gia đình cùng niềm hi vọng mong manh mà mãnh liệt về một tương
lai khấm khá hơn.
 Mới buổi chiều hôm qua bà mới an ủi con trai, con dâu “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Không ai khác bà cụ gần đất xa trời lại là người nhắc nhở các con “thắp lửa”, động viên
các con vượt qua khổ đau hướng đến ánh sáng cuộc đời.

Niềm lạc quan:

45
 Giữa lúc cái đói, cái chết rình rập, người mẹ đã vẽ ra viễn cảnh sung sướng: “Tràng ạ, khi
nào có tiền ta mua lấy đôi gà…ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy có ngay đàn gà cho mà
xem”. Hình ảnh đàn gà sinh sôi nảy nở đã làm nổi bật niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của
người mẹ vào sự sống, giống như câu ca dao của người Bình Trị Thiên thuở nào: “Chớ
than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”. Cái chồi sẽ nảy ra cây xanh, đôi
gà sẽ hứa hẹn một cuộc sống sung túc. Đó là ước mơ đầy nhân bản trong tâm hồn con
người đất Việt. Một đôi gà trong tưởng tượng tích tắc đã hóa thành đàn gà. Đó là chuyện
cổ tích hay chính người mẹ đã hóa thành tiên, thành bụt đem đũa thần cổ tích gõ vào mâm
cơm nhà nghèo, biến ước mơ thành hiện thực.
 Thật kì lạ và nghịch lí thay, người mẹ gần đất xa trời lại nói về tương lai nhiều nhất trong
3 nhân vật. Cái phi lí trong hiện thực lại chứa đựng cái có lí của con tim. Hóa ra tương lai
của người mẹ là ở những đứa con. Bà mẹ ấy sống vì con, đến ước mơ, hi vọng cũng là để
cho con. Chính tấm lòng cao đẹp và sự hi sinh thầm lặng đã khiến cho đời bà không bị tàn
đi theo năm tháng.

Thương yêu:

 Điểm sáng đặc biệt trong tâm hồn bà cụ Tứ trong buổi sáng đầm ấm còn là tình cảm
thương yêu. Hai bữa ăn liên tiếp trong ngày đói được bày ra: niêu cháo lõng bõng ăn với
rau chuối thái rối cùng muối trắng nhưng họ ăn rất ngon.
 Trong bữa ăn bà cụ nói “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Người mẹ còn
bưng cả nồi cháo cám “chè khoán đây, ngon đáo để cơ”, “Cám đấy mày ạ. Hì. Ngon đáo
để cơ”. Chữ “ngon” không phải là xúc cảm vật chất mà là xúc cảm tinh thần.
 Chính tình yêu của người mẹ đã biến miếng cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ” thành
ngon. Đói khổ tới mức phải ăn thức ăn của súc vật mà người mẹ vẫn trào dâng niềm hạnh
phúc trong lòng.
 Nhà văn dùng hàng loạt những từ láy để miêu tả nhân vật “bà lão lật đật chạy xuống bếp,
lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc lên nghi ngút…vừa khuấy khuấy vừa cười”.
 Hình ảnh người mẹ nghèo khổ hiện lên chân thực, sinh động, vừa tội nghiệp vừa không
kém phần cao cả. Bà tiêu biểu cho những người mẹ Việt Nam rất giàu tình yêu thương, có
trái tim vị tha nhân hậu.

Lo lắng, buồn tủi:

46
 Bà cụ Tứ vẫn còn buồn tủi, lo lắng trước hiện thực khổ đau. Tiếng trống thúc thuế lại vang
lên “giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ. Bà lão ngoảnh vội ra ngoài.
Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”.
 Cái đen tối của thực tại, cái mờ mịt của tương lai lấp đầy mọi ý nghĩ. Tiếng trống thúc thuế
từng hồi dồn dập hòa vào tiếng của đàn quạ bay vù lên như tín hiệu của cái đói và cái chết.
Giọt nước mắt sầu tủi đã phản ánh chân thực ý thức về nghịch cảnh éo le đặc biệt là nạn
đói thê thảm mà người nông dân phải đối mặt.

5. Đánh giá chung

 Trong Vợ nhặt, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở nửa sau của câu chuyện. Với những tình tiết
đã xảy ra phía trước, người đọc phỏng đoán bà cụ Tứ sẽ xuất hiện với bộ dạng cay
nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng nông thôn. Nhưng ngay cả Tràng cũng bất ngờ
trước thái độ của mẹ mình. Sự nhã nhặn trong cách cư xử, đặc biệt là chuỗi diễn biến
tâm trạng nhân vật khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật bà cụ Tứ. Trước mắt
chúng ta là một người mẹ hết lòng thương con, là một bà cụ nghèo khó nhưng phúc
hậu rất mực. Tất cả những điều đã trải qua trong lòng bà cụ đã được Kim Lân ghi lại
một cách chân thật, xúc động.
 Phản ánh chân thực tình cảnh thê thảm của người nông dân khi đứng trên bờ vực của
cái chết, thương cảm vô hạn trước nỗi đau của con người, đồng thời viết lên bài ca về
sức sống kì diệu trong tâm hồn người lao động: dù đứng ở trên bờ vực thẳm, họ vẫn
hướng về sự sống, yêu thương đùm bọc lẫn nhau… Nội dung nhân đạo ấy được tái
hiện qua tình huống truyện lạ lùng, éo le, cảm động; cách kể chuyện hấp dẫn; nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tài hoa; xây dựng đối thoại sinh động.
 Không chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhà văn còn chỉ ra con
đường để những mảnh đời khốn khổ được sống, được hạnh phúc: biết đấu tranh, biết đi
theo cách mạng.
 Văn học hiện thực phê phán đi sâu khám phá nỗi đau của những người nông dân bị áp
bức để thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc: một chị Dậu chạy vào trong đêm tối… đêm tối
đen như mực, tối như cái tiền đồ của chị trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một lão Hạc
phải chọn cái chết thảm khốc sau bao tháng ngày vật lộn mưu sinh trong “Lão Hạc”
của Nam Cao…
 Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân lại tô đậm sức sống mãnh liệt, ánh sáng của niềm tin ở người
nông dân để bộc lộ cái nhìn lạc quan vào một tương lai tươi sáng. Sê-khốp cho rằng:

47
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ trở thành nhà văn, nếu
anh ta không có giọng điệu riêng thì anh ta không thể trở thành nhà văn thực thụ”. Với
“Vợ nhặt”, Kim Lân đã trở thành một trong những nhà văn thực thụ vì tìm được lối đi
riêng cho tác phẩm của mình.
C – KẾT BÀI:

Kim Lân là một trong những nhà văn có khả năng am hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc. Dưới ngòi bút
của ông, những nông nổi sâu kín trong lòng người mẹ già được thể hiện chân thực, tinh tế, xúc
động và ám ảnh. Nếu không có sự yêu thương, cảm thông, chia sẻ, nhà văn không thể thể hiện
thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn văn ngắn như thế. Hậu thuẫn cho tấm lòng
nhân đạo chắc chắn còn là bản lĩnh nghệ thuật của người cầm bút. Hình ảnh bà cụ Tứ cùng với
hình ảnh chị Dậu, hình ảnh người vợ cam chịu, tảo tần trong sáng tác của Nam Cao đã làm nên sự
bất tử cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam.

ĐỀ 4: PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA TÁC PHẨM

A – MỞ BÀI:

Trong suốt sự nghiệp của mình, tuy sáng tác không nhiều, nhưng Kim Lân là một trong số nhà
văn lại để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc. Vợ nhặt là một tác phẩm như thế. Truyện
ngắn này đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với các thế hệ độc giả bởi giá trị hiện thực và giá trị nhân
đạo sâu sắc.

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung:

 Vợ nhặt là được viết lại từ một chương trong truyện dài Xóm ngụ cư mà Kim Lân viết dở
năm 1946.
 Tác phẩm nói lên số phận của những con người bị khinh rẻ bởi cuộc sống nghèo đói.
Nhưng chính trong hoàn cảnh ấy, người dân xóm ngụ cư vẫn khát khao vươn lên trên cái
chết, sự thảm đạm để mà vui, mà hi vọng,

48
 Sau đấy, do hoàn cảnh chiến tranh, bản thảo của tác phẩm bị mất. Sau 1954, nhân một số
báo kỉ niệm Cách mạng tháng tám, Kim Lân liền nhớ lại, viết thành truyện ngắn Vợ nhặt,
in trong tập Con chó xấu xí (1962).
 Vợ nhặt đặc sắc ở chỗ xây dựng được một câu chuyện khác thường: giữa những ngày nạn
đói hoành hành, người chết như ngả rạ, không ai dám chắc mình có sống qua nạn đói ấy
không thì anh Tràng lại “nhặt” được một người đàn bà về làm vợ. Từ câu chuyện Tràng
nhặt được vợ, tác giả thể hiện một sự cảm thông đến cảm động, một tình yêu thương nồng
ấm đối với những con người cùng khổ.

2. Giá trị hiên thực


Phản ánh chân thực đời sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng tám : nạn đói kinh
khủng khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở :

 Con người chịu cảnh tang thương, đời sống ngày càng thê thảm : “ Người chết như ngả
rạ ”, “ ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường ”, người sống mặt hốc hác u tối đi lại
dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng ma, …
 Không gian chỉ tòa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết .
 Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm .

Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh đời sống thảm hại của
con người .

 Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình : Tràng
ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải đi làm, …
 Nhận xét : ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Không
gian xóm ngụ cư không độc lạ nhiều với nghĩa trang

3. Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của
những người dân nghèo trong nạn đói năm 1945
Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị :

 Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm đến thể
danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn đòi ăn”, còn chấp nhận theo
không Tràng về làm vợ.

49
 Chính Tràng cũng vậy, vì quá nghèo nàn mà khó hoàn toàn có thể lấy vợ, đến khi lấy
được vợ cũng là nhờ thực trạng éo le .

4. Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với
nhân dân ta

 “ đằng thì chúng bắt nhổ lúa trồng đay, đằng thì chúng bắt đóng thuế ”, chúng không
cho nhân dân ta con đường sống, đẩy nhân dân đến bước đường cùng .
 Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc siêu thuế, bà cụ tứ cũng vô vọng kêu
lên rằng : “ Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu những con ạ ”

5. Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người

 Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người : Một mặt ta thấy người vợ nhặt
như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là khát vọng sống mãnh liệt
của thị, thị không từ bỏ bất kể thời cơ nhỏ nhoi nào để được sống tiếp, ngay cả việc theo
không người ta về làm vợ .
 Ta thấy ở Tràng là một khát vọng niềm hạnh phúc chân thành, không phải vì ngờ nghệch
mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một mái ấm gia đình như
bao người thông thường khác .
 Truyện ngắn còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng thương người : vì thình thương người chân
thành mà Tràng sẵn sàng chuẩn bị mời thị ăn dù không dư dả, vì thương người mà bà cụ tứ
đồng ý người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói khổ .
 Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn luôn có niềm tin vào đời sống :
o Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đoàn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho bà cụ
Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự trù những chuyện tương lai, khuyên bảo những

5. Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn

 Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ đỏ
trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc có thể
tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi nghĩa.

C – KẾT BÀI:

Bằng tài năng nghệ thuật của mình, Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống truyện vô cùng độc
đáo và có ý nghĩa: tình huống Tràng nhặt được vợ, tình huống vợ chồng Tràng dắt díu nhau về

50
trong bóng chiều ảm đạm với tiếng khóc hờ người chết. Nhưng qua tình huống ấy, điều mà Kim
Lân muốn nhắn nhủ đến mỗi chúng ta là niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Tình yêu và hạnh
phúc của mỗi con người có thể được khai sinh từ nỗi đau khổ và tuyệt vọng nhất.

ĐỀ 5: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG NHẶT VỢ CỦA TRÀNG

A – MỞ BÀI:

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm
1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả
viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo
nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa
thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất
của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung:

 Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn viết chân thật, xúc động về cảnh nông thôn, hình
tượng người nông dân lao động.

 Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân trong nạn đói năm 1945, nhân
vật Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn này.

2. Tình huống nhặt vợ của Tràng:


Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà tại đó cuộc
sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.

Phân tích tình huống nhặt vợ

Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:

51
 Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
 Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.

Tóm tắt tình huống:

 Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt”
được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những ngày đói chỉ bằng mấy
câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…

Các chi tiết độc đáo của tình huống truyện:

 Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:


o Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
o Tính tình có phần không bình thường.
o Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
o Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
o Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
 Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một gánh nặng:
 Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
o Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
o Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
o Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn "ngờ ngợ".
 Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí:
o Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như
Tràng.
o Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.

Giá trị của tình huống truyện

Giá trị hiện thực:

o Phác họa tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
o Cái đói dồn đuổi con người.
o Cái đói bóp méo cả nhân cách.
o Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.

52
o Tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói
khủng khiếp

Giá trị nhân đạo

o Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
o Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
o Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
o Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
o Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:

C – KẾT BÀI:

Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của
tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến
tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của
chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là
truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của
những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm
tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên
sức sống lâu dài của tác phẩm.

53
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN:

1 – Tác giả

 Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê ở Nghệ An


 Là nhà văn chiến sĩ, một trong những cây bút tiên phong của văn học VN thời kỳ đổi mới.
 TP tiêu biểu: Dấu chân người linh, Bến quê, Mảnh trăng cuối rừng, Cỏ lau, Chiếc thuyền
ngoài xa, Phiên chợ Giát, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hanh.
 Phong cách nghệ thuật:
o Trước năm 1975, tác phẩm của ông mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
o Sau 1975, Nguyễn Minh Châu hướng sự quan tâm của mình tới cuộc sống đời tư – thế
sự để thể hiện sự thấu hiểu và niềm xót thương với số phận con người.
 Quan niệm sáng tác:
o “Văn học và cuộc sống là 2 vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”
o Nhà văn phải “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”

54
o “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những con người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hay số phận đen đủi dồn đến chân
tường… bênh vực cho những con người không còn được ai bênh vực.”

2 – Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:

Sáng tác năm 1983, lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau đó tác phẩm có vinh dự được
nhà văn dùng làm tên chung cho cả tập truyện ngắn gồm 15 tác phẩm.

b. Nội dung:

 “Chiếc thuyền ngoài xa” là câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật mang vẻ đẹp tuyệt
đỉnh của ngoại cảnh và hiện thực nhọc nhằn ,ngang trái trong gia đình hàng chài.
 Qua tác phẩm, tác giả gửi đến người đọc những thông điệp sâu sắc:
o Hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống.
o Cần phải có cái nhìn đa diện ,nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật sau vẻ ngoài
của hiện tượng.

c. Nghệ thuật:

 Xây dựng được tình huống truyện mang ý nghĩa nhận thức.
 Miêu tả tâm lý nhân vật chân thực, sắc sảo.
 Sáng tạo được những hình ảnh biểu tượng đặc sắc (chiếc thuyền ngoài xa, chiếc xe tăng
hỏng...)
 Ngôn ngữ giản dị, giàu tính triết lí
 NT trần thuật khách quan, giàu sức thuyết phục.

ĐỀ 1: PHÂN TÍCH CÁC TÌNH HUỐNG TRUYỆN:

A – MỞ BÀI:

55
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiên phong trong thời kỳ đổi mới, người được xem là “không
thể thay thế” cho giai đoạn văn học này. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kì chống Mỹ
và thời kì đổi mới sau 1975. Ở thời kì đổi mới Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường
tinh anh và tài năng”, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn đặc sắc của ông.
Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực đời thường của người lao động ở một vùng ven biển
miền Trung sau chiến tranh. Thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về cuộc sống và băn khoăn về
thân phận con người. Thành công và nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm là
xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo.

B - THÂN BÀI:

1. Giới thiệu chung

 Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng
đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân.
 Từ cảm hứng sử thi lãng mạn, huyền ảo đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác
phẩm thời kì chiến tranh, cảm hứng của ông dần dần chuyển sang tính chất triết luận
về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc
mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê”
(1985) đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “Người mở đường tinh anh và tài năng”
(Nguyên Ngọc) của văn học nước ta từ sau năm 1975.
 Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu tiên trong tập “Bến quê“, sau
được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình, in năm 1987.
Trong thiên truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình hưống
truyện vô cùng đặc sắc.

2. Phân tích tình huống truyện trong "Chiếc thuyền ngoài xa"
a. Định nghĩa tình huống truyện: Là hoàn cảnh được tác giả tạo dựng bằng một sự kiện đặc
biệt để từ đó thể hiện được chủ đề, tư tưởng của tác giả.

b. Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc phát hiện
ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và
ở toà án huyện

Ở ngoài bãi biển

56
 Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: Bức tranh thiên nhiên toàn bích của chiếc thuyền
lưới vó đang tiến gần bờ trong buổi sớm mai “trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu...
tôi tưởng chính mình vừa khám phá cái chân lí của sự hoàn thiện...”. Trong đôi mắt
người nghệ sĩ khát khao cái đẹp thì đó là “cảnh đắt trời cho” chứa đựng chân lí sự hoàn
thiện, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.
 Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí, phi nghệ thuật: Cảnh tượng xấu xí: người đàn bà xấu
xí, mệt mỏi, người đàn ông cục mịch, hung bạo. Thiếu tính người: người chồng đánh
đập vợ thô bạo, đứa con bảo vệ mẹ, đánh lại cha  Người nghệ sĩ cay đắng nhận ra:
đằng sau cái đẹp cảnh “đắt” trời cho là khung cảnh xấu xí, chứa đựng sự thật tàn nhẫn -
nạn bạo hành gia đình.

Trong toà án huyện

 Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người chồng vũ phu nhưng
khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông” là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc
sóng gió ngoài biển khơi.
 Niềm vui của bà là được ngắm con cái ăn no, ngủ say và chờ đợi những đôi lúc “vợ
chồng con cái hòa thuận vui vẻ”, người đàn bà trên thuyền sống vì con.
 Câu chuyện người đàn bà khiến Phùng và Đẩu một lần nữa nhận thức sâu hơn về cuộc
đời:
o Cuộc sống mưu sinh có thể làm người hiền lành trở nên thô bạo
o Đằng sau vẻ xấu xí kia thì người đàn bà lại nhân hậu, vị tha, hiểu đời
o Vị chánh án nhận ra cuộc sống hôn nhân không dễ dàng giải quyết được bằng cách
dứt khoát như anh nghĩ.
o Nhà nhiếp ảnh nhận ra nghệ thuật thì đẹp đấy nhưng cuộc đời sinh ra nghệ thuật
vẫn nhiều khiếm khuyết. Hình thức bên ngoài của người đàn bà không nói lên được
lòng vị tha, nhân hậu và nỗi đau bên trong. Người cán bộ đôi khi lại chưa thể thấu
hiểu vì còn thiếu trải nghiệm.

3. Ý nghĩa tình huống truyện:

57
 Tư tưởng và chủ đề của tác phẩm được thể hiện qua tình huống truyện: Đó là những phát
hiện sâu sắc của người nghệ sĩ về cuộc đời, con người, sự gắn kết giữa nghệ thuật và đời
sống.
o Cuộc đời vốn là bức tranh nhiều màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi nhìn vẻ bề ngoài khó
lòng mà đánh giá. Từ cái nhìn của chánh án Đẩu, tác giả cho ta cái nhìn đa chiều, toàn
diện.
o Đôi khi thiện chí không là chưa đủ để giúp đỡ ai đó, cần phải gắn liền với thực tế để
trải nghiệm, thấu hiểu họ.
o Mỗi chúng ta cần nhìn lại bản thân để hoàn thiện nhân cách.
o Nghệ thuật không thể tách rời cuộc đời, nó phải có cội rễ từ đời sống và phản ánh đời
sống chân thật nhất.
 Tình huống truyện còn mang ý nghĩa nền tảng để nhà văn xây dựng thành công nhân vật:
o Người đàn bà hàng chài với nỗi khổ cả thể xác lẫn tâm hồn thế nhưng vẫn ngời lên đức
tính tốt đẹp của người phụ nữ.
o Người chồng là kết quả của cuộc sống túng thiếu, bế tắc
o Phùng – người nghệ sĩ tha thiết với cuộc đời, Đẩu - chánh án có lòng tốt nhưng cả hai
còn thiếu kinh nghiệm sống.
 Tình huống truyện còn lôi cuốn người đọc bởi nhiều sự vỡ ra, bất ngờ.
 Tình huống truyện chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn:
o Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo
hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh
gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go,
lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng
o Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục
của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái
xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của người lao động.

C – KẾT BÀI:

Thành công trong truyện ngắn chính là việc Nguyễn Minh Châu xây dựng được tình huống truyện
đặc sắc, độc đáo, nhấn mạnh mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Người đọc ngộ ra từng
điều sau những tình huống truyện mang ý nghĩa sâu sắc, càng thêm thấm thía về lẽ đời. Tác giả đã
đem đến cho người đọc những cái nhìn mới mẻ về con người về đời sống.

58
ĐỀ 2: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chai

A – MỞ BÀI:

Nguyễn Minh Châu được Nguyên Ngọc đánh giá là “ Người mở đường tinh anh và tài năng” của
văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Người nghệ sĩ ấy đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc về hiện
thực cuộc sống và tài năng nghệ thuật khi khám phá nỗi đau cũng như vẻ đẹp tiềm ẩn của người
con người . Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, người đọc có thể thấy được một trong những
quan niệm sáng tác tiến bộ ở Nguyễn Minh Châu: Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm
những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người

B – THÂN BÀI:

1. Khái quát chung:

 Nguyễn Minh Châu hướng sự quan tâm của mình tới cuộc sống đời tư – thế sự để thể
hiện sự thấu hiểu và niềm xót thương với số phận con người.
 NMC quan niệm: “Thiên chức...”. Nếu trước năm 1975, nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy
trong những nhân vật mang đậm chất sử thi anh hùng thì sau năm 1975, tác giả khám
phá những vẻ đẹp quý giá ấy trong những con người đời thường, bình dị. Người đàn
bàn hàng chài được coi là hình tượng nghệ thuật đặc sắc kết tinh quan niệm sáng tác
độc đáo của người nghệ sĩ say mê cái đẹp. . Nét đẹp ấy đôi khi bị cuộc sống làm khuất
lấp đi... khi đối diện với tình huống về tình cảm thì cái đẹp mới được tỏa sáng. Cả cuộc
đời sáng tạo nghệ thuật, NMC luôn miệt mài tìm kiếm những vẻđẹp ẩn giấu trong cõi
lòng người. Trong những năm tháng chiến tranh, ông phát hiện ra lòng dũng cảm, tinh
thần lạc quan ,tình yêu đất nước ở bao người chiễn sĩ CM. Còn khi trở về với cuộc
sống đời thường, nhà văn lại khám phá được lòng nhân hậu, đức hi sinh và bản lĩnh
kiên cường ở người lao động. Nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” tiêu biểu cho hành trình nhọc nhằn để mưu sinh, kiếm tìm
hạnh phúc và giữ gìn phẩm giá ở bao người phụ nữ.

2. Hình ảnh người đàn bà hàng chai:

59
Ngoại hình xấu xí, thô kệch.

 Ngoại hình của người đàn bà này không chỉ xấu xí, thô kệch mà còn gợi ấn tượng về một
cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Cái xấu đeo đuổi chị như một định mệnh “từ nhỏ tôi đã là một
đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau 1 bận lên đậu mùa”.
 Nếu cô Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của TH đẹp thánh thiện như một đóa hoa ban rừng thì
người phụ nữ này lại gặp số phận trớ trêu khi tạo hóa, số mệnh và cuộc đời đã cướp đi
phần nhiều nhan sắc.
 Chị xuất hiện trước mắt Phùng, giữa cảnh biển sớm với “thân hình cao lớn”, “những
đường nét thô kệch”. “Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ”, với “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân
dưới ướt sũng”.
 Người đàn bà hiện lên như một bức chân dung vẽ vội với những đường nét thiếu hòa hợp.
Gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển đã lấy đi của chị sức lực và niềm vui.
Trên khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt dường như không còn chút sức sống, không còn bóng
dáng của nụcười.

 Nguyễn Minh Châu đã viết về dáng vẻ của chị để thể hiện sự thấu hiểu, xót thương cho bao
mảnh đời bất hạnh.

Người vợ bao dung, vị tha, nhân hậu.

 Đối với chồng, người đàn bà hàng chài ấy luôn tỏa ra nguồn ánh sáng của một trái tim vị
tha, bao dung, nhân hậu.
 Vì có ngoại hình thua thiệt nên chị luôn biết ơn người chồng vũ phu, tàn bạo bởi nhờ có
anh ta mà người phụ nữ kém sắc như chị mới được hưởng niềm hạnh phúc làm vợ, làm mẹ
như bao người “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một
nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Trong kí ức của chị vẫn lưu
giữ hình ảnh “1 anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.
 Lời tâm sự ấy chứa cả nỗi đau và tình yêu thương. Người vợ không căm hận gã chồng
hung bạo dù hắn đánh vợ như cơm bữa. Chị hiểu sự vũ phu kia là do hoàn cảnh cơ cực đói
nghèo. Chồng chị cũng chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh, không chỉ xót thương
thấu hiểu mà người phụ nữ ấy còn sẻ chia với chồng bằng sự chịu đựng kì lạ: chị chịu đòn
như một cách giúp chồng vơi đi uất ức buồn đau.
 Người vợ bao dung còn luôn luôn day dứt mặc cảm vì mình là người có lỗi “giá tôi đẻ ít
đi... lỗi là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền thì lại chật”. Khi Phùng hỏi “ở

60
trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không” thì người vợ vị tha cũng không ngần ngại
giãi bày “bất kể lúc nào thấy khổquá là lão xách tôi ra đánh”, người chồng vũ phu đánh vợ
vì thấy khổ còn người vợ độ lượng thì sẵn sàng để chồng chuốc giận cho vơi bớt u uất
trong lòng.

Vẻ ngoài cam chịu, nhẫn nhục.

 Người đàn bà hàng chài có số phận khổ đau tới cùng cực nhưng lại có tính cách cam chịu,
nhẫn nhục vừa đáng trách nhưng cũng rất đáng thương.
 Cuộc sống quanh năm chìm trong tăm tối đói rách, cả gia đình đông đúc sống chen chúc
trên một con thuyền nhỏ. Cuộc sống khốn khổ cả về vật chất lẫn tinh thần.
 Khi bị lão chồng dùng chiếc thắt lưng “quật tới tấp vào lưng” rồi nguyền rủa bằng cái
giọng rên rỉ đau đớn “mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ” vậy
mà chị vẫn nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách
chạy trốn”.
 Thường xuyên bị đánh đập “3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng” mà người mẹ ấy
vẫn van lạy “chắp tay vái lia lịa: con lạy quý tòa... quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Chị đã quen với những trận đòn oan nghiệt như thể
chúng đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống hàng ngày.
 Hình ảnh người phụ nữ khốn khổ tự nguyện chui vào chỗ xe tăng hỏng cho chồng đánh rồi
tha thiết xin tòa cho ở lại với người chồng vũ phu đã làm nổi bật nỗi đau của bao mảnh đời
thời hậu chiến.
 Nếu chị Dậu trong “Tắt đèn” của NTT khổ vì sưu cao thuế nặng, Mị trong “VCAP” là nạn
nhân của cường quyền và thần quyền giữa sự thống trị của giai cấp thống trị vùng cao thì
người vợ, người mẹvùng biển này lại là nạn nhân của bạo lực gia đình, của cuộc sống đói
nghèo sau những ngày đầu giải phóng.
 Viết về chị, nhà nhân đạo từ trong cốt tủy NMC đã thể hiện được tấm lòng đồng cảm, yêu
thương vô hạn trước thân phận con người.

Người mẹ giàu tình yêu thương và đức hi sinh.

 Sự cam chịu ,nhẫn nhục ấy được khởi nguồn từ tình yêu thương và đức hi sinh bởi với
những đứa con, người mẹ ấy là hiện thân cho tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp.
 Chị chấp nhận cảnh sống đọa đày đâu phải vì không biết đau, biết nhục. Người vợ xin
chồng “đưa tôi lên bờ mà đánh” vì không muốn đàn con bị tổn thương.

61
 Chị hiểu “đám đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được”, vì “còn phải có người đàn ông để chèo chống lúc phong ba, để cùng
làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”.
 Cuộc sống trên mặt biển đầy sóng gió, những đứa trẻ luôn cần sự che chở của mẹ, của cha.
Chị chịu đựng sự đầy ải, tàn nhẫn để trên thuyền có một người đàn ông khỏe mạnh, biết
nghề cho đàn con một điểm tựa.
 Sức chịu đựng kì lạ ấy đã cho thấy đức hi sinh của người mẹ “ông trời sinh ra người đàn
bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Khi van xin “đừng bắt tôi bỏ nó”
“khuôn mặt xấu xí của mụchợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là nụ cười của một
người mẹ luôn chắt chiu, nâng niu từng giọt hạnh phúc. Với chị “vui nhất là lúc ngồi nhìn
đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
 Tình mẫu tử mãnh liệt đã giúp chị vượt qua mọi nỗi đau để tin yêu và hi vọng từ những cơ
cực đời thường. Người đọc không thể quên được hình ảnh chồng đánh không khóc, nhưng
ôm con chị lại khóc. Đó là tiếng khóc vì đau đớn, vì thương con tới quặn lòng. Hành động
vái lạy thằng Phác với dòng nước mặt lặng lẽrơi chính là biểu hiện chân thực của nỗi khổ
đau và tình yêu cao cả.

 Giống như bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân luôn sống bằng trái tim bao dung nhân
hậu, giống như nhân vật Liên trong “Bến quê” suốt một đời hi sinh tảo tần chịu đựng... người
đàn bà hàng chài cũng mang bóng dáng của người phụ nữViệt Nam vị tha, giàu đức hi sinh...
NMC đã tìm thấy những hạt ngọc khuất lấp trong cái lấm láp của cuộc sống đời thường.

Vẻ quê mùa, thất học.

 Trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu ở tòa án huyện, người đàn bà “có vẻ sợ sệt lúng
túng” phải nói đến lượt thứ 2 “mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố
thu người lại”.
 Chị xuất hiện trong dáng vẻ tự ti, mặc cảm khi đứng trước một chánh án, một nghệ sĩ từng
giúp đỡ mình.
 Nếu chỉ nhìn bề ngoài ta không thể đồng tình với một người phụ nữ tự nguyện để cho
chồng mình đánh hay “chắp tay vái lia lịa” vì không muốn giải thoát khỏi nỗi đau. Cách
xưng hô “quý tòa – con” đã đem đến cảm nhận về một người phụ nữ lao động quê mùa.
Tuy nhiên những biểu hiện ấy chỉ là vẻ bề ngoài của một con người đã đi qua bao nỗi nhọc
nhằn cay đắng.

Người phụ nữ sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời.

62
 Khi kể lại cuộc sống đầy vị mặn của chính mình, người đàn bà thất học bất ngờ để lộ bức
chân dung bên trong sắc sẳo, từng trải: Con mắt chị như “đang nhìn suốt cả đời mình.
 Chị lật giở từng trang đời trong quá khứ, cân đo đong đếm cả nỗi bất hạnh và niềm vui và
đưa ra bao triết lí khiến cả Đẩu và Phùng cùng ngỡ ngàng với bao vỡ lẽ: “Là bởi các chú
không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một
chiếc thuyền không có đàn ông... cũng có khi biển động sóng gió chứ chú”.
 Chị đã giúp một vị chánh án, một vị nhiếp ảnh hiểu cuộc mưu sinh bấp bênh luôn tiềm ẩn
bao đe dọa khiến người phụ nữ cần một người đàn ông như một trụ cột trong gia đình. Câu
nói “Lòng các chú có tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn.. đâu có hiểu được
các việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc” đã giúp Phùng vỡ lẽ về bao nghịch lí trong
một gia đình lao động đông con và cả tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc đời người làm
chài lưới “cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”.
 Bao nhiêu lời khuyên đầy thiện chí đã lần lượt bị đánh bại bởi những chiêm nghiệm thấm
thía của người vợ bao dung, người mẹ coi sự hi sinh làm lẽ sống của đời mình.

4. Đánh giá chung

 Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài với những vẻ đẹp tiềm ẩn đáng trân trọng, Nguyễn
Minh Châu đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo và tài năng nghệ thuật trên trang viết.
 Tác giả đã sử dụng tình huống truyện mang ý nghĩa nhận thức, nghệ thuật trần thuật khách
quan chân thực để tái hiện rõ nét số phận khổ đau bất hạnh cùng tính cách nhẫn nhục, cam
chịu đến đáng thương ở người phụ nữ luôn coi tình thương là lẽ sống của đời mình.
 Những hình ảnh biểu tượng đặc sắc, thủ pháp đối lập tương phản cùng giọng điệu suy tư
chiêm nghiệm…chính là phương tiện nghệ thuật để nhà văn thể hiện tình cảm yêu thương trăn
trở trước nỗi đau của con người thời hậu chiến.
 Biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, những chi tiết nghệ thuật giàu sáng tạo cũng giúp
tác giả truyền tới người đọc những thông điệp sâu sắc: Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống,
nhà văn phải biết đấu tranh cho sự tốt đẹp của cuộc sống con người.
 Từ những vỡ lẽ trong nhận thức của mình, Nguyễn Minh Châu đã lên án tình trạng bạo lực
gia đình, ngợi ca những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người đàn bà hàng chài phải sống trong
nhọc nhằn ngang trái.
 Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao cũng xây dựng nhân vật Thị Nở với vẻ ngoài xấu
ma chê quỷ hờn nhưng lại giàu lòng trắc ẩn, có trái tim nhân hậu, giàu sự cảm thông.

63
 Viết “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu cũng tìm thấy những hạt ngọc trong
tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Dù phải sống cuộc đời lấm láp, khổ đau nhưng trái tim vẫn
lấp lánh bao nguồn ánh sáng diệu kì.

B - KẾT BÀI:

Người đàn bà hàng chài giàu tình yêu thương, sống bao dung, sâu sắc lẽ đời là hình tượng nghệ
thuận tiêu biểu cho quan niệm sáng tác mà Nguyễn Minh Châu tâm niệm: “thiên chức của nhà
văn…”. Chính tác giả đã từng khẳng dịnh “nhà văn tồn tại ở trên đời…là để làm công việc giống
như kẻ nâng giấc cho những con người cùng đường tuyệt lộ… để bênh vực cho những con người
không còn được ai bênh vực”. “Chiếc thuyền ngoài xa” đã giúp người đọc thấy được tình yêu
thương vô hạn của Nguyễn Minh Châu đối với con người. Song điều đáng quý là không chỉ “nâng
giấc”, “bênh vực” cho những mảnh đời bất hạnh, tác giả còn nâng niu trân trọng những vẻ đẹp ẩn
giấu trong tâm hồn những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh.

ĐỀ 3: PHÂN TÍCH NHỮNG PHÁT HIỆN CỦA NGHỆ SĨ NHIẾP ẢNH PHÙNG TỪ ĐÓ
THẤY ĐƯỢC THÔNG ĐIỆP CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU

A - MỞ BÀI:

Người nghệ sĩ là người luôn kiếm tìm cái đẹp, trân trọng và giữ gìn chúng. Thế nhưng, không phải
cái đẹp nào cũng “đơn giản và toàn bích” mà đôi khi chứa đựng sau vẻ đẹp “toàn bích” ấy là cả
một sự thật đau đớn đến ngỡ ngàng. Và câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một câu chuyện như thế. Khi mà người
nghệ sĩ Phùng tưởng chừng như đã tìm ra được vẻ đẹp chân lý của cuộc đời mình thì một sự thật
không ngờ về cuộc đời và số phận những người lao động nghèo ở làng chài đã khiến anh phải suy
nghĩ lại. Đó có lẽ là hai phát hiện lớn nhất của cuộc đời anh.

B – THÂN BÀI:

1. Phát hiện đầu tiên: Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm
mờ sương

64
 Khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đó là khung cảnh đẹp đẽ, tuyệt bích như bức
họa mực tàu.
 Khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà “mái thuyền in một nét mơ hồ
lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người ngồi im phăng phắc.

 Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề" của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp "trời cho" trên mặt
biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy ảnh chỉ gặp một lần.

 Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của
sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
 Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lí của sự hoàn mĩ, thì ra đứng trước cảnh đẹp,
trước sự toàn bích, hài hòa, lãng mạn của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được
thanh lọc để trở nên trong trẻo hơn.

2. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài

 Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển, Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh
bạo lực gia đình - sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo
khổ.
 Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với
vẻ ngoài cam chịu cùng một người đàn ông hung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương
thức giải tỏa mọi đau khổ.

 Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp "toàn bích, toàn thiện" mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó
hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.

 Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng đã "kinh ngạc
đến mức, trong mấy phút đầu... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy ào tới".

 Phùng đã cay đắng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc
khuất đầy ngang trái, đau khổ của cuộc sống.

 Phùng ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đích thực không phải chỉ
nhìn cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa mà cần thực sự thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc
sống của con người.

3. Đặc sắc nghệ thuật

65
 Tình huống truyện nghịch lí độc đáo
 Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập
 Giọng điệu thay đổi linh hoạt
 Sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, suy tư - triết lí nổi bật
 Lời văn giản dị, mộc mạc mà nhiều dư vị

C – KẾT BÀI:

Như vậy, qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, ta đã thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa nghệ
thuật và cuộc sống mà chiếc thuyền chính là hiện thân. Nghệ thuật phải về gần với cuộc sống,
ngược lại cuộc sống là chất liệu, nguồn cung cấp cái đẹp cho nghệ thuật, để rồi nghệ thuật quay
trở lại làm đẹp cho cuộc đời.

66

You might also like