Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH


---------------------------

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và vận dụng trong sự nghiệp
cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.”

GVHD : Hoàng Thị Kim Oanh


Lớp: POS 361 SO
SVTH : Nguyễn Văn An - 26215332669
Nguyễn Đức Hiếu - 27211233323
Phạm Huy - 26215433250
Nguyễn Trí Ngọc - 27211243078
Trần Đình Ngọc Quý – 28211532668
Đoàn Việt Trường - 28211104502
Lê Hồng Yến - 28204121283 (Trưởng nhóm)
Đà Nẵng, ngày 12 tháng 7 năm 2023

1
MỤC LỤC
Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục tiêu của bài tiểu luận
1.3.  Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Nội dung:
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1.1. Vấn đề độc lập dân tộc
1.1.1 Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, của tất cả các dân tộc.
1.1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
1.1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để.
1.1.4. Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Vận dụng:
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tầm nhìn độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay
2.1. Những thách thức và cơ hội cho Việt Nam trong thế giới đa dạng và biến đổi
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong xây dựng và phát triển
đất nước
2.2.1. Phát triển kinh tế độc lập, tự chủ
2.2.2. Bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc trong xã hội

III. Tầm quan trọng và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong
giai đoạn hiện nay
3.1. Thực trạng hiện nay.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự đoàn kết của dân tộc
3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò quốc tế của Việt Nam
3.4. Di sản và giá trị tiếp tục phát huy trong giai đoạn hiện nay

IV. Nhìn về tương lai


4.1. Định hướng phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong tương lai
4.2. Ghi nhận những học bổng từ quá khứ và vận dụng vào tương lai

V. Kết luận
5.1. Tóm tắt các điểm chính của bài tiểu luận
5.2. Nhận định về tầm quan trọng và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu tham khảo :

2
MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập Dân tộc là một di sản tinh thần vĩ đại mà
Người tiền nhân của chúng ta đã để lại trong lòng dân tộc Việt Nam. Với tâm hồn yêu
nước, sự kiên định và sự tận tâm vô bờ, Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng không
chỉ của cuộc cách mạng Việt Nam mà còn của nhân loại. Tư tưởng vĩ đại của Người
đã chiếu sáng và tiếp thêm động lực cho con đường độc lập dân tộc và sự nghiệp cách
mạng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ những giai đoạn đầu tiên của cuộc
chiến giành độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu và khai phá những nguồn lực
quý báu của dân tộc, xây dựng chiến lược đấu tranh hiệu quả và lãnh đạo tài ba. Tiến
lên trong thời kỳ hiện nay, dân tộc Việt Nam đã và đang chứng minh sức mạnh và khả
năng của mình trên đấu trường quốc tế. Quyết tâm đạt được mục tiêu độc lập, giàu
mạnh và hạnh phúc của dân tộc không bao giờ hao mòn, và chúng ta vẫn tiếp tục nắm
tay nhau, trên con đường Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn.Và cuối cùng, chúng ta sẽ
đi sâu vào tìm hiểu về Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập Dân tộc và cách mà chúng
ta đã và đang vận dụng những tư tưởng này trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai
đoạn hiện nay.

3
1.1. Lý do chọn đề tài.
- Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật lịch sử vĩ đại và có tầm ảnh hưởng
sâu sắc đối với dân tộc Việt Nam. Ông là lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt
Nam và đã định hướng cho sự phát triển của đất nước trong suốt thời gian
kháng chiến chống giặc ngoại sâm. Độc lập dân tộc là giá trị cốt lõi của Hồ Chí
Minh, việc tìm hiểu và nghiên cứu về cách ông hiểu và vận dụng độc lập dân
tộc trong sự nghiệp cách mạng là cách để nắm vững bản chất và triết lý của
ông, từ đó học hỏi và áp dụng vào hiện tại và tương lai nên đã bắt dầu chọn và
nghiên cứu để tài.
1.2. Mục tiêu của bài tiểu luận
- Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong
gian đoạn hiện nay sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thách thức và cơ hội
mà đất nuóc đang đối diện, từ đó tìm rua các hướng đi, giải pháp phù hợp để
phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc.
- Việc truyển tải tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng nó trong hiện tại là cách
thức giữ gìn và phát huy giá trị di sản lịch sử từ đó gắn kết các thể hệ người
Việt Nam với nhau và xây dựng tinh thần đoàn kết, đồng lòng trong xây dựng
đất nước.
- Việc nghiên cứu này giúp hiểu rõ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc và ứng dụng nó trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam gia đoạn hiện
nay, đồng thời đóng góp vào việc phát triển quốc gia và xây dựng cộng đồng
văn hóa tri thức.
1.3. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
- Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Ngoài việc sự dụng phương pháp logic, phương pháp
lịch sự và sự kết hợp của hai phương pháp này, đề tài cũng sử dụng phương
pháp phân tích văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh.

4
NỘI DUNG

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc


1.1. Vấn đề độc lập dân tộc
1.1.1 Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc
thuộc địa và theo nguyên tắc: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc
Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ
bên ngoài”. Và người đã nói rằng: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân
chỉ thấy giá trị của độc lập là khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Độc lập tự do là quyền tự
nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá.Hồ Chí Minh đã có câu “ Không có
gì tốt đẹp hơn độc lập tự do”.Người đã kế thừa, tiếp cận tư tưởng về quyền độc lập
dân tộc Việt Nam.
- Kế thừa từ truyền thống hàng thiên niên kỷ lịch sử dựng nước và giữ
nước từ các thời kỳ vua Hùng, An Dương Vương.
- Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “ Mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…"
Năm 1919, nhân dịp các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất họp Hội Nghị ở Vécxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu nước,
Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của Nhân dân An Nam, bao gồm 8
điểm với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền
tự do, dân chủ của người dân Đông Dương. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945,
thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng
bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã
thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Ý chí và
quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ giành được thắng lợi, đất nước được hòa bình, thống nhất.

5
Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là
độc lập cho tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối vói các
dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cách tiếp cận từ quyền con người
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu
những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng pháp năm 1791 như quyền
bình đẳng, quyền được sống, quyền tựu do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “ Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái
quát lên chân lý bất diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “ Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng tự do”.
- Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi
chưa có độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc. + Năm 1919,
nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở
Hội nghị Vécxay (Pháp) mà ở đó Tổng thống Mỹ V.Wilson đã kêu gọi trao quyền tự
quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người yêu nước Việt Nam
tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, với
hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do dân
chủ cho nhân dân Việt Nam.
+ Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh xác định mục
tiêu chính trị của Đảng là:
“ Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến.
Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”
+Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị trung ương 8 Đảng, viết thư Kính cáo
đồng bào: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi
nước sôi lửa nóng”
+ Năm 1945, tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến mau lẹ, có lợi
cho cách mạng, trong nước nhân dân ta sống trong nỗi thống khổ, lầm than, vấn đề

6
giành được độc lập dân tộc được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó,
Hồ Chí Minh đã nêu lên quyết tâm phải đứng lên đấu tranh, giành bằng được độc lập
dân tộc, Người nói: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập” - Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên
quyết giữ vững quyền độc lập, tự do ấy:
+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bản Tuyên ngôn độc
lập, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
trịnh trọng tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào rằng: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”
+ Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh
khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp
xâm lược lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19 – 12 – 1946,
Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm bằng được nền độc lập dân tộc – giá trị
thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” Năm 1966,
khi quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ồ ạt vào miền Nam và gây chiến tranh phá hoại ở
miền Bắc, Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, trong đó đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân
tộc khát khao nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”.Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu,
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
1.1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
Nhân dân.

7
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Người đánh giá cao học thuyết “ tam dân“ của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc
lập,dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, nước nhà được độc lập, HồChí Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự
do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có ý nghĩa gì”. Dân chúng chỉ cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập,
tự do khi họ được ăn no, mặc ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực
hành dân chủ, quyền và nghĩa vụ của người công dân.Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh,
độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân. Ngay sau khi
cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân dân đói, rét, mù chữ,... Hồ
Chí Minh yêu cầu Chính phủ phải: “ Làm cho dân có ăn.Làm cho dân có mặc.Làm
cho dân có chỗ ở.Làm cho dân có học hành”.Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm
cho nhân dân, như Người đã từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một sự
ham muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là
mục tiêu tối thượng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
1.1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên
tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết
về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng..., thì độc lập
chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây, để bảo
vệ nền độc lập thực sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6 – 3 – 1946,theo đó: “Chính phủ Pháp công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình,
Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”. Đây là thắng lợi bước
đầu của một sách lược ngoại giao hết sức khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt nhưng có

8
nguyên tắc, một phương pháp biết thắng từng bước của Hồ Chí Minh và là một minh
chứng cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu
chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta
thành ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám,miền Bắc nước
ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm lược,
một lần thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị ”hòng chia cắt nước ta một
lần nữa. Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Hồ Chí
Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có
thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi !”. Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm
1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh
tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc
với một quyết tâm, ý chí sắt đá không gì lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy
của nhân dân ta”. Đến cuối đời, trong Di chúc của Người, Người vẫn đặt niềm tin
tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian
khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định
phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà ”. Thực hiện tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt
Nam đã tiến hành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập
dân tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ.

9
Vận dụng
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tầm nhìn độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay

2.1. Những thách thức và cơ hội cho Việt Nam trong thế giới đa dạng và biến đổi
Bối cảnh toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
của Việt Nam đã đem lại những thời cơ, vận hội, đồng thời cũng làm xuất hiện
cả những thách thức, nguy cơ thực sự đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là cần nhận diện rõ và
có những chiến lược hợp lý, tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ
nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong hội nhập và phát triển.
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia
trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến
sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa là một quá trình có
tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đem lại cả thời cơ, vận hội phát triển lẫn
thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường đối với các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa
liên quan chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng đối với quá trình hội nhập quốc tế
của các nước nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Về thực chất, hội nhập quốc
tế là tiến trình một quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự
giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…) dựa trên sự chia sẻ về
nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận,
tuân thủ, tham gia xây dựng các “luật chơi” chung, chuẩn mực chung trong khuôn
khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay cũng đang mở ra những
vận hội đi liền với những thách thức to lớn.
Những thời cơ, vận hội

- Thực tiễn vận động, phát triển của những xu thế lớn trên thế giới, đặc biệt là xu
thế hòa bình, hợp tác, phát triển, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam giữ
vững ổn định để phát triển đất nước

Bối cảnh mới làm xuất hiện nhiều xu thế mới đan xen nhau và có tác động sâu sắc
đến đời sống chính trị - xã hội thế giới. Có thể thấy, những xu thế đó là:

1- Xu thế hoà bình, hợp tác, hội nhập quốc tế lôi cuốn nhiều nước tham gia;

2- Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở
nhiều quốc gia, khu vực;

3- Xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế và khu vực;

10
4- Những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài nguyên biển, đảo ngày càng
phức tạp;

5- Xu thế dân chủ hoá rộng rãi đời sống xã hội thế giới;

6- Sự tồn tại và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại;

7- Sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa nước lớn, chiến
tranh thương mại…;

8- Xu thế nêu cao ý thức độc lập, bảo vệ lợi ích dân tộc của các nước;

9- Sự xuất hiện đa dạng, phong phú các mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa như là xu
thế tất yếu khách quan, tạo ra dấu hiệu khôi phục của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
một số quốc gia, khu vực.

Trong những xu thế trên thì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng hợp tác, tập hợp lực
lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xu thế hướng đến hòa bình
và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau, cùng nhau hợp tác nhằm tìm
kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh.
Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay chính là việc nhận thức sâu sắc và tận
dụng có hiệu quả những thời cơ ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, giữ vững hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ
của các lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội  kế thừa, tiếp thu, sử dụng những
thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là những
thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây rõ ràng là lợi thế của
những nước đi sau. Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế giới ngày nay càng rộng
lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động. Chúng ta có điều kiện để học hỏi,
tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới,
đặc biệt là những tri thức để phát triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản
phẩm toàn cầu. Qua đó, chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm,
ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao
động quốc tế.

- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu những giá trị
tinh hoa của nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc
trong xây dựng con người xã hội chủ nghĩa

11
Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng và rõ ràng, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thành công thì phải đặt con người vào vị trí trung tâm, phải có con người đạo
đức, trí tuệ với đầy đủ các phẩm chất cần có của con người xã hội chủ nghĩa. Chính
vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt đến con người, coi con người là
trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát triển và định hướng sự nghiệp xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn liền với xây dựng nhân cách phát
triển hài hoà, kế thừa truyền thống và hiện đại, vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Giá trị truyền thống có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển
nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên nhiều
phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu cực của toàn cầu hóa
và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới, gắn lý tưởng, ước mơ hoài
bão với hành động của con người hiện nay, nhất là thế hệ trẻ. Bối cảnh mới đang tạo
ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá trị truyền thống, tiếp thu có chọn lọc
những giá trị tinh hoa của nhân loại trong xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi
mới và phát triển.

Những thách thức, nguy cơ

- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn

Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, ngoài
phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế…
nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất công xã hội vẫn đang
diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã hội và nhất là
xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công bằng, dân
chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Các bất công ấy cùng với
những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số
biểu hiện như sự giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập
thể; gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các
giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc;...

- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá
nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước

Thông thường, “diễn biến hòa bình” được coi là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức, thủ đoạn mới, phi
quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

12
Tuy nhiên, bản chất thật sự của “diễn biến hòa bình” hiện nay là hoạt động của các
thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ chính trị
mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển hóa chế độ
chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ(1). Hiện nay, “diễn biến hòa
bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành, phương thức, nội dung,
mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “công nghệ”, đó là
“công nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của
công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo riết
tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường, thực tế đó
đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó và khắc chế cho
phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.

- Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để

Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã nêu những kết quả đạt được và ưu điểm trong xây dựng
đội ngũ cán bộ như sau: Đa số cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn
tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến
lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (2).

 Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự
vững vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây
có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa
nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số
cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu
tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc
quyền, đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân
sau”, sa vào “lợi ích nhóm”.

Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình thức mới, như
tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công tác cán bộ…

13
Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây bức xúc dư
luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây ra những
nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước,
gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và làm
xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng tham nhũng đang là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay,
nhưng cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn, gay go, đầy phức tạp.

Chính vì vậy, để khắc chế nguy cơ này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và chống, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả
những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí
rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực
xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống
của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế 

Toàn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế
số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tìm
cách truyền bá các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, lối sống của mình ra khắp
thế giới, với sự hỗ trợ đắc lực của các công cụ, phương tiện truyền thông đa nền
tảng, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa” của mình, làm phai nhạt các giá trị
truyền thống dân tộc. Nhiều phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng
xâm nhập, làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một
nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác
động tiêu cực của nó tới tầng lớp thanh niên và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm,
khó lường. Bởi lẽ, giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam đóng vai trò
quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải kết hợp
giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị truyền thống với việc tiếp
thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp hài hòa giữa
truyền thống và hiện đại trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đáp ứng
những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng

14
Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế giới từ trước
đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, bất cứ
khi nào mắc phải những lệch lạc và sai lầm trong giải quyết mối quan hệ này thì khi
đó phong trào cách mạng của mỗi nước cũng như của thế giới đều vấp phải khó
khăn, thậm chí là thất bại với những tổn thất hết sức nặng nề.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, hầu hết các chính phủ trên thế giới đều công
khai tuyên bố đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc,
giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc sẽ lại nổi lên, làm phân hoá các lực
lượng chính trị thành nhiều đội ngũ, đặc biệt là làm phân liệt phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, làm giảm sút tinh thần và sức mạnh chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng tiêu cực tới phong trào xã hội chủ nghĩa trên
thế giới. Cùng với đó, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt
phái cũng đang có xu hướng ngày càng gia tăng, tác động phức tạp đến đường lối,
chính sách đối nội và đối ngoại của nhiều nước, ảnh hưởng xấu, làm tê liệt truyền
thống, chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân trên phạm vi thế giới.

- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình,
ổn định để phát triển 

Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế -
chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay. Nguyên tắc “bất
biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, còn cách thức bảo đảm những nguyên tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng
biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển. Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế
hiện nay là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên,
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương
châm: Hòa nhập nhưng không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm
mưu thông qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.

Những thời cơ và thách thức, cơ hội và nguy cơ này luôn xuất hiện đan xen nhau và
việc nhận diện chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng những
quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt
Nam hiện nay, do đó, cần tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm
phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả là xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh 

15
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong xây dựng và phát triển
đất nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã
để lại nhiều tư tưởng có giá trị to lớn đến ngày nay, trong đó có tư tưởng về độc lập
dân tộc. Độc lập dân tộc một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của rất nhiều thế hệ người Việt Nam.
2.2.1. Phát triển kinh tế độc lập, tự chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại giao
Việt Nam hiện đại. Trên cương vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước, Người luôn
quan tâm chỉ đạo công tác đối ngoại, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy sức mạnh của
dân tộc, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các nước và nhân dân thế giới trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Xuất phát từ truyền thống ngoại
giao và thực tiễn Việt Nam, Người đề xuất và xây dựng nhiều nguyên tắc, quan
điểm, lý luận về thời đại, về đường lối quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của
Việt Nam. Tư tưởng độc lập, tự chủ trong đối ngoại và hợp tác quốc tế đã trở thành
“sợi chỉ đỏ” xuyên suốt các hoạt động đối ngoại từ khi lập quốc đến nay.

Những thành tựu quan trọng về kinh tế đạt được trong công cuộc đổi mới đã chứng
tỏ nhận thức và tổ chức thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là hoàn toàn đúng
đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: Phát triển kinh tế cần đi trước một bước và
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta.
Phát triển kinh tế là tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển văn hoá nhằm xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh
tế, ổn định. Theo đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến
năm 2020, Đảng ta xác định 5 quan điểm lớn như:
Thứ nhất, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là
yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Thứ hai, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Thứ ba, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Thứ tư, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

16
Từ các quan điểm trên, một số giải pháp để thực hiện phát triển kinh tế theo tư
tưởng Hồ Chủ tịch cũng được Đảng ta quan tâm chỉ đạo. Cụ thể như:
Một là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN phù hợp với điều
kiện mới của đất nước và tình hình thế giới; Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và nền văn hóa
XHCN tiên tiến đậm đà bản sắc Việt Nam.
Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò kiến tạo phát triển
thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp. Trong đó, bảo đảm:
- Giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của các thành
phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,
giữa chủ và thợ, giữa lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi
ích của Nhà nước, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế;
- Kinh tế nhà nước thực sự “giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và
chấp hành pháp luật”;
- Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp
luật; trong đó, cần đa dạng hóa các hình thức hợp tác phù hợp để gia tăng sản xuất,
phát triển sản xuất nhằm mang lại no đủ, giàu có, thịnh vượng, công bằng, tiến bộ,
hạnh phúc cho đa số nhân dân lao động;
- Các tổ chức xã hội có điều kiện hợp tác, hỗ trợ nhà nước, khi cần thiết có thể đấu
tranh với các thế lực tự phát của thị trường để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân…
Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận
thức lý luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức thực thi
để đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm những điều kiện tốt nhất trong nghiên cứu lý luận, trong
đổi mới tư duy về kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xây dựng và thực thi chính sách,
thể chế kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức, động lực và là giải
pháp chiến lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ XHCN trong
lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung, trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế trong nước và quốc tế đã và
đang có nhiều biến đổi, việc nhận thức đầy đủ và tiếp tục vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác KTQT không chỉ là yêu cầu mà còn là điều kiện
cần thiết để góp phần xây dựng nền kinh tế quốc gia vững mạnh, đáp ứng các yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Thực tế đã cho thấy, chỉ trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng đúng đắn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, mới có thể huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, từng bước đưa nước ta tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc trên con đường hội nhập

17
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Môi trường hòa bình thuận lợi
cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ
vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với
các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng; tích cực,
chủ động tham gia các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất
nước. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển
khai đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển mới. Nhận thức đúng về xu thế của thời
đại, về cục diện thế giới và khu vực, Đảng đã có định hướng sáng suốt và Nhà nước
đã có các chính sách đúng đắn và kịp thời trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân
tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề quốc gia - dân tộc - quốc tế đã tạo
được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.

Bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước
hiện nay vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, khu
vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn và tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực
diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Xu hướng dân chủ hóa đời
sống chính trị quốc tế, các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống,... đặt ra không
ít vấn đề liên quan đến độc lập, tự chủ của các nước, nhất là với những nước nhỏ,
đang phát triển.

Trong bối cảnh đó, chúng ta càng phải nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hợp tác và phát
triển.

Thứ nhất, giữ vững và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đặt
lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết.

Việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc của
đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới được coi là yêu cầu hàng
đầu và là kim chỉ nam trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đồng thời là
một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là
chính để quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa mang lại
hiệu quả cao, bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc
dân tộc, hội nhập mà không hòa tan, độc lập nhưng không đóng cửa, biệt lập với
hành trình phát triển của nhân loại.

Thứ hai, ra sức phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an
ninh, tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia  - dân tộc.

18
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực
là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” (3). Người đặc
biệt nhấn mạnh: Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Thực lực của ta là sức
mạnh tổng hợp mọi mặt gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại...  Theo đó, cần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế.
Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam;
sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền
an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Thứ ba, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới, coi đây là quy luật thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần,
truyền thống và hiện đại, là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính nghĩa
dân tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ vững
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Sức mạnh dân tộc Việt Nam được phát
huy ở mức cao trong thời đại Hồ Chí Minh đã đưa đất nước vượt qua những khó
khăn, thử thách hiểm nghèo.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát huy triệt để những thế
mạnh của chính mình, tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quan hệ
quốc tế. Tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi vừa góp
phần bảo đảm an ninh quốc gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để
kết hợp và bổ sung cho nội lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trong
quá trình ấy, cần nêu cao chính nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại, gắn kết sự nghiệp của đất nước với những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Để tận dụng được sức
mạnh thời đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm năng phát triển ở trong nước, cần
tranh thủ mọi hình thức tập hợp lực lượng và khai thác tính phụ thuộc và sự ràng
buộc lẫn nhau về lợi ích để thêm bạn, bớt thù, hạn chế sự chống phá và làm thất bại
mọi âm mưu của các thế lực bên ngoài gây mất ổn định và làm suy yếu đất nước.

Tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, cần nhìn nhận biện chứng trong sự đan xen và chuyển hóa lẫn
nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có những mâu
thuẫn với lợi ích của ta cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh; trong mỗi đối tượng
vẫn có thể có mặt đồng thuận cần hợp tác; tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với
tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh hợp tác tạo

19
thế đan xen lợi ích chiến lược giữa các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến
lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh
bị cô lập, lệ thuộc.

Thứ tư, tiếp tục đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác
nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc của nhau,
bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp đang tồn tại bằng biện pháp
hòa bình.

Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự
áp đặt, lôi kéo, chi phối mà còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong việc
tham gia vào các công việc chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Theo đó, để
giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hội nhập, chúng ta phải có tầm nhìn chiến
lược, khả năng bao quát và dự liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời luôn chủ động,
tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực
vào quá trình xây dựng thể chế và kiến trúc điều tiết quan hệ quốc tế.

Thứ năm, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước trong quá trình hội nhập và phát triển.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch
tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá, thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước càng cần được coi trọng. Đây là yếu tố bên trong quyết
định sự thắng lợi của cách mạng, sự phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước
trong hội nhập và phát triển song song với kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thì phải
tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, đồng thời ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; củng cố, tăng cường lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

2.2.2. Bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc trong xã hội

Bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc trong xã hội là một trong những yếu tố quan
trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng này nhấn mạnh sự quan trọng của vai
trò của dân tộc trong việc xây dựng và phát triển xã hội, và khuyến khích sự tham
gia tích cực của nhân dân trong mọi khía cạnh của cuộc sống đất nước. Dưới đây là
một số cách để bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc trong xã hội:

1. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của nhân dân: Để bảo vệ và nâng cao
vai trò của dân tộc, cần tạo ra môi trường thuận lợi để mọi người tham gia vào các

20
quyết định, đặt ra ý kiến, và tham gia vào các hoạt động xã hội và chính trị. Sự đa
dạng quan điểm và ý kiến của nhân dân cần được tôn trọng và khuyến khích.

Ví dụ: Hội nghị dân chủ cơ sở tại thành phố thủ dầu một (4)

Ở một thành phố đó, cơ quan chính quyền đã triển khai hội nghị dân chủ cơ sở với
sự tham gia của đại diện của các cộng đồng dân cư, đại diện từ các khu vực, làng
xóm, và các nhóm dân tộc thiểu số. Hội nghị nhằm mục đích đề xuất ý kiến và đưa
ra quyết định về việc sử dụng một khu đất cụ thể để xây dựng một khu công cộng
mới cho cộng đồng.

Trước hội nghị, các thành viên trong cộng đồng đã được thông báo rõ ràng và đầy
đủ về mục tiêu và lợi ích của dự án. Tại hội nghị, nhân dân được tự do đưa ra ý
kiến, đề xuất các giải pháp, và bày tỏ quan ngại của họ về việc sử dụng khu đất này.
Các đại diện của cộng đồng và chính quyền đã lắng nghe một cách tôn trọng và cân
nhắc các ý kiến này trong quá trình đưa ra quyết định cuối cùng.

Dựa trên ý kiến tham gia của nhân dân trong hội nghị, cuối cùng đã được quyết định
sử dụng khu đất đó để xây dựng một khu vui chơi, giải trí và thể dục công cộng, để
phục vụ tốt cho nhu cầu giải trí của cả cộng đồng. Quyết định này đã được thông
báo rõ ràng và minh bạch cho toàn bộ cộng đồng.

Việc triển khai hội nghị dân chủ cơ sở như trên đã tạo ra môi trường thuận lợi cho
sự tham gia tích cực của nhân dân trong việc đưa ra quyết định quan trọng liên quan
đến lợi ích của cả cộng đồng. Nhờ vào sự tham gia và đồng thuận của nhân dân,
quyết định được đưa ra đáp ứng đúng nhu cầu và mong muốn của cộng đồng, từ đó
tạo ra sự hài lòng và sự ủng hộ rộng rãi từ phía nhân dân.

2. Giáo dục và nâng cao ý thức: Bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc đòi hỏi
sự nâng cao ý thức và hiểu biết của mọi người về quyền lợi và trách nhiệm của họ
trong xã hội. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường nhận thức về
quyền và trách nhiệm công dân.
3. Khuyến khích tham gia vào các tổ chức xã hội: Việc khuyến khích nhân dân
tham gia vào các tổ chức xã hội, đoàn thể và hội đoàn là cách giúp họ tự tổ chức,
gắn kết và tăng cường tầm ảnh hưởng của mình trong xã hội. Điều này giúp họ có
tiếng nói và thể hiện ý kiến của mình một cách tổ chức và hiệu quả hơn.
4. Phát triển kinh tế và cải thiện đời sống: Bảo vệ và nâng cao vai trò của dân
tộc đòi hỏi phải có sự đầu tư vào phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của người
dân. Đảm bảo cơ hội việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và phúc lợi xã hội sẽ
giúp tăng cường vai trò của dân tộc trong xã hội.
5. Xây dựng và thực hiện chính sách bảo vệ các cộng đồng dân tộc thiểu số: Đối
với các cộng đồng dân tộc thiểu số, cần có các chính sách đặc thù và cụ thể để bảo

21
vệ và phát triển bền vững cho các cộng đồng này. Điều này đòi hỏi sự đồng tình và
hỗ trợ của cả xã hội.
6. Phát huy truyền thống văn hóa và đa dạng: Bảo vệ và nâng cao vai trò của
dân tộc cũng bao gồm việc phát huy và bảo tồn truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và
giá trị của mỗi dân tộc. Việc tôn vinh và tôn trọng sự đa dạng văn hóa trong xã hội
góp phần quan trọng vào bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc.

việc bảo vệ và nâng cao vai trò của dân tộc trong xã hội là một nhiệm vụ quan trọng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực, giáo dục và
đồng lòng của mọi người, đồng thời cần có sự quan tâm và đầu tư vào phát triển
kinh tế và cải thiện đời sống của người dân, đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của
họ được thực hiện một cách tự chủ và độc lập.
III. Tầm quan trọng và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong
giai đoạn hiện nay
3.1. Thực trạng hiện nay.

Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập
và phát triển.

Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ
cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn
giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân
dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao
trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những
năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ
ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững. Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm
cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Mặt khác, nước ta đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.

Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới có nhiều cơ hội để phát triển. Những cơ hội
tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách
mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài
học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp
đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép
nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,  xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực.

22
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó
khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ quan
liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm
tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm
mưu "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “ dân tộc”, “tôn giáo”
hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực
hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu. Khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.

3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự đoàn kết của dân tộc.

Hiên nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đại đoàn kết trong tình hình mới.  Qua hơn một phần tư thế kỷ thực hiện
công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước
hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các
hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã hội
được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Có
thể khẳng định chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng đã thực sự là một bộ
phận của đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào những thành quả của đất nước.
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
Nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và
chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những
diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống.
Nhân dân bất bình trước những bất công xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu,
lãng phí, v.v…Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do Đảng ta chưa kịp
thời phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội trong
quá trình đổi mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân để
kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp; có tổ chức đảng, chính quyền còn coi
thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận; ở không ít nơi còn tư tưởng định
kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc
của Đảng; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, v.v…

23
không thực hiện được vai trò tiên phong gương mẫu. Mặt khác, các thế lực thù địch
ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân
chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ
đảng, nhà nước và nhân dân ta. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay
là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Một là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể
tách rời của cách mạng thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ các
phong trào cách mạng, các xu hướng trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy
sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên 
ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ 

3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò quốc tế của Việt Nam.

Nhân dân Thủ đô Warsawa nhiệt liệt chào đón Chủ


tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Cộng hòa nhân
dân Ba Lan (năm 1957)_Nguồn: hochiminh.vn

Đại đoàn kết dân tộc - Cội nguồn sức mạnh của đất nước là yếu tố quyết định cho
phát triển. Một trong những kẻ thù của chúng ta hiện nay là sự nghèo nàn, lạc hậu.
Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có
thể góp một phần vào việc chống kẻ thù đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ
của chúng ta.

24
Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục
hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành
phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng vn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới,
khép lại quá khứ, hướng về tương lai,v,v., đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội
lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về
mọi mặt.

Bây giờ, chúng ta đã có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và đang trên đường
tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức
cảm hóa, thuyết phục  nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ
thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra
thù hận. Nếu dùng cách đối thoại, thuyết phục, cảm hóa để giải quyết thù hận thì có
thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.  Nhìn ra
thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài
nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có
thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân


Phúc ghi sổ lưu niệm tại cuộc gặp Tổng thư ký Liên
hợp quốc Antonio Guterres ở trụ sở Liên hợp
quốc, New York (Mỹ)_Ảnh: TTXVN

 Nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến lược hội nhập quốc tế trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, trong thời kỳ đổi mới, xác định đúng các dòng chảy của thế giới trong xu
thế toàn cầu hóa, Việt Nam đã thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trên nguyên tắc bao trùm và
cũng là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống
nhất và chủ nghĩa xã hội. Chính từ chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập

25
quốc tế, nước ta từng bước vượt qua tình trạng bị bao vây, cấm vận, thiết lập quan
hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có tất cả các nước lớn,
tham gia các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, như Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên hợp
quốc..., phát huy vai trò tích cực, chủ động trong mọi hoạt động tại các thể chế đa
phương.

Sau thống nhất đất nước năm 1975, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều chuyển
biến sâu sắc, tạo ra những thời cơ và thách thức lớn đối với Việt Nam. Trong bối
cảnh đó, Đại hội VI của Đảng ta (năm 1986) đã đề ra đường lối, chủ trương đúng
đắn, với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc
tế trên tinh thần giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc. Trong xu thế hòa bình, hợp
tác và phát triển của thời kỳ quá độ, đổi mới, kiên định chiến lược hội nhập quốc tế
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta luôn quán triệt và thực hiện bài học
kinh nghiệm lớn “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế”. Trong đó, để tận dụng sức mạnh thời đại, Đảng, Nhà
nước ta chủ trương “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;... nâng cao vị thế, uy tín của
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”

Với phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vị thế của nước ta ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế, đạt  nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh
vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Điều này một lần nữa khẳng định, trong
bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử, nếu nhận thức đúng và nắm bắt được xu thế phát
triển, các dòng chảy của cách mạng thế giới, gắn mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta
với các quốc gia, dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội, thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng cách mạng
và tiến bộ trên thế giới; ngược lại với xu thế trên, sẽ khó thành công.

Lịch sử cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập quốc tế đã phát huy hiệu quả
to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của
nhân dân thế giới. Ngày nay, mặc dù quan hệ quốc tế và tình hình Việt Nam đã thay
đổi căn bản, nhưng những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hội
nhập quốc tế vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa chiến lược, tiếp tục được quán triệt
và thấm sâu vào mọi chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt
Nam, tạo nền tảng vững chắc cho nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng, hiệu quả.

3.4. Di sản và giá trị tiếp tục phát huy trong giai đoạn hiện nay.

26
Tuyên Quang là tỉnh miền núi, giàu truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, nơi
diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của cách mạng, dân tộc. Với 658 di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, 425 di sản văn hóa phi vật thể của các
dân tộc, tỉnh Tuyên Quang xác định văn hóa là nguồn lực quan trọng thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.

Là địa bàn sinh sống của 22 dân tộc, tỉnh Tuyên Quang có nhiều di sản văn hóa vô
cùng độc đáo của các dân tộc Kinh, Tày, Dao, Cao Lan, Mông, Pà Thẻn, Nùng, La
Chí, Sán Chỉ... Từ năm 2012 đến nay, tỉnh đã tiến hành lập 15 hồ sơ di sản văn hóa
phi vật thể, hiện đã có 10 di sản văn hóa phi vật thể được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có nhiều di
sản đặc sắc, gồm: Lễ hội Lồng Tồng, hát Then của dân tộc Tày; hát Páo Dung và lễ
Cấp sắc của dân tộc Dao; hát Soọng Cô của dân tộc Sán Dìu; hát Sình Ca của dân
tộc Cao Lan; Lễ hội rước Mẫu đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La, thành phố Tuyên
Quang; nghệ thuật trang trí trên trang phục truyền thống của người Dao Đỏ... Đặc
biệt, tỉnh Tuyên Quang được giao chủ trì, phối hợp với 10 tỉnh (Hà Giang, Cao
Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lai
Châu, Điện Biên) xây dựng hồ sơ và đề nghị Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn
hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận “Thực hành Then của người Tày,
Nùng, Thái Việt Nam” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tuyên
Quang cũng là nơi còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc cổ, trong đó bia Bảo Ninh
Sùng Phúc được công nhận là bảo vật quốc gia, cùng nhiều di tích được xếp hạng là
di tích quốc gia, như Thành Tuyên Quang, thành Nhà Bầu, đền Hạ, đền Thượng,
đền Ỷ La, đền Pú Bảo, chùa Lang Đạo...

Tỉnh luôn quan tâm, chú trọng phục dựng, duy trì và phát triển các lễ hội truyền
thống của đồng bào các dân tộc. Toàn tỉnh hiện có 46 lễ hội, trong đó có 42 lễ hội
truyền thống, 4 lễ hội văn hóa. Nhiều lễ hội được nghiên cứu, phục dựng và tổ chức
quy mô, bài bản, như lễ hội Lồng Tồng, lễ hội cầu May, lễ hội cầu Mùa của dân tộc
Tày; lễ hội Đầm Mây của dân tộc Dao; lễ hội đình Như Xuyên, đình Giếng Tanh,
đình Song Lĩnh, đình Minh Cầm của dân tộc Cao Lan; lễ hội Nhảy lửa của dân tộc
Pà Thẻn... Đặc biệt, từ năm 2014 đến nay, tỉnh duy trì tổ chức Lễ hội Thành Tuyên -
một lễ hội đặc sắc, do chính nhân dân Tuyên Quang khởi xướng, phát huy và duy trì
từ nhiều năm nay, được sách Kỷ lục Guiness Việt Nam công nhận là “Lễ hội có
nhiều mô hình đèn lớn nhất Việt Nam”. Lễ hội Thành Tuyên góp phần nâng cao đời
sống tinh thần của trẻ thơ và trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc, ấn tượng, hấp dẫn,
riêng có của tỉnh Tuyên Quang, thu hút đông đảo nhân dân, du khách trong nước và
quốc tế.

Cùng với đó, tỉnh cũng thường xuyên quan tâm, hỗ trợ, tổ chức phong trào văn hóa,
văn nghệ quần chúng, góp phần phát huy truyền thống đoàn kết, thúc đẩy môi

27
trường sáng tạo và truyền bá nghệ thuật trong cộng đồng dân cư. Hiện nay, 138/138
xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh có đội văn nghệ quần chúng; trên 2.600 đội văn
nghệ quần chúng thôn, bản, tổ dân phố và các cơ quan, đơn vị, trường học, lực
lượng vũ trang; trên 200 câu lạc bộ đàn hát dân ca và bảo tồn văn hóa dân tộc; trên
70 câu lạc bộ hát Then - đàn Tính; 6 câu lạc bộ hát Páo Dung của dân tộc Dao; 13
câu lạc bộ hát Sình Ca của dân tộc Cao Lan... Bên cạnh các câu lạc bộ bảo tồn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, toàn tỉnh hiện có 2 nghệ nhân nhân dân và 8 nghệ nhân
ưu tú, là những người nắm giữ, thực hành và truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể,
có nhiều nỗ lực cống hiến, góp phần tích cực trong công tác bảo tồn và phát huy giá
trị các di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc trong cộng đồng. Chú trọng xây
dựng không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tạo điều kiện cho các di sản văn hóa
có môi trường tốt nhất để duy trì, phát triển. Giai đoạn 2015 - 2020, tỉnh chủ trương
xây dựng nhà văn hóa thôn, tổ dân phố gắn với sân thể thao và khuôn viên, theo
phương châm “Nhà nước hỗ trợ, nhân dân làm”. Đến nay, đã xây dựng được 1.183
nhà văn hóa; phấn đấu đến năm 2025 toàn tỉnh có trên 1.400 nhà văn hóa, thôn, tổ
dân phố đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đạt trên
80%.

Từ những thông tin trên, ta thấy rõ ràng tầm quan trọng và ảnh hưởng của tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự đoàn kết của dân tộc trong thực tế của tỉnh Tuyên Quang hiện
nay. Dưới đây là một số điểm nổi bật:

1. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đa dạng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
đoàn kết của dân tộc đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa đa dạng của 22 dân tộc sinh sống tại tỉnh Tuyên Quang. Việc xây dựng và
phục dựng các lễ hội truyền thống, hát Then, hát Páo Dung, hát Sình Ca và nhiều di
sản văn hóa khác giúp duy trì và truyền bá những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân
tộc này.
2. Góp phần vào công tác công nhận di sản văn hóa quốc gia: Từ năm 2012
đến nay, tỉnh Tuyên Quang đã lập nhiều hồ sơ và đưa vào danh mục di sản văn hóa
phi vật thể quốc gia nhiều di sản văn hóa đặc sắc. Đặc biệt, tỉnh được giao chủ trì
xây dựng hồ sơ và đề nghị UNESCO công nhận "Thực hành Then của người Tày,
Nùng, Thái Việt Nam" là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Việc này
chứng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về sự đoàn kết của dân tộc đã được chuyển hóa vào
công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đa dạng của cả nước.
3. Xây dựng không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng: Từ giai đoạn 2015-
2020, tỉnh Tuyên Quang chú trọng xây dựng không gian sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, tạo điều kiện cho di sản văn hóa có môi trường tốt nhất để duy trì và phát
triển. Việc xây dựng nhà văn hóa thôn, tổ dân phố gắn với sân thể thao và khuôn
viên theo phương châm "Nhà nước hỗ trợ, nhân dân làm" là một ví dụ rõ ràng cho
việc thúc đẩy sự đoàn kết và phát huy giá trị văn hóa của cộng đồng.
4. Phát triển du lịch văn hóa và sự đoàn kết trong cộng đồng: Lễ hội Thành
Tuyên là một ví dụ điển hình về việc góp phần nâng cao đời sống tinh thần của trẻ

28
thơ và trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc, ấn tượng, hấp dẫn thu hút đông đảo du
khách trong nước và quốc tế. Việc duy trì và tổ chức quy mô lễ hội này cũng cho
thấy sự đoàn kết và ủng hộ của cả cộng đồng đối với các hoạt động văn hóa.

Tổng quan, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự đoàn kết của dân tộc vẫn rất hiện hữu và có
ảnh hưởng tích cực trong thực tế của tỉnh Tuyên Quang. Việc duy trì, phát huy và
phát triển di sản văn hóa đa dạng của các dân tộc, cùng với việc thúc đẩy hoạt động
văn hóa, du lịch và công tác bảo tồn đã đóng góp quan trọng vào việc tạo dựng môi
trường sống đoàn kết và phát triển bền vững cho cộng đồng dân cư của tỉnh Tuyên
Quang. Đồng thời là nền tảng cho sự phát huy tinh thần độc lập của dân tộc ta, một
ý chí phấn đấu với những công lao, những nền tảng văn hóa giữ vững nền độc lập.
IV. Nhìn về tương lai
4.1. Định hướng phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong tương
lai
4.2. Ghi nhận những học bổng từ quá khứ và vận dụng vào tương lai

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT:
(1) Xem: GS.TS.Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn Hiền,
PGS.TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi
mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 732

(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 147

TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN:


1.2013. Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đọc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
<https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-quoc-gia-thanh-pho-ho-chi-
minh/ho-chi-minhs-thoughts/chuong-3-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-
va-chu-nghia-xa-hoi/15489051>
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021. Những thách thức và cơ hội cho Việt Nam
trong thế giới đa dạng và biến đổi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

29
https://btgtu.thanhhoa.dcs.vn/portal/pages/2021-6-22/Thoi-co-va-thach-thuc-tu-
nhung-bien-chuyen-cua-tinafjp743u9qmw.aspx
3.6/7/2021. phát triển kinh tế độc lập tự chủ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh .https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/823631/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap%2C-tu-chu-trong-doi-
ngoai%2C-doan-ket-quoc-te-va-viec-van-dung-trong-tinh-hinh-hien-nay.aspx
4.Ví dụ bảo
b vệ và nâng cao vai trò của dân tộc trong xã hội.
https://thudaumot.binhduong.gov.vn/chi-tiet?id=ART230700000070
5. tapchicongsan,15/10/2021.Tư
tapchicongsan,15/10/2021. tưởng Hồ Chí Minh và vai trò quốc tế của Việt
Nam .https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/824190/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-hoi-nhap-quoc-te--nhung-gia-tri-
ben-vung-soi-sang-su-nghiep-cach-mang-viet-nam.aspx
6. Di sản và giá trị tiếp tục phát huy trong giai đoạn hiện
nay .https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/
2018/825935/bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-cac-di-san-van-hoa%2C-chuyen-hoa-
thanh-nguon-luc-quan-trong-cho-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-tinh-tuyen-quang-
trong-giai-doan-moi.aspx

30
31
32
33
34
35

You might also like