Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 150

PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

DƯỚI MẮT THIỀN SƯ


DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH
VŨ TRỤ VÀ CON NGƯỜI

LONG HOA HỘI THƯỢNG. THỜI HAI


LỜI DẪN NHẬP

Dưới mắt Thiền Sư, vũ trụ đối với con người cùng vạn vật, từ hình sắc đến chưa
hình sắc thảy đều được nhiếp thu sắp xếp nơi hàm chứa trong kho tạng. Vũ trụ trợ
giúp cho con người cùng các sinh vật có cái nghe thấy biết tinh nhuệ thần thoại siêu
nhiên, siêu Tiên Thần mà chính con người cùng các nhân loại không hiểu chi cả, ngỡ
nơi ấy là của mình. Thân mạng con người, khi kết hợp đầy đủ liền có cái nghe thấy
biết làm đường dây liên lạc giữa con người với vũ trụ, sự tương quan mật thiết, nơi
khẽ động giao cảm trong con đường dây ấy không sai chạy, có những gì vũ trụ diễn
tiến, vũ trụ phát sinh, vũ trụ hóa giải thảy đều tương ứng nơi con người với vũ trụ.
– Thiền Sư Bồ Tát Di Như.
MỤC LỤC
DƯỚI MẮT THIỀN SƯ
1. ĐỐI VỚI VŨ TRỤ................................................................................................1
A. VŨ TRỤ LÀ MỘT KHO TẠNG HÀM CHỨA.............................................12
B. VŨ TRỤ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI............................................................12
C. THỂ CHẤT CÙNG TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG ĐỒNG NHẤT.....................19
D. TIỂU NGÃ CỦA CÁC ÔNG TRẢI KHẮP VŨ TRỤ...................................21
E. XUẤT ĐỊNH NHẬP CẢNH TÙY THUẬN THEO TIỂU NGÃ...................22
2. NHÀ THIỀN SƯ KHI TÌM ĐẶNG....................................................................34
3. CHÂN LÝ LÀ MÓN ĂN THẬT THỂ................................................................37
4. THIỀN SƯ HẠ SANH NĂM 1918.....................................................................39
A. VÙNG THÁI DƯƠNG HỆ............................................................................41
B. THẾ NÀO LÀ CÁI THẤY QUÂN MINH ĐỒNG ĐẲNG?..........................45
C. BÁT NHÃ TÂM KINH ẤN CHỈ...................................................................46
5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐÃ TỪNG SÁT THẬT..............................................47
6. KỶ NIỆM MÙA KIẾT HẠ NĂM ẤT SỬU, 1985.............................................48
7. KHI BẤY GIỜ THIỀN SƯ NHẬP XONG CHÁNH ĐỊNH..............................53
A. THẾ NÀO LÀ TỨ HẠNH?............................................................................60
8. KỶ NIỆM NGÀY KHAI NGUYÊN PHÁP TẠNG, 12-1 BÍNH DẦN, 1986
...........................................................................................................................................62
A. THẾ NÀO LÀ BA LỐI NHIẾP THÂU?........................................................63
9. TRÍ HOÁ LÀ CHÚNG SANH VỌNG TƯỞNG ĐIÊN ĐẢO............................68
10. BẠCH THƯỢNG SƯ TRƯỚC KIA CHÚNG CON CHƯA RÕ VÔ MINH
...........................................................................................................................................70
a. THẾ NÀO LÀ CHỔ ĐẾN CHỐN VỀ?..........................................................71
b. NƠI THIỀN TRÍ NHƯ THẾ NÀO?...............................................................71
11. ĐẾN NAY NHÀ THIỀN SƯ HIỀN TRIẾT.....................................................73
12. THIỀN SƯ VỪA TĨNH TỌA XONG...............................................................76
13. BẬC NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ..........................................................................80
14. BỒ TÁT GIẢI NÓI XONG ÊM LẶNG............................................................83
15. HÔM NAY ĐÚNG BẢY NGÀY......................................................................86
16. THIỀN SƯ TỪ MÁI CHÙA TÂY BƯỚC RA.................................................88
17. THIỀN SƯ TĨNH TOẠ XONG........................................................................91
DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH VŨ TRỤ VỚI CON NGƯỜI
1. TẬP DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH VŨ TRỤ VỚI CON NGƯỜI.............................96
2. TÓM LƯỢC......................................................................................................100
3. BẢN NĂNG KHẢ NĂNG CON NGƯỜI........................................................101
4. ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI.......................................................................102
5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐỐI VỚI VŨ TRỤ....................................................105
6. VŨ TRỤ LÀ MỘT KHO TẠNG HÀM CHỨA...............................................117
7. VŨ TRỤ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI.....................................................................118
8. THỂ CHẤT CÙNG TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG ĐỒNG NHẤT.......................124
9. TIỂU NGÃ CỦA CÁC ÔNG TRẢI KHẮP VŨ TRỤ......................................127
10. XUẤT ĐỊNH NHẬP CẢNH TÙY THUẬN THEO TIỂU NGÃ...................127
11. THỂ CHẤT TÁNH CHẤT NGUYÊN TINH NHƯ THẾ NÀO?...................130
12. BẬC THÁNH TĂNG THOÁT SANH NHƯ THẾ NÀO?.............................140
13. DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH CON NGƯỜI VỚI VŨ TRỤ..................................145
1. ĐỐI VỚI VŨ TRỤ
Khi Thái tử Tất Đạt Đa, Ngài đứng ngoài tất cả các Tôn Giáo Triều Đại và con
người, Ngài nhìn tất cả quán sát quân minh trực giác Vũ Trụ với con người Sở Đắc
Thiền Trí. Ngài mới nói: Lạ thật, lạ thật, chưa phải ta vứt bỏ vật chất, nhịn đói tạo lấy
tinh thần mà đặng. Cũng chẳng phải xa lìa tinh thần sung mãn vật chất mà đủ. Vật
chất với tinh thần phải quân minh, nơi nhìn không nặng nhẹ thời chốn thấy mới Hoàn
Lai. Cái nhìn nó như vậy, cái thấy thực thể hoàn lai. Chính đó là: Như Lai Nhãn
Tạng. Ngài đoạt đặng Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, Ngài rời Cây Bồ Đề, thành lập
pháp môn Như Lai Nhãn Tạng, gọi là Như Lai Thiền trong đạo tràng Phật Đạo.
Môn Thiền là một môn, Đạo Phật dùng để hóa giải tư tưởng, hóa giải ý thức hệ
đến Tạng Thức làm cho con người đặng hiểu biết nhìn nhận Vũ Trụ với con người rất
tương quan Vô Kể, nhìn đặng tất cả những gì Vũ Trụ linh động di chuyển. Con người
là dụng cụ là bộ máy cho Vũ Trụ điều khiển.
Lấy chứng từ nào để hiểu biết đặng sự hóa giải tư tưởng, hóa giải ý thức đến
Tạng Thức.
Khi con người biết đặng chữ A, chữ A đứng yên nó là chữ A. Nếu biết chữ B,
nó đứng yên vẫn chữ B. Bằng lìa đứng yên nơi nó, đem chữ A ráp cùng chữ B liền
hóa thể thành chữ Ba, tư tưởng cùng ý thức đứng yên không tiến bộ lại làm cho con
người sống theo ý thức tư tưởng cố định quan niệm nơi mình, nên chi Thiền Môn
Đạo Phật là dụng cụ phương pháp hóa giải ý thức, hóa giải tư tưởng nếu con người
biết nhận định rộng rải, có Kiến Thức nghiên cứu liền dùng môn Thiền để từ nơi tư
tưởng Ý Thức đến Tạng Thức tỏ rõ Vũ Trụ Quan, được gọi là Như Lai Tạng cũng
thế.
Do nơi quan niệm khác biệt của con người, bởi con người sống trong ý thức hệ
mà phân chia ra từng danh từ theo danh từ quan điểm nên chướng đối với nhau. Từ
vật chất đến tinh thần bàn cải trở thành Duy Vật và Duy Tâm, từ Khối Đông Phương,
Tây Phương có hai đích suy tầm khác biệt. Nhà Triết Học Tây Phương với triết học
Đông Phương chưa đặng thấu nhau giao cảm nhau, vì sao? Vì Đông Phương tự sưu
tầm riêng mỗi vị đoạt đến Ấn Chứng Sở Đắc tuyên bố truyền trao, nên phải dụng nơi
Tin về tinh thần tu chứng. Còn Tây Phương lấy chứng từ thực nghiệm chung nhau
một khối, lớp này sưu tầm thực nghiệm đặng, nếu chưa hoàn tất thời lớp sau tiếp tục
thực nghiệm, nên Tây Phương nhìn có sự kết quả con người nhìn thấy, nhưng về sau
thường bị hủy diệt. Còn Đông Phương thời tồn tại nhưng khó phát sanh. Vì sao? Vì
con người rất hiếm bậc sống động hướng thượng để thi hành, trong đời chẳng biết
bao nhiêu tài liệu ghi chép hữu ích cho con người, chẳng biết bao nhiêu sự bày tỏ chỉ
dạy cho con người vào hàng Siêu Nhân Thánh Triết. Nhưng con người nào có nghe,
họ chỉ nghe những lời không hữu ích, họ tôn thờ những cái vu vơ. Những điều vô căn
cứ, họ xem những lối ấy là bảo vật, vì vậy nên chi Bậc Thánh nói cho con người nghe
được thật là công năng quá kể. 
1
Đạo Phật đứng trong Hoàn Cầu con người đa số đã biết, nhưng rất hiếm bậc
biết đặng Đạo Phật đứng ra ngoài tất cả để kết quả, tất cả Đạo Phật đã từng thực hành
trước mọi hoàn cảnh của con người, mức sống bằng tư tưởng tinh thần hay lao động
tận lực vật chất, lối sống khắc khe làm nên sự nghiệp hay lối sống giúp mọi người mà
giàu có. Đạo Phật hướng dẫn cho con người vào từng lớp để tỏ biết gọi là Hành Thâm
Pháp Giới. Lời nói trên duy chỉ có: Dưới mắt Thiền Sư mới nhận định đồng thời nhìn
thấy đặng chân thật mà thôi, ngoài ra còn cá tánh khó mà thấy đặng. 
Đạo Phật thật biết rõ con người nơi bản thân mình như: Chính Mình Tin Đặng
Mình thật khó, nên Đạo Phật dạy con người có một Chữ Tin. Còn tất cả bắt buộc con
người phải Tin, hoặc ảo thuật cho người Tin đó là những điểm dưới mắt Thiền Sư
biết. 
Theo câu nói trên: Chính mình Tin đặng mình thật khó. Vì sao? Vì con người
phát sinh cuồng tưởng đảo điên, cuồng tưởng nơi con người ai ai cũng đều có, từ
người này phát sinh đến kẻ kia phát sinh, do đó mà đứng trên hoàn cầu xã-hội con
người đối với con người, sự xáo động nhiều hơn yên tĩnh, cuộc loạn lạc nhiều hơn
thanh bình. Nếu dùng Thần Thánh Hóa, thì con người nó sợ hơn là nó thi hành đến
đích. Thần Thánh hóa đối với Đạo Phật chưa phải là mục đích của Đạo Phật hóa giải
mê tín đem con người đến Chánh Tín. Nên chi Đạo Phật dạy con người có một chữ
Tin liền đến đích thành Phật.
Tất cả con người thời này gọi là Mạt Pháp, nhưng đối với Đạo Phật khai sáng
tự bản thân con người mà ra, khai sáng từ nơi lầm lẩn đến chỗ tỏ giác thì làm gì có
câu chuyện Mạt Pháp. Duy chỉ con người đứng theo tư tưởng quan niệm mình để
thực hành đường lối Đạo Phật bị sai lạc nên mới có tình trạng ngày nay lạc hướng tu
sai, tu theo quan niệm mình, lấy lý trí nơi mình định đoạt chiều hướng Đạo Phật, cho
Đạo Phật là Duy Tâm, nếu Đạo Phật là Duy Tâm sao Phật bảo lìa Tâm mới giác,
bằng Đạo Phật đảm phá Duy Vật tại sao Đạo Phật không cho Tín Chúng ngồi yên,
bảo tín chúng nên thi hành Hạnh Nguyện, Phật nói: Lý Sự Tương Song Chân Nguyên
Trực Giác như thế có phải Đạo Phật chung gồm tất cả cốt tận giác tất cả chăng?
Nói đến tư tưởng quan niệm sai của con người đối với Đạo Phật thì vô kể, nói
đến bản năng ưa chuộng ngồi yên của con người thì đa số có như thế nên mới có
những bậc tự cải tạo mình, tự nung đúc bản năng khả năng nơi mình trở thành Công
năng vượt qua tất cả mọi trở lực trên hết con người mà trở thành Siêu Nhân, có bậc
vượt trên hết con người giúp đở cho con người mới đặng Thánh Hiền, nếu con người
ai ai cũng đều biết gía trị nơi vươn mình vượt lên tất cả trở thành cao qúi giá trị
Thánh Nhân thì tất cả đều thành Thánh còn đâu con người để mà nói.
Dưới mắt Thiền Sư đã nhận Thấy Biết đối với con người thảy đều không chủ
định, nếu bậc đã có Chủ định thời bậc này đã có nhã ý quán sát Vũ Trụ với con
người. Dưới mắt Thiền Sư đã thấy biết, nếu kẻ hay bảo thủ bản thân, bảo thủ phe phái

2
không làm ích lợi cho con người thì con người kia tự mình hủy diệt lấy nó, còn bị Vũ
Trụ sai khiến lắm điều mà ngỡ mình làm chủ.
Dưới mắt Thiền Sư đã thấy thân con người là một Bộ Máy rỗng không, chỉ có
nhìn trên ngó dưới Nghe Thấy Biết tiếp nhận mà Phát Thanh ra để mọi người nghe,
ngỡ là của mình. Nên Thiền Sư nói: Nó Vô Ngã nó nào chịu nó Vô Ngã (Không Ta)
vì nếu nó Vô Ngã thì lấy đâu nó sống? Nó có ngờ đâu nó là dụng cụ của Vũ Trụ, nó
tin lời nói của Thiền Sư, nó gạt lối bảo thủ, lối hiểu biết riêng nơi nó từ bấy lâu nay,
đặng lần tiến thâu nhận những gì nó chưa biết, đặng biết những gì khó nghe nó cố
gắng nghe, để sự hiểu biết ấy thông đạt, nó liền đoạt đến Vũ Trụ làm cái biết nơi nó.
Chừng đó nó mới nhận định được cái hiểu biết kia chính là hiểu biết Vũ Trụ lần đưa
đến con người hiểu biết chớ không phải hiểu biết nơi con người hiểu biết. Nếu con
người tự xưng chính mình hiểu biết thời chưa biết chi cả.
Dưới mắt Thiền Sư đã biết đặng, cái ta chính nó chung cùng trùm khắp Vũ
Trụ. Thân con người bị giả hợp tạo thành làm nên Ứng Thân cho Vũ Trụ. Con người
lầm ngỡ thân con người là cái ta chính gốc, nên mới có giữa đôi bên chẳng hòa hợp
mức sống Diệt Sanh. Thiền Sư biết như thế khó chỉ thẳng cho con người nên nói: 
Nếu Ta cho Vũ Trụ là Khách Quan thì Vũ Trụ cho ta là Quan Khách. Bằng Ta
biết Vũ Trụ, Vũ Trụ đồng cái biết với Ta. Đạo Phật nói: Tâm Pháp Bất Nhị, gọi là cái
biết nơi ta. Trong ngoài đồng nhất, con người giao cảm với thiên nhiên Vũ Trụ thông
thường tại con người chưa biết. Khi có bậc chỉ hiểu biết nơi tư tưởng ưa thích thoát
sanh khỏi trái đất, đặng lên Cảnh Giới Tiên Thần hay Cõi Trời. Sau có sự kết quả
theo chí nguyện, mới để tài liệu các Tôn Giáo Đạo Giáo đã nói trên nó chính sự thật
hiển nhiên chớ chẳng phải thần thoại chi cả vì đối với Đông Phương sự Tu Chứng
riêng nơi mỗi vị, làm kết quả tùy công năng mỗi người thành thử có những điều con
người khó tìm thấy đặng. 
Cái Thấy Biết, dưới mắt Thiền Sư không khác nào con người đang mang Kính
Hiển Vi, thấy những loài sâu bọ nhỏ nhất, thân thể sâu bọ ghê tởm nhất mà con người
không thể nào nhìn thấy đặng. Cái Thấy nơi Thiền Sư nó rất tế nhị mà rất thật, thấy
trong không khí có thực chất Đất, Nước, Lửa, đồng thời có đủ phẩm chất các màu sắc
như: xanh - đỏ - tím - vàng cùng hàng ngàn màu sắc thực chất phẩm chất đang quay
cuồng với nhau, kết nạp lẫn nhau tùy nơi đồng hợp của nó, liền đồng hóa đủ với các
loài cây, cỏ hoa trái. Chúng liền đến kết nạp chung với cây trái, hoa lá mà trở thành
màu sắc con người đã nhìn thấy trong cảnh vật này vậy. Khi con người muốn lấy các
màu sắc ấy không lấy đâu mà có chỉ lấy lại trong cây mà ra, đến nay khoa học đã
thực hiện đặng.
Nơi Thấy Biết, dưới mắt Thiền sư, thấy biết đặng tư tưởng, có hàng một tư
tưởng cho đến năm mười tư tưởng trong ngày, tư tưởng phát sinh dài ngắn tùy theo
tưởng, tùy theo mức độ của con người, tùy theo sở thích hoặc chưa sở thích nó phát
sinh, nhưng mỗi tư tưởng đều có một mục tiêu hướng dẫn tư tưởng đó, còn phần phụ
3
thuộc tánh chất của tư tưởng có hàng vạn chất phối hợp trong tư tưởng. Khi con
người kết nạp tư tưởng để phối hợp tư tưởng gọi là: Định Tưởng nơi định tưởng nó
tùy theo sự mong mỏi, tùy theo sự khám phá những gì mà con người chưa hiểu biết
đang vướng mắc nơi thâm tâm, cốt đem lại nơi giải đáp thoải mái con người. Con
người thường dùng tư tưởng nung đúc tinh thần phát sanh ra cảnh giới sau lúc mạng
chung đặng về trong Cảnh giới đó. Đó chính là một tư tưởng khẳng định, tư tưởng
khẳng định tu Tiên Thần vốn thi hành theo chiều hướng này mà đến kết quả. Bậc
Thiền Sư thấy biết tư tưởng nương theo tư tưởng sát thật chân đế tư tưởng, biết tỏ rỏ
vốn nó thường tưởng lại hay trú mà trở thành chúng sanh giới. Thiền Sư biết tỏ rỏ,
thấy vững vàng không cố định, chỉ quán xuyến để giúp con người đồng thời cứu ngay
bản thân Tự Ngã chính mình, gọi là Chánh Định Tam Muội.
Khi Thiền Sư nơi Nghe - Thấy - Biết chân thật không Hai Tướng mới tỏ rỏ
Như Tướng, thời dưới mắt Thiền Sư đã từng thấy. Linh Hồn trùm khắp Hư Không
Vũ Trụ Giác Linh cảm ứng nơi Linh Hồn, con người chưa nhận định đặng nơi tư
tưởng khởi sanh, phải lần theo khởi sanh khởi diệt tỏ thấu tư tưởng Bất Diệt mới có
Cảm Ứng Linh Hồn cũng thế.
Trong câu chuyện Linh Hồn, chính là một phương thức khó giải, Vì sao? Vì
linh hồn kết nạp, tạo thành đầy đủ mới hiện sinh, nên khó giải, nó không khác mấy
với Nguyên Lực Điện Tử, nên chi có vị Thiền Sư nào chăng nữa giải nói đến Linh
Hồn Chân Đế, thì sự kia cốt cho con người có cảm giác, chớ chưa thể nào nhận đặng,
vì sự nhận chưa đồng, trình độ chân giác chưa có thành thử chưa chung một lối thấy,
chỉ dùng cái nghe thêm nơi đó, có cái Tin lời nói, để tạo thành đôi mắt Thiền Sư,
chừng ấy mới tin Thiền Sư đã chỉ về Linh Hồn Bất Diệt. Khi con người đến thật biết
tỏ rỏ linh hồn bất diệt thì con người đã đoạt Chánh Giác thoát khỏi Vũ Trụ đối với
con người.
Đạo Phật đã chỉ Linh Hồn không hai tướng, Linh Hồn Tối Thượng sáng suốt
bất biến, quang minh bất tận, con người thường chiêm ngưỡng là Thượng Đế. Phật
Đạo cho đó là: Đại Ngã cái Ta duy nhất. Còn về phần cái Ta trong thân mạng con
người hoặc tất cả sanh vật thảy đều là cái Ta tạm bợ gọi là: Tiểu Ngã Giả Tưởng. Nơi
Tiểu Ngã Giả Tưởng chẳng khác nào yến sáng của Viên Bảo Châu, Còn Đại Ngã nó
như Viên Bảo Châu vậy.
Dưới mắt Thiền Sư thường gọi Linh Hồn là Như Lai, tại sao được gọi là Như
Lai? Vì Linh Hồn nó như vậy. Nơi lên xuống của con người Thể Tánh nơi Linh Hồn
vẫn Lai Hoàn, nên chi linh hồn trùm khắp Bất Tận không chỉ đặng gọi là Như Lai.
Nơi Thân Mạng của con người đến thân mạng các loài, khi kết nạp thành hình
đầy đủ như nhiên có Nghe - Thấy - Biết. Sự Nghe Thấy Biết chính là từ nơi Đại Ngã
Linh Hồn thể hiện để đồng ứng thân mạng, tùy theo thân mạng đáp ứng. Không khác
nào tạo thành chiếc Máy Điện, chiếc máy ấy tùy theo khả năng Điện lực mà xuất
phát. Do sự đáp ứng, phát xuất từ Như Lai - Đại Ngã thể hiện đến con người cùng các
4
loài như thế nên được gọi là Ứng Thân. Theo sự Ứng Thân đó Đạo Phật mới nói: Tất
Cả Chúng Sanh Giai Hữu Phật Tánh. Do con người cùng các sanh vật đồng nhất với
Vũ Trụ nên con người mới có thể nhận định đồng tiến đến thông đạt Vũ Trụ làm Chủ
Vũ Trụ vậy.
Thiền Sư thật biết. Tại sao gọi là con người với Vũ Trụ đồng nhất? Vũ Trụ có
đầy đủ vạn triệu chất kết nạp chung hợp với nhau, liền trở thành cái Biết. Còn con
người cũng vạn triệu chất kết nạp chung hợp với nhau tạo nên Thân Mạng liền có cái
Biết. Vũ Trụ là Biển Cả. Con người là giọt nước, nơi giọt nước kia tuy nó nhỏ bé
nhưng đồng thể chất với Biển cả, nên gọi là đồng Nhất.
Thiền Sư tự biết nơi Bản Năng khả năng của mình, tự hiểu từ tư tưởng này
sang tư tưởng nọ nơi mình, từ chỗ chưa hiểu lần nương đặng hiểu về mình, càng hiểu
càng biết đặng Vũ Trụ với con người nhịp nhàng để hiểu nhau. Do đó nên chi con
người đứng trước nhiều cảnh, nhiều tình gay cấn càng hiểu biết càng nhiều, sự cảm
tưởng để phối hợp tư tưởng gọi là: Định Tưởng nơi định tưởng nó tùy theo sự mong
mỏi, tùy theo sự khám phá những gì mà con người chưa hiểu biết đang vướng mắc
nơi thân tâm, cốt đem lại nơi giải đáp thoải mái con người. Con người thường dùng
tư tưởng nung đúc tinh thần phát sanh ra cảnh giới, sau lúc mạng chung đặng về trong
cảnh giới đó. Đó chính là một tư tưởng khẳng định, tư tưởng khẳng định tu Tinh
Thần vốn thi hành theo chiều hướng này mà đến kết quả Bậc Thiền Sư thấy biết tư
tưởng nương theo tư tưởng sát thật chân đế tư tưởng, biết tỏ rõ vốn nó thường tưởng
lại hay trú mà trở thành chúng sanh giới. Thiền Sư biết tỏ rõ, thấy vững vàng không
cố định, chỉ quán xuyến để giúp con người đồng thời cứu ngay bản thân tự Ngã chính
mình, gọi là Chánh Định Tam muội.
Đôi lúc Thiền Sư tự hỏi: Có phải vũ trụ là Minh Sư ta chăng? Phải vũ trụ là
Minh Sư khi ta đã chấp nhận, ta đặng vũ trụ làm mục đề hướng dẫn đưa ta từng hiểu
biết Cảm Thông. Nếu ta tự hào Ta Khám Phá vũ trụ thì Ta chưa bao giờ khám Phá
con người nơi Ta đặng, có đâu đi đến khám phá vũ trụ. Khi đã khám phá đặng ta, thì
chừng đó vũ trụ đương nhiên Ta tỏ thông được biết, đó chính là lời Thiền Sư quyết
định.
Dưới mắt Thiền Sư nhìn nhận Đạo Phật đầu tiên nhất, Con người phải tự soi
lấy mình trước tiên, con người phải khám phá những gì nơi mình trước hết, vì con
người là Tiểu Vũ Trụ, vì con người là giọt nước biển đồng chất với biển cả, vì con
người là Chủng Tánh có sẵn không khác mấy với Như Lai. Con người có đôi lúc Biết
Nói, nhưng chưa biết nhận lời nói. Tại sao biết nói, nhưng chưa nhận đặng lời mình
nói? Tại mình hay nói, chớ chưa Thực Hành theo lời mình đã nói, khi con người thực
hành lời mình đã nói, chừng đó mới thật mình Biết nói.
Con người cứ mãi tìm xem Linh Hồn mình nó ra sao? Nó như thế nào? Hình
dáng nơi nó tròn vuông dài hay ngắn, sáng hoặc tối đủ phương thức nghĩ ngợi suy
tính nhưng nào có thấy được đến nó. Có bậc nhẹ tính hay nhìn quần chúng để rõ tánh
5
tình quần chúng gọi nó là Giác Linh. Có bậc kiểm điểm tư tưởng chia phân tư tưởng
từng khối nọ đến khối kia, lập ra trận đồ tư tưởng gọi linh hồn là Tiềm Thức Thứ Sáu
hay A Lại Gia Thức kết thành bộ Duy Thức để biện minh Linh Hồn, thật ra Linh Hồn
trùm khắp không có chỗ chỉ chính là Như Lai, nên dùng cái thấy trùm khắp để quán
xuyến linh hồn Bất Diệt thì dùng đôi mắt Như Lai Nhãn Tạng Thiền Môn mới minh
xác đặng, bằng lý đoán khó triệt thấu.
Khi con người nhìn thẳng thân tâm mình nhận định tỏ rõ tư tưởng tánh tình nơi
mình di chuyển từng lúc từng hồi nhịp nhàng trước vạn lối. Có khi Nóng Giận Vui
Buồn, có lúc tinh thần đẹp tươi vô kể, có khi trực giác thông hiểu hoàn cảnh của con
người đối với mình, có lúc lại cho con người thế nầy thế nọ đủ trăm phương vạn cách
giữa con người với chính mình.
Liền được hiểu biết nơi thân có linh hồn sáng suốt bất động quán xuyến tất cả.
Nhưng bị thay đổi sống động vì tư tưởng con người chưa tỏ giác, nên chưa nắm vững
tư tưởng, phải chạy theo tư tưởng, thành thử loanh quanh hiểu biết. Nơi bản thân nó
khởi sanh vạn tưởng, chung vào đó nó lại có tánh với tình diễn hóa mãi không ngừng
trở nên sanh diệt, diệt sanh nhịp nhàng chẳng dứt. Bậc trí tạm hiểu nó sanh diệt, bậc
Thiền Sư tỏ tánh nhờ nhìn nhận thấy biết đặng nó có rất nhiều chất kết nạp nhau trở
thành bản chất vận chuyển trong thân mới đặng Nghe Thấy Biết, cái Nghe Thấy Biết
chưa phải là Linh Hồn Tối Thượng, chính nó là một mục tiêu cho con người đoạt đến
Linh Hồn Tối Thượng.
Thiền Sư thường nương theo Tánh Thấy, đoạt đến Chân Tánh Thấy không hai
tướng, bèn dùng Tưởng Quán Như Lai soi thấy các Cõi Vô Hình, đối với con người
chưa thấy được, Thiền Sư đã thấy. 
Làm thế nào nương theo Tánh Thấy, đoạt đến cái thấy Chân Như Thấy Không
hai tướng để nhận được các Cõi Vô Hình trước con người chưa thấy, mà Thiền Sư lại
Thấy?
Khi Thiền Sư Thấy, Thiền Sư chưa vội chấp nhận cảnh thấy nơi mình là thật.
Từ nơi tư tưởng phát sanh cho đến tư tưởng diệt, từ nơi bản Tánh phát khởi cho đến
bản Tánh thối lui, Thiền Sư thảy đều soi sáng từng lúc từng hồi để nhìn thấy tư
tưởng, nhìn thấy bản tánh nơi mình. Khi Thân Tâm rõ thấu tận cùng tư tưởng, tận
cùng bản tánh của mình cùng với nơi con người trùm khắp, Thiền Sư đặng biết tỏ rõ,
nhưng đối với con người làm sao biết đặng. Lúc con người thay đổi nơi Thấy là do tư
tưởng hiệp tánh Thấy trở thành cái Thấy nơi con người, cho nên đối với con người
nhìn thấy nơi chung quanh mình toàn là Hoàn Cảnh tái diễn bao vây. Còn đứng hàng
Bồ Tát thời nhìn thấy Vạn Pháp xoay chiều Thuận Nghịch phản chiếu, nên Bồ Tát
nhiếp thu vạn pháp. Đứng nơi Phật Trí nhìn thấy Diệu Dụng Như Lai, Hạnh Nguyện
Bồ Tát nó như thế, đó chính là Thiền Sư đã thật rõ quyết định. 
Đứng trước hoàn cảnh con người, con người thường chấp nhận là có Ma, nên
đến nhờ Thiền Sư cứu giúp. Thiền Sư vẫn gật đầu chấp nhận cứu giúp. Như thế thì
6
Hồn Ma đã có nên Thiền Sư mới chấp nhận, nếu không có Ma thì Thiền Sư chối từ
nào có gật đầu hứa chịu. 
Khi bấy giờ Thiền Sư đến nơi để giúp, giúp rất kết quả hoàn mỹ. Tại sao lại có
Ma, quả nhiên đúng như thế? Vì Thiền Sư đã điều ngự Bản năng, điều ngự Ma Tánh
nơi chu thân Thiền Sư, Ma Tánh ấy dưới sự điều khiển của Thiền Sư, nên chi Thiền
Sư vừa đến nơi ngoại cảnh và thân tâm Thiền Sư giao cảm phối hợp nhau liền có một
Loài Ma, từ nơi thân Thiền Sư phát ra, đứng trước mặt Thiền Sư thưa gởi: Kính thưa
Thiền Sư Loài Ma nơi nhà nầy, nơi chốn nầy: Trước kia đang còn tại thế bản tánh hay
gạt gẩm kẻ khác để thỏa mản ăn uống nhu cầu mình cho sung sướng. Sau bị nhiều kẻ
mắng nhiếc la rầy, chẳng biết hối cải, chỉ một lòng thù hận liền xẩy đến việc chém
giết, nên trở thành Loài Ma phá rối. Chính bản năng nơi con ngày trước cũng như thế,
nay nhờ Ngài hóa giải nên con mới đặng như ngày nay. Vậy Ngài cho con được phép
cứu giải cho hắn. Thiền Sư gật đầu, niệm chú chấp chận. Loài Ma nơi Thiền Sư, cùng
với Loài Ma bên ngoài nói năng chốc lát, hàng phục liền hóa sanh, loài Ma phá phách
được siêu độ. Đó chính là một việc Thiền Sư cứu độ vậy.
Có một hôm Thiền Sư đến trảng núi, đến khu rừng đang ngồi an dưởng. Bỗng
nhiên trời mây u ám hơi lạnh bốc ra, âm khí nổi dậy làm cho cây lá chuyển mình, tai
nghe tiếng rên rỉ thảm thê in tuồng van lạy, mắt thấy khói đen pha lẫn trắng xanh
đang quay quần bên Thiền Sư. Thiền Sư thật biết vong hồn u ẩn đang cầu cứu những
gì, nên chi Thiền Sư tay bắt ấn, niệm khẩu chú, sau lúc đó có một Quái Tặc nơi thân
Thiền Sư hiện ra vòng tay thưa thỉnh : Kính thưa Thiền Sư, khu rừng và dãy núi nầy,
bảy trăm năm về trước. Có một bọn Quái Tặc cướp bóc, giết người chẳng gớm tay,
chúng chưa tin hậu quả là gì, miễn sao chúng cướp cho nhiều của cải, chúng hoành
hành tàn nhẫn. Đến sau đó trận cuồng phong, cây rừng doanh trại của chúng bị tàn
phá, lương thực của chúng đều hư hại, không còn đủ cho chúng tiêu dùng, phần thì
Quan Quân lúc bấy giờ đang chăm vào chúng, dân dã khiếp sợ chúng chẳng dám
vãng lai, làm cho chúng nhịn đói chết lần. Khi ấy chúng hối hận, chúng nói: Tiền bạc
Ngọc Vàng không thể nuôi ta đặng sống, chỉ có gạo thóc với tình thương mới bảo
toàn thân mạng chúng ta mà thôi. Hôm nay chúng gặp phải Thiền Sư, Thiền Sư có
nhiều đức tánh giao cảm đồng ứng nên chúng biết mà đến mong nơi Thiền Sư cho
lệnh mà Siêu Thoát chúng. Tôi xin thừa hành lệnh chung cùng nói năng chúng, cũng
chuộc lại tội lỗi nơi tôi ngày trước có chủng tánh Quái Tặc như chúng, thưa xong
Quái Tặc đứng lại một bên chờ lệnh. Thiền Sư gật đầu, miệng phát ra tiếng Thổ Âm,
tất cả khu rừng chuyển động. Tự nhiên trời thanh gió mát, không khí trở lại bình
thường. Bọn Quái Tặc được siêu độ vào Thiền Âm Tự tu hành, ngày sau siêu thoát.
Theo như thường lệ, Thiền Sư đi Bát xong trở về Tịnh Thất. Đến đầu làng chỉ
có một con đường duy nhất vào làng. Bỗng nghe tiếng hét la của thiếu nữ, vẻ mặt
thiếu nữ sợ hãi, miệng đang gào. Sau lưng có một số người đuổi theo thiếu nữ, thiếu
nữ vừa chạy giáp mặt Thiền Sư, thiếu nữ dừng lại nhìn Thiền Sư in tuồng cầu cứu.
7
Thiền Sư bảo: Con hãy quỳ xuống, thiếu nữ ngoan ngoản quỳ trước mặt Thiền Sư.
Lúc bấy giờ vẻ mặt Thiền sư trang nghiêm khó tả, Thiền Sư đưa tay ấn chứng, miệng
lâm râm ấn chứng, xong bảo đưa thiếu nữ về yên nghỉ, thiếu nữ hồi tỉnh trở về.
Đến mấy hôm sau, thiếu nữ cùng đi với bà cụ đến Tịnh Thất lễ bái. Thiếu nữ
quỳ thưa: Kính Bạch Thiền Sư. Hôm trước con đi ngang qua Miếu Võ, đương nhiên
con thấy một khối lửa từ trong miếu bay ra, con phát sợ, thân mình rung chuyển, con
nhìn thấy khối lửa không còn thấy rõ ràng Vị Thần hung tợn vươn hai tay định bắt
con. Con đâm đầu chạy hét la cầu cứu, con chạy trên tất cả gai, chạy qua gò mả như
chạy ở đất liền, Vị Thần chưa chịu buông tha, con càng chạy nhanh bao nhiêu thì Vị
Thần chạy mau bấy nhiêu sát gần đến con. May thay gặp Thiền Sư giải cứu. Đến giờ
phút này con quỳ trước mặt Thiền Sư vì con tin lời mẹ con bảo chớ tâm con đang
nghi ngờ. Vì sao? Vì hôm trước con gặp Vị Thiền Sư chưa phải là Vị Thiền Sư ngày
nay con gặp. Lạ thay! Lạ thay. Vị Thiền Sư con gặp, vị ấy có rất nhiều tay, đầu Ngài
đội Kim Khôi, mình Ngài mặc Huỳnh Giáp, hào quang sáng tỏa một vùng, tiếng nói
khác thường trong thiên hạ, làm cho vị Hung Thần sợ hãi đảnh lể Ngài, buông tha
con, hiện tình bây giờ con đang phân vân chưa biết giải. Tại sao cái Thấy lúc đó đến
nơi Thấy bây giờ khác biệt. Kính mong Thiền Sư cứu mạng con bằng tư tưởng ổn
định cho con yên tâm, thưa thỉnh xong ngồi lại một bên.
Thiền Sư suy nghĩ. Ta có nên nói thật không? Nếu ta nói chủng tánh giả tưởng
làm sao Thiếu Nữ nghe đặng. Nếu như ta nói Thiếu Nữ có tính nóng đồng thời gặp
đặng hai tánh hiệp nhất hóa sinh ra nơi thấy đồng đẳng làm sao Thiếu Nữ hiểu đặng. 
Nếu Ta nói ta dùng Thần Thánh hóa thân Chuẩn Đề thu phục Hung Thần thì
làm sao Thiếu Nữ tin nghe đặng, nếu Ta nói hiện giờ Ta ngồi đây, nhưng lát nữa Ta
hóa thân ra khi có người đến dự kiến, hoặc nói mỗi ngày như thể Ta tự hóa ra trăm
thân trở về với một thân thì Thiếu Nữ kia nào có hiểu được tí nào. Nói như thế chưa
có lợi, nói như vậy chưa có ích lại thêm vào Thiếu Nữ Vọng Tưởng đảo điên. 
Thiền Sư suy nghĩ liền giải đáp: Nầy Thiện Nữ, tính nơi Thiện Nữ tốt có tạo
phước nhiều, nên chi gặp phải Hung Thần xẩy ra điều không hay, liền gặp Đức
Chuẩn Đề ứng hiện bên Ta mà cứu mạng. Vậy kể từ nay cho đến sau, Thiện Nữ nên
Niệm Phật, nên tu tâm sửa tánh giải tỏa những tánh nóng cầu lấy chư Phật gia hộ,
nghe xong Thiếu Nữ mừng rỡ trở về tu tâm sửa tánh thành con người hiền đức.
Tại sao lại có Hồn Ma cùng Hồn Quái Tặc đến hồn của Hung Thần từ nơi thân
Thiền Sư xuất hiện để cứu độ như trên đã nói? Chính Thiền Sư thật biết toàn thân nơi
con người, có một Linh Hồn duy nhất bất diệt, ngoài linh hồn Bất Diệt còn có bá
thiên vạn triệu Bản Ngã Giả Tưởng, gọi nó là Tiểu Ngã.
Con người lầm tưởng Tiểu Ngã Giả Tưởng kia là Linh hồn mình, nên nương
tựa theo giả tưởng để sống nơi lý tưởng, thường tưởng, định tưởng, chớ nào biết sống
Linh Hồn Đại Ngã Anh Linh bất diệt. Vì vậy nên tìm không tỏ rõ, không thể nào ra
Linh Hồn bất diệt. Nhưng giả tưởng đó chính là chủng tánh nó chia ra nhiều lớp,
8
nhiều giai cấp, nhiều thứ tự, nhiều cử chỉ trạng thái khác nhau diễn giải không hết
đặng, nó có từ Phật Chủng đến Thánh Chủng qua Tiên Thiên Chủng, Thần Thánh
Chủng cùng yêu tinh Ma Quái chủng, Vì nơi lầm ấy mà con người tạo thành Tam
Thiên Tam Giới, Lục đạo các cõi các Cảnh Giới, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế
Giới, trong Tam Thiên còn có rất nhiều Cảnh Giới, nhiều cõi, nhiều loài sinh sống
khác biệt nhau như: Thế giới có loài đi ngang, có loài đi ngửa, loài đi đứng, loài đi
nằm, loài đi ngược, loài đi bò, loài đi lết, loài đi trườn, loài đi nhảy, loài đi khum, loài
vô trí, loài vô thức, loài vô nhân, loài vô tác, loài vô định, còn hằng hà sa số các Cõi
các Cảnh Giới không thể nào nói hết.
Con người đang bị sống theo Tiểu Ngã Giả Tưởng đương nhiên phải dùng
tưởng để mà sống, ngoài ra không còn cách chi khác nữa. Con người trong Bá Thiên
Vạn Tiểu Ngã lầm chọn lấy một Ngã là linh hồn mình thì đương nhiên phải tùy thuộc
nơi Ngã ấy cho nên đứng trong phương diện mà nói: Thì chọn lấy Ngã nào phải tùy
thuộc nếp sống từ cử chỉ đến ngôn hạnh nơi Ngã đó mà hành sự. Nếu có ai chỉ trích
rằng: Ông thế nọ hoặc Ông thế kia, làm như thế là sai, thì người ấy liền cãi không
chấp nhận nơi sai của mình, trái lại phản đối sự chỉ trích trên. Từ các bậc Thánh với
con người, từ bậc Hiền Triết Siêu Nhân với con người nó khác nhau như thế nào? Nó
có khác hơn con người ở nơi lìa Ngã Tưởng nhiều ít mà thành chớ chẳng khác hơn
con người chi cả. Còn bậc Đại Ngã Tối Thượng khác hơn con người ở nơi thu nhiếp
hàng phục tất cả Giả Tưởng về với chính mình điều hành Giả Tưởng không mắc miếu
lấy một giả tưởng. Chẳng khác nào một lãnh tụ chung khắp toàn dân, lãnh tụ có
quyền điều khiển chớ chưa phải lãnh tụ là người dân.
Cứ nhìn theo lời nói trên để tự con người được biết. Trong thân thể con người
có rất nhiều Giả Tưởng Bản Ngã, mỗi Giả Tưởng là một chất nơi nó, con người dung
dưỡng tánh chất ấy, sau khi nó thành hình nó đã trưởng thành, thân mạng con người
suy yếu đến mãn phần, gọi là Chết thời con người ấy nó về nơi nó đã từng vun trồng
nuôi dưỡng. Lời nầy đã từng nói nhiều nhưng con người chưa lãnh hội đặng, mà Đạo
Phật đã giải xong trên bước đường Sanh Tử Luân Hồi.
Đạo Phật từng biết con người lầm lẫn, con người vốn sẵn đồng thể với vũ trụ,
đồng chung với vũ trụ, đồng hành với vũ trụ, đồng có Linh Hồn Tối Thượng y như vũ
trụ, đồng di chuyển linh động, từ hơi thở, đến hơi nóng, tánh sạch, cứng cõi và mềm
dẻo như vũ trụ không khác.
Vũ trụ đã biết sử dụng. Còn con người chưa biết sử dụng nên mới bị sanh chớ
chưa được sanh như vũ trụ sanh ra con người.
Tại sao vũ trụ biết sử dụng?
Vũ trụ biết sử dụng nên trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới, các thế giới từng
lớp lang thảy đều sống theo lớp lang của mình chẳng bao giờ lộn xộn. Vũ trụ biết sử
dụng thể hiện ra từng loài, mỗi loài thảy đều có tác động nơi nó chẳng bao giờ tác
động khác nhau. Từng nơi hiểu biết từng loài cho đến sự hiểu biết từng cõi, từng cảnh
9
giới, từng địa phương, từng trình độ, từng hoàn cảnh mỗi mỗi thảy đều có thế hệ đều
có trí tuệ, đều có linh tánh, đều có trực biết, đều có giác nguyên, đều có rốt ráo hoặc
giả chưa rốt ráo do vũ trụ biết sử dụng ban hành như thế nào tất cả thảy đều y như thế
không sai chạy. Có người lầm tưởng cho lời nói này là thuyết Định Mệnh. Chẳng
phải thế đâu, đây chỉ biết nói thẳng, đồng chỉ thẳng Vũ Trụ Biết Sử Dụng. Con người
chưa biết sử dụng. Nếu biết sử dụng thì đoạt đến Vũ Trụ Thoát Sanh khỏi vũ trụ.
Vũ trụ còn biết kết nạp, biết hóa chất, biết biến chất, biết phân định, biết dung
dưỡng, biết tất cả lý sự dưỡng sinh từng nơi chốn. Có nơi thời ban thanh khí, có chỗ
ban thấp khí, có chốn ban không khí. Cứ mỗi nơi, mỗi chỗ, mỗi chốn trong thế giới
cùng các cõi, các Cảnh Giới thảy đều tùy thuận khí hậu mà dung dưỡng đủ loài. Lại
biết phân định, biết biến chất. Vũ trụ phân định loài cây cỏ nào biến chất hợp hóa chi
làm cho các loài cây trái mỗi thứ thảy đều có bản chất nơi nó trên vũ trụ này. Từ nơi
hóa chất kết nạp giữa hư không đầy đủ bá thiên vạn ức chất di chuyển kết nạp liền
hóa chất cung đốn dung dưỡng cho tất cả Sơn Hà Đại Địa cùng nhiều cảnh giới vô kể
đặng.
Một khi Thiền Sư biết đặng vũ trụ biết sử dụng, biết kết nạp hóa chất biến chất,
biết phân định dung dưỡng. Thiền Sư liền đem ra áp dụng. Cứ mỗi một Tiểu Ngã
phân định nó như thế nào. Mỗi một tánh chất nầy, cùng tánh chất kia hợp giải nó ra
thế nào. Từ nơi Hữu Tướng dụng Định Tưởng trở thành Hữu Phi đồng đẳng, kết nạp
nhau nó hóa chất, biến chất, thành ra cõi chi. Nhờ như thế mà Thiền Sư mới thấy tất
cả thế giới Hữu Vô như thấy bản đồ thật sự.
Lúc Nghe Thấy Biết nơi Thiền Sư tinh nhuệ thì nhìn đâu biết đó, nơi biết
không thể diễn nói đặng biết rất tỉ mỉ chân thật vượt tầm. Khi Thiền Sư nói ra hoặc
giả viết vào văn tự cũng chưa đầy đủ ý nghĩa để nói lên cái biết chính mình. Dù cho
có bậc nghe đặng một phần nào thì phần ấy nó cũng thuộc về giả tưởng đặng nghe
thôi.
Có một hôm Thiền Sư cùng một số chân tử đi du ngoạn đến gành đá bên bờ
biển. Thiền Sư tĩnh tọa còn số người kia kẻ ngồi ngắm cảnh, người ngó biển khơi,
trời mát mẻ, sóng biển vỗ đều đặn, mặt nước xanh xanh, Thiền Sư vớt con ốc Quắn
dài độ hơn một tấc, màu vàng nhạt, đặt con Ốc trên lòng bàn tay. Con Ốc ló đầu ra
nhìn Thiền Sư, Thiền Sư lẩm bẩm nói: Tại sao ông không chịu ra, tại sao ông xây
Bảo Tháp cứ ngồi mãi trong đó. Phải chịu như thế nầy, nên ra, nên ra nhận vũ trụ sơn
hà cùng khắp là Bảo Tháp, rộng rãi hơn, thoải mái hơn, hãy ra đi, nên ra đi. Thiền Sư
vừa dứt lời con Ốc bò ra khỏi vỏ, bò chuyền trên tay Thiền Sư. Nhẹ nhàng Thiền Sư
đặt con Ốc xuống nước.
Lạ thay! Lạ thay! Con Ốc trước khi từ giả gật đầu in tuồng thiện cảm, Thiền Sư
mỉm cười chú Nguyện. Một chốc sau đương nhiên có ngọn sóng dâng cao hơn tất cả
con sóng thường lệ, có lưu tâm mới thấy đặng, số người thưa hỏi Thiền Sư.

10
Kính thưa Thiền Sư duyên gì con Ốc được Thiền Sư chú nguyện, con Ốc bò ra
khỏi vỏ xin Thiền Sư cho chúng tôi được nghe. Lúc bấy giờ Thiền Sư trầm lặng chậm
rãi đáp: Các Ông hãy nghe đây:
Thời xưa có vị Trưởng Giả họ Chu tên Kỳ, lúc bấy giờ ta là Hàn Sĩ tu trì. Nhân
một buổi ta đi qua nhà gặp Trưởng Giả mời vào, lại đãi ta một buổi cơm, cơm nước
xong Trưởng Giả nói: Kính thưa Hàn Sĩ, tôi tự nghĩ, đối với tôi có sẵn bạc tiền, có
sẵn tất cả tiện nghi không thiếu sót, cứ để nó như thế nầy không ích lợi chi, tôi muốn
xây tòa Bảo Tháp, trên thờ Phật, dưới tu trì, may ra thân tâm thoải mái. Ta vừa nghe
như thế hưởng ứng tâm thành.
Sau ba năm ta trở lại, tòa Bảo Tháp đã xây xong, Trưởng Giả gặp Ta mừng rỡ,
đưa Ta dạo khắp tòa Bảo Tháp, Ta đi từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên. Tòa Bảo
Tháp tựa in hình con Ốc ngày nay. Khi bấy giờ Ta có thịnh tình đối với Trưởng Giả
nên Ta hứa: Sau này Ta đoạt Vô Thượng, Ta sẽ giúp đỡ cho Trưởng Giả đồng thời
Trưởng Giả phải nghe Ta, đến nay lời hứa thật sự mà Trưởng Giả đã nghe đặng Ta,
nên mới có chuyện ở nơi trước mắt các Ông. 
Tất cả số người đứng lên thưa thỉnh, vì sao Trưởng Giả lại chịu báo thân hình
con Ốc. Thiền Sư đáp: Nơi Phước Báo hay chỗ Chịu Báo chưa phải con người đang ở
chỗ giàu sang nhà cao cửa lớn mà sau này được đầu thai vào chỗ sang cả. Các ông
nhìn như thế chưa đúng với chỗ con người sau khi chết sẽ về đâu. Các Ông nên nhớ
bản năng Tâm Thức nơi con người phải vượt qua tất cả tập quán nhỏ nhen, tâm trí thù
hận, tánh nết gạt gẫm, cử chỉ điêu thoa, mong sao cho mình có lợi, ngoài ra mặc
nhiên không biết đến, lề lối như thế dù cho nơi kiếp hiện tại làm quan quyền hay giàu
có cho mấy chăng vẫn bị sa đọa. Khi ông Trưởng giả Chu Kỳ đặng phước báo có cơ
hội xây Bảo Tháp thì chính nơi thân mạng ông ấy phải Tâm Thức sửa đổi tánh tình,
chớ nên ỷ lại tiền bạc vượt qua tất cả ích kỷ khinh người để tu thì Bảo Tháp mới có
giá trị. Chớ cứ ôm lòng Tự Ngã, nuôi mộng Vọng Tham không phát sanh Phước
Điền, chưa làm gì cho thân tâm ích lợi, đó gọi là tu Bảo Tháp chớ chưa tu thân mạng.
Nên chi trong một thời nơi Công Đức trước nay tiêu dùng hết phước làm gì không
chịu báo vào con Ốc.
Kính thưa Thiền Sư vì duyên gì? Vì phước chi Trưởng giả đặng một Kiếp sung
sướng như thế? Thiền Sư nói: Các ông nên biết, đứng làm con người luôn luôn mỗi
một kiếp nó có một cơ hội, cơ hội ấy nó gặp dịp may phát triển, hay gặp nhân duyên
phát sanh, khi có nhân duyên phát sanh chẳng chịu phát sanh thời nó vẫn diệt. Lúc
gặp dịp phát triển chưa chịu phát triển vẫn bị đói nghèo.
Có một kiếp Trưởng Giả gặp Đức Nhiên Đăng Phật ra đời, Chu Kỳ Trưởng
Giả tuổi đã quá cao, nghe tin Phật, bèn tùng theo với một số người đến lễ bái, lễ bái
xong ngồi lại một bên, đương nhiên Chu Kỳ nhìn thấy đôi dép Đức Phật, dưới ghế
tòa sư tử bị lệch. Trưởng giả quỳ sát gần sửa đôi dép lại cho ngay ngắn, Đức Nhiên
Đăng nhìn thấy, Chứng minh Công Đức một kiếp có nhân duyên, một đời sung
11
sướng. Sự Chứng minh nơi Đức Phật cho Trưởng giả nên mới gặp Ta, đồng thời khởi
sanh tâm xây Bảo Tháp. Khi Ta đến lần thứ hai thăm viếng, sau khi Ta đi thời
Trưởng giả dùng nơi Bảo Tháp sống cho yên thân, tu trong hình thức an lành chớ
chưa biết chính mình phải sửa đổi, như Ta thường nói, Trưởng Giả cứ theo quan niệm
tuổi thọ kéo dài khá lâu, đến ngày lâm chung mến tiếc nên chịu báo trong hình thức
con Ốc vậy.
Lúc bấy giờ Thiền Sư giảng giải xong, chúng tôi vẫn ngồi yên, trời mát mẻ,
tiếng sóng vỗ êm lìm. Thiền Sư nói tiếp....
A. VŨ TRỤ LÀ MỘT KHO TẠNG HÀM CHỨA. 
Vũ trụ chính là Kho Tạng Hàm Chứa vô giá, không bao giờ dư thiếu mất mát
nơi đâu cả. Vũ Trụ còn tinh nhuệ gìn giữ cất giấu hình ảnh từ ngàn ngàn xưa nay vẫn
y nguyên như cũ. Vũ Trụ còn sắp xếp hằng vô vô tỷ Cái Biết khắp nơi trong Vũ Trụ
về với trọn Biết của Vũ Trụ, Vũ Trụ còn sắp xếp tỷ tỷ chất phẩm, mỗi chất phẩm như
thế có hàng tỷ tỷ thứ bậc, không bao giờ lầm lẫn sai biệt tí nào. Từ một giai cấp của
con người nơi giai cấp đó có vạn vạn trình độ ý muốn tư tưởng khác nhau, đối với Vũ
Trụ đã sắp sẵn, không lẫn lộn rất linh động tế nhị vô cùng.
Tất cả những vật dụng. Từ cõi Trời đến Cõi người chung khắp Tam Thiên Đại
Thiên Thế Giới. Khi nó bị hư hao tiêu mất, dưới mắt con người, dưới mắt các cõi cho
đó là mất. Chớ đối với Thiền Sư nó vẫn còn, Vì sao? Vì nó vào Kho Tạng của Vũ
Trụ, đứng yên hay để yên, đến lúc nó khởi sanh nó liền ứng chất thành ra hình sắc vật
dụng như cũ. Cũng như có kẻ hút thuốc lá, điếu thuốc cháy, liền có chất thuốc trong
khói thuốc, khói thuốc bốc lên hư không, nó tìm cây thuốc nhập vào gọi là lá thuốc.
Các phẩm vật như Trầm hương, các chất đốt thảy đều như thế, từ có Hình Tướng bị
hoại tan rã vẫn trở về hư không Vũ Trụ không thiếu sót. Dưới mắt con người không
thấy được cho đó là Vô Tướng. Thật ra nó chưa phải Hữu hay Vô chi cả, nói chung
lại từ vật dụng của con người cho đến ngôn hạnh cử chỉ và tư cách trình độ qua giai
cấp, trong quả địa cầu nầy, đối với con người đã từng sống, đã từng thấy, đã từng
nghe, cũng đã từng biết. Khi con người nhìn thấy nó tan rã, đương nhiên tự nó, nó trở
về Hư Không Vũ Trụ vào nơi sắp xếp sẵn của nó, gọi là Hàm Chứa, chớ không mất
đâu cả. Ví như khi con người nói ra, lúc dứt lời nói, con người ngỡ rằng lời nói kia
mất, chớ thật ra nó còn mãi mãi, nó chạy vòng trong Vũ Trụ từng đoàn, quay cuồng
trong hư không bất diệt. Chẳng khác nào như cuộn băng thu thanh, khi cuộn băng thu
xong, con người không thể nào nhìn cuộn băng biết được nói những gì, phải cần lấy
chiếc máy phát thanh thì chừng ấy mới nhận nghe đặng. Đối với con người khi làm,
lúc nói, khi dùng, lúc an nghỉ mỗi mỗi đều sắp xếp hư không vũ trụ, đến lúc hợp tình,
hợp cảnh nó liền ứng hiện không sai tí nào cả.
B. VŨ TRỤ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI.
Vũ Trụ đối với con người cùng vạn vật, từ hình sắc, đến chưa hiện hình sắc
thảy đều nhiếp thu sắp xếp nơi Hàm Chứa Kho Tạng. Vũ Trụ lại là Đại Khoa Học
12
Siêu Đẳng, Đại Triết Lý Thượng Đẳng, tất cả những gì trong Vũ Trụ Tam Thiên Thế
Giới Vũ Trụ thảy đều Thượng Đẳng tất cả.
Vũ Trụ trợ giúp cho con người cùng các sinh vật có cái Nghe Thấy Biết tinh
nhuệ thần thoại Siêu Nhân, Siêu Thiên, Siêu Tiên Thần mà chính con người cùng các
nhân loại không hiểu chi cả ngỡ nơi ấy là của mình.
Thân mạng con người khi kết hiệp đầy đủ liền có cái Nghe - Thấy - Biết, nhờ
Nghe - Thấy - Biết làm đường dây liên lạc giữa con người với Vũ Trụ, sự tương quan
mật thiết, nơi khẽ động giao cảm trong con đường dây ấy không sai chạy, có những
gì Vũ Trụ diễn tiến, Vũ Trụ phát sinh, Vũ Trụ hóa giải thảy đều tương ứng nơi con
người với Vũ Trụ.
Nhưng đối với con người hiếm bậc đã biết, họ tự đem tư tưởng cái Nghe -
Thấy - Biết nhịp nhàng với Vũ Trụ sai chạy khác biệt, trở thành quan niệm Tư Hữu,
đương nhiên nó phải bị riêng rẽ hai khối Vũ Trụ Với Con Người. 
Từ chỗ sai này đến chỗ lầm kia làm sao hiểu biết Chân Đế Vũ Trụ con người
đồng nhất. Nên chi con người cứ theo tư tưởng sai biệt mà cho là tư tưởng nơi suy
tưởng đúng, do đó mới nhìn Vũ Trụ làm Đấng Thượng Đế ban hành, hoặc ông Trời
nhỏ phúc, trở nên quá nhiều màu sắc, quá lắm quan niệm theo ý thức mình đối với
Vũ Trụ Nhân Sinh, đối với Lý Trí giữa con người với con người tranh đấu. 
Đạo Phật cũng phải chịu chung nơi quan niệm của con người trong thế hệ nầy.
Chớ con người nào có hiểu Đạo Phật đứng ngoài tất cả lại nhìn chung tất cả mà đặng
cái Nghe - Thấy - Biết chung cùng với Vũ Trụ Con Người Đồng Nhất. Đạo Phật đã
nói rất nhiều, nói rất rõ ràng cốt cho con người hiểu biết Vũ Trụ với Con Người.
Nhưng càng nói nhiều bao nhiêu lại càng rắc rối bấy nhiêu, vì bị trong Vòng Lý đoán
của con người sanh ra rối loạn. Chỉ vì con người chưa nhận định căn bản để mà nhận
định. Nếu con người có tỏ rõ nơi nhận định căn bản, liền biết nhận định đến cơ bản
mà Tri Kiến Giải Thoát, đây là lời nói rất thiết thực Chân Thật đọc giả nên lưu ý.
Đạo Phật tìm phương thức để cho con người chính mắt họ đã trông thấy Vũ
Trụ là một Kho Tạng hàm chứa từ Hình Sắc đến chưa có hình sắc thảy đều sắp xếp
trong Kho Tạng, cốt con người hiểu biết tường tận đoạt đến Như Lai Tạng, nhờ Trí
Tuệ thoát siêu mà hoàn toàn giải quyết Vũ Trụ.
Nên chi mới trao cho con người cố tạo cho đặng Cặp Mắt Thiền Sư, gọi là Như
Lai Nhãn Tạng mới có thể nhìn nhận lời trên nói chân thật. 
Khi con người khởi sinh Tư Tưởng, tư tưởng khởi sinh, tư tưởng bị diệt đó
cũng gọi là chiếc máy nổ chưa có định hướng, tư tưởng tư duy gọi tư tưởng cầu an.
Nơi tư tưởng nó có muôn ngàn lối nơi nó, nó tùy theo Bản Năng Khả Năng một khi
tư tưởng có định hướng thì nó mới hành sự, gọi là: Tư Tưởng là Mẹ Đẻ Hành Động.
Con người muốn đặng Cặp Mắt Thiền Sư, ít nhất phải theo Pháp Môn Thiền
đưa Tư Tưởng có hướng định, đem con người vào một lối Nghe Thấy Biết có tiêu

13
chuẩn, làm con người kia thành một chiếc máy Ra Đa thu nhận, vì con người trót đã
lạc hướng Vũ Trụ cùng con người. 
Thiền Sư vừa nói đến đây, lại vừa hỏi cùng với giải đáp như sau: Làm thế nào
đưa tư tưởng có hướng định? Muốn đưa tư tưởng có hướng định. Trước tiên hãy ngồi
xóa hết tư tưởng, cho thân tâm rỗng rang đương nhiên không khởi tư tưởng, nhưng
trước mặt vẫn nhìn thấy. Nơi thấy ấy bất luận thấy chi cũng được, gọi là: Không
tưởng mà tưởng, không thấy mà thấy, miễn sao cái thấy không khởi, miễn sao cái
tưởng không khởi, vì có khởi tức nhiên cái khởi thuộc về Vọng, không khởi đương
nhiên có tư tưởng, đương nhiên có nhìn thấy thì mới bước vào nơi thật thể thừa hành
Vũ Trụ để mà thấy để mà tự biết, đặng mà đặng nghe. Các ông cũng nên nhận định
rằng: Nơi trực thấy, nơi tự biết, nơi đặng mà đặng nghe không có nơi ràng buộc vọng
khởi, Vì sao? Vì tư tưởng khởi sanh, liền đó tiếp diễn khởi diệt, hai nơi sanh diệt thảy
đều có nguồn vọng khởi thảy đều sai lầm tư tưởng. Nếu trường hợp các ông gặp phải
diễn cảnh nào, hoặc giả đứng trước một người nào chẳng hạn mà các Ông dùng khởi
sanh để quán xuyến thời các Ông bị sai thấy, vì nơi thấy trong lý đoán khởi sanh
Vọng Tưởng, trở thành bị sanh liền có Đối Tượng, bị sanh nghi ngờ, bị sanh đố kỵ, bị
sanh vướng vào cá tánh cá nhân. Do lẽ ấy nên chi những bậc Quang Minh Chính Đại
nhìn bằng đôi mắt quân minh vô tư quán sát, cốt tránh khởi sanh đối tượng nghi ngờ.
Khi các ông thực hành hoặc tu Thiền Tọa xóa tư tưởng đến nơi, không tưởng
mà tưởng, đoạt đến mức đương nhiên không ràng buộc Thường Tưởng đến Định
Tưởng, định tưởng nầy gọi là Bồ Tát Định. Còn hàng Tiên Thần đến các bậc tu Tiên
dùng Định Tưởng Khởi Định, huân tập định mà thành. Hai lối Định đồng một văn tự,
nó khác với hành sự tu hành.
Đối với con người đa số đã sẵn có lối bất chợt thấy, đương nhiên biết, chớ
chẳng riêng gì Bậc Tu Thiền mới có, bậc tu thiền cùng với con người chưa tu có khác
hơn là nghe thấy, nhẹ biết, cùng với nặng thấy, chậm biết đó thôi. Khi con người lối
thấy bất chợt, trực biết tự nhiên cho đó là Linh Tánh hay Tánh Linh cũng thế. Chớ
nào ngờ: Phim ảnh đã thu nhiếp sắp xếp hàng trăm năm hoặc hơn thế nữa, nay mình
chợt thấy.
Ngày nay khoa học đã tìm ra được loại phim ảnh nầy, nhờ như vậy nên mới
sáng tạo Vệ Tinh chụp hình lúc cần đến đỡ tốn hơn là thu ảnh Vũ Trụ đã chụp.
Nói đến sự lần tiến nơi con người, sự khôn khéo kỹ thuật thẩm mỹ con người phát
sanh, có lắm bậc lưu ý từ một khởi điểm có triển vọng phát sanh, liền khai thác khởi
điểm nương theo thực hành đoạt đến đích phát triển một món vật dụng. Kể từ cái thấy
trước cảnh đẹp họ sáng tạo đặng chiếc máy ảnh, sau phát triển đến phim ảnh làm cho
cảnh vật linh động, đến sau thu nhiếp nói nhịp nhàng nơi phim ảnh, đến những cuộn
băng thu thanh tiếng hát lời ca. Sự phát triển kỹ thuật khéo léo thẩm mỹ nơi con
người kể không hết đặng.

14
Nếu bậc có ý trí nhìn vào món hàng Nhân Tạo nó có cái cao đẹp khác nhau, nó
có trình độ tiến hóa mỗi nước mỗi người sáng tạo hoặc phát triển. Khi nhìn đến Thiên
Nhiên sáng tạo, thiên nhiên cấu kết từ hạt cát đến viên sỏi qua các dãy núi đều có
thẩm mỹ đều có kỹ thuật đều có linh động mỗi nơi khéo léo linh động không thể nào
nói đặng.
Con người sáng tạo phát triển. Vũ Trụ cung cấp nguyên liệu, Vũ Trụ hỗ trợ cho
con người, con người đặng khôn ngoan lần tiến nhờ Vũ Trụ khai thông nguyên liệu,
nhờ khởi điểm phát sanh, nó cứ thế tiến mãi đến chừng con người tiến về sản xuất, về
năng lượng phát triển tận cùng của con người liền bị diệt vong xóa mờ tất cả. Do tại
sao bị diệt vong? Do năng lượng có chừng. Số lượng kết hợp hóa sanh phát triển có
mức, con người vì cạnh tranh cứ mãi tiến, cứ mãi đi, đi đến mức cùng bị vong diệt.
Đứng chung trong Vũ Trụ có Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới các cõi Tiên
Thần Rồng người từng lớp lớp. Đứng chung Hoàn cầu có các nước Anh, Pháp, Nga,
Mỹ, Trung Quốc, Việt Nam cùng các nước khác. Đứng vào một nước có từng giai
cấp từng trình độ, từng lớp khôn dại giàu nghèo, đó là một sự thường của vũ trụ.
Nhược bằng trong Vũ Trụ có Phật Quốc không phải là Vũ Trụ mà là Phật
Quốc. Nếu đứng trong Hoàn Cầu có một nước nào đó không, ngoài ra không có các
Nước thời gọi là Nước Đó chớ chưa phải Hoàn Cầu. Bằng một Nước kia có một lớp
người, một giai cấp không từng lớp khác thì nó như thế, nó cũng gọi là lớp con người
chứ chưa phải một Nước, đó là sự thường kết nạp nó như vậy.
Nói đến Vũ Trụ với con người. Con người chưa bao giờ biết đặng Vũ Trụ có
hàng Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Mỗi Thế Giới Tiên Thần mức sống tầm sống
vật dụng tinh xảo tốt đẹp gấp ngàn lần thế giới con người. Sự linh động thông thái
mỗi lớp cao kiến mỗi tuần trời, mỗi cõi, mỗi cảnh giới đều có chế độ sự nghiệp khác
nhau, vì hiểu biết bất đồng nên nó có như thế. Thế Giới con người cùng các Thế Giới
Chư Thiên Chư Tiên khó biết nhau, khó hiểu nhau, khó gặp nhau không khác nào
mỗi Thế Giới là một giống vi trùng trong thân thể, trong thân thể có bao nhiêu giống
Vi Trùng không bao giờ nó biết nhau, không bao giờ nó chung nhau một cái sống, đối
với thế giới con người cùng các thế giới cũng thế.
Đứng về Vũ Trụ sanh mà nói, cũng được gọi là Thiên Nhiên Sanh, thì chỉ có
Hóa Sanh kết tạo mà thành. Sự kết tạo thiên nhiên chung gồm đủ chất trong Vũ Trụ
hóa sanh một giống. Cho nên một giống cây kia cây ấy đã có cái Biết, nếu nó không
biết làm sao nó lại hút màu mỡ để nuôi cây thành trái? Khi cây đó héo khô đến mục
nát tự sanh con mọt, chính con mọt là cái biết thoát ra khỏi cây. 
Thật ra tất cả hiện vật trong Vũ Trụ thảy đều nơi Vũ Trụ hóa sanh, nên chi chất
nào con người kết hợp đều có sẵn chất Hóa chớ con người làm sao sáng tạo chất
Hóa? Con người chỉ lấy hiện vật có sẵn kết nạp với nhau gọi là Biến Chất, dù cho con
người tiến bộ đến đâu, khám phá Vũ Trụ dạo khắp hành tinh, không ngoài thu nhặt
hiện vật nơi hành tinh đem về thực nghiệm, nào biết được Phi Vật là chất chứa hóa
15
sanh ra hiện vật. Chỉ trừ ra con người dùng trí tuệ khám phá thân mạng, lúc khám phá
xong chừng ấy mới tỏ rõ Vũ Trụ.
Khi con người đã có thân, thì thân ấy bị Vũ Trụ hóa sanh, bị toàn chất trong Vũ
Trụ kết hợp thành thân, liền phải bị sống trong thế hệ của con người, cho nên con
người tài giỏi tiến bộ đến đâu chăng cũng có quyền Biến Chất hay Hóa Chất chớ
không thể sáng tạo Hóa Sanh.
Cũng như con người đã bị sắp xếp vào giai cấp thì con người đó có thể vượt
qua đủ trở ngại tiến lần lên từng giai cấp gọi là Biến Chất hoặc Hóa Chất chớ không
thể Hóa Sanh thân khác được. Dù cho con người đó vươn mình hiểu biết Siêu Đẳng
thành Phật chăng thân thể vẫn y nguyên chờ Viên Mãn nhập Bát Đại Niết Bàn mới
Hóa Sanh Bát Đại.
Bản thân thuộc về bản chất con người có thể biến chất không thể Hóa Sanh,
Thiền Sư nói đến đây ngưng giây lát nói tiếp: Các Ông cũng nên biết. Tại sao trí tuệ
có đủ quyền hóa sanh còn thân mạng không thể Hóa Sanh? Trí Tuệ thuộc về Như Lai
Tánh, còn thân mạng thuộc về Phật Tướng, Phật Tướng có quyền nâng các ông từ
phàm phu đến Phật Tướng gọi là Biến Thể chớ chẳng phải là Hóa Sanh. Còn Như Lai
Tánh nâng các ông rốt ráo viên tịch hóa sanh Niết Bàn.
Nếu các ông dùng trí, trong giờ phút nào đó, các ông chủ quán mình là lãnh tụ
Hoàn Cầu, bá vạn binh sĩ, hai hàng quan quân, không ai đến bắt các ông cả. Nhược
bằng dùng lời nói đến thân thể của các ông liền bị điên rồ, cuồng vọng lại còn hại đến
mạng thân.
Các ông nên lưu ý. Trí tuệ sáng soi tư tưởng kiểm điểm hành sự đã qua cùng
sắp đến, tư tưởng sanh diệt chung khắp mọi người và chính mình vẫn đang chạy theo
tư tưởng sanh diệt ấy. Tại sao mình vẫn theo tư tưởng khởi sanh diệt mà mình nhìn
thấy con người một bên mình có tư tưởng, mình biết được tư tưởng nơi họ? Tại vì
chính mình đang theo một Giả Tưởng khác với Giả Tưởng bên kia thành ra nhìn thấy.
Nếu đồng một Giả Tưởng thì không thấy. Nếu như chính mình đang ưa thích thân cận
với một người nào đó, mình nhìn thấy họ với mình đồng phải, đôi lúc mình nhìn họ
có chỗ trái với mình, thì các ông cũng nên soi lại! Họ vốn nhìn nơi mình cũng đồng
như mình nhìn họ. Đó gọi là đồng một Tiểu Ngã sai lệch khi Giả Tưởng khác nhau
nên mới thấy như thế.
Trên đã nói mỗi một con người có: Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã Giả Tưởng,
con người thường bị tư tưởng Giả Tưởng Sanh Diệt từ nơi Tiểu Ngã nầy đến Giả
Tưởng nọ không ngừng, nên dụng Trí Tuệ soi từng Tiểu Ngã của một kẻ cố thủ họ
quan điểm nơi mình là đúng, đến kẻ kia lại có một Tiểu Ngã khác hơn vẫn cho mình
là phải. Kẻ kia nhìn kẻ nọ phê chỉ khen chê. Các ông thử nghĩ mỗi người đều mang
vào mình Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã, hết Tiểu nầy đến Tiểu khác mà gay cấn nhau
mãi, khi hiệp lúc tan từ tư tưởng đến cử chỉ nó cứ mãi phân trách, nó cứ mãi dị biệt
quanh quần tìm chẳng ra lối thoát.
16
Khi con người có trí tuệ lần qua các Tiểu Ngã lần rõ biết đặng Giả Tưởng là bề
vỏ của Tiểu Ngã. Từ nơi hiểu biết nhỏ hẹp, đến lúc tỏ rõ lớn lao không còn dùng trí
tuệ nữa mà chỉ duy nhất nhiếp thu cho rõ ràng Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã với Giả
Tưởng, liền được gọi là Đại Trí, cũng đặng gọi là Bồ Tát Trí vậy.
Bồ Tát trí phải thi hành cốt tỏ rõ những Giả Tưởng của mọi người, từng lớp lớp
người sống theo Giả Tưởng nó như thế nào, tự nó mơ ước ảo huyền đòi hỏi ra sao?
Nếu nó hành sự thì tác tệ như thế nào? Bằng nó phát ngôn ý trí Giả Tưởng nơi nó,
nhiều người hưởng ứng nó vui mừng ra sao? Bằng họ không hưởng ứng nó tự sanh
hờn giận ghét vơ hoặc bắt bớ đánh đập như thế nào? Gây ra Nghiệp Quả Căn Quả ra
sao? Tất cả Giả Tưởng Bồ Tát lìa Bản Ngã Tiểu Ngã mà quan sát, mọi người cùng
với chính thân mạng mình, đặng thâm nhập thật biết sau khỏi lầm nơi Giả Tưởng Sở
Đắc Pháp Giới Hành Thâm.
Khi Bồ Tát Sở Đắc Pháp Giới tỉ mỉ, mới thật biết Giả Tưởng chính là khởi
sanh, khởi diệt tư tưởng, tư tưởng sanh diệt thảy đều là Giả Tưởng, Giả Tưởng cố thủ
đưa về Tiểu Ngã Giả Tưởng. Sau khi Bồ Tát mới Hành Thâm Bát Nhã, cốt rốt ráo
Tiểu Ngã thật biết tỏ rõ Tiểu Ngã mà Sở Đắc Bát Đại, đến tròn Bổn Nguyện viên
mãn mà tường tận Niết Bàn, được gọi chung là: Bát Đại Niết Bàn.
Các ông cũng nên biết rằng: trong vũ trụ nầy một vị Chánh Giác rốt ráo Bá
Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã mà thọ chứng Bát Đại Niết Bàn rất hiếm. Duy chỉ có một vị
chớ chưa bao giờ có đến hai vị, đừng nói rằng đến năm mười vị hoặc giả có hàng
trăm vị vì sao? Vì Đại Ngã là một linh hồn Tối Thượng Chánh Giác. Ngoài Đại Ngã
có Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã. Mỗi một Tiểu Khác như thế thành tựu lấy một cõi
hay một Thế Giới hoặc một Cảnh Giới. Cũng như: Ma Quỷ, Quái Tặc, Tinh Yêu,
Rồng Người, Thiên Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, cho đến Tiên
Thần, Thánh Phật, mỗi mỗi Tiểu Ngã đều Cảnh Giới, đều là Thế Giới. Kể không thể
nào hết đặng, vì Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã có Bá Thiên Vạn ức Cõi và Cảnh Giới.
Nhược bằng các ông mỗi ông cố thủ lấy một Tiểu Ngã thì nơi Tiểu Ngã của ông nó
có Bá Thiên Vạn Ức Giả Tưởng. Giả tưởng đó nó chu tất cho Tiểu Ngã, nó gìn giữ
cho Tiểu Ngã khỏi thoát ra ngoài lập thành một nếp sống về Lý Tưởng của nó mà
thành đạt riêng của nó. Nếu có người hướng về Tiên Đạo, tánh tình họ đã có sẵn
nhiều ít về Tiên, đến ưa thích tu Tiên, sau khi tư tưởng Giả Tưởng đưa họ đến Tiểu
Ngã, họ chấp Tiên Đạo là cao cống là thiết thực hơn cả, khó làm cho họ nhận định
được Phật Đạo.
Bằng có kẻ tôn trọng kính cẩn về Thần Linh tư tưởng huân tập thành tựu Giả
Tưởng, Giả Tưởng nung đúc Thần Đạo huân tập, họ nhìn nhận Thần Đạo linh thiêng
cứu độ hiện hữu là cao cống đứng nhất chưa có đạo nào hơn đặng mà thủ chấp.
Nếu có người khởi lòng Thần Quyền Thánh Mẫu tôn thờ Mẫu, cầu vái giáng
bút cơ hoặc trai đàn ứng khẩu, sau khi huân tập Giả Tưởng, phát sanh tư tưởng quá
tin, thời nhìn thấy không nơi nào hơn Thánh - Mẫu mà thọ chấp. Bằng có kẻ tin Cô
17
Bà, Thần Cấm, Thần Két hoặc Ma Quỷ, tùy thuận đồng hợp Tiểu Ngã ưa thích liền
có tư tưởng tôn sùng, Giả Tưởng tùy theo một nếp sống lý tưởng nơi họ, đồng chấp
nhận hơn tất cả, ngoài ra chưa có gì hơn mà thọ ngã.
Nếu có người chưa vào Đạo nào, chưa tin ai cả vẫn sống lập dị Tiểu Ngã, ngỡ
rằng như thế là hơn cả tư tưởng Giả Tưởng thảy đều làm như thật để cho người kia
yên trí chính mình cao hơn ai cả mà thọ chấp.
Bằng có kẻ không tin Trời Đất, Quỷ Thần, không tin Ma Quái, có làm mới có
ăn, chưa làm thì phải đói, liền có Tiểu Ngã in tuồng như thật, tư tưởng giả tưởng vẫn
phục vụ cao cống, vẫn phục vụ như thật mà cố thủ.
Nếu có người cho ta đã thành Phật, thành Thánh hay ta Đạo Đức chưa ai bằng,
mỗi mỗi nhận định in tuồng như thật, từ cử chỉ đến trạng thái in như Phật Thánh Đạo
Đức, thuyết giải toàn Đạo Đức hành sự như Thánh Phật gieo rắc toàn Thần Thánh
hóa đem đến cho con người toàn diện mơ màng Phật Thánh chớ hiếm bậc hóa giải
rành mạch đem đến sự lợi ích kiến tri.
Những bậc này đa số mơ màng, miệng nói mà tâm chưa biết, thuyết giả như
chưa biết soi giả để hoàn chân, thuyết giả nương theo giả ngỡ thật đâm ra cạnh tranh
phỉ báng, họ lại lìa Tiểu Ngã mà thọ chấp giả tưởng, họ theo Giả Tưởng nên ngỡ
mình thành Phật thành Thánh thành chân tu Đạo Đức. Những bậc này dù cho họ có
thành Phật thành Thánh chăng cũng vẫn Phật Thánh Bản Ngã Giả Tưởng thế thôi.
Lúc bấy giờ số người đứng lên thưa hỏi: Kính thưa Thiền Sư. Như thế thì Tam
Thiên Đại Thiên Thế Giới Rồng Người, Càng Cát, Đà La Ni, Lục Đạo, Tam Thế hết
thảy, cùng hết thảy đều lầm nơi Tiểu Ngã mà trở thành hết sao?
Thiền Sư đáp: Đúng như vậy, đúng như vậy. Vì lầm nơi giả tưởng thành tựu
nên mới sanh diệt, diệt sanh trong vũ trụ, nên chi Đạo Phật Đức Phật thường căn dặn:
Còn Một Hoa Đốm Là Còn Mê Lầm. Còn một kiến chấp còn sanh tử.
Thiền Sư nói đến đây, nhìn ra biển khơi sóng biển nhịp nhàng từng cơn sóng.
Chúng tôi hồi tưởng lại lời nói Thiền Sư. Núi trời xinh đẹp, sóng nước thảnh thơi,
chúng tôi mới nhìn lại cuộc đời đang sống trong cơn ảo tượng. Bỗng nhiên Thiền Sư
nói: Này các ông, nếu các ông biết so sánh Vũ Trụ với con người nó không riêng,
không khác, vì sao? Vì Vũ Trụ có Thể Chất nơi Vũ Trụ, còn các ông nó lại có Tiểu
Ngã Giả Tưởng. Từ nơi một thể, chung gồm có Bá Thiên Vạn Ức Chất hợp thành hóa
sanh một đơn vị, đơn vị ấy chẳng khác nào như Gió chẳng hạn. Như Nước như Đất,
như Lửa đủ các thể. Chất hóa sanh Sơn Hà Đại Địa, Hóa Sanh các nơi trở thành Tam
Thiên Đại Thiên Thế Giới cùng Cõi Rồng Người đến Sinh Vật Tứ Loài chẳng thiếu
sót. Thể chất rất linh động tinh vi tế nhị thanh thô đầy đủ, khó diễn giải cho hết đặng,
nên Đạo Phật gọi Thể Chất đó là: Như Lai Tạng.
Thiền Sư nói đến đây, nhìn chúng tôi thấy vẻ mặt của chúng tôi vui vẻ đón
nhận Ngài bèn nói tiếp:

18
C. THỂ CHẤT CÙNG TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG ĐỒNG
NHẤT.
Vũ Trụ với Con Người, tuy hai văn tự, hai thế hệ lớn nhỏ khác nhau, nhưng
chính nó là một, vì sao? Vì con người thể hiện Ứng Thân tiếp nối với Vũ Trụ, thừa
hành tất cả những gì Vũ Trụ đã có sẵn chưa mang ra đặng thì con người tìm được
mang ra. Con người lại lầm tưởng nơi nhìn sáng tạo.
Đối với con người đã sẵn có đường dây tiếp nối với Vũ Trụ, đường dây ấy là
Tiểu Ngã Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã Trùm Khắp Vũ Trụ, mỗi Cõi, mỗi Cảnh Giới
đều đã có sẵn Tiểu Ngã. Nên chi Con Người Tu Phật có Tiểu Ngã Phật. Tu Thánh có
Tiểu Ngã Thánh, Tu Tiên có Tiểu Ngã Tiên, đến tận cùng Địa Ngục vẫn có sẵn Tiểu
Ngã của mình ở Địa Ngục. Nếu con người không có sẵn thì không bao giờ tu thành
Vị Thứ hay Quả Vị, không bao giờ có Địa Ngục để mà sa vào.
Nói đến sự hiện diện con người ở Thế Nhân có Tiểu Ngã Nhân Thế. Nếu có
một con người nào có lập trường về với Tiểu Ngã chính mình tại Thế Gian, liền
tường tận được tất cả trên đời họ sống như nhau bằng Giả Tưởng chính mình trở lại
với Tiểu Ngã, thì các Ông cũng nên biết: Bậc như thế gọi là Siêu Nhân, hay Thánh
Nhân, Tiểu Ngã nghe giảng, nghe nói ngỡ rằng để biết để hiểu như thật ra khó biết
đặng Tiểu Ngã chính mình, vì sao? Vì tư tưởng mãi suy nghĩ, mãi tìm tòi theo Giả
Tưởng sống nơi Giả Tưởng nhiều hơn mình biết đặng mình. Cho nên con người biết
việc thiên hạ biết những người chung quanh lầm lỗi nhiều hơn chính mình tự soi để
biết lấy mình. Khi Bậc Siêu Nhân tự soi mình đặng biết người, tự lấy Giả Tưởng của
mọi người chừa bỏ Giả Tưởng nơi mình vương mang. Đạo Phật thật biết con người
sa lìa Tiểu Ngã chạy theo Giả Tưởng cầu lấy hư vị, cầu lấy hư danh ưa thích khen
tặng đeo đuổi tham muốn, nên mới dạy Tìm Lấy Chơn Tánh Để Tu, hay dụng Thể
Tánh tự soi vọng đảo, gọi là con đường Tự Tánh Tỏ Tánh, đến lúc Minh Tâm Kiến
Tánh. Khi bấy giờ nhìn thấy Tâm mình vọng đảo, Tánh mình an nhiên, được gọi là
Thể Tánh cũng là Tiểu Ngã vậy.
Sự tham vọng Giả Tưởng nơi con người nói nó không cùng, nó có tham vọng
như thế nó mới phát triển tất cả các Đồ dùng, nó có hoài vọng mới tìm ra Cơ Giới,
nhờ Có tham vọng không ngừng nên chi ở thế gian Con Người chạy theo cạnh tranh
phát triển đua theo hơn thua được mất mà vươn mình sáng tạo đủ thứ hiện vật, đủ tất
cả khả năng con người phơi bày trên trái đất này, ngoài ra còn chẳng biết bao nhiêu
cõi thảy đều nằm nơi Giả Tưởng phát triển. Như trên đã từng nói vạn loài hóa chất
phát triển, vạn chất vũ trụ hóa sanh để cung cấp cho con người cùng các Cõi. Nó nhịp
nhàng chẳng khác nào Con Thoi dệt cửi, do đó mới gọi Thể Chất cùng Tiểu Ngã Giả
Tưởng đồng nhất. Còn đứng về phương diện mà nói: Thể cùng Tiểu Ngã nó có liên
hệ mật thiết với nhau vô cùng, nó chính là sự tiếp nhận thành tựu nơi Con Người với
Vũ Trụ từ lớp, cũng được gọi là: Chết Sẽ Về Đâu, hay Chánh Báo cùng Chịu Báo

19
trong Vũ Trụ cũng là con đường Luân Hồi Sanh Tử, thay hình đổi kiếp vậy, các Ông
hãy nghe cùng nhận định kỹ càng, trên bước đường Vũ Trụ với Con Người.
Lúc bấy giờ chúng tôi yên lặng chăm chỉ nghe. Bất chợt Thiền Sư hỏi: Các
Ông nhận thức như thế nào? Chúng tôi đồng đáp: theo nơi nhận định của chúng tôi,
thì mỗi con người có đến Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã, bá thiên vạn ức tiểu ngã ấy trải
khắp Vũ Trụ, tùy thuận các Cõi, các Cảnh Giới Tiểu Ngã an trú không thiếu sót Tam
Thiên Đại Thiên Thế Giới. Thiền Sư gật đầu khen phải, liền hỏi tiếp. Mỗi Tiểu Ngã
có bao nhiêu Giả Tưởng? Mỗi Tiểu Ngã có bá thiên vạn ức Giả Tưởng.
Thiền Sư nói về vấn đề Tiểu Ngã nói ra thật khó nghe, khó hiểu cùng khó biết
đặng, vì sao? Vì các ông đa số đang nằm nơi Giả Tưởng, nên nói đến Tiểu Ngã duy
chỉ có Bậc Thánh mới nhận được mà thôi: Còn ngoài ra khó phân định đặng nó.
Nhưng Tôi vì đời sau trong kiếp nầy nói lên lời chân thật may ra có bậc nhận được
chính là một pháp môn Cứu thế.
Thiền Sư giải tiếp: Đối với các Ông vốn sẵn Nghe Thấy Biết đó chính là Tự
Thể nơi Tiểu Ngã, khi các ông dùng Nghe Thấy Biết quân minh, không có Cá Tánh
thích hợp mới nghe. Không vì Nhân Tánh (cá nhân) riêng tư mà thấy, thời nơi Biết
kia mới thật là Tự Thể Tiểu Ngã. Các ông cũng nên biết Tiểu Ngã nó có Tự Thể của
nó nên nó mới sáng soi, còn về Giả Tưởng không có Tự Thể nên chi nó mãi chạy
chẳng khác nào Con Thỏ vậy.
Các Bậc Tu Thiền tọa căn bản là nhìn đặng các Giả Tưởng, bậc càng tu cao
bao nhiêu thì mau nhìn thấy Giả Tưởng bấy nhiêu, có nhìn thấy như thế mới khỏi lầm
lẫn mà Tỏ Tánh, có tỏ tánh mới biết được Tự Thể của Tiểu Ngã, Tự Thể Tiểu Ngã
chính là Thể Chân hay Chân Như cũng thế.
Thiền Sư muốn gom lại nghĩa trên nên Thiền sư nói: các ông nên hiểu biết
tường tận, lãnh hội đầy đủ Ý Chí sau này khỏi sai lạc như thế gọi là: tu Chủ Quán.
Đối với Linh Hồn Tối Thượng hay Như Lai hoặc Chánh Giác, kể cả Vũ trụ đến Thế
Nhân thảy đều có một khuôn khổ y nhau nó không sai khác, nhờ thế nên chi con
người quá biết thế gian Giả Tưởng mà đặng trở thành Siêu Nhân hay Bậc Thánh
Nhân, đó chính lời nói chân thật.
Linh Hồn Chánh Giác. Thể cùng Chất nơi Vũ Trụ. Đối với con người Vô
Thượng Đẳng Đẳng. Đến bộ phận Tiểu Ngã qua diễn hành nơi Giả Tưởng. Không
khác nào: Một Lãnh Tụ trong một nước hay một Chánh Đảng trong một Vùng, hoặc
một nhà Vua bỉnh trị trong một nước. Trên thời Lãnh Tụ Tối Cao được gọi là Linh
Hồn Tối Thượng. Dưới thời các hàng Tỉnh, các hàng Quận, các hàng Xã, được gọi là
Tiểu Ngã, đến hàng Dân Giả Bá Thiên Vạn Ức gọi là: Giả Tưởng từ nơi Giả Tưởng
Dân Giả cung cấp xây đắp Tiểu Ngã, do lẽ ấy nên chi từ nơi Tiểu Ngã là mức hiểu
biết của Dân Giả có thể dùng lời nói hay văn tự diễn giải đặng, đồng thời Dân Giả
nghe đặng, bằng dùng lời nói Tối Thượng làm sao diễn giải đặng, làm gì nghe đặng,
lời nói Tối Thượng duy chỉ có Tiểu Ngã lãnh hội được phần nào, nhưng đem ra phổ
20
truyền công bố thì Tiểu Ngã nói chưa ra lẽ, nơi ba từng lớp. Tôi nói ra đây chính là
một Chìa Khóa mở màn Vũ Trụ giao cảm với Con Người các ông hãy nghe đồng thời
nhận lãnh. Giờ đây nói rõ đồng thời chỉ điểm để cho con người ít nhất phải biết được
giá trị nơi mình có thể thi hành thực nghiệm được chính mình khám phá Vũ Trụ bằng
Bản Năng Khả năng của mình đoạt lấy giải thoát, theo đường hướng Đạo phật đã
vạch sẵn. Đạo Phật đã tự bản năng khả năng làm dụng cụ kết quả mục đích rất hữu
hiệu, nên Đạo Phật chỉ thẳng cho con người biết, con người có đủ đồng chất thành
Phật, Ngài nói: Ta Là Phật Đã Thành. Các ông Là Phật Sẽ Thành. Câu nói trên quyết
định trong sự hướng dẫn của Đạo Phật, các ông sẽ thành Phật, các Ông phải theo sự
hướng Đạo của lời chỉ dẫn nơi Đạo Phật.
Nếu các ông chưa tin con đường nơi Đạo Phật hoặc các ông quan niệm Đạo
Phật là một Tôn Giáo nhỏ bé dưới lệ thuộc chưa thực hành đúng với tinh thần thì biết
bao giờ các ông thành Phật? Bằng các ông Tin Phật trên hình thức nào đó, hay chưa
biết giá trị nơi các ông, chưa biết Thể Chất có Bản Chất Đồng Ứng Đồng Hợp với Vũ
Trụ thì làm sao thành Phật? Thiền Sư vừa nói đến đây lặng thinh chốc lát nói tiếp:
D. TIỂU NGÃ CỦA CÁC ÔNG TRẢI KHẮP VŨ TRỤ.
Tiểu Ngã nó có Tự Thể, gọi là Thể Tiểu Ngã con người có hiện diện trên Quả
Địa Cầu trên một Ngàn Năm Trăm Triệu Năm, mỗi người vốn sẵn Bá Thiên Vạn Ức
Tiểu Ngã đang Ứng Trực trong Vũ Trụ, chia ra từng Cõi Cảnh Giới như một chiếc
ghế chờ sẵn các nơi. Chừng nào con người ở nơi Quả Địa Cầu nầy, mãn phần thoát
sanh tùy theo Bản Năng trình độ về nơi chiếc ghế ấy mà an trụ. Chiếc ghế nơi an trụ
nó phải tương song với năng lượng, tương đồng với Bản Năng mà Chánh Báo hay
Chịu Báo cũng tùy thuộc nơi con người đang hành sự tại Thế Giới Địa Cầu nầy.
Đối với con người, nhìn con người mới nhận thấy mỗi người có một lý tưởng,
có một định hướng có mỗi đức tính khác nhau ít khi giống nhau, dù sao nó cũng
không ngoài Tiểu Ngã của mỗi người. Có người đứng về Tiểu Ngã Tiên, có bậc Tiểu
Ngã Thần, có người về Tiểu Ngã Thánh, có kẻ Tiểu Ngã Nhân, đến Tiểu Ngã Ngạ
Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục, mỗi nơi chốn đều là Tiểu Ngã Đại Diện cho Vũ Trụ, cùng
khắp Vũ Trụ có bao nhiêu Tiểu Ngã Thế Giới thì ở Thế Gian có bao nhiêu Đại Diện,
con người Đại Trí mong đoạt đến Vũ Trụ hoặc giao cảm với Vũ Trụ hay Xuất Định
về các Cảnh Giới Tiên Thần, thì trước tiên phải làm thế nào chinh phục những con
người làm cho tất cả đều Kính Ái, có ái kính mới có hàng phục Cảnh Giới, có thiện
cảm mới có nhập Cảnh Giới cùng các Cõi. Lời nầy là lời chính xác, lời Tâm Ấn thực
thể nên lưu ý. Bằng Tu Tọa Thiền, dùng đủ phương thức để xuất định nhập cảnh
chăng nữa thì những phương thức ấy đều nằm nơi Định Tưởng Giả Định, khi giả định
giả tưởng cái Thấy Cảnh Giới, hoặc vào Cảnh Giới thảy đều Thấy nơi phim ảnh Vũ
Trụ chớ chưa phải vào thật Cảnh Giới Tiểu Ngã, đó chính lời minh xác rất đúng.

21
E. XUẤT ĐỊNH NHẬP CẢNH TÙY THUẬN THEO
TIỂU NGÃ. 
Các ông cũng nên biết, Xuất Định hay nhập vào Cảnh Giới nào bất luận, phải
Tùy Thuận Đồng Hợp mà nhập Cảnh Giới của Tiểu Ngã.
Bậc Thiền Sư luôn luôn đứng tư thế nơi Tiểu Ngã để quan sát các Giả Tưởng,
xem Tiểu Ngã nào nó hiệp với Cử Chỉ Chi, nó ăn nói như thế nào, nó công dụng hạnh
kiểm ra sao, nó ưa thích những gì ưa thích với nó. Ví như: Tiểu Ngã Thiên thời bậc
Thiền Sư Tâm rộng rãi, ăn nói từ tốn, giúp người ít khi kể lể ơn nghĩa, đi đứng chớ
nên bừa bãi gọi là pháp môn Thiên đến chừng vào định, lúc xuất định, mặt đương
nhiên nóng báo hiệu lên Cõi Trời, khi đến Cõi Trời ngang qua biên giới giữa Cõi Trời
với Thế Gian thì Tiểu Ngã của Thế Nhân về Thế Nhân, nhận lãnh Tiểu Ngã Thiên
Giới dạo chơi khắp Cõi, lúc trở về Tiểu Ngã Thiên về lại Thiên. Tiểu Ngã Nhân tiếp
nhận lại Nhân.
Phần nhiều mỗi một Cảnh Giới hoặc mỗi Cõi các vị Thiền Sư rất hiếm bậc đã
từng vào ra Cảnh Giới hoặc các Cõi Tự Tại, vì chưa rõ thông Tiểu Ngã của mỗi một
Cảnh Giới hoặc mỗi Cõi. Do tại sao mới hóa sanh cảnh giới như thế, do những gì kết
nạp thành ra Cõi? Đa số chỉ dùng Định Tọa lúc nó đến đâu tùy nơi Thiền diễn tiến mà
Thụ Chấp.
Các ông cũng nên biết: Rất hiếm bậc vừa tu Thiền Tọa vừa tu Hiển Giáo gọi là
Viên Giáo. Bậc Viên Giáo rất có tin tưởng Tam thiên Đại Thiên Thế Giới bậc này tu
với đích chính thoát ngoài Vũ Trụ, về với Linh Hồn Chánh Giác, khi đã Chánh Giác
xong mới biết được Linh Hồn Tối Thượng. Biết đặng Tiểu Ngã tận rõ Giả tưởng mà
diễn giải, chớ bậc đang tu, đang nằm nơi Tiểu Ngã ngỡ mình Chánh Giác Thành Phật
không thể nào triệt thấu đặng mà nói.
Bậc tu xuất định buổi ban đầu hơi khó, nhưng khi đã xuất định đặng đương
nhiên bị bặt đi, không xuất đặng là vì bậc này mơ ước mừng rỡ hoài mong tự nhiên ra
vào nơi Giả Tưởng. Nên xả vọng tưởng cố công phu liền đặng nối tiếp.
Tu Thiền chớ nên gò ép quá trớn, ép quá trớn hay bị long đầu làm cho con
người lảo đảo, nhiều lúc bất bình tĩnh, nên tập thể dục hay tìm thú vui để giải hóa, giữ
sao cho thân tâm quân bình. Tu Thiền tựa như người cầm lái Xe Hơi, chính mình
phải Tự Chủ lái Thiền Pháp. Tọa Thiền chớ nên quan niệm lầm tưởng gò ép để xuất
hồn, tư tưởng như thế thật sai, Vì sao? Vì Tiểu Ngã là linh hồn đã có sẵn khắp nơi.
Khi Xuất Định đến nơi nó liền giao tiếp, chớ cho xuất hồn như trên, đó chính là một
quan niệm Ngoại Giáo Giả Tưởng lầm sai không thực thể. Khi bậc tu Thiền đến căn
bản tùy công năng tùy Trí Tuệ đến mức tận cùng đương nhiên xuất định, miễn làm
thế nào, lần theo Giả Tưởng thật tỏ thì mức Thiền càng cao, lần biết thì mức Thiền
tiến bộ chính tu Thiền là một môn Quán Xuyến Nhãn Tạng, nhờ Nhãn Tạng minh xác
những điều mê lầm nơi Giả tưởng, tự nơi mình đặng Chánh Giác, mới hay rằng nơi
mình có đủ phẩm chất, có sẵn linh cảm, có sẵn nhận định quân vương, lại có sẵn
22
Tánh Thấy không bị sanh diệt, nên nhìn thấy vạn dặm, do mình chưa biết sử dụng,
nếu biết sử dụng thì nơi Thấy kia là một bộ máy linh động tinh nhuệ nhất, tốc độ thâu
nhận nơi mình nhanh nhẹ gấp ngàn lần máy tinh xảo nhất Thế Giới của nhân tạo đã
làm sẵn nơi các Nước Siêu Cường. Nếu có bậc chỉ dạy hoặc Khai Thị để mình biết
nhận, chính mình chưa chịu nhận, cứ mãi theo Giả Tưởng, nghĩ cũng lạ thật.
Có vị Thiền Sư tự khởi: Sau tìm đặng giải đáp câu thoại đầu của Thiền Sư khởi
như sau:
Lúc bấy giờ Thiền Sư hái một chiếc lá, cầm chiếc lá tự hỏi? Màu xanh của nhà
ngươi từ dưới rễ dẫn lên, hay từ bên ngoài đáp xuống? Thiền Sư dùng Nhãn Tạng
xem xét, chốc lát đặng biết: Tất cả cây cảnh và quả đất thảy điều động có sức hút vào
nhả ra. Trên hư không hòa lẫn khí hậu có đủ màu sắc, có đủ gió lửa không thiếu sót,
tùy thuận màu nào hóa hợp liền đáp ứng bồi dưỡng thành hình, như lá xanh, hoa
vàng, hoặc đỏ cùng tím thảy đều đáp ứng tô điểm để nuôi chiếc lá đến Bông Hoa
đặng hoàn mỹ. Đến chừng thiếu sức tiếp liệu hút màu thì hoa kia hoặc lá nọ trả về
màu cũ gọi là lá vàng hoặc hoa héo. Dưới mắt con người nhìn chiếc lá xanh nhìn hoa
vàng hay tím cùng đỏ cho rằng, cây trổ hoa lá có màu sắc, chớ nào thật biết cây trổ
hoa, cành có lá, phải hút vào tiếp liệu màu sắc nhả ra rút chất nước dưới rễ nuôi thân
cây.
Vị Thiền Sư nầy còn biết, nơi không khí có chất Nguyên Tinh, chất Nguyên
Tinh nầy nó thung dung linh động vô kể, nó có thể xuyên qua bất cứ một nơi nào
trong vũ trụ, Chất nầy nó làm cho tất cả đều hóa sanh, nó tiếp nuôi con người sống
lâu, nếu con người biết sử dụng, nó hòa đồng với hư không, bằng chẳng có nó thì Hư
Không cùng khí hậu không hòa đặng nhau nó hiệp hai khối hóa sanh ra đồng hợp, nó
biến chế ra không khí nuôi dưỡng con người, con người quan niệm khí hậu tốt nuôi
con người mạnh khỏe, nếu khí hậu tốt mà không có chất Nguyên Tinh là một chất
sống kia khí hậu cũng vô dụng. Chất Nguyên Tinh nó tinh vi linh động mạnh mẽ vô
cùng, nó viên thông xuyên qua thân thể con người, làm cho các bộ phận con người có
chất sống, chất nầy qua đến đâu vào bộ phận nào cũng làm cho bộ phận di chuyển
sống động, nhờ chất Nguyên Tinh các tế bào mạch máu mới có chất sống để mà sống.
Chất sống Nguyên Tinh chẳng phải riêng cho con người, nó chung cả Vũ Trụ có nó
mới sống, gọi là một chất đặc biệt Chất Sống Vũ Trụ và Nhân Loại.
Thể Chất Nguyên Tinh là Nguyên Chất của Vũ Trụ, nơi Nguyên Chất nó rất
tinh vi linh động, nó cũng là Chất sống Nguyên Thủy triệu triệu xưa, nên gọi là
Nguyên Tinh.
Tánh nơi Nguyên Tinh tất cả Vũ Trụ đến Sơn Hà Đại Địa Cây Cảnh Núi Sông
đến muôn loài vạn vật thảy có nó đáp ứng đem cái sống linh động tăng trưởng cho tất
cả, nếu vật chi thuộc về thiên nhiên hóa sanh đều có chất Nguyên Tinh dung dưỡng,
bằng nhân tạo thì chẳng có chất Nguyên Tinh bồi dưỡng, vì vậy nên chi thiên nhiên
hóa sanh sống lâu bền bỉ, còn nhân tạo mau hư, mau hủy diệt.
23
Tánh chất Nguyên Tinh không làm cách gì ngăn chận nó nổi, nó có thể xuyên
qua bộ xương để cung cấp bộ xương đặng sống, nó xuyên qua mạch máu, gan phèo
phổi cùng bao tử cho đến các tế bào để đem chất sống cho con người, con người từ
bấy lâu nay chỉ biết mình đầy đủ thân thể ruột gan không thiếu sót là sống, khi ốm
đau hoặc thiếu ăn thân thể uể oải bệnh rồi chết, chớ nào ngờ nơi ăn uống bồi dưỡng
cả vật chất lẫn tinh thần không có Nguyên Tinh thì con người thiếu linh động, thiếu
chất sống con người phải chết.
Chất Nguyên Tinh là một chất động cơ thúc đẩy trong thân thể con người dù
cho đầy đủ bộ phận đi nữa chăng, không có chất nguyên tinh cũng không thể nào
thúc đẩy các bộ phận làm việc, khi các bộ phận không làm việc thì con người không
thể sống. Từ Vũ Trụ đến vạn vật đều phải như thế.
Chất nguyên tinh nó xuyên qua cũng như lằn điện tử, các lằn sóng điện phát
thanh hay vô tuyến truyền hình, dù cho con người đậy kín thế nào nó xuyên qua cũng
đặng. Nếu con người biết dùng chất Nguyên Tinh thời con người sống lâu tùy nơi
mình gìn giữ nó.
Các bậc Tu Tiên đến lúc gần thành Tiên vẫn dùng chất nầy để bồi dưỡng thân
thể tráng kiện, họ gọi là Sanh Khí. Có phái dùng chất Nguyên Tinh tập trung nơi tinh
thần xuất định lên các Cõi Tiên Thần được gọi là Tinh Khí Thần, chất nầy sẵn có
trong Vũ Trụ trùm khắp. Con người mau già hay chậm già vì lo nghĩ ưu phiền thì
chất nguyên tinh ít thu nhận được trở nên hư hao gầy ốm, nếu giải buồn phiền ưu tư
lòng thoải mái tươi đẹp thì chất nầy nuôi dưỡng mãi lâu già.
Chất Nguyên tinh nó giúp cho bộ óc hữu hiệu nhất, theo khoa học họ đem bộ
óc con người ra thực nghiệm nào là: Bộ óc đường máu hở hoặc giả bộ óc xanh xanh
tím tím là thông minh, hoặc lớn hay nhỏ tùy theo nơi thực nghiệm khoa học mà minh
xác. Đối với nhà Thần Thoại học họ chỉ thân tâm thoải mái, mỗi sự việc chi đưa đến
họ tìm cách hóa giải. Khi tư tưởng khởi sanh, mặc nhiên để tư tưởng phát sanh họ
liền hóa giải tư tưởng liền mở mang lần tiến. Không khác nào người khai mương
nước đọng đến đâu khai thông đến đó, đối với bậc mở mang bộ óc cũng như thế,
chưa phải con người họ đã ngu, chỉ vì chưa biết sử dụng khai hoa bộ óc, biết khai hoa
đến đâu thời chất nguyên tinh động cơ thúc đẩy đến đó, miễn con người đừng cố thủ
lấy mình đương nhiên thông thái. Phần nhiều những nhà Thông Thái học họ ít muốn
mang những câu chuyện bé nhỏ vào thân tâm, nên chi họ tiếp nhận nơi bộ óc nhiều
sáng kiến, họ chỉ lấy sáng kiến hay hóa giải theo Triết Học nên được bộ óc tiến hóa.
Đối với các cõi như cõi Tiên họ dùng Thanh làm vi bản, chất Thanh nhiếp thu
đặng nhiều Nguyên Tinh chất đồng hòa hợp với Hư Không trở thành thanh thoát mà
đặng chất Nguyên Tinh cung cấp nhiều nên chi tuổi thọ họ sống lâu. Còn con người
từ chất hư không, chất khí hậu đồng hòa chất Nguyên Tinh nó có pha lẫn chất thô nên
tuổi thọ chưa đặng bao nhiêu, do đó nên công dụng về tinh thần nhiếp thu chất
Nguyên Tinh để nuôi thân.
24
Bậc Tiên Đạo thường dùng cặp mắt có một chiều ưa xuất trần lao lọc bỏ chất
thô tạo thành thanh chất thành ra riêng có mỗi một phần lấy mình huân tập thành
hình. Còn đối với dưới mắt Thiền Sư soi nhìn trùm khắp nên thật biết đặng chất
Nguyên Tinh quí vô giá, nơi nào chỗ nào cũng sẵn có chất Nguyên Tinh, miễn con
người dụng tâm vui vẻ, dùng trí sáng soi, dùng thân ăn ngủ điều độ tất cả những
chuyện vặc mắc bỏ qua nuôi lấy tinh thần thư thả liền nhiếp thu Nguyên Tinh vào để
nuôi thân mạng. Chất nầy tinh vi nguyên thể tùy theo tư tưởng trình độ cung cấp tăng
trưởng không ngưng, duy chỉ ưu phiền, tự mang lấy buồn bực thì nó tiếp thu rất ít, chỉ
xuyên qua nuôi thân thể phần nào, biết cách sử dụng lấy nó có ích lợi vô kể. Nguyên
Tinh nó không có thẩm quyền đem đến Cái Biết viên thông cho con người, nhưng nó
có tánh chất viễn thông chạy mãi không ngừng, nhờ tất cả các chất phối hợp nhau trở
thành Cái Biết viễn thông tự tại, nếu như không có nó thì tất cả nằm yên đình trệ tất
cả không có lấy tia sống, chính nó là một nguồn sống nơi hy vọng của con người, lúc
con người có tia sống, có hy vọng để mà sống, chớ nên đặt hy vọng ấy thái quá đến
ngày kia đến nơi tuyệt vọng thì chất Nguyên Tinh bị đình trệ nguy hại vô cùng. 
Bậc Thiền Tọa đến mức khá cao thực hành một thời gian sở đẳc Chánh Định
Tam Muội thì hoàn toàn điều khiển, hoàn toàn sử dụng nguyên tinh, nhờ nơi thúc đẩy
không ngừng phát sanh rốt ráo nên mới đoạt đến vũ trụ tương quan nhịp nhàng chung
Chánh Định.
Sự lầm tưởng nơi con người, tự mình tu luyện tu thân, tu tinh thần, tu hiểu biết
phá mê chấp, tu trong vạn hạnh cốt được tỏ thông, hoặc giả thực hành cốt chứng ngộ.
Đứng tư thế tự mình cấu tạo, tự mình hóa giải, tự mình tự giác thảy đều là một
phương tiện đi đến hoàn toàn thực chất Nguyên Tinh sống động vũ trụ với con người
Đồng Thể, cho nên Đạo Phật bảo thảy nương nơi Vô Ngã lần tiến đến Đại Ngã Viên
Giác liền Tự Thể hóa sanh, khi tự thể hóa sanh mới thật biết mình Đại Diện Vũ Trụ,
Đại Diện Vạn Pháp Ứng Thân Nhất Thể.
Nơi lầm tưởng của con người chẳng có vị nào tránh khỏi, thời xưa Đức Bổn
Sư, lúc đang còn là Vị Thái Tử Tất Đạt Đa vẫn theo quan niệm giải quyết Sanh Tử
Bệnh Lão Khổ. Ngài theo phái Trần Kiều Như tu khổ hạnh chưa tìm đặng nguyên lý
tinh thần thiếu thốn. Sau đến cội Bồ Đề tinh dưỡng tinh thần bồi dưỡng hiện vật như
thường, thân tâm dung hòa mới đoạt Vô Thượng Chánh Giác.
Đối với con người biết rõ trong tay mình có Đạo Đức thời đứng trước mọi sự
việc gớm ghê họ thảy đều an nhiên, trong mọi việc xảy đến nơi, nhưng mọi việc đó
không bao giờ xảy đến.
Những bậc đã từng biết rõ về vấn đề Sanh Tử, nên không bao giờ sợ chết còn
mong cái chết đưa đến cho bậc đã từng tỏ rõ về sanh tử.
Thiền Sư vừa nói đến đây, số người đồng thưa gởi: Kính thưa Thiền Sư con
đường tử, khi bậc đã biết nơi hiện tại đang lúc còn sống, tạo Đức Độ đến vị lai đặng
thoát sanh vào nơi cao quý, vào chốn an nhàn Chánh Báo. Chúng tôi mong Thiền Sư
25
giải cho chúng tôi được nghe nơi thoát sanh của con người từ phàm phu đến Thánh
Tăng có khác nhau như thế nào? Bọn Ác nghiệt Bị Sanh nó ra sao? Thưa gởi xong
yên lặng chờ nghe.
Thiền Sư nói: Nói đến sự ác nghiệt bị sanh chịu cực hình thời nó vô kể. Nhưng
các ông cũng nên biết nơi thường dân tục tử, dù ác nghiệt đến đâu chăng cũng là một
tội bé nhỏ riêng mình, chỉ trừ trường hợp làm cho những bậc tu hành tạo phước điền
đoạn duyên mới đáng kể. Đứng vào hàng Vua Chúa Quan quyền, một khi đã Ác
Nghiệt Phê Chỉ làm cho hàng triệu con người phải lầm than đói khổ, làm cho vạn vạn
than phiền mới nên tội A Tỳ Địa Ngục, ví như Tần Thủy Hoàng xây vạn lý. Vua
Thành Thang cất Bá Lạc Đài. Bọn Hắc Nô bắt con người mò Trai Lấy Ngọc. Vì lẽ ấy
mà Bậc Minh Vương Bậc Vĩ Đại Cứu Tinh mỗi lần Phê Chỉ Ban hành thảy đều xem
xét kỹ càng ích nước lợi dân mới dám chuẩn ký.
Khi một vị Vua Chúa ban hành điều ác nghiệt, sau lúc lâm chung đang nằm
trong cung vàng điện ngọc các quan hầu cận đầy đủ chăng, Tiềm Thức (hồn) vẫn
nghe la ó hét hò, không khác nào toàn dân hãm thành đổ bộ. Khiến cho tiềm thức nhà
vua sợ hãi, vội vàng ngồi dậy, bị toàn dân tay cầm gươm đao đến đâm chém, khi bấy
giờ nhà vua đâm đầu chạy, bọn người đuổi theo hạch tội, xiềng xích nhà vua, mang
về bỏ vào ngục tối, trường hợp ta nói trên thường nó như thế, nó còn hơn thế nữa, kể
không bao giờ hết những tội mà nhà vua hoặc quan tham hà lạm, hoặc quan lừa dối
dân để cướp của.
Còn đối với con người Hiền Lành hay Phước Đức hoặc Tánh Tình tốt thường
giúp đỡ mọi người Quảng Đại Quang Minh, nhưng họ chưa có mục đích nào để đến
nơi thoát sanh, họ đứng ra ngoài Tôn Giáo hết thảy. Khi lâm chung, nói đến trạng thái
con người lúc lâm chung duy chỉ dưới mắt Thiền Sư mới nhìn thấy, ngoài ra con
người thường chưa thấy được Lâm chung nó tùy theo giai cấp Phước Đức, giai đoạn
Duyên lành mà nó xuất hồn thoát sanh.
Con người trước ngày lâm chung, đương nhiên họ nhận thấy buồn hoặc nhận
thấy lờ mờ vô căn cứ, đôi lúc con người tự thán với bà con giòng họ. Đến ngày lâm
bệnh. Nếu họ may mắn gặp Vị Thiền Sư đã từng xuất định cầu cứu, thời vị Thiền Sư
nầy không phải chữa bệnh cho họ trên giường bệnh mà vị nầy xuất định đi các cõi
xem Tiềm Thức (hồn) nó đã có phần nào nằm ở cõi nào hợp với bệnh nhân, liền tháo
gỡ trả về dương thế tự nhiên lành bệnh qua cái chết. Nói đến con người chết nó
không có số mạng chi cả, nó chỉ biết cách chữa trị, biết lối bồi dưỡng hay chưa biết
nên nó phải chết mà thôi. Con người sắp gặp phải bệnh nặng nó vẫn có triệu chứng
nầy.
Khi con người hấp hối, thì tiềm thức đã có một phần nào xuống hoặc lên ở một
cõi nào rồi, còn phần xác đang nằm trên giường bệnh hấp hối. Tiềm Thức nó lần lượt
xuất, lúc trong thân con người xuất, nó không khác nào hơi khói trong thân bốc lên
cứ tuần tự bốc mãi đến khi hết cả đầy đủ tiềm thức thì Vía Dại gọi là cặn bã nghiệp
26
thức nó nhập xuống dưới chân giường, con người liền tắt hơi, cặn bã nghiệp thức họ
thường gọi là Hồn Thư. Đối với con người lúc sanh tiền đang còn sống, nó có Khôn
và Dại nên mới có hồn Khôn, vía Dại. Cái vía dại này nó rất ảnh hưởng đối với con
người, thoát sanh mau chậm hay còn ái nịch luyến tiếc bà con giòng họ của cải nhiều
ít đều do nó lôi cuốn cả. Khi Tiềm Thức bốc lên Hư Không, Tiềm Thức là một Chất
Thanh, còn Hồn Thư gọi là vía dại là chất thô, Chất Thanh đang còn tập nhiễm nhiều
ít chất thô nên chi Tiềm Thức đã bốc lên Hư Không, nhưng vì tập nhiễm thành thử
chưa dứt khoát về cõi đã sẵn mà thoát sanh hoàn mỹ. Nếu gặp đặng Vị Thiền Sư, Vị
nầy chỉ nhìn vào xác chết đương nhiên hai bên không còn vướng vấp nhau nữa. Bằng
gặp đặng vị Đại Đức lấy công đức nơi mình chú nguyện tự nhiên cũng đặng như trên.
Nên nhớ khi trong nhà Tang Chủ có người chết không còn có âm khí buồn lạnh, đó là
cuộc thoát sanh hoàn mỹ, nếu còn Âm khí ưu buồn thì vẫn còn vong linh tiềm thức
lai vãng, phải chú nguyện đặng thoát sanh.
Các ông cũng nên biết Tiềm Thức thanh chất nó có đặc tánh di chuyển đến nơi
Chánh Báo hoặc Chịu Báo để kết nạp với Tiểu Ngã nơi Cõi hoặc Cảnh Giới đó, còn
Hồn Thư Vía Dại nó nằm yên với Tiểu Ngã đã để lại kết nạp an trụ đứng yên. Cũng
như con người đang ở cõi Nhân đặng lên cõi Trời thì Tiềm Thức lần lượt di chuyển
lên Cõi Trời được sanh lên Cõi trời. Còn Hồn Thư Vía Dại, nó ở lại cõi Nhân kết nạp
với Tiểu Ngã Nhân pháp mà an trú. Chờ chừng nào Bậc kia đoạt Vô Thượng Đẳng
Chánh Giác, gọi là Đại Ngã Bát Đại thì chung gồm Bá Thiên Vạn Ức Tiểu Ngã thảy
đặng trở về kết chung với Bát Đại, gọi là hoàn mỹ, hoặc chân thiện mỹ hoàn lai cũng
thế.
Đối với con người Tốt, Hiền Lành, Đạo Đức đồng với Quảng Đại Quang Minh
của mỗi người, dù cho di chuyển bằng cách nào đi nữa, đến 49 ngày vẫn được thoát
sanh trừ trường hợp ái nịch quá trớn vong linh lai vãng quá nhiều thì bị sanh lộn kiếp
ở trong gia đình, như Bà Nội thương cháu nhiều không nỡ thoát sanh, lưu trú vãng lai
thời nó lại đầu thai làm em của cháu nội hay làm con của con mình, trường hợp nầy
rất nhiều, do ái nịch bị sanh lộn kiếp.
Bằng con người cúng tế sát hại trâu bò gà vịt, Dê Cừu cầu lấy Phước Báo khó
đặng kết quả thoát sanh, lại thêm vào một đường dây Nghiệt Quả, đây là lời nói thật,
vì sao? 
Vì ta đã từng nhập vào Chánh Định, đã từng gặp các Chư Thần ở Cõi Trời hay
cứu giúp Nhân Gian, từ Thần Hoàng đến Thần Miếu qua Thần Thánh lại Thánh Quân
cùng Thánh Mẫu thảy đều phàn nàn phiền trách với ta rằng: Kính thưa Thiền Sư,
chúng tôi toàn Chánh Trực Quang Minh Thần. Chúng tôi không thiếu chi món ẩm
thực hương vị ngọt ngào cao qúy, thanh thoát thơm tho. Chúng tôi thấy dương gian
gây tạo ác nghiệp, nên có ác căn tai nạn xẩy đến cho họ liên miên. Họ lại có lòng thờ
phụng cung kính van cầu chúng tôi, chúng tôi động lòng ra tay cứu độ cho họ thoát
khỏi tai ách.
27
Mỗi lần chúng tôi giáng trần, đến nơi Đình Miếu thì hỡi ơi! Trước mặt chúng
tôi họ đặt rất nhiều xác chết, thiêu đốt luộc quay. Chúng tôi làm sao nói đặng? Đứng
nơi lòng thành hòa lẫn ác nghiệp, buộc tình chúng tôi cứu nạn với lòng thành. Con
người họ vì tục lệ, họ vì ưa thích nên họ tưởng chúng tôi ưa thích Gà Vịt, Heo Quay,
Bò Tái, Rượu Nếp, Canh Xôi thật ra chẳng biết nói sao hơn, việc đó chưa phải tín chủ
mà bọn tế lễ tham ăn dục lợi thu gấp, khiến con người phải làm như thế. Chúng tôi
mong Thiền Sư đương thời Hạ Lai nầy, nói lên lời nói giúp chúng tôi khỏi phải mang
tiếng tế Thần bằng lối sát sanh như vậy, thưa gởi xong liền chầu trời. (Đêm 30 tháng
9 âm lịch 1965)
Các ông cũng nên biết: Khi bậc đã có Phước Điền, có một đức tin làm lành
thời có nơi chốn chứng minh, có Vị Thánh đỡ đầu. Lúc lâm chung, Tiềm Thức bay
bổng lên Hư Không, miệng liền niệm danh hiệu Tôn Giáo Đức tin của Mình như:
Kính lạy Chúa, hay kính mong Thần hoặc kính gặp Thánh tùy tùy mỗi con người tin
mà phát niệm, liền khi đó có tia sáng: Hồng Quang về Cõi Thần, có tia sáng Thanh
Quang về cõi Trời làm dân, có tia sáng Bạch Quang về Cõi Trời làm Quan, có tia
sáng Huỳnh Quang về Tịnh Độ. Có lúc con người thật tốt nhưng chưa đặng Đức tin
vững, vừa lên đến Hư Không, vui mừng đi dạo khắp vũ trụ, nhưng không bao giờ
thấy đặng các Cõi, các Cảnh Giới, đến sau tâm thần bớt khoan khoái lờ đờ, khi tỉnh
lúc mơ, nhớ đâu gặp đó, liền đến Thần Hoàng Miếu Võ mà ở liền trở thành Thần Núi
Nhân Gian, hoặc gặp phải tia sáng đủ màu liền được về Nhân Thế mà thai sanh con
nhà giàu có để tu hành. Trái lại có Bậc thật tốt nhưng quá chơi bời, Đình Trà Tửu
Điếm lúc sanh tiền bạn bè thân hữu nhiều nơi, thường vui chung cùng chúng bạn.
Đến giai đoạn trên dạo chơi khắp nơi, liền đến chốn ca xướng ăn chơi nhảy múa, liền
nhập bọn ở nơi đó say mê lâu ngày vẫn bị tấm màn bao phủ thụ thai sanh vào Súc
Sanh Giới. Nếu lối chơi thanh bai quý phái, Công Đức cao dày thanh thoát thì đặng
thụ thai vào Cõi Trời Lục Dục Thiên an hưởng.
Nói đến Chánh Báo, các bậc tu hành Hạnh Nguyện từ nơi chứng tri Đắc Pháp
Chân Không chưa tỏ rõ về nơi Sanh Tử, một là cứ Thọ Chấp Chân Không chạy theo
Kiến Dục, Tăng Thượng tự xưng Thánh, Phật thì sau khi lâm chung bị tội Vô Gián
Địa Ngục.
Bậc Sở Đắc Chân Không biết giá trị nơi Chân Không là quét dọn Giả Tưởng về
với chính mình là Tiểu Ngã sáng soi ngàn phương để Giác Ngộ, đó gọi là: Bồ Tát Soi
Khắp Ngàn Phương.
Kẻ Ngoại Giáo, người tham vọng khi xem những bộ Kinh của các Thiền Sư
như: Kinh Liễu Ngộ Đốn Môn, học thuộc hiểu mới sơ qua vội chấp Không cho tất cả
Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều không, cho vạn pháp di chuyển Chánh Báo Thọ
Báo thảy đều Không, cho tất cả Chư Phật cùng Bồ Tát Nguyện, Bồ Tát Hạnh đều
Không, cho tất cả sự tu hành, diễn tiến Phật Quốc Tịnh Độ đến Bát Đại Niết Bàn đều
Không, do nơi trụ Không mà theo kiến dục, Ngôn Ngữ Tà Kiến. Tự xưng Như Lai tự
28
xưng Phật làm cho một số con người phải lầm lạc, làm cho một số con người ngạo
mạn, làm cho một số con người Ngoại Giáo sa vào Vô Gián.
Bậc chuyên chính giúp đỡ cho con người không cầu báo, đi trong cái Khổ đặng
an vui vì cốt thật biết cái khổ của con người, nên chi bậc nầy không thấy khổ. Bệnh
nầy thường tìm nơi bệnh tật ngăn chấp, bệnh tật lười trễ bệnh tật nằm yên, bệnh tật
tham vọng, bệnh tật Giả Tưởng, bệnh tật Bảo Thủ, nên chi lúc đau đớn bệnh tật, bậc
nầy tìm không ra nơi bệnh tật đau đớn, trở thành thấy mình không có bệnh. Bậc nầy
chuyên chú vào nơi hiểu biết tăng trưởng hàng ngày, nhìn đến sự khai thông là một
nền tảng trẻ trung mới lạ nhất, nên chi không tìm đặng chỗ Lão nơi mình. Bậc nầy
thật biết tỏ rõ con người đua chạy theo Khởi Sanh Bị Diệt trong Giả Tưởng lìa bỏ
Tiểu Ngã Thể Tánh để tu hành nhiếp thu Giả Tưởng thật biết Giả Tưởng là Nghiệp
cấu Tạo Sanh Tử. Khi bậc nầy rõ đặng khỏi lầm lẫn Chứng Vô Sanh về với Tiểu Ngã,
bậc nầy tu theo Bát Nhã lấy Bát Nhã cốt nương theo Vô Ngã về với Chân Ngã gọi là
Đại Ngã chứng chi rốt ráo, biết tỏ rõ sanh tử Thọ Báo Chánh Báo nó như thế nào rành
mạch, gọi là: Giải Quyết Sanh Tử Bệnh Lão Khổ Chánh Giác.
Mục tiêu của Thánh Tăng trọn vẹn có bấy nhiêu đó nên chi từ bậc Sở Đắc
Chân Không, Sơ Trụ Bồ Tát, dù cho có thoát sanh như thế nào chăng cũng là độ
sanh.
Từ bậc Sơ Trụ Bồ Tát trở lên, từ Hạnh Nguyện Hành Dụng Nhiếp Thâu Lục
Đạo sự thoát sanh ít nhất có ba Kiếp Thượng Sanh về Cõi trên như: Cõi Trời, Cõi
Tiên Thần, tùy thuận mà Thượng Sanh, đến Ba Kiếp Hạ Lợi Thoát Sanh về cõi dưới
như: A Tu La, Ngạ Qủy, Súc Sanh. Bồ Tát vòng quanh Lục Đạo trong sáu Kiếp, khi
nhiếp thu Lục Đạo rốt ráo mới chứng tri Đại Bồ Tát, đến kiếp thứ bảy, Bồ Tát thành
tựu Tịnh Độ Bồ Tát. Kiếp thứ tám và kiếp thứ chín chứng tri Bồ Tát Nhất Sanh Bổn
Xứ thành Phật. Đến Kiếp Bồ Tát Thành Phật là chính kiếp thứ mười, từ kiếp thứ chín
có câu:
Thượng Sanh Đâu Xuất Tôn
Hạ Lai Vô Thượng Đẳng
Thiền Sư vừa nói đến đây nhìn chúng tôi, Thiền Sư trầm lặng chốc lát nói tiếp:
Các ông đang nghe những lời tôi nói rất chân thật, các ông chớ nên nản chí. Đối với
việc đời khi các ông xây cất mỗi một cái nhà nó cũng phải đầy đủ cửa lớn, cửa nhỏ
nơi tắm nhà bếp đến chổ nơi Đại Tiện không thiếu sót mới thành đặng cái nhà. Còn
về việc Đạo, việc khám phá Vũ Trụ với con người cũng phải tỏ rõ tỉ mỉ mới đoạt đến
mục đích hoàn mỹ, chớ chẳng nhẽ mới biết qua thô sơ đơn giản mà đã gọi là làm Chủ
Vũ Trụ sao? Khi bậc đã Vô Thượng Đẳng thời không còn chỗ phân biệt Vũ Trụ với
con người hoàn toàn Chánh Giác, đó mới gọi là Nhất Thể.
Từ nơi Sơ Trụ Bồ Tát thoát sanh ba kiếp Thượng Sanh hay Hạ Lợi nó tùy
thuộc nơi Bồ Tát tu theo Đạo Hạnh. Bồ Tát Đạo Hạnh Nhân Thiên thời thoát sanh
Thượng Sanh trước. Bằng Bồ Tát Đạo Hạnh Ngạ Qủy Súc Sanh thời thoát sanh Hạ
29
lợi trước. Từ Hạ Lợi hay Thượng Sanh Bồ Tát phải hành thâm nhiếp độ cho tỏ rõ mới
bất thối chuyển, nếu chưa triệt thấu thì Bồ Tát thường bị thối chuyển hoặc chạy theo
Tà Kiến thoát Sanh mơ màng không tìm đặng lối thoát.
Khi Sở đắc Chân Không phải tu hành Bồ Tát, phát đại nguyện gọi là Bồ Tát
Nguyện, lập Đạo Hạnh gọi là Bồ Tát Hạnh, thi hành Hạnh Nguyện tu Bồ Tát mới
đặng Tâm Không Nhiễm trước gọi là Sơ Trụ Bồ Tát.
Bậc Sơ Trụ Tâm không nhiễm vạn pháp. Nhưng chưa biết sử dụng vạn pháp
thành thử thực hành trong sáu kiếp cốt nhiếp thu Lục Đạo mà Tận Giác Lục Đạo,
chừng đó mới tỏ rõ tỷ mỷ sanh tử luân hồi. Sanh tử chính là một sợi dây thuyên diễn
Bệnh Lão Khổ vậy.
Bồ Tát Sơ Trụ chứng tri. Trước ngày lâm chung Bồ Tát thường hay biết trước.
Vì sao? Vì hàng ngày Bồ Tát quán thấy ở trên đời, làm kiếp con người quá ư cực khổ,
con người lối sống giả tạo, vạn pháp thực hư nhân tình ít thích hợp với tâm cảm của
Bồ Tát, Bồ Tát kiên cố nhẫn nại, kiên cố nhiếp thâu cho rồi lấy một kiếp, Bồ Tát
quán các cõi, quán Niết Bàn, quán Thân Tứ Đại giả hợp, Bồ Tát lại nhớ hỷ xả nương
theo Bát Nhã tu tập. Có Bồ Tát cố định trường trai cốt thanh tịnh ẩm thực. Bồ Tát an
lành bằng lối giúp đỡ cho con người, chỉ dạy cho con người được hiểu biết Đạo Phật.
Bồ Tát tu hạnh Đầu Đà, tu hạnh Nhẫn Nhục, tu hạnh Lễ Bái, Cung Kính Tất Cả Tam
Thế Phật. Bồ Tát nhận lấy nghịch cảnh giúp cho con người được an nhàn, Bồ Tát
không sợ lời xâm xỉa, mắng nhiếc miễn làm sao sự xâm xỉa mắng nhiếc kia không
vào Tâm của Bồ Tát sân hận, thù hằn là Bồ Tát an vui đứng nhất. Nói đến hạnh
nguyện nơi Bồ Tát thật vô kể, vì Bồ Tát tùy mỗi vị thi hành hạnh nguyện, chung lại
Bồ Tát mong thành Phật phải thực hành Vạn Hạnh Nhiếp Thu mới đến bất thối Bồ
Tát, đến khi Bồ Tát thành Phật phải thực hành Vạn Tướng mới thành Phật, Các ông
nên nhớ: Lúc lâm chung Bồ Tát Sơ Trụ tùy theo Hạnh Nguyện Bồ Tát mà Bồ Tát
thoát sanh, nếu Bồ Tát Đạo Hạnh khang trang, liền có mùi thơm ngào ngạt tất cả thảy
đều vắng lặng, Bồ Tát nhìn thấy tia sáng, sau tỏa khắp phòng hoặc giả Cốc hay Tịnh
Xá, Bồ Tát liền đặng thoát sanh lên cõi trên như các Cõi Trời chẳng hạn. Đến khi
đặng sanh. Bồ Tát sanh vào nhà Dân Thiên hay nhà Quan Thiên hoặc nhà Quí Tộc
Hoàng Gia tùy theo Công Đức Bồ Tát mà thành tựu.
Bồ Tát chưa biết đặng chính mình ở đâu lai sanh nơi nầy, tại sao mình đặng
sanh hay bị sanh vào nhà dân giả. Vì sao? Vì Bồ Tát đặng thoát sanh lên đến Tiểu
Ngã Thiên Ngã cung trời liền được tiếp vận, còn Nhân Ngã trả về Nhân Ngã để cho
Vía Dại gìn giữ theo như trên đã nói.
Khi bấy giờ Bồ Tát, tâm thần sáng sủa nhìn đến sự sung sướng không bền
vững, được trải hoa để Bồ Tát yên nghĩ, được Ẩm Thực cao lương mỹ vị, đặng y áo
Gấm Tố Thiên, được tắm bằng nước Bạch Hương Thủy. Đặng Thiên Nữ chăm sóc
mang hài Huỳnh Long, được Chư Thiên yêu qúi. Bồ Tát đương nhiên chưa thỏa mãn,
chưa đặng lẽ sống nơi lòng, Bồ Tát thường tụ tập Chư Thiên, thường nói năng giúp
30
Chư Thiên những điều cao qúy. Đến một thời nào đó Bồ Tát phát nguyện Niệm Phật-
Niệm Pháp- Niệm Tăng tu trì chuyên ròng thuyết pháp. Nên nhớ rằng: Bồ Tát một
khi nhất tâm tinh tấn được sanh vào Cõi tu trì trong 18 Từng Trời ở Cõi Thiên. Đó
gọi là Bồ Tát tinh tấn, đứng thứ nhất trong hàng Sơ Trụ Bồ Tát.
Bằng có Bồ Tát được thoát sanh lên Cõi Trời sung sướng, đờn ca sáo thổi cùng
với Tiên Nữ múa hát đắm say, chạy theo ngũ dục mãi chơi bời, đôi lúc thấy lòng
mình chưa toại nguyện, bày thêm nhiều cuộc vui say, nó cứ thế mãi, sau mãn phần
một kiếp trở lại Hạ Lợi thoát sanh vào Súc Sanh Giới mà thi hành Hạnh Nguyện, đến
một hoặc hai kiếp, tùy thuận hợp hóa nơi nguyện mới tái sanh, nói đến chủ yếu của
Bồ Tát, Bồ tát phải đầy đủ tỏ rõ Nhiếp Thu Lục Đạo, khi Bồ Tát thực hành nhiếp thu
lục đạo, đó chính là pháp môn Lục Tự Di Đà, pháp môn Lục Tự Di Đà sở đắc hoàn
mỹ, đương nhiên Bất Thối, gọi là Bất Thối Bồ Tát.
Đối với bậc Sơ Trụ đến bậc Bất Thối cùng Chư Phật, khi lai phàm vẫn giả mê
để Đồng Hành, Đồng Sự, Đồng Ngôn cùng Đồng Đẳng. Đến một thời nào đó Bồ Tát
phát nguyện tu hành lần tiến đến mức mình đã Sở Đắc từ ngàn xưa. Thiền Sư nói đến
đây căn dặn chúng tôi hai ba lần, Ngài nói: Khi bậc Bồ Tát giả mê rất mau Đốn Ngộ
của mức Bồ Tát. Qua đến giai đoạn chưa đặng ngộ của thời trước thường hay dừng
trụ, giai đoạn nầy phát sanh ra nhiều Tự Ngã, nhiều ngạo mạn, nhiều lầm tưởng mà
chấp trụ. Bồ Tát nên phát tâm Dũng Mãnh Nguyện trọn kiếp cúng dường Tam Thế,
tinh tiến không dừng trụ, thì nó liền qua cơn Tạo Ngã, qua cơn Ngạo Mạn, qua cơn
Lầm Tưởng đến mức Bất Thối.
Bậc Bất Thối lục đạo tỏ thông, Lục Đạo viên đạt, biện tài vô ngại, Đạo hạnh
dung minh. Bậc nầy tỏ rõ đường đi, lối về của con người chạy theo lục đạo, làm con
đường thay đổi, di chuyển gọi là Sống Chết. Mang lấy cá tánh, gìn giữ Cá Nhân cho
mình hiểu biết, ưa thích dạy đời, hơn là chính mình phải học trùm khắp, phải bị sanh
tử trong Lục Đạo. Do đó thân tâm Bất Thối chuyển, được gọi là Bất Thối Chuyển Bồ
Tát.
Bậc Bất Thối. Khi thoát sanh lâm chung bậc nầy đang Bệnh nằm nơi giường,
bậc nầy lúc chết, vẫn chưa biết mình đã chết. Tiềm Thức (Hồn) ngỡ mình đang còn
sống, thân mình nhẹ nhàng khỏe khoắn hết bệnh, nhìn thấy Tứ chúng ra vào lễ bái
như thường lệ. Nếu là cư nhân vẫn thấy gia đình sinh sống như lúc bình thường. Đến
bảy ngày sau, đương nhiên được biết mình chết, nếu bậc bước vào bất thối tuyệt đỉnh,
bậc nầy an nhiên không còn tập khí không còn ái nhiễm bước ra đi dạo khắp các cảnh
giới giao du các Tịnh Độ lễ bái Đức A Di Đà, một là an trú Tịnh Độ hai là phát Đại
Nguyện Lai Trần, nếu lai trần xuống đặng làm vua Minh Chánh, làm Quan Đại triều,
làm lãnh tụ cứu nước cứu an dân lành, giải khổ ách nô lệ. Bậc nầy dù tái sanh nơi nào
trong Lục Đạo cũng đặng làm thủ lãnh cứu nguy, chớ không bao giờ làm thường dân
cả, vì sao phải làm vua hoặc làm lãnh tụ? Vì có làm vua hay làm lãnh tụ sau nầy mới
có trang nghiêm thành Phật, trước tiên làm chủ giúp dân, sau làm chủ Vũ Trụ, đó
31
chính là lẻ đương nhiên nó như thế. Bậc Bất Thối khi tái phàm nó đã có sẵn Chủ Đích
Tin Vâng vào Kinh Điển, vào mục đích nơi mình đang đi, đang thực hành. Như nhất,
khi vào một pháp môn nào để tu trì thì đã có sẵn lập trường cao qúy nhất là Tin nơi
Pháp Môn, quý Pháp Môn đã có sẵn đức tánh Bất Thối Chuyển.
Còn nói đến Đại Bồ Tát, thật khó nghĩ bàn, khi bậc Đại Bồ Tát giả mê, bất Khả
Thượng Hạ thảy đều học hỏi tu hành, không vì bạn mà không học, không vì kẻ giai
cấp nghèo nàn mà không học. Tự tôn cao qúy Bậc Thầy, tự trọng thân hữu Bạn, tự
mến thương giai cấp mà tự mến.
Bậc Đại Bồ Tát, tất cả công việc Chư Phật đã thi hành ngày nay Đại Bồ Tát
phải làm. Đại Bồ Tát thu gọn tất cả những gì còn thiếu sót, những gì A Tăng Tỳ Kiếp
chưa làm đến nay Đại Bồ Tát phải làm. Đại Bồ Tát nhìn biết những môn Bồ Tát chưa
làm, bằng tánh chất thua kém, bằng ý trí chưa rộng, bằng lề lối biếng trễ, bằng đối xử
với mọi người chưa chân thật đang còn chênh lệch nhau, nay Đại Bồ Tát phải thực
hành không thiếu sót.
Vì Đại Bồ Tát chưa bao giờ suy nghĩ việc nơi mình giúp đỡ rộng hẹp lớn nhỏ
đối với con người, hoặc tâm tánh mình vô ngại để mình đặng ngôi thứ Bồ Tát, do nơi
không so tính hơn thua rộng hẹp lớn nhỏ đối với mọi người nên hóa độ được Khổ
Ách.
Đại Bồ Tát nhìn tất cả những hiện vật Vũ Trụ đã hóa sanh có tất cả hình sắc.
Nếu kẻ nào nhìn thấy hình sắc nơi hiện vật, mà cho là đã biết thì thật ra chưa biết chi
cả, vì sao? Vì lúc nhìn những hiện vật thấy đặng thực chất hóa sanh ra nó mới thật là
biết.
Có nhiều vị sống trong hình tướng thứ vị hơn là sống nơi mức tiến hóa của con
người. Nên chi Đại Bồ Tát sống theo nếp sống tiến hóa Vũ Trụ, hơn là ở nơi thứ vị
của Bồ Tát phải chịu nằm trong Vũ Trụ bị sanh. Do lẽ ấy nên Đại Bồ Tát không bao
giờ suy nghĩ mình là Đại Bồ Tát, duy chỉ mục đích thật biết tỏ rõ tất cả động cơ và
phụ thuộc cơ của Vũ Trụ hóa sanh Sơn Hà Đại Địa cùng vô số thế giới, mỗi mỗi đều
có mức sống cùng lối sống khác biệt, nhưng đồng cái sống.
Đại Bồ Tát không bao giờ cầu báo Niết Bàn, cầu báo Tịnh Độ các Cõi Chư
Thiên Tiên, vì Đại Bồ Tát thật biết chính mình tạo những gì, chính mình có nơi đó
chớ nào phải van xin cầu khẩn mới có, do biết Như Tướng cùng Nhất Tướng mà tâm
không bao giờ suy nghĩ vẩn vơ, suy nghĩ mong đợi duy nhất Hạnh Nguyện thực thể
mà đặng.
Đại Bồ Tát khi lâm chung, cũng như thay nơi ở, Tâm không quái ngại, nên
không có tập khí. Lúc tái phàm hoặc tái sanh nơi nào tùy Đại Bồ Tát đến nơi thai
sanh mà thị hiện tái sanh.
Bậc Đại Bồ Tát Nhất Sanh Bổn Xứ Thành Phật. Khi Bồ Tát Bất Thối kiếp thứ
9 chưa tròn hạnh nguyện đến chừng kiếp thứ mười hai (12) mới thành Phật, vì phải tu
trì đến mức Đại Bồ Tát mới đặng thọ ký Nhất Sanh Bổn Xứ Thành Phật.
32
Bậc Nhất Sanh Bổn Xứ Thành Phật. Bậc này đã tỏ rõ tỉ mỉ tất cả vạn pháp di
chuyển thay đổi nó như thế nào, đặng thành tựu ra sao. Từ chủng tánh chúng sanh
đến Chủng Tánh Bồ Tát, phân định giữa hai trạng thái cử chỉ, đồng thời nơi nghe
thấy biết nó như thế nào, thảy đều tỏ rõ thật biết rành mạch. Cũng như biết tỏ rõ tỉ mỉ
Vũ Trụ từ nơi Thể Chất, các chất nơi Vũ Trụ hợp hóa ra sao, đặng hóa sanh những gì,
từ Sơn Hà Đại Địa đến Nhân Sinh, Thiên Sanh thảy đều biết rõ nơi thọ chấp thứ bậc
thành hình vậy.
Bậc nầy khi lâm chung, đã biết trước rõ ràng tỉ mỉ, bậc nầy định hướng nơi an
trú để sau hạ lai thành Phật. Bậc này lại sửa soạn quét dọn an bài đâu đó trước ba
tháng hoặc bảy tháng mới lâm chung. Bậc này trước khi thoát sanh đã căn dặn tất cả
tín chúng từ cử chỉ đến sự hệ trọng trên con đường Giải Thoát. Nhưng Bậc nầy chưa
biết sau nầy chính mình hạ lai trong một nước nào, vì sao? Vì dưới mắt Bậc Nhất
Sanh Bổn Xứ, nước nào cũng bình đẳng như nhau nên chưa lưu tâm đến. Đến ngày
lâm chung, đến phút lâm chung, Chư Phật nghìn phương đồng đứng lên thọ ký. Nhất
Sanh Bổn Xứ Thành Phật. Thiền Sư vừa nói đến đây trời cũng về chiều số người
cùng Thiền Sư ra về, mối tình cao cả Thiền Sư đã nói, anh em Tâm Niệm cảm kích
vô cùng khó tả./-

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1983, 
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

33
2. NHÀ THIỀN SƯ KHI TÌM ĐẶNG...
Nhà Thiền Sư khi tìm đặng Thiền Trí duy chỉ có mỗi một khởi đầu. Lúc bấy
giờ nhìn nơi thân Tứ Đại nhận thấy trong Thân vô số vi trùng, chia ra nhiều giống vi
trùng, mỗi một giống chung hợp nhau mà sống không bao giờ giống này lạc nơi kia
mà sống được. Như vi trùng máu sống theo máu. Vi trùng mủ sống nơi mủ, vi trùng
nước bọt hoặc đàm đều sống trong thể chất phù hợp đó.Về bản tánh vi trùng mỗi
giống thảy đều có phận sự linh động di chuyển của chúng nó, giống nào đều phải
theo linh động di chuyển trong thể chất của nó. Chúng nó được có mỗi một cái là
đồng nhau linh động, đồng nhau di chuyển chạy đều trong thân không ngừng trệ,
thành thử nuôi dưỡng được thân. Thân Tứ Đại nhờ nó mà sống. Nó nhờ thân Tứ Đại
được chất dung thông sinh trưởng.
Khi nhà Thiền Sư đã nhận chân nơi thân Tứ Đại bèn đem mỗi một thân của
mình so với triệu triệu nhân sanh, mới nhận thấy chính mình là một con vi trùng đang
sống trong vũ trụ đồng với Nhân Sinh. Sau khi tự nghĩ nếu mình Tự Ngã cho mình
khôn ngoan, tìm đặng Chân lấy mình, chẳng biết nhân sinh đã có một lý lẽ chân chính
hơn mình, thì chính mình chưa thấm vào đâu cả.
Từ đó mới dùng Thiền Trí để nhiếp độ những điều chưa tỏ đặng tỏ, những chi
chưa biết đặng biết, những chi chưa thi hành nay phải thực hành nhiếp độ Ngộ Nhập
ngay nơi mình làm của mình nhập. Những gì chưa chu đáo nay hoàn mỹ chu đáo,
không còn tu trên ảo vọng xa xuôi để cầu Giác, mà ngay nơi thật hành Chánh Giác.
Nhờ nơi Diệu Quang Sát Trí mà thật biết chúng sanh nó chẳng phải là Nhân
Sinh, mà chính chúng sanh đang ở trong thân Tứ Đại gọi là chúng sanh tính. Chúng
sanh Tính ấy chẳng đâu xa lạ, chính nó là các giống vi trùng trong thân mạng. Khi
chúng diễn âm trong thân thì đương nhiên nhà Thiền Sư phát sinh tư tưởng. Tư tưởng
có bao nhiêu thì chủng tánh Vi Trùng đều có bấy nhiêu. Thiền Sư thực hành thông
thái bao nhiêu thời những giống Vi Trùng khôn ngoan bấy nhiêu. Đến lúc nhà Thiền
Sư thành Phật thì các vi trùng Trưởng thành Bồ Tát Quốc Độ.
Nhờ Thiền Trí sáng soi thân tâm để phá mê thường chấp mà trực giác Sở Đắc
Tam Muội Pháp Môn, Nhiếp Độ Nhân để thật tỏ rõ tư tưởng hiện nó đang lầm nhận
chính là chẳng phải của nó.
Bậc đã đến mức Thiền Định nhiếp độ Thiên, thì Bậc nầy đã là Minh Sư các
Cõi cùng cảnh giới Chư Thiên Tiên Thần Thánh Đạo, du hành cùng khắp Tam Thiên
Đại Thiên Thế Giới mới nhiếp độ, bằng chưa tỏ rõ, tâm đang còn cầu vái van xin thì
chưa phải là nhiếp độ, mà đang tu Thiền vậy.
Bậc nhiếp độ Chư Thiên trong Ba Cõi phải Sở Đắc Chân Thiền, tỏ rõ bổn lai
thể tánh đồng viên thông Pháp Tánh. Nhờ tận giác như thế, nên rõ ràng Chánh Báo
của Chư Thiên, Tiên, Thần, Thánh mỗi nơi Nhiễm hóa thế nào mà trở thành các Cõi,
Cảnh Giới. Từ chốn Thọ Ngã thi hành huân tập Tự Ngã để lãnh lấy Thần Thông Tài

34
Phép ra sao thảy đều tỏ rõ, tỉ mỉ tường tận không sai chạy mà nhập Chánh Định Tam
Muội Nhiếp Độ Thiên.
Bậc tu Thiền và bậc chưa tu Thiền, Cái Biết vẫn đồng đẳng nhưng Tánh Biết
khác xa vời vợi. Bậc Tu Thiền nhờ nơi Tánh Biết mới có thể biết được Vũ Trụ Nhân
Sinh. Về tín ngưỡng các hành tinh đến Vũ Trụ Nhân Sinh hay Thiên Sinh, Tiên Sinh
nơi hành tinh nào vẫn có mỗi một Tâm Tín Ngưỡng in nhau nhưng xướng danh tôn
sùng mỗi hành tinh khác nhau. Nếu chưa lập Đạo Hạnh như thế thì dù cho có Tu
Thiền một ngàn năm cũng chưa xê dịch. Bậc Tu Thiền đã từ di chuyển Thần Thức
đến Cảnh Giới nào thì thân liền đồng ứng hiện, hợp chung in như người trong Cảnh
Giới đó không sai tí nào cả. Từ ngôn ngữ đến Hạnh Kiểm như nhau, nhờ thường ra
vào xuất nhập hàng trăm ngàn Cảnh Giới cùng các Cõi như vậy nên Sở Đắc Hiện
Nhứt Thiết Ngôn Ngữ Tam Muội và cũng nương nhờ Tự Lợi Tha Lợi nên nhận giác
được Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam Muội.
Bậc Tu Thiền thật biết từng tư tưởng của Thiên Quan, Tiên Quan, Thần Quan,
Thánh Quan đồng với Nhân Sinh Quan đều theo quan niệm từng trình độ mỗi một
Cõi hay Cảnh Giới theo nơi Thức Tịnh cực đối tạo thành không thể nào vượt khỏi
tầm hiểu biết hơn. Duy nhất chỉ có Thiền Trí mới rõ biết chung gồm giữa mình cùng
khắp các Cảnh Giới mà thôi.
Tu Thiền còn được nghe được hơi thở của thảo mộc cùng quả địa cầu, nhịp
nhàng di chuyển cho đến các loài chim chung hòa với tiếng gió reo trở thành muôn
ngàn câu Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng không ngớt. Đồng với tiếng nhạc Trời
của Chư Thiên trổi lên từng lúc thanh bình. Nhờ nghe thấy mà tận biết tất cả đang
lầm tưởng sinh mơ ước hoài ảo mà thiếu kém thực thể phát tâm để Tri Kiến.
Bậc Tu Thiền nhờ nhận Tánh để thấy biết, có nhận tánh thấy biết như thế mới
tự tánh tỏ tánh nên minh tâm kiến tánh thấy biết dung thông khỏi lầm. Còn bậc chưa
tu Thiền cũng dùng cái thấy để thấy, thấy đặng mới biết, chưa thấy thời chưa biết,
nên thường bị biết, khi bị biết thì bị lầm.
Bậc Tu Thiền dù có ngồi trong cốc chăng vẫn nhận biết được Nhân Sinh có nơi
quan niệm Đúng, có chỗ chưa rõ quan niệm Sai, lầm nơi quan niệm sai chạy theo chỗ
sai mà sanh tử, chớ bậc Tu Thiền đã thật biết nơi Bổn Tánh nên quyết định không sai
chạy.
Ta có Linh Hồn, đó chính là thật đúng không sai, lúc Nhân Sinh đang cơn mê
lầm, chạy theo từng Cá Tánh từng quan niệm đảo điên, giờ phút trước qua giờ phút
sau, hai Đức Tánh khác nhau thì hai Cái Ta và hai Linh Hồn. Từ nơi hai Linh Hồn
của ta mãi mãi dung dưỡng thay đổi cho đến ngày hôm nay thì mỗi một Nhân Sinh có
đến hằng hà sa số vô lượng vô biên cái Ta và cái Linh Hồn, đâu có phải mỗi một cái
như từ trước mà nay lầm nhận? Đó là chỗ quan niệm sai.

35
Bậc Tu Thiền thật biết Thể Tánh của Thiền nếu chưa biết được thể tánh, theo
quan niệm mình mà dự đoán để tu Thiền thì sai lạc trở thành Tiên Đạo gọi là bậc khá
nhất, ngoài ra còn điên khùng mất trí phổ truyền bừa bãi sa Địa Ngục.
Thể Tánh Thiền thì thuyên diễn đủ mọi hình thức gọi là: Nó Muốn Thế Nào
Thì Nó Về Thế Ấy Tùy Thuận Theo Cái Muốn Nơi Nó Nó Đến. Do Thể Tánh Thiền
nó như thế nên chi Ngoại Giáo mới có quan niệm sai lạc về vấn đề Xuất Hồn nhập
cảnh. Còn về Chân Truyền Giải Thoát thì dụng Thiền để có Thiền Trí sáng soi lìa
Bản Ngã, nương theo Vô Ngã nhiếp độ tất cả Bản Ngã Giả Tưởng đoạt đến Chân Ngã
Chánh Giác.
Đại Ngã mê lầm liền diễn hóa ra hằng hà sa số vô lượng vô biên Tiểu Ngã Giả
Tưởng, lầm mê Thọ Ngã Giả Tưởng gọi là Bản Ngã. Bậc Tu Thiền đúng với tinh thần
Chánh Giác thời nương theo Vô Ngã, với mục đích nhiếp độ Bản Ngã. Các Bản Ngã
ấy chính là Tiểu Ngã. Khi nhiếp độ hoàn tất hằng hà sa số vô lượng vô biên Tiểu
Ngã, thời trọn vẹn Đại Ngã. Có chu toàn Đại Ngã mới có Bát Đại Niết Bàn.
Bằng trong thời đang tu trì thọ chấp nơi Tiểu Ngã nào thì chỉ Chánh Báo hoặc
Thọ Báo nơi Tiểu Ngã đó thôi. Khi Tiểu Ngã Giả Tưởng đó còn thì cảnh giới thân
mạng còn. Lúc Tiểu Ngã Giả Tưởng tan vỡ thì bị tan vỡ. Bậc Tu Thiền chưa đúng với
tinh thần nói trên gọi là Ngoại Giáo. Vì sao? Vì xuất hồn đương nhiên chưa có Tâm
Thọ Ngã, nhưng lầm nhận mỗi một Tiểu Ngã huân tập Tiểu Ngã ấy cho đúng với
Thiên Đạo hoặc Tiên Đạo. Khi đã thành hình Tiểu Ngã đúng với Tiên thì liền nhập
vào Tiên cảnh, còn đúng với Thiên Giới thì đến nơi Thiên Giới. Nên nhớ Tiểu Ngã
nó tùy nơi hiệp mà đến thụ thai nơi nó hiệp./-

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1983,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

36
3. CHÂN LÝ LÀ MÓN ĂN THẬT THỂ
Có vị Thiên Nhân đến thưa gởi với Thiền Sư: Kính thưa Thiền Sư, theo tôi
nhận xét, tôi cùng các Chư Thiên thảy đều do nơi tham mà trôi dạt trong sanh tử. Vì
nghĩ đặng như thế nên mới quyết tâm lìa Tham tu cho thành Phật. Khi chúng tôi giải
bỏ cái tham trên cõi Thiên, lại mang vào cái tham rộng lớn ở Cõi Phật, thì đương
nhiên chúng tôi bỏ nhỏ cầu lớn. Đó chính là lời chân thành nhờ Thiền Sư chỉ giáo về
cái Tham của chúng tôi đang khó nghĩ. Vị Thiên Nhân thưa gởi xong ngồi lại một
bên.
Lúc bấy giờ Thiền Sư mỉm cười hỏi: Nầy Thiên Nhân, Chân Thiện Mỹ của
Thiên Nhân lạc mất, nay thật hành cốt để hoàn lai, như vậy Thiên Nhân có tham hay
không? Đối với Chư Phật cũng như thế.
Vị Thiên Nhân mừng rỡ, liền nói lên: Té ra Quyền Hạn Giới Hạn nơi mình,
mình biết dùng đúng với Quyền Hạn Giới Hạn để đòi lại Quyền Lợi thì chẳng có chi
gọi là Tham. Tôi chưa bao giờ được nghe nay được nghe. Thật là Định Tuệ chính
môn cứu cánh lầm lẫn, nếu tôi chưa gặp đặng Thiền Sư, chưa thọ lãnh lời chỉ giáo thì
dù có vô tỉ kiếp cũng không bao giờ rõ sạch nghiệp Tham. Thật chưa bao giờ được
biết nay được biết. Thiên Nhân tán thán xong đảnh lễ cáo từ lui gót. A Nan nên biết:
Nếu kẻ tu Thiền Định, nhưng chẳng dừng Tâm Dâm, cũng như kẻ nấu đá sạn mà
muốn trở thành cơm, dù cho ngàn kiếp cũng chỉ là sạn nóng, chẳng bao giờ gọi là
cơm.
Thiền Định Hạnh: Tức là Hạnh Thiên Thừa. Bậc Tu Thiền Định làm cho trí tuệ
mở mang. Từ nơi làm Hạnh có một căn bản rõ đặng từng bậc mà làm cho họ ưa thích
Đạo Tràng, ưa thích cái biết rỗng rang cùng khắp. Lại trong lúc gần tất cả bạn bè
quyến thuộc cùng tất cả mọi người chẳng có ý khoe khoang. Thân Tâm kín nhiệm để
tỏ thấu trong lục Ba La Mật Đa đặng vào biển cả chẳng còn bờ ngăn gọi là Giới Hạn
hay chúng sanh giới hạn. Đó gọi là Thiền Định Hạnh.
Đức Thế Tôn Ngài đã vạch sẵn một chương trình tu tập Lý Sự Đồng Song rất tỉ
mỉ công phu, không một lời thiếu sót, không một sự nào chẳng tận từ chơn chánh liên
hệ với nhau. Từ nơi Phẩm Công Đức đến tu tập thi hành Lục Ba La Mật Đa và Tướng
thu nhiếp, gọi là Tứ Nhiếp Pháp. Ngài thường nói: Tướng hay Nhiễm Tâm. Nếu
Tướng Sát Đạo Dâm các ông chẳng lìa để tu, thời dù cho trí tuệ Thiền Định chăng,
Tâm vẫn tập nhiễm sanh tử. Vì sao? Vì Tướng chính Tâm, lầm lẫn lấy trong bỏ ngoài
mà nhận Tâm ra Tướng.
Tướng Thiền Định cũng là một Tướng giúp cho trí tuệ cứu cánh. Tin Phật
Pháp, tin chân lý và Tin mình chẳng còn sự nghi. Nó lại giúp cho rõ biết cùng khắp
Pháp Giới, đi vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, thâm nhập Bát Nhã Đặng Chánh Giác
Chân Nguyên tận từ Nhất Tướng đồng nhất thể trùm khắp Như Tướng vậy.

37
Nơi Tướng Pháp Lục Ba La chung gồm để thật biết, nó là một pháp môn rất
cần cho bậc tu đặng trọn biết chu đáo tỉ mỉ. Vì sự phân biệt để nhận lãnh: Tướng
chính Tâm. 

DƯỚI MẮT THIỀN SƯ: MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN 


Trước hết tôi nói về Thiền, mục đích chính của Thiền là để cho Tâm được Tịch
Tịnh, rỗng rang Tâm Tịch Tịnh trí tuệ mới phát huy và để thân tâm được hòa đồng
với Vũ Trụ. Buổi Thiền ấy mình làm chủ, không để sự cầu xin nào xen lẫn trong buổi
Thiền của mình làm giảm giá trị buổi Thiền.
Ví dụ: Lúc các ông ngồi Thiền mà cầu xin Phật gia hộ, giúp đỡ cho buổi Thiền
được Định, hoặc giả cầu xin việc này việc nọ, thì chính ra buổi Thiền ấy của tu cầu
chứ chẳng phải của chính mình. Mình chỉ biết trong buổi Thiền đó chỉ có một mình
mình trong vũ trụ nầy mà thôi. Khi Thiền gặp niềm vui chẳng mừng, gặp việc Dữ
chẳng Sợ, thì buổi Thiền được kết quả. Từ buổi Thiền nầy qua buổi Thiền khác, ngày
tháng cứ thế tiếp nối đi qua, nếu giữ được quân bình như thế thì Thiền mới cao được.
Còn Thiền lơ là, thì Tâm Thần uể oải vì chính nó đòi nợ mình. Nếu các ông tu hành
lấy Sửa Tánh làm cứu cánh, Thiền Định làm phương tiện thì chớ nên bữa Thiền bữa
bỏ, làm cho thân thể dễ bị mệt mỏi, tâm không sảng khoái thì thân thể bị bạc nhược,
các ông bà nên lưu ý.
Từ nơi Bố Thí không kể lể đến Trì Giới Tinh Tấn, Nhẫn Nhục thảy đều Nhất
Tâm cố giúp càng giúp mọi người chu đáo bao nhiêu vẹn toàn không cầu Tri Ân Trả
Nghĩa, gọi là Trí Tuệ Thiền Định. Nếu bậc nầy có Tu Thiền lại càng qúy, bằng chưa
Tu Thiền vẫn có Trí Tuệ sáng soi./-

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1983,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

38
4. THIỀN SƯ HẠ SANH NĂM 1918...
Thiền Sư hạ sanh năm 1918 đến năm 1983, gần bốn mươi năm mới nói lên sự
thật. Tuyệt tác thay! Tài liệu Phật Đạo, mục đích đưa Nhân Sinh với Vũ Trụ giao
thông hợp hóa, con người mới thành Phật. Bằng chưa hợp, chưa bao giờ thành Ngài
nói thẳng.
– Vũ Trụ đối với con người, con người đối với Vũ Trụ.
– Phật Đạo với con người, con người với Phật Đạo.
Đề tài nầy con người và khoa học từng nêu ra, khoa bút những nhân tài đã từng
viết thành tập. Nhưng chưa đúng với mục tiêu, chỉ nghiên cứu nơi học giả, bề vỏ bên
ngoài sanh diệt. Vẫn có lắm bậc thực dụng tài liệu trên con đường tu Phật chưa nhận
chân cụ thể làm thế nào tận Giác?
Khi con người Giác mới công nhận tuyệt tác tài liệu Phật Đạo là một ngón tay
thực tế chỉ cho con người với Vũ Trụ đồng đẳng Giác Chân.
Thiền Sư nhìn nơi cây cảnh, nhìn đến con người cùng thế giới, Thiền Sư nói:
Đời đang làm, tích cực để làm. Vũ Trụ vận chuyển không ngừng nghỉ, Ta đồng làm
tất cả làm xong rồi để đó. Ta xuôi dòng làm, tùy thuận làm cốt tỏ thông tận Giác Vũ
Trụ và Ta.
Ta nói những gì khi Ta đang nói, con người chưa rõ lời Ta, vì thế giới chưa đạt
đến cơ cấu trình độ biện minh, đều cho Ta nói bậy. Khi đã có biện minh chứng từ của
Thế Giới với con người. Nếu Ta nói, họ đồng cho Ta là kẻ nói Hùa. Dù Ta đang sống
thế hệ với con người, lời Ta nói là lời rỗng không vô tận. Ta nói, chỉ Ta biết, Ta nghe,
Ta cùng Vũ Trụ cảm thông, Vũ Trụ nhờ Ta nói hộ, chưa phải là Ta chưa biết nói, chỉ
nơi con người chưa tin lời nói của Ta, nên chi chưa nghe đặng lời Ta đang nói, hay đã
từng nói để rồi nghe.
Lúc Ta sắp nói, nhìn từ Nam đến Nữ, già trẻ bé lớn, thấy họ chỉ ngó ngang,
ngó dọc, tốt lắm họ ngó trên đầu van vái, họ lại ngó xuống từng lớp người, họ thích
nghe giọng nói để họ cười, họ kiêng họ sợ bị chê, họ ưa nghe lời nói mê nên chi lạy
lục, lễ bái cầu vái linh thiêng, xin đủ lợi quyền, chưa nghe đặng lời Ta nói. Đối với
họ thường gây rối. Lạ thay! Chẳng cho Ta nói dối hay thật, chăm chỉ chật vật cứ tu.
Ta ngồi suy nghĩ kỹ, vạch thật tỉ mỉ, Vũ Trụ đối với con người, nói đủ chứng
từ, may ra họ ừ hử. Nhân Sanh khai thác thử, cốt thoát sanh đường sanh tử. Nơi hiện
tượng mượn Giác Chân Như. Nơi danh từ, ừ trực giác.
Thiền Sư nói: Thế Nào Vũ Trụ Đối Với Con Người.
Vũ Trụ với con người thảy đều một thứ, một thể tư cách, hành động thảy đều
như nhau, không sai biệt, nó nhịp nhàng từ nơi trên của Vũ Trụ, đến bậc dưới nơi thế
giới con người, chẳng sai biệt mỗi một li nào cả. Do nơi con người bé nhỏ chưa nhận
định đặng bản chất thể tánh hiệp hóa, trong thân mạng của con người cùng vũ trụ,
phải đặt thành bộ để khám phá vũ trụ. Từ vệ tinh nhân tạo kiểm sát đến bộ máy đo

39
lường điện tử đủ các thứ vật chỉ học theo máy móc, nơi con người sáng tạo ra nó, rồi
phải học nó. Thật buồn cười thay! Lắm chuyện tiếu lâm con người đối với vũ trụ.
Phải chi con người tự thân tâm hóa cải chế biến bộ máy vệ tinh ngay bản thân
mình kiểm soát kiềm chế, ngự chế, liền thông đạt vũ trụ với con người, đồng linh cảm
nhẹ viễn thông, chừng ấy muốn đi nơi nào chẳng đặng, muốn đo lường tầm mức thấp
cao, biết sự vận chuyển giao tế rành mạch lại nhìn đặng hình ảnh đã có từ trăm nghìn
năm nay thấy đủ. Lúc Tứ Đại thân mạng phân chia làm xong một kiếp, thoát sanh nơi
chốn chính mình quyết định, liền như ý nguyện, làm như thế có hơn không?
Hãy nghe Ta nói: Vũ Trụ linh động siêng năng tinh vi, nhờ thế mới thành hình
hoàn mỹ từ lâu. Còn thế giới con người, mãi xây dựng củng cố vẫn chưa toàn thiện
mỹ. Vũ Trụ lại có Thiện chí áp dụng thanh thô tế nhị bồi đắp hoàn thành nên cơ cấu,
tự động chia ra nhiều phẩm. Hành tinh là cơ cấu, hành tinh có đủ cở lớn nhỏ hẹp
rộng, tròn méo, nhờ có đủ phẩm hiệp hóa trở thành Siêu Phẩm.
Nhìn nơi hư không Mặt trời, Mặt trăng cùng các hành tinh, lấm tấm như thế, nó
rời rạc xa nhau, nhưng rất khéo léo, đã so lường tỉ mỉ trọng lượng tinh vi mà các hành
tinh vận chuyển giao tế cung cấp tương trợ cực kỳ tinh xảo, phải dùng bộ máy, những
bộ máy thật là tối tân mới biết đặng. Nói đến siêu phẩm đã hình thành, do các hành
tinh buông Tỏa hỗn hợp, đôi mắt nhân sinh không thể thấy, nó hòa với hư không trên
thượng tuần đến trung tuần đã có Chất với Phẩm. Lúc trở thành Chất Phẩm thì nó đã
thuộc về vi rồi, nơi máy siêu điện tử dùng tín hiệu đều là Vi Chất Phẩm.
Từ nơi Phẩm, đều nương nơi các Hành Tinh, mỗi Hành Tinh có một Phẩm Đặc
Biệt Thể Phẩm của nó, phối hợp mà trở thành Phẩm hoàn toàn đủ Phẩm, cũng có thể
gọi là Chung Hoàn Phẩm, để cho dễ nhận định mà thôi.
Nhờ chỗ biến phẩm, hóa chất nó mới tùy nơi trọng lượng cung cấp cho mặt
trời, mặt trăng và quả đất còn nhiều nơi cung ứng nữa. Sự cung ứng rất tinh xảo toàn
diện hoàn toàn phù hợp để cho các Cõi như Cõi Trời, Cõi Nhân, các Cảnh Giới Thiên
Tiên, Tiên Thần Thánh Hóa cho đến Tịnh Độ không thể nào kể nổi, sự linh động tùy
thuận cung cấp nơi thể chất của Phẩm Đặng.
Đứng nơi con người để nói, thời vũ trụ có trọng trách nuôi dưỡng, kiến tạo hợp
hóa thanh khí, còn quả đất tỏa hơi hòa hiệp thành không khí để hiệp theo hơi thở
không sai với sự sống con người. 
Nói như trên để làm chi? Để chỉ thẳng trong thân thể tứ chi đầu não con người.
Nếu con người kiểm soát ngự chế đặng sự hoài vọng phức tạp, liền nhẹ cảm, linh cảm
nhìn nhận chính nơi trí hóa của mình đã nhìn thấy nơi siêu phẩm cùng lý sự linh động
di chuyển hòa hợp khéo léo. Có sẵn như thế con người mới sáng tạo, phân định ráp
từng bộ phận các bộ máy trở thành những bậc Máy Điện Toán, thu thanh, phát thanh,
thu hình phát hình trưởng thành văn minh kiến tạo. Cho nên ta nói: Con người và thế
giới chỉ biết làm, làm xong để đó, chớ nào biết đặng chính bản thân sáng tạo ra nó,
thời ta có thể biết đặng nơi tinh vi khéo léo tuyệt tác, nơi Vũ Trụ cùng với ta đồng
40
đẳng, ta có thể làm đặng những gì mà Vũ Trụ đã sẵn có làm, chính thân mạng nơi Ta
đã biết, nơi biết để mà làm, cùng với làm sẽ đặng biết. 
Vũ Trụ rất giàu mạnh đầy đủ phẩm, đặng Cơ Chế nhiều chất phẩm. Còn nói về
Tiềm năng mạnh thì thật Vô Kể. Nhà khoa học hiện đại đã từng tìm được sức mạnh
tỏa chiếu ánh sáng nơi mặt Trời, có tầm số thật khủng khiếp, thật tinh vi. Nhờ nơi sức
mạnh của các Hành Tinh Mặt Trời và Mặt Trăng với quả đất, nên mới giao tế tiếp
nhận nhau, hóa hợp để tự động biến phẩm chất cơ chế, sống động Vũ Trụ với con
người.
Khi Ta nói quá tầm mức, con người chưa lãnh hội đặng, cứ Tin nơi Ta thực
hiện sẽ biết nhiều và rộng thêm. Thật ra nói chung gồm là Vũ Trụ, chớ Vũ Trụ nó
rộng lớn bao la, tầm rộng lớn nơi nó không thể nói hết. Nên Ta chỉ kể hiện tình và
hiện cảnh con người đang sống, đặng sống trong vùng Thái Dương Hệ, còn ngoài
vùng hay bá Thiên vùng khác sẽ hiểu sau, không lo chi không hiểu, cứ thực hiện liền
hiểu biết tận tường lời Ta nói thật.
A. VÙNG THÁI DƯƠNG HỆ.
Các hành tinh chiếm đóng, có hệ thống sắp xếp tinh vi khéo léo. Mỗi một vị
trí của một hành tinh, đều xa nhau bao nhiêu không phận, tùy nơi Tiềm Năng xuất
phát của nóng lạnh mức độ, tránh phẩm từ trong hành tinh phát ra, không bị va
chạm nhau, tận dụng nơi hòa hợp làm cơ bản tượng hình để chiếm đóng. Tựa như
mặt Trời , mặt Trăng phải đóng xa quả đất, nhưng có đặc điểm tinh vi là mỗi một
hành tinh quan hệ gọi là Trung Ương thì có bao nhiêu hành tinh khác đóng chung
quanh để đồng nhau xoay vòng tiếp nhận, phối hợp tỏa ra giao tế thu phẩm và tỏa
phát phẩm. Nhưng khi thu vào hành tinh thì nơi phẩm khác với lúc tỏa ra. Nói
chung lại tất cả thảy đều cơ chế các phẩm hợp ứng dung thông chung khắp nuôi
dưỡng chung với vùng Thái Dương Hệ, còn ngoài vùng Thái dương hệ không giao
tiếp nhau đặng.
Mặt ngoài vùng Thái dương hệ có vòng đai bao bọc, gọi là Quản Chấn,
vòng quản chấn nầy nó không khác mấy với đường xích đạo cùng vòng đai khí
quyển bao bọc quả đất. Nhưng nó tùy thuận nơi đường thẳng kính của lớn, nhỏ,
rộng, hẹp mà phát hiện theo tỉ lệ tinh vi của nơi ngự chế hình thành bao bọc.
Nhưng có thể nói: từ vùng nầy không thể xuyên qua vùng kia được, vùng kia
không xuyên qua đặng vùng nọ, vì chưa đồng phẩm nên không thể tiếp nhận để
xuyên qua. 
Nhưng nó vẫn nương tựa nhau hình thành chia ra nhiều vùng trải khắp Vũ
Trụ sống động tự dung dưỡng, tự quản lý củng cố, phát hiện củng cố, trở thành có
lớn có nhỏ, rộng hẹp khác nhau nơi vùng.
Không khác con người đang sống chung với con người trong xã hội. Mỗi
một con người đều củng cố tự ngã, tự ý phát triển về trình độ tư cách, khó mà giao
tế cảm thông đồng định hướng nhau. Trừ trường hợp có người ưa ngó ngang, ngó
41
dọc, liền hợp tác những kẻ ngó ngang ngó dọc giao cảm để giao tế nhau. Có bậc
thích ngó trên đầu hay ngó xuống từng lớp con người, để cười, kiên sợ bị chê, họ
ưa nghe những cái mê liền thông qua cùng nhau giao cảm với nhau, mới giao tế
nhau hành sự động tác với nhau. Trở thành xã hội lớp nầy đồng nhau, lớp nọ bất
đồng nên chưa mấy ai hiểu biết chung nhau xây dựng thực tế để mà vui sống cả.
Chỉ có Thiền Sư đã từng giao cảm giao tế với tất cả lớp con người. Thiền Sư biết
từng tâm tánh để giúp đỡ, hành sự giúp đỡ, cốt rõ biết đến thật biết, do nơi đó
Thiền Sư nói, chưa chắc họ cho Thiền Sư nói dối hay thật mà họ vẫn tin lời Thiền
Sư nói để tất cả chật vật cố tu. Nhờ như thế nên chi Thiền Sư mới Thông Đạt Tận
Thành, rõ tỏ tất cả mỗi một Cõi, hoặc cảnh giới nào, nó phẩm chi, chất gì, Thiền
Sư hiện hóa nơi đồng phẩm mà xuất định vào thăm chơi cõi ấy, cảnh giới nọ, rất
tự tại vô ngại. Còn đa số nói xuất định xuất hồn đi chỗ này nơi kia, chưa chắc đã
làm như thế nổi. Vì sao? Vì do nơi tự ngã củng cố nên chưa thực hành đặng.
Từ một vùng Thái Dương Hệ đem so sánh với quả địa cầu chẳng khác nào
mỗi một con người đem ra so với mỗi một nước, thời quả địa cầu chưa thấm vào
đâu trong vùng Thái Dương Hệ. Dù cho con người ấy mất hoặc giả quả địa cầu tan
rã thời chưa chắc trong vùng đã biết được ta mất một địa cầu.
Ta nên căn cứ vào một chỗ nhỏ để hiểu biết nơi rộng rãi bao la. Những kẻ
ưa thích bao la lung lạc hiếu kỳ là kẻ điên.
Từ một nước ta đang ở cho đến hàng triệu con người. Trong nước con
người hợp tác tạo thành cơ xưởng sản xuất mặt hàng, liền có nhiều mặt hàng đã
sản xuất, do nhiều cơ xưởng nên đặng nhiều mặt hàng. Từ từ mỗi một hành tinh
động tác như một mặt hàng, nhiều hành tinh trở thành nhiều phẩm hợp chất, có
phải như nhau chăng? 
Mỗi một nước vẫn tùy nơi năng lượng tài nguyên phẩm chất phong phú hay
chưa đặng dồi dào phong phú mà phát triển cơ xưởng sản xuất mặt hàng nặng nhẹ,
bằng dư ra thời bán, nếu thiếu lại mua thêm, chẳng khác các hành tinh thu nhận
cùng buông tỏa sản phẩm. Từ mỗi một nước nhỏ lớn cho đến hàng trăm nước trên
quả địa cầu trở thành hoàn cầu thế giới, đối với Thái Dương Hệ bao gồm vẫn như
nhau.
Nói đến con người, mỗi một người đều có một đặc tánh, ở trong một nước
có hàng năm chục triệu hay một trăm triệu người, liền có hàng triệu triệu đặc tánh
khác nhau, ngoài ra các khía cạnh đột xuất chưa kể, nên mới xảy ra thuận nghịch,
hòa cùng chướng đối, nên chi khi hợp tác phải có kỷ luật bắt buộc mới thành hình,
bằng chưa bắt buộc không hình thành đặng. Đối với hành tinh có khác hơn con
người về hợp tác sản xuất ở nơi không bắt buộc, tự động nơi đồng hợp đồng hóa
không bao giờ bắt buộc, bằng không hợp với phẩm trong thời gian bị phế, gọi là
phế phẩm, phải nằm nơi cơ cấu phế phẩm. Do đó nên chi Vũ Trụ toàn vùng hoàn

42
mỹ cơ cấu từ lâu, còn thế giới con người thay qua đổi lại có hàng Thế hệ trong cõi
người ta.
Thiền Sư nói: Nếu có ai hiếu kỳ hỏi ta những điều mơ mộng chưa thực thể
thì ta lắc đầu cười không giải đáp. Ta vẫn là một con người, con người biết được
Cơ hóa phẩm chất đồng đẳng Vũ Trụ. Cơ chế y như Vũ Trụ đã từng cơ chế lớp
lang thứ lớp các cảnh giới và các cõi, từ nơi thượng đẳng đến hạ sanh trong huyền
cơ Vũ trụ.
Từ nơi một con người cho đến trăm con người đứng với Ta, mỗi một khi
con người ấy muốn cho ta cơ chế trở thành Tiên Thần Thánh Hóa, tùy lý trí sở
nguyện Ta liền chỉ cho để thực hành, một khi biết nhận định nơi thực hành thì cứ
việc làm mà tỏ rõ, do nơi trực giác nhiều ít mới hóa thân hình thành. Bằng những
con người lười trễ chưa thực hành làm, chẳng vươn mình thoát sanh ra khỏi nơi
lười trễ, đó chính là thân mạng nó đã tê liệt chết mất từ lâu, chính nơi nó chưa bao
giờ biết nó đặng.
Đời Ta, chính nơi ta vẫn phải thường làm, làm cốt đoạt đến chỗ, chưa hiểu
biết nghi ngờ thực hành giải đáp nơi nghi ngờ đó mà thành đạt. Nơi Ta có mỗi một
chí khí hướng thượng mà nên tất cả sự việc, nhờ nơi hướng thượng mới hỷ xả thân
tâm, tha thứ các lỗi lầm kẻ khác đã từng gay rắc rối va chạm đến Ta. Có như vậy,
biết nó như thế nên chi Ta tận biết đặng thể chất hóa chất nơi con người cùng tất
cả bồi dưỡng hay chính tự nơi thân tâm mình phá hoại. Ta thương hại hơn là ghét
vơ. Ta xây dựng hơn là vứt bỏ, nên thường nói: Các ông tự xây dựng thân mạng
của các ông, không vị nào có quyền bắt các ông vào Địa Ngục, hoặc đưa các ông
lên Thiên Đàng hay nâng đỡ các ông trở thành Vị Phật, chỉ nơi Tâm Tánh các ông
tự nâng lấy các ông mà thôi.
Từ cảnh giới Tam Thiên đến nơi Tam Giới, những cảnh giới này đều dung
dưỡng cho các bậc là con người cao cống quảng đại bao dung tha thứ cho kẻ lỗi
lầm không hờn oán, có bộ óc nhẹ nhàng cùng thanh thoát, phải chăng có hợp cảnh,
hợp tình mới Thượng Sanh vào Cảnh Giới, đó chính là một lẽ dĩ nhiên không chối
cãi, vì nó đồng Phẩm Chất mới hợp hóa nên hình Thiên hay Tiên Thần Thánh, đến
các Cõi Tịnh Độ, nơi kinh điển đã từng nêu ra. Bằng chưa kiến tạo chưa thuần
thục sửa thay thì cầu vái van xin có đặng hóa để vào các cõi chăng? 
Thật khéo thay! Vũ Trụ điều khiển cơ chế, con người cùng Tứ loài chạy
theo hoài vọng nên bị sanh, Vũ Trụ cân đối năng lượng phẩm chất nặng nhẹ mà bổ
sung luân chuyển Tam Thiên Thế Giới để lục đạo cuồng sanh. Con người chưa
bao giờ đặng biết chính nơi mình bưng ly độc dược tự uống rồi than thở số mạng
nơi mình, ngờ đâu chỉ hơn nhau, thua nhau mỗi một tý đỉnh phải chịu hạ sanh
thượng kiếp mà làm thân trâu ngựa. Bởi nhân sanh chưa biết, Chư Tiên hoặc
Thiên đâu ngờ, từ phân lượng chất phẩm, hơn thua nơi căn nghiệp để phải bị Vũ
Trụ bổ sung thành hình trong các cõi.
43
Đối với Bản Thân Ta, Ta chưa hơn gì nhân thế, Ta chưa bao giờ mong mỏi
trở thành Phật Thánh Tiên, Ta chỉ cầu nơi Ta hiểu biết đặng tỏ tường, lấy nơi ấy
làm chỗ thường sống, đặng sống nơi Ta. Đời Ta rất kiên sợ thân hình hóa ra ông
Phật, hóa đặng ông Tiên, nên Ta thường gìn giữ nhân nghĩa, nhờ vậy mới hòa
đồng bình dị, bãi bỏ Tánh kiêu kỳ, cho nên bạn bè thân cận thân hữu không bao
giờ hay biết, làm sao nhân thế hay Ta thị hiện.
Ta thường căn dặn những bậc Tin Ta tu hành, các ông tu hành phải thực
hành, Thân Kín Nhiệm, Tâm Kín Nhiệm, Ý Kín Nhiệm, chớ khoe khoang, làm
như thế Thánh nào hay Phàm đâu biết đặng Chân Giác hiện tiền, chớ nên xưng
Thánh rườm rà, Phật nhắm mắt, thật vô ích. Nhưng quái đản, thật quái đản, có kẻ
chẳng nghe đặng, họ ưa nhìn tượng Phật để suy tôn chiêm ngưỡng, nhưng Tướng
Phật hình dung nào đâu có, chỉ ở nơi Giác Tướng, làm thế nào nhìn trông? Họ liền
sanh tâm đồ chúng đảm phá giáo môn, phần Ta thì Ta chỉ cười không nói đặng.
Còn có bậc Tín Tâm Nghiêm Túc, nhưng nơi Tín Tâm nghiêm túc nọ chưa có lý
trí thoát sanh, chưa đặng hòa đồng Trực Giác, họ tu từng món, họ rõ từng tông, họ
không khoát đạt, họ lại vào toàn Pháp Giới, họ chưa thật biết nơi ra hòa đều tận
giác.
Đứng nơi tư thế của nhân sanh tứ chúng cho đến toàn thể tứ loài, khó phân
định cho đặng thế nào là Tri Kiến. Vì sao? Vì vốn Tứ loài tất cả đều Thấy Biết,
còn Thấy Biết nào mới đặng Tri Kiến? Từ nơi một câu tự hỏi cho đến triệu câu tự
lòng mình tự hỏi. Có lắm bậc hình thành mường tượng các Giác là Tri Kiến, thì
cái Giác nó như thế nào? Tất cả sự việc lý trí tài năng, khả năng đối với Tứ Loài
đều có, nên mới phát triển nhịp nhàng đồng đẳng thực hành chung với Vũ Trụ,
vẫn từ nơi chưa biết đến hoàn mỹ đặng biết, hiện hành phát triển như thế có phải
là Cái Giác chăng? 
Những câu tự hỏi cùng những bậc đã từng tu học, đã từng nghiên cứu thoát
sanh vươn mình nhưng họ nào có hay biết đặng họ đang bị trị quyền hành bổ sung
điều khiển của Vũ Trụ sai khiến trong vòng đai pháp giới mà sanh tử. Họ vẫn
khôn, họ vẫn Giác, họ đủ lý trí tài năng cùng khả năng, nhưng tài năng khả năng
ấy họ còn đang nằm trong hố sâu Pháp Giới, thì làm sao thoát khỏi quyền bị trị để
tự chủ. Vì như thế nên chi nơi thấy biết thảy đều Thấy Biết bị Thấy chớ nào Tỏ
Thấy đâu?
Còn như Ta tỏ thấy, nên Ta thấy quân minh đồng đẳng Thâm Tâm đồng
đẳng đặng cái biết đồng đẳng, như thế nên mới tận giác Đồng Đẳng gọi là Vô
Thượng. Vì nơi đồng đẳng nên mới Vô Thượng, không có nơi nào gọi là cái Thấy
cao hơn Ta đã thấy mà chánh giác.

44
B. THẾ NÀO LÀ CÁI THẤY QUÂN MINH ĐỒNG
ĐẲNG? 
Thấy Quân Minh Đồng Đẳng mới Tận thấy Tận giác. Tất cả vạn chất đều
quân minh, các pháp đều bình đẳng. Không lấy chẳng bỏ, Thị Chứng tận Giác.
- Tánh nó mới thấy tánh, Ta chưa bao giờ thấy, Thị Chứng mới thấy.
- Nghiệp nó giải nghiệp, nó thấy nghiệp, Ta chưa bao giờ thấy, Thị Chứng
mới thấy.
- Thiện nó huân tập thiện nó thấy thiện, Ta chưa bao giờ thấy, Thị Chứng
mới thấy.
- Ác tương đối Thiện, liền phản chiếu, nó thấy nó, Ta chưa bao giờ thấy nó,
Thị Chứng mới thấy. 
Lại Nữa: Nơi Tánh nó huân tập kết nạp vạn chất, vạn chất thảy đều vạn
pháp bao vây diễn hóa trở thành pháp giới của Tánh, nó biết nó đồng thời thấy nó,
Chớ Ta Nào Phải Nó. Thị Chứng mới thấy.
Nghiệp nó cố chấp dừng trụ, trở thành nghiệp. Nó lại ngại ngùng giải
nghiệp, nó thấy nó, chớ Ta nào phải nó, Thị Chứng mới thấy.
Thiện nó cầu lấy Thiện, nó làm phước thiện, nó huân tập Thiện đặng an
toàn thanh thoát, nó thấy nó, chớ Ta nào phải nó, Thị Chứng mới thấy.
Ác tương đối phản ảnh của vạn chất Thiện, lòng nó kiên sợ, nó đặng thấy
nó. Bằng chưa kiên sợ nó vẫn kết nạp vạn Chất ác làm căn, dung dưỡng cá tánh,
xuôi theo tự mãn, thời nó vẫn chưa thấy nó, lúc nó đặng thấy nó, chính khi nó
phản chiếu nó, nó thấy nó, chớ Ta nào có phải nó. Thị Chứng mới thấy.
Tất cả trong vạn chất vạn pháp, từ nơi Thiện Ác, tốt xấu, lấy bỏ, được mất,
có không đều là cơ cấu vòng đai pháp giới. Sự Thấy Biết lầm ở trong Pháp Giới,
cao thấp thăng trầm đều nằm nơi hố sâu Pháp Giới. Nếu nhân sanh tứ loài cùng
các bậc tu hành bị lầm trong Pháp Giới, ở nơi hố sâu thì làm sao tận thấy Minh
Quân để bình đẳng quân minh thoát khỏi Pháp Giới.
Sự lầm này chung khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới rồng người đều
phải lầm, dù trí tuệ siêu đẳng cao cống đến đâu vẫn phải lầm. Chỉ trừ công năng
mới lần thấu, công đức đầy đủ mà thị chứng. Bằng chính nơi con người hoặc giả
bậc Thiên Tiên cho đến hàng Bồ Tát, khi chưa đầy đủ ngỡ chính mình đã Giải
Giới thoát sanh, vẫn còn trong vòng sanh tử. Vì sao? Vì Chim Phượng Hoàng kia
sanh đẻ ra trứng Phượng Hoàng khi trứng Phượng Hoàng chưa ấp ủ, hoặc giả ấp ủ
chưa đúng với chỗ hóa hình hay đã hóa hình chưa đúng thời nở, thời làm sao chim
con Phượng Hoàng thoát sanh ra đặng? Đối với nơi thoát sanh vẫn như thế.
Khi bấy giờ Phật Đạo có trọng trách đưa con người nhân sanh tứ loài nên
mới khai hóa con người và Tứ loài đặng rõ biết, sự ràng buộc sanh tử, lần hồi tu
hành, cốt thoát sanh khỏi Vũ Trụ, làm chủ vạn pháp nên mới nói “Tâm Kinh Bát
Nhã” cứu giúp các bậc tu hành thị chứng như sau: 
45
C. BÁT NHÃ TÂM KINH ẤN CHỈ.
Thấy Tự Tại Bồ Tát, Thời Pháp Giới Tự Tại Bồ Tát chớ chưa phải Bồ Tát.
Bằng cho mình Bồ Tát, phải hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa trong một thời. Sáng
thấy Ngũ Uẩn giai không, chỉ thị chứng vạn pháp giới khổ ách, liền độ tất cả khổ ách.
Xá Lợi tử! Nơi sắc chớ nên bác bỏ dị không, nơi không chớ bác bỏ lại sắc. Vì
sắc thị chứng nên mới không. Thị Chứng quân minh đều là sắc. Từ thọ tưởng hành
thức thảy đều nằm nơi Thị Chứng.
Xá lợi tử! Thị Chứng pháp liền không tướng mà Giác Tướng. Nơi Giác Tướng
nó Bất Sanh, Bất Diệt, Bất Cấu, Bất Tịnh, Bất Tăng, Bất Giảm. Thị cố tựa như không
trung, vào nơi Sắc, nơi Thọ Tưởng Hành Thức, cho đến vào Nhãn Nhĩ Tỹ Thiệt Thân
Ý, vào Sắc Thinh Hương Vị Xúc Pháp: Vào Nhãn là Giới, nãi chí vào ý thức đều
giới, cứ vào Vô Minh vô minh Diệt, vào Vô Minh cốt tận vô minh, có chí vào Lão
hoặc Tử, chưa diệt Lão hay Tử vẫn tận, vào Khổ Tập Diệt Đạo vào Trí Diệt Trí. Vào
Đắc giải Đắc, tất cả không nên cố trụ. Bồ Đề Tát Đỏa Y Bát Nhã Ba La Mật Đa Cố,
Tâm Vô Quái Ngại, vô hữu khủng bố (Tâm đừng quái ngại, nếu quái ngại liền củng
cố, bị vạn pháp khủng bố). Hãy dẹp mộng tưởng Niết Bàn, điên đảo cứu cánh Niết
Bàn đến quân minh Thị Chứng, Pháp Giới chính Niết Bàn. Tam thế Chư Phật Y Bát
Nhã Ba La Mật Đa, Sở đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Những bậc cố tri thực hiện Bát Nhã Ba La Mật Đa, Thị Chứng Đại Thần Chú
đến Đại Minh Chú vào Thượng Chú liền Thị Chứng Đồng Đẳng, Chú trừ tất cả khổ,
lời chân thiết không dối.
Lành thay! Lành thay! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là Cố Tri
duyên lành, cẩm nang chỉ đạo quân minh cho các bậc tu hành thọ trì tận giác.
Đến nay Ta chỉ thẳng cái thấy quân minh Đồng Đẳng được gọi là Vô Thượng
Đẳng. Tất cả các bậc tu hành phải nương nơi Bát Nhã Ba La Mật Đa mới hoàn mỹ.
Khi các bậc tu thâm tâm chưa thoải mái, còn nghi, còn chấp, chính còn tu. Chớ
nên không còn chỗ mà chấp không, chớ đừng không chấp mãi đi nơi Kiến Dục Tăng
Thượng.
Dưới mắt Ta, Lý Sự thường hợp hay hóa là Như Nhiên vận chuyển vạn pháp
Vũ Trụ với con người, hoặc giả Bổn Lai Diện Mục Như Lai Phật hành dụng. Các bậc
lầm lạc thường trú, hay trụ Pháp Giới, bị trụ là nghiệp giới sa đọa luân hồi pháp giới.
Bằng nương nơi pháp giới tường tận, không vướng mắc, đó là con đường duy nhất tu
Tri Kiến Giải Thoát./-

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT Khai Thị năm 1983, Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi
chép lại.

46
5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐÃ TỪNG SÁT THẬT
Duới mắt Thiền Sư: Đã từng sát thật. Ta đã từng thấy, bộ óc đã từng xem xét,
dù nói ra họ đang bị sanh vạn kiếp, mãi theo đuổi thụ sanh, làm sao cho lời Ta nói
thật. 
Họ ngỡ thế gian là khổ, họ chỉ mong thoát khổ nơi tâm khảm hoài mong làm
như thế nào thoát khỏi trần lao, họ tu trong một kiếp tu, chưa bao giờ nghĩ đến hiện
tại, nơi hiện tại lướt qua hóa giải đặng thoát sinh. Họ mong tu giải thoát cầu lấy giải
thoát, nhưng chưa bao giờ giải thoát, khắc phục để thực hiện, mỗi một khi bị va chạm
đến chỗ của họ đã từng thụ sanh.
Dù cho họ tin tưởng ngoài thế giới loài người có chẳng biết bao nhiêu thế giới
sung sướng thanh nhàn đẹp đẽ gấp trăm nghìn lần nơi nhân thế. Họ mơ ước đến nơi
đặng sanh trong cõi đó bằng ước mơ tưởng niệm, chớ chưa hóa giải cốt tu đạt đến
chỗ Giác Niệm.
THẾ NÀO LÀ GIÁC NIỆM.
Giác Niệm là những bậc đã từng huân tập, biết tỏ rõ, làm Thiện được sanh
Thiên an hưởng, làm ác phải sa đọa làm thân trâu ngựa, sống trong hoàn cảnh cực
hình, do đó nên chi làm Thiện bằng cách nào vẫn thụ sanh trong chốn Thiện mà thụ
hưởng, còn Ác phải sa đọa vô cùng. Chính Ta đã từng sát thật hai nơi nên tư tưởng
dung thông thanh thoát thiện căn, đào tạo Thiện Chí, truy tầm giác niệm về với chính
Ta mà đặng thoát sinh bất diệt.
Ta không vì Thiện mà an trụ, không vì ác mà thù hận ghét vơ, cũng không vì
tốt tham cầu, nơi xấu vứt bỏ, từ nơi thực hành quen thuộc, ban đầu Ta cố gắng để
dung thông đến giai đoạn, mới nhận thấy quen lần sống nơi Bản Chất, nó làm cho Ta
bất ngờ nghĩ lại, thời chính Ta đã hóa giải vạn triệu lần lướt qua từng giai đoạn thụ
sanh, nếu Ta đứng lại nó không chấp, vẫn bị thụ sanh trong chấp không vậy.
Ta nhịp nhàng kiểm soát từng duyên Khởi Sanh Diệt, Diệt Sanh, mới nhận
chân nơi nó, cuộc sống hàng ngày chẳng biết bao sanh diệt, khi mơ màng chưa phân
định thời tìm công việc hằng ngày để làm cho giải cơn tịnh biệt, vì tịnh biệt là nơi an
trú trụ sanh của lười trễ nằm yên, phải làm chủ động thụ sanh tịnh biệt.
Nương nhờ nơi chủ động vạn pháp nên không Trụ Chấp hai bên có không
Thiện Ác mà huân tập đặng Giác Chân, lần nơi Pháp Giới Hành Thâm, cốt làm sao
đặng thâu nhận Giác Tánh. Ban đầu tu như thế, thực hiện như vậy, huân tập nhiều
Giác trở thành Đại Giác. Nào ngờ đâu đã từng, từ đầu đến cuối chỉ có Thụ Sanh và
Thoát Sinh qua từng Sanh Diệt không trụ chấp mà hoan hỷ Giác Niệm, mới hay
Niệm Giác nó diễn hóa thay đổi từ thân tâm hồi sanh Giác niệm.
Khi toàn thân đều hóa, lý trí viễn thông, theo thứ lớp tỏ rạng, mới hay nơi chốn
thụ sanh, trở thành bá thiên vạn ức nơi chốn, nơi nào chốn ấy, từng lớp lang thể chất
của nó đã sẵn, vì Bổn Lai Diện Mục của nó như thế. Tại bản thân mình nuốt nó vào
thì nó hóa như thế, biết làm sao mà nói nó đặng. Chỉ trường hợp nuốt nó vào rồi kinh
47
nghiệm, lại nhả nó ra, giác Chân Tướng nó, được gọi là Giác Niệm, đến khi đầy đủ
toàn khắp, gọi là toàn thân hợp hóa tận thành./-

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT Khai Thị năm 1983, Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi
chép lại.
6. KỶ NIỆM MÙA KIẾT HẠ NĂM ẤT SỬU, 1985
Một buổi sáng tinh sương, bên dòng suối gần cạn của đầu mùa Hạ. Thiền Sư
lần bước trên đường mòn chỏm đá, đến vũng nước, cạnh bờ suối đọng, cách ba đêm
trước nhờ cơn mưa tiếp viện.
Đưa hai tay khoát lấy nước, rửa bộ mặt đã thức ngủ tọa Thiền từ đầu canh ba,
đến cuối canh tư mới tỉnh, Thiền Sư nhìn về phía cây rừng lá cành, phe phẩy gió
sương đưa, miệng lẩm bẩm: Có Tu Mới Có Chứng, Không Chứng Cũng Không Tu. 
Phải chăng ta cho Vũ Trụ gió mây là Khách Quan, Vũ Trụ gió mây có đủ
quyền cho ta là: Quan Khách. Bằng Ta rõ Vũ Trụ thì Vũ Trụ tỏ rõ Ta. Ta cùng Vũ
Trụ đồng nhịp nhàng giao cảm, đó chính lẻ thường.
Bộ óc nơi Ta. Thân mạng của Ta, nó là giống gì? Ta chưa bao giờ biết rõ nó.
Nó đâu cần Ta biết nó, nó chẳng cần biết Ta, nên Ta ngỡ nó là Ta, cho nó ăn hương
vị đầy đủ, cho nó mặc sung túc chẳng thiếu chi, cầu nó gìn giữ trẻ trung sợ nó già nua
sút kém. Nhưng chính nó nào đâu phải vậy. Nó là bộ máy ráp vần ghi nhận như
nhiên. Ta có bổn phận phát ngôn thấy biết. Nó cùng Ta thảy đều Như Nhiên, phần nó
đã giải thoát từ lâu, nơi Ta lại sống theo quan niệm, Thiền Sư nói xong cười xòa lải
rải.
Thiền Sư đứng lên, quay về lều lá, tay nâng ấm trà, đã nung bằng rừng lá làm
nước uống, lấy bình bát, trong bình bát có tách nhỏ, hớp một hớp nước dài chép
miệng nói: Đúng như vậy. Có tu mới có chứng, có thực hiện mới hiện sinh. Bằng
không thực hiện nào có hiện sinh, làm sao tận thấu. Khi hiện sinh phát sanh tường
tận, mới công nhận chốn lầm sai, thì đâu còn hai nơi Tu Chứng? 
Từ thuở nghìn xưa, Ta ngỡ Ta là con người làm vị Thiền Sư, đến sau lắc đầu
Ta đang sống theo cái sống lập dị, khác sai liền tự hối. Nhìn nhận lý sự đảo điên hư
dối, cho đó là thật chân, khai thác lần lần mới truy tầm chân thật, nên Ta phải tu.
Tu qua đường lầm lạc
Tu nơi chỗ đúng sai
Tu gấp bảy, gấp hai
Để quay về với một
Tự rõ mình bị cột
Đột ngột hiện sinh
Rành rành mới mẻ

48
Thiền Sư vừa suy nghĩ đến đây, yên lặng nhìn bầy chim ríu rít nhảy nhót trước
sân, Thiền Sư đứng lên vươn đôi vai mĩm cười nghĩ tiếp: Phải rồi, phải rồi Đức Di
Lạc đã từng nói nơi bài thi về trì giới, nhẫn nhục như sau:
Nếu người tri kỷ nên yên phận.
Dẫu kẻ oan gia vẫn cọng Hòa.
Miễn tấm lòng này không quái ngại.
Mười phương chứng đặng Lục Ba La.
Chính Ngài vẫn khâm mạng Trì Giới và Nhẫn Nhục bậc nào con người nào rõ
biết Trì Giới, Nhẫn Nhục thảy đều là tri kỷ con đường vết chân của Ngài đồng hành
thực tiễn, đến trùm khắp chứng tri.
Trì giới nó có trọng lượng cùng giải giới mở rộng đến nơi phi trọng lượng mà
Sở Đắc. Đó là con đường Trì Giới Nhất Tôn cốt tu đạt đến Trí Tuệ Thiền Định. Trí
Tuệ Thiền Định nó như nhiên xuất phát, như nhiên sáng soi, đến như nhiên trực giác,
nó rất tường tận về thọ nghiệp, chủng nghiệp lợi hại từng cảnh giới, nơi thế gian cùng
xuất thế gian rồng người, các loài ma quái, Tiên Thần Thánh Hóa, đó chính là từ nơi
trì giới mới hiện sinh tường tận viên đạt Diện Mục Bổn Lai từng giới, khắp trong Vũ
Trụ Thế Giới Tứ Loài, bằng chưa Trì Giới làm sao tỏ giới mà Viên Đạt.
Thiền Sư nghĩ đến đây, thì ánh mặt trời tia sáng, ngọn nắng vàng trải dài soi
khắp núi đồi cây cỏ thấp cao bình minh sáng rõ. Thiền Sư đang ngồi chiếc ghế tre
xinh nhỏ, êm bặt tựa như đang thọ Pháp Tổng Trì. Bỗng nhiên vỗ tay khen tặng, hay
thay! Hay thay! Bi Trí Dũng, Giới Định Tuệ là bao quảng bảo trì pháp môn Trì Giới
Nhất Tôn Giải Thoát, chính ra Bi là mỗi một giới hay mỗi một bước đi, hoặc lời hứa
phải gìn giữ cho tròn sự việc, muốn gìn giữ thực hiện cho tròn phải là những Bậc có
Chí Dũng bằng chưa Trí Dũng tu đạt khó thành, khi Bi Trí Dũng thực hiện đặng mới
tu đắc Giới Định Tuệ mà tròn duyên Trì Giới. Thiền Sư nhìn nơi hư không vô tận,
buột miệng ứng thân rằng: Lạ thay ngón tay chỉ quá ư tuyệt tác, Ta đã từng quen
thuộc Bi Chí Dũng, Giới Định Tuệ hằng ngày mà chưa hề thấu đáo, thì con đường
giải thoát dù có học thuộc nó chẳng có nghĩa lý gì thâm nhập. Khi thâm nhập tận
tường Tổng Trì Đà La Ni Tạng, mới tán thán lời chỉ giáo của Đức Thế Tôn Ngài đã
xây dựng từ lớp lang cốt con người trở về Thể Chân Diện Mục, vì bổn năng con
người đang lầm nhận Tạp Nhập mà điên đảo.
Thiền Sư nói tiếp: Mỗi một con người điên đảo, thì bá triệu thế giới con người
lần đến Lý sự đảo điên, cho nên thế giới của con người mà con người đâu làm Chủ
được con người, toàn hỗn hợp ma quái tạp nhập điều động con người phải chấp hành
theo vọng loạn đảo điên, chính nó điều hành con người lạc lỏng tha phương do nó dắt
dẫn quá nhiều điều vô lối, chưa bao giờ bổn lai con người ưa chuộng mà phải tuân
hành, do đó con người có Thân Mạng có thế giới của con người mà cái sống nơi con
người chưa bao giờ thoải mái là như thế .

49
Phật Đạo không chấp nhận hỗn hợp tạp nhập, mà con người lầm mê gánh chịu,
mang lấy làm chính mình mới nói lên cần thức tỉnh rằng: Vạn Pháp Như Huyển, tạp
nhập là chúng sanh như huyển, lại hình dung tạp nhập như bóng cây dưới nước, như
tia sáng trong rừng không thực thể, chớ nên chấp nhận, vì chấp nhận bị mù quáng.
Con người với con người, khôn khéo đến đâu khó nói lên thế nào con đường
Giải Thoát, chỉ có Bậc Giải Thoát mới bày rõ Chơn Tôn, biện bày Giải Thoát. Dù cho
nhất tâm tu đạt, tin chổ giải thoát chăng, vẫn tin nơi quan niệm giải thoát bằng thể
thức tuyệt dục ly thân cắt ái, xa lánh con người trần lao cấu nhiễm là giải thoát.
Chính Thân Mạng nơi Ta cũng đã từng lầm lẫn quan niệm như thế. Nhưng may
thay: Nương nhờ Thiền Tọa tự tánh sáng soi, tỏ thông vạn pháp Như Huyển, nó vãng
cùng lai nó sai hay đúng, nó dúng bóng hình, lộ trình mãi diễn, nhìn nơi tạp nhập,
kiểm điểm vô biên, đến lúc Tọa Thiền mới hay tạp nhập, cho đến giờ phút này, giai
đoạn hiện nay Ta mới hay Tín Hạnh Nguyện một sức mạnh Tự Tín vô cùng, nếu tu
cầu giải thoát chưa Tín Hạnh Nguyện vẫn chưa xong. Vì sao? Vì chưa Tự Tín Bổn
Năng nơi Công Năng thọ lãnh để thực hành hạnh nguyện thì chưa bao giờ giải thoát,
bởi công năng khỏi vòng đai sanh tử, nó thay đổi của tạp nhập cản ngăn, là thành lăn
tăn sóng gió thật khó khăn thành tựu.
Môi–thuẫn(*) thay! Trí người với giải thoát. Khi đang còn mê lầm tạp nhập,
định hướng chỗ mơ màng, vọng kỳ xao xuyến, quan niệm đúng sai, sống theo cái
sống cảnh sanh tình, chưa rõ đặng Tình đổi Cảnh. Tuy những con người ấy miệng đòi
giải thoát, hoài vọng mong tu hành đến chí nguyện giải thoát. Nhưng lạ thay chổ giải
thoát nơi họ ưa thích không tu mà giải thoát, chẳng chịu khắc phục bản thân mà mỏi
mong nơi đến hình thành. Nếu gặp Ta, Ta bảo họ phải đứng yên xét lại bản thân,
hoặc hóa giải họ sanh chướng đối, chẳng khác qua núi đồi mới đến nơi giải thoát, nào
họ có nghe đâu đặng, dù nghe hiểu vẫn mơ màng, chưa nhận chân chi cả, nên chi họ:
Trơ trơ như tượng gỗ
Đổ đổ oán gật gù
Chỉ thích phá sương mù
Chịu tu nơi kỳ vọng
Thật ra con người, chưa hẳn nó muốn như thế. Chỉ vì nơi con người yếu kém,
lại mang phải tạp nhập quan niệm nặng nề, nơi chỗ mê tín, Tự tín chưa phân nên mới
phát sinh ngớ ngẩn. Thà nó như thế, được như vậy để nó tu, còn có thời gian vào
Chánh Tín, hãy còn lại bổn chất con người nhiều hay ít về môn Đạo Đức Hiền Lành.
Tuy những bậc nầy dại nơi con đường giải thoát, chính khôn chỗ hiền lành. Ngoan
ngoản như Bụt. Thiền Sư cười xòa, lấy tay nhịp nơi đùi thoải mái.
Thiền Sư nghĩ tiếp: Kẻ tự tín phải lâm vào mê tín mà chẳng hay, thường nhân
tự mãn trong cơn khôn dại, chỉ vì chưa thực hiện Chí nghĩ lành mạnh của mình. Còn
phần tự tín của Phật Tử Chí Tôn vẫn chưa thực hành Hạnh Nguyện, khai thác trình độ
tu học của mình, thì làm sao thọ trì bảo pháp mà Tự Tín? Dù cho họ lầm nơi Tự Tín
50
đi chăng nữa, vẫn tự tín trong vòng học vấn thuyết giả chẳng minh Chân nơi Tam
Tạng Kinh mà thuyết giả, trở nên đảo thuyết, thực ra chưa bước nơi chân tâm thực
thuyết, thời làm thế nào bước vào con đường giải thoát vẹn toàn. Họ làm như thế, tu
như vậy, gọi đó chính là Năng thuyết bất Năng hành. 
Khi nhận đặng tự tín, bảo pháp phải Tâm ngay, Chân Tâm hồi sinh lực, Tỏ Rõ
giải Phước Điền, Hạnh nguyện nguyên tự tín. Bằng chưa an lành trong Tự Tín thì tu
sống nơi thế hệ vu vơ mờ sáng, nương theo tạp nhập trở thành Nhập Thuyết. Phật
Đạo mới phương tiện là: Nương vào Công Đức Như Lai Thuyết Pháp. Tuy nhiên
đang tu nhập nói, chính các hàng tu học phải học lại thời Pháp mình đã nói mà tiến
thân, chớ nên lầm cho mình đã từng thuyết pháp, nên chi Tự Tín rất cần Hạnh
Nguyện thời Tự Tín kia mới là con đường Tự Tín tu đạt Chánh Tín.
Thiền Sư sửa lại y áo bước đến bát hương, đã đặt trên vách lá, bái ba bái chiêm
ngưỡng, xong đâu đấy vẻ mặt trang nghiêm, đầy lòng kính ái. Thiền Sư chắp tay nói
Bạch Thế Tôn: Chính con đã đưa tất cả chúng sanh Tri Kiến Giải Thoát. Sự lầm lạc
nơi con giờ phút nầy không nói được. Con vướng bệnh mê lầm chính con phải chữa
căn bệnh, khi bệnh hết mới đặng giải thoát. Con tu cầu đã từng Thề Nguyện, độ hết
chúng sanh mới nhập Niết Bàn, bằng còn mỗi một chúng sanh chưa tận độ, con thề
chưa nhập Niết Bàn.
Thế mà, con ngỡ chúng sanh nó buộc con chưa giải thoát. Con phải giằng co
với chúng, con tu cầu nơi đúng chân nguyên, con phải lang thang kiếp sống hão
huyền, qua từng khúc, từng hồi từng cơn khắc phục. Nó mãi diễn tấm tuồng, con cứ
lầm nơi nó với con, cứ như thế mãi cho đến từ hàng ma quái hay loài quỷ quái sinh
tâm, nhất nhất tư tưởng lầm, nung cầu giải thoát, lại bồi vào hàng Tiên Thánh siêu
thoát độ nhân sinh. Con ngỡ con Bồ Tát thành, ứng thân muôn triệu cách. Hôm nay
con quét sạch mới thưa Bạch Đức Thế Tôn.
Thiền Sư đưa đôi mắt thỉnh cầu bửu sám. Khi bấy giờ nương nhờ nơi Bửu Sám
Chí Tôn của Thiền Sư ứng hiện chân thành, hòa đồng Tam Thiên Vũ Trụ, liền ánh
Thái Dương chợt có vừng mây che bớt ngọn nắng nực hồng, trở thành trời êm gió
mát. Nơi lều lá có ánh hiện Huỳnh Quang, có tia vàng hương tỏa, Thiền Sư hiện thân
lên tòa thuyết pháp. Bỗng nhiên từ Tây Phương, Đông Phương, Nam Phương cho đến
Bắc Phương trong mười phương, từ hàng Trưởng Giả, Tôn Giả, Chư Thiên, Càng Cát
Quỷ Vương từ một phương đến mười phương đầy đủ tề tựu, đầy đủ lớp lang trong
hàng Bồ Tát không thiếu sót.
Thiền Sư nói: Nầy các Ông, đây các Ông, đến các Ông, hãy nghe Ta dạy, hãy
lãnh lời Ta hòa đồng chỉ giáo. Khi bấy giờ hàng hàng lớp lớp ngồi yên. Tiếng Sư Tử
Hóng của Thiền Sư phát hiện nói: Ta đã dạy các Ông, từ hàng lớp sơ khởi, cho đến
Bậc phát Bồ Đề Tâm,Ta nhắc nhở từng phân, từng hồi để các Ông thọ pháp, các Ông
sinh lòng biếng nhát, Ta phải giải nói siêng năng. Các Ông chẳng nói không rằng, dạy
nên thuyết pháp, các Ông lý suông khoác lác, buộc phải thụ giới Chân Như, các ông
51
Tâm nhỏ chưa trừ, dạy nương theo Chí nguyện, các ông sanh lòng Tăng Thượng, dạy
các ông Ngã giải lìa, ngôn lánh nơi Thọ Giả. Trong khi ấy các hàng Chư Thiên, Chư
Tiên chiêm ngưỡng chờ giải đến phần mình, thời bỗng nhiên Thiền sư nhìn nói:
Nầy hàng Chư Thiên, các ông rộng hẹp chưa dung đồng bình đẳng, chỉ vì độc
tôn bỉnh trị, do nơi ưa chuộng say đắm chốn uy quyền. Ta phải dạy Sắc Hương chớ
vương trong Pháp Giới, buông thả tỏa muôn phương cúng dường Tam Thế chứng.
Còn hàng thanh thoát của Chư Tiên, do Căn Tánh hiếu kỳ, do lòng hữu hóa, nên bị
sống hóa sanh trưởng thành tài phép chìm đắm diệt sanh.Ta phải dạy tâm hành Kim
Cang Đại Trí. Đến hàng Bồ Tát hiện tu đạt phẩm Phổ môn cung kính phẩm cúng
dường, rộng đường Bát Nhã vị. Thiền Sư vừa tuyên đọc xong: Tất cả rồng người Tiên
Thần Thánh Hóa cùng Bồ Tát trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới tán thán.
Chư Phật mười phương chứng minh đương thời Hạ Lai pháp thân thị hiện giảng giải.
Các hàng lớp lớp, tất cả ứng thân thị hiện đứng lên lễ bái, đứng lên thưa gởi,
đứng lên tỏ bày. Thiền Sư gật đầu tất cả đều ứng nói:
Kính Thượng Sư, chúng con đều rõ như vậy, biết như thế. Công Đức Thượng
Sư Vô Lượng, Công Năng vô biên tận tận khó nghĩ bàn. Chỉ vì lòng chúng con, mỗi
hàng mỗi vị đều có sẵn của mỗi nơi, lớp lang đâu cũng vậy, tình tứ mỗi sẵn Tánh ưa
thích giành nhau, bởi lòng thương cảm mến Thiền Sư về với phần chúng con, nên chi
xãy ra sự việc.
Chúng con giành giựt. Chực sẵn mỗi bên. Chờ lúc hở cơ, mang Thiền Sư về an
trú. Chúng con lại mỗi giới, có giới yêu đời, có nơi dõng dạt, có chỗ nói khoác, có
chỗ an bang, có từng đoàn phỉnh gạt. Lại thêm nơi thanh thoát lắm cõi hiên ngang,
xây dựng giang san lập thành Vua Chúa không ngoài phân bủa, giành cướp Thượng
Sư.
Nghe xong Thiền Sư cười xòa hỏi? Tại sao? Tại sao kính thưa Thượng Sư, tại
mỗi nơi có sẵn mỗi Chủng Tộc nó như thế. Thiền Sư vỗ tay, tất cả thảy đều vỗ tay
xưng tán.
Lạ thay! Trên con đường giải thoát.
Kỷ niệm mùa Kiết Hạ, ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT, Khai Thị năm 1985,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.
(*) Môi–thuẫn: chữ của chính Đức Ngài. Ý nghĩa là môi trường mâu thuẫn. 

52
7. KHI BẤY GIỜ THIỀN SƯ NHẬP XONG CHÁNH
ĐỊNH
Khi bấy giờ Thiền Sư nhập xong Chánh Định, Chánh Định là nơi ra vào quán
xuyến trùm khắp, quán xuyến từng thân mạng đến các hình tướng, hằng hà sa số các
thân mạng tứ loài sống chết từng lớp, tồn sanh sanh diệt nơi tất cả chúng sanh, họ chỉ
nương nơi Túc Mạng mà ấn định sự ấn định nó không ngoài Thần Túc tư tưởng và
trình độ trực thuộc và gìn giữ, nên mới có từng cảnh giới, từng mỗi cõi, rộng hẹp
khác biệt nhau của mỗi cõi, mỗi một cõi đồng Chủng Tộc, trùm khắp đồng thể tánh.
Thiền Sư Ngài đã tận tường từ chốn, nên sự giao cảm đối với Ngài thời trùm khắp Vũ
Trụ Tam Thiên, không ngoài từng Pháp Giới vận chuyển Pháp Thân.
Thiền Sư đã từng nhiếp độ thâm nhập Chu đáo tận tường của mỗi giới sanh,
ảnh hưởng thâm nhiễm nên mới có một chủng tộc, toàn diện pháp giới như thế có
hằng hà sa số vô lượng vô biên chủng tộc, tuy nhiên sai khác nhau nhưng đồng đẳng,
an lành nơi Pháp Thân, gọi là Pháp Thân Phật. Đối với Thiền Sư là Bậc Chánh Giác.
Đứng nơi Phật Pháp bất ly thế gian giác để diễn giải Pháp Thân thì nó không
khác mấy với Hoàn cầu thế giới trên quả địa cầu gọi là Pháp Thân. Mỗi một nước có
một đường hướng chế độ, hoặc mỗi một gia đình có một nếp sống trong gia đình gọi
là Pháp Giới. Mỗi một con người có mỗi định hướng theo trình độ giai cấp mình, do
bản tánh chủ định gọi là chúng sanh giới. Từ trong chúng sanh giới đến Pháp Giới kết
nạp nhau trở thành Pháp Thân Phật. Bậc Chánh Giác tận tường chu đáo từ nơi chúng
sanh giới toàn diện Pháp Giới không thiếu sót gọi là Chánh Giác. Đối với Thiền Sư
cũng như thế.
Khi bấy giờ Thiền Sư quá tường tận sự xuất nhập nơi Như Lai Tạng, phân chia
định hướng cùng bất định hướng dung thông cùng bất dung thông Như Lai. Nên chi
Thiền Sư hợp hóa Như Lai, ứng hiện nơi Pháp Thân thị hiện, toàn thân Như Lai
Chánh Giác. Từ mỗi một lổ chân lông của Thiền Sư đến bá thiên vạn triệu hằng hà sa
số không còn bờ ngăn nên đồng ứng hiện bá thiên cảnh giới, sa số các cõi thị hiện
vẫn từ mỗi lổ chân lông bước ra được gọi là Ứng Thân Pháp Thân của Bậc Chánh
Giác.
Lúc bấy giờ toàn thân nơi Thiền Sư thảy đều mỗi lỗ chân lông có một Vị thị
hiện, chung quanh Thiền Sư có hằng hà sa số ứng trực thị hiện lễ bái, ứng trực thọ trì
tán thán Công Đức Vô Lượng Thiền Sư, tận độ chúng sanh giai thành Phật Đạo.
Thiền Sư minh thuyết, giải bày, nói năng xong từng lớp lớp thọ trì, lớp lớp ái kính.
Tất cả thảy đều thưa gởi. Mỗi chủng tộc của mỗi giới sanh mình. Thiền Sư cười vỗ
tay, tất cả đều vỗ tay xưng tán. Thiền Sư nói: Lạ thay! Trên con đường giải thoát,
Ngài liền thọ ký cho tất cả Chúng Sanh Tánh sẽ thành Phật.
Thiền Sư đứng lên, bước ra ngoài sân lều lá, miệng lẩm bẩm. Tuyệt tác thay
đấng Chí Tôn Vô Thượng, Ngài đã thành Phật, Ngài thọ ký chúng sanh sẽ thành Phật.

53
Nay Ta lại thọ ký chúng sanh tánh sẽ thành Phật, tuy nhiên hai lối trong ngoài, chung
lại chỉ có một điều duy nhất, phải chăng tiêu biểu hoàn tất Ba Thân?
Tại sao như thế? Giác thời có Giác mà vốn chỗ tận thành vẫn chưa. Tướng
Tánh vốn tương song khi đang Diệu Dụng Hành Dụng, mà thân tâm tự chia hai lối
thành thử thực hành và trí tuệ nó vẫn chưa đồng, làm cho các bậc tu hành dù cho tín
thành cực điểm, đầy đủ trên con đường giải thoát chăng, vẫn suy nghĩ hai chiều làm
sao tận thành cho đặng. Ta thật rõ tận tường có nên phơi bày để đời nầy cùng đời sau
thực hiện tận giác chăng?
Khó khăn thay một khúc eo vĩnh cửu chỗ Giác với tận thành, nói đến các Bậc
Giác thời thật nhiều mà tận thành quá hiếm, đừng nên hoài tưởng Giác chính là
Thành các Bậc dùng Trí tu hành vẫn từ nơi Giác Trí đặng Như Trí. Bằng dùng Hạnh
để Tu Đạo Hạnh thời nó lại đứng vào hàng Nhất Tướng về với Như Tướng, Tướng
mà Như Như là trang nghiêm tướng nơi Thập Bát La Hán chớ nào Tận Giác. Đến
hàng Bồ Tát từ nơi Sơ Trụ Bồ Tát cho đến Đại Bồ Tát Ma Ha Tát vẫn tận độ chúng
sanh giai thành Phật Đạo, chớ Pháp Thân chưa tận dụng vẫn chưa tận thành thì sao?
Duy nhất chỉ có Đức Chí Tôn Bổn Sư Vô Thượng mà thôi.
Ta phải nói sao đây, phải bày biện như thế nào, thật khó khăn thay cho từng
lớp căn cơ tu chứng, phân đối với chung hòa. Lời Ta diễn giải toàn lời Công Năng tu
đạt toàn diện không hai. Khi Ta diễn giải với Tâm Chí Nhất Tâm của Ta thì nó nghe
ưu tú đặng 70 phần trăm. Bằng Ta viết ra từng lời nói diễn giải nó không ngoài văn tự
minh thuyết. Các Bậc từ đời này cho đến đời sau đọc tụng chưa hẳn đã lãnh hội vẹn
toàn, dù bậc tín tâm thông hiểu chăng vẫn thông hiểu với hàng thinh văn gặp đặng
duyên mà Giác, chớ chưa tận sâu lời ta đã nói, đây là lời Ta nói với hàng đã từng biết
xem Kinh, đã từng Tu với Tự Tánh. Nếu Bậc tu Y Kinh chưa Liễu nghĩa thì làm sao
thấu đặng lời Ta? Thiền Sư tự thán xong cũng vừa đúng ngọ thọ trai.
Cơm nước do các nhà hảo tâm mang đến cúng dường tuy không đầy đủ lắm,
nhưng Thiền Sư thực dụng tạm qua ngày đơn giản. Theo như thường lệ, mỗi lần thọ
trai xong, Thiền Sư thả chiếc võng treo xuống, hai tay nhún hai đầu võng thật kỹ càng
mới đặt lưng nằm xuống, có một lúc, có một cụ già ở cuối xóm, mang chiếc võng lên
cúng dường, Cụ già thưa với Thiền Sư: Bạch Thiền Sư, con từ thuở còn trai, làm
nghề đan võng, đến nay tuổi già không còn làm nghề đan võng nữa. Con niệm tình ái
kính đối với Thiền Sư, mua một ít dây gai, tự tay đan chiếc võng để cúng dường, xin
Thiền Sư thương con thâu nhận, Thiền Sư gật đầu, cụ bái tạ ra về.
Thiền Sư lẩm nhẩm tư tưởng phát sinh, đang giải nói hồn mơ: Thật hay thay!
Như Lai Dụng, lời này của kinh pháp mà Đức Thế Tôn ấn chỉ có hai lối hành dụng và
thực dụng của Như Lai, chung gồm chỉ có chữ Dụng.
Từ Hành Dụng của Như Lai là vận chuyển vạn pháp trùm khắp Tam Thiên, thế
gian, xuất thế gian, rồng người, tất cả các sự việc hoàn cảnh hằng ngày cho đến đi,

54
đứng, nằm, ngồi, mỗi mỗi lớn nhỏ thảy đều hành dụng của Như Lai, chung gồm
không trong ngoài của Như Lai Hành Dụng.
Còn về Thực Dụng, nơi Tứ Loài Chúng Sanh ăn uống Thực Dụng hằng ngày
sinh sống thảy thảy được gọi là Thực Dụng.
Các Bậc tu hành đến các vị Thiền Sư đa số giác ngộ nương nhờ nơi va chạm
nghịch cảnh bối cảnh Hành Dụng mà Trực Ngộ, hiếm bậc khi đang Thực Dụng mà
Trực Giác, nơi các món ăn Như Lai Thực Dụng. Vì sao? Vì Thực Dụng là Bổn Lai.
Lạ thay nơi hiểu biết hoặc giả nghiên cứu nơi văn tự nó trực thuộc về bộ óc tạm biết
mà các hàng Thinh Văn Duyên Giác đã từng tu.
Nếu đem sự hiểu biết áp dụng thực hành nơi hiểu biết thực hiện thì tự biết kia
đặng nương vào Công Đức Hành Dụng Như Lai mà Trực Ngộ thì thâm sâu biết
chừng nào, vấn đề này đã có nhiều bậc tu hành theo pháp môn Như Lai Trực Giác
không ít, còn tu tận thành rất hiếm, Vì sao? Vì Trực Giác nương Công Đức Như Lai
mà Giác, còn tận thành bậc tu đã tỏ ngộ tường tận Thông Đạt vạn pháp diễn hành mới
có đầy đủ Công Năng, chính mình xây dựng tận thành Chánh Giác, lúc đến đây Thiền
Sư nở nụ cười tươi, ngọn gió thoảng qua, nơi hư không đủ màu, đủ sắc quay quần Vũ
Trụ tạo thành luồng gió nhẹ nhàng, thoải mái với Thiền Sư.
Thiền Sư bừng tỉnh, bóng cây đã ngã dài, Ngài đứng lên treo lại chiếc võng về
chỗ cũ, Thiền Sư vẻ mặt trầm ngâm suy nghĩ, Ngài bước lại hạ thấp mái hiên đóng
khuôn cửa sổ, cùng hai cánh cửa lớn của lều lá, Ngài đưa tay lấy chiếc gậy cùng
chiếc Nón đội lên đầu nhẹ bước ra đi về hướng Tây Bắc.
Ngài xem con đường vào rừng sâu tảng đá, lên thác xuống gành không khác
với con đường đạo ngày trước đã từng đi qua, tuy chân vẫn đi, nơi tay phải có sẵn lợi
khí, lợi khí nầy là Trí Tuệ tan dẹp đóng ngăn, lợi khí chiếc gậy là vạch đường trổ ngỏ
sau cho người khác họ đi. Lợi khí trí tuệ giải quyết từng giai đoạn thoát khỏi quan
niệm chính mình vấp phải đứng yên, cho đó là: Trí tuệ cứu cánh giải thoát, chớ chẳng
chi giải thoát.
Mỗi lần Thiền Sư suy nghĩ như thế, bản thân Ngài thấy nó hay hay, Ngài cho
đó là Niệm Niệm. Chư Phật nghìn xưa niệm niệm gọi là niệm niệm Phật.
Thiền Sư đang đi nửa đoạn đường, gặp hai chàng trai gánh than đi tới, nhìn
thấy Ngài, vội để gánh bên đường chờ Thiền Sư đi qua kính bái. Có đôi lúc Ngài nghĩ
lại, khi Ngài mới đến an trú tại địa phương nầy có người cho Thiền Sư là ông Thợ
Mộc, kẻ cho là Thầy Thuốc Nam, đủ thứ, đủ người nghĩ đến Thiền Sư. Đến sau nầy
dựng nên lều lá, khi dân địa phương dừng bước ghé chân đỡ cơn mệt nhọc mới rõ là
Bậc Thầy Tu, may thay có người ưa thích đạo, ưa tìm hiểu lý chân, chuộng pháp môn
Tu Thiền, kính nhờ Thiền Sư chỉ giáo, nên chi có một số người mang thức ăn cúng
dường, mới đặng ở yên sống tạm trong địa phương nhỏ bé.
Thiền Sư vừa đến chân rừng thì trời chiều mát dịu, có những con chim nhỏ
quấy rầy ríu rít trên cành cây, Ngài mãi đi đến đồi đất cao nhất an tọa đỡ nơi. Lặng
55
nhìn xa xa có những xóm nhà lẻ tẻ chen lẫn cây xanh. Thiền sư lẩm bẩm, Ta hãy đi
đến với Mười Tám Vị La Hán, họ đang hội thảo xem xét có những gì, nghĩ xong Ngài
trầm ngâm lặng lẽ, nét mặt thay đổi không ngừng, Thiền Sư lắc đầu nói: Vi diệu thay
cho Pháp Thân Ứng Thân, làm thế nào tất cả những bậc tu hành thâm sâu tận thấu,
cho đến Chư Bồ Tát khẩn cầu hết mình tu cầu Chánh Quả, hết toàn năng kiến tạo Bát
Đại Niết Bàn cũng chẳng thấm vào đâu, thời làm sao Nhân Sinh Tứ Loài phàm phu
hiểu đặng. 
Hôm nay chính Ta tận thấu, nó khác hẳn với lúc đang tu, rất tận tường trọng
lượng bản chất linh động thể chất hợp hóa vi diệu dung thông vô cùng không tận, ứng
hiện, trực hiện, cảm hóa hiện đến tận thành thực hiện nơi Pháp Thân chu toàn cho tất
cả từng lớp lớp chúng sanh cầu vái đến Chư Thiên Tiên ứng hiện Chư Thiên liền ứng
hiện do nơi ứng hiện của trình độ quy chế chúng sanh giới mà Pháp Thân tùy nơi ứng
hiện, thành thử các bậc tu hành chuyên ròng tế lễ cầu lấy linh thiêng ứng hiện hơn là
Trực hiện. Ứng hiện là quy chế của Thế Gian cho đến hàng Thinh Văn Duyên Giác
cùng A La Hán, ứng hiện là chỗ tu hành cầu vái van xin. Còn Trực Hiện là nơi Trực
Giác Tam Muội Pháp môn. Nên Quán Thế Âm mới tự nguyện tùy nơi sở nguyện của
Chúng Sanh mà Ứng Hiện. Đến hàng tu tự tín bản năng, tự tín công năng công đức
kết tạo thời thọ hưởng nơi qui chế Trực Hiện, trực hiện là nơi Bồ Tát Sơ Trụ đến Đại
Bồ Tát thường dùng Trực Hiện cùng Cảm Hóa Hiện, cảm hóa hiện chính bậc thường
thông cảm Tam Thế Tam Thiên. Xuất định dạo khắp các cảnh giới, gọi là Cảm Hóa
Hiện, cho đến Bậc Tận Thành, lúc bấy giờ mới Thật Hiện. Bốn Tướng hiện trên vẫn
còn nơi Pháp Thân Phật chu toàn thị hiện đồng đẳng từng lớp tu chứng, từng lớp chưa
tu chứng đảo điên vẫn đặng thừa hưởng hiện, nơi hiện cảnh ứng hiện chia ra làm hai
nơi, gọi là Chánh Báo cùng thọ báo hiện. Chớ chưa hẳn Tâm Hiện hay Tâm Pháp.
Pháp Tâm Hiện, vốn như nhiên Pháp Thân tùy thuận hiện. Vì sao? Vì Như Nhiên hợp
hóa Bản Năng thể tánh đồng hiện thôi, Thiền Sư giải xong thi vịnh.
Ta soi nơi Tấm gương dày.
Đưa tay, nhảy múa, phơi bày mặt gương.
Pháp Thân vi diệu khôn tường.
Tùy công năng Đức. Tùy phương hiện hình.
Ngài thi vịnh xong bốn câu, Ngài đứng lên sửa bộ áo, lấy chiếc gậy cầm tay,
thong thả đi vào rừng sâu là nơi Thiền Sư an dưỡng tọa Thiền, dọc đường Ngài gỡ
những cành gai, Ngài nhặt một ít củi khô để lại phòng đêm lạnh đốt lên, xong đâu đó,
hớp một hơi nước, Ngài ngồi tĩnh tọa trên tảng đá, như nhiên tịch tịnh, thả theo gió
thoảng lần lần trong khi xuất Định. Phong cảnh ở khu rừng trảng, có những mỏm đá
lô nhô, bắt đầu in tuồng theo cơn định của Thiền Sư.
Thiền Sư đến ngôi chùa Cổ, mái chùa cong cong hai cánh, vừa rộng vừa thấp,
tựa như Chim Phụng Hoàng trải cánh che chở khách thập phương. Ngài bước vào bên
trong chùa có 18 vị chia ra ba nhóm đang Hội thảo về Chân lý đường tu. Ngài dùng
56
Nhĩ Viễn Thông, nhãn Tạng Tam Muội Định, thấy rõ, tai nghe không thiếu sót, Thập
Bát La Hán không hề hay biết, trong hội thảo có Vị Đại Đại La Hán dự.
Các Vị La Hán, về phương diện y phục thì đủ màu sắc, tùy theo Địa phương
giới. Phần sở thích mặc do cử chỉ hành, mỗi vị đều có nét vẽ trang nghiêm ngôn hạnh
tất cả ai nhìn thấy phải kính nhường. 
Trong ba nhóm, mỗi nhóm có sáu vị, sáu vị ngồi hình tròn, nhóm ngồi về phía
Tả, nhóm ngồi về phía Hữu, còn một nhóm ngồi ngay trước Chánh Điện Trung
Ương. Dưới nền chùa trải bằng ngọc thạch màu xanh, những cây cột làm toàn mã não
đính kim cương trở thành đỏ trắng lấm tấm sáng, mùi thơm hương thoảng, có những
tiếng nhạc do các cây cảnh giao động tự trở thành thật thanh tịnh tao nhả thay cho
Như Lai thị hiện cảnh đoan trang khả ái của Bậc La Hán tận thành Như Tướng.
Nhóm thứ nhất về phía Tả Hội Thảo: Thân Tứ Đại giả tướng, chốn trần lao ô
trược nhiễm trược khó tu, Chúng ta hãy tìm phương thức xuất thế ly thân trừ vọng.
Ta truy tầm bản chất bất diệt hư không kiến tạo Tinh Khí Thần, Ta sống nơi Tinh Khí
Thần viễn thông bất biến thời làm sao thân mạng hủy tiêu? 
Nhóm thứ hai về phía hữu hội thảo. Nhóm này sở đắc thần thông, toàn diện sáu
vị phát quang từng tia sáng, thâu nhận đặng nhóm tả đã hội thảo trên, đồng vỗ tay
cười xòa nói: Tinh Khí Thần ở đâu mà có? Nếu có chăng thời có cả từng lớp thân
mạng của Tứ Loài chúng sanh trùm khắp, chớ nào phải hư không có, còn các chốn lại
không? Tinh Khí Thần là một thể chất Túc Thần, cùng túc mạng được gọi là Thần
Túc Thông cùng Túc Mạng Thông. Nay chúng ta phải huân tập nơi Thân Mạng, huân
tập Thiện căn mới nhiếp thâu trí tuệ tu đạt Túc Thần làm căn bản, lấy đạo hạnh trang
nghiêm làm bước đi tư tưởng định tưởng làm quả vị, tu như thế, làm như vậy mới
mong tu đạt huyền cơ. Ta chớ nên vì ô trược, mạng trược, xa lánh ngồi yên trở thành
chồi khô, mộng lép. Trước kia chúng ta truy tầm Chân đế, vẫn suy tính như trên, có
lúc lăn mình tìm thuốc trường sanh bất lão, nay chúng ta thảy đều rõ biết, trường sanh
ở nơi đầu não chúng ta sẵn có tinh thần, khí phách, khi Ta sa sút tinh thần chưa bồi
dưỡng sung mãn liền đâm ra nản chí, lúc tinh khí thần sung mãn thì phát sanh trí tuệ
viên thông. Lúc Đức Trí Viên thông đương nhiên tu đạt.
Nhóm thứ ba, là nhóm Trung ương, ngồi chính giữa, nhóm này ngồi yên lặng
thu nhận rất an nhiên, thu nhận từ ngọn gió thoảng đưa hay di chuyển, chung gồm
đầy đủ sáu pháp thần thông. Nên chi đồng nghe tiếng nhạc trời trổi khắp mười
phương, họ lại đồng thấy thanh quang, huỳnh quang, bạch quang, hồng quang cùng
mỗi mỗi hào quang di chuyển, báo hiệu điềm lành hoặc hung bạo, họ vẫn nghe, vẫn
nhìn nhận cuộc hội thảo của hai nhóm kia không thiếu sót. Nhiều khi nhóm nầy
thường nghĩ. Lạ thay, Lạ thay! xuất ly rồi nhập cảnh, đến thanh thoát, đặng bình an,
do đó nhóm trung ương công dụng an lành duy nhất.

57
Bỗng nhiên có một vị trong nhóm. Vị nầy đứng vào hàng đầu Bậc La Hán.
Khuôn mặt thay đổi từng lúc từng hồi, từ chỗ ngạc nhiên nầy sang ngạc nhiên khác
nói lên. 
Lành thay! Lành thay! Huyền cơ vận chuyển ánh quang chúng ta bị mờ thay
vào dòng quang rạng rỡ vận chuyển cho đến nỗi mặt đất rung rinh, thân hình nhẹ
nhỏm. Các ông nào hay biết, thì làm thế nào vọng tưởng tu đạt huyền cơ Vũ Trụ, làm
thế nào đòi ngự trị vạn pháp trọn vẹn bất sanh an lành bất tử? Vị nầy nói vừa dứt
Huỳnh Quang tỏa khắp phơi bày, làm cho tất cả hào quang của các bậc La Hán chưa
còn nhìn thấy. Tiếng nhạc cùng với hương đàm lần đưa thơm ngát, có từng cánh hoa
từ hư không rải xuống khắp sân chùa, tựa như trải tấm nhung hoa. Ngôi chùa Phụng
Hoàng tự biến dần trở thành Tòa Lâu Đài Long Bửu Tự, tất cả toàn diện đính ngọc
Bảo Châu, nền thêu dệt bằng kim cương ngọc bích hoa vàng lấm tấm mã não trân
châu. Các vị A La Hán đứng lên, trở về đơn vị gần cổng chùa Long Bửu, thật cao quí
thay cho bảy dòng quang đưa lượn theo chiều sóng nhạc đẩy đưa, in tuồng đón mừng
bậc Chánh Giác.
Khi bấy giờ Mười Phương Chư Phật, đồng nói lên câu chúc tụng Phật Vương,
xong đâu đó nói với Chư Vị Bồ Tát. Nầy các ông hãy đi đến Khánh Trang tỉnh, Long
Phụng Sơn. Long Bửu Pháp, có Vị Phật Pháp Hiện Phật Vương, thị hiện thời Hạ Lai.
Vị nầy có nhiệm vụ chỉnh trang Phật Pháp, chứng thị Hạ Lai, tuyên thời Tứ Hạnh làm
cho tất cả đang sống vật vờ, đang tu lầm lạc trở Chánh Pháp Tịnh Vương, Nhất Tôn
Tứ Hạnh, cốt mang đến điều lành đưa về Chánh giác, các Ông nên đến Kính bái
chiêm ngưỡng thọ trì Tứ Hạnh Ngài đã bổ ban Chư Bồ Tát đồng Đảnh lễ, phóng
quang, nương nơi Huỳnh Quang, đồng đến bái lễ.
Tất cả các hàng Chư Tiên, Tiên Rồng Thánh Hóa nhìn về Đông Nam, hương
đàm trùm tỏa, nghe tiếng trên hư không phổ truyền, tất cả đều mang các phẩm cúng
dường đồng đến bái lễ.
Khi bấy giờ tòa Long Bửu, các cánh hoa tự động kết thành tràng hoa to bằng
Quả Hồng Đào, tựa như quả mâm xôi. Phật Vương thị hiện, mặc y áo Bạch Nhung
đầu đội mão Bảo Trì màu trắng hồng nhạt, trên mão có chín búp hoa, mỗi búp hoa tỏa
ra mỗi hào quang tia sáng gồm có Huỳnh Quang, Huỳnh Huỳnh Quang, Thanh
Quang có sắc Thanh Thanh Quang. Hồng Quang có sắc Hồng Hồng Quang, Hắc
Quang, có sắc Hắc Hắc Quang. Còn riêng Nhất Bạch Quang không có sắc Bạch
Quang. Ngài thị hiện đầy đủ 32 tướng tốt bước lên hoa, hào quang tia màu vàng. Chư
Bồ Tát, Chư Thiên Tiên cùng Chư Long Thần cho đến hàng A La Hán cùng Thinh
Văn Duyên Giác, nhìn không nháy mắt đồng thanh xưng tán, Chưa bao giờ nhìn thấy
nay nhìn thấy. Bỗng trên hư không xưng tán, do Công Đức Vô Lượng Phật mà thị
hiện Vô Thượng Tôn, Vô Thượng Sắc, Vô Lượng Hương đầy đủ không thiếu sót.
Ngài lên tòa Sư Tử an toạ. Tất cả các hàng chiêm ngưỡng lễ bái, xong đâu đấy theo
thứ lớp, theo thứ vị đồng nhau tĩnh tọa.
58
Khi bấy giờ Đức Phật Vương nhẫn mười hai triệu phút. Mặt Ngài an nhiên
bình dị hòa đồng với tất cả, làm cho các hàng thứ lớp thảy đều hoan hỷ, phấn khởi ái
kính không còn mảy may hư vọng hoài vọng tạp khởi, Ngài liền nói: Ta khá khen cho
thời Hạ Lai lạc pháp nầy mà Thập Bát La Hán Hội Thảo. Chư Vị Bồ Tát đang hiện
hành, hàng hàng lớp lớp tu trì không nhàm chán, gìn giữ bảo pháp trường tồn. Đối
với Các Vị, căn cơ chưa đầy đủ, trí tuệ chẳng viên thông nên chi Trí hóa sanh ra vạn
pháp an lành, đặng Chánh Báo nhân thiên, đặng tu chứng từng phẩm hạnh. Bằng Trí
Tuệ tối tăm trí hóa tự sanh các nghiệp. Sống trong cơn thăng trầm đủ lối. Tu nơi vạn
ý uyên thâm vòng quanh khó thoát sanh tu đoạt Chánh Giác. 
Lý sự tín tâm Nhất Tâm Đảnh lễ Chư Phật thì có, nhưng đường lối chưa tận
thâm làm sao đắc quả? Ta vì các ông Thị Hiện đầy đủ. Cư Nhân Tướng, đầy đủ hoàn
cảnh thâm, vào sắc thinh hương vị mà bảo các ông đừng xúc pháp. Từ hàng Thiện
Nam Tử đến hàng Thiện Nữ Nhơn, tu cầu Ứng Hiện, tu lấy thọ lãnh Nhân Thiên rất
hiếm bậc đang tu nơi trực hiện.
Ngài nói đến đây có vị Bồ Tát bước ra đi vòng bảy lễ Chiêm ngưỡng lễ bái
thưa gởi? Bạch Thế Tôn, con đã tu sạch tất cả chúng sanh truy tầm lấy mỗi một
chúng sanh đều không có. Con kính nhờ Chí Tôn thương con khai thị cho con, làm
như thế nào, tu bằng cách nào cho đặng tận giác quả Bồ Đề Nguyện.
Hay thay, khéo thay nầy Bồ Tát Bửu Tịnh. Ông tu sạch lý chúng sanh, chớ
chưa tu đạt Bổn Lai của mỗi chúng sanh giới. Mỗi chúng sanh giới bá thiên vạn
chúng sanh hợp hóa trở thành Pháp Giới. Mỗi một pháp giới có hằng hà sa số chúng
sanh. Ông tận Giác chúng sanh bổn lai diện mục. Ông tận thấu pháp giới diễn hành
khi bấy giờ ông Thị Chứng mới tận thành Chánh Giác.
Bồ Tát Bửu Tịnh toàn thân thảy đều nở ra hoa Bửu Pháp, nhẹ nhàng tươi tỉnh
vui mừng xưng tán. Chưa bao giờ đặng nghe hôm nay mới đặng, Chí Tôn Vô Thượng
Thị. Xong đâu đấy Đảnh lễ ngồi lại một bên chiêm ngưỡng.
Các hàng La Hán, các hàng Thinh Văn, các hàng Duyên Giác cùng với Hộ
Pháp, cho đến Hộ Pháp Bồ Tát đồng Đảnh lễ thưa thỉnh. Trong khi thưa thỉnh có cả
Chư Thiên cùng hàng Chư Tiên lễ ứng cầu thỉnh.
Bạch Thế Tôn thương xót chúng con khai thị cho chúng con có điểm lành, có
nơi nương tựa trên con đường Chánh Pháp, có một lối sống, từ đời nầy cho đến đời
sau nương nơi lời vàng của Đức Thế Tôn ban hành tường tận, khỏi lạc, khỏi sai, khỏi
ngờ, tránh chấp, một khi chúng con trưởng thành Phật Đạo, tỏ rõ lối đi dù chúng con
hiện tại say mê, ngày mai trực giác. Thưa gởi xong, bỗng nhiên toàn thân Phật Huỳnh
Quang rạng rỡ ngay nơi ngực Ngài phát hiện Thanh Quang, Bạch quang tỏa khắp bảo
tòa. Ngài nói: Hay thay lời các ông thưa thỉnh có lợi ích cho Chánh Pháp, có một lối
sống tu đến tận thành, Ta vì tất cả thị hiện xây dựng cho tất cả. Các ông hãy nghe
đây: 

59
Đối với trên con đường Phật Đạo trưởng thành thật là Vô Lượng Công Đức,
Vô Lượng Công Năng, nó lại có vô lượng chốn sai chỗ đúng, Vô biên sai lạc, lạc sai,
nghi chấp và chấp nghi. Nơi nghi chấp chính là nơi thiếu tinh tấn. Hai lẽ trên trở
thành nghi chấp cùng chấp nghi bằng Công Năng Công Đức đầy đủ, Tinh Tấn không
ngừng thì làm sao không thành đạt. Công Năng Công Đức Tinh Tấn là chìa khóa giải
mê lầm. Nó ví như: Kẻ nọ có đi thời có đến. Bằng chưa đi làm sao đến đặng mà
mong. Tinh Tấn nó cũng như thế. Tinh Tấn quá ư hệ trọng, Công Năng Công Đức
không vừa. Nên chi Đức Phổ Hiền nguyện độ phẩm tinh tấn, đưa chúng sanh Bất
Thối Bồ Đề, giúp Chư Bồ Tát Bất Thối Bồ Tát vào Biển Cả thành Phật. Khi gần
thành Phật, đến lúc thành Phật mới chu đáo Phổ Hiền Hạnh là chính yếu đường tu
không hai, con đường giải thoát. Vì sao? Vì tinh tấn mới nhiếp thu Tứ Hạnh, hoàn mỹ
vẹn vừa Pháp Thân tỏ rõ Thật Hiện mà Chánh Giác.
A. THẾ NÀO LÀ TỨ HẠNH?
– Thứ Nhất: La Hán Hạnh. 
– Thứ Hai: Thinh Văn Hạnh.
– Thứ Ba: Duyên Giác Hạnh.
– Thứ Tư: Bồ Tát Hạnh.
Chung gồm Bốn Hạnh được gọi là Tứ Hạnh. Vìsao? Vì Phẩm Hạnh của những
Bậc A La Hán, gọi là Hạnh Tướng Phật. Nếu an trụ tướng ấy thành đạt Tướng Phật
thời gọi là Bích Chi Phật, bằng tu hành Hạnh La Hán nó lại tùy nơi tu chứng cấp bậc
an trụ thì Chánh Báo từ hàng Thiên Tiên, Địa Tiên, trở nên Ứng Hiện Trực Hiện Tam
Thiên, Đại Thiên Thế Giới gọi là Tam Giới.
Bậc tu La Hán Hạnh, nương nơi Tứ Hạnh Tu cầu Chánh Giác thời, tận dụng
Kinh Điển làm ngón tay chỉ, xem Kinh cốt Liễu nghĩa không chấp tự kinh thâu nhận
Trực Giác, gọi đó là thực hiện Thinh Văn Hạnh.
Bằng tùy Duyên cảnh thuận nghịch mà Trực Giác. Không vì Thuận, chẳng vì
Nghịch, tâm phân đối chướng ngại nơi Tịnh, Bất Tịnh mà thối chuyển chấp nghi, duy
nhất trực giác mà đặng, gọi là thực hiện Duyên Giác Hạnh.
Khi Ba Phẩm Hạnh trên đầy đủ, đương nhiên phát tâm dũng mãnh vào con
đường tu hành Bồ Tát Hạnh. Vì sao? Vì Hạnh Bồ Tát tùy căn mà trực hiện Bổn Lai
diện mục nơi Bồ Tát. Khi Bồ Tát trực hiện Ứng Thân nơi Bồ Tát, Bồ Tát giả mê, như
nhiên có Phẩm Hạnh đầy đủ có uy nghi có những lời chánh đáng nằm sẵn Tự Tánh
của Bồ Tát xuất ra, không lệ thuộc giáo điều, nhưng không làm hại Kinh Pháp của
Đức Thế Tôn hướng dẫn. Vì sao? Vì những lời trực giác kia toàn lời thị hiện Chư
Phật nay Bồ Tát thừa hành nên phát lời nói ấy. Các ông chớ nên phê phán lời trực
giác, tự giác nói ra, hoặc giả chấp nghi mà dừng trụ thời không bao giờ đến quả Bồ
Đề, nay Ta vì thương các ông nên nhắc nhở để các ông khỏi tổn thương con đường tu
đạt. Ngài vừa nói đến đây thời trong hàng Thinh Văn Duyên Giác cùng La Hán, Chư
Thiên đều đứng lên thưa gởi:
60
Bạch Đức Phật Vương chúng con đang đi trên đường nầy, chúng con đang
đứng trong đàng nầy, chúng con đang tu trên con đường nầy. Nếu chờ cho mãn kiếp,
nếu chờ cho đúng thời, nếu đợi cho đến lúc, chưa gặp đặng Phật, chưa gặp đặng Đại
Tăng thì mới làm sao tu cầu Chánh Giác? Xin nhờ Đức Phật Vương cứu giúp chúng
con khai thị.
Ngài liền phóng quang nơi Pháp Đảnh, tỉa ra chín dòng quang, nét mặt tươi đẹp
vô cùng tận, nở nụ cười tựa như triệu nghìn hoa đàm xòe cánh Ngài nói: May thay!
May thay! Các ông là những Bậc gặp lúc, những Bậc đặng gieo căn duyên lành vô
triệu kiếp bị lung lạc trong các lối đi, gặp Bậc Thiện Tri Thức chỉ đường hướng dẫn
thì làm sao lạc lối mà sợ sệt van xin?
Ngài vừa nói đến đây tất cả vui mừng vô kể, đồng Đảnh lễ, đồng chiêm
ngưỡng, đồng ái kính chẳng khác cha lành cứu bày con đói khổ. Các tuần Trời reo
tiếng nhạc, các Cõi Tiên trải hoa đầy đủ màu sắc, toàn là các giàn hoa qúy nhất thảy
đều trải đến cúng dường. Ngài lặng yên thọ ký Công Đức cho tất cả, Ngài nói:
Các ông hãy nghe, các ông hãy thọ trì đọc tụng, Tứ Hạnh đồng đẳng như nhau,
không lớn chẳng nhỏ, không cao chẳng thấp, bằng thiếu khuyết một trong Tứ Hạnh
khó mà thành. Phải chăng các ông đã đặng sự đồng đẳng tu hành thực hiện Tứ Hạnh
mà Giác Ngộ Chánh Giác chăng? Tất cả đảnh lễ thọ trì, phụng hành kính bái.

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1985,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

61
8. KỶ NIỆM NGÀY KHAI NGUYÊN PHÁP TẠNG, 12-1
BÍNH DẦN, 1986
Thiền Sư đang ngồi trên chiếc chỏng tre, đôi mắt nhìn ra khu rừng đầy cây cối.
Buổi sáng hôm nay Ngài tỉnh táo mặt tươi nhuận, in tuồng nghĩ ngợi hân hoan những
gì nơi Ngài mà Ngài sắp nói, chỉ lẩm bẩm nơi miệng còn tám hôm đến ngày Sinh
Nhật, gần mười bốn ngày Tết Nguyên Đán đầu xuân, Ta thực dụng đã sáu mươi bảy
năm nhanh chóng thật.
Thiền Sư mang đôi hài, bước khỏi chõng tre, ngồi vào chiếc ghế, bẻ cành củi
khô, viết dưới mặt đất! Phật. Phật nói Phật nghe, chúng sanh chỉ nghe, chúng sanh lại
tự ý nói. Thiền Sư viết xong cười xòa, Ngài tiếp. Chưa bao giờ chúng sanh lãnh hội
đặng lời Phật nói, vì chúng sanh quan điểm, 
Phật nói đều là lời Phật Giới. Chúng sanh đang nghe chỗ nghe kia đều là nơi
nghe giới sanh, làm thế nào nhận lãnh để nghe lời Phật nói?
Lạ thay! đối với Phật Ngài luôn luôn giải Giới bởi chúng sanh giới lầm mê, do
đó mới hóa giải mọi bề, trái lại chúng sanh thêm mê mọi cách, cho nên thường nhiễm
dơ sạch, sạch dơ, tốt sanh xấu diệt, do đó Phật tận thấu từng cơn, cho đến chừng nào
trơn liền mới cảm thông lời Phật nói.
Khó khăn thay cho sự lầm mê vòng đai Pháp Giới, di chuyển linh động làm
sinh chúng nhiều kiếp thọ sanh, đối với thân mạng Ta phải lên xuống thăng trầm mới
tận tường Pháp Giới tỉ mỉ Diện mục Bổn lai từng lớp lớp. Nhiều khi Ta nghĩ lại,
nhiều lúc phải phân vân, chúng sanh nó tuy gần, nhưng tuyệt tình xa vời vợi. Ta
không còn nói năng hay chờ đợi. Tận dụng thể chân phát hành Biệt Tôn Vô Thượng
Đẳng, chính tình lời chỉ thẳng trực chỉ tận Giáo Ngôn mong mang đến chốn trường
tồn để tri ân Tam Thế Phật. Thiền sư nói đến đây, Ngài nhìn vùng mây trải nhìn lại lá
vàng rơi nhìn đời sau Tận Thế, Ngài bèn vỗ vế đứng dậy xoa tay, châu mày nghĩ
ngợi, Ngài đến chiếc chõng nằm dài chưa dám nói.
Bỗng bên ngoài con bướm bay thẳng vào nhà, bướm chưa biết lối ra, còn đang
bay qua bay lại. Thiền Sư nhìn nói, nở nụ cười tươi, Ngài nói: Nầy bướm, chính mày
là Pháp Giới, mày có giới hai cánh bay, có giới đôi lông mày, sáu chân mày đều là
Giới. Bổn Lai Diện Mục bay lên đáp xuống, thực dụng những mật hoa. Vì kiếp mi
đậm đà xinh xắn, do hoa nở sinh, Ngài đứng lên cầm chiếc quạt giấy, đưa bướm bay
bổng ra ngoài.
Đối với Thiền Sư Ngài thường nghĩ về vấn đề Pháp Giới. Ngài bước đi trên
thảm cỏ xanh, nhìn lại bàn chân của Ngài đã có sẵn từng Giới cùng với Thị Danh nào
là Thị Danh ngón cái, ngón giữa, cùng ngón út, bàn chân, gót chân, mỗi mỗi đều là
Giới cùng thị danh cả. Ngài nhớ lại Kim Cang Kinh, lời dạy của Như Lai. Nó chẳng
phải là: Thế Giới nhưng thị danh Thế Giới, Ngài so lại. Nó chẳng phải là: Ngón tay
ngón chân đầu cổ tai họng, nhưng thị danh nơi nó là ngón tay ngón chân đầu cổ tai
họng. Bướm kia nó cũng đầy đủ giới cũng vẫn có thị danh.
62
Thật hay thay cho thị danh danh giả để cho nhân sinh tứ loài nương nơi đó mà
giao cảm nhau trong một nước con người với con người đồng hiểu biết từ ngữ ngôn
ngữ nhau. Đứng nơi thị danh Pháp Giới thời từ hoàn cầu thế giới nó có quyết định
như nhau, tuy vốn thị danh nhưng thị danh chung kết đều giới. Đến giai đoạn tỏ Giới
thời nhận chân là: Nó chẳng phải Pháp Giới, Thị danh là Pháp Giới, chính thật Pháp
Giới. Cũng như nó chẳng phải là thế giới, nhưng thị danh thế giới, thật là thế giới.
Thiền Sư đã qua từng khúc eo Pháp Giới. Từ nơi Tâm Chí Quán Chúng của
Ngài. Tạng Thức sáng soi ý thức, trưởng thành Pháp Giới, do ý thức cố thủ nên gọi
nó là Nghiệp Thức, bằng ý thức không thủ thời như nhiên vạn pháp diễn hành từ pháp
nầy đến pháp kia, chẳng có chi gọi là Pháp Giới. Trường hợp nầy, Thiền Sư đã từng
trải qua, chỉ vì nương nhờ Tâm Chí mà soi tỏ đặng bằng chưa đến mức độ công dụng
tâm trí thì chưa bao giờ tỏ rõ Pháp Giới cùng Nghiệp do đâu mà phát sanh. Vì sao?
Vì đa số, cho đến những bậc tu đại tín thành, chưa có chí dũng thời toàn nương nơi
Tâm Thức để tu.
Thiền Sư nói: Tâm Thức và Tâm Chí nó chỉ một thể mà hai lối dụng khác
nhau. Tâm thức nó thao thức chuyển hình thành được gọi là Tâm Pháp chung một,
thành thử tỏ Pháp liền tỏ Tâm, Tâm không ngoài Pháp. Nhưng Tâm kia bậc tu hành
chưa có Chí Dũng trải qua các Pháp thì làm sao tỏ Pháp cùng Tâm? Bậc được dùng
Tạng Thức để soi Nghiệp Thức chính là những bậc sẵn có Chí Dũng, Chí Dũng
nương nhờ Công Đức mà có, chưa có Công Đức chưa phát sanh Chí Dũng. 
Thiền Sư nghĩ lại. Vạn Pháp như huyễn, lướt qua khỏi nhìn lại mới nhận chân
nơi huyễn của nó. Bằng đứng yên làm sao kiến tri cho đến chỗ huyễn thành Chân?
Thiền Sư rất cần Bổ sung những điểm chi thiếu khuyết trên bước đường tu hơn là tu
cầu tiến thân trong quả vị. Vì sao? Vì Chưa Bi Chí Dũng, chưa Tín Hạnh Nguyện
thời làm thế nào, kết quả đặng chỗ Chánh Tín Chân Tôn hay Đạo Hạnh cao dày chỉnh
trang Tịnh độ? Nếu chưa Nguyện thời làm như thế nào thu đoạt toàn năng trọng
thành Ba Thân Viên Mãn?
Thiền Sư rất biết thật biết. Trí Bát Nhã viên dung, trên con đường tu hành
nghiêm túc là một điều tối quan hệ cho tất cả những vị Đại Chí Đại Bi nương nơi Đại
Nguyện mới thâu đạt phá vỡ Vòng Đai Pháp Giới. Bằng tu yên chờ đợi, tu lợi riêng
mình, lặng thinh Tịnh Nghiệp ra vào chưa biết, cầu miết chẳng thông, chưa đồng bao
giờ kết quả.
Vì sao nó như thế? Vì Pháp Giới duy nhất có một từ ngữ chung gồm bao phủ
lầm mê. Nhưng nó lại có Ba lối phát hiện Pháp Giới. Tu đạt chung khắp gọi là Ba
Thân Viên Mãn, bằng sai lệch thì khó khăn trở về Chánh Giác.
Bậc tu rất cần nhiếp thâu Ba lối là như thế?
A. THẾ NÀO LÀ BA LỐI NHIẾP THÂU?
– Một là: Tưởng Tưởng phát hiện Pháp Giới.
– Hai là: Hành Động Thuận Nghịch Pháp Giới
63
– Ba là: Nguyên Tướng Bất Diệt Pháp Giới.
Nguyên tướng Pháp Giới là hiện tướng Sơn Hà, Đại Địa, Tứ Loài cho đến cảnh
giới các Cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Hoàn Cầu, nói chung hữu sắc hữu giới,
hữu ngôn hữu giới, hữu tưởng hữu giới. Gọi là nguyên tướng Pháp Thân Bất Diệt. 
Về tưởng tưởng phát hiện Pháp Giới, khởi điểm là tư tưởng nhận định thấy tư
tưởng, khi hiện tưởng liền thấy biết hiện tưởng, lúc quán chúng cùng khắp liền tỏ
thấy quán chúng, nó có nhiều viễn tượng lành mạnh tối sáng nên nó là Thực Tướng
Vô Tướng Tam Muội chưa khẳng định minh sát, chỗ có và nơi không phải tu hành
nơi Pháp Môn Tam Muội.
Tư tưởng thể tánh nơi nó khởi sanh, khởi diệt. Khi chẳng còn sanh diệt, diệt
sanh qua từng giai đoạn thì nó là Thường Tưởng. Lúc chuyên chú để soi nó lại được
gọi là Định Tưởng. Bằng tìm tòi chân lý, tìm hiểu lý chân, tìm gần đủ cách, cho nó
thị danh Tiềm Thức, phân biệt từng môn, từng lớp lang lớn nhỏ gọi đó là Ý Thức
năng phân. Bao quản tỏ thấu từng phần chẳng câu nặng nhẹ gọi nó là Tạng Thức, hợp
tánh Như Lai để phơi bày Pháp Giới gọi đó là Như Lai Nhãn Tạng.
Tư Tưởng Pháp Giới, từ thế gian đến xuất thế gian. Từ Chư Phật Chánh Giác
cho đến chúng sanh lầm mê tu cầu Chánh Giác gọi là Vòng đai Tam Thế, đường lối
Phật với Chúng Sanh thành Phật.
Lại có Tam Giới Chư Thiên trở thành Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cho đến
rồng người. Mười Tám cõi Trời quản lý thế gian. Mỗi giới, mỗi cõi nói chung đều là
Tư Tưởng, về Chánh Báo Thọ Báo bất đồng nên cao thấp khác nhau về lý tưởng mà
thụ sanh lớp lớp không ngoài trong Như Lai Tạng Giới.
Thiền Sư, Ngài nghĩ đến đây lặng thinh, hai tay nâng lấy chiếc đầu, tóc Ngài đã
trở thành trắng nhiều, đen ít lâm râm giữa Tam Thế. Chúng sanh và Phật lần tiến,
Ngài thở một hơi dài như tiếp nối hư không vô tận. Thiền Sư nhìn lên nói: Bậc tu đạt
Ba Thân viên mãn Chánh Giác, nhìn lại quãng đường dài đã trải qua rất tường tận chu
đáo, tuy nhiên như thế mà vốn nó có mạch lạc thụ sanh cùng thoát sinh ra từng thứ
bậc. Chánh Báo cùng Thọ Báo chẳng sai chạy tí nào chẳng mảy may nào dư thiếu.
Còn bậc đang tu thời chưa biết mình tu những gì để mà tu, thật khó khăn thay nơi mê
chỗ giác. 
Lúc bấy giờ Thiền Sư. Đắn đo chưa muốn nói, dù Ngài nói ra nó chẳng dư,
không thiếu của lời Đức Chí Tôn đã từng diễn giải nghìn xưa. Nay Ngài tuyên đọc lại
với một chân lý chung gồm mà lời biện minh hơi khác của thời cơ Ngài đương nói,
để khai hoang mở lối Tam Thân Tứ Trí hợp hòa Chánh Giác.
Thiền Sư an nhiên nói: Thật khéo thay. Khó khăn thay cho con đường giải
thoát viên mãn ba thân, nó phải kết hợp đầy đủ các giáo môn, mỗi pháp môn đều có
trợ giúp vào con đường viên mãn, chớ chưa hẳn mỗi một pháp môn tu Thiền mà liễu
thông tận giác. Bằng không tu Thiền thời chưa Đắc Đạo. Tọa thiền chứng tri đắc đạo,
tận tường pháp Giới thâm nhập viên thông, môn Thiền chủ động bấy nhiêu thôi. Nực
64
cười thay, cho kẻ tu Thiền đòi phải thấy, cái thấy nơi thấy của kẻ tầm thường như
thấy Trời Phật Tiên Thánh, thấy những gì mà điên đảo đảo điên vọng khởi để mà
thấy, chớ nào có chủ tâm cho mình thấy nghiệp, cho tỏ đặng tâm, cho khỏi sai lầm
mắc vào pháp giới, mới thật cái chánh kiến tri mà đặng tri kiến.
Đối với Thiền Sư đã từng trải qua, những gì Chư Bồ Tát đã làm, Thiền Sư vẫn
tu để làm, những gì Chư Phật đã đi qua, nay Thiền Sư nương nơi đó để đặng đi. Ngài
nói đến đây trầm ngâm lặng lẽ, sau liền nói tiếp, Thiền Sư nhắc lại: Phần trên Ngài đã
phân tách một thể mà hai dụng, hai lối tu hành khác nhau như: Tâm Thức và Tâm Chí
cùng một thể, nhưng những bậc tu hành dùng Tâm Thức, thường tiêu cực tu cầu hơn
là dụng Tâm Chí tu đạt giải thoát. Vì sao? Vì Tâm Thức thuộc về Sắc Pháp chiêm
ngưỡng. Sắc Tướng tác dụng Chánh Báo Nhân Thiên, ngoài ra nhìn thấy toàn diện
hoàn cảnh an nhiên thanh tịnh qua hoàn cảnh, chưa nhận chân là Pháp Giới, hóa giải
pháp giới từng cơn liễu ngộ, đến cuối cùng, bậc tín tâm tu tập phải qua Pháp Giới Cõi
Trời Sắc Cứu Cánh, liền sắc tướng về nơi Như Tướng mà giải thoát, hai nữa sau khi
tuổi thọ lâm chung phải Tưởng Niệm, hoặc không Tưởng Niệm mà vào Chánh Báo
Hữu Dư Niết Bàn hay Vô Dư Niết Bàn chưa vẹn Tam Thân Duyên Mãn Tu Phật
trong lúc đang tu, rất quan hệ khởi điểm như thế nào, đến kết chung toại nguyện như
thế ấy, đó là thường.
Còn về Tâm Chí để tu cầu, thì Tâm kia phải có Chí đương nhiên Huệ nọ phải
có Định. Định Tuệ tức là Chí Tâm cho nên Đức Chí Tôn Ngài nói: Chí Tâm Qui
Mạng Lễ, phải chăng có Chí cùng Nhất Tâm Đảnh Lễ.
Cao đẹp thay những vị biết sử dụng Chí Tâm để tu cầu giải thoát. Vì sao? Vì
Tâm Chí nó trực thuộc về Tạng Thức tu gần Như Lai Tạng, mới thám sát đặng Pháp
Giới đảm phá Vô Minh. Còn Tâm Thức là lòng tu theo ưa thích Pháp Giới hơn là Tự
Tánh Giải Giới.
Thiền Sư Ngài nói đến đây lắc đầu suy tính. Đạo Phật chủ yếu các bậc tu hành
phải tự phát tâm Chí Dũng mới thọ trì bảo pháp tỏ rõ lối tu mà lướt qua từng pháp
giới thâm nhập khỏi chốn lầm mê, chớ tu nơi ngưỡng vọng làm sao tỏ pháp? Mấy ai
đã từng biết, chính Thiền Sư vẫn chưa ngờ, Chí Dũng Tâm mới thông. Tu nơi Tạng
Thức tâm đặng bao dung, chí nương nơi hướng thượng nhờ như thế nên Chánh Báo
thọ hưởng trong Tam Thiên, Đại Thiên Thế Giới tùy theo thứ bậc mà thọ lãnh cảnh
giới, hơn là ý thức thọ báo eo hẹp nhỏ nhen chịu nơi Pháp Giới thọ sanh trong vòng
Sanh Tử.
Phần hai về: Hành động thuận nghịch pháp giới vẫn có tầm quan trọng, không
kém phần tưởng tưởng pháp giới Tạng Thức sáng soi, các ông nên chú ý.
Hành động là một biểu tượng quá khứ tiền kiếp gần nhất, hiện kiếp này lai sanh. Nó
cũng ảnh hưởng do tập nhiễm của tánh tình nhiễm trước chung quanh bè bạn dòng họ
mà ra. Bậc tu hành chuyên chính quán sát thật biết trên con đường tiến bộ tu cầu của
mình có hai điều đáng kể nhất cần phải thực hiện. Thế nào là hai điều đáng kể? Một
65
là hóa giải pháp giới cốt tường tận pháp giới là điều đáng kể. Hai nữa là hành động
làm cho những người chung quanh mình cảm mến, tán thán cốt thực hiện thuận hành
để nhiếp thu Pháp Giới đó chính là điều đáng kể. Từ nơi khởi điểm thật biết hai điều
đáng kể nên chi bậc tu hành chuyên chính mới chứng tri Vô Sanh Pháp Nhẫn mà thực
hiện Nhiếp Thu Pháp Giới tận tường Pháp Giới nơi Pháp Môn Vô Sanh Pháp Giới,
Vô Diệt Pháp Giới đặng tường tận Pháp Giới. Nếu tường tận Pháp Giới mới thấu đạt
đặng Bổn Lai Diện Mục pháp giới mà tận giác Tam Thân tận thành viên mãn.
Sự trọng yếu của phần hai, lối hai này đáng kể nơi trọng trách thành đạt, nên
Phật dạy phải thực hành Tứ Nhiếp Pháp, phải đồng hành và đồng sự nhiếp giữa các
bậc cùng chúng sanh, cốt hoàn toàn không thiếu sót mà viên mãn. Có Đồng Hành
Nhiếp, có Đồng Sự Nhiếp, có thực hành nguyện cùng Hạnh Nguyện mới chu đáo
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân trên bước đường hành động.
Thiền Sư Ngài suy tính đến đây Ngài thở dài, miệng lẩm bẩm: Lạ thay, tác tệ
thay cho quan niệm lầm sai của chúng sanh. Ta nói đến Tứ Nhiếp Pháp Lục Ba La
Mật Đa thì họ chẳng nghe đặng tí nào. Vì danh từ này họ đã từng đọc, từng biết họ
đều quan điểm tầm thường quen thuộc. Đứng nơi lý trí của họ, nếu bậc tu đào sâu
thực hiện Tứ Nhiếp Pháp, khi thật tỏ mới cho Ta nói ra đây chính là một điều thiết
thực. Hành động nhiếp thâu hợp hóa giữa mình cùng tất cả mà sở đắc Hiện Nhất
Thiết sắc thân, đồng hành đồng sự là một pháp môn Đạo Hạnh tối thượng, liên hiệp
với Như Lai, đặng Như Lai thọ ký thành Phật. Hành động thuận và nghịch đều là
Pháp Giới, chỉ có đồng hành đồng sự nhiếp thâu tường tận mới thâm nhập Pháp Giới
trưởng thành ba thân viên mãn mà thôi.
Còn lại phần ba là: Nguyên Tướng Bất Diệt Pháp Giới, phần nguyên tướng bất
diệt này vô cùng siêu đẳng có hằng hà sa số lớp chúng sanh nhìn nhận khác nhau như
chung cùng thảy đều sống trong nguyên tướng pháp giới, bằng thoát khỏi vòng đai
pháp giới thì mới hay chính mình lầm mê, sự nhận thức của mình sai biệt nơi chốn
nguyên tướng bất diệt để tìm tòi cảnh giới Niết Bàn siêu hình vạn tướng do sự lầm
mê mà phát sanh hoài vọng đảo điên nơi mộng ảo.
Khi bấy giờ có một vị đến thưa gởi Đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn. Ở nơi đây nó
là Đời Ngũ Trược ác thế hay Bồ Đề Bất Diệt? Ở đây là thế gian hay Tịnh Độ Niết
Bàn con Kính nhờ Đức Thế Tôn chỉ giáo.
Ngài nói: Ở đây cũng là Đời Ngũ Trược ác thế. Nó cũng là Bồ Đề bất diệt nào
sanh? Nó vẫn thế gian, Tịnh Độ Niết Bàn, Ngài dạy xong lặng thinh không nói.
Vị kia thưa hỏi? Con kính nhờ Đức Thế Tôn Ngài quyết định một từ ngôn. Niết
Bàn hay Tịnh Độ. Thế gian hay Bồ Đề con nhận lãnh làm ấn quyết. Đức Thế Tôn
Ngài đáp: Nầy trưởng giả, Ta không thể ấn quyết nơi nầy, chốn nầy chỗ nầy, địa giới
nầy là nơi chốn chỗ Niết Bàn hay Tịnh Độ. Vì sao? Vì ấn quyết Tịnh Độ Niết Bàn,
ông không tu, chưa chứng đang còn sanh tử, tử sanh trong vòng đai pháp giới, lâm
nơi Ngũ Trược ác thế tử sanh, thì lời ấn quyết kia Ta hoàn toàn chịu trách nhiệm hư
66
dối sao? Bằng Ta ấn quyết nó là thế gian, nó đầy ngũ trược, ác trược thế gian. Ông tu
hành tinh tấn giải giới lầm mê chứng tri Niết Bàn, tỏ rõ Bồ Đề an lạc thì trái lại lời ấn
quyết nơi Ta là không thật sao?
Thiền Sư đang suy nghĩ câu chuyện trên của vị thưa hỏi Đức Thế Tôn, Ngài vô
cùng tán thán Đức Chí Tôn thấu nguyên tướng, thị hiện đầy đủ cho từng lớp chứng tri
giác tướng sắc tướng cùng với tận tướng Niết Bàn của Ba đơn vị Chánh Báo, Thọ
Báo nơi phàm phu sắc tướng chốn Bồ Tát Giác Tướng cùng Chư Phật tận tướng.
Lành thay khéo thay cho nguyên tướng Bất diệt.
Hay thay, tuyệt tác thay, cho Thượng Cầm Hạ Thú vẫn thường còn hàng hàng
triệu triệu năm chưa bao giờ mất tướng. Đến con người tướng của người đời đời
không mất tướng, triệu triệu vẫn còn nguyên, lại như Tiên Thần Thánh Hóa, Chư
Phật, Thánh Tăng thảy thảy bất diệt. Tại sao nói nó bị diệt, do lầm mê phát sanh cớ
sự. 

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1986,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

67
9. TRÍ HOÁ LÀ CHÚNG SANH VỌNG TƯỞNG ĐIÊN
ĐẢO
Trí hóa là chúng sanh vọng tưởng điên đảo. Sống theo cuộc sống đảo điên.
Phật đạo nói từ nơi khởi điểm rằng: Trùng trùng duyên khởi diệt sanh, sanh diệt.
Trí hóa là một nguồn phát huy, từ nơi thân mạng con người, nói chung lại là
nguồn phát triển chung khắp vũ trụ Tam Thiên Thế Giới, nó nâng cao đời sống nhân
loại trưởng thành khôn ngoan linh động trong các ngành như khoa học kỹ thuật, các
nghề nghiệp, các bác sĩ, kỹ sư, cho đến Bác học trong thế kỷ hai mươi này đang nhìn
thấy, trên nguồn hiện sanh của thế giới không ngoài Trí Hóa mà ra.
Trí Hóa hiện sinh chưa hẳn con người học hỏi mà nó phát huy mạnh, nó do nơi
Thiền Sư đầu não riêng của mỗi người mà phát huy mỗi lối, có hàng bá thiên vạn
người liền có bá thiên vạn trí hóa, nó khắc khe thay Đồng với Bất Đồng là một hiện
tượng khó phân tách ra được.
Phần Trí Hóa đối với Nhân sinh, Thiên sanh, Tiên hóa chung khắp vũ trụ Tam
Thiên là một điểm chính của Tứ Loài, thành thử vũ trụ tam thiên phải bị sống nhị
nguyên phân đối sướng khổ khác nhau, được mất có không chưa bao giờ thoải mái.
Vì sao? Vì Trí Hóa nó lại tùy thuộc bản chất của mỗi con người phát sanh trí hóa, dù
cho Bác sĩ, Kỹ sư, Bác học cho đến tầng lớp không ngoài Tứ Đồ là điều khó giải. Tứ
Đồ là đạo đức hay phi đạo đức. Hung cường hay Mưu Sĩ Đồng mà khó giải. Phật đạo
cho Trí Hóa chính nguồn Điên Đảo hóa nên mới nói: Tất cả hư vọng đảo điên.
Do đó nên chi con người bước vào con đường đạo Phật, trước tiên hỷ xả tất cả
các sự việc trong thân tâm mình, dọn cho sạch sẽ trí hóa, Nhất Tâm đảnh lễ chiêm
ngưỡng lễ bái Phật, nương theo ngôi Tam Bảo tu hành theo đạo lý và giáo lý làm nền
tảng Cải Hóa Giải Nghiệp.
Những bậc tu hành, các bậc tu hành tùy theo tín ngưỡng, tùy trọng lượng bản
năng đường hướng suy tưởng mà phát hiện trí hóa chia ra nhiều lớp mà tu hành, cho
nên cùng một quyển kinh, một lời Phật dạy mà nơi hiểu biết khác nhau trong con
đường tu tập, nguyên do trí hóa quan niệm của mỗi vị xuất phát từ nơi thân mạng. 
Khi Sở Đắc Không Còn Phải Dùng Trí Nữa. Vì sao? Vì trí tuệ vị trí trong căn
bản trí hóa, thuộc về tư tưởng phát sanh, Phật Đạo gọi là bản ngã giả tướng.
Lúc bấy giờ Thượng Tọa Thiền Sư nhập Chánh định, ngay trên chiếc chõng
ngoài vòng trời, mây ngưng gió vừa thoang thoảng, gồm tất cả ánh quang rạng sáng
bên ngoài thị hiện Long Xa, Càng Cát, Bửu Châu, Lọng Phướng pha lẫn nhạc Trời,
Chư Thiên tề tựu, hàng hộ pháp chỉnh tề, Chư Bồ Tát đủ mặt, trong hàng Bồ Tát Ma
Ha Tát cận kề lãnh giáo, Chư Bồ Tát, Hộ Pháp thọ trì phụng giáo, ngoài ra có hàng
chưa bao giờ nghe đặng, nay đặng nghe, thêm vào đó có bậc nương theo công đức để
mà nghe, xưng tán sự khai thị vào con đường Nhất Tôn tu tập, đồng nhau ứng trực,
đồng nhau nhất tâm tu cầu giải thoát.

68
Thượng tọa an nhiên, phóng Cửu Quang từ đỉnh đầu, lần lượt Cữu Quang tỏa
khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, vũ trụ rồng người, hàng hàng lớp lớp rải hoa
chào đón lời khai hoang trực chỉ. Xong đâu đấy Ngài thâu hồi Cửu Quang đồng hóa
Thường Tịch Quang. Ngài ngồi an tọa, nhìn khắp các hàng đang ứng trực thỉnh giáo.
Thượng Tọa Thiền Sư xuất định từ Thường Tịch Quang công bố:
Nầy tất cả Thượng Sanh Vương Giả Chư Thiên Tam Giới đến các hàng Bồ Tát
tận độ chúng sanh giai thành Phật Đạo, cho đến các hàng hàng lớp lớp Hộ Pháp thọ
trì, Chư Tiên hưởng phước, kể cả phàm phu nhân thế, đến Càng Cát Long Xa dù cho
có dũng mãnh trang nghiêm hay cứu độ tận độ muôn ngàn thế giới thọ lãnh bảo châu
chăng vẫn chưa bao giờ hay biết vạn lối độ sanh như thế nào ứng dụng, chưa bao giờ
hay đặng Chư Phật đã làm gì, chúng sanh cầu báo nó ra sao mà đi vào con đường giải
thoát độ sanh giai thành Phật Đạo.
Nầy tất cả Vương Giả cùng Chư Bồ Tát lớp lớp hàng hàng Hộ Pháp, Hộ Pháp
Bồ Tát, trước khi Ta công bố hữu lợi cho các ông, ích lợi cho các vị đời nầy đến đời
sau khỏi còn nhọc sức tốn công Chư Phật, làm sáng tỏ lối đi cho tất cả những bậc tín
tâm tu cầu giải thoát. Ta đã trang nghiêm sử dụng hạnh, nghiêm túc ngôn, phổ thỉnh
Chư Phật mười phương, nêu rõ lời khai hoang lưu lại thời nầy cùng thời sau, làm cho
tất cả rõ biết, rõ thấu rõ tận chính thân tâm mình phải có bổn phận tự độ lấy mình gọi
là Độ Sanh, ngoài ra nhiệm vụ của Chư Phật, cương vị Phật có khai hoang vạch lối,
để cho các bậc tu đạt, thấu đạt, tận đạt lời khai thị trực ngôn mà giác ngộ.
Thật cao quý thay lời công bố của Thượng Sư Ngài trực chỉ khai hoang. Các
bậc tu hành, phải tỏ ngộ chính bản thân mình phải bồi dưỡng chuyên chính lo tận độ
chúng sanh, chớ Tam Tạng Kinh Điển chỉ khai thị là trọng trách Chư Phật đang làm
cùng đã làm, nay các bậc tu cầu giải thoát, rất cần giải thoát chúng sanh chưa giải
thoát thời bậc tu lần theo vết chân để giải thoát căn nghiệp, cấu nghiệp, giải thoát vô
minh. 

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1985,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

69
10. BẠCH THƯỢNG SƯ TRƯỚC KIA CHÚNG CON
CHƯA RÕ VÔ MINH
Bạch Thượng Sư, trước kia chúng con chưa rõ vô minh. Nay nhờ Thượng Sư
ấn chỉ bổn phận thân mạng nơi chúng con phải thực tiễn, phải tận lực, phải sáng soi
các căn nghiệp phân đối, ngăn cản để lướt qua từng giai đoạn ngăn chấp nghi ngờ dị
biệt, từ lúc nay chưa đặng nghe, hiện giờ đặng nghe, những điều từ khi nay chưa bao
giờ biết nay thực biết, còn những gì chưa biết, mà cứ mãi thờ ơ lười trễ, tâm chí phân
vân, nghi ngờ bỡ ngỡ đó chính là vô minh. Té ra vô minh là chưa tỏ, té ra vô minh là
chưa biết cùng chưa nhận chân đặng, nói xong đồng an tọa.
Thượng Sư lặng thinh. Ngài nói: Khá khen các ông biết nhận chân lời khai thị.
Lời nhận nầy khó diễn nói chỗ nhận chân, cạn sâu tùy mức độ sanh của mỗi vị, mà
thâu nhận, vì sao? Vì nó chẳng khác người buôn ngọc, người buôn ngọc này buôn lâu
năm từng trải. Khi gặp đến Ta, được Ta cho viên ngọc, thời người này nhận chân giá
trị viên ngọc bảo châu vui mừng vô kể. Bằng kẻ chưa bao giờ thấy ngọc nay Ta đưa
viên ngọc, kẻ ấy tâm chí đang còn phân vân, chưa quyết định nó là viên ngọc, thì làm
sao sử dụng ngọc Bảo Châu? Đối với nhận chân lời khai thị ngộ nhập nó cũng như
thế, lời khai thị Phật thừa không hẳn lời nhiều hay ít, sự giác ngộ nhận chân vi diệu
vô cùng, bậc Đại Thặng đã từng thoát sanh qua từng lớp, chỉ mỗi một khẽ động đơn
sơ liền tiếp nhận viên thông. Còn những kẻ xuẩn ngu dù giảng giải trăm kiếp chưa
bao giờ tỉnh ngộ. Thời Đức Thế Tôn còn tại thế. Ngài đưa cành hoa. Ma Ha Ca Diếp
mỉm cười sở đắc Thực tướng Vô tướng Tam Muội Pháp Môn thì sao? 
Thượng Sư vừa dứt tiếng. Hàng Ma Ha Tát đứng lên tán thán, hay thay cao qúi
thay. Bổn phận và trách nhiệm, Phật với chúng sanh, tu học Phật Pháp và Pháp Phật
mà chưa thấu Duyên Căn nơi thân tâm hóa giải chúng sanh rốt ráo giai thành Phật
Đạo, thì dù cho có tu vạn kiếp vốn thật ngoài da, chưa hề phá tan vô minh đang lộn
vòng theo Pháp Giới thọ chấp, nương trong Pháp Giới cầu lấy hư vị được mất tốt xấu
làm của mình, trưởng thành chúng sanh giới. Chúng con đã từng bước qua, đã từng
trải qua. Nhưng ngược lại chúng con chưa hề hay biết, nay đặng Thượng Sư khai
hoang, chúng con đã từng tu tập Bát Nhã, soi tận Pháp Giới thâm nhập Pháp Giới là
một vòng đai sanh tử luân hồi, nhưng chưa hề hay biết toàn thân của chúng con đều
mang tất cả chúng sanh giới, bị giới ấy nó đè nén bao phủ nên chi chúng con dù cho
thật tỏ, thật biết, thật khôn ngoan như Phật mà chưa tận thấu bằng Phật, là một duyên
căn khó tỏ bày. Nói xong đồng ngồi xuống vị trí.
Thượng Sư Thiền Sư, nhìn hàng Ma Ha Tát sáng tươi bình dị, nhìn hàng Bồ
Tát trang nghiêm dũng mãnh, nhìn hàng Hộ Pháp cương nghị bất chuyển, nhìn Chư
Thiên uy nghi cương trực, nhìn đến lớp lớp hiền từ, toàn diện thứ lớp đều sạch sẽ.
Thượng Tọa nói: Khi chúng sanh giới điều động thể hiện Thân hình Thân
Mạng của các ông phải chấp hành theo giới nó từ Lý đến Sự, từ Trí Tuệ đến Hạnh
Nguyện phải tùy theo mức độ mà khai trương hiểu biết. Sự hiểu biết kia không ngoài
70
giới mà biết, các ông chưa bao giờ quá tầm hiểu biết của Giới. Nó không khác Cái
Thấy đang nằm trong Cái Thấy chưa bao giờ hiểu biết lý sự lầm lạc nơi mình. Chừng
nào tận độ chúng sanh giới, vượt tầm Giới ra ngoài cái thấy mới thấy đặng lầm lạc đó
là một lẽ Như Nhiên, nhờ gia công tu hành mới nhận thấy.
Các ông cũng nên biết, trách nhiệm Chư Phật khai hoang trực chỉ nơi Tam
Tạng Kinh Điển, rất có giá trị vô cùng toàn diện lời kinh thảy đều đưa các ông về với
Chân Tôn Chánh Giác, bản chất lời vàng của Chí Tôn Vô Thượng giải các ông sạch
nghiệp dung thông tận độ chúng sanh hoàn toàn giải thoát, chỉ vì các bậc tu hành
chưa chịu thực hành do đó nên chưa bao giờ nhận đặng kết quả chỗ đến và chốn về
của Bảo Pháp.
a. THẾ NÀO LÀ CHỔ ĐẾN CHỐN VỀ?
Thượng Tọa Thiền Sư hỏi đến đây, liền có hào quang Huỳnh và Bạch Quang,
từ đỉnh đầu phát hiện chạy vòng quanh bảy vòng chung quanh Thượng Tọa, xong đâu
đấy địa chấn đất chuyển, các vị như Sơn Thần, Địa Thần, A Tu La Thần, Tứ Bộ Thần
ứng trực lễ bái Thượng Tọa gật đầu nói tiếp.
Nầy các ông. Như kẻ làm công kia, còn được phú nông cho dùng hai bữa cơm
và ba chén thóc trong mỗi một ngày thay, huống hồ chi các ông gia công tu hành, cố
công tu tập và tu trì, từng pháp môn Chư Phật đã để sẵn mà chẳng hưởng đặng chi
sao? đó là những điều phi lý, quá ư phi lý của kẻ xuẩn chưa nhận chân đó thôi.
Các ông hãy nghe đây: Thế nào là tu chỗ đến, chốn về với Giác Tướng tận độ
chúng sanh giai thành Phật Đạo? Hãy nghe đây nhận lấy lời chân thật. Nơi pháp môn
Tứ Nhiếp Pháp, Đồng Hành Nhiếp, Đồng Sự Nhiếp, Bố Thí Nhiếp, Vị Tha Nhiếp cho
đến Lục Ba La như: Bố Thí, Trì Giới, Nhẩn Nhục đến Trí Tuệ về với Thiền Định
Giác Trí gọi nó là Thiền Trí.
b. NƠI THIỀN TRÍ NHƯ THẾ NÀO?
Thiền Trí là một căn bản Nhiếp Thâu Đồng Hành, Đồng Sự nhiếp tỏ thấu
nghiệp chủng, nghiệp căn, nghiệp lậu, của bậc Đồng Đạo của thân hữu gia tộc cùng
với thân mạng mình, có khi dùng Bố Thí cảm hóa nhiếp, lúc vị tha độ nhiếp. Tu như
thế, đạt như vậy mới là một chốn đến giác chân. Bằng đồng hành, đồng sự hơn thua
soi bói chỉ trích hơn thua, cạnh tranh thù ghét, thời chưa bao giờ có chỗ đến cùng
chốn về. Tứ Nhiếp pháp, đồng hành, đồng sự để hành động cho có bạn đồng hành vui
cười làm lối sống, đó gọi là tu Phật Pháp với Pháp Phật mà thôi, chưa đặng về với
Giác Chân con đường giải thoát.
Thượng Tọa lặng lẽ, nhìn lớp lớp yên lặng thọ trì. Ngài nói tiếp: Đó là bốn bộ
nhiếp thâu đồng hòa tỏ ngộ. Còn lại bốn bộ dung thông phá tan chướng ngại như Bố
Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục đến tu đạt Trí Tuệ Thiền Định.
Trí tuệ Thiền Định là một trí tuệ dung thông trùm khắp, chưa bao giờ có bộ óc
địa phương thọ ngã riêng tư cho mình, thật biết thương mình cùng thương khắp thế
gian xuất thế gian không còn chướng đối dị biệt, trí tuệ Thiền Định là một trí tuệ
71
hướng thượng, trải khắp Tam Thiên đồng với Như Lai thề nguyện sự. Rất hiếm bậc
làm đặng, đang còn thiếu khuyết tài trí. Pháp Thí và Vô Uý Thí nơi phẩm bố thí mà
ra.
Trì giới đối với bậc Thiền Định đã từng tu Bát Nhã Ba La Mật Đa thời thịnh
trọng quả vị, quan trọng Trí Tuệ và Đạo Hạnh chính mình, nên chi có hai điểm mà
bậc trì giới nên làm ngoài hai điểm này chớ nên làm, thế nào là hai điểm nên làm?
Một là thọ pháp lãnh hội lời khai thị nên làm. Hai nữa mặc nhiên không nói năng giải
nói cho những kẻ thọ ngã, để bao quảng an nhiên quả vị chớ nên phá giới của những
bậc củng cố đang trì giới thủ giới tu hành.
Tinh tấn kèm theo nhẫn nhục mới có Trí Tuệ căn bản sáng soi dung thông cùng
khắp Thiền Định gọi là Định Tuệ.
Bằng tu thiền cốt phát sanh trí tuệ, chẳng bao giờ trí tuệ, dù cho có trí tuệ nơi
thiền chăng vẫn là tập khởi, loạn sanh đảo điên, điên đảo theo hoài vọng, mộng tưởng
gọi nó là trí tuệ chưa hẳn trí tuệ căn bản giải thoát nên nhớ lấy. Nhẫn nhục, tinh tấn,
trì giới hoặc bố thí củng cố thảy đều là bố thí, trì giới tinh tấn, nhẫn nhục tu cầu pháp
môn phước báo chớ chưa phải là chốn đến Chân Tôn Giải Thoát. Các ông hãy thực
hiện Ba La Mật Đa lìa nơi chỗ tu, đến nơi quả vị.
Khi bấy giờ hàng hàng lớp lớp thảy đều xưng tán, thảy đều nói năng bày tỏ
những gì đã tu, những điểm nào sai biệt của từng lớp, từng thứ vị tu chứng mà chưa
bao giờ từ bỏ, nay mới nhận chân đồng nói lên:
Bạch Thượng Tọa Thiền Sư. Từ lúc nay chúng con ngỡ là nghiệp, tưởng là vô
minh nào ngờ chúng con chưa chịu thực hiện tu hành các pháp môn ấn chứng của
Phật, miệng chúng con đọc tụng Tín Hạnh Nguyện mà chưa hẳn là tín hạnh nguyện, ý
chúng con nói Bi Trí Dũng, Giới Định Tuệ mà ngơ ngẩn chưa thi hành đúng với con
đường Chí Tôn hướng dẫn, đa phần tưởng niệm, đa số đào sâu các pháp, hóa giải
nghi chấp đưa đến chỗ chấp nghi tâm sanh đồ chúng. Hôm nay thượng sư khai thị
chúng con trực ngộ mới hay, trên con đường tu tập, tất cả pháp môn thảy đều nhiếp
thu, cho đến Đạo Tràng nghiêm túc, thảy đều là phẩm trợ đạo, mới gọi tu là phương
tiện giải thoát. Bằng mãi tu, mãi tập, mãi hành, mãi lý, mãi sự mà chưa thực hành Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa cốt thâm nhập về với chốn độ chúng sanh làm sao tận
thành Phật Đạo, hiện giờ chúng con mới thật rõ lời Phật Nguyện khai hoang rằng: Độ
hết chúng sanh Ta mới nhập Niết Bàn. Bằng còn mỗi một chúng sanh thề chưa nhập
Niết Bàn.
Các hàng vừa dứt tiếng, thời hàng Bồ Tát Ma Ha Tát xưng tán, hay thay cao
quý thay. Chư Phật khéo hướng dẫn, Thượng Toạ Đại Sư khéo khai hoang con đường
Ba La Mật Đa thâu gồm tất cả các pháp môn trở về với Tận Độ chúng sanh. Chính ba
la mật đa là mạch lạc trơn liền trăm sông trở về biển giác, chính thực hiện toàn diện
pháp môn là biết công dụng Bảo Pháp giải tỏa tất cả căn bệnh mê lầm sạch sẽ trơn
liền, đời này và đời sau, nên nương theo lời khai hoang trực chỉ này mà sở đắc.
72
ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT Khai Thị năm 1985, Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi
chép
11. ĐẾN NAY NHÀ THIỀN SƯ HIỀN TRIẾT
Đến nay nhà Thiền Sư Hiền Triết, Thiền Sư đã từng dẫm nát, đã từng trải qua
tứ phương năm hướng chung hợp Đạo Đời, Đời Đạo qua chẳng biết bao trở lực cùng
tỏ rõ thế nhân, tự tạo lấy hiểu biết thật biết đến quá biết về với thân mạng, chẳng còn
nói hai chữ hơn thua hay được mất, Nhà Thiền Sư Hiền Triết hay nghĩ đến hai câu: 
Vết chân dẫm nát nhân Thiên Giới.
Lưu lại trần gian nửa đoạn đường.
Thiền Sư chẳng cầu tỏ, những gì về thoát lý, thoát chân, thoát vọng, thoát khởi,
thoát tập, thoát nhiễm, những điều ấy đối với Thiền Sư thảy đều vô lý. Thiền Sư cũng
không lấy chi làm lạ, chỗ tư tưởng suy diễn luận diễn, kiểm chứng hay quán chúng
soi, điều hành vọng hoặc phân chia tỉnh nơi thân mạng, trí hóa soi, hàng ngày, dù cho
Thiền Sư không bao giờ khởi nó vẫn Dụng chưa bao giờ Muốn nó vốn Hành những
điểm này quá ư quen thuộc đối với Thiền Sư.
Vì sao? Vì đúng thời khóa, nó vẫn Thoát, đúng lúc an nhiên nó lại Suy... Đúng
nơi hợp hóa nó Tự Quán sáng soi. Còn nơi phân chia tĩnh Tọa suy ngẫm chân nguyên
mục đích nơi Thiền Sư nói lên lời cao đẹp, vạch rõ đường lối Chí Tôn Phật Thế, lúc
Chí Tôn còn tại thế đã thuyết minh mà tất cả chưa hiểu đặng làm cho cán cân tu học
chênh lệch hai bên, mất chân giá trị bảo pháp lời vàng tâm huyết.
Thiền Sư đã từng Trực Giác Tự Ngộ, nó không có chứng từ ngôn thuyết, nó
tận thấu lời Chí Tôn trải qua ghi chép Tam Tạng Kinh Điển, không thiếu sót dư thừa
vẹn vừa từng lớp lớp tu học. Kinh điển này có hai điều cần phải nhắc nhở cho tất cả
những bậc tín tâm tu học. Thứ nhất kinh pháp phải mãi luôn theo Chư Vị Bồ Tát cốt
nhắc nhở, thứ hai đưa đón những bậc phát tâm. Do hai điểm trên mà Thiền Sư ưa
thích nhất. Ngoài ra Thiền Sư chưa bao giờ thêm bớt đường hướng Chí Tôn. Thành
thử Tĩnh Tọa suy ngẫm không ngoài chân nguyên chủ đích nơi Thiền Sư cả. 
Sự quen thuộc, quá ư quen thuộc đối với Thiền Sư. Mỗi buổi sáng tinh sương,
Ngài ngồi bên dòng suối, an nhiên thanh thoát, kiểm chứng Tổng Trì tất cả, cùng tất
cả, kiểm nhận Ngài đã từng qua những khúc eo nào trên con đường tu hành. Lúc khai
hoang đặng, Thiền Sư miệng lẩm bẩm tán thán, có khi Ngài xoa đầu đập vế vun vai
in tuồng nắm bắt bảo châu ngọc bích. Có một hôm Thiền Sư đứng lên đi vòng bảy
vòng dọc ngang bờ suối, Ngài bước trên từng tảng đá hình trăm voi, xong đâu đấy
tĩnh toạ an nhiên kiểm trì con đường Trung Đạo.
Thiền Sư tĩnh tọa rất lâu, khuôn mặt Ngài thay đổi từng lúc, có khi Ngài gật
đầu hay mỉm cười in tuồng thỏa thích, Ngài nói: Tuyệt tác thay, an lành thay Chí Tôn
Vô Thượng. Kể cả hàng bá thiên vạn triệu thế kỷ, cho đến ngày nay. Thế giới với con
người sống trên mặt đất liền, cho đến Tiên Thần Thánh Hóa hay Thánh Triết Thánh
Nhân, hoặc nhà Tiên Tri Vĩ Đại lần lượt ra đời, ngự trị đời chẳng biết bao thời cuộc
73
đổi thay, thay đổi di chuyển không ngừng bấy ai là Bậc Nhân Thập Toàn, từ nơi ưu
hoặc khuyết nó không ngoài Tương Đối Có Không là hai con đường lựa chọn mãi
miết đổi theo xây lâu đài mộng đẹp trên lối sống tương sanh con đường tương đối,
cho là được mất có không vinh dự, thật đáng buồn cười thay hư vọng?
Thiền Sư suy tưởng đến đây châu mày nói: kẻ ngu xuẩn nhất chính Ta. Kẻ hư
vọng tham cầu mang Phật Đạo vào con đường lệch lạc mà công nhận tu cầu giải thoát
môn. Ta hiếu kỳ lựa chọn một trong hai điểm Thanh Thô Thiện Ác. Ta ngỡ Thanh là
Phật Đạo. Thiện tạo Giác Chân tu lấy một chiều, còn một hướng ta đành vứt bỏ, may
mắn thay, nếu ta huân tập nung đúc Thiện Căn. Ta phải lầm tu nơi Phước Báo. Bằng
không nhận thanh hương có lẽ lúc hình thành sa vào Tiên Đạo thì sao? Tuyệt tác
thay. Hôm nay mới thâu nhận con đường Trung Đạo Tôn chính một con đường duy
nhất, thâu nhận tất cả hai bên. Thiện ác có không mới tu đạt tuyệt đối thoát khỏi
tương sanh mới điều hòa không chênh lệch. Té ra Phật Đạo tâm chí dung thông,
tương đối chốn lầm than, tuyệt đối nơi giải thoát lành mạnh khỏi dị phân nào ngăn
cách dị biệt nơi kinh điển đường Trung Đạo mà Đức Thế Tôn đã ấn chỉ trong thời
hiền kiếp, đường hướng chỉ đạo cho tín chúng phải thực hiện hai bên, phải đồng hóa
tương đối mà sở đắc tuyệt đối mới mong Giác Ngộ. Nó cách xa Bá Thiên Vạn Triệu
thế kỷ trước, nó gần nhất đối với thế kỷ hai mươi này, thế mà chính ta đã lầm lẫn,
thời làm sao các bậc tu hành tránh khỏi sự lầm lạc như Ta?
Thiền Sư suy ngẫm đến đây, Ngài thở dài nhìn bóng cây ngã bóng, Thiền Sư
đứng lên bước đi từng bước một, Ngài nói: Ta ngu, chắc hẳn từ vô thủy đến nay tất cả
con người thảy đều ngu hết, cho đến Chư Tiên Thiên vẫn phải mờ mê, dù có nói ra tất
cả thảy đều cho Ta là kẻ đi chăn bò thuê mướn, cổ truyền Phật Đạo, nào có ngờ đâu.
Đức Thế Tôn cùng Ta có một chí nguyện cứu vãng quần sanh hãy tu vào con đường
Trung Đạo đoạt lấy tuyệt đối tương đồng mà chung hoàn Chánh Giác.
Thiền Sư suy ngẫm đến đây Ngài bèn chỉnh đốn y áo, quay mặt hướng Đông lễ
bái bảy lần, Ngài âm thầm thưa gởi: Bạch Thế Tôn Vô Thượng, Ngài chính Bậc Chí
Tôn vuông tròn chung khắp, đồng đẳng bá thiên vạn triệu, bá thiên vạn hạnh, vô
lượng vô biên Công Đức Phật về với Đẳng Đẳng Tôn Chánh Giác, do đó cho nên
dưới mắt Phật thảy đều đồng đẳng Như Lai, vô phân biệt tính, vô thọ chủng lai, vô
hoàn thể giác, vô xứ xứ trụ, nay con xin kiểm chứng thừa lệnh thuyết minh, giúp đời
nầy, đời sau nương Trung Đạo Tôn tu đoạt Giác Chân trùm khắp.
Cao quý thay dưới mắt Phật đồng đẳng quân minh bậc chánh giác là bậc toàn
diện Chư Phật hiện toàn thân, từ một hơi thở cho đến lời vàng minh thuyết thảy đều
hiện Phật đều xưng tán sát na vi trần Phật, không còn hai tướng, chẳng có chỗ kiểm
chứng hai bên, Ngài còn ấn chỉ nơi kinh pháp vạn Hiệu Vạn Phật.
May thay Ta thực hiện hòa hợp, thực hành tự quán qua nhiều trở ngại nhiếp thu
tu cầu Giác Tướng về với Như Tướng viễn thông, tận thấu mà tường tận Pháp Thân
tỏ rõ nguồn phát hiện thị hiện sát na Phật, vi trần Phật, thanh quang Huỳnh Quang
74
Phật. Mỗi Chư Vị thị hiện thảy đều do Công Đức vô lượng nơi Ta, chính Ta không
ngoài ai là bậc đã xây dựng cho Ta, nếu đời này hoặc giả đời sau, lãnh hội đặng lời
Ta đã nói trên, thực hành tự lực cùng tha lực, tự lợi và tha lợi đồng đẳng sự việc Chư
Phật đã làm nay Ta phải làm, Chư Phật đã khai hoang đường hướng cho Ta, nay Ta
phải có nhiệm vụ tha lợi cho những bậc khác, để báo ân Tam Thế Phật, gọi là tự độ
cùng tha độ.
Thiền Sư vừa nói đến đây. Ngài ngửa mặt nhìn hư không in tuồng bày tỏ, sự
lạc lỏng nhận chân với con đường tri kiến quá khó, mỗi một quan niệm nhỏ sai, xa
xăm vạn dặm cách biệt nhau với con đường giải thoát vô tận cùng, duy nhất chỉ có
hóa giải nương theo Trung Đạo bước lần Từ Bi Hỷ Xả liền trơn. Được mất không
mừng hoặc buồn khổ, hơn thua chẳng lấy đó làm chứng từ. Có hay không xem đó nó
đã từng lai vãng. Thuận nghịch do lòng mong muốn quan niệm mà ra, phải trái chưa
hợp tình chưa hợp lý với mỗi con người. Ta thật biết, còn biết hơn dòng đời trôi dạt,
các bậc tu hành hay phân đối mà mãi mãi không xong chạy theo hàng Nhị Thừa Tu
chứng làm thế nào để minh tỏ con đường Trung Đạo Nhất Tôn, sở đắc Pháp Thân vẹn
toàn Chánh Giác? Dù Ta có kêu gọi khuyến tu có hàng vạn lời kêu gọi, nó chẳng
khác nào Tam Tạng Kinh Điển lời vàng Vô Thượng Chí Tôn đã từng phơi bày hơn
hai nghìn năm mấy ai đã xem đến?
Thiền Sư Hiền Triết vừa suy ngẫm thuyết minh xong quay về chòi lá, dòng
suối đá với trăm hình con voi êm lặng, sỏi đá lôm chôm cây rừng mát mẻ, ánh nắng
vàng rạng rỡ lá rừng phe phẩy như chào đón Thiền Sư.

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1986,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

75
12. THIỀN SƯ VỪA TĨNH TỌA XONG...
Thiền Sư vừa tĩnh tọa xong quang cảnh bên ngoài an nhiên tịch tịnh, hư không
vô tận lặng lờ gió mây hòa đồng nơi không khí, pha lẫn vạn chất cây lá rừng reo, trở
thành mùi hương vị thuốc trường sanh.
Thiền Sư đưa đôi mắt chung đồng, nở nụ cười thoải mái chào đón Vũ Trụ Tam
Thiên, Ngài gật đầu in tuồng vừa giải xong cơn Đại Định Tổng Trì. Thiền Sư khẽ nói:
Do Lầm Nên Hữu Hóa. Ta muốn kêu lên lời nhắc nhở với cố tri. Còn nghi phải tu
cho sạch sẽ chỗ nghi. Còn chấp hãy bước lần cho sạch chấp. Chớ nên vì chấp mà
đứng yên. Chớ vì chỗ nghi mà an trụ, cho đó là rỗng không vô ích. Đến giai đoạn tỏ
rõ mới nhìn nhận vạn pháp diễn hóa, vốn thể như nhiên thành thử vạn pháp không sai
hai tướng, mà Ta cùng chúng sanh đang lầm bị lạc, gánh chịu hai chữ Tín Mê đang đi
theo Hữu Hóa ngộ nhận mới có lý sự trách ẩn dị phân mãi lầm sanh tử.
Bậc Đại Giác Chí Tôn Ngài đã tận tường, cái Mê không Gốc mà trái lại Có
Nguồn, vì chúng sanh Hữu Ngã mà gây ra, nên ấn chỉ chúng sanh lìa ngã, nương vô
ngã tầm Đại Chơn, nương theo trăm sông, lần về biển cả. Thiền Sư Ngài nói đến đây
ra chiều suy ngẫm liền tự thán: Khó khăn thay trên con đường vào Chánh Giác. Ta đã
từng trải qua bao nỗi khúc eo vô cùng tận, nay đạt đến Biển Cả khó phân như thế nào
cho tất cả đang vật vờ nơi cơn mê chưa Hồi Tỉnh. Sức nơi Ta là sức Đại Dương. Còn
công năng chúng sanh khác nào bọt trôi theo cơn sóng gió.
Ngài tự thán xong Thiền Sư đưa Chánh Niệm giao cảm Chư Phật mười phương
rung chuyểnTam Thế Chư Phật đồng thọ ký lời huyết tâm Thiền Sư cảm ứng. Đâu đó
xong xuôi, Thiền Sư giải nói: Này các Bậc Cố Tri Vĩ Nhân Đại Trí, tu cầu con đường
song tu Hiện Giác, những vị này, chưa bao giờ được gặp nay gặp với Ta, bất cứ một
nơi nào đáng kể, miễn nhận chân Minh Thuyết thực hành đó chính là cố tri nay gặp
gỡ. Bằng gặp gỡ đương thời sống chung một mái, bê trễ ương hèn dù cho đọc tụng
chăng vẫn chưa nhìn đặng Ta một ít nào cả. Thật phí thay, thật uổng thay cho một đời
chưa gây tạo.
Thiền Sư nói tiếp: Con đường giải thoát phải tận gốc mới thấu nguồn mê. Từ
thế gian đến xuất thế gian thảy đều là nguồn giải thoát, miễn nhận chân đặng liền
lãnh lấy giải thoát môn. Bằng vu vơ chưa nhận khó vào biển cả của Đại Dương mà
giải thoát.
Thế Nào Là Biển Cả Đại Dương Chúng Ta Phải Thâu Nhận Lầm Lẫn?
Từ một khởi sơ khai. Nhiếp thâu hoàn tất chẳng thiếu sót mảy may tận giác. Sự
nhiếp thâu này lìa ngã cùng ngã sở chớ nặng nhẹ Thánh Phàm chớ vội vàng chấp
nhận.
Thiền Sư khải niệm xong, Ngài hớp một hơi trà lúc bấy giờ Ngài hướng dẫn.
Nầy các ông, các bậc cố tri nay Ta kể các vị cùng Ta hãy nhìn nơi Hư Không Vô Tận.
Nhìn đến Sơn Hà Sông Núi đang chung sống cùng Ta. Bản thân Ta tìm phương giác
ngộ. Tự tánh nơi Ta hóa giải chấp mê, diệt trừ bản ngã trên lý sự tu hành Ta cùng các
76
ông dẫm nát, nó mãi kéo dài, có từng vạn triệu kiếp người, kiếp thiên tiên hay thọ
sanh vào nơi các loài cầm thú, thăng trầm làm quỷ làm ma không dứt. Do đó nên chi
mới có. Phật Thánh thường còn. Chúng sanh thường diễn, đến bao giờ chấm dứt giữa
Phật với chúng sanh, tìm ngộ bị mê ở nơi mê thấy ngộ. 
Lạ thay! Đứng Thánh tự tăng, ở vào phàm sa đọa. Khó khăn thay, tu tịnh
vướng động tâm. Sửa sai lầm, sanh chứng tật.
Lạ lùng, khó khăn thay, lầm sai nên hữu hóa. Thân Tâm động vọng lệch sơn
hà. Ngày nay Ta đã rõ làm thế nào phân tánh, vạch hướng cho tất cả bị lầm sai?
Thiền Sư suy ngẫm đến đây Ngài nói: 
Sơn Hà Đại Địa quả đất cỏ cây toàn diện như nhiên diễn hóa, sự diễn hóa này
thuộc về Thể Tánh như nhiên tự hóa, do đó hòa hợp với tất cả chúng sanh Tứ Loài
không sai chạy. Nó chẳng khác nào: Con trăng tròn chiếu sáng. Trăm kẻ nghìn người
ai cũng công nhận con trăng gần mình hơn ai cả. 
Khi vui nhìn cảnh cũng vui,
Lúc buồn cám cảnh sụt sùi tái tê.
Có người tự hỏi? Do Ta hay do Cảnh? Lắm bậc đã từng hiểu do tại nơi Ta.
Nhưng chính Ta chẳng biết làm thế nào cho hơn cảnh tình ấy. Bậc khéo lượng, bậc
này sẵn có đầy đủ trí thức cùng kiến thức, gọi là Tâm Đạo biết thương mình và
thương mọi người, không lạm dụng không lừa dối mọi người hay áp dụng tình sanh
cảnh, có thể nói đứng vào hàng quân tử.
Thiền Sư còn nhớ, có một độ xa xăm Ngài trực nghĩ. Ta phải thâu nhận lầm lẫn
chính mình mà đào sâu vạn pháp. Ta phải tận khắp chu du cốt tận thấu duyên căn lầm
mê cùng giác ngộ. Khi lầm sanh nơi Vũ Trụ với con người tỏ rõ con người cùng Vũ
Trụ mới là giải thoát môn. Bằng tận thấu duyên căn Đại Ngộ nên chi Ngài nói:
Quả Đất hình thành nó vẫn từ mỗi một điểm nhỏ kết nạp hóa ra đầy đủ không
thiếu sót mới thành hình quả đất. Bậc mê lầm phải tường tận duyên căn chung khắp
khi mới sơ khai, đến giai đoạn kết nạp, lúc đã kết nạp đầy đủ tiềm năng, đầy đủ chất
phẩm và trọng lượng, trái đất kia liền như nhiên hợp hóa sanh ra núi sông, cây cảnh.
Diện núi sông biện minh ra địa giới địa hạt củng cố từng nơi, do tâm thức con người
nơi thấp chỗ cao, tầm sâu hay nông cạn, từ nhỏ đến lớn như nhiên diễn hóa, có đầy đủ
ý nhị khó giải hết nơi tập này trên văn tự trừ ra bậc có đầu óc rộng rãi cân đối mới
tạm hiểu lời Ta nói mà thôi.
Khi bấy giờ. Thời quá khứ không thể nói thời ấy trải hằng bao nhiêu thế kỷ.
Đức A Đề Phật là Vị Phật đầu tiên ra đời, cùng với quả đất hình thành tất cả cây cỏ
núi sông, tứ loài sanh trưởng đầy đủ không thiếu sót. Thời bấy giờ, con người chỉ biết
thân mạng mình giống con người, ngoài ra chưa hề có kỳ vọng chi cả. A Đề Phật ở
tại khu rừng, Ngài kiểm chứng cây cỏ núi sông Sơn Hà Đại Địa mà Giác Ngộ.

77
Ngài nói: Tuyệt tác thay, thiên nhiên sơn hà cây cỏ trời mây với Ta là Một, hợp
hóa đồng thanh tương ứng hiện giác. Thế mà con người ngỡ con người với sơn hà cây
cỏ núi sông là Hai, thật sai lầm vô hạn.
Đức A Đề lúc bấy giờ Ngài sẵn có thể tánh đồng đẳng với Sơn Hà Vũ Trụ, nên
chi thường nhập Chánh Định kiểm chứng bao quảng cùng khắp, Ngài nói: Mắt nhìn
thấy Hư Không ta đặt thân mình vào tận Hư Không, Ta không còn thấy Hư Không
mà tận thấu Hư Không là Giác Tướng. Ta ra vào vạn pháp Ta không nhiễm trước Ta
chưa thấy vạn pháp diễn hóa ra sao, mà Ta thấy vạn pháp như nhiên diễn hóa, đó là
Ta chứng thị như nhiên Thể Tánh vạn pháp.
Vạn pháp nó rất gần Ta, mà nó thật rất xa ta có hàng vạn triệu bá thiên dặm khi
ta chưa nhận chân nó, lúc ta đang còn vướng vấp đảo điên do lầm nên hữu hóa, chỗ
hữu hóa này có thể nói là Bị Hóa che mờ Thể Tánh Như Nhiên nên chi trực giác hơn
Bị Giác là như thế.
Đối với Đức Bổn Sư Ngài biệt tài siêu đẳng chưa có vị Phật nào trải khắp chu
du, kinh điển diễn đặng như thế. Tất cả những vị nào, từ đời nầy đến đời sau nương
theo kinh pháp Ngài đặng giác ngộ, bằng hình thức không y kinh mà chẳng ly kinh
thảy đều tu đạt Chứng Thị.
Thiền Sư vừa giải đến đây. Ngài đứng lên đi qua đi lại bảy lần tri ân Bổn Sư
Chí Tôn Vô Thượng Ngài nói: Giờ đây con mới thấu. Không Sai. Không Đúng. Đều
Đúng Mười Phương. Tận Tận Tường Tường chẳng vương, không vấp.
Hay thay, vi diệu thay. Con đường Bồ Tát Hạnh Nguyện, cao qúy thay Đại
Nguyện phát tâm rộng rãi cao đẹp tận độ chúng sanh giai thành Phật Đạo mà Đức Chí
Tôn ban bố Chư Bồ Tát phụng hành phải trải qua nhiều trở lực mới tận thấu Chân
Như. Có đi vào cơn mê thực tiễn mới thâm nhập cái mê mà Giác Ngộ, có kiểm chứng
thực hành mới nhận chân được do lầm vương nơi hữu hóa. Bằng dùng Sắc tự quán
kiểm chứng hay thinh hương vị thứ kiểm chứng thảy đều sai biệt với Chánh Giác.
Nếu đứng trước khuôn mẫu của mỗi một con người có Tướng Tốt, hoặc giả tướng
xấu chưa hẳn đã tốt hay xấu. Hãy nhìn tinh hoa vận chuyển có thủ hay có xả. Bằng
thủ nhiều liền dục Sắc, dục Thinh danh giả, dục Hương khoe tài, khoe đức, dục Vị ưa
củng cố vị thứ thảy đều là con người giả danh nơi danh giả mà thủ.
Bằng xả nhiều là kẻ trôi sông tiêu cực mang lấy hư vô chẳng làm chi hữu ích,
hai hạng con người nầy chưa hề hay biết sử dụng. Họ thảy đều quan niệm Thân Tâm
lìa ngã cùng Ngã Sở, mà trái lại Thủ vẫn Ngã, Xả đều là Ngã. Chẳng khác nào Cấu
chưa đặng mà Tịnh vẫn không xong.
Thiền Sư trầm ngâm in tuồng kiểm chứng, không khác mấy vị Đại Lương y,
xem xét mạch lạc đặt viên thuốc cứu chữa bệnh mê lầm, làm cho con bệnh nhận chân
may ra thấu nhận. Ngài nói những vị tốt nhất là Bậc Thủ để kiểm tra, Xả liền tha thứ,
Thủ đặng sáng soi, Xả đặng trơn liền, nơi tinh hoa vận chuyển của những vị này đã
từng thực hiện, từ thâm tâm cho đến ngoại giới liền lạc trơn tru nên chi hay nói: Ta
78
Tha Thứ, Lỗi Lầm Cho Tất Cả. Ta Không Bao Giờ Lầm Lỗi. Bằng Ta chưa tha thứ
Lỗi Lầm, Ta phải gánh chịu Lỗi Lầm.
Làm như thế, tu như vậy mới nhận thấu nơi Chúng Sanh Tánh bị lầm nên vạn
pháp Hữu Hóa. Càng hữu hóa bao nhiêu lại càng sanh diệt bấy nhiêu. Bậc càng Hữu
Hóa càng đi nơi sanh diệt của hữu hóa mà thân tâm sáng soi nhịp nhàng của hữu hóa
vận chuyển tỏ ngộ, vận chuyển lưu hành nơi thể tánh nó, những bậc này đối với con
đường Chánh Giác rất gần. Vì sao? Vì nương mãi hữu hóa tận thấu hữu hóa liền sở
đắc Niết Bàn Không Hữu chẳng Vô mà Chánh Giác.
Thiền Sư Ngài nở một nụ cười. Ngài nhìn mặt đất trơn liền đã từng nuôi dưỡng
trăm nghìn cây lá. Ngài nói: Lời Ta nói không bao giờ họ tin nơi Ta Chánh Giác.
Tâm Ta trơn liền, ai đã hiểu đặng Lòng Ta. Ta thường nói: Ta Không bao giờ tiếc
thân mạng thì tài sản vật dụng Ta nào có sá chi. Thân mạng Ta, Tài sản vật dụng Ta
bảo toàn, chính ra Ta bảo toàn Quả Vị, Không dư thiếu trơn liền, thì vận chuyển lưu
hành nào kém khuyết, toàn Thiện toàn Chốn Viên Dung chung khắp. Đây lời Ta nói
tất cả những Vị như Ta thảy đều như thế cả.
Thiền Sư vừa nói đến đây. Ngài có vẻ mặt đăm chiêu, đương chiều suy nghĩ
thầm nói: Nếu Ta nói tất cả con người đang lầm nên bị hữu hóa. Khi đảm phá hoặc
hóa giải cho con người, thì gốc của con người toàn diện đang theo hữu hóa làm như
thế nào tận gốc hữu hóa. Khi bấy giờ mới tận đặng nơi chốn thực tiễn thường còn biết
sống và lẽ sống an nhiên không còn đúng sai hai chữ chạy vòng thay Chu Kỳ trái đất.
Chính nó là một con đường thẳng. Không nhiễm hữu hóa, sáng soi tất cả sự việc lý trí
của hữu hóa mà đạt thành căn bản chân lý thực tiễn. Tài liệu này không ngoài tài liệu
Tam Tạng Kinh Điển mà Đức Bổn Sư đã từng hướng dẫn, nay được gọi là lời vàng
Bảo Pháp cho con người và thế giới đang chiêm ngưỡng nghiên cứu chưa tận thấu tu
đạt. Vạn Pháp Như Nhiên. Chúng Sanh hữu hóa lầm lạc, hai thái cực này nó mãi
diễn. Chư Phật cùng Chư Bồ Tát đã dày công hóa độ. Khi chỉ thẳng chúng sanh tánh
lãnh hội vòng quanh, lúc diễn giải Vòng Quanh lại có Bậc Trực Ngộ, cho nên lý sự
mê ngộ nó chẳng có chừng nói nơi Văn Tự, điểm chính nơi nó chỉ có Công Năng đầy
đủ Không Kém sót là hơn tất cả.
Thiền Sư nghĩ về Thiền Tôn. Ngài nói: Thiền về một Môn. Chân lý thực tiễn,
chung gồm Hiển Giáo và Mật Tôn phát sanh Trí Tuệ, trí tuệ này có chỗ học mới biết,
hay những điều chưa học như nhiên Năng Khiếu đặng biết. Những bậc Tu Thiền sai
lệch chưa có Trí Tuệ, chưa hẳn đã là Bậc nhập lưu tu Thiền. Nói đến Chứng tri mà tu
đạt tận cùng của Thiền Trí khó giải nơi văn tự. Vì sao? Vì Môn Thiền là một môn hỗ
trợ công năng Đức Tánh nên chi Tâm truyền Tâm Liễu Ngộ Thiền Sư. Từ nơi nhìn
nhận của Hiển Giáo và nhà Thiền Tông Không Khác mà thật khác thành thử Môn
Thiền là môn chứng Đạo.
ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT
Khai Thị năm 1986, Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.
79
13. BẬC NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ....
Bậc Nhất Tâm Đảnh Lễ, Thân Khẩu Ý giải nghiệp, bậc này thường đánh đổi
thân mạng, niệm niệm tu cầu diệu quả Bồ Đề, không phân biệt, Tâm nhập định đặng
biết chúng sanh chung khắp đều tu, mỗi mỗi tu theo Hạnh mình. Từ nơi giải Tâm,
đến giai đoạn đặng rõ lầm mê, nguồn mê nó như thế, Tâm trơn liền không còn
chướng ngại tu đạt Vô Ngại Đại Bi Tâm, nương nhờ Công Đức, vượt hẳn thế gian
Chứng Tri Bình Đẳng. Hồi Hướng Công Đức siêu thoát Tâm tỏ rõ Diệu Pháp sở đắc
Diệu Quang, Sát Trí, Nhất Thiết Trí thành tựu Chánh Giác. 
Thiền Sư vừa nghĩ đến đây. Ngài rời khỏi tảng đá đang ngồi, đứng lên, chân
bước đi, miệng lẩm bẩm: Dại thật, dại thật, cho những bậc lầm mê, trên con đường
Diệu Quả. Thường Tưởng tức Phi. Thường Tình tức Đọa, mãi gìn giữ năng sở thường
tình, mộng ảo Tri Kiến Giải Thoát, lề thói thường tình ưa thích tất cả mọi người chiều
chuộng tâng bốc an vui, hơn Tâm tự tạo nguồn vui bất tận. Nơi thường tình nơi sống
quần chúng thường sống phẳng lặng mơ hồ, như con người sống của con người như
thế. Nếu Bậc vươn mình cao cả hơn, không mong cầu chỗ thường tình làm quan hệ,
cũng chẳng cho nó làm tầm thường, miễn cao hơn thường tình, hơn tầm thường, nơi
mình đang trụ chấp biết chỉ trích, chưa tự xét mình, chính mình tầm thường hơn ai
hết. Biết suy, biết xét, chưa thực hiện mình đang biết, đây chính là Con Bệnh thường
vấp phải.
Đối với Ta, thật biết tỏ rõ nó như thế, nên không vướng mắc, đầy đủ chủ lực
nguồn sống, thật là cuộc sống Huy Hoàng trước mọi sự việc, kể cả gay hấn, nghịch
ngợm bằng phương thức nào, vẫn có sự sống Bất Diệt nên chi sự sống thông với sự
sống của tất cả không có khoảng cách nhau, vì vậy nên chi không có Đoạn Dị Diệt
vạn pháp suông chảy, tâm vui vẻ thoải mái trơn liền, đương nhiên sự sống nó sống. 
Thiền Sư vừa nghĩ đến đây, nở nụ cười thoải mái. Ngài nói: Ta và tất cả sanh
ra để làm gì? Để Ăn, để Mặc, để Sống ư? Thật vớ vẩn nơi vớ vẩn, chịu nơi khuôn khổ
thường tình vạy vọ lâm nơi tầm thường bị sút kém thua thường tình, thì làm sao
thông cảm sự sống, cùng nhau thoải mái? Đứng nhân cách tầm thường hay thường
tình kẻ ưa thích chỗ này, người lại ưa nơi nọ, có những mong đợi hoài vọng khao
khát, tâm trạng khác nhau. Khi bước vào con đường tu Phật, chưa đủ Công Đức Công
Năng để giải tỏa lòng tham vọng đang còn, các khía cạnh nơi nghiệp Tham. Không
Tham Lam tiền bạc, vẫn tham vọng đủ chiều hướng hư danh, Tu vấp phải qua nhiều
nghiệp thức. Bậc bình dị nương Vô Ngã để tu, khỏi tham mơ vọng đảo, lầm ngã giả
tướng, Minh Tâm đến không dị biệt thoát sa đọa.
Thiền Sư đưa tay hái cành lá, Ngài ngồi lại tảng đá, nét mặt cảm mến như
nhiên. Ngài nói: Tướng Giải Thoát từ lâu. Cây cỏ núi sông, Hoa quả vẫn làm tròn
Bổn Phận dung dưỡng nhân loài. Nay Ta nói lên Tâm Hồn Giải Thoát. Thế nhân mấy
Ai biết đặng Ai? Họ chỉ nhìn nhau bằng đôi mắt tầm thường. Ta chỉ biết Ta là đủ. Vì
sao? Vì nó như thế. Khi Đức Thế Tôn đang còn tại thế. Chưa chắc nhân sinh nhìn
80
đặng Ngài Vô Thượng, Ngài đã từng công bố, chưa hẳn có bậc đã tin Ngài. Lúc bấy
giờ tinh thần Tối Thượng Quả Vị Đẳng Đẳng Giác. Chỉ Ngài thấu Ngài mà thôi. Ngài
nhập Niết Bàn lời Vàng sáng rạng, Ngôn Từ trở lại Bảo Châu. Cao Qúy thay! Vô
Lượng Công Đức Phẩm thành Xá Lợi.
Có lẽ, có lẽ. Bổn phận Đức Chí Tôn đã tròn Bổn Phận. Nay Ta tiếp tục phải
làm tròn, miễn tất cả Nhân Sanh ưa chuộng xem với Tâm Hồn giải thoát vẫn toại
nguyện không khác. Đức Bổn Sư thành Phật Chánh Giác. Ngài nói: Bá Thiên Vạn Ức
Phật Chánh Giác. Nay Ta thành Phật Chánh Giác. Nào Đức Ngài Tuyên Minh Ngài
Chánh Giác thành Phật mỗi một mình Ngài đâu. Đối với Ta vẫn như thế, các bậc
đang tu, đồng tu đến mức độ như Ta cũng có Thế Giới Hải bậc như Ta, bậc đồng
nguyện rộng rãi phát tâm Hồi Hướng Công Đức Phẩm, Ta tuyên minh cho tất cả, các
bậc tu cầu Diệu Quả phải Hồi Hướng Công Đức Cúng Dường Như Lai chính lời này
Tối Thượng.
Thiền Sư nhìn hư không không tận. Ngài nói: Hư Không như nhiên hay dĩ
nhiên? Thế nhân thường tình hay tầm thường. Đó là dĩ nhiên do Tâm chưa thoan
thoát, Tâm Chí hay Thân Tâm chỉ Định, viễn tượng như thế nào thì nó ra thế ấy. Phải
chăng hiện tượng Giác Minh hay viễn tượng nó ra như thế. Cuộc mơ hồ mãi diễn tấm
tuồng lầm mơ, lúc đã lầm mơ, thời mãi lầm mơ phải tu cho tận cùng lầm mơ, sạch
lầm mơ mới trở về Tự Tánh tự tánh vẫn chưa đủ, phải Tỏ Tánh Minh Tâm mới hay
Chơn Thể Hư Không tận tận kiến diện Phật Tướng. Bồ Tát phát tâm dũng mãnh, tu
nơi Tâm dũng mãnh, Tối Thắng vạn cảnh cách ngăn. Chí Không nhàm chán, năng lực
bồi dưỡng thêm đến giai đoạn Trí Lực. Trí Lực là một Trí chúng sanh vô biên thề
nguyện độ. Trí này chịu đựng tất cả, tùy thuận tất cả, dung hòa tất cả, nhiếp thâu tất
cả trưởng thành Nhất Thiết Trí.
Lại nữa: Trí Lực Công Đức Phẩm cúng dường Như Lai Phật. Trí Lực trải qua
vô tận thế giới Đại Hải Trí thành đạt Nhất Thiết Trí. Trí Lực khó giải hết đặng, dù
mang tất cả Tam Tạng Kinh để tán thán Công Đức Phẩm. Bồ Tát độ sanh trải qua
hằng hà sa số kiếp, mỗi kiếp có Vô Lượng Công Đức thời Công Đức ấy nhiếp Trí,
nhiếp Tuệ, sáng soi khắp Diệu Quang, Phổ Quang, hằng hà sa số Quang, thành đạt
Năng Lực, Tìm Lực, Chủ Lực, Nhẫn Nại Lực, Bất Thối Chuyển Lực, Tận Tận vượt
tầm bên kia lực mới có Nhất Thiết Lực tận tận hoàn Chánh Giác. Thiền Sư nhìn Hư
Không tận tận cũng thế. 
Thiền Sư nét mặt thay đổi theo chiều hướng. Ngài nói: Vạn Pháp hằng hà sa số
vô biên trùm khắp nguồn mê mãi diễn bất tận, lúc đang lạc lõng lầm mê. Trí thời Đại
Hải Vô Tận, Bậc tu Phật nhỏ bé tựa như con thuyền bé nhỏ trên biển Như Lai vô tận,
làm thế nào giải thoát độ nhân sinh? Nếu sớm biết điên đảo viễn vong tu cầu mộng ảo
về với Thành Thật Tâm. Thiết Tha Tâm cùng Thù Thắng Tâm. Ba Tâm cứu vãng
chẳng biết bao nhiêu bậc Giải Thoát. Thế nào kết quả Thành Thật Tâm? Bậc tu thành
thật với Thân Tâm mình, xây dựng Đức Trí, Phước Báo, Phước Thiện, Thiện Căn,
81
Thiện Chí Nhất Tâm đảnh lễ. Miễn tâm tình phục vụ Thiện căn. Giúp đỡ mọi người
không cầu báo, cứu vãng mọi người không cầu đáp. Lời ngay thật khuyên can,
khuyến khích làm cho chẳng đoạn duyên Phật. Vì tất cả mọi lớp người hơn mình,
miệt mài chu toàn, Công Đức Công Năng thật tu đối với tinh thần, xét lỗi lầm không
lầm lỗi thành thử không kinh sợ phạm lỗi phạm giới. Thị chứng Hoan Hỷ Địa. Hoan
Hỷ Địa Hành Thâm Pháp Giới ra vào Pháp Giới làm lợi ích chúng sanh không nhiễm
giới, trải qua các thuận nghịch Tâm không kinh sợ, hoan hỷ vì Thiện Căn cứu giúp
xây dựng cho tất cả lìa ngã, nương theo Vô Ngã để tu không làm tổn thương Công
Đức, bồi dưỡng Công Đức Hồi Hướng Cúng Dường. Do lẽ ấy nên chi Cấu Ly là món
ăn trong sạch Vô Ngại Đại Bi Tâm. Vì sao? Vì Thành Thật là Chơn Tâm, Vốn Chơn
Thể vạn pháp, vạn pháp trong sạch, cấu ly, ly cấu đều trong sạch. Chỉ chưa trong sạch
bởi Tâm Thức qua qua lại lại, dị biệt năng phân bị biệt lầm lẫn mê ngộ làm sao tĩnh
giác? Bậc Hoan Hỷ Địa thâu nhận Tâm Địa Quán nơi chúng sanh, bậc này thường
quán chúng Bình Đẳng, nhìn nhận nơi Bất Bình Đẳng đã lầm lạc chúng sanh. Tâm
chưa thông vì năng sở chấp. Bậc Hoan Hỷ Địa, Tâm Hoan Hỷ, Tánh Hoan Hỷ, Thiện
Căn Giác Trí Hoan Hỷ, thấu đạt Tự Tánh giao cảm Chơn Tâm? Vì sao? Vì Thành
Thật Tâm, Thiết Tha Tâm Thù Thắng tất cả nên không có năng sở kiến tri thành thử
không còn lấy một chấp.
Thiền Sư chống tay, bàn tay nâng lấy trán. Ngài gật gù nói: Chưa Thành Thật
Tâm, làm sao thiết tha tâm? Đã không thiết tha làm chi có Thù Thắng? Ba điểm này
là một khởi đầu Công Đức Phẩm, Công Đức Phẩm chưa có Thù Thắng Tâm thì Công
Đức nọ trở thành Công Đức cầu Báo Phước Báo Nhân Thiên. Công Đức Hồi Hướng
mới là Công Đức Thành Thật Thiết Tha cúng dường Như Lai Phật.
Thiền Sư nhìn theo cành cây, gió đẩy đưa, cành cây theo chiều gió đưa đẩy.
Ngài nói: Con đường tu cầu Diệu Quả Bồ Đề, Tri Kiến Giải Thoát, tu không thể nào
Tăng hay Giảm thiếu hoặc dư, cũng không thể nào ôm lấy hay vứt bỏ. Cũng như
thiếu kém thời phải bổ sung, còn Tăng lên, đương nhiên giảm xuống, nó có qua có
lại, có tới có lui, mới thông đặng con đường lui tới, tới lui. Tâm không nhàm chán sở
đắc từ Nhân Địa, Thiên Quan, Nhãn Tịnh, Quân Minh Trực Ngộ. Bằng nghiên cứu,
khảo cứu, viễn vọng, hoài vọng, lý trí đến cơ bản được gọi Đắc Chân Lý, không thể
nào ôm ấp chỗ đắc ấy để đứng yên. Vì sao? Vì chân lý Vô Sở Đắc, chân lý con đường
tu cầu, theo chân lý đến Chánh Giác nào phải chân lý hoàn toàn giác ngộ đâu? Gọi là
không ôm lấy hay vứt bỏ, không bỏ cũng chẳng lấy. Nếu Tâm còn nghi ngờ, Trí chưa
khoát đạt, thì phải Y Tôn Tam Tâm Công Đức Hồi Hướng, đến Bát Nhã Tâm kinh tu
hành, chớ nên dừng trụ.
ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT Khai Thị năm 1986, Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi
chép lại.

82
14. BỒ TÁT GIẢI NÓI XONG ÊM LẶNG
Bồ Tát giải nói xong êm lặng, sau Ngài tiếp: Nhẫn Nhục, Trí Tuệ Thiền Định.
–Trí Tuệ Nhẫn Nhục Thiền Định nầy khai hoang Trí Tuệ phát triển. Nhẫn nhục có hai
lối: Lối thứ nhất Bị Nhẫn Nhục. Lối Thứ Hai: Bậc có Bản Năng Điều Ngự Bản Thức,
dụng nhẫn nhục kiềm chế Tâm Thức khỏi dục vọng, tranh giành hơn thua mà nhẫn
nhục vì nhẫn nhục lìa ngã, ngã sở, đúng với tinh thần Trí Tuệ Thiền Định, vì sao? –Vì
Tâm Thức động vọng, Thiền định là Tịnh Tâm, đã Tịnh Tâm Trí Tuệ. Trí tuệ lìa tất
cả nhận thấu tất cả, Trí Tuệ không mắc miếu nơi đâu, thì đâu đâu thảy đều tận thấu.
Còn phần tâm thức động vọng từng hồi, hồi nào cũng phải lần quấy tùy chúng sanh
phải quấy, nào do nơi tâm, tuy nói tâm đặng mà không đặng mảy may nào cả, chỉ
cuồng quay Tâm Thức mà thôi.
Tịnh Tâm Thiền Định vốn chung Trí Tuệ. Không Tịnh Tâm Trí Tuệ vẫn
không. Không Thiền Định nào phát huy Trí Tuệ? Bậc tu phải có Bản Thức kiềm chế
Tâm Thức. Bản Thức phải có yếu tố năng lực kiên trì Chí Dũng thù thắng Tinh Tấn
Bất Thối Tâm, Nhẫn Nại Bất Chuyển Bồ Đề, đánh đổi qua từng giai đoạn tu chứng,
từ Phàm Phu trưởng thành Thánh Ý, Tri Kiến Giải Thoát.
Lời vàng hướng dẫn chỉ dạy. Nghe đặng là khó, nghe đặng thực hiện chưa
đặng phải Kiên Trì Thực Hiện đặng càng khó hơn, vì sao? Vì nghe đặng, nhờ dẹp
điên đảo loạn tưởng nơi Tâm Thức mà nghe đặng, còn thực hiện chưa đặng vì yếu
kém thực lực công năng, nên chưa thực hiện đặng. Bậc tu phải cần tu hơn thế nữa
mới thực hiện đặng. 
Đương thời cuối thế kỷ hai mươi, cận kề hai mươi mốt đa số tu tự tánh tỏ tánh
nghiên cứu nhà Phật cũng khá nhiều. Phái Thiền Tôn ưa chuộng không ít, có nhiều
nước thành lập cơ sở khang trang, nhiều nơi Tu Thiền cần trí tuệ, vừa nghiên cứu vừa
Tu Thiền hoặc Tu Thiền Dưỡng Sinh, Tọa Thiền Võ Đạo Thần Giao Cách Cảm.
Những chỉ tiêu Tu Thiền trên thảy đều trực thuộc về Nhân Thiền hay Nhân Thiên
Thiền là tốc độ cao nhất. Vì sao? Vì Thiền Dụng Tâm Thức mà Tu Thiền chưa Trí
Tuệ Cứu Cánh Thiền. Trí Tuệ Cứu Cánh mới là Như Lai Thiền Tri Kiến Giải Thoát.
Phật Đạo mục đích đưa Tín Chúng giải thoát. Phật đã từng nói: Tướng giải
thoát từ lâu, Tâm chúng sanh mắc miếu chưa giải thoát. Nên chi Tu Thiền đặc điểm
về Tâm truyền Tâm Liễu Ngộ. Khi đang Tu tập Thiền Tọa chớ nên chấp trụ trụ chấp,
lâm vào Tâm Thức đảo điên cuồng vọng. Hành giả có đầy hiểu biết năng khiếu, kiên
trì Chí Dũng lập trường mới tu Thiền đặng.Vì sao? Vì dụng Bản Thức cai quản Tâm
Thức, lìa Thức hồi Tâm, có nghĩa lìa vọng về Chân sở đắc Trí Tuệ Tâm. Tại sao Trí
Tuệ Tâm? Vì Tâm độc lập trơn liền, chen lẫn Thức trở thành Tâm Thức, Thức thời
động vọng trở thành Pháp, Hành Giả Tọa Thiền tỏ Pháp, Thức không còn, Tâm về
với Tâm nên gọi Trí Tuệ Tâm. Tu Thiền chủ yếu phát Trí Tuệ Cứu Cánh, ấn quyết
tâm, tuệ phát trực nhập đắc tâm, trực ngộ Chân Giác, lìa Chân Chánh Giác, tu như thế
Như Lai Thiền.
83
Tôn Phái Thiền. Tùy theo Tâm Thức của mỗi hành giả mà hướng giáo, không
tùy thuộc học hỏi Văn Tự Tu Thiền, vì Thiền Môn không tự. Bậc Thiền sư thấu đạt
Tâm Thức lưu động phiên diễn tất cả, nên tùy nơi mỗi hành giả lập Tông Ấn giáo Tu
Thiền. Các hành giả bổn phận Tín Hạnh Nguyện bất thối tự lập phát huy Thiền Tông.
Tu Thiền không có cấp bậc nào mà có cấp đẳng Thiền. Phái Thiền có Chủ Thể. Chủ
tánh Thiền Tôn đi sâu Bản Năng tìm lực chủ trì phổ chiếu làm con đường Giác Ngộ,
bản năng tự lập duy nhất. Có ý nghĩa vạn Pháp duy tâm. Vũ Trụ bản thể thân tâm duy
nhất không hai. Dưới mắt Thiền Sư, thấu đạt tất cả, tất cả đều Thiền Sư, ngoài không
có Từ Ngữ nào giải đặng.
Thiền Tôn một Giáo Môn cực điểm đánh đổi mê lầm về với Giác Ngộ Tận
Giác. Khi hành giả nhập Môn Tu Thiền Vị Thiền Sư chứng minh nhập môn. Lễ nhập
môn xong, hành giả tu tập Thiền Tọa, tối đa hai thời Thiền Tọa, ngoài ra vị Thiền Sư
giáo huấn từng vị hành giả riêng còn nghi luật thời Tâm Khẩu Ý, kiểm soát Thân
Khẩu Ý kín nhiệm, mỗi tháng hai lần phát hiện Tâm Thức, mãi mãi từ ba năm đến
bảy năm lúc nào tỏ ngộ nguồn mê nơi Tâm Thức, thường chấp, thường trụ hoặc hay
trụ chấp thiệt hại như thế nào, đâu đó sạch sẽ, lúc bấy giờ mới làm Đại Lễ Nhập Lưu.
Nhập lưu mỗi một hành giả, biệt lập ở riêng mỗi vị một cái Cốc, công phu Thiền Tọa.
Tứ Thời Công Phu. Trước khi vào lưu cốc, các vị thảy đều Thề Nguyện. Có vị thề:
Tu chưa Đắc Đạo, thề chưa rời khỏi cốc.
Tinh thần Tín Hạnh Nguyện tọa thiền. Tôn Phái tu thiền cực điểm. Khi đã hiểu
sâu lý sự lầm mê do nơi Tâm Thức, dùng Bản Thức cực điểm lời nguyện tinh thần bất
khuất giải trừ Thần Thức Viễn Vong trở về với Nhất Tâm giải thoát. Thiền Tôn tận
dụng Hiển Giáo Mật Tôn gọi là Viên Giáo, Tiệm Giáo, Đốn Giáo là bước tu toàn
diện, đầy đủ viên dung Tri Kiến Giải Thoát. Đa phần thời Hạ Lai nầy nhiều bậc chưa
thấu đáo. Tu Hiển Giáo chuyên ròng Hiển Giáo. Tu Thiền quan trọng Mật Tôn Siêu
Hình Vạn Tượng, Tu ròng Thiền Học Đốn Học, Tu Tiệm gìn giữ Tiệm, nếu không
chung kết, tổng hợp làm thế nào Liễu Đạt Chánh Giác.
Đặc Điểm Thiền Tôn, Bậc kém Tọa Thiền, đảo điên động vọng, nơi động vọng
đảo điên trực thuộc Tâm Thức, dụng Bản Thức ngự chế động vọng đảo điên. Khi
hành giả tọa thiền khá đặng Tịnh Tâm, nhờ Tâm Tịnh thời Tâm Thức cải hóa, trở
thành Thần Thức, Thần Thức Tâm Thức thảy đều trong vòng mê loạn tham muốn.
Một bên Tâm Thức do Thân Tâm, còn một bên Thần Thức, Tâm Hóa tinh thần lung
lạc nên gọi là Thần Thức lưu hành qua từng vọng tưởng. Thiền Tọa phải kiên trì
không trụ xứ Thần Thức, Bản Thức vẫn ngự chế không trụ xứ Thần Thức, Thiền Tọa
di chuyển chung khắp, các cảnh giới các cõi, Thiên Biến Vạn Hóa làm cho hành giả
ưa chuộng mà trụ xứ, hành giả có trí tuệ Huệ Nhãn tránh khỏi lầm lạc. Bằng chưa tu
đạt đến, không nên tu, không nên chấp trụ một pháp nào, vui mừng Tự Ngã một Cõi
nào, bằng chấp trụ đều mù quáng. Miễn ngự trên Thần Thức di chuyển khắp khắp

84
Tam Thiên, Đại Thiên Thế Giới, bất luận cao thấp cảnh giới thảy đều nương nơi
Thần Thức tỏ ngộ Thần Thức Thiền Tánh.
Nơi Nghe Thấy Biết Bình Đẳng, nhưng Bất Bình Đẳng, giai cấp trình độ. Có
tu, chưa tu, có chứng, chưa chứng, kể ra không hết đặng. Khi nghe, lúc thấy, được
biết cùng chưa đặng biết sai biệt nhau. Tận Giác Chánh Giác Đồng Đẳng nhau. Tu
Phật Đạo Phật rất Bình Đẳng vì lầm mê Giác Ngộ xa cách nhau khó diễn giải, khó
nhận lãnh, được gọi là Bất Khả Tư Nghì, khó nghĩ bàn.
Bậc Thiền Sư: Dưới sự nhận định, xa cách hẳn Bậc Hành Giả đang tu Thiền
Tọa. Vì sao? Vì Bậc Thiền Sư nhìn nhận Tổng Quát, do đó Thiền Sư nói: Một nơi
phải, hoặc cái phải của một chúng sanh cho là phải, trong giờ phút đó Vũ Trụ Tam
Thiên Đại Thiên Thế Giới có hàng Bá Thiên vạn triệu chúng sanh đồng cho phải, gọi
là Thế Giới Hải Phải. Mỗi một chúng sanh cho là Quấy, thì liền có Bá Thiên vạn triệu
chúng sanh cho là Quấy, gọi là Thế Giới Hải Quấy. Khi Đức Phật thọ ký Bá Thiên
vạn Phật đồng thọ ký. Mỗi một vị đắc chân lý liền có Bá Thiên vạn triệu đồng đắc
chân lý, gọi là chân lý Hải. Một Bậc Đạt Vô Thượng Đẳng, liền có Bá Thiên Vạn
Triệu Bậc Tu Đạt Vô Thượng Đẳng, gọi là Thượng Đẳng Thế Giới Hải.
Từ chốn Tâm Thức lầm mê, có Bá Thiên Vạn Triệu lầm mê nơi Tâm Thức, vô
lượng vô biên đại mê, cuồng mê, vọng mê Tâm Thức Hải. Bản Năng phải ngự chế
xem xét lỗi lầm, qua từng cái Mê sạch sẽ hết thức giải mê Giác Ngộ. Từ nơi, Tâm
Thức Hành Giả Tọa Thiền trở thành Thần Thức, Thần Thức rộng rãi bao la, thanh
thoát cực điểm, Đại Lung, Đại Lạc, Đại Cường, Đại Vĩ, lên xuống cuồng quanh,
Thiên biến vạn hóa theo Chơn Thể Pháp Tánh. Hành giả lầm nhận vui mừng an trụ
hoặc giả ưa chuộng thích thú cho đó cực điểm không ai bằng, liền thọ chủng Thần
Thức lâm vào Ngoại Giáo.
Bằng bậc kiên trì tận thấu Tâm Thức liệt hạ tranh giành, Thần Thức tham lam
Đại Vọng, không Nhiễm chẳng Lìa, Tròn Giác. Ví như bậc đã tự mình phát hình nhìn
xem vũ trụ thuyên diễn, một tấm tuồng mê ngộ, Chánh Giác. 

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT,


Kỷ Niệm Trung Thu năm Bính Dần 1986.
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

85
15. HÔM NAY ĐÚNG BẢY NGÀY...
Hôm nay đúng bảy ngày, Thiền Sư niệm niệm Kinh Đàn đi vòng dưới Chân
Đồi, niệm niệm từng bước một. Cầu Chư Phật Chư Bồ Tát nguyện giúp đỡ cho tất cả
chúng sanh phát Bồ Đề Tâm đặng Trí Tuệ Cứu Cánh. Trí Tuệ Viễn Đạt, tu cầu Tri
Kiến Giải Thoát. Chương trình kinh đàn này, mỗi ngày Kinh Đàn một vòng, bảy ngày
Kinh Đàn bảy vòng, xong Tĩnh Tọa Minh Thuyết Phật Ngôn. Thiền Sư Nhất Tâm Vị
Tha, Chí Nguyện Tha Lợi, chung khắp Pháp Môn Giải Thoát. Vì sao? Vì Ngài thật rõ
thấu Tôn Chỉ Mục Đích Tu Phật. Bình Đẳng Dung Hòa, Dung Thông Sở Đắc, không
pháp môn nào lớn nhỏ cao thấp tuyệt đối không hai. Vì Bất Bình Đẳng do lầm mê, dị
biệt khoảng cách, thành thử Bất Đồng có vô lượng, vô biên, hằng hà sa số chướng đối
ngăn ngại nhau, nên chi trở thành chúng sanh, khó nghe, khó nhận, khó hiểu làm thế
nào biết đặng lời Phật Ngôn: Bình Đẳng Đại Hải cho đến Đại Hải Chúng, Thế Giới
Hải, Chư Phật Hải, Bồ Tát Hải, Chúng sanh Hải. Khi Đức Phật đang còn ngôi Bồ Tát,
Ngài phải tu tánh Bình Đẳng đối với chúng sanh mà sở đắc Bình Đẳng Tánh Trí,
dụng Tánh Trí chủ quán đồng đẳng chúng sanh, sở đắc Pháp Nhãn. Hồi Hướng Công
Đức không nhàm chán tu đạt Diệu Quang Sát Trí. Nhìn hàng Bồ Tát Trí, soi lại
chúng sanh trí, bên Bồ Tát thoát sanh hóa độ chúng sanh, còn phần chúng sanh
thường chấp ưa trụ nhỏ nhen eo hẹp, Bồ Tát vị tha cứu độ, hóa độ, thân tâm Bồ Tát
chung cùng chúng sanh trưởng thành Đại Viên Cảnh Trí tu Nhất Thiết Trí thành Phật.
Khi bấy giờ Phật nói: Chúng Sanh Chư Phật không riêng khác, chỉ Mê Ngộ mà thôi.
Nói đến tư thế Thiền Sư. Ngài đang ở ngôi chùa tháp mục nát, ngọn tháp mất
chỉ còn nền tháp. Ngài che mái chùa bằng lá, chính giữa làm Chánh Điện, có Tượng
Phật, bàn Phật bằng vôi. Đức Phật Bàn Phật lâu năm đã phai màu cũ kỷ. Ngài chỉ có
chõng tre, chiếc bàn nhỏ, tấm kệ để kinh, chiếc giường đóng tạm, đồ đạc đặt ở nhà
Tây. Ngài thường ngồi nhìn xóm làng xa xa ẩn hiện chen lẫn vườn cây rừng lá. Đời
Thiền Sư duy nhất Bộ Đầu Óc mới mẻ, tinh thần khoát đạt bình dị Như Lai Phật thoải
mái.
Thiền Sư Ngài đi kinh đàn xong trở về, Ngài bước lên tam cấp, từ chân đồi đến
sân chùa tháp, có trên năm mươi cấp bước của Ngài. Vừa đến sân hai Chú Tiểu chạy
ra đón bái. Thiền Sư giao cho hai chú, mỗi chú một phần việc, Bao Đãy và chiếc gậy.
Ánh nắng đã lên cao. Ngài thay áo, ngồi vào chiếc chõng, dùng tách trà chậm rãi tôn
nghiêm. Ngài nói: Tuyệt thay! Đức Thế Tôn Ngài đã từng đánh đổi tất cả Tâm Huyết,
lời Vàng lưu lại đời đời nhắc nhở từng bước tu nhỏ, cho đến Đại Lực, Đại Hùng,
Kiên Nhẫn, Kiên Trì trong Tam Tạng Kinh Điển, từ lầm mê trưởng thành Giác Ngộ
không thiếu sót. Các Bậc tu không biết lấy chi tán thán báo ân cho xứng đáng.
Thiền Sư êm lặng đưa đôi mắt vô tư, khuôn mặt trầm tư của Ngài khó diễn
giải. Ngài ngước mặt lên in tuồng bày tỏ cùng ai nỗi niềm tâm cảm lời Bảo Sám, lời
Bảo Sám vừa tri ân Chư Phật, vừa minh thuyết lời vàng. Ngài nói: Có Tỏ Tánh (sửa
Tánh) mới Minh Tâm. Có xét lỗi lầm, không lầm lỗi. Có Hạnh Nguyện mới có phát
86
Tâm. Có Hành Dụng đặng chu đáo. Hành Dụng chưa tu Tứ Nhiếp Pháp Lục Ba La
thì chưa Hiền Hòa thấm nhuần Đạo Pháp, đã chưa thấm nhuần Đạo Pháp làm sao có
Từ Tâm, làm sao sáng soi Nghiệp Thức mà Giác Ngộ? Tứ Nhiếp: Đồng Hành Nhiếp,
Đồng Sự Nhiếp, Ái Ngữ Nhiếp, Vị Tha Nhiếp. Bậc tu chưa thực hiện Bi Chí Dũng,
tựa bằng xác chết chưa chôn, lười trễ đứng yên, khó qua trở lực vạn ngành pháp giới.
Nếu chẳng thông Giới Định Tuệ thì vô minh, làm thế nào lãnh hội lời vàng Phật dạy?
Bằng chưa Tín Hạnh Nguyện, Ba La Mật Đa, nằm yên bất di chuyển, nương nhờ
Pháp Giới cải tạo hoàn cảnh đón đưa thần linh phù hộ, lâm nơi tu cuồng tín.
Thiền Sư vừa nói đến đây, Ngài ngã mình trên chiếc chõng dưỡng thần một
lúc. Chú tiểu đã thay tách trà hai lần, Ngài ngồi dậy, nhìn về hướng Chánh điện tiếp
nói: Tu hành không tự thân chí nguyện sửa sai lung lạc, chính mình phải vãng sinh
nơi mình, không ai mang ngộ đến cho, giải mê mình đặng. Bậc tu tận lực giải nghiệp
thức, căn trần, cấu ly, cấu nghiệp, ly nghiệp, ác tâm, ác ý, ác nghiệt, do Thân Khẩu Ý
tự mình chướng đối, nghi ngờ bị biệt đủ hình thức lầm lạc vô cùng. Lúc phát tâm tu
Phật Tự Tâm hóa giải, từ nơi nhỏ bé trưởng thành rộng rãi, Đại Hùng, Đại Lực, Đại
Từ Bi. Bằng chưa phát tâm, dung dưỡng xem kinh pháp không giải vô minh, dù cho
xuất gia tu chùa hoặc giả tu núi bao nhiêu năm chăng, cũng chưa có một ngày tu.

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1986.
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

87
16. THIỀN SƯ TỪ MÁI CHÙA TÂY BƯỚC RA...
Thiền Sư từ mái chùa Tây bước ra sân Chùa Tháp, Ngài ngồi trên phiến đá ở
góc sân, nhìn dưới chân đồi suy nghĩ thời pháp Sự Vật Hóa, Hữu Sanh Hữu Tướng,
sống chết diệt sanh hóa thay đổi, đổi thay tứ loài chung khắp Bản Thể Tam Thiên
rồng, người sinh mạng hóa, lý trí hóa, cho đến công lực công năng tự lực tinh thần
vật chất, kiến tạo sáng lập không ngoài sự vận chuyển hóa. Tất cả thảy đều Hữu Sanh
Hữu Tướng Hóa, Hữu Sanh Hữu Vật Hóa, cho đến cây cỏ núi sông, sanh nở không
ngừng hóa, có hóa nên mới có hằng hà sa số các Cõi, Cảnh Giới, Chư Thiên Tiên
Giới, Thần Giới, Thánh Hóa Giới. Cõi nào lối sống theo Cõi nấy. 
Cảnh giới thế giới nào sinh sống nơi thế giới nấy, giới bị sống, không ngoài
Chánh Báo Thọ Báo trong giới, gọi là Chúng Sanh Giới.
Thiền Sư nở nụ cười khoan khoái nói: Tự Hóa -Vật Hóa -Thần Hóa, ba hệ
thống chung gồm nhau, trở thành một. Chúng sanh vẫn có sẵn Tự Hóa khắp khắp,
quán soi Vật Hóa đến tinh thần đào tạo Hóa, thành ra mới có từng trình độ, giai cấp
hóa trong vòng giới hạng hóa sanh.
Thiền Sư êm lặng nhìn trời Tây tiếp nói: Vòng Đai Pháp Giới, riêng mỗi một
chúng sanh đều một Dụng thọ trì một Giới, biết yên phận không gây hấn nhau thời
chẳng cách chi để giải nói. Vì sao? Vì thọ trì là đã chấp nhận, nhận lãnh làm chúng
sanh giới, chúng sanh an hòa, sống yên trong Giới Dụng, khi biết rõ giới dụng nơi
mình, liền đặng biết Giới nào Dụng nấy, miễn thực hiện Tròn Dụng là xây dựng Tịnh
Độ Giới cho mình. Bằng toàn thể thực hiện đồng hiện Tịnh Độ Giới muôn phương
Bồ Tát cúng dường, còn chi là Giới hay chúng sanh thọ giới nữa. 
Nhân vật thì không thiếu nhân vật có hai hạng Nhân Tài cùng Thiên Tài, Bậc
Thiên Tài phát triển thành Thánh Nhân, Thánh Triết chẳng hạn. Bậc Nhân Tài phát
triển thế giới Vĩ Nhân hiện đại. Bậc có Tài Đức rất hiếm, có Tài chưa có Đức vẫn
Nhân Tài thường nhân. Trí cùng Đức nó nâng Nhân Phẩm con người, dù có Tài cho
mấy chăng vẫn không qua được Đức điều hành Trí, Trí kiểm chứng Đức trở nên an
nhàn sung sướng nhất trần gian.
Thiền Sư nói đến đây nhìn cảnh trời mây bao la vô tận, chỉ có Tâm Hồn mới
kiểm chứng trời mây, nỗi niềm Ngài đã từng bày tỏ thăng trầm chịu đựng bước
đường tu chứng trời mây cùng Thị Chứng. Nên chi Ngài nói: Từ nơi Tinh Thần cao
đẹp sạch sẽ, thì Tự Tánh không ngã về một bên: Tự Hào, Tự Ái, Tự mãn, Tự Tôn.
Khi bấy giờ mới Sự Hóa Vật Hóa thảy đều trong sạch bình thoảng: Tự Hóa sẵn Bình,
Vật Hóa chứng tri Tri Kiến, thì Thần Hóa dung thông Giải Thoát khổ ách nơi chốn
lầm than khổ đau. Sự Hóa Vật Hóa Tự Hóa Vật Hóa Thần Hóa là Ngũ Uẩn Giai
Không. Độ Nhất Thiết Khổ Ách, không ngoài vạn pháp như Huyễn Hóa.
Ngài trầm ngâm thẩm xét. Vũ Trụ bao la rộng lớn Bản Thể lại vô biên, còn
pháp thân hàm chứa hằng hà sa số vô lượng vô biên chúng sanh giới. Pháp thời trùng
trùng duyên khởi diệt sanh, sanh diệt không ngừng, chúng sanh lầm Ngũ Uẩn trụ
88
chứng nơi Huyễn Hóa cầu an, làm cho Vũ Trụ Bản Thể dẫy đầy Pháp Giới Vô Minh,
không thể lọt một mũi kim hay sợi tóc tìm ra ánh sáng Trí Tuệ, làm thế nào Giải
Thoát hoàn Chân Thiện Mỹ với chúng sanh? 
Thiền Sư nói: Hỡi các Thiện Chân Tử! Bậc Cầu Đạo Bồ Đề nên có Tinh Thần
Tín Ngưỡng, nên Y Tôn Y Chỉ lời dạy Phật Tôn, chớ sai đường lệch hướng tinh thần
tín ngưỡng. Vì sao? Vì tất cả Sự Hóa Vật Hóa cho đến tu cầu chưa có tinh thần tu học
chưa bao giờ tu đạt đặng. Tinh Thần là một khởi điểm đầu tiên đến cuối thành công
Thần Hóa, từ thờ ơ đến Chí Dũng Hóa, từ lười trễ biếng nhác, đến tinh tấn siêng
năng, từ chưa tìm ra cái sống Tinh Thần Hóa tìm đặng cái sống an vui Bất Diệt. Chưa
có tinh thần Tôn Đạo. Đạo nào Thần Hóa đặng thọ lãnh Giáo Pháp Biệt Tôn Vô
Thượng Đẳng Chánh Giác?
Thiền Sư nói: Vô Minh là gì?
Phải chăng vô minh điều chính chưa biết sanh ra đối tượng chấp, hóa mê, nên
Hóa giải chấp mê, gọi là phá Vô Minh Mê Chấp, nhiếp thâu gần chúng sanh cốt tỏ
thấu chúng sanh, các hành vi thọ ngã Giả Tưởng nhiếp thâu mình khỏi lầm, Giác
Ngộ. Bậc tu cầu Diệu Quả, Nhất Tâm Hóa Giải Nhiếp Thâu, sạch sẽ, Tận Thấu,
trưởng thành Phật Đạo.
Nơi Tự Hóa Vật Hóa Thần Hóa tùy theo thứ lớp giai cấp trình độ chúng sanh
giới Tự Hóa, gọi là tùy nghiệp thức hóa như: Cảnh sanh tình, vui buồn sướng khổ
hóa, tham vọng ưa thích hóa. Bậc tu cầu Diệu Quả lúc duyên khởi Tự Hóa Sắc - Thọ
- Tưởng - Hành - Thức nghĩa là: Sắc, Hình Sắc hay sắc tướng về tiền bạc, công danh,
hiện tướng tiền và công danh. Thọ, tham muốn tiền bạc và công danh, Tưởng tượng
tiền bạc công danh. Hành, hành động theo Tâm Thức đạt cho đặng tiền bạc công
danh, nguyện vọng khởi sanh của mình. Trên đây là lầm lạc Tự Hóa, chúng sanh Tự
Hóa Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là mức đo nghiệp để cổi giải nghiệp. Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức, một điểm Duyên Khởi, Giải nghiệp hay Thọ Nghiệp, Thoát Sanh hay
Thọ Sanh nơi Kiến Dục. Tùy các bậc tu cầu dung lượng.
Tự Hóa không phải tự nhiên như nhiên hồn nhiên hóa, nó là Trực Ngộ Trực
Giác không có văn tự nên mới có Liễu Ngộ, Đại Ngộ, Nó nương nhờ Tinh Thần
Công Năng Sở Đắc Chứng Tri tu cầu Diệu Quả Hiện Sinh Hóa. Thiền Sư gật đầu nói:
Đa phần các pháp môn chỉ có Thiền Môn chiếm trọn Tự Hóa Vật Hóa Thần Hóa mà
thôi. Vì sao? Vì phải tu Tịnh Tuệ là Thiền Môn, Trí Tuệ rất cần phát triển từ nơi Tinh
Thần cao đẹp Thần Hóa hiện sanh. Có Trí Tuệ mới Tự Hóa không lầm, Quán soi
không lạc là Vật Hóa thành thử Tự -Vật -Thần Hóa do Thần Hóa phát huy, chưa có
Thần Hóa thì chúng sanh nằm yên tê liệt. Tất cả chúng sanh sống chết vươn mình hay
lười trễ chỉ có Tinh Thần phấn khởi linh động thanh thoát không ngoài Tinh Thần,
Thần Hóa mà ra.
Thiền Môn -Tín Hạnh Nguyện mở đầu bước vào nhập môn, phải Tín Ngưỡng
Giáo Môn. Dụng Hạnh Tọa Thiền gọi là Thiên Hạnh, Thề Nguyện Tu Tọa Thiền Bất
89
Thối. Hành giả Thề Nguyện Tọa Thiền không ly tọa, chưa Đắc Đạo thề chưa lìa khỏi
Cốc Thiền. Thiền Môn là một Tôn nâng Tinh Thần lẫn vật chất, khi Đắc Đạo xong,
tinh thần lẫn vật chất thảy đều tu, gọi là Song Giáo hay Viên Giáo. Không lấy, chẳng
bỏ nơi căn bản không ngoài Rốt Ráo Chánh Giác. 
Phần Hóa chủ yếu có Tinh Thần mới Thần Hóa, Thần Hóa thân tâm thoải mái
mới có Trí Tuệ Tự Giác, Tự Giác mới tự hóa giải nghiệp, nghiệp thì hàng hàng lớp
lớp chúng sanh thảy đều có Nghiệp, Thần hóa từ Nhân Thiên Lục Đạo các cõi trong
Tam Thiên đâu đâu vẫn có Nghiệp, nếu chưa có Trí Tuệ Thần Hóa thì làm thế nào
giải nghiệp khi nghiệp an trú nơi nào phải công dụng nơi hóa giải dù cho tu học thuộc
Bát Nhã Ba La Mật chăng nhưng chưa có Trí Tuệ Cứu Cánh Thần Hóa dung thông
thời Bát Nhã kia vẫn chưa thâm nhập làm sao tu đạt rốt ráo. Thiền Sư nói xong đứng
lên, rời khỏi phiến đá đang ngồi, bước đi về hướng Chánh Điện. Hai chú tiểu chờ sẵn
hai bên, Ngài chiêm ngưỡng Tôn Phật chú nguyện cho chúng sanh nên vun trồng Cây
Bồ Đề Tâm Nguyện thọ giáo lời Phật Vương.

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1986.
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

90
17. THIỀN SƯ TĨNH TOẠ XONG...
Thiền Sư tĩnh tọa xong, Ngài lẩm bẩm hai chữ: Thánh Hiền! Phật Giác! Hồn
nhiên đôi mắt Thiền Sư in tuồng giao cảm mười phương sáng ngời tỏ vẻ vui tươi gật
đầu nói: Thánh bổn tánh Hiền! Phật đại diện toàn chân Chánh Giác nên gọi Thánh
Hiền! Phật Giác! Hai cấp Thánh và Phật. Có Chí Dũng Công Năng Tự Thành Phật
Thánh, nào phải mong cầu xin mà đặng? Về Thánh Xuất thời chẳng thiếu chi, nhưng
hoàn toàn Xuất Thánh rất hiếm. Vì sao? Vì con người chưa vẹn mười điều toàn Mỹ
“Nhân Vô Thập Toàn", dù con người kết nạp bản năng toàn chân chăng Năm Ba Bảy
điều vẫn phục diện học làm Thánh, vươn mình khai hoang làm Thánh Xuất. Thánh
xuất có nghĩa giải nghiệp xuất Thánh, sạch nghiệp Viên Minh liền Tự Xuất, khi thành
đạt không học vẫn Xuất Thánh. Thời Hiền Kiếp Phật Thánh đồng Thể Hiện, có
Thánh Nhân như Khổng Tử, Thánh Thiên như Lão Tử, Thánh Triết Vô Thượng Thế
Tôn, mới có Đạo Khổng, Đạo Giáo Lão Tử. Phật Giáo Thế Tôn, hàng Thánh Tăng
Chư Bồ Tát hàng tu cầu Hạnh Nguyện tu cầu Diệu Quả thành Phật.
Các hàng Thánh mỗi vị chuyên một môn, mỗi một môn thâm nhập nhiều
ngành, có hàng bá thiên vạn ngành, cũng như mỗi một pháp có bá thiên vạn pháp, trở
về với Một Pháp, một môn nhiều ngành cũng thế. Bậc Thánh tùy theo đơn vị chuyên
môn mà triển khai cho từng lớp Thánh Xuất, giải nghiệp Thánh Xuất không phân biệt
vào giới nào. Vì sao? Vì Thánh Xuất do nơi Chí Dũng, Bản Năng, Năng Khiếu, Tinh
Thần cao đẹp, tôn trọng Phẩm Giá Chủ Thể, Chủ Tánh bao dung thành Đức Tánh.
Đức tánh phát Hiền Hòa, Hiền Lành, Hiền Hậu. Các bậc tu mong đạt ba điểm trên
thời phải dẹp Tự Ái, Tự Cao, Tự Mãn, Tam Độc chúng sanh tánh. Tự Ái ngăn cách
Hiền Hòa, Tự Cao cản ngăn Lành Mạnh, Hiền Lành, Tự Mãn củng cố học hỏi Tăng
Thượng, chẳng Hiền Hậu, làm thế nào Thánh Xuất.
Bậc học làm Thánh chưa nâng chủ tánh thành Đức Tánh, chưa có Đức Tánh
lấy đâu độ lầm mê? Vì sao. Vì Đức độ lầm mê, chúng sanh kém Đức mê lầm, cũng
như bậc sáng mắt hướng dẫn cho kẻ mù lòa. Đây chính một sự dĩ nhiên. Khi Bậc biết
pháp môn Hóa Giải, sạch Thiên Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, khỏi vòng
thọ ngã Giả Tướng, đó là Thiên Nhân Sư. Bậc không vì lý mà chướng, không vì sự
mà chểnh mảng thấp cao, Lý Sự Tương Song Tự Tại Vô Ngại Đại Bi, sự sự việc việc
mỗi mỗi đều thâm nhập tài năng xuất chúng, qua các trở ngại không nhàm chán gọi là
Điều Ngự Trượng Phu. Lại vì chúng sanh toàn năng giúp đỡ, toàn lực, toàn lý, toàn
trí, tất cả chúng sanh an vui, Thánh Tăng an vui, gọi là Thế Gian Giải. Thực hiện Bi
Chí Dũng, Giới Định Tuệ gần chúng sanh không mất Thánh Ý, thật thấu từng giới
của chúng sanh, giới này thọ chủng tánh tình ra sao, Giới nào ngôn ngữ hành động
như thế nào Chánh Báo, Thọ Báo như thế ấy, hình hài thân mạng lớn nhỏ dài ngắn
Liễu Sanh sẽ đặng vào nơi Thai Sanh, Noãn Sanh hoặc ti tiện thấp sanh thảy thảy,
nhận thấy tường tận không hai tướng gọi là Túc Mạng Minh.

91
Thiền Sư vừa giải đến đây, hai bàn tay Ngài đặt trên mặt bàn nhỏ, nhìn mười
ngón tay, trầm lặng tiếp nói: Chánh Biến Tri là một danh hiệu Phật, bao la rộng rãi vô
cùng, yếu tố sáng soi Quân Minh vô tận. Vì sao? Vì Trí Hóa Tâm Thức Biến Tri,
nghề nghiệp biến trí, cải cách biến trí, biến trí tùy thuộc nghiệp, còn chánh biến tri
thuộc Giác Tướng về Như Tướng Kiến Tri mà Tri Kiến Phật.
Thiền sư hai bàn tay đưa thẳng ngang tai rộng rãi mỉm cười tiếp nói: Chánh
Biến Tri sai lạc thì Tà Biến Tri làm thế nào phân biệt? Như nhà Thông Thái, gắng tạo
thành Thông Thái chỉ là một con người tạo thành làm thuê cho thông thái. Phải có
căn bản nơi Chủ Thể Chủ Tánh cao đẹp vững vàng gọi là Đức Tánh bao dung đến
thành công Thông Thái đó mới thật chính mình Thông Thái. Làm như thế nào, tu như
thế nào Nâng Chủ Thể cùng Chủ Tính? Bậc Chánh Biến không khinh Tà Biến, Bậc
Đạo Đức không ghét Phi Đạo Đức, Bậc Thánh Tăng không bãi bỏ chúng sanh thọ
nghiệp. Đó chính là nâng Chủ Thể Chủ Tính. Bằng khinh ghét bỏ chê thì không khác
nào mang Vàng pha lẫn Bùn Nhơ, làm sao Chánh Biến Chơn Giác?
Trí Tuệ Đắc nhờ giải nghi hóa chấp bước vào Chánh Biến Tri. Vì sao? Vì
chánh biến tri từ nơi Tự Tánh sạch sẽ, Chủ Tánh Quán Chúng mà ra Đức Tánh, mới
nhiếp thâu Vạn Tánh về Nhất Tánh Chánh Biến. Chẳng khác mấy: Vạn Hạnh về Nhất
Hạnh, tôn trọng Phẩm Giá Lập Hạnh. Nơi vạn tánh mỗi chúng sanh, có một tánh
củng cố, nhiều chúng sanh nhiều tánh củng cố nên mới riêng rẻ chướng đối nhau,
chia ra vạn lối khó về một lối Nhất Tâm. Bậc tu phải tu vạn tâm về Nhất Thể, khỏi
lầm lạc, được gọi: Chúng sanh lầm lạc, bậc Chánh Biến không lầm lạc, lầm lạc Tà
Biến, không lầm, không lạc Chánh Biến Tri.
Tinh Thần chẳng là cái gì mà cái gì cũng đoạt đến. Tinh Thần Bất Khả Tư
Nghị, khó nghĩ bàn đặng. Tinh Thần là Chủ Thể Năng Lực Như Lai. Vì sao? Vì Phật
Ấn Chỉ Như Lai Vô Sở Tùng Lai, Diệt Vô Sở Trú, Cố Danh Như Lai. Hàng Bồ Tát
Đại Nguyện: Như Lai Vô Biên Thề Nguyện Sự. Bồ Tát hành dụng phụng sự cứu giúp
chúng sanh, chúng sanh là Hành Dụng theo Thể Dụng vận chuyển Như Lai, nên Bồ
Tát đem hết tinh thần phụng sự thành tựu Chánh Biến Tri, Kiến Diện Như Lai Chủ
Thể Năng Lực Như Lai Thọ Ký.
Tinh thần bậc tu cầu Diệu Quả Bồ Đề, Tri Kiến Giải Thoát phải đầy đủ Trí Tuệ
Chí Dũng tinh thần, bằng yếu kém hoặc thiếu, khó đặng. Dù tinh thần thiết tha, chưa
trí tuệ vẫn lâm nơi tinh thần cuồng tín, vì thế nên chi phải có bậc Thiện Trí Thức chỉ
đạo mới mong kết quả. Chưa có hay chưa gặp Thiện Trí Thức nên tu Thiện, tinh thần
Thiện Căn Thiện Chí, cúng dường Công Đức, tín ngưỡng ngôi Tam Bảo. Tinh thần
như thế vẫn đáng kính trọng.
Bậc sẵn tinh thần cao, xuất gia hay tại gia. Tin Phật, Pháp, Tăng. Ngôi Tam
Bảo, Y Tôn, Y Kinh, về Lý đọc tụng Kinh Pháp, về sự siêng năng Công Đức, tinh
thần còn tu nhiều hơn thế nên nhớ: Nhược Dĩ Sắc Kiến Ngã, Nhược Dĩ Âm Thanh
Cầu Ngã, Thị Nhân Hành Tà Đạo, Bất Năng Kiến Như Lai.
92
Một là Đọc Tụng kinh Pháp, dùng sắc kinh, chưa tụng Y Thánh nghĩa kinh,
làm thế nào Tri Kiến? Hai là: Nghe thuyết pháp, chưa thọ lãnh an toàn, nhận định
khiếm diện chưa đúng với tinh thần pháp, làm thế nào Kiến Tri Thánh Pháp? Ba là:
Nhận Tà Biến, thực hành Tà Biến, lâm nơi sai biệt, khi lâm sai biệt thời phải trực
thuộc tà đạo sai lầm. Bốn là: Nơi sai, nhận sai, thiếu tinh thần Phụng Hành, thế nào
đồng chủ thể năng lực thấy đặng Như Lai? Mới có câu:
Y Kinh Diễn Nghĩa, Tam Thế Phật Oan.
Ly Kinh Nhất Tự, Tức Đồng Ma Thuyết.
Cho nên y kinh diễn nghĩa chưa đủ Tự Giác, Phật vẫn bị oan bằng Tự Ái, Tự
Cao, Tự Mãn thuyết giả Ngôn Từ, ngỡ là Minh Thuyết. Dụng Tâm Thức quán soi Tà
Dục Kiến Dục, ngỡ Chánh Báo Vương Tôn Tăng Thượng Ma Thuyết, sai lạc Y Chỉ
cơ bản Chủ Tính thiện căn Tà Biến Tri ngỡ Chánh Biến thọ nghiệp, không thể giải.
Ngoài ra duy chỉ Tự Tánh Tỏ Tánh, đầy đủ Tinh Thần Bất Thối là hơn cả.
Tuyệt mỹ thay! Thánh Hiền! Phật Giác.
“Phật ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh Vũ Trụ. Bồ Tát có quyền
chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng: Chánh Báo, Phước Báo, Thọ Báo.”
“Bồ Tát có quyền dạy và truyền Tâm Ấn từ hàng Hộ Pháp Bồ Tát, Tôn Giả,
A La Hán, Tiên Thần.”
“Bồ Tát Ma Ha Tát có quyền dạy và chứng minh cấp bậc Bồ Tát.”

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT


Khai Thị năm 1986.
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.

93
94
DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH VŨ TRỤ
VỚI CON NGƯỜI

LỜI DẪN NHẬP

Dưới Sự Nhận Định Vũ Trụ Với Con Người: Đối với con người hiếm bậc đã
biết, họ tự đem tư tưởng cái nghe thấy biết nhịp nhàng với vũ trụ sai chạy khác biệt,
trở thành quan niệm tư hữu, đương nhiên nó phải bị riêng rẽ hai khối vũ trụ với con
người. Hiếm có bậc nào hiểu Đạo Phật đứng ngoài tất cả lại nhìn chung tất cả mà
đặng cái nghe thấy biết chung cùng với vũ trụ và con người đồng nhất. Nên chi mới
trao cho con người cố tạo cho đặng cặp mắt Thiền Sư, gọi là Như Lai Nhãn Tạng
mới có thể nhìn nhận lời nói trên chân thật.
– Thiền Sư Bồ Tát Di Như .

95
1. TẬP DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH VŨ TRỤ VỚI CON
NGƯỜI
Là một Tài Liệu chung gồm tất cả các Môn học hỏi của con người như: KHOA
HỌC, TRIẾT HỌC, TÂM LÝ HỌC cho đến SIÊU HÌNH HỌC trở thành Chân Lý
Nhà Phật, căn bản giúp cho con người đã có sẵn TÍN TÂM, mong cầu TRI KIẾN, tìm
con đường GIẢI THOÁT.
Tập nầy nói lên mục đích chính của ĐẠO PHẬT, là một Giáo Môn lần đưa con
người Khám Phá Vũ Trụ làm chủ Vũ Trụ Bất Diệt.
Hiện tại Thế Giới khám phá Vũ Trụ trên hiện vật, nhưng chưa chắc đã hoàn
mỹ bất diệt, vì sao? Vì hiện vật có hoàn mỹ chăng mà Thân Mạng con người chưa
hoàn mỹ vẫn gị diệt sanh, chưa đoạt đến đích chính của Thân Mạng.
DI BÚT KÝ trong tập nầy giúp cho con người đặng hoàn mỹ SANH, TỬ,
BỆNH, LÃO, KHỔ.
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Ấn Ký
*******
DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH VŨ TRỤ VỚI CON NGƯỜI
Sự nhận định con người với Vũ Trụ, vấn đề này được nêu ra từ lâu. Khi con
người biết nhận thức đến Tinh Thần đồng Vật Chất thảy đều có giá trị, đời sống, lẽ
sống không tồn tại, chưa bao giờ thoải mái bền lâu, dù cho có cũng trong chốc lát bay
theo ngọn gió cuốn mây bay, đương nhiên con người phải truy tầm những gì trong
phút ấy, kéo dài ra cốt đáp ứng lâu bền sự sống, nguyện vọng của con người đón
nhận có bấy nhiêu.
Bậc trí có lý tưởng sâu xa, tự vấn đáp biết đặng: TƯ TƯỞNG LỆ THUỘC
BẢN THÂN, TINH THẦN NUÔI VẬT CHẤT, nên họ dùng tư tưởng lần biết tỏ
thông tiến bộ, dụng tinh thần bồi dưỡng Bản Thân, đó chính bậc trí đã thực hành.
Nhưng chưa bao giờ quyết định rõ ràng: VŨ TRỤ VỚI CON NGƯỜI đã sanh ra bao
đời kiếp?
Từng lớp sống nơi con người có thể biết, đã có bao nghiêu thành phần người
sống, qua bao thế kỷ đổi thay. Đã từng có nhiều hoàn cảnh đem đến cho con người
ngang trái, nếp sống, đời sống nơi con người trải qua rất nhiều bị trị, chỉ vì con người
vấp phải cái sống tạm trên Trái Đất chuyển xoay, nên hoàn cảnh xoay chuyển, dù sao
chăng cũng không ngoài Vũ Trụ.
Nhà Hiền Triết có trí thức nhãn quang, nhìn quả đất vòng quây, xem Vũ Trụ
linh động. Còn con người đón đợi trái đất dừng lăn, Vũ Trụ chớ di chuyển, hoàn cảnh
chớ xãy ra, việc đời đừng thay đổi, thì thử hỏi con người mong đợi có hợp tình, hợp
lý với Vũ Trụ và Trái Đất chăng? Nếu việc đời dừng trụ đứng yên, hoàn cảnh chẳng
thuyên diễn thì chẳng khác nào đêm khuya yên giấc, con người và vũ trụ chết khô,

96
tìm đâu cho ra cái sống, có phải sự hoài mong nơi con người ĐỐI TƯỢNG với Vũ
Trụ chăng? Chính nhà Hiền Triết chưa suy nghĩ kịp như thế.
Nói đến kiếp con người đã có từng bao nhiêu thế kỷ, con người với con người.
Họ cũng đã sắp xếp thực hiện nhiều tài liệu, chương trình cốt phục vụ nhau, họ đặt
thành hy vọng ngày mai đem đến lẽ sống hoàn toàn thoải mái. Do đó mới phát sanh
TÔN GIÁO và TRIỀU ĐẠI, ĐẢNG PHÁI đều một mục đích bảo toàn nếp sống cho
nhân loài thanh bình thịnh vượng.
Theo triển vọng chủ đích con người: SỐNG HIỆN TẠI, XÂY DỰNG HIỆN
TẠI, nên mới vạch con đường chánh cứu giúp con người, chỉ vì quá nhiều tư tưởng
mỗi thời có mỗi lập dị riêng, sự đồng tưởng bất đồng tưởng tương tranh thay đổi nên
mới có chế độ nầy sang chế độ khác, mãi tiếp diễn làm cho con người cứ trải qua 20
năm có trận thay đổi lớn nhỏ tùy thời, sướng khổ tùy thế, lịch sử chép ghi biết mấy
pho đầy đủ.
Con Người đã có sẵn tập quán thói quen, nên chi từ sự ăn uống, nề nếp lối
sống, tục quán thảy đều quen thuộc. Nếu đem đặt con người vào hoàn cảnh chi hay
khuông khổ chế độ nào sống lâu ngày thời gian tính vẫn quen nền tảng ấy. Nên chi
các nhà Tôn Giáo, các Chính Trị Gia, Triều Đại, Đảng Phái mới dùng, mỗi Tôn Giáo
có mỗi sắc thái văn tự riêng. Mỗi Triều Đại có mỗi Sắc Phẩm riêng, mỗi Đảng Phái
có mỗi hành động cử chỉ riêng để cho con người tập quán quen thuộc dễ trung tín.
Con người thường có tánh kiên sợ lúc ban đầu, nễ khi đã chinh phục đặng. Lúc
qua cơn sợ hãi tâm ý hồi tỉnh, nhìn lại đối phương giảm lần sự chinh phục, vấp phải
nơi bất chơn thì con người kia phát sanh liều lĩnh, càng đem sự đè ép bao nhiêu lại
càng nung nấu cho con người liều bấy nhiêu. Bằng vỗ về quí mến thì con người quay
về nơi chinh phục.
Nên chi con người gặp thời thế thay đổi hay cảnh nhà tai biến, trước nhất con
người lo sợ, đến hết nơi sợ lại đâm liều duy chỉ con người lo âu sợ sệt có hai lý trí:
Một là thay đổi gia cảnh sướng hay khổ, hai là thay đổi chế độ mình Bị Trị hoặc Giải
Cứu, gặp Minh Vương hay Quan Tham Ô Nhiễm. Con người lúc nào, thời nào cũng
thế, đứng trước Giao Thừa thường hay lo nghĩ, cho nên đối với con người SỐNG LO
ÂU, CHẾT SỢ SỆT, đứng trong Vũ Trụ với Con Người chẳng biết về đâu là vậy.
Trên đã nói: TÔN GIÁO giúp TINH THẦN. Nhân Sanh Chánh Trị xây dựng
Vật Chất, lời nói ấy con người đa số nhận định được. Nhưng tại sao chưa được
hưởng? Tại con người chưa biết giá trị phải làm mới đến, có tìm mới thấy đó chính
lời thực tế đối với tinh thần vật chất hai nơi. Khi con người truy tầm về tinh thần toại
hưởng thì ít nhất phải có tự tánh giải mê, tự cường nâng tư tưởng, còn về vật chất
chính mình phải tăng năng xuất, đứng về hai mặt phải phát triển lấy mới toại hưởng,
bằng nương nơi tinh thần cầu vái, dựa theo vật chất chờ mong dịp may mang đến,
khó mà kết quả trong kiếp con người.

97
Hai nữa: Con Người muốn dựng nên hương vị thỏa mãn thân tâm, trước tiên
chính mình phải khắc phục mình, bằng cách dẹp Cá Tánh, sử dụng tư tưởng làm kẻ
đưa đường, dùng lý trí sáng soi làm ngọn đuốc tâm chí quyết định không lùi trước
mọi khó khăn đặng CHÍ DŨNG. Lúc Con Người có đầy đủ Công Năng Chí Dũng thì
chắc chắn đoạt đến thành công.
Tinh Thần thoải mái làm thế nào mà có? Muốn có tinh thần thoải mái, tâm ý
phải thi hành HỶ XẢ vì Hỷ Xả sáng tạo ĐẠO ĐỨC, đức lớn Quỉ Thần kiên tinh thần
vui vẻ thoải mái. Bằng Tâm Ý thắt chặt, lưu tâm mọi sự việc đối với đời, đối với mọi
người lúc thớ lỡ va chạm, đối với hoàn cảnh trái ngang, chính mình trói buộc ghét vơ
thù hận, liền tự mình mang lấy phiền trách, phiền não, mang lấy tê liệt tinh thần đâm
ra buồn đời trách bạn vô ích, nên có câu:
Kẻ chán đời, có nhiều tham vọng.
Sống yêu đời, thắt thẻo non sông.
Người xa đời, lối sống viễn vông.
Đồng chung BIẾT SỐNG viên thông mọi bề.
Đối với Con Người Chí Cả, đoạt đến đích sống thanh cao khoát đạt, có thể
mang đích sống ấy cho Quần Chúng ích lợi. Trước tiên phải chinh phục đa số con
người được sự tán trợ xây dựng, liền được con người suy tôn vào hàng THÁNH, khi
bấy giờ mới có giá trị.
Bậc Thánh nào cũng thế, bậc Vĩ Đại Siêu Nhân nào cũng vậy, đều có tinh thần
phục vụ nâng đỡ đời sống của con người có sẵn mục đích tiêu chuẩn rõ ràng, hường
dẫn con người thực hành kết quả. Có kết quả nên con người tỏ lòng ÁI KÍNH bậc
Thánh, khâm phục Siêu Nhân lẽ dĩ nhiên phải như thế.
Khi đứng vào hàng Thánh, hàng Vĩ Đại không bao giờ lấy mục đích Suy Tôn
Cá Nhân, Cá Tánh làm hãnh diện, chỉ nhìn nơi quần chúng mức tiến bộ, mức kết quả
đích Lãnh Đạo làm an vui, do đó nên thường sát nơi con người để nâng đỡ từng lớp
hợp tình, hợp lý toàn dân Ái Kính Khâm Mạng.
Từ nghìn xưa, đến thế kỷ thứ 20 ngày nay, bậc THÁNH TRIẾT thán phục các
hàng THÁNH, các hàng VĨ ĐẠI SIÊU NHÂN, mỗi thời mỗi vị ra đời đều phục vụ
tích cực đáng kể, xem việc nước hơn việc nhà, xem Tín Chúng hơn con đẻ, vì Đạo
chớ không vì mình, vì Quốc Gia hơn vì riêng tư sung sướng, cho nên chép ghi nhiều
tài liệu tỉ mỉ cốt để lại đời sau. Đến bậc thừa kế hướng dẫn y theo GIÁO ĐIỀU, y
theo Tôn Chỉ Mục Đích không sai chạy. Nhưng lạ lùng tại sao Tín Chúng, Toàn Dân
chán nản? Vì y theo Giáo Điều chớ chưa y nơi tích cực tinh thần hiểu biết linh động
khéo léo lần đưa, do đó mà suy thoái.
Nhà Thông Thái nói: “Toàn thể con người khôn trước Triều Đại. Nếu Triều
Đại biết con người khôn phải lần theo con người hướng dẫn. Bằng Triều Đại rõ biết
trách nhiệm Quốc Gia, có bổn phận gìn giữ an lành cho dân chúng, hơn là trị an dân
chúng thì con người mau phát triển đặng Quốc Thái Dân An.”
98
Trong con người thường hay có tư tưởng học làm người. Nhà Thánh Triết nói:
Học làm người không bao giờ làm người đặng
Hãy học làm Thánh liền biết làm người.
Bậc Thánh ra đời tùy theo Thời Đại. Vĩ Nhân lộ diện tùy cuộc Thế đổi thay,
hai lối tượng trưng cho con người tiến bộ vật chất lẫn tinh thần. Đời con người nơi
cái sống rất cần có tinh thần vật chất tương song, không thể sống mỗi một bên gọi là
hoàn mỹ.
Nên Lão Tử ra đời chuyên chú về tinh thần, Ngài nung đúc con người hướng
thượng, thành lập THIÊN ĐẠO, dụng thuyết VÔ VI giải tỏa kiếp người, đưa về
THIÊN GIỚI, gạt lòng tham, giết chí nhỏ nên Ngài nói: “Nếu ta không muốn những
gì của ai, thì cần chi phải sang đoạt? Bằng ta không sang đoạt, có ai đến đòi ta.”
Sau đức Khổng Tử ra đời chủ đích dung thông vật chất với tinh thần, chăm đạo
làm người, nâng đỡ con người hướng thượng, nên Ngài mới gọi con người có tư
tưởng khoát đạt là QUÂN TỬ. Nhà vua được gọi là THIÊN TỬ, con vua là THÁI
TỬ, con quan là CÔNG TỬ, Ngài dạy con người biết xét mình, biết trọng người, biết
TIÊN TRỊ KỲ GIA, HẬU TRỊ KỲ QUỐC, thời Ngài được nhà vua Sùng Ái, toàn
dân Kính Nể, dùng tài liệu nơi Ngài làm nền Văn Hóa trị vì. Ngài sắp đặt Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín bằng sự đối đãi ăn ở với nhau. Văn thi của Ngài đặng ưu tiên nhất
bên Đông Phương ứng dụng. Sau nầy cách mạng cải tiến mới cải hóa nhiều để con
người theo trào lưu tiến bộ, chừng ấy mới tạm ngưng.
Có thời tại Ấn Độ, thành lập đạo BÀ LA MÔN do ông Krichna sáng tạo, với
đích tôn thờ Trời Phạm Thiên (Brahma) cốt gây tạo mê tín thần quyền làm cho dân
Ấn Độ thời ấy cuồng tín vô cùng.
Phái nầy chia ra Bốn giai cấp, cung đốn cho một giai cấp cao quí nhất gọi là
giai cấp Đại Diện cho Trời Phạm Thiên tối cao, còn giai cấp thứ hai là giai cấp Chiến
Sĩ Nhà Quan, đến giai cấp Tỷ Xá (Nhà Buôn) qua giai cấp Hạ Tiện gọi là Ty Tiện
hèn yếu làm nô lệ cho tất cả ba giai cấp trên, giai cấp nầy đứng vào hàng dân giả. Các
hàng dân giả nô lệ ít đặng gần nhau, họ sợ gần nhau ăn nói thô bỉ mang tội Trời phạt,
nên chi họ có quan niệm: “GẶP VỊ THẦN THÁNH HÓA DỄ HƠN GẶP CON
NGƯỜI NÔ LỆ.”
Sau nhờ Thái Tử TẤT ĐẠT ĐA (Phật Thích Ca) ra đời tại Ấn Độ, Ngài mục
đích Cách Mạng Bản Thân trao giồi tư tưởng, xóa mờ tư tưởng bất công trên xã hội
con người với con người, Ngài an bang tư tưởng bị trị hỗn loạn thống khổ, Ngài tranh
đấu tất cả những gì xãy ra uy hiếp phản động với tư cách con người, cốt đưa xã hội
vào trật tự mới, nếp sống thoải mái an lành. Chính Ngài đã khởi xướng con người
đánh đổ tư tưởng thống trị áp bức, đảm phá hóa giải những bàn tay bóp con người
vào vòng nô lệ, không hao giọt máu nơi con người, đoạt đến sự nghiệp viên thành,
sáng lập ĐẠO PHẬT.

99
THIÊN CHÚA GIÁO, do đức Chúa Jésus thành lập, Thiên Chúa là Đấng Toàn
Thiện, trăm điều nơi Ngài là LÀNH, ngàn sự nơi Ngài đều TỐT. Ngài chính bậc cứu
thế, đấng cha lành con người nương tựa. Con người thảy đều CON CƯNG của Chúa,
nên chi có câu: “LẠY CHA. CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI,” thể hiện giá trị con
người đang đứng trước mặt Chúa. Ngài là đấng Toàn Năng, Ngài có đầy đủ Đức Lực
cứu giúp con người, miễn con người TIN MÌNH CHÚA, tin Ba Ngôi Chúa, với phép
lạ cứu thế vô cùng huyền diệu.
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
2. TÓM LƯỢC
Trong tập “Dưới Sự Nhận Định Vũ Trụ Với Con Người” như trên đã nói: Con
người sống tạm nơi cái sống, rất cần đến vật chất lẫn tinh thần. Phần Chánh Trị an
bang giúp đỡ vật chất. Phần THÁNH ĐẠO cứu giúp tinh thần. Kể từ ĐẠO LÃO đến
ĐẠO KHỔNG, BÀ LA MÔN, PHẬT GIÁO, THIÊN CHÚA GIÁO, kế tiếp có ĐẠO
HỒI GIÁO, TIN LÀNH GIÁO đến THÔNG THIÊN HỌC, BÀ HAI GIÁO, tóm lược
chung các Tôn Giáo để các đọc giả nhận định, trong các Tôn Giáo thảy đều với đích
nuôi dưỡng tinh thần. Lúc con người chết về CÕI TRỜI hay THƯỢNG ĐẾ là duy
nhất.
Chỉ có PHẬT GIÁO có đích đưa con người thoát sanh ngoài vòng Vũ Trụ, vì
sao? Vì Phật Đạo đã tìm đặng Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới ngoài cõi trời. Khi Đạo
Phật ra đời, nhận định Thái Tử Tất Đạt Đa Cách Mạng Bản Thân xóa mờ hỗn loạn tư
tưởng, dẹp tan chế độ áp bức giai cấp, đem con người khỏi ách nô lệ nếp sống trật tự
mới. Ngài được con người tin Ngài trên công sự làm, Ngài đặng con người kính Ngài,
vì Ngài quảng đại bao dung, Ngài được con người kính nể Ngài vì Ngài Đoan Chánh,
chớ chưa tin mục đích tối thượng nơi Ngài đưa con người Tri Kiến Giải Thoát. Đến
thời sau sự giải thoát mới công bố, nhiều chư vị Bồ Tát mới đồng ghi chép tài liệu trở
thành Tam Tạng Kinh.
Đạo Phật nhờ KHOA HOC, TRIẾT HỌC, TÂM LÝ HỌC làm sáng tỏ. Tuy
nhiên Khoa Học là Khoa Học hay Triết Học cùng Tâm Lý Học, mỗi khoa riêng rẽ
không phải Khoa Học, Triết Học hay Tâm Lý Học là Đạo Phật hay đã tin Phật thi
hành. Nhưng lời nói nơi Phật là lời nói vô tư tổng quát tất cả thực hành đến kết quả
đúng như lời Phật nói.
Khoa Học dụng Lý Tưởng phát sinh, lấy Thí Vật thực nghiệm. Từ nghìn xưa
Phật nói chưa rõ đặng, đến ngày nay khoa học đã tìm thấy kết quả đặng. Như thế có
phải: Lý Tưởng thuộc về tinh thần, thí vật thuộc về vật chất, khoa học từ tinh thần
phơi bày thể hiện ra vật chất chăng?
Về phần Triết Học tận dụng tư tưởng phát sanh đảm phá tư tưởng đứng yên
chưa chấp nhận, lần đến tư tưởng tận cùng mà triệt thấu qua từng bước tiến, đặng rõ
ràng tư tưởng từng lớp con người đã suy nghĩ, kết quả đứng vào hàng Thông Thái

100
Học, chớ chẳng đến tuyệt đích Giác Nguyên, nên chi Triết Học chưa giải được những
gì không có chỗ chỉ mà Đạo Phật Sở Đắc.
Tâm Lý Học đã từng nghiên cứu, tác động con người từ tư tưởng phát hiện trên
hành động, từ nơi ý nghĩ thấp cao của con người thì hành động nhịp nhàng theo giai
cấp. Tâm Lý Học biết tất cả tâm lý nơi con người để điều động giúp đỡ theo nhu cầu
của họ. Nhưng Tâm Lý Học chưa biết đặng tinh thần với vật chất dung thông trong
tạng thức bản thân của con người mà trưởng thành tất cả sự việc. Theo sự nhận định
trên thì:
* Khoa Học Thí Vật thực nghiệm những gì Phật đã nói hàng nghìn xưa, nay
mới bày biện.
* Triết Học Hóa Giải những gì Phật đã dạy.
* Tâm Lý Học thâu nhận các linh động cốt đến hiểu biết từng lớp con người,
những gì mà Phật đã giảng. Những thành quả trên với đích đức Phật chủ yếu đưa con
người Giác Ngộ thoát khỏi Vũ Trụ với con người đã biết nhận định.
Đứng trong tư thế con người, bước vào Tôn Giáo cầu lấy Cách Mạng bản thân
thường bị vấp vào nơi phản Tôn Giáo, phản Cách Mạng bản thân. Đến chừng thông
đạt Vũ Trụ với con người biết điều hành ngự chế khi bây giờ không còn gọi là phản
Tôn Giáo hay phản Cách Mạng bản thân nữa, vì sao? Vì chưa biết sử dụng tư tưởng
nên tư tưởng lệch lạc bản thân bị phản đối, do đó nên mới có PHẢN TÔN GIÁO,
PHẢN CÁCH MẠNG BẢN THÂN. Nếu con người biết vận dụng tư tưởng thì nên
lúc tư tưởng phát sinh, những tư tưởng nào không thực chất chớ phơi bày tư tưởng đó
ra, chính mình phải tự hóa giải nó đến thực chất. Bằng phơi bày ra mang đến cho con
người không có lợi lại thêm vào nó mê tín cuồng si bị chỉ trích, tự mình phản lấy
mình còn phản tinh thần tôn giáo nữa. Thế nào gọi là tư tưởng không thực chất? Tư
tưởng không thực chất là: Tư tưởng ngoài chơn tánh, xa chân thể khó thành tựu đặng.
Cũng như: Không Hỷ Xả tạo Đức Độ, cỗi giải tâm, lại đòi tu luyện TÀNG HÌNH, thì
thử hỏi làm thế nào đặng. Duy chỉ Đức Độ Từ Bi tâm rộng rãi giúp đỡ nhân loài an
vui, thì dù cho có đứng trước Quần Chúng đặng con người Lễ Bái, cần chi phải tu
luyện Tàn Hình? 

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN


3. BẢN NĂNG KHẢ NĂNG CON NGƯỜI
Bản Năng Khả Năng của con người có thể tu Tiên thành Tiên, tu Thánh thành
Thánh, tu Thần thành Thần, tu Phật thành Phật, dung thông khoát đạt đứng trung gian
nhìn xem tất cả các bậc đang thành, các bậc sắp thành, cùng các Vị đã thành. Về Khả
Năng nơi con người có thể làm được những gì thế giới hoàn cầu sở thích ưa chuộng
lần lượt làm đặng tất cả. Từ cơ giới đến điện tử, từ nguyên tử đến phi nguyên tử,
đồng thời còn sản xuất nhiều môn, nhiều món chưa kể hết đặng.

101
Bản Năng nói riêng từng người ưa thích, nói chung từng khối yêu chuộng kết
hợp với nhau, trở thành trăm màu sắc mong cầu xúc tiến trên thế giới nầy. 
Họ đồng dùng Khả Năng tạo thành rất nhiều cơ sở, lâu đài có những kỳ quan
trên thế giới do công lực khả năng con người xây đắp hoặc do một số người ưa muốn
hiếu kỳ bắt buộc con người xây dựng, cũng như Vạn Lý Trường Thành chẳng hạn.
Bản Năng Khả Năng phục vụ cho con người khi con người cần đến. Tinh Thần
Vật Chất đối với con người là một điều kiện kết chung, chớ chẳng phải tinh thần vật
chất chia ra hai khối. Cũng như KHÔN DẠI chưa phải là hai, vì Biết cùng chưa được
Biết chính ra nó là một. Có nhiều bậc cho mức sống tinh thần là trừu tượng, nếu đem
tinh thần hiểu biết thi hành áp dụng khắc phục đúng bản năng khả năng thành tựu
thực thể thời mới biết lời nầy nói đúng là tinh thần chưa phải lối sống trừu tượng, duy
chỉ thiếu khả năng kém hào hứng chưa đúng với nguyện vọng bản năng nơi con
người nên mới bị sống nơi trừu tượng.
Thông thường khối Khoa Học khám phá Vũ Trụ lấy phẩm chất thực nghiệm
hợp hóa. Còn về Triết Học giải đáp đảm phá tư tưởng thường trú đem đến con người
được thông hiểu. Như vậy thời sự hiểu biết nơi con người, lúc con người NGỦ hay
con người CHẾT nó sẽ về đâu? Khoa Học và Triết Học đồng chịu, chưa giải đáp
đặng.
Còn đứng về Thần Bí, Thần Thánh Hóa để giải đáp thì Khoa Học, Triết Học
không chấp nhận, vì chưa có cụ thể chứng minh trên lời nói, dù cho có cụ thể chứng
minh lời giải đáp đặng, nhưng đối với bậc chưa đến trình độ khó mà lãnh hội được để
chấp nhận.
Do đó mới có một số người đứng ra ngoài Tôn Giáo, Khoa Học, Triết Học nói
chung họ đứng ra ngoài hết thảy để nhìn hết thảy mà tạo nên Chánh Giác. Khi đã có
đầy đủ Chân Lý Chánh Giác mới dụng phương thức kết nạp hết thảy để chỉ dạy, gọi
là Đạo Tràng Phật Giáo ngày nay. Đối với Phật, Ngài đã biết nó như thế, biết con
người mong đến sự hiểu biết toàn diện không thiếu sót mới đúng đắn, bằng tin vào
một Tông liền bị chìm đắm nơi Tông, tin vào một phái phải chịu lầm lẫn một phái,
nên chi thành lập xong Ngài công bố: “ĐẠO TRÀNG LÀ PHƯƠNG TIỆN GIẢI
THOÁT,” do lẽ ấy nên mới nói: “Đứng ra ngoài hết thảy, để tận giác hết thảy mới sát
thật.” Ngày nay tôi viết tập “Dưới Sự Nhận Định Vũ Trụ với Con Người” giảng giải
ngoài tất cả đưa đến mục đích chính của Đạo Phật đã từng giúp cho con người thông
suốt Vũ Trụ. Tài liệu nầy giúp cho các bậc đã từng nghiên cứu Đạo Phật hay chưa tu
Phật biết rõ phần nào về ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI CON NGƯỜI./- 
4. ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI
Đạo Phật với con người, Đạo Phật sát thật với con người hơn tất cả, Đạo Phật
trong con người phát sanh Đạo Phật, Đạo Phật bảo con người nên có tinh thần vật
chất Tự Giác trước mọi sự việc, Đạo Phật chưa cho con người xa lìa con người để tỏ
rõ Đạo Phật, cho nên Đạo Phật mới bảo: “PHẬT PHÁP BẤT LY THẾ GIAN
102
GIÁC.” Nếu con người mong tìm Đức Phật hay các bậc Thánh thì con người phải tìm
trong con người mới nhận thấy. Bằng tìm một phương xa nào hoặc giả tìm nơi tưởng
tượng thời chưa thấy đặng.
Đạo Phật thật biết BẢN NĂNG nơi con người nói chung, sự ưa thích nơi con
người nói riêng, mỗi con người ưa thích như thế nào thì nó thi hành như thế ấy, nó tự
tạo rồi nó tự than lấy nó, chớ chẳng ai bắt buộc lấy nó đặng. Kể từ khắp thế giới mỗi
người đều có bản năng ưa chuộng lý tưởng đó nên mới có nhiều phe phái, sự ưa
chuộng đó chính nó là như nhiên nơi bản năng xuất phát. Nhưng cứ để cho con người
như nhiên hành sự thì thế giới nầy không ai ở với ai nổi, nên mới có kỷ luật ƯA
CHUỘNG CÓ TRẬT TỰ. Con người phải sống trong vòng ưa chuộng có trật tự đó,
đối với con người cho là cuộc sống như thế giả tạo, vì sao? Vì bản năng của con
người chưa đúng với Nguyện Vọng sở thích nơi mình thực thể nó thành giả tạo, có
giả tạo như thế mới thanh bình đời sống.
Đạo Phật đối với con người rất sống động, cũng đã biết bản năng con người trổ
thành vạn thứ hoa theo vạn lối sống, bản năng con người như nhiên nếp sống con
người. Đạo Phật muốn đánh đổi chí hướng con người, Đạo Phật không bắt buộc chiều
hướng phải nghe theo Đạo Phật đem những điều lợi ích chỉ dạy, đồng thời khai thác
Bản Năng cùng Khả Năng trưởng thành Công Năng, khi con người có Công Năng thì
Cái Thấy, Nghe đồng với sự Biết liền đổi thay cùng nhau một hướng định.
Cũng như: Vạn thứ Hoa kia, tuy nó màu sắc khác nhau, hương vị vốn khác
nhưng mỗi thứ nó có giá trị cao quí nơi nó, chớ chưa phải thứ nầy quí, thứ hoa kia
không quí đâu. Nhà Khảo Học Thiên Tài mới làm cho các loài hoa đồng nhìn, đồng
thấy biết chung khắp các hoa thảy đều có giá trị như nhau, nên chi mới cho một thứ
hoa đứng ra ngoài nhìn vào vạn thứ hoa để biết rõ vạn thứ hoa, mỗi thứ đều có Thể
Chất Hương Vị cao quí, sắc thái như nhiên nơi nó. Nhà Khảo Học cứ thực thi như thế
lần lượt hoa nào cũng đặng nhìn xem sự nhận định Bình Đẳng, nơi Thấy, Biết như
nhau đồng một định hướng, đạo Phật hướng dẫn con người có một Trí Bình Đẳng
hướng định đồng nhất cũng như thế.
Đạo Phật tường tận Bản Năng Khả Năng con người Trí Óc con người phải trao
giồi hướng thượng mới có một công năng siêu việt đoạt đến Vũ Trụ Tri Kiến Giải
Thoát nếu cứ mặc nhiên thời trình độ cao cống chí khí ương hèn thấp kém kia không
làm thế nào đến đích cho đặng, nên mới có GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Giới Định Tuệ có ý
nghĩa: Nơi Trí Tuệ lần tiến phải có Giới Hạn lần tiến chớ nên chấp nhận bừa bãi phát
sinh buông lung tự mãn, khi trí tuệ căn bản tư tưởng giải mê phá nghi chấp đến vô
giới hạn, nơi trí tuệ có định hướng Hướng Thượng nương theo các bậc Thánh, Tăng
đến đích khẳng định.
Đạo Phật đã rõ Bản Năng Khả Năng nơi con người có thể nung chí kiên dũng
phụng sự mục đích sẽ đến tuyệt đích, nhưng vì nhận định thấp cao chênh lệch trở
thành trình độ rộng hẹp lớn nhỏ bị phân nhiều thứ lớp, đạo Phật biết như thế nên nói:
103
LỜI DẠY THỜI PHẬT THỪA, lúc con người lãnh hội tự nó chia ra thành TAM
THỪA, chưa phải tự nó muốn như thế, vì tại tạo Công Năng sút kém nên sự lãnh hội
sút kém mà thôi.
Khi con người đứng trước sự đời, lúc con người bước vào Đạo Tràng tìm đến
mức độ tỏ giác thì họ hay nhìn nhau dị biệt, nghe nhau trái với tư tưởng ngôn hạnh
trở thành sắc thái cử chỉ bất hòa nhau nên khó tìm hiểu nhau bằng chân thật Đức
Tánh nhau, đạo Phật mới nói: “Các ông nên CỖI GIẢI TÂM làm cho Tâm Thông vì
đặng ích lợi tăng trưởng hiểu biết. Các ông nên phá nghi chấp, vì đặng sự ích lợi Viên
Dung liền tỏ tánh nhau Giác Ngộ.”
Đạo Phật lại còn áp dụng những giáo khoa chỉ dạy cho con người LÝ SỰ
TƯƠNG SONG, CHÂN NGUYÊN TRỰC GIÁC như sau:
Đứng trước sự làm thực tế nơi con người, một là hứa cứu giúp cho kẻ khác về
Nhân Lực Tiền Bạc, Áo Quần, cơm gạo hay gánh vác hoàn cảnh với nhau phải làm
cho tròn bổn phận gọi là BI, chính con người đứng ra cứu giúp phải có CHÍ DŨNG
bất thối nên đặng nó: BI CHÍ DŨNG tương song liền lạc với nhau mới nên sự giúp.
Bằng đứng nơi tinh thần chướng đối, tinh thần thù hận, tinh thần ganh ghét,
tinh thần vướng đọng từng giai đoạn do bối cảnh trước lời nói sơ ý mà xảy ra thì đạo
Phật mới nói TỪ, BI, HỶ, XẢ. Khi con người biết sử dụng Từ Bi Hỷ Xả thời nó rất
có lợi về tinh thần đủ mọi mặt như: ĐẠO ĐỨC thân tâm liền tỏ rạng đặng TỰ TẠI.
VÔ NGẠI nơi hiểu biết đặng hiểu biết cùng khắp, Tạng Thức viên thông đặng gọi là:
TỔNG TRÌ ĐÀ LA NI TẠNG, cho nên tài liệu kinh có nói câu: Vô Ngại Tự Tại Đại
Bi, Tổng Trì Đà La Ni Tạng.
Sự thực hành trong Đạo Phật để giải tỏa con người sống trong Vũ Trụ chưa
đặng hoàn mỹ do tại nhận định lạc lối Tu Chứng thành thử ít kết quả hữu hiệu. Nếu
biết nhận định giá trị hướng dẫn đạo Phật từng lời nói, đến phương pháp hướng dẫn
con người khai thác Tự Tánh có đầy đủ Tinh Thần LÝ đồng SỰ tương song, bước lần
nơi Thực Hành cùng Quán Sát tỏ rõ, thời mới nhận định được Đạo Phật đưa con
người từ nơi thực tại khởi điểm đến thực tại Tu Chứng rất tế nhị tuyệt mỹ, nên con
người gọi là: BẢO PHÁP LỜI VÀNG. Vì vậy nên: 
“SỢ CHƯA BIẾT TU, CHỚ ĐỪNG SỢ KHÔNG GIẢI THOÁT.”
 
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

104
5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐỐI VỚI VŨ TRỤ
Khi Thái Tử Tất Đạt Đa, Ngài đứng ngoài tất cả các Tôn Giáo, Triều Đại và
con người, Ngài nhìn tất cả quán sát quân minh trực giác Vũ Trụ với con người Sở
Đắc THIỀN TRÍ. Ngài mới nói: Lạ thật! Lạ thật! Chưa phải ta vứt bỏ vật chất nhịn
đói tạo lấy tinh thần mà đặng. Cũng chẳng phải xa lìa tinh thần sung mãn vật chất mà
đủ. Vật Chất với Tinh Thần phải quân minh, nơi nhìn không nặng nhẹ thời chốn thấy
mới Lai Hoàn. Cái nhìn nó như vậy, cái thấy thực thể hoàn lai. Chính đó là: NHƯ
LAI NHÃN TẠNG. Ngài đoạt đặng Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, Ngài rời cây Bồ
Đề, thành lập pháp môn NHƯ LAI NHÃN TẠNG, gọi là Như Lai Thiền trong Đạo
Tràng Phật Đạo.
Môn Thiền là một môn Đạo Phật dùng để hóa giải tư tưởng, hóa giải ý thức hệ
đến Tạng Thức làm cho con người đặng hiểu biết nhìn nhận Vũ Trụ với con người rất
tương quan vô kể, nhìn đặng tất cả những gì vũ trụ linh động di chuyển con người là
dụng cụ, là bộ máy cho vũ trụ điều khiển.
Lấy chứng từ nào để hiểu biết đặng sự hóa giải tư tưởng, hóa giải Ý Thức đến
Tạng Thức.
Khi con người biết đặng chữ A, chữ A đứng yên nó là chữ A. Nếu biết chữ B,
nó đứng yên vẫn chữ B. Bằng lìa đứng yên nơi nó, đem chữ A ráp cùng chữ B liền
hóa thể thành chữ BA, tư tưởng cùng ý thức đứng yên không tiến bộ lại làm cho con
người sống theo ý thức tư tưởng cố định quan niệm nơi mình, nên chi THIỀN MÔN
Đạo Phật là dụng cụ phương pháp hóa giải ý thức, hóa giải tư tưởng nếu con người
biết nhận định rộng rãi, có kiến thức nghiên cứu liền dùng môn Thiền để từ nơi tư
tưởng ý thức đến TẠNG THỨC tỏ rõ VŨ TRỤ QUAN, được gọi là Như Lai Tạng
cũng thế.
Do nơi quan niệm khắc biệt của con người, bởi con người sống trong ý thức hệ
mà phân chia ra từng danh từ theo danh từ quan điểm nên chướng đối với nhau từ vật
chất đến tinh thần bàn cãi trở thành Duy Vật và Duy Tâm, từ khối ĐÔNG PHƯƠNG,
TÂY PHƯƠNG có hai đích sưu tầm khác biệt, nhà Triết Học Tây Phương với Triết
Học Đông Phương chưa đặng thấu nhau giao cảm nhau, vì sao? Vì Đông Phương tự
sưu tầm riêng mỗi vị đoạt đến ẤN CHỨNG SỞ ĐẮC tuyên bố truyền trao, nên phải
dụng nơi Tin về tinh thần tu chứng. Còn Tây Phương lấy chứng từ thực nghiệm
chung nhau một khối, lớp nầy sưu tầm thực nghiệm đặng, nếu chưa hoàn tất thời lớp
sau tiếp tục thực nghiệm, nên Tây Phương nhìn có sự kết quả con người nhìn thấy,
nhưng về sau thường bị hủy diệt. Còn Đông Phương thời tồn tại nhưng khó phát
sanh, vì sao? Vì con người rất hiếm bậc sống động hướng thượng để thi hành, trong
đời chẳng biết bao nhiêu tài liệu ghi chép hữu ích cho con người, chẳng biết bao
nhiêu sự bày tỏ chỉ dạy cho con người vào hàng Siêu Nhân, Thánh Triết. Nhưng con
người nào có nghe, họ chỉ nghe những lời không hữu ích, họ tôn thờ những cái vu vơ,

105
những điều vô căn cứ, họ xem những lối ấy là bảo vật, vì vậy nên chi bậc Thánh nói
cho con người nghe được thật là công năng quá kể.
Đạo Phật đứng trong Hoàn Cầu con người đa số đã biết, nhưng rất hiếm bậc
biết đặng Đạo Phật đứng ra ngoài tất cả để kết quả tất cả, Đạo Phật đã từng thực hành
trước mọi hoàn cảnh của con người, mức sống bằng tư tưởng tinh thần hay lao động
tận lực vật chất lối sống khắc khe làm nên sự nghiệp hay lối sống giúp mọi người mà
giàu có. Đạo Phật hướng dẫn cho con người vào từng lớp để tỏ biết gọi là HÀNH
THÂM PHÁP GIỚI. Lời nói trên duy chỉ có: Dưới mắt Thiền Sư mới nhận định đồng
thời nhìn thấy đặng chân thật mà thôi ngoài ra còn Cá Tánh khó mà thấy đặng.
Đạo Phật thật biết rõ, con người nơi bản thân mình như: CHÍNH MÌNH TIN
ĐẶNG MÌNH THẬT KHÓ, nên đạo Phật dạy con người có một chữ TIN. Còn tất cả
bắt buộc con người phải Tin hoặc ảo thuật cho con người Tin đó là những điểm dưới
mắt Thiền Sư biết.
Theo câu nói trên: Chính mình tin đặng mình thật khó, vì sao? Vì con người
phát sinh cuồng tưởng đảo điên, cuồng tưởng nơi con người ai ai cũng đều có, từ
người nầy phát sinh đến kẻ kia phát sinh, do đó mà đứng trên hoàn cầu xã hội con
người đối với con người, sự xáo động nhiều hơn yên tỉnh, cuộc loạn lạc nhiều hơn
thanh bình. Nếu dùng Thần Thánh Hóa, thì con người nó sợ hơn là nó thi hành đến
đích. Thần Thánh Hóa đối với đạo Phật chưa phải là mục đích của đạo Phật đích nơi
đạo Phật hóa giải mê tín đem con người đến chánh tín. Nên chi Đạo Phật dạy con
người có một chữ TIN liền đến đích thành Phật.
Tất cả con người thời nầy gọi là MẠT PHÁP, nhưng đối với đạo Phật khai
sáng tự bản thân con người mà ra, khai sáng từ nơi lầm lẫn đến chỗ tỏ giác thì làm gì
có câu chuyện Mạt Pháp. Duy chỉ con người đứng theo tư tưởng quan niệm mình để
thực hành đường lối đạo Phật bị sai lạc nên mới có tình trạng ngày nay lạc hướng tu
sai, tu theo quan niệm mình, lấy lý trí nơi mình định đạt chiều hướng đạo Phật, cho
đạo Phật là DUY TÂM, nếu đạo Phật là duy tâm sao Phật bảo lìa tâm mới giác, bằng
đạo Phật đảm phá duy vật tại sao đạo Phật không cho Tín Chúng ngồi yên, bảo tín
chúng nên thi hành HẠNH NGUYỆN, Phật nói: “LÝ SỰ TƯƠNG SONG, CHÂN
NGUYÊN TRỰC GIÁC” như thế có phải đạo Phật chung gồm tất cả cốt tận giác tất
cả chăng?
Nói đến tư tưởng quan niệm sai của con người đối với đạo Phật thì vô kể, nói
đến bản năng ưa chuộng ngồi yên của con người thì đa số, có như thế nên mới có
những bậc tự cải tạo mình, tự nung đúc bản năng khả năng nơi mình trở thành Công
Năng vượt qua tất cả mọi trở lực trên hết con người mà trưởng thành SIÊU NHÂN,
có bậc vượt trên hết con người giúp đỡ cho con người mới đặng THÁNH HIỀN, nếu
con người ai ai cũng đều biết giá trị nơi vươn mình vượt lên tất cả trở thành cao quí
giá trị Thánh Nhân thì tất cả đều thành Thánh còn đâu con người để mà nói.

106
Dưới mắt Thiền Sư đã thật Thấy Biết đối với con người thảy đều không Chủ
Định, nếu bậc đã có chủ định thời bậc nầy đã có nhã ý quán sát Vũ Trụ với con
người. Dưới mắt Thiền Sư đã thấy biết, nếu kẻ hay bảo thủ bản thân, bảo thủ phe phái
không làm ích lợi cho con người thì con người kia tự mình hủy diệt lấy nó, còn bị Vũ
Trụ sai khiến lắm điều mà ngỡ mình làm chủ.
Dưới mắt Thiền Sư đã thấy THÂN CON NGƯỜI là một BỘ MÁY RỖNG
không, chỉ có nhìn trên ngó dưới NGHE THẤY BIẾT tiếp nhận mà phát thanh ra để
mọi người nghe, ngỡ là của mình. Nên Thiền Sư nói: 
“Nó VÔ NGÃ nó nào nó chịu nó Vô Ngã (không Ta) vì nếu nó vô ngã thì lấy
đâu nó sống? Nó có ngờ đâu nó là dụng cụ của Vũ Trụ, nó tin lời nói của Thiền Sư,
nó gạt lối bảo thủ, lối hiểu biết riêng nơi nó từ bấy lâu nay, đặng lần tiến thâu nhận
những gì nó chưa biết đặng biết, những gì khó nghe nó cố gắng nghe, để sự hiểu biết
ấy thông đạt, nó liền đoạt đến Vũ Trụ làm cái biết nơi nó. Chừng đó nó mới nhận
định được cái hiểu biết kia chính là hiểu biết vũ trụ lần đưa đến con người hiểu biết
chớ không phải hiểu biết nơi con người hiểu biết. Nếu con người tự xưng chính mình
hiểu biết thời chưa biết chi cả.
Dưới mắt Thiền Sư đã biết đặng, cái TA chính nó chung cùng trùm khắp Vũ
Trụ. Thân con người bị giả hợp tạo thành, làm nên Ứng Thân cho Vũ Trụ. Con người
lầm ngỡ thân con người là cái ta chính gốc, nên mới có giữa đôi bên chẳng hòa hợp
mức sống Diệt Sanh. Thiền Sư biết như thế khó chỉ thẳng cho con người nên nói:
NẾU TA CHO VŨ TRỤ LÀ KHÁCH QUAN, THÌ VŨ TRỤ CHO TA LÀ QUAN
KHÁCH. Bằng Ta biết Vũ Trụ, Vũ Trụ đồng cái biết với Ta. Đạo Phật nói: TÂM
PHÁP BẤT NHỊ, gọi là cái biết nơi ta, trong ngoài đồng nhất, con người giao cảm
với thiên nhiên vũ trụ thông thường tại con người chưa biết. Khi có bậc chỉ hiểu biết
nơi tư tưởng ưa thích thoát sanh khỏi trái đất, đặng lên Cảnh Giới Tiên Thần hay Cõi
Trời. Sau có sự kết quả theo chí nguyện, mới để tài liệu các Tôn Giáo, Đạo Giáo đã
nói trên đó chính sự thật hiển nhiên chớ chẳng phải thần thoại chi cả vì đối với Đông
Phương sự Tu Chứng riêng nơi mỗi vị, làm kết quả tùy công năng mỗi người thành
thử có những điều con người khó tìm thấy đặng.
Cái THẤY BIẾT, dưới mắt Thiền Sư không khác nào con người đang mang
kính Hiển Vi, thấy những loài sâu bọ nhỏ nhất, thân thể sâu bọ ghê tởm nhất mà con
người không thể nào nhìn thấy đặng, Cái Thấy nơi Thiền Sư nó rất tế nhị mà sát thật,
thấy trong không khí có thực chất Đất, Nước, Lửa, đồng thời có đủ Phẩm Chất các
màu sắc như: Xanh, Đỏ, Tím, Vàng cùng hàng ngàn màu sắc thực chất, phẩm chất
đang quay cuồng với nhau, kết nạp lẫn nhau tùy nơi đồng hợp của nó, liền đồng hóa
đủ với các loài cây cỏ, hoa trái chúng liền đến kết nạp chung với cây trái, hoa lá mà
trở thành màu sắc con người đã nhìn thấy trong cảnh vật này vậy. Khi con người
muốn lấy các màu sắc ấy không lấy đâu mà có chỉ lấy lại trong cây mà ra, đến nay
khoa học đã thực hiện đặng.
107
Nơi THẤY BIẾT, dưới mắt Thiền Sư, thấy biết đặng TƯ TƯỞNG, có hàng
một tư tưởng cho đến năm, mười tư tưởng trong ngày, tư tưởng phát sinh dài ngắn
tùy theo tưởng, tùy theo mức độ của con người, tùy theo sở thích hoặc chưa sở thích
nó phát sinh. Nhưng mỗi tư tưởng đều có một mục tiêu hướng dẫn tư tưởng đó, còn
phần phụ thuộc tánh chất của tư tưởng có hàng vạn chất phối hợp trong tư tưởng. Khi
con người kết nạp tư tưởng để phối hợp tư tưởng gọi là: ĐỊNH TƯỞNG, nơi định
tưởng nó tùy theo sự mong mỏi, tùy theo sự khám phá những gì mà con người chưa
hiểu biết đang vướng mắc nơi thân tâm, cốt đem lại nơi giải đáp thoải mái con người.
Con người thường dùng tư tưởng nung đúc tinh thần phát sanh ra Cảnh Giới sau lúc
mạng chung đặng về trong Cảnh Giới đó. Đó chính là một tư tưởng khẳng định, tư
tưởng khẳng định tu Tiên Thần vốn thi hành theo chiều hướng nầy mà đến kết quả.
Bậc Thiền Sư thấy biết tư tưởng nương theo tư tưởng sát thật chân đế tư tưởng, biết
tỏ rõ vốn nó thường tưởng lại hay trú mà trở thành Chúng Sanh Giới. Thiền Sư biết tỏ
rõ, thấy vững vàng không cố định, chỉ quán xuyến để giúp con người đồng thời cứu
ngay bản thân Tự Ngã chính mình, gọi là CHÁNH ĐỊNH TAM MUỘI.
Khi Thiền Sư nơi Nghe, Thấy, Biết chân thật không Hai Tướng mới tỏ rõ như
Tướng, thời dưới mắt Thiền Sư đã từng thấy. LINH HỒN trùm khắp hư không Vũ
Trụ Giác Linh cảm ứng nơi Linh Hồn, con người chưa nhận định đặng nơi tư tưởng
khởi sanh, phải lần theo khởi sanh, khởi diệt tỏ thấu tư tưởng Bất Diệt mới có Cảm
Ứng Linh Hồn cũng thế.
Trong câu chuyện Linh Hồn chính là một phương thức khó giải, vì sao? Vì
Linh Hồn kết nạp tạo thành đầy đủ mới hiện sinh, nên khó giải, nó không khác mấy
với Nguyên Lực Điện Tử, nên chi có vị Thiền Sư nào chăng nữa giảng nói đến Linh
Hồn Chân Đế, thì sự kia cốt cho con người có CẢM GIÁC, chớ chưa thể nào nhận
đặng, vì sự nhận chưa đồng, trình độ chân giác chưa có thành thử chưa chung một lối
Thấy, chỉ dùng cái nghe thêm nơi đó, có cái TIN lời nói, để tạo thành đôi mắt Thiền
Sư, chừng ấy mới tin Thiền Sư đã chỉ về Linh Hồn Bất Diệt. Khi con người đến thật
biết tỏ rõ linh hồn bất diệt thì con người đã đoạt Chánh Giác thoát khỏi Vũ Trụ đối
với con người.
Đạo Phật đã chỉ Linh Hồn không hai tướng, Linh Hồn Tối Thượng sáng suốt
bất biến, quang minh bất tận, con người thường chiêm ngưỡng là Thượng Đế, Phật
Đạo cho đó là: ĐẠI NGÃ cái Ta duy nhất. Còn về phần cái Ta trong thân mạng con
người hoặc tất cả sanh vật thảy đều là cái Ta tạm bợ gọi là: TIỂU NGÃ GIẢ
TƯỞNG. Nơi Tiểu Ngã Giả Tưởng chẳng khác nào yến sáng của viên Bảo Châu, còn
Đại Ngã nó như viên bảo châu vậy.
Dưới mắt Thiền Sư thường gọi Linh Hồn là NHƯ LAI, tại sao được gọi là Như
Lai? Vì Linh Hồn nó như vậy. Nơi lên xuống của con người Thể Tánh nơi Linh Hồn
vẫn Lai Hoàn, nên chi Linh Hồn trùm khắp bất tận không chỉ đặng gọi là Như Lai.

108
Nơi Thân Mạng của con người đến thân mạng các loài, khi kết nạp thành hình
đầy đủ như nhiên có NGHE, THẤY, BIẾT. Sự Nghe-Thấy-Biết chính là từ nơi Đại
Ngã, Linh Hồn thể hiện để đồng ứng thân mạng, tùy theo thân mạng đáp ứng. Không
khác nào tạo thành chiếc máy điện, chiếc máy ấy tùy theo khả năng điện lực mà xuất
phát. Do sự đáp ứng, phát xuất từ NHƯ LAI. ĐẠI NGÃ thể hiện đến con người cùng
các loài như thế nên được gọi là ỨNG THÂN. Theo sự Ứng Thân đó Đạo Phật mới
nói: “TẤT CẢ CHÚNG SANH, GIAI HỮU PHẬT TÁNH.” Do con người cùng các
sanh vật đồng nhất với vũ trụ nên con người mới có thể nhận định đồng tiến đến
thông đạt Vũ Trụ làm chủ Vũ Trụ là vậy.
Thiền Sư thật biết. Tại sao gọi là con người với Vũ Trụ đồng nhất? Vũ Trụ có
đầy đủ vạn triệu chất kết nạp chung hợp với nhau, liền trở thành Cái BIẾT. Còn con
người cũng vạn triệu chất kết nạp chung hợp với nhau tạo nên Thân mạng liền có cái
BIẾT. Vũ Trụ là BIỂN CẢ, con người là giọt nước, nơi giọt nước kia tuy nó nhỏ bé
nhưng đồng thể chất với Biển Cả, nên gọi là Đồng Nhất.
Thiền Sư tự biết nơi Bản Năng, Khả Năng của mình, tự hiểu từ tư tưởng nầy
sang tư tưởng nọ nơi mình từ chỗ chưa hiểu lần nương đặng hiểu về mình, càng hiểu
càng biết đặng Vũ Trụ với con người nhịp nhàng để hiểu nhau. Do đó nên chi con
người đứng trước nhiều cảnh, nhiều tình gay cấn càng hiểu biết càng nhiều, sự cảm
hóa nơi con người nhờ diễn cảnh vũ trụ con người mới đặng hiểu biết. Đôi lúc Thiền
Sư tự hỏi: “Có phải Vũ Trụ là Minh Sư ta chăng?” Phải Vũ Trụ là Minh Sư khi ta đã
chấp nhận, ta đặng vũ trụ làm mục đề hướng dẫn đưa ta từng hiểu biết, cảm thông.
Nếu ta tự hào TA KHÁM PHÁ VŨ TRỤ thì ta chưa bao giờ Khám Phá con người
nơi ta đặng, có đâu đi đến khám phá Vũ Trụ. Khi đã khám phá đặng Ta, thì chừng đó
Vũ Trụ đương nhiên Ta tỏ thông được biết, đó chính là lời Thiền Sư quyết định.
Dưới mắt Thiền Sư nhìn nhận Đạo Phật đầu tiên nhất, con người phải tự soi lấy
mình trước tiên, con người phải khám phá những gì nơi mình trước hết, vì con người
là TIỂU VŨ TRỤ, vì con người là Giọt Nước Biển đồng chất với Biển Cả, vì con
người là Chủng Tánh có sẵn không khác mấy với NHƯ LAI. Con người có đôi lúc
biết nói, nhưng chưa biết nhận lời mình nói. Tại sao biết nói, nhưng chưa nhận đặng
lời mình nói? Tại mình hay nói, chớ chưa Thực Hành theo lời mình đã nói, khi con
người thực hành lời mình đã nói, chừng đó mới thật mình Biết nói.
Con người cứ mãi tìm xem Linh Hồn mình nó ra sao? Nó như thế nào? Hình
dáng nơi nó Tròn, Vuông, Dài, Ngắn, Sáng hoặc Tối đủ phương thức nghĩ ngợi suy
tính, nhưng nào có thấy được đến nó. Có bậc nhẹ tính hay nhìn quần chúng để rõ tánh
tình quần chúng gọi nó là GIÁC LINH. Có bậc kiểm điểm tư tưởng chia phân tư
tưởng từng khối nọ đến khối kia, lập ra trận đồ tư tưởng gọi Linh Hồn là TÌM THỨC
THỨ SÁU hay A LẠI GIA THỨC kết thành bộ Duy Thức để biện minh về Linh
Hồn, thật ra Linh Hồn trùm khắp không có chỗ chỉ. Chính là NHƯ LAI, nên dùng cái

109
thấy trùm khắp để quán xuyến linh hồn Bất Diệt thì dùng đôi mắt NHƯ LAI NHÃN
TẠNG Thiền Môn mới minh xác đặng, bằng lý đoán khó triệt thấu.
Khi con người nhìn thẳng thân tâm mình nhận định tỏ rõ tư tưởng Tánh Tình
nơi mình di chuyển từng lúc, từng hồi nhịp nhàng trước vạn lối. Có khi Nóng Giận,
Vui Buồn, có lúc tinh thần đẹp tươi vô kể, có khi trực giác thông hiểu hoàn cảnh của
con người đối với mình, có lúc lại làm cho con người thế nầy, thế nọ đủ trăm phương
vạn cách giữa con người với chính mình.
Liền được hiểu biết nơi Thân có linh hồn sáng suốt bất động quán xuyến tất cả.
Nhưng bị thay đổi sống động vì tư tưởng con người chưa tỏ giác, nên chưa nắm vững
tư tưởng phải chạy theo tư tưởng, thành thử lanh quanh hiểu biết. Nơi Bản Thân nó
khởi sanh vạn Tưởng chung vào đó nó lại có Tánh với Tình diễn hóa mãi không
ngừng trở nên Sanh Diệt, Diệt Sanh nhịp nhàng chẳng dứt. Bậc Trí tạm hiểu nó sanh
diệt, bậc Thiền Sư tỏ tánh nhờ nhìn nhận thấy biết đặng nó có rất nhiều chất kết nạp
nhau trở thành bản chất vận chuyển trong thân mới đặng NGHE, THẤY, BIẾT, cái
Nghe Thấy Biết chưa phải là Linh Hồn Tối Thượng, chính nó là một mục tiêu cho
con người đoạt đến LINH HỒN TỐI THƯỢNG.
Thiền Sư thường nương theo TÁNH THẤY, đoạt đến CHÂN TÁNH THẤY
không hai tướng, bèn dùng Tưởng Quán Như Lai soi thấy các cõi VÔ HÌNH, đối với
con người chưa thấy được, Thiền Sư đã thấy.
Làm thế nào nương theo Tánh Thấy, đoạt đến cái Thấy Chân Như, Thấy không
hai tướng để nhận được các cõi Vô Hình trước con người chưa thấy, mà Thiền Sư lại
thấy?
Khi Thiền Sư thấy, Thiền Sư chưa vội chấp nhận cảnh thấy nơi mình là thật.
Từ nơi tư tưởng phát sanh cho đến tư tưởng diệt, từ nơi bản tánh phất khởi cho đến
bản tánh thối lui, Thiền Sư thảy đều soi sáng từng lúc, từng hồi để nhìn thấy tư tưởng,
nhìn thấy bản tánh nơi mình. Khi Thân Tâm rõ thấu tận cùng tư tưởng, tận cùng bản
tánh của mình cùng với nơi con người trùm khắp, Thiền Sư đặng biết tỏ rõ, nhưng đối
với con người làm sao biết đặng. Lúc con người thay đổi nơi thấy là do tư tưởng hiệp
tánh thấy trở thành cái thấy nơi con người, cho nên đối với con người nhìn thấy nơi
chung quanh mình toàn là hoàn cảnh tái diễn bao vây. Còn đứng hàng Bồ Tát thời
nhìn thấy vạn pháp xoay chiều Thuận Nghịch phản chiếu, nên Bồ Tát nhiếp thu vạn
pháp. Đứng nơi Phật Trí nhìn thấy Diệu Dụng Như Lai, Hạnh Nguyện Bồ Tát nó như
thế, đó chính là Thiền Sư đã thật rõ quyết định.
Đứng trước hoàn cảnh con người, con người thường chấp nhận là có Ma, nên
đến nhờ ThiềnSư cứu giúp. Thiền Sư vẫn gật đầu chấp nhận cứu giúp, như thế thì hồn
Ma đã có nên Thiền Sư mới chấp nhận, nếu không có Ma thì Thiền Sư chối từ nào có
gật đầu hứa chịu.
Khi bấy giờ Thiền Sư đến nơi để giúp, giúp rất kết quả hoàn mỹ. Tại sao lại có
Ma quả nhiên đúng như thế? Vì Thiền Sư đã điều ngự bản năng, điều ngự MA TÁNH
110
nơi chu thân Thiền Sư, Ma Tánh ấy dưới sự điều khiển của Thiền Sư, nên chi Thiền
Sư vừa đến nơi ngoại cảnh và Thân Tâm Thiền Sư giao cảm phối hợp nhau liền có
một Loài Ma, từ nơi thân Thiền Sư phát ra, đứng trước mặt Thiền Sư thưa gởi: 
“Kính thưa Thiền Sư, loài Ma nơi nhà nầy, nơi chốn nầy, trước kia đang còn tại
thế bản tánh hay gạt gẫm kẻ khác để thỏa mãn ăn uống nhu cầu mình cho sung
sướng. Sau bị nhiều kẻ mắng nhiếc la rầy, chẳng biết hối cải, chỉ một lòng thù hận
liền xãy đến việc chém giết, nên trở thành loài Ma phá rối. Chính bản năng nơi con
ngày trước cũng như thế, may nhờ Ngài hóa giải nên con mới đặng như ngày nay.
Vậy Ngài cho con được phép cứu giải cho hắn.” 
Thiền Sư gật đầu, niệm chú chấp nhận. Loài Ma nơi Thiền Sư, cùng với loài
Ma bên ngoài nói năng chốc lát, hàng phục liền hóa sanh, loài ma phá phách được
siêu độ. Đó chính là một việc Thiền Sư cứu độ vậy.
Có một hôm Thiền Sư đến trãng núi, đến khu rừng đang ngồi an dưỡng. Bỗng
nhiên trời mây u ám, hơi lạnh bốc ra, âm khí nỗi dậy làm cho cây lá chuyển mình, tai
nghe tiếng rên rỉ thảm thê in tuồng van lạy, mắt thấy khói đen pha lẫn trắng xanh
đang quay quần bên Thiền Sư. Thiền Sư thật biết vong hồn u ẩn đang cầu cứu những
gì, nên chi Thiền Sư tay bắt ấn, niệm khẩu chú, sau lúc đó có một Quái Tặc nơi thân
Thiền Sư hiện ra vòng tay thưa thỉnh: 
Kính thưa Thiền Sư, khu rừng và dãy núi nầy, bảy trăm năm về trước, có một
bọn Quái Tặc cướp bóc, giết người chẳng gớm tay, chúng chưa tin hậu quả là gì,
miễm sao chúng cướp cho nhiều của cải chúng hoành hành tàn nhẫn. Đến sau có trận
cuồng phong cây rừng doanh trại của chúng bị tàn phá, lương thực chúng đều hư hại,
không còn đủ cho chúng tiêu dùng, phần thì quan quân lúc bấy giờ đang chăm vào
chúng, dân giả khiếp sợ chúng chẳng dám vãng lai, làm cho chúng nhịn đói chết lần.
Khi ấy chúng hối hận, chúng nói “Tiền bạc, vàng ngọc không thể nuôi ta đặng sống,
chỉ có gạo thóc với tình thương mới bảo toàn thân mạng chúng ta mà thôi.” 
Hôm nay chúng gặp phải Thiền Sư, Thiền Sư có nhiều đức tánh giao cảm đồng
ứng nên chúng biết mà đến mong Thiền Sư cho lệnh Siêu Thoát chúng. Tôi xin thừa
hành lệnh chung cùng nói năng chúng, cũng chuộc lại tội lỗi nơi tôi ngày trước có
chủng tánh Quái Tặc như chúng.
Thưa xong Quái Tặc đứng lại một bên chờ lệnh. Thiền Sư gật đầu, miệng phát
ra tiếng Thổ Âm, tất cả khu rừng chuyển động, tự nhiên trời thanh gió mát, không khí
trở lại bình thường. Bọn Quái Tặc được siêu độ vào Thiền Âm Tự tu hành, ngày sau
siêu thoát.
Theo như thường lệ, Thiền Sư đi bát xong trở về Tịnh Thất. Đến đầu làng chỉ
có một con đường duy nhất vào làng. Bỗng nghe tiếng hét la của Thiếu Nữ, vẻ mặt
thiếu nữ sợ hãi, miệng đang gào. Sau lưng có một số người đuổi theo thiếu nữ, thiếu
nữ vừa chạy giáp mặt Thiền Sư, thiếu nữ dừng lại nhìn Thiền Sư in tuồng cầu cứu.
Thiền Sư bảo: 
111
“Con hãy quỳ xuống.” Thiếu nữ ngoan ngoãn qùy trước mặt Thiền Sư ,lúc bấy
giờ vẻ mặt Thiền Sư trang nghiêm khó tả, Thiền Sư đưa tay ấn chứng, miệng lâm râm
ấn chứng, xong bảo thiếu nữ về yên nghĩ, thiếu nữ hồi tỉnh trở về.
Đến mấy hôm sau, thiếu nữ cùng đi với bà Cụ, đến Tịnh Thất lễ bái. Thiếu nữ
quỳ thưa: 
“Kính bạch Thiền Sư, hôm trước con đi ngang qua Miếu Võ, đương nhiên con
thấy một khối lửa từ trong miếu bay ra, con phát sợ, thân mình rung chuyển, con nhìn
khối lửa không còn thấy rõ ràng vị Thần hung tợn vươn hai tay định bắt con. Con
đâm đầu chạy hét la cầu cứu, con chạy trên tất cả gai, chạy qua gò mả như chạy ở đất
liền, vị thần chưa chịu buông tha, con càng chạy nhanh bao nhiêu thì vị thần chạy
mau bấy nhiêu sát gần đến con. May thay gặp Thiền Sư giải cứu. Đến giờ phút nầy
con quỳ trước mặt Thiền Sư, vì con tin lời mẹ con bảo, chớ tâm còn đang nghi ngờ, vì
sao? Vì hôm trước con gặp vị Thiền Sư chưa phải là vị Thiền Sư ngày nay con gặp.
Lạ thay! Lạ thay! Vị Thiền Sư con gặp, vị ấy có rất nhiều tay, đầu Ngài đội Kim
Khôi, mình Ngài mặc Huỳnh Giáp, hào quang sáng tỏa một vùng, tiếng nói khác
thường trong thiên hạ, làm cho vị Hung Thần sợ hãi đảnh lễ Ngài, buông tha con,
hiện tình bây giờ con đang phân vân chưa biết giải. Tại sao cái thấy lúc đó đến nơi
thấy bây giờ khác biệt. Kính mong Thiền Sư cứu mạng con bằng tư tưởng ổn định
cho con yên tâm.” 
Thưa thỉnh xong ngồi lại một bên. Thiền Sư suy nghĩ. Ta có nên nói thật
không? Nếu Ta nói chủng tánh Giả Tưởng làm sao thiếu nữ nghe đặng, nếu như Ta
nói thiếu nữ có tính nóng đồng thời gặp đặng hai tánh hiệp nhất hóa sinh ra nơi thấy
đồng đẳng làm sao thiếu nữ hiểu đặng.
Nếu Ta nói Ta dụng Thần Thánh hóa thân Chuẩn Đề thu phục Hung Thần thì
làm sao thiếu nữ tin nghe đặng, nếu Ta nói hiện giờ Ta ngồi đây, nhưng lát nữa Ta
hóa thân ra khi có người đến dự kiến hoặc nói mỗi ngày như thể Ta tự hóa ra trăm
thân trở về với một thân thì thiếu nữ kia nào có hiểu được tí nào. Nói như thế chưa có
lợi, nói như vậy chưa có ích lại thêm vào thiếu nữ vọng tưởng đảo điên. Thiền Sư suy
nghĩ liền giải đáp: 
Nầy Thiện nữ, tính nơi thiếu nữ tốt có tạo phước nhiều, nên chi gặp phải Hung
Thần xảy ra điều không hay, liền gặp Đức Chuẩn Đề ứng hiện bên Ta mà cứu mạng.
Vậy kể từ nay cho đến sau, Thiện Nữ nên Niệm Phật, nên tu tâm, sửa tánh, giải tỏa
những tánh nóng cầu lấy chư Phật gia hộ. Nghe xong thiếu nữ mừng rỡ trở về tu tâm,
sửa tánh thành con người hiền đức.
Tại sao lại có Hồn Ma cùng Hồn Quái Tặc đến hồn của Hung Thần từ nơi thân
Thiền Sư xuất hiện để cứu độ trên đã nói? Chính Thiền Sư thật biết toàn thân nơi con
người, có một Linh Hồn duy nhất bất diệt, ngoài linh hồn bất diệt còn có Bá Thiên
vạn triệu Bản Ngã Giả Tưởng, gọi nó là TIỂU NGÃ. Con người lầm tưởng Tiểu Ngã
Giả Tưởng kia là linh hồn mình, nên nương tựa theo Giả Tưởng để sống nơi lý tưởng
112
thường tưởng định tưởng, chớ nào biết sống Linh Hồn ĐẠI NGÃ Anh Linh bất diệt,
vì vậy nên tìm không tỏ rõ, không thể nào ra Linh Hồn Bất Diệt. Những Giả Tưởng
đó chính là Chủng Tánh nó chia ra nhiều lớp, nhiều giai cấp, nhiều thứ tự, nhiều cử
chỉ trạng thái khác nhau diễn giải không hết đặng, nó có từ PHẬT CHỦNG đến
Thánh Chủng qua Tiên, Thiên Chủng, Thần Thánh Chủng cùng Yêu Tinh, Ma Quái
Chủng, vì nơi Lầm ấy mà con người tạo thành Tam Thiên Tam Giới, Lục Đạo các
Cõi các Cảnh Giới, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, trong Tam Thiên còn có
rất nhiều Cảnh Giới, nhiều Cõi, nhiều Loài sinh sống khác biệt nhau như: Thế Giới
có loài đi ngang, loài đi ngữa, loài đi đứng, loài đi nằm, loài đi ngược, loài đi bò, loài
đi lết, loài đi trường, loài đi nhảy, loài đi khum, loài vô trí, loài vô thức, loài vô nhân,
loài vô tác, loài đinh, còn hằng hà sa số các cõi, các cảnh giới không thể nào nói hết.
Con người đang bị sống theo TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG đương nhiên phải
dùng tưởng để mà sống, ngoài ra không còn cách chi khác nữa. Con người trong bá
thiên vạn Tiểu Ngã lầm chọn lấy một NGÃ làm linh hồn mình thì đương nhiên phải
tùy thuộc nơi Ngã ấy, cho nên đứng trong phương diện mà nói thì chọn lấy NGÃ nào
phải tùy thuộc nếp sống từ cử chỉ đến ngôn hạnh nơi Ngã đó mà hành sự. Nếu có ai
chỉ trích rằng: “Ông thế nọ hoặc ông thế kia, làm như thế là sai.” thì người ấy liền cãi
không CHẤP NHẬN nơi sai của mình, trái lại phản đối sự chỉ trích trên. Từ các bậc
Thánh với Con Người, từ bậc Hiền Triết, Siêu Nhân với Con Người nó khác nhau
như thế nào? Nó có khác hơn con Người ở nơi lìa Ngã Tưởng nhiều ít mà thành chớ
chẳng khác hơn con người chi cả. Còn bậc ĐẠI NGÃ TỐI THƯỢNG khác hơn con
người ở nơi thu nhiếp hàng phục tất cả GIẢ TƯỞNG về với chính mình điều hành
Giả Tưởng không mắc míu lấy một Giả Tưởng. Chẳng khác nào một Lãnh Tụ chung
khắp toàn dân, lãnh tụ có quyền điều khiển chớ chưa phải Lãnh Tụ là người dân.
Cứ nhìn theo lời nói trên để tự chấp nhận được biết, trong thân thể CHẤP
NHẬN có rất nhiều Giả Tưởng Bản Ngã, mỗi Giả Tưởng là một chất nơi nó con
người dung dưỡng tánh chất ấy, sau khi nó thành hình nó đã trưởng thành, thân mạng
con người suy yếu đến Mãn Phần, gọi là CHẾT thời con người ấy nó về nơi nó đã
từng vun trồng nuôi dưỡng. Lời nầy đã từng nói nhiều nhưng con người chưa lãnh hội
đặng, mà Đạo Phật đã giải xong trên bước đường SANH TỬ LUÂN HỒI.
Đạo Phật từng biết con người lầm lẫn, con người vốn sẵn đồng thể với Vũ Trụ,
đồng chủng với Vũ Trụ, đồng hành với Vũ Trụ, đồng có Linh Hồn Tối Thượng y như
Vũ Trụ, đồng di chuyển linh động, từ hơi thở đến hơi nóng, tánh lạnh, cứng cỏi và
mềm dẻo như Vũ Trụ không khác.
Vũ Trụ đã biết sử dụng, còn con người chưa biết sử dụng nên mới bị sanh chớ
chưa được sanh như Vũ Trụ sanh ra con người.
Tại sao Vũ Trụ biết sử dụng? 
Vũ Trụ biết sử dụng nên trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới, các thế giới
từng lớp lang thảy đều sống theo lớp lang của mình chẳng bao giờ lộn xộn. Vũ Trụ
113
biết sử dụng thể hiện ra từng loài, mỗi loài thảy đều có tác động nơi nó chớ chẳng bao
giờ tác động khác nhau. Từng nơi hiểu biết từng loài cho đến sự hiểu biết từng cõi,
từng cảnh giới, từng địa phương, từng trình độ, từng hoàn cảnh mỗi mỗi thảy đều có
thế hệ, đều có trí tuệ, đều có linh tánh, đều có trực biết, đều có giác nguyên, đều có
rốt ráo hoặc giả chưa rốt ráo, do Vũ Trụ biết sử dụng ban hành như thế nào, tất cả
thảy đều y như thế không sai chạy. Có người lầm tưởng cho lời nói nầy là thuyết
Định Mệnh chẳng phải thế đâu, đây chỉ biết nói thẳng, đồng chỉ thẳng VŨ TRỤ BIẾT
SỬ DỤNG. Con người chưa biết sử dụng, nếu biết sử dụng thì đoạt đến Vũ Trụ thoát
sanh khỏi Vũ Trụ.
Vũ Trụ còn biết kết nạp, biết hóa chất, biết biến chất, biết phân định, biết dung
dưỡng, biết tất cả lý sự dưỡng sinh từng nơi chốn. Có nơi thời ban thanh khí, có chỗ
ban thấp khí, có chốn ban không khí, cứ mỗi nơi, mỗi chỗ, mỗi chốn trong thế giới
cùng các Cõi, các Cảnh Giới thảy đều tùy thuộc khí hậu mà dung dưỡng đủ loài. Lại
biết phân định, biết biến chất, Vũ Trụ phân định loài cây cỏ nào biến chất hợp hóa chi
làm cho các loài cây trái mỗi thứ thảy đều có bản chất nơi nó trên Vũ Trụ nầy. Từ nơi
hóa chất kết nạp giữa hư không đầy đủ bá thiên vạn ức chất di chuyển kết nạp liền
hóa chất cung đốn dung dưỡng cho tất cả Sơn Hà Đại Địa cùng nhiều cảnh giới vô kể
đặng.
Một khi Thiền Sư biết đặng Vũ Trụ biết sử dụng, biết kết nạp hóa chất biến
chất, biết phân định dung dưỡng, Thiền Sư liền đem ra áp dụng. Cứ mỗi một TIỂU
NGÃ phân định nó như thế nào. Mỗi một tánh chất nầy, cùng tánh chất kia hợp giải
nó ra thế nào. Từ nơi Hữu Tướng dụng Định Tưởng trở thành Hữu Phi đồng đẳng, kết
nạp nhau nó hóa chất, biến chất, thành ra Cõi chi, nhờ như thế mà Thiền Sư mới thấy
tất cả thế giới HỮU VÔ như thấy bản đồ thật sự.
Lúc Nghe, Thấy, Biết nơi Thiền Sư tinh nhuệ thì nhìn đâu biết đó, nơi biết
không thể diễn nói đặng, biết rất tỉ mỉ chân thật vượt tầm. Khi Thiền Sư nói ra hoặc
giả viết vào văn tự cũng chưa đầy đủ ý nghĩa để nói lên cái biết chính mình. Dù cho
có bậc nghe đặng một phần nào thì phần ấy nó cũng thuộc về Giả Tưởng đặng nghe
thôi.
Có một hôm Thiền Sư cùng một số đi du ngoạn đến gành đá bên bờ biển.
Thiền Sư tĩnh tọa còn số người kia kẻ ngồi ngắm cảnh, người ngó biển khơi, trời mát
mẻ, sóng biển vỗ đều đặn, mặt nước xanh xanh, Thiền Sư vớt con Ốc Quắn dài độ
hơn một tấc, màu vàng nhạt, đặt con ốc trên lòng bàn tay. Con ốc ló đầu ra nhìn
Thiền Sư, Thiền Sư lẩm bẩm nói:
“Tại sao ông không chịu ra, tại sao ông xây bảo tháp cứ ngồi mãi trong đó.
Phải chịu như thế nầy, nên ra, nên ra nhận Vũ Trụ Sơn Hà cùng khắp là Bảo Tháp,
rộng rãi hơn, thoải mái hơn, hãy ra đi, nên ra đi.”
Thiền Sư vừa dứt lời, con ốc bò ra khỏi vỏ, bò chuyền trên tay Thiền Sư, nhẹ
nhàng Thiền Sư đặt con ốc xuống nước.
114
Lạ thay! Lạ thay! Con Ốc trước khi từ giã gật đầu in tuồng thiện cảm, Thiền Sư
mĩm cười chú nguyện. Một chốc sau đương nhiên có ngọn sóng dâng cao hơn tất cả
các con sóng thường lệ, có lưu tâm mới thấy đặng, số người thưa hỏi Thiền Sư:
“Kính thưa Thiền Sư, duyên gì con ốc được Thiền Sư chú nguyện, con ốc bò ra
khỏi vỏ? Xin Thiền Sư cho chúng tôi được nghe.” 
Lúc bấy giờ Thiền Sư trầm lặng chậm rãi đáp: 
Các ông hãy nghe đây: Thời xưa có vị Trưởng Giả họ Chu tên Kỳ, lúc bấy giờ
Ta là Hàn Sĩ Tu Trì, nhân một buổi Ta đi qua nhà gặp Trưởng Giả mời vào, lại đãi Ta
một bữa cơm, cơm nước xong Trưởng Giả nói:
Kính thưa Hàn Sĩ, tôi tự nghĩ, đối với tôi có sẵn bạc tiền, có sẵn tất cả tiện nghi
không thiếu sót, cứ để nó như thế nầy không ích lợi chi, nên tôi muốn xây tòa Bảo
Tháp, trên thờ Phật, dưới tu trì, may ra thân tâm thoải mái.” Ta vừa nghe như thế
hưởng ứng tán thành.
Sau ba năm Ta trở lại, tỏa Bảo Tháp đã xây xong, Trưởng Giả gặp Ta mừng rỡ,
đưa Ta dạo khắp tòa Bảo Tháp, Ta đi từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên, tòa Bảo Tháp
tựa in hình con ốc ngày nay. Khi bấy giờ Ta có thịnh tình đối với Trưởng Giả nên Ta
hứa, sau nầy Ta đoạt Vô Thượng Ta sẽ giúp đỡ cho Trưởng Giả đồng thời Trưởng
Giả phải nghe Ta, đến nay lời hứa thật sự mà Trưởng Giả đã nghe Ta, nên mới có
chuyện ở nơi trước mắt các ông.”
Tất cả số người đứng lên thưa thỉnh: “Vì sao Trưởng Giả lại chịu báo thân hình
con ốc”
Thiền Sư đáp: Nơi Phước Báo hay chỗ Chịu Báo chưa phải con người đang ở
chỗ giàu sang nhà cao cửa lớn mà sau nầy được đầu thai vào chỗ sang cả. Các ông
nhìn như thế chưa Đúng với chỗ con người sau khi chết sẽ về đâu. Các ông nên nhớ
bản năng tâm thức nơi con người phải vượt qua tất cả tập quán nhỏ nhen, tâm chí thù
hận, tánh nết gạt gẫm, cử chỉ điêu thoa, mong sao cho mình có lợi, ngoài ra mặc
nhiên không biết đến, lề lối như thế dù cho nơi kiếp hiện tại làm quan quyền hay giàu
có cho mấy chăng vẫn bị sa đọa. Khi ông Trưởng Giả Chu Kỳ đặng phước báo có cơ
hội xây Bảo Tháp thì chính nơi thân mạng ông ấy phải Tâm Thức sửa đổi tánh tình,
chớ nên ỷ lại tiền bạc, vượt qua tất cả ích kỷ khinh người để tu thì Bảo Tháp mới có
giá trị. Chớ cứ ôm lòng Tự Ngã, nuôi mộng vọng tham không phát sanh phước điền,
chưa làm gì cho thân tâm ích lợi, đó gọi là tu Bảo Tháp chớ chưa tu thân mạng. Nên
chi trong một thời nơi Công Đức trước nay đã tiêu dùng hết phước làm gì không chịu
báo vào con ốc.”
“Kính thưa Thiền Sư, vì duyên gì, vì phước chi Trưởng Giả đặng một kiếp
sung sướng như thế?”
Thiền Sư nói: “Các ông nên biết, đứng làm con người luôn luôn mỗi một kiếp
nó có một cơ hội, cơ hội ấy nó gặp dịp may phát triển hay gặp nhân duyên phát sanh,

115
khi có nhân duyên phát sanh chẳng chịu phát sanh thời nó vẫn diệt, lúc gặp dịp phát
triển chưa chịu phát triển vẫn bị đói nghèo.
Có một kiếp Trưởng Giả gặp đức Nhiên Đăng Phật ra đời, Chu Kỳ Trưởng Giả
tuổi đã quá cao, nghe tin Phật, bèn tùng theo với một số người đến lễ bái, lễ bái xong
ngồi lại một bên, đương nhiên Chu Kỳ nhìn thấy ĐÔI DÉP đức Phật, dưới ghế tòa Sư
Tử bị lệch, Trưởng Giả quỳ sát gần sửa đôi dép lại cho ngay ngắn, đức Nhiên Đăng
nhìn thấy, chứng minh Công Đức một kiếp có Nhân Duyên, một đời sung sướng. Sự
Chứng Minh nơi đức Phật cho Trưởng Giả nên mới gặp Ta, đồng thời khởi sanh Tâm
xây Bảo Tháp. Khi Ta đến lần thứ hai thăm viếng, sau khi Ta đi thời Trưởng Giả
dùng nơi Bảo Tháp sống cho yên thân, tu trong hình thức an lành chớ chưa biết chính
mình phải sửa đổi, như ta thường nói, Trưởng Giả cứ theo quan niệm tuổi thọ kéo dài
khá lâu, đến ngày lâm chung mến tiếc nên chịu báo trong hình thức con ốc vậy.”
Lúc bấy giờ Thiền Sư giảng giải xong, chúng tôi vẫn ngồi yên, trời mát mẻ,
tiếng sóng vỗ êm đềm. Thiền Sư nói tiếp:...

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

116
6. VŨ TRỤ LÀ MỘT KHO TẠNG HÀM CHỨA
Vũ Trụ chính là một kho tạng hàm chứa vô giá, không bao giờ Dư Thiếu, mất
mát nơi đâu cả. Vũ Trụ còn tinh nhuệ gìn giữ cất giấu hình ảnh từ ngàn ngàn xưa nay
vẫn y nguyên như cũ. Vũ Trụ còn sắp xếp hằng vô vô tỷ Cái Biết khắp nơi trong vũ
trụ về với Trọn Biết của Vũ Trụ, Vũ Trụ còn sắp xếp tỷ tỷ chất phẩm, mỗi chất phẩm
như thế có hàng tỷ tỷ thứ bậc, không bao giờ lầm lẫn sai biệt tí nào. Từ một giai cấp
của con người nơi giai cấp đó có vạn vạn trình độ ý muốn tư tưởng khác nhau, đối
với Vũ Trụ đã sắp sẵn, không lẫn lộn rất linh động tế nhị vô cùng.
Tất cả những vật dụng, từ cõi Trời đến cõi người chung khắp Tam Thiên Đại
Thiên Thế Giới, khi nó bị hư hao tiêu mất, dưới mắt con người, dưới mắt các cõi cho
đó là mất. Chớ đối với Thiền Sư nó vẫn còn, vì sao? Vì nó vào Kho Tạng của Vũ Trụ,
đứng yên hay để yên, đến lúc có khởi sanh nó liền ứng chất thành ra hình sắc vật
dụng như cũ. Cũng như có kẻ hút thuốc lá, điếu thuốc cháy, liền có chất thuốc trong
khói thuốc, khói thuốc bốc lên hư không, nó tìm cây thuốc nhập vào gọi là Lá Thuốc,
các phẩm vật như Trầm Hương các chất đốt thảy đều như thế, từ có Hình Tướng bị
hoại tan rã vẫn trở về hư không Vũ Trụ không thiếu sót dưới mắt con người không
thấy được cho đó là VÔ TƯỚNG, thật ra nó chưa phải HỮU hay VÔ chi cả. Nói
chung lại từ vật dụng của con người cho đến Ngôn Hạnh cử chỉ và tư cách trình độ
qua giai cấp, trong quả địa cầu nầy, đối với con người đã từng sống, đã từng thấy, đã
từng nghe, cũng đã từng biết. Khi con người nhìn thấy nó tan rã, đương nhiên tự nó,
nó trở về hư không Vũ Trụ vào nơi sắp xếp sẵn của nó, gọi là Hàm Chứa, chớ không
mất đâu cả. Ví như: Khi con người nói ra, lúc dứt lời nói, con người ngỡ rằng lời nói
kia mất, chớ thật ra lời nói còn mãi mãi, nó chạy vòng trong vũ trụ từng đoàn, quay
cuồng trong hư không, bất diệt, chẳng khác nào như cuộn BĂNG thu thanh, khi cuộn
băng thu xong, con người không thể nào nhìn thấy cuộn băng biết được nói những gì,
phải cần lấy chiếc máy Phát Thanh thì chừng ấy mới nhận nghe đặng. Đối với con
người, khi làm lúc nói, khi dùng lúc an nghỉ mỗi mỗi đều sắp xếp hư không Vũ Trụ,
đến lúc hợp tình, hợp cảnh nó liền ứng hiện không sai tí nào cả. 

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

117
7. VŨ TRỤ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
Vũ Trụ đối với con người cùng vạn vật, từ hình sắc, đến chưa hiện hình sắc
thảy đều nhiếp thu sắp xếp nơi Hàm Chứa Kho Tạng. Vũ Trụ lại là Đại Khoa Học
Siêu Đẳng, Đại Triết Lý Thượng Đẳng, tất cả những gì trong vũ trụ Tam Thiên Thế
Giới Vũ Trụ thảy đều Thượng Đẳng tất cả. 
Vũ Trụ trợ giúp cho con người cùng các sinh vật có cái Nghe, Thấy, Biết tinh
nhuệ thần thoại Siêu Nhân, Siêu Thiên, Siêu Tiên - Thần mà chính con người cùng
các nhân loại không hiểu chi cả ngỡ nơi ấy là của mình.
Thân mạng con người khi kết hiệp đầy đủ liền có cái NGHE, THẤY, BIẾT,
nhờ Nghe, Thấy, Biết làm đường dây liên lạc giữa con người với vũ trụ, sự tương
quan mật thiết, nơi khẽ động giao cảm trong con đường giây ấy không sai chạy, có
những gì Vũ Trụ diễn tiến vũ trụ phát sinh, vũ trụ hóa giải thảy đều tương ứng nơi
con người với Vũ Trụ.
Nhưng đối với con người hiếm bậc đã biết. Họ tự đem tư tưởng cái Nghe,
Thấy, Biết nhịp nhàng với vũ trụ sai chạy khắc biệt, trở thành quan niệm Tư Hữu,
đương nhiên nó phải bị riêng rẽ hai khối VŨ TRỤ với CON NGƯỜI.
Từ chỗ sai nầy đến chỗ lầm kia làm sao hiểu biết Chân Đế Vũ Trụ Con Người
đồng nhất. Nên chi con người cứ theo tư tưởng sai biệt mà cho là tư tưởng nơi suy
tưởng đúng, do đó mới nhìn Vũ Trụ làm đấng Thượng Đế ban lành hoặc ông Trời
nhỏ phúc, trở nên quá nhiều màu sắc, quá lắm quan niệm theo ý thức mình đối với
Vũ Trụ Nhân Sinh, đối với lý trí giữa con người với con người tranh đấu.
Đạo Phật cũng phải chịu chung nơi quan niệm của con người trong thế hệ nầy.
Chớ con người nào có hiểu Đạo Phật đứng ngoài tất cả, lại nhìn chung tất cả mà đặng
cái NGHE THẤY BIẾT chung cùng với Vũ Trụ CON NGƯỜI ĐỒNG NHẤT. Đạo
Phật đã nói rất nhiều, nói rất rõ ràng cốt cho con người hiểu biết Vũ Trụ với Con
Người. Nhưng càng nói nhiều bao nhiêu lại càng rắc rối bấy nhiêu, vì bị trong vòng
Lý Đoán của con người sanh ra rối loạn. Chỉ vì con người chưa nhận định căn bản để
mà nhận định, nếu con người có tỏ rõ nơi nhận định căn bản, liền biết nhận định đến
Cơ Bản mà Tri Kiến Giải Thoát, đây là lời nói rất thiết thực chân thật đọc giả nên lưu
ý.
Đạo Phật tìm phương thức để cho con người chính mắt họ đã trông thấy Vũ
Trụ là một Kho Tạng hàm chứa từ HÌNH SẮC đến chưa có hình sắc thảy đều sắp xếp
trong Kho Tạng, cốt con người hiểu biết tường tận đoạt đến NHƯ LAI TẠNG, nhờ
trí tuệ thoát siêu mà hoàn toàn giải quyết vũ trụ.
Nên chi mới trao cho con người cố tạo cho đặng CẶP MẮT THIỀN SƯ, gọi là
NHƯ LAI NHÃN TẠNG mới có thể nhìn nhận lời trên nói chân thật.
Khi con người Khởi Sinh tư tưởng, tư tưởng khởi sinh, tư tưởng bị diệt đó
cũng gọi là chiếc máy nổ chưa có hướng định, tư tưởng tư duy gọi là tư tưởng cầu an.
Nơi tư tưởng nó có muôn ngàn lối nơi nó, nó tùy theo Bản Năng Khả Năng một khi
118
tư tưởng có định hướng thì nó mới hành sự, gọi là: TƯ TƯỞNG LÀ MẸ ĐẺ HÀNH
ĐỘNG.
Con người muốn đặng Cặp Mắt Thiền Sư, ít nhất phải theo Pháp Môn THIỀN
đưa tư tưởng có hướng định, đem con người vào một lối Nghe, Thấy, Biết có tiêu
chuẩn, làm con người kia thành một chiếc máy Ra Đa thu nhận, vì con người trót đã
lạc hướng Vũ Trụ cùng con người. Thiền Sư vừa nói đến đây, lại vừa hỏi cùng với
giải đáp như sau: 
“LÀM THẾ NÀO ĐƯA TƯ TƯỞNG CÓ HƯỚNG ĐỊNH?”
Muốn đưa tư tưởng có hướng định, trước tiên hãy ngồi xóa hết tư tưởng, cho
thân tâm rỗng rang đương nhiên không khởi tư tưởng, nhưng trước mặt vẫn nhìn
thấy. Nơi thấy ấy bất luận thấy chi cũng được, gọi là: Không tưởng mà tưởng, không
thấy mà thấy, miễn sao cái thấy không khởi, miễn sao cái tưởng không khởi, vì có
khởi tức nhiên cái khởi thuộc về VỌNG, không khởi đương nhiên có tư tưởng, đương
nhiên có nhìn thấy thì mới bước vào nơi thật thể thừa hành vũ trụ để mà thấy, để mà
tự biết, đặng mà đặng nghe.
Các ông cũng nên nhận định rằng: Nơi trực thấy, nơi tự biết, nơi đặng mà đặng
nghe không có nơi ràng buộc vọng khởi, vì sao? Vì tư tưởng khởi sanh liền đó tiếp
diễn khởi diệt, hai nơi sanh diệt thảy đều có nguồn vọng khởi, thảy đều sai lầm tư
tưởng. Nếu trường hợp các ông gặp phải diễn cảnh nào hoặc giả đứng trước một
người nào chẳng hạn mà các ông dùng khởi sanh để quán xuyến thời các ông bị sai
thấy, vì nơi thấy trong lý đoán khởi sanh vọng tưởng, trở thành bị sanh liền có Đối
Tượng, bị sanh nghi ngờ, bị sanh đố kỵ, bị sanh vướng vào Cá Tánh Cá Nhơn. Do lẽ
ấy nên chi những bậc Quang Minh Chính Đại nhìn bằng đôi mắt quân minh vô tư
quán sát, cốt tránh khởi sanh đối tượng nghi ngờ.
Khi các ông thực hành hoặc Tu Thiền Tọa xóa tư tưởng đến nơi, không tưởng
mà tưởng, đoạt đến mức đương nhiên không ràng buộc THƯỜNG TƯỞNG đến
ĐỊNH TƯỞNG, định tưởng nầy gọi là BỒ TÁT ĐỊNH. Còn hàng Tiên, Thần đến các
bậc tu tiên dùng ĐỊNH TƯỞNG KHỞI ĐỊNH, huân tập Định mà thành. Hai lối Định
đồng một văn tự, nó khác với hành sự tu hành. 
Đối với con người đa số đã sẵn có lối Bất Chợt Thấy, đương nhiên Biết, chớ
chẳng riêng gì bậc tu Thiền mới có, bậc tu thiền cùng với con người chưa tu có khác
hơn là nhẹ thấy, nhẹ biết, cùng với nặng thấy chậm biết đó thôi. Khi con người lối
Thấy bất chợt, trực biết tự nhiên cho đó là LINH TÁNH hay TÁNH LINH cũng thế.
Chớ nào ngờ: PHIM ẢNH vũ trụ đã thu nhiếp sắp xếp hàng trăm năm hoặc hơn thế
nữa, nay mình chợt thấy. Ngày nay Khoa Học đã tìm ra được loại Phim Ảnh nầy, nhờ
như vậy nên mới sáng tạo vệ tinh chụp hình lúc cần đến đỡ tốn hơn là thu ảnh vũ trụ
đã chụp.
Nói đến sự lần tiến nơi con người, sự khôn khéo kỹ thuật thẩm mỹ con người
phát sanh, có lắm bậc lưu ý từ một khởi điểm có triển vọng phát sanh, liền khai thác
119
khởi điểm nương theo thực hành đoạt đến đích phát triển một món vật dụng. Kể từ
cái Thấy trước cảnh đẹp họ sáng tạo đặng chiếc máy ảnh, sau phát triển đến Phim
Ảnh làm cho cảnh vật linh động,đến sau thu tiếng nói nhịp nhàng nơi phim ảnh, đến
những cuộn băng thu thanh tiếng hát lời ca Sự phát triển kỹ thuật khéo léo thẩm mỹ
nơi con người không kể hết đặng.
Nếu bậc có ý trí nhìn vào món hàng Nhân Tạo nó có cái cao đẹp khác nhau, nó
có trình độ tiến hóa mỗi nước, mỗi người sáng tạo hoặc phát triển. Khi nhìn đến
Thiên Nhiên sáng tạo, thiên nhiên cấu kết từng hạt cát đến viên sõi qua các dãy núi
đều có thẩm mỹ, đều có kỹ thuật, đều có linh động mỗi nơi khéo léo không thể nào
nói đặng.
Con người sáng tạo phát triển, Vũ Trụ cung cấp nguyên liệu, vũ trụ hỗ trợ cho
con người, con người đặng khôn ngoan lần tiến nhờ vũ trụ khai thông nguyên liệu,
nhờ khởi điểm phát sanh, nó cứ thế tiến mãi đến chừng con người tiến về sản xuất, về
năng lượng phát triển tận cùng của con người liền bị diệt vong xóa mờ tất cả. Do tại
sao bị diệt vong? Do năng lượng có chừng, số lượng kết hợp hóa sanh phát triển có
mức, con người vì cạnh tranh cứ mãi tiến, cứ mãi đi đi đến mức cùng bị vong diệt.
Đứng chung trong Vũ Trụ có Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, các cõi Tiên,
Thần, Rồng, Người từng lớp lớp. Đứng chung Hoàn Cầu có các nước Anh, Pháp,
Nga, Mỹ, Trung Quốc, Việt Nam cùng các nước khác. Đứng vào một nước có từng
giai cấp, từng trình độ, từng lớp khôn dại, giàu nghèo, đó là một sự thường của Vũ
Trụ.
Nhược bằng trong Vũ Trụ có Phật Quốc không chưa phải là vũ trụ mà là Phật
Quốc. Nếu đứng trong Hoàn Cầu có một nước nào đó không, ngoài ra không có các
nước thời gọi là Nước Đó chớ chưa phải hoàn cầu. Bằng một nước kia có một lớp
người, một giai cấp không từng lớp khác thì nó như thế, nó cũng gọi là lớp con người
chớ chưa phải một nước, đó là sự thường kết nạp nó như vậy.
Nói đến Vũ Trụ với con người, con người chưa bao giờ biết đặng vũ trụ có
hàng Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Mỗi Thế Giới Tiên, Thần mức sống tầm sống
vật dụng tinh xão tốt đẹp gấp ngàn lần thế giới con người. Sự linh động thông thái
mỗi lớp cao kiến, mỗi tuần trời, mỗi Cõi, mỗi Cảnh Giới đều có Chế Độ sự nghiệp
khác nhau, vì hiểu biết bất đồng nên nó có như thế. Thế Giới con người cùng các Thế
Giới chư Thiên, chư Tiên khó biết nhau, khó hiểu nhau, khó gặp nhau, không khác
nào mỗi Thế Giới là một giống vi trùng trong Thân Thể, trong thân thể có bao nhiêu
giống vi trùng không bao giờ nó biết nhau, không bao giờ nó chung nhau một cái
sống, đối với Thế Giới con người cùng các Thế Giới cũng thế.
Đứng về Vũ Trụ sanh mà nói, cũng được gọi là Thiên Nhiên Sanh, thì chỉ có
hóa sanh kết tạo mà thành. Sự kết tạo thiên nhiên chung gồm đủ chất trong Vũ Trụ
hóa sanh một giống. Cho nên một giống cây kia, cây ấy đã có Cái Biết, nếu nó không
biết làm sao nó lại hút màu mỡ để nuôi cây thành trái? Khi cây đó héo khô đến mục
120
nát tự sanh con Mọt, chính con Mọt là cái biết thoát ra khỏi cây. Thật ra tất cả hiện
vật trong vũ trụ thảy đều nơi vũ trụ hóa sanh, nên chi chất nào con người kết hợp đều
có sẵn Chất Hóa chớ con người làm sao sáng tạo chất hóa? Con người chỉ lấy hiện
vật có sẵn kết nạp với nhau gọi là Biến Chất. Dù cho con người có tiến bộ đến đâu,
khám phá vũ trụ, dạo khắp hành tinh, không ngoài thu nhặt hiện vật nơi hành tinh
đem về thực nghiệm, nào biết được PHI VẬT là chất chưa hóa sanh ra hiện vật. Chỉ
trừ ra, con người dùng Trí Tuệ khám phá thân mạng, lúc khám phá xong chừng ấy
mới tỏ rõ Vũ Trụ.
Khi con người đã có Thân, thì thân ấy bị vũ trụ hóa sanh, bị toàn chất trong vũ
trụ kết hợp thành thân, liền phải bị sống trong thế hệ của con người cho nên con
người tài giỏi, tiến bộ đến đâu chăng cũng có quyền Biến Chất hay Hóa Chất chớ
không thể sáng tạo Hóa Sanh.
Cũng như con người đã bị sắp xếp vào giai cấp thì con người đó có thể vượt
qua đủ trở ngại tiến lần lên từng giai cấp gọi là BIẾN CHẤT hoặc Hóa Chất chớ
không thể HÓA SANH thân khác được. Dù cho con người đó vươn mình hiểu biết
Siêu Đẳng thành Phật chăng thân thể vẫn y nguyên chờ Viên Mãn nhập Bát Đại Niết
Bàn mới Hóa Sanh Bát Đại.
Bản Thân thuộc về bản chất con người có thể biến chất không thể Hóa Sanh.
Duy có Trí Tuệ mới có quyền HÓA SANH. Thiền Sư nói đến đây ngưng giây lát nói
tiếp: 
“Các ông cũng nên biết, tại sao Trí Tuệ có đủ quyền hóa sanh còn Thân Mạng
không thể hóa sanh?
Trí Tuệ thuộc về NHƯ LAI TÁNH, còn thân mạng thuộc về Phật Tướng. Phật
Tướng có quyền nâng các ông từ phàm phu đến Phật Tướng gọi là Biến Thể chớ
chẳng phải là Hóa Sanh. Còn Như Lai Tánh nâng các ông rốt ráo viên tịch hóa sanh
Niết Bàn.
Nếu các ông dùng Trí, trong giờ phút nào đó, các ông chủ quán mình là Lãnh
Tụ Hoàn Cầu, bá vạn binh sĩ, hai hàng quan quân, không ai đến bắt các ông cả.
Nhược bằng dùng lời nói đến thân thể các ông liền bị điên rồ, cuồng vọng lại còn hại
đến mạng thân.
Các ông nên lưu ý, Trí Tuệ sáng soi tư tưởng kiểm điểm hành sự đã qua cùng
sắp đến, tư tưởng sanh diệt chung khắp mọi người và chính mình vẫn đang chạy theo
tư tưởng sanh diệt ấy. Tại sao mình vẫn theo tư tưởng khởi sanh diệt mà mình nhìn
thấy con người một bên mình có tư tưởng, mình biết đặng tư tưởng nơi họ? Tại vì
chính mình đang theo một GIẢ TƯỞNG khác với Giả Tưởng bên kia thành ra nhìn
thấy. Nếu đồng một Giả Tưởng thì không thấy. Nếu như chính mình đang ưa thích
thân cận với một người nào đó, mình nhìn thấy họ với mình đồng phải, đôi lúc mình
nhìn họ có chỗ trái với mình, thì các ông cũng nên soi lại! Họ vốn nhìn nơi mình

121
cũng đồng như mình nhìn họ. Đó gọi là đồng một TIỂU NGÃ sai lệch khi Giả Tưởng
khác nhau nên mới thấy như thế.
Trên đã nói mỗi một con người có BÁ THIÊN VẠN ỨC TIỂU NGÃ GIẢ
TƯỞNG, con người thường bị tư tưởng Giả Tưởng sanh diệt, từ nơi TIỂU NGÃ nầy
đến Giả Tưởng nọ không ngừng, nên dụng Trí Tuệ soi từng TIỂU NGÃ của một kẻ
cố thủ cho quan điểm nơi mình là đúng, đến kẻ kia lại có một TIỂU NGÃ khác hơn
vẫn cho mình là phải. Kẻ kia nhìn kẻ nọ phê chỉ khen chê. Các ông thử nghĩ mỗi
người đều mang vào mình bá thiên vạn ức Tiểu Ngã, hết tiểu nầy đến tiểu khác mà
gay cấn nhau mãi, khi hiệp lúc tan từ tư tưởng đến cử chỉ nó cứ mãi phân trách, nó cứ
mãi dị biệt quanh quần tìm chẳng ra lối thoát.
Khi con người có Trí Tuệ lần qua các Tiểu Ngã, lần rõ biết đặng Giả Tưởng là
bề vỏ của Tiểu Ngã. Từ nơi hiểu biết nhỏ hẹp, đến lúc tỏ rõ lớn lao không còn dùng
trí tuệ nữa mà chỉ duy nhất nhiếp thu cho rõ ràng bá thiên vạn ức Tiểu Ngã với Giả
Tưởng, liền được gọi là ĐẠI TRÍ, cũng đặng gọi là Bồ Tát Trí vậy.
BỒ TÁT TRÍ phải thi hành cốt tỏ rõ những Giả Tưởng của mọi người, tứng lớp
lớp người sống theo Giả Tưởng nó như thế nào, tự nó mơ ước ảo huyền đòi hỏi ra
sao? Nếu nó hành sự thì tác tệ như thế nào? Bằng nó phát ngôn ý trí Giả Tưởng nơi
nó, nhiều người hưởng ứng nó vui mừng ra sao? Bằng họ không hưởng ứng nó tự
sanh hờn giận ghét vơ hoặc bắt bớ đánh đập như thế nào? Gây ra Nghiệp Quả, Căn
Quả ra sao? Tất cả Giả Tưởng Bồ Tát lìa BẢN NGÃ, TIỂU NGÃ mà quán sát, mọi
người cùng với chính thân mạng mình, đặng thâm nhập thật biết sau khỏi lầm nơi Giả
Tưởng Sở Đắc Pháp Giới Hành Thâm.
Khi Bồ Tát sở đắc Pháp Giới tỉ mỉ, mới thật biết Giả Tưởng chính là khởi sanh,
khởi diệt tư tưởng, tư tưởng sanh diệt thảy đều là Giả Tưởng, Giả Tưởng cố thủ đưa
về TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG. Sau đó Bồ Tát mới Hành Thâm BÁT NHÃ, cốt rốt ráo
TIỂU NGÃ thật biết tỏ rõ Tiểu Ngã mà Sở Đắc BÁT ĐẠI, đến tròn Bổn Nguyện viên
mãn mà tường tận NIẾT BÀN, được gọi chung là BÁT ĐẠI NIẾT BÀN.
Các ông cũng nên biết rằng: Trong vũ trụ nầy một vị Chánh Giác rốt ráo bá
thiên vạn ức Tiểu Ngã mà thọ chứng Bát Đại Niết Bàn rất hiếm. Duy chỉ có một vị
chớ chưa bao giờ có đến hai vị, đừng nói rằng đến năm, mười vị hoặc giả có hàng
trăm vị, vì sao? 
Vì ĐẠI NGÃ là một Linh Hồn Tối Thượng Chánh Giác, ngoài Đại Ngã có bá
thiên vạn ức TIỂU NGÃ. Mỗi một Tiểu Ngã như thế thành tựu lấy một CÕI hay một
THẾ GIỚI hoặc một CẢNH GIỚI. Cũng như: Ma Quỷ, Quái Tặc, Tinh Yêu, Rồng
Người, Thiên Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, cho đến Tiên Thần,
Thánh Phật, mỗi mỗi Tiểu Ngã đều Cảnh Giới, đều là thế giới kể không thể nào hết
đặng, vì bá thiên vạn ức tiểu ngã có bá thiên vạn ức cõi và cảnh giới. Nhược bằng các
ông mỗi ông cố thủ lấy một Tiểu Ngã thì nơi Tiểu Ngã của ông nó có bá thiên vạn ức
Giả Tưởng, Giả Tưởng đó nó chu tất cho Tiểu Ngã, nó gìn giữ cho Tiểu Ngã khỏi
122
thoát ra ngoài lập thành một nếp sống về lý tưởng của nó mà thành đạt riêng của nó.
Nếu có người hướng về Tiên Đạo, tánh tình họ đã có sẵn nhiều ít về Tiên, đến ưa
thích tu Tiên, sau khi Tư Tưởng Giả Tưởng đưa họ đến Tiểu Ngã, họ chấp Tiên Đạo
là cao cống, là thiết thực hơn cả khó làm cho họ nhận định được Phật Đạo.
Bằng có kẻ tôn trọng kính cẩn về THẦN LINH Tư Tưởng huân tập thành tựu
Giả Tưởng, Giả Tưởng nung đúc Thần Đạo huân tập, họ nhìn nhận Thần Đạo Linh
Thiêng cứu độ hiện hữu là cao cống đứng nhất chưa có đạo nào hơn đặng mà thủ
chấp.
Nếu có người khởi lòng Thần Quyền Thánh Mẫu tôn thờ Mẫu, cầu vái giáng
bút cơ hoặc trai đàn ứng khẩu, sau khi huân tập giả tưởng, phát sanh tư tưởng quá tin,
thời nhìn thấy không nơi nào hơn Thánh Mẫu mà thọ chấp.
Bằng có kẻ tin Cô, Bà, Thần Cấm, Thần Két hoặc Ma Quỷ, tùy thuận đồng hợp
Tiểu Ngã ưa thích liền có tư tưởng tôn sùng, Giả Tưởng tùng theo một nếp sống lý
tưởng nơi họ, đồng chấp nhận hơn tất cả, ngoài ra chưa có gì hơn mà thọ ngã.
Nếu có người chưa vào Đạo nào, chưa tin ai cả vẫn sống lập dị Tiểu Ngã, ngỡ
rằng như thế là hơn cả Tư Tưởng Giả Tưởng thảy đều làm như thật để cho người kia
yên trí chính mình cao hơn ai cả mà thọ chấp.
Bằng có kẻ không tin Trời Đất, quỷ thần, không tin ma quái, có làm mới có ăn,
chưa làm thì phải đói, liền có Tiểu Ngã in tuồng như thật, tư tưởng Giả Tưởng vẫn
phục vụ cao cống, vẫn phục vụ như thật mà cố thủ.
Nếu có người cho ta đã thành Phật, thành Thánh hay ta đạo đức chưa ai bằng,
mỗi một nhận định in tuồng như thật, từ cử chỉ đến trạng thái in như Phật, Thánh, đạo
đức, thuyết giải toàn đạo đức hành sự như Thánh, Phật gieo rắc toàn Thần Thánh Hóa
đem đến cho con người toàn diện mơ màng Phật Thánh, chớ hiếm bậc hóa giải rành
mạch đem đến sự ích lợi Kiến Tri.
Những bậc nầy đa số mơ màng, miệng nói mà tâm chưa biết, thuyết giả nhưng
chưa biết soi giả để hoàn chân, thuyết giả nương theo giả ngỡ thật đâm ra cạnh tranh
phỉ báng, họ lại lìa Tiểu Ngã mà Thọ Chấp Giả Tưởng, họ theo Giả Tưởng nên ngỡ
mình thành Phật, thành Thánh, thành Chân Tu Đạo Đức. Những bậc nầy dù cho họ có
thành Phật, thành Thánh chăng cũng vẫn Phật, Thánh Bản Ngã Giả Tưởng thế thôi.
Lúc bấy giờ số người đứng lên thưa hỏi: “Kính thưa Thiền Sư, như thế thì Tam
Thiên Đại Thiên Thế Giới, Rồng Người, Càng Cát, Đà La Ni, Lục Đạo, Tam Giới hết
thảy, cùng hết thảy đều lầm nơi GIẢ TƯỞNG, lầm nơi TIỂU NGÃ mà trở thành hết
sao?”
Thiền Sư đáp: “Đúng như vậy, đúng như vậy. Vì lầm nơi Giả Tưởng thành tựu
nên mới sanh diệt, diệt sanh trong Vũ Trụ, nên chi Đạo Phật, đức Phật thường căn
dặn: “CÒN MỘT HOA ĐỐM LÀ CÒN MÊ LẦM, CÒN MỘT KIẾN CHẤP CÒN
SANH TỬ.”

123
Thiền Sư nói đến đây, nhìn ra biển khơi sóng biển nhịp nhàng từng cơn sóng.
Chúng tôi hồi tưởng lại lời nói Thiền Sư. Núi trời xinh đẹp, sóng nước thảnh thơi,
chúng tôi mới nhìn lại cuộc đời đang sống trong cơn ảo tượng. Bỗng nhiên Thiền Sư
nói: “Nầy các ông, nếu các ông biết so sánh Vũ Trụ với con người nó không riêng,
không khác, vì sao? Vì Vũ Trụ có THỂ CHẤT nơi Vũ Trụ, còn các ông nó lại có
TIỂU NGÃ, GIẢ TƯỞNG. Từ nơi một Thể, chung gồm có bá thiên vạn ức chất hợp
thành hóa sanh một đơn vị, đơn vị ấy chẳng khác nào như Gió chẳng hạn, như Nước,
như Đất, như Lửa đủ các Thể Chất hóa sanh Sơn Hà Đại Địa, Hóa Sanh các nơi trở
thành Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cùng cõi Rồng Người đến sinh vật Tứ Loài
chẳng thiếu sót. THỂ CHẤT rất linh động tinh vi tế nhị thanh thô đầy đủ, khó diễn
giải cho hết đặng, nên ĐẠO PHẬT gọi Thể Chất đó là: NHƯ LAI TẠNG.”
Thiền Sư nói đến đây, nhìn chúng tôi thấy vẻ mặt của chúng tôi vui vẻ đón
nhận Ngài bèn nói tiếp:....

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN


8. THỂ CHẤT CÙNG TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG ĐỒNG
NHẤT
"Vũ Trụ với con người, tuy hai văn tự, hai thế hệ lớn nhỏ khác nhau, nhưng
chính nó là Một, vì sao? Vì con người Thể Hiện Ứng Thân tiếp nối với Vũ Trụ, thừa
hành tất cả những gì vũ trụ đã có sẵn chưa mang ra đặng thì con người tìm được
mang ra, con người lại lầm tưởng nơi mình sáng tạo.
Đối với con người đã có sẵn đường dây tiếp nối với Vũ Trụ, đường dây ấy là
TIỂU NGÃ, bá thiên vạn ức Tiểu Ngã trùm khắp Vũ Trụ, mỗi Cõi, mỗi Cảnh Giới
đều đã có sẵn Tiểu Ngã. Nên chi con người tu Phật có Tiểu Ngã Phật, tu Thánh có
Tiểu Ngã Thánh, tu Tiên có Tiểu Ngã Tiên, đến tận cùng Địa Ngục vẫn có sẵn Tiểu
Ngã của mình ở Địa Ngục. Nếu con người không có sẵn thì không bao giờ tu thành
Vị Thứ hay Quả Vị, không bao giờ có Địa Ngục để mà sa vào.
Nói đến sự hiện diện con người ở Thế Nhân có Tiểu Ngã Nhân Thế. Nếu có
một con người nào có lập trường về với Tiểu Ngã chính mình tại Thế Gian, liền
tường tận được tất cả trên đời họ sống nhau bằng GIẢ TƯỞNG chính mình trở lại với
Tiểu Ngã, thì các ông cũng nên biết: Bậc như thế gọi là SIÊU NHÂN hay THÁNH
NHÂN, Tiểu Ngã nghe giảng, nghe nói ngỡ rằng dễ biết, dễ hiểu nhưng thật ra khó
biết đặng Tiểu Ngã chính mình? Vì tư tưởng mãi suy nghĩ, mãi tìm tòi theo Giả
Tưởng sống nơi Giả Tưởng nhiều hơn mình biết mình đặng. Cho nên con người biết
việc thiên hạ, biết những người chung quanh lầm lỗi nhiều hơn chính mình tự soi để
biết lấy mình. Khi bậc Siêu Nhân tự soi mình đặng biết người, tự lấy Giả Tưởng của
mọi người chừa bỏ Giả Tưởng nơi mình vương mang. Đạo Phật thật biết con người
xa lìa TIỂU NGÃ chạy theo GIẢ TƯỞNG cầu lấy hư vị, cầu lấy hư danh, ưa thích
khen tặng, đeo đuổi Tham Muốn, nên mới dạy TÌM CHƠN TÁNH ĐỂ TU, hay dụng
124
Thể Tánh tự soi vọng đảo, gọi là con đường Tự Tánh Tỏ Tánh, đến lúc Minh Tâm
Kiến Tánh, khi bấy giờ nhìn thấy Tâm mình vọng đảo, tánh mình an nhiên, được gọi
là THỂ TÁNH cũng là TIỂU NGÃ vậy.
Sự tham vọng Giả Tưởng nơi con người nói nó không cùng, nó có tham vọng
như thế nó mới phát triển tất cả các Đồ Dùng, nó có hoài vọng mới tìm ra CƠ GIỚI,
nhờ nơi tham vọng không ngừng nên chi ở thế gian con người chạy theo cạnh tranh
phát triển đua theo hơn thua được mất mà vươn mình sáng tạo đủ thứ hiện vật, đủ tất
cả khả năng con người phơi bày trên trái đất nầy, ngoài ra còn chẳng biết bao nhiêu
Cảnh Giới, chẳng biết bao nhiêu Cõi thảy đều nằm nơi Giả Tưởng phát triển. Như
trên đã từng nói vạn loài hóa chất phát triển, vạn chất Vũ Trụ hóa sanh để cung cấp
cho con người cùng các Cõi, nó nhịp nhàng chẳng khác nào CON THOI dệt cửi, do
đó mới gọi Thể Chất cùng Tiểu Ngã Giả Tưởng đồng nhất.
Còn đứng về phương diện mà nói: THỂ cùng TIỂU NGÃ nó có liên hệ mật
thiết với nhau vô cùng, nó chính là sự tiếp nhận thành tựu nơi con người với Vũ Trụ
từng lớp, cũng được gọi là: CHẾT SẼ VỀ ĐÂU, hay Chánh Báo cùng Chịu Báo trong
Vũ Trụ cũng là con đường Luân Hồi Sanh Tử, thay hình đổi kiếp vậy, các ông hãy
nghe cùng nhận định kỹ càng, trên bước đường Vũ Trụ với con người.”
Lúc bấy giờ chúng tôi yên lặng chăm chỉ nghe, bất chợt Thiền Sư hỏi: “Các
ông nhận thức như thế nào?" Chúng tôi đồng đáp: 
Theo nơi nhận định của chúng tôi, thì mỗi con người có đến bá thiên vạn ức
Tiểu Ngã, bá thiên vạn ức Tiểu Ngã ấy trải khắp Vũ Trụ, tùy thuận các Cõi, các Cảnh
Giới Tiểu Ngã an trú không thiếu sót Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. 
Thiền Sư gật đầu khen phải, liền hỏi tiếp:
“Mỗi Tiểu Ngã có bao nhiêu Giả Tưởng?” 
Chúng tôi đồng đáp: 
“Mỗi Tiểu Ngã có bá thiên vạn ức Giả Tưởng.”
Thiền Sư nói: 
“Về vấn đề TIỂU NGÃ nói ra thật khó nghe, khó hiểu cùng khó biết đặng, vì
sao? Vì các ông đa số đang nằm nơi Giả Tưởng, nên nói đến Tiểu Ngã duy chỉ có bậc
Thánh mới nhận được mà thôi, còn ngoài ra khó phân định đặng nó. Nhưng Tôi vì
đời sau trong kiếp nầy nói lên lời chân thật may ra có bậc nhận được chính là một
phương pháp môn cứu thế.”
Thiền Sư giải tiếp: 
“Đối với các ông vốn sẵn NGHE, THẤY, BIẾT đó chính là Tự Thể nơi Tiểu
Ngã, khi các ông dùng Nghe, Thấy, Biết quân minh, không có CÁ TÁNH thích hợp
mới Nghe. Không vì NHÂN TÁNH (cá nhân) riêng tư mà Thấy, thời nơi Biết kia
mới thật là Tự Thể Tiểu Ngã. Các ông cũng nên biết, TIỂU NGÃ nó có Tự Thể của
nó nên nó mới sáng soi, còn về GIẢ TƯỞNG không có Tự Thể nên chi nó mãi chạy
chẳng khác nào con Thỏ vậy.
125
Các bậc TU THIỀN TỌA căn bản là nhìn đặng các Giả Tưởng, bậc càng tu cao
bao nhiêu thì mau nhìn thấy Giả Tưởng bấy nhiêu, có nhìn thấy như thế mới khỏi lầm
lẫn mà Tỏ Tánh, có tỏ tánh mới biết được Tự Thể của TIỂU NGÃ, Tự Thể Tiểu Ngã
chính là THỂ CHÂN hay CHÂN NHƯ cũng thế.”
Thiền Sư muốn gom lại nghĩa trên nên Thiền Sư nói:
"Các ông nên hiểu biết tường tận, lãnh hội đầy đủ ý chí sau nầy khỏi sai lạc
như thế gọi là Tu Chủ Quán. Đối với LINH HỒN Tối Thượng hay NHƯ LAI hoặc
CHÁNH GIÁC, kể cả Vũ Trụ đến Thế Nhân thảy đều có một khuôn khổ y nhau nó
không sai khác, nhờ thế nên chi con người quá biết Thế Gian Giả Tưởng mà đặng trở
thành SIÊU NHÂN hay bậc THÁNH NHÂN, đó chính lời nói chân thật."
Linh Hồn Chánh Giác, THỂ cùng CHẤT nơi Vũ Trụ, đối với con người VÔ
THƯỢNG ĐẲNG ĐẲNG, đến bộ phận TIỂU NGÃ qua diễn hành nơi GIẢ TƯỞNG.
Không khác nào: Một Lãnh Tụ trong một nước hay một chánh đảng trong một vùng
hoặc một nhà Vua bĩnh trị trong một nước. Trên thời Lãnh Tụ tối cao được gọi là
Linh Hồn Tối Thượng. Dưới thời các hàng Tỉnh, các hàng Quận, các hàng Xã, được
gọi là TIỂU NGÃ, đến hàng dân giả bá thiên vạn ức gọi là GIẢ TƯỞNG. Từ nơi Giả
Tưởng dân giả cung cấp xây đắp TIỂU NGÃ, do lẽ ấy nên chi từ nơi Tiểu Ngã là
mức hiểu biết của dân giả có thể dùng lời nói hay văn tự diễn giải đặng, đồng thời
dân giả nghe đặng bằng dùng lời nói Tối Thượng làm sao diễn giải đặng, làm gì nghe
đặng, lời nói Tối Thượng duy chỉ có TIỂU NGÃ lãnh hội được phần nào, nhưng đem
ra phổ truyền công bố thì Tiểu Ngã nói chưa ra lẽ, nơi ba từng lớp Tôi nói ra đây
chính là một CHÌA KHÓA mở màn Vũ Trụ giao cảm với con người, các ông hãy
nghe đồng thời nhận lãnh.
Giờ đây nói rõ đồng thời chỉ điểm để cho con người ít nhất phải biết được giá
trị nơi mình có thể thi hành thực nghiệm được chính mình khám phá Vũ Trụ bằng
Bản Năng Khả Năng của mình đoạt lấy Giải Thoát, theo đường hướng Đạo Phật đã
vạch sẵn, Đạo Phật đã tự Bản Năng Khả Năng làm dụng cụ kết quả mục đích rất hữu
hiệu, nên Đạo Phật chỉ thẳng cho con người biết, con người có đủ đồng chất thành
Phật, Ngài nói: “TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH, CÁC ÔNG LÀ PHẬT SẼ THÀNH.”
Câu nói trên quyết định trong sự hướng dẫn của Đạo Phật, các ông sẽ thành Phật, các
ông phải theo sự hướng đạo của lời chỉ dẫn nơi Đạo Phật.
Nếu các ông chưa tin con đường nơi Đạo Phật, hoặc các ông quan niệm Đạo
Phật là một Tôn Giáo nhỏ bé dưới lệ thuộc chưa thực hành đúng với tinh thần thì biết
bao giờ các ông thành Phật? Bằng các ông tin Phật trên hình thức nào đó, hay chưa
biết giá trị nơi các ông, chưa biết Thể Chất có Bản Chất đồng ứng đồng hợp với Vũ
Trụ thì làm sao thành Phật?”
Thiền Sư vừa nói đến đây lặng thinh chốc lát nói tiếp:...
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

126
9. TIỂU NGÃ CỦA CÁC ÔNG TRẢI KHẮP VŨ TRỤ
Tiểu Ngã nó có Tự Thể, gọi là THỂ TIỂU NGÃ. Con người có hiện diện trên
quả Địa Cầu trên một ngàn năm trăm triệu, mỗi người vốn sẵn bá thiên vạn ức Tiểu
Ngã đang ứng trực trong Vũ Trụ, chia ra từng Cõi, Cảnh Giới như một chiếc ghế chờ
sẵn các nơi. Chừng nào con người ở nơi quả Địa Cầu nầy, mãn phần thoát sanh tùy
theo bản năng trình độ về nơi chiếc ghế ấy mà an trụ. Chiếc ghế nơi an trụ nó phải
tương song với năng lượng, tương đồng với Bản Năng mà Chánh Báo hay Chịu Báo
cũng tùy thuộc nơi con người đang hành sự tại thế giới Địa Cầu nầy.
Đối với con người, nhìn con người mới nhận thấy mỗi người có một lý tưởng,
có một định hướng, có mỗi đức tính khác nhau, ít khi giống nhau, dù sao nó cũng
không ngoài TIỂU NGÃ của mỗi người. Có người đứng về Tiểu Ngã Tiên, có bậc
Tiểu Ngã Thần, có người về Tiểu Ngã Thánh, có kẻ Tiểu Ngã Nhân, đến Tiểu Ngã
Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục, mỗi nơi chốn đều là Tiểu Ngã Đại Diện cho Vũ Trụ
cùng khắp Vũ Trụ có bao nhiêu Tiểu Ngã Thế Giới thì ở Thế Gian có bao nhiêu đại
diện. Con người Đại Trí mong đoạt đến Vũ Trụ hoặc giao cảm với Vũ Trụ hay Xuất
Định về các Cảnh Giới Tiên, Thần thì trước tiên phải làm thế nào chinh phục những
con người làm cho tất cả đều Kính Ái, có ái kính mới có hàng phục Cảnh Giới, có
thiện cảm mới có nhập Cảnh Giới cùng các Cõi. Lời nầy là lời chính xác, lời Tâm Ấn
thực thể nên lưu ý. Bằng tu Tọa Thiền, dùng đủ phương thức để Xuất Định nhập cảnh
chăng nữa thì những phương thức ấy đều nằm nơi Định Tưởng Giả Định, khi giả định
giả tưởng cái thấy cảnh giới, hoặc vào cảnh giới thảy đều thấy nơi Phim Ảnh Vũ Trụ
chớ chưa phải vào thật cảnh giới Tiểu Ngã, đó chính lời minh xác rất đúng. 
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
10. XUẤT ĐỊNH NHẬP CẢNH TÙY THUẬN THEO
TIỂU NGÃ
Các ông cũng nên biết, Xuất Định hay nhập vào cảnh giới nào bất luận phải tùy
thuận đồng hợp mà nhập vào cảnh giới của Tiểu Ngã.
Bậc Thiền Sư luôn luôn đứng tư thế nơi Tiểu Ngã để quan sát các Giả Tưởng,
xem Tiểu Ngã nào có hiệp với cử chỉ chi, nó ăn nói như thế nào, nó công dụng hạnh
kiểm ra sao, nó ưa thích những gì ưa thích với nó. Ví như: Tiểu Ngã Thiên thời bậc
Thiền Sư Tâm rộng rãi, ăn nói từ tốn, giúp người ít khi kể lể ơn nghĩa, đi đứng chớ
nên bừa bãi gọi là pháp môn Thiên đến chừng vào định, lúc xuất định, mặt đương
nhiên nóng báo hiệu lên cõi Trời, khi đến cõi Trời ngang qua biên giới giữa cõi Trời
với Thế Gian thì Tiểu Ngã của Thế Nhân về Thế Nhân, nhận lãnh Tiểu Ngã Thiên
Giới dạo chơi khắp cõi lúc trở về Tiểu Ngã Thiên về lại Thiên, Tiểu Ngã Nhân tiếp
nhận lại Nhân.
Phần nhiều mỗi một cảnh giới hoặc mỗi cõi các vị Thiền Sư rất hiếm bậc đã
từng vào ra Cảnh Giới hoặc các Cõi tự tại, vì chưa rõ thông Tiểu Ngã của mỗi một
Cảnh Giới hoặc mỗi Cõi. Do tại sao mới hóa sanh Cảnh Giới như thế, do những gì
127
kết nạp thành ra Cõi? Đa số chỉ dùng ĐỊNH TỌA lúc nó đến đâu tùy nơi Thiền diễn
tiến mà thụ chấp.
Các ông cũng nên biết: Rất hiếm bậc vừa tu Thiền Tọa vừa tu Hiển Giáo gọi là
VIÊN GIÁO. Bậc Viên Giáo rất có tin tưởng Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, bậc nầy
tu với đích chính thoát ngoài Vũ Trụ, về với Linh Hồn Chánh Giác, khi đã Chánh
Giác xong mới biết được LINH HỒN TỐI THƯỢNG. Biết đặng TIỂU NGÃ tận rõ
GIẢ TƯỞNG mà diễn giải, chớ bậc đang tu, đang nằm nơi TIỂU NGÃ ngỡ mình
Chánh Giác thành Phật không thể nào triệt thấu đặng mà nói.
Bậc tu Xuất Định buổi ban đầu hơi khó, nhưng khi đã xuất định đặng đương
nhiên bị bặt đi, không xuất đặng là vì bậc nầy mơ ước mừng rỡ hoài mong tự nhiên sa
vào nơi Giả Tưởng. Nên xả vọng tưởng cố công phu liền đặng nối tiếp.
Tu Thiền chớ nên gò ép quá trớn, ép quá trớn hay bị long đầu làm cho con
người lảo đảo, nhiều lúc bất bình tĩnh, nên tập thể dục hay tìm thú vui để giải hóa, giữ
sao cho thân tâm quân bình, tu Thiền tựa như người cầm lái xe hơi, chính mình phải
tự chủ lái Thiền Pháp. Tọa Thiền chớ nên quan niệm lầm tưởng gò ép để xuất hồn, tư
tưởng như thế thật sai, vì sao? Vì Tiểu Ngã là linh hồn đã có sẵn khắp nơi, khi Xuất
Định đến nơi nó liền giao tiếp, chớ cho xuất hồn như trên, đó chính là một quan niệm
Ngoại Giáo giả tưởng lầm sai không thực thể. Khi bậc tu Thiền đến căn bản tùy công
năng, tùy trí tuệ đến mức tận cùng đương nhiên xuất định, miễn làm thế nào, lần theo
giả tưởng thật tỏ thì mức Thiền càng cao, lần biết thì mức Thiền tiến bộ. Chính tu
Thiền là một môn Quán Xuyến NHÃN TẠNG, nhờ Nhãn Tạng minh xác những điều
mê lầm nơi Giả Tưởng, tự nơi mình đặng Chánh Giác, mới hay rằng nơi mình có đủ
Phẩm Chất, có sẵn linh cảm, có sẵn nhận định quân vương, lại có sẵn tánh thấy không
bị sanh diệt, nên nhìn thấy vạn dặm, do mình chưa biết sử dụng, nếu biết sử dụng thì
nơi thấy kia là một bộ máy linh động tinh nhuệ nhất, tốc độ thâu nhận nơi mình
nhanh nhẹ gấp ngàn lần máy tinh xảo nhất thế giới của nhân tạo đã làm sẵn nơi các
nước siêu cường. Nếu có bậc chỉ dạy hoặc Khai Thị để mình biết nhận, chính mình
chưa chịu nhận, cứ mãi theo Giả Tưởng, nghĩ cũng lạ thật.
Có vị Thiền Sư tự khởi: Sau tìm đặng giải đáp câu thoại đầu của Thiền Sư khởi
như sau:
Lúc bấy giờ Thiền Sư hái một chiếc lá, cầm chiếc lá tự hỏi? Màu xanh của nhà
người từ dưới rễ dẫn lên hay từ bên ngoài đáp xuống? Thiền Sư dùng Nhãn Tạng xem
xét, chốc lát đặng biết : Tất cả cây cảnh và Quả Đất thảy điều động có sức hút vào
nhả ra. Trên hư không hòa lẫn khí hậu có đủ màu sắc, có đủ gió lửa không thiếu sót,
tùy thuận màu nào hóa hợp liền đáp ứng bồi dưỡng thành hình, như lá xanh, hoa vàng
hoặc đỏ, cùng tím thảy đều đáp ứng tô điểm để nuôi chiếc lá đến Bông Hoa đặng
hoàn mỹ. Đến chừng Cọng thiếu sức tiếp liệu hút màu thì hoa kia hoặc lá nọ trả về
màu cũ gọi là lá vàng hoặc hoa héo. Dưới mắt con người nhìn chiếc lá xanh, nhìn hoa
vàng hay tím cùng đỏ cho rằng cây trổ hoa lá có màu sắc, chớ nào thật biết cây trổ
128
hoa, cành có lá, phải hút vào tiếp liệu màu sắc nhả ra rút chất nước dưới rễ nuôi thân
cây.
Vị Thiền Sư nầy còn biết, nơi không khí có chất NGUYÊN TINH, chất nguyên
tinh nầy nó thung dung linh động vô kể, nó có thể xuyên qua bất cứ một nơi nào
trong Vũ Trụ. Chất nầy nó làm cho tất cả đều hóa sanh, nó tiếp nuôi con người sống
lâu, nếu con người biết sử dụng, nó hòa đồng với hư không, bằng chẳng có nó thì hư
không cùng khí hậu không hòa đặng nhau nó hiệp hai khối hóa sanh ra đồng hợp, nó
biến chế ra không khí nuôi dưỡng con người, con người quan niệm khí hậu tốt nuôi
con người khỏe mạnh, nếu khí hậu tốt mà không có chất NGUYÊN TINH là một
Chất Sống kia khí hậu cũng vô dụng. Chất Nguyên Tinh nó tinh vi linh động mạnh
mẽ vô cùng, nó viên thông xuyên qua thân thể con người, làm cho các bộ phận con
người có chất sống, chất nầy qua đến đâu vào bộ phận nào cũng làm cho bộ phận di
chuyển sống động, nhờ chất Nguyên Tinh các tế bào mạch máu mới có chất sống để
mà sống, Chất Sống Nguyên Tinh chẳng phải riêng cho con người, nó chung cả Vũ
Trụ, có nó mới sống, gọi là một chất đặc biệt CHẤT SỐNG VŨ TRỤ VÀ NHÂN
LOẠI. 

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

129
11. THỂ CHẤT TÁNH CHẤT NGUYÊN TINH NHƯ
THẾ NÀO?
Thể Chất Nguyên Tinh là Nguyên Chất của Vũ Trụ, nơi Nguyên Chất nó rất
tinh vi linh động, nó cũng là Chất Sống Nguyên Thủy triệu triệu xưa, nên gọi là
NGUYÊN TINH.
Tánh nơi nguyên tinh tất cả Vũ Trụ đến Sơn Hà Đại Địa, Cây Cảnh, Núi Sông
đến muôn loài vạn vật thảy có nó đáp ứng đem cái sống linh động tăng trưởng cho tất
cả, nếu vật chi thuộc về thiên nhiên hóa sanh đều có chất nguyên tinh dung dưỡng,
bằng nhân tạo thì chẳng có chất nguyên tinh bồi dưỡng, vì vậy nên chi thiên nhiên
hóa sanh sống lâu bền bỉ, còn nhân tạo mau hư, mau hủy diệt.
Tánh Chất Nguyên Tinh không làm cách gì ngăn chận nó nổi, nó có thể xuyên
qua bộ xương để cung cấp bộ xương đặng sống, nó xuyên qua mạch máu, gan phèo
phổi cùng bao tử cho đến các tế bào để đem chất sống cho con người, con người từ
bấy lâu nay chỉ biết mình đầy đủ thân thể ruột gan không thiếu sót là SỐNG, khi ốm
đau hoặc thiếu ăn thân thể uể oải bệnh rồi chết, chớ nào ngờ nơi ăn uống bồi dưỡng
cả vật chất lẫn tinh thần không có nguyên tinh thì con người thiếu linh động, thiếu
chất Sống con người phải chết.
Chất NGUYÊN TINH là một chất động cơ thúc đẩy trong thân thể con người
dù cho đầy đủ bộ phận đi nữa chăng, không có chất Nguyên Tinh cũng không thể nào
thúc đẩy các bộ phận làm việc, khi các bộ phận không làm việc thì con người không
thể sống. Từ Vũ Trụ đến vạn vật đều phải như thế.
Chất Nguyên Tinh nó xuyên qua cũng như lằn điện tử, các lằn sóng điện phát
thanh hay vô tuyến truyền hình, dù cho con người đậy kín thế nào nó xuyên qua cũng
đặng. Nếu con người biết dùng chất Nguyên Tinh thời con người sống lâu tùy nơi
mình gìn giữ nó.
Các bậc tu Tiên đến lúc gần thành Tiên vẫn dùng chất nầy để bồi dưỡng thân
thể tráng kiện, họ gọi là SANH KHÍ, có phái dùng chất Nguyên Tinh tập trung nơi
tinh thần xuất định lên các cõi Tiên Thần được gọi là TINH KHÍ THẦN, chất nầy sẵn
có trong Vũ Trụ trùm khắp. Con người mau già hoặc chậm già vì lo nghĩ ưu phiền thì
chất nguyên tinh ít thu nhận được trở nên hư hao gầy ốm, nếu giải buồn phiền ưu tư
lòng thoải mái tươi đẹp thì chất nầy nuôi dưỡng mãi lâu già.
Chất Nguyên Tinh nó giúp cho bộ óc hữu hiệu nhất, theo Khoa Học họ đem bộ
óc con người ra thực nghiệm nào là bộ óc đường máu hở hoặc giả bộ óc xanh xanh
tím tím là thông minh, hoặc lớn hay nhỏ tùy theo nơi thực nghiệm Khoa Học mà
minh xác. Đối với nhà Thần Thoại Học họ chỉ thân tâm thoải mái, mỗi sự việc chi
đưa đến họ tìm các hóa giải, khi tư tưởng khởi sanh, mặc nhiên để tư tưởng phát sanh
họ liền hóa giải tư tưởng liền mở mang lần tiến. Không khác nào người khai mương
nước đọng đến đâu khai thông đến đó, đối với bậc mở mang bộ óc cũng như thế.
Chưa phải con người họ đã ngu, chỉ vì chưa biết sử dụng khai hoa bộ óc, biết khai
130
hoa đến đâu thời chất nguyên tinh động cơ thúc đẩy đến đó, miễn con người đừng cố
thủ lấy mình đương nhiên thông thái. Phần nhiều những nhà Thông Thái Học họ ít
muốn mang những câu chuyện bé nhỏ vào thân tâm, nên chi họ tiếp nhận nơi bộ óc
nhiều sáng kiến, họ chỉ lấy sáng kiến hay hóa giải theo Triết Học nên được bộ óc tiến
hóa.
Đối với các Cõi như Cõi Tiên họ dùng THANH làm vi bản, chất Thanh nhiếp
thu đặng nhiều Nguyên Tinh Chất đồng hòa hợp với hư không trở thành thanh thoát
mà đặng chất Nguyên Tinh cung cấp nhiều nên chi tuổi thọ họ sống lâu. Còn con
người từ chất hư không, chất khí hậu đồng hòa chất nguyên tinh nó có pha lẫn chất
thô nên tuổi thọ chưa đặng bao nhiêu, do đó nên công dụng về tinh thần nhiếp thu
chất nguyên tinh để nuôi thân.
Bậc TIÊN ĐẠO thường dùng cặp mắt có một chiều ưa xuất trần lao, lọc bỏ
chất Thô tạo thành Thanh Chất thành ra riêng có mỗi một phần lấy mình huân tập
thành hình. Còn đối với dưới mắt Thiền Sư soi nhìn trùm khắp nên thật biết đặng chất
NGUYÊN TINH quí vô giá, nơi nào, chỗ nào cũng sẵn có chất nguyên tinh, miễn con
người dụng tâm vui vẻ, dùng trí sáng soi, dùng thân ăn ngủ điều độ, tất cả những
chuyện vặc mắc bỏ qua nuôi lấy tinh thần thư thả liền nhiếp thu nguyên tinh vào để
nuôi thân mạng. Chất nầy tinh vi nguyên thể tùy theo tư tưởng trình độ cung cấp tăng
trưởng không ngưng, duy chỉ ưu phiền, tự mang lấy buồn bực thì nó tiếp thu rất ít, chỉ
xuyên qua nuôi thân thể phần nào biết cách sử dụng lấy nó có ích lợi vô kể. Nguyên
Tinh nó không có thẩm quyền đem đến Cái Biết viên thông cho con người, nhưng nó
có Tánh Chất viễn thông chạy mãi không ngừng, nhờ tất cả các chất phối hợp nhau
trở thành Cái Biết viên thông tự tại, nếu như không có nó thì tất cả nằm yên đình trệ
tất cả không có lấy Tia Sống, chính nó là một nguồn sống nơi hy vọng của con người,
lúc con người có tia sống, có hy vọng để mà sống, chớ nên đặt hy vọng ấy thái quá
đến ngày kia đến nơi Tuyệt Vọng thì chất nguyên tinh bị đình trệ nguy hại vô cùng.
Nguyên Tinh là một chất Sống, nó có đều đặn từ thời Vô Thủy, thời nào đối
với chất nguyên tinh không giảm, không khí thì có thời đầy đủ, có thời giảm chớ
nguyên tinh không giảm, duy chỉ con người ưu tư buồn phiền theo diễn cảnh mà giảm
đó thôi, chớ thật ra nguyên tinh không giảm. Tại sao không khí bị giảm? Không Khí
bị giảm do trái Đất già chưa đủ chất nên bị giảm.
Kể từ ngàn ngàn năm xưa, chất nguyên tinh vẫn một mức trung bình không
tăng giảm. Nhưng thời xưa con người ít tư tưởng, ít phóng đạt nên ít có Bối Cảnh,
con người thời ấy rất bình dị đơn giản, họ sống một lối yên thân đều đặn. Các ông
nên nhận thức, họ sống bình dị đơn giản, chớ không phải con người sống vô tư, nếu
con người thời đại nào mà cái lối sống vô tư yên phận hèn yếu bạc nhược, nếu sống
bạc nhược vô tư yên phận thì cũng ít thu nhận đặng Nguyên Tinh, nên nhớ lấy.
Thời xưa tuy nhiên ít tư tưởng nhưng tư tưởng khỏi lầm vào Giả Tưởng quá
nhiều như ngày hôm nay, họ có một tư tưởng thực chất, họ có một tinh thần bất khuất
131
tất cả những điều vô lý trí, họ đầy nhiệt huyết kiên hùng, họ cũng xây dựng thành
quách, họ cũng đắp đặng con đê vạn dặm ngàn khối đất ngăn nước khỏi hại dân, do
nơi tư tưởng thực chất đều đặn mà thu nhiếp Nguyên Tinh bồi dưỡng thân thể tráng
kiện, sống lâu trăm tuổi, trong thời nầy con người có thể làm được, cũng vận động cơ
thể cho mạch máu điều hòa, tinh thần vui vẽ liền thu thập đặng chất nguyên tinh, thân
đặng tráng kiện, ý chí phục vụ giúp cho con người sống trong căn bản thiết thực.
Con người sống trong thời tiến bộ bao nhiêu lại càng công dụng sức khỏe bấy
nhiêu, càng văn minh bao nhiêu lại càng làm cho tinh thần thoải mái bấy nhiêu, nên y
học, khoa học mới phục vụ cho con người đứng trước thời đại tiến hóa. Đối với Đạo
Phật vốn có nền văn minh tột đỉnh, vốn có sẵn đức tánh tiến bộ cung đốn giúp con
người bất thối trước giai đoạn khó khăn, do tại con người đa số hèn yếu không vươn
mình theo như lời Đạo Phật dạy phải THÙ THẮNG giải quyết khó khăn, phải tranh
đấu bản thân nơi nghiệp thức, chớ lười trễ cầu an mà trở thành CHỒI KHÔ MỘNG
LÉP, chớ nên tâm chí hẹp hòi làm cho con người lầm tưởng Đạo Phật TIÊU CỰC.
Đạo Phật rộng rãi bao la, khám phá Vũ Trụ chớ ngồi yên chờ sẵn mà thiên hạ lầm
nhận Đạo Phật bé nhỏ, dù vô tình hay cố ý chính mình tự đem Đạo Phật vào LỔ
CHÂN TRÂU.
Đạo Phật đã từng biết nơi tuổi thọ của con người bị tiêu giảm lần xuống, vì nơi
giả tưởng tâm ý ngăn cách quá nhiều trở thành eo hẹp. Từ nơi hấp thụ Nguyên Tinh
bồi dưỡng đầy đủ trở thành nguyên tinh yếu kém nhiếp thu vào thân thể thiếu hụt mà
tuổi thọ phải tiêu giảm. Con người nào có hay biết tuổi thọ bị tiêu giảm lần chính
mình tự gây tạo ra nó, lại quan niệm trời bắt giảm mình, hoặc thời nầy hay thời nọ
tăng tuổi hoặc giảm tuổi, nếu con người biết được vì quá lo âu, quá sợ sệt làm giảm
tuổi thọ thời con người thư thả thân tâm để tiếp nhận Nguyên Tinh tuổi thọ bắt đầu
nâng cao lần. Theo tài liệu của Đạo Phật, con người từ khởi sanh thì chưa biết được
có từ bao thế kỷ, đến lúc khai sanh con người tuổi thọ 8.000 (tám ngàn) tuổi một
kiếp, sau bị tiêu giảm lần đến nay không đầy một trăm năm một kiếp, một kiếp hiện
tại gọi là một thế kỷ. Như thế thời chắc hẳn con người thảy đều biết rõ, nhưng con
người chưa biết tại sao tiêu giảm, chưa biết đặng chất NGUYÊN TINH là một chất
SỐNG đem đến cho con người. Các Tôn Giáo thi hành tâm thanh thoát tư tưởng
khoát đạt, trí tuệ bao dung thì chính những bậc ấy chỉ biết có bao nhiêu đó thôi, nào
có gì khác nữa. Giờ phút nầy Hạ Lai Mạt Pháp sắp tàn canh, Chánh Pháp đã ra đời
đem đến Nguyên Tinh chất hoa khai Tạng trổ cho con người biết đặng chất Nguyên
Tinh làm tăng tuổi thọ mà thực hành hưởng lấy.
Đối với con người nghe được, biết được ban đầu thi hành thì rất khó, chớ các
bậc tu Thiền chẳng lấy chi làm khó, dù ít nhiều vẫn thi hành đặng. Bậc Thiền Tọa đến
mức khá cao thực hành một thời gian sở đắc CHÁNH ĐỊNH TAM MUỘI thì hoàn
toàn điều khiển, hoàn toàn sử dụng Nguyên Tinh, nhờ nơi thúc đẩy không ngừng phát
sanh rốt ráo nên mới đoạt đến Vũ Trụ tương quan nhịp nhàng chung Chánh Định.
132
Chất Nguyên Tinh rất có lợi cho các bậc tu Thiền Tọa, nhưng nó có hại cho
một số ít chưa hiểu gì về Pháp Môn Tu Thiền, nên chi Công Phu say đắm nơi Thiền,
sự huân tập nhiếp thu Nguyên Tinh quá nhiều mà trí tuệ kém, tư tưởng phát khởi lòng
tham muốn mau trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, họ chỉ theo quan niệm tu thiền
thành Phật. Còn đứng về tinh thần chất nguyên tinh để nói: Nguyên Tinh là một động
cơ thúc đẩy theo vạn tư tưởng nơi con người đã mong muốn, chớ nó không thể lái
con người theo sự chuyên chính Nhất Tôn, nên chi Đạo Phật nói: “NÓ NGHĨ THẾ
NÀO, NGUYÊN TINH LIỀN ĐƯA NÓ ĐẾN NƠI ẤY.”
Nguyên Tinh tùy thuận theo ý nghĩ Hòa Hợp Hóa Sanh, nếu nó hòa hợp nơi
chất chi liền hóa sanh trong chất ấy, như nó vào máu liền hòa hợp trong chất máu hóa
sanh, nó vào xương hay tế bào, nó liền hòa hợp xương cùng tế bào hóa sanh. Khi con
người cần dùng nơi tư tưởng nó vào tư tưởng hợp tinh thần hóa sanh. Do lẽ ấy Triết
Học Zen bên Nhật Bản có một phái dụng nơi Nguyên Tinh bồi dưỡng nuôi thân, có
rất nhiều Tông Phái họ dùng quan niệm để tu luyện thảy đều do chất Nguyên Tinh
cung cấp.
Sự lầm tưởng nơi con người, tự mình tu luyện, tu thân, tu tinh thần, tu hiểu biết
phá mê chấp, tu trong Vạn Hạnh cốt được tỏ thông, hoặc giả thực hành cốt chứng
ngộ. Đứng tư thế tự mình cấu tạo, tự mình hóa giải, tự mình tự giác thảy đều là một
phương tiện đi đến hoàn toàn thực chất Nguyên Tinh sống động Vũ Trụ với con
người Đồng Thể, cho nên Đạo Phật bảo hãy nương theo VÔ NGÃ, lần tiến đến Đại
Ngã Viên Giác liền TỰ THỂ hóa sanh, khi Tự Thể hóa sanh mới thật biết mình Đại
Diện Vũ Trụ, đại diện Vạn Pháp Ứng Thân Nhất Thể.
Nơi lầm tưởng của con người chẳng có vị nào tránh khỏi, thời xưa đức Bổn Sư,
lúc đang còn là vị Thái Tử Tất Đạt Đa vẫn theo quan niệm giải quyết SANH, TỬ,
BỆNH, LÃO, KHỔ, Ngài theo phái Trần Kiều Như tu khổ hạnh chưa tìm đặng
nguyên lý tinh thần thiếu thốn. Sau đến cội Bồ Đề tịnh dưỡng tinh thần bồi dưỡng
hiện vật như thường, thân tâm dung hòa mới đoạt Vô Thượng Chánh Giác. Ngài tự
nói: “Lạ thật! Lạ Thật! Chúng Sanh nó đầy đủ bổn tánh, đầy đủ thể chất, đầy đủ quán
xuyến, nó không thiếu sót những gì nơi chư Phật, nó vốn có như nhau. Duy chỉ có Mê
Lầm chưa tỏ ngộ bị làm chúng sanh, nếu nó Giác Ngộ vẫn thành Phật.”
Câu nói trên của Thái Tử, bằng chứng Nguyên Tinh dung khắp, nuôi dưỡng Vũ
Trụ với con người Bình Đẳng, con người có đầy đủ Tánh Chất, đầy đủ Lý Trí khả
năng, thực hành thoát khỏi Vũ Trụ. Nhưng con người nhận sai mục tiêu, nhận sai
mục đích chính yếu, nên chi có sự bê trễ thành thử ưa thích những điều gì không làm
mà đặng, không thực hành mà đến, vì nó như thế nên đứng yên một chỗ không hơn
kém đối với con người hay con người ta cũng thế.
Con người có nhiều lúc đứng trước sự việc khó nghĩ, đâm phân vân từ những
bậc có tu theo Đạo Phật hoặc chưa tu cũng thế, họ tự hỏi lấy: “CÁI NGỦ CÓ PHẢI
NHƯ CÁI CHẾT CHĂNG?” Cái ngủ với cái chết hai cái khác biệt nhau, nói ra con
133
người làm sao nhận tin được, vì sao? Vì con người đã từng ngủ, chớ chưa ai đã từng
chết để nghe lời nói thật. Nói đến cái chết, có kẻ đã bị chết rồi sống mới nghe đặng
lời kể là thật.
Còn đối với cái ngủ là một lối an dưỡng Thân cùng dưỡng Trí. Ban ngày con
người từ nơi Linh Hồn mang phải xác thịt mệt nhọc vô cùng, còn phải làm việc lo
lắng hằng ngày. Tối đến giấc ngủ để an dưỡng thân, an dưỡng trí làm cho thân đỡ
mệt, trí khỏi lo, con người có sức khỏe thì cái ngủ nó rất ngon, bằng yếu về thân hoặc
mệt về trí, đêm nằm thường thấy chiêm bao. Chiêm bao là một cái trí Giả Tưởng
hoặc mệt trí hay trí bị giao động trước bối cảnh, có trường hợp sức đang khỏe nhưng
khí trời bất thường thay đổi vẫn bị thấy chiêm bao. Chiêm bao thuộc về Giả Tưởng,
thuộc về Tâm Ý, thuộc về sức khỏe, thuộc về giao động, còn về thật hay không thật
do sự tin hay lòng tin của con người để báo điềm trước, đó thuộc về Thần Thức Giả
Tưởng kết hợp một phần nào nơi Tiểu Ngã để thấy.
Nói đến CÁI CHẾT, nghe qua ai cũng sợ sệt, vì đối với con người SỐNG lo
âu, CHẾT sợ sệt. Thật ra con người đã gặp cái chết mới nhận định được cái chết rất
nhẹ nhàng, thoải mái, không khác nào để một gánh nặng về Thân Thể con người trên
bốn chục ký lô. Cái Chết thoát sanh, nó tùy theo Cảnh Giới, tùy theo thân mạng thay
đổi TRÍ NHỚ.
Khi con người đang bệnh, đến lúc chết liền thoát khỏi thân mạng đau đớn trên
giường bệnh, nên nó nhận thấy nhẹ nhàng là do chỗ đó. Chết xuống CÕI ÂM hay đến
Cảnh Giới nào, chính nó cũng quên hẳn rằng nó từ Nhân Gian đến nơi nầy hay nơi
nọ, nó vẫn tưởng nó ở Cõi Âm hoặc Cảnh Giới nó đang ở, nó tựa như Du Khách chớ
chưa bao giờ nó nghĩ Bà Con hay nhà cửa chi cả, nó cứ đi hà rông mãi, đến khi nào
đó đương nhiên nó bị một màng bao phủ chụp vào người nó, nó bất tỉnh đó là nó
được vào Thai, đến kỳ nó bị sanh ra như thường lệ. Đối với ở Thế Gian nầy cũng như
thế, ở thế gian nếu có người nào ở Cõi Thiên hay Cõi Âm hoặc Cõi Thần, đến lúc
Mãn Phần về cõi Nhân, họ cũng ngỡ rằng mình ở Nhân Thế, họ vẫn đi rông đến khi
nhập Thai bị sanh, họ thảy đều quên bản thân của họ ở đâu đến đây, đó chính là một
cuộc thay đổi từng nơi nầy đến cảnh nọ để mà Sanh Tử.
Nói đến Cái Chết ĐƯỢC SANH hay BỊ SANH vào các CÕI hay CẢNH GIỚI
thấp, cao, sướng, khổ không căn cứ lúc LÂM CHUNG (chết) êm đẹp hay trầm trệ,
mê mang hoặc tỉnh táo trong lúc đau bệnh mà Chết. Chỉ căn cứ đương thời con người
đang lúc Sống từ nơi Hành Sự đến Ngôn Từ, Ngôn Hạnh gây tạo phước điền hay Tàn
Phá ác nghiệt, căn cứ như thế mới đúng đắn họ chết sẽ đi về đâu.
Con người chết được về Cảnh Giới sung sướng hoặc khổ đau nó rất thực tế, nó
không phải thần thoại hoặc giả dối đặng, nó không khác nào với bậc Dược Sĩ pha các
chất chế tạo từng món thuốc, chất gì pha với chất chi được gọi là Môn Thuốc để trị
bệnh nhất định mỗi bệnh. Khi con người chết Được Sanh hay Chịu Sanh nó cũng tùy
theo Phẩm Dược, tùy nơi chất phẩm đắng cay ngọt bùi nơi nó, lúc còn sống tạo thành
134
mà vào CÕI hay các CẢNH GIỚI đồng hợp nơi nó, nó liền Hóa Sanh nơi cõi ấy hoặc
cảnh giới ấy sướng khổ tùy theo Được Sanh hay Chịu Sanh cũng thế.
Theo thói thường con người, lúc lâm bệnh nó có hai trường hợp đem con người
Thoát Sanh, trường hợp thứ nhất con người bị đau NỘI THƯƠNG thuộc về đau Thân
Mạng, trường hợp thứ hai đau về THƯƠNG HÀN cảm nặng thuộc về Trí Giác. Hai
trường hợp nầy thường hay bị con người lý đoán về Cái Chết nơi con người. Lúc bị
đau về Thương Hàn mê man bất tỉnh, miệng nói lẩm bẩm, sau khi Chết, họ cho là
người nầy chết sẽ bị tội chịu sanh khổ sở. Còn có người đau về thân mạng Nội
Thương, lúc chết tỉnh táo, nói năng tỏ rõ, họ cho sẽ đặng lên Thiên Đàng hay Cõi
Trời. Hai lý đoán như thế không thật thảy đều sai chạy.
Nếu con người tự nhận biết được tỏ rõ, sau khi Chết sẽ về đâu, thời nên biết lúc
đang còn sống tạo cho đặng PHƯỚC ĐIỀN, tạo cho đặng Đức Tánh cùng nung đúc
tấm lòng Nhân Đạo, chính mình biết thương nơi khổ cực của mọi người, cũng như
thương thân mạng mình, chính mình nên đem lời an ủi giúp đỡ cho những người
chung quanh mình đã từng bị Khổ, làm cho họ đặng an vui ví như mình an vui. Con
người cứ làm như thế thời con người ấy sau khi tuổi già có lâm vào tình trạng mắc
bệnh THẦN KINH, lúc lâm chung cũng thoát sanh lên Cõi Thần hay Cõi Thiên. Tâm
trí họ liền sáng suốt, còn chứng Thần Kinh kia nó liền trả lại cho con bệnh Thần
Kinh, chớ không vướng mắc gì đến Chánh Báo thân mạng, đó chính là lời chân thật
vậy.
Con người đang ở nơi hiện tại rất cần xây dựng đứng thứ nhất. Bậc đã tạo đặng
cơ bản bản năng làm con người chân chất cao đẹp, dù cho sau nầy Chết bằng cách gì
đi nữa cũng đặng chánh báo khang trang chớ không bao giờ sa Địa Ngục, Ngạ Quỷ,
Súc Sanh đâu mà sợ, làm con người hiếm người biết xét lại công việc mình đã làm
thất đức, hiếm bậc gặp trường hợp họ gây ra tạo ác nghiệt đến nơi mình mà chính
mình tha thứ cho họ. Cũng như đức Chúa Jésus, phe phái đánh đập Ngài, bắt Ngài
đóng đinh nơi cây Thánh Giá. Ngài không hờn giận kẻ đối phương, Ngài nhìn giọt
máu rơi trong lúc lâm nạn, Ngài còn thốt ra lời: “GIỌT MÁU CỨU THẾ” Ngài thoát
sanh bằng lối khổ đau, Ngài được CHẾT lên Thiên Đàng có phải là Đức Tánh lòng
Nhân Đạo mà Ngài đặng Chánh Báo chăng?
Từ đức Chúa Jésus đến các bậc Thánh Tăng mong ngày chính mình ĐƯỢC
CHẾT, những bậc nầy coi sự chết là một cuộc hóa sanh ưu tú nhất. Nên chi có một vị
Tăng Già đang đi ngang qua khu rừng dưới chân núi, bỗng nhiên gặp con Cọp từ xa
đi lại, hai bên đụng đầu nhau, vị Tăng an nhiên không sợ cái chết, mong mình được
chết, làm cho chú Cọp kính nể cúi đầu tránh vị Tăng Già làm cho Thế Giới ngạc
nhiên, như thế có phải thần thoại không? Đối với con người biết rõ trong tay mình có
Đạo Đức thời đứng trước mọi sự việc gớm ghê họ thảy đều an nhiên, trông mọi sự
việc xảy đến nơi, nhưng mọi việc đó không bao giờ xảy đến.

135
Những bậc đã từng biết rõ về vấn đề SANH TỬ, nên không bao giờ sợ chết,
còn mong cái chết đưa đến cho bậc đã từng tỏ rõ về Sanh Tử. Thuở xưa có hai người
bạn thân với nhau, cùng ở chung nhau một ngôi Chùa, đồng nhau một Thầy. Sau khi
vị Hòa Thượng mãn phần, hai người cũng đã tỏ rõ đường đi lối về của Sanh Tử, gọi
là giải quyết Sanh Tử Luân Hồi, hai vị tuổi mới vào lối bốn mươi chưa phải là tuổi
Được Chết, hai vị bằng tìm cách yên thân để chờ viên tịch (chết trọn). Vị thứ nhất nói
với vị kia rằng: 
“Chú nên ở lại Chùa tạm mượn Chuông Mõ chỉ dạy các chú Tiểu sống cho qua
ngày, còn tôi đi giao du khắp đó đây giúp đời, nếu hai ta cùng đi thì bỏ ngôi Chùa
không ai coi ngó.” Bàn định xong Sư Trưởng ra đi, trong vòng mười lăm năm về sau.
Một hôm Sư Trưởng đi ngang qua Chùa trong buổi chiều nghe tiếng mõ trong Chùa
vang dội, nhìn thấy chú Tiểu đang quét sân, sư trưởng gọi chú tiểu đến hỏi: 
“Nầy chú Tiểu, có thằng Tâm trong đó không?” 
Chú Tiểu nhìn Sư Trưởng sợ hãi, chắp tay thưa: “Dạ có.” 
Sư Trưởng vừa cười vừa nói: 
“Cháu nói lại với thằng Tâm Ta giảm thọ cho nó mười năm, nó được chết
sớm.” 
Nói xong bỏ đi.
Chú Tiểu vào Chùa, cũng vừa lúc Hòa Thượng đã công phu xong. Chú Tiểu
bái thưa: 
“Bạch Hòa Thượng, con ra ngoài ngõ trước cổng Chùa đang quét sân, bỗng
nhiên gặp một vị Sư, trán rộng, thân mình cao, tay cầm chiếc ô, hỏi con rằng:” 
Vừa nói đến đây Hòa Thượng mừng rỡ hỏi liên tiếp: “Thế nào, thế nào, vị ấy
đã nói gì với con?”
Làm cho chú Tiểu lính quýnh, không dám thưa vội, phần Hòa Thượng nóng
lòng mong chú Tiểu đáp, chú Tiểu bạch: 
“Kính thưa Hòa Thượng, con nói ra con sợ lỗi tăng thượng đối với Ngài, xin
Ngài tha lỗi cho con mới dám nói?”
Hòa Thượng gật đầu, chú Tiểu thưa:
“Vị Sư hỏi có thằng Tâm ở trong Chùa không?”
Con đáp: “Dạ có.”
Vị Sư nói tiếp:
“Cháu, ta giảm thọ cho nó mười năm, mong nó được chết sớm.”
Vị Hòa Thượng nghe xong vỗ tay vui mừng, chế một chung trà thưởng thức lời
nói của vị anh cả thương em đang mong đợi Được Chết.
Sau đến thời Lục Tổ Huệ Năng, lúc Ngài sắp nhập Niết Bàn, Tứ Chúng u buồn
than thở, Ngài nói:
“Các ông chớ nên buồn phiền, đáng lẽ các ông nên vui mừng vì Ta đã biết
đường đi lối về SANH TỬ, có chi mà phải buồn.”
136
Thiền Sư vừa nói đến đây, số người đồng thưa:
“Kính thưa Thiền Sư, con đường Tử, khi bậc đã biết nơi hiện tại đang lúc còn
sống, tạo Đức Độ đến Vị Lai đặng thoát sanh vào nơi cao quí, vào chốn an nhàn
Chánh Báo. Chúng tôi mong Thiền Sư giải cho chúng tôi được nghe nơi thoát sanh
của con người từ Phàm Phu đến Thánh Tăng có khác nhau như thế nào? Bọn Ác
Nghiệt Bị Sanh nó ra sao?”
Thưa gởi xong yên lặng chờ nghe. Thiền Sư nói:
“Nói đến sự ác nghiệt bị sanh chịu cực hình thời nó vô kể. Nhưng các ông cũng
nên biết, nơi thường dân tục tử, dù ác nghiệt đến đâu chăng cũng là một tội bé nhỏ,
riêng mình, mình chịu chỉ có một kiếp, chỉ trừ trường hợp làm cho những bậc tu hành
tạo phước điền đoạn duyên mới đáng kể. Đứng vào hàng Vua Chúa, Quan Quyền,
một khi đã ác nghiệt Phê Chỉ làm cho hàng triệu con người phải Lầm Than đói khổ,
làm cho vạn vạn than phiền mới nên tội A Tỳ Địa Ngục, ví như Tần Thủy Hoàng xây
Vạn Lý, Vua Thành Thang cất Bá Lạc Đài, bọn Hắc Nô bắt con người Mò Trai Lấy
Ngọc, vì lẽ ấy mà bậc Minh Vương, bậc Vĩ Đại Cứu Tinh mỗi lần Phê Chỉ ban hành
thảy đều xem xét kỹ càng ích nước lợi dân mới dám Chuẩn Ký.
Khi một vị Vua Chúa ban hành điều ác nghiệt sau lúc lâm chung đang nằm
trong Cung Vàng Điện Ngọc, các quan hầu cận đầy đủ chăng, Tiềm Thức (hồn) vẫn
nghe la ó hét hò, không khác nào toàn dân hãm thành đổ bộ, khiến cho Tiềm Thức
nhà Vua sợ hãi, vội vàng ngồi dạy, bị toàn dân tay cầm gươm đao đến đâm chém, khi
bấy giờ nhà Vua đâm đầu chạy, bọn người đuổi theo hạch tội, xiềng xích nhà Vua,
mang về bỏ vào Ngục Tối, trường hợp Ta nói trên thường nó như thế, nó còn hơn thế
nữa kể không bao giờ hết những tội mà nhà Vua hoặc quan tham hà lạm, hoặc quan
lừa dối dân để cướp của.
Còn đối với con người Hiền Lành hay Phước Đức hoặc Tánh Tình tốt thường
giúp đỡ mọi người Quảng Đại Quang Minh, nhưng họ chưa có mục đích nào để đến
nơi Thoát Sanh, họ đứng ra ngoài Tôn Giáo hết thảy. Khi Lâm Chung, nói đến trang
thái con người lúc Lâm Chung duy chỉ dưới mắt Thiền Sư mới nhìn thấy, ngoài ra
con người thường chưa thấy được. Lâm Chung nó tùy theo giai cấp, phước đức, giai
đoạn duyên lành mà nó xuất hồn thoát sanh.
Con người trước ngày lâm chung, đương nhiên họ nhận thấy buồn hoặc nhận
thấy lờ cờ vô căn cứ, đôi lúc có người tự thán với bà con giòng họ. Đến ngày lâm
bệnh, nếu họ may mắn gặp vị Thiền Sư đã từng xuất định cầu cứu, thời vị Thiền Sư
nầy không phải chữa bệnh cho họ trên giường bệnh mà vị nầy xuất định đi các cõi
xem TIỀM THỨC (Hồn) nó đã có phần nào nằm ở Cõi nào hợp với bệnh nhân, liền
tháo gỡ trả về dương thế tự nhiên lành bệnh qua cái chết. Nói đến con người chết nó
không có số mạng chi cả, nó chỉ biết cách chữa trị, biết lối bồi dưỡng hay chưa biết
nên nó phải chết mà thôi. Con người sắp gặp phải bệnh nặng nó vẫn có triệu chứng
nầy.
137
Khi con người hấp hối, thì Tiềm Thức (Hồn Khôn) đã có phần nào xuống hoặc
lên ở một Cõi nào rồi, còn phần xác đang nằm trên giường bệnh hấp hối, Tìm Thức
nó lần lượt xuất, lúc trong thân con người xuất, nó không khác nào hơi khói trong
thân bốc lên cứ tuần tự bốc mãi đến khi hết tất cả đầy đủ Tiềm Thức thì Vía Dại gọi
là cặn bã nghiệp thức nó nhập xuống dưới chân giường, con người liền tắt hơi, cặn bã
nghiệp thức họ thường gọi là: HỒN THƯ. Đối với con người lúc sanh tiền đang còn
sống, nó có KHÔN và DẠI nên mới có Hồn Khôn, Vía Dại, cái Vía Dại nầy nó rất
ảnh hưởng đối với con người, thoát sanh mau chậm hay còn ái nịch luyến tiếc bà con
giòng họ, của cải nhiều ít đều do nó lôi cuốn cả. Khi Tiềm Thức bốc lên hư không,
Tiềm Thức là một chất Thanh, còn Hồn Thư gọi là Vía Dại, là chất THÔ, Chất Thanh
đang còn tập nhiễm nhiều ít chất Thô nên chi Tiềm Thức đã bốc lên hư không, nhưng
vì tập nhiễm thành thử chưa dứt khoát về Cõi đã sẵn mà thoát sanh hoàn mỹ. Nếu gặp
đặng vị Thiền Sư, vị nầy chỉ nhìn vào Xác Chết đương nhiên hai bên không còn
vướng vấp nhau nữa. Bằng gặp đặng vị Đại Đức lấy Công Đức nơi mình chú nguyện
tự nhiên cũng đặng như trên. Nên nhớ khi trong nhà Tang Chủ có người Chết không
còn có Âm Khí buồn lạnh, đó là cuộc thoát sanh hoàn mỹ, nếu còn Âm Khí u buồn
thì vẫn còn vong linh Tiềm Thức lai vãng, phải chú nguyện đặng thoát sanh.
Các ông cũng nên biết Tiềm Thức thanh chất nó có đặc tánh di chuyển đến nơi
Chánh Báo hoặc Chịu Báo để kết nạp với Tiểu Ngã, nơi Cõi hoặc Cảnh Giới đó, còn
Hồn Thư Vía Dại nó nằm yên với Tiểu Ngã đã để lại kết nạp an trụ đứng yên. Cũng
như con người đang ở Cõi Nhân đặng lên Cõi Trời thì Tiềm Thức lần lượt di chuyển
lên Cõi Trời được sanh lên Cõi Trời, còn Hồn Thư Vía Dại, nó ở lại Cõi Nhân kết
nạp với Tiểu Ngã Nhân Pháp mà an trú. Chờ chừng nào bậc kia đoạt Vô Thượng
Đẳng Chánh Giác, gọi là ĐẠI NGÃ BÁT ĐẠI thì chung gồm bá thiên vạn ức Tiểu
Ngã thảy đặng trở về kết chung với Bát Đại, gọi là hoàn mỹ, hoặc Chân Thiện Mỹ
Hoàn Lai cũng thế.
Đối với con người tốt hiền lành, đạo đức đồng với Quảng Đại Quang Minh của
mỗi người, dù cho di chuyển bằng cách nào đi nữa, đến bốn chín (49) ngày vẫn được
thoát sanh, trừ trường hợp ái nịch quá trớn vong linh lai vãng quá nhiều thì bị sanh
lộn kiếp ở trong gia đình, như bà Nội thương cháu nhiều không nỡ thoát sanh, lưu trú
vãng lai thời nó lại đầu thai làm em của cháu Nội hay làm con của con mình trường
hợp nầy rất nhiều, do ái nịch bị sanh lộn kiếp.
Đứng về các bậc tín ngưỡng hoặc cuồng tín hay bậc tu hành về Tôn Giáo
không phân biệt, miễn sao con người tự tín nơi Tôn Giáo mình, tự tín ngưỡng vào
Thần Quyền mình, tự cuồng tín nơi tâm khảm mình, biết làm lành, biết xây dựng tánh
kiên nhẫn, ăn ở thiện căn đều đặng PHƯỚC BÁO NHÂN THIÊN khỏi sa vào Ba
Đường Ác như NGẠ QUỶ GIỚI, SÚC SANH GIỚI, ĐỊA NGỤC MÔN. Nhưng căn
bản ít sát sanh, vì sát sanh thường hay bị Loài Ma đòi mạng chúng.

138
Bằng con người cúng tế, sát hại Trâu, Bò, Gà, Vịt, Dê Cừu cầu lấy phước báo
khó đặng kết quả thoát sanh, lại thêm vào một đường dây nghiệt quả, đây là lời nói
thật, vì sao?
Vì ta đã từng nhập vào Chánh Định, đã từng gặp các chư Thần ở Cõi Trời hay
cứu giúp Nhân Gian, từ Thần Hoàng đến Thần Miếu qua Thần Thánh lại Thánh Quân
cùng Thánh Mẫu thảy đều phàn nàn, phiền trách với Ta rằng: 
“Kính thưa Thiền Sư, chúng tôi toàn Chánh Trực Quang Minh Thần, chúng tôi
không thiếu chi món ẨM THỰC hương vị ngạt ngào cao quý, thanh thoát thơm tho.
Chúng tôi thấy dương gian gây tạo ác nghiệp, nên có ác căn tai nạn xảy đến cho họ
liên miên. Họ lại có lòng Thờ Phụng cung kính van cầu chúng tôi, chúng tôi động
lòng ra tay cứu độ cho họ thoát khỏi tai ách. 
Mỗi lần chúng tôi giáng trần, đến nơi Đình Miễu thì hỡi ơi! Trước mặt chúng
tôi họ đặt rất nhiều xác chết, thiêu đốt, luộc quay. Chúng tôi làm sao nói đặng? Đứng
nơi lòng thành hòa lẫn ác nghiệp, buộc tình chúng tôi cứu nạn với lòng thành. Con
người họ vì tục lệ, họ vì ưa thích nên họ tưởng chúng tôi ưa thích gà, vịt, heo quay,
bò tái, rượu nếp, canh xôi, thật ra chẳng biết nói sao hơn, việc đó chưa phải Tín Chủ
mà bọn Tế Lễ tham ăn dục lợi thu góp, khiến con người phải làm như thế. Chúng tôi
mong Thiền Sư đương thời hạ lai nầy, nói lên lời nói giúp chúng tôi khỏi phải mang
tiếng tế thần bằng lối sát sanh như vậy."
Thưa gởi xong liền chầu trời (Đêm 30 tháng 9 Âm Lịch 1965).
Các ông cũng nên biết: Khi bậc đã có phước điền, có một đức tin làm lành thời
có nơi chốn chứng minh, có vị Thánh đỡ đầu. Lúc lâm chung, TIỀM THỨC bay bỗng
lên hư không, miệng liền niệm danh hiệu Tôn Giáo đức tin của mình như: Kính lạy
Chúa, hay Kính Mong Thần hoặc Kính gặp Thánh tùy tùy mỗi con người tin mà phát
hiện, liền khi đó có tia sáng HỒNG QUANG về cõi Thần, có tia sáng THANH
QUANG về cõi Trời làm dân, có tia sáng BẠCH QUANG về cõi Trời làm Quan, có
tia sáng HUỲNH QUANG về Tịnh Độ. Có lúc con người thật tốt nhưng chưa đặng
đức tin vững, vừa lên đến hư không, vui mừng đi dạo khắp Vũ Trụ, nhưng không bao
giờ thấy đặng các cõi, các cảnh giới, đến sau tâm thần bớt khoan khoái lờ đờ, khi tỉnh
lúc mơ, nhớ đâu gặp đó, liền đến Thần Hoàng Miếu Võ mà ở liền trở thành Thần Núi
Nhân Gian, hoặc gặp phải tia sáng đủ màu liền được về nhân thế mà thai sanh con
nhà giàu có để tu hành. Trái lại, có bậc thật tốt nhưng quá chơi bời, đình trà tửu điếm.
Lúc sanh tiền bạn bè thân hữu nhiều nơi, thường vui chung cùng chúng bạn. Đến giai
đoạn trên dạo chơi khắp nơi, liền đến chốn ca xướng ăn chơi nhảy múa, liền nhập bọn
ở nơi đó say mê lâu ngày vẫn bị tấm màn bao phủ thụ thai sanh vào Súc Sanh Giới,
nếu lối chơi thanh bai quý phái Công Đức cao dày thanh thoát thì đặng thụ thai vào
cõi Trời Lục Dục Thiên an hưởng.
Nói đến Chánh Báo, các bậc tu hành Hạnh Nguyện từ nơi Chứng Tri Đắc Pháp
CHÂN KHÔNG chưa tỏ rõ về nơi Sanh Tử, một là cứ thọ chấp Chân Không chạy
139
theo KIẾN DỤC, Tăng Thượng tự xưng Thánh Phật thì sau khi lâm chung bị tội VÔ
GIÁN ĐỊA NGỤC, vì sao? Vì Chân Không nó có rất nhiều thứ lớp theo nhận định,
tùy Công Năng sở chứng của mỗi bậc, từ hàng Phàm Phu đến Thánh Tăng lớp lớp
khó giải hết. Bậc thật tu, thật chứng mới tỏ rõ Công Năng đối với các bậc tu rất đáng
kể. Bậc sở đắc Chân Không biết giá trị nơi Chân Không là quét dọn GIẢ TƯỞNG về
với chính mình là TIỂU NGÃ sáng soi ngàn phương để giác ngộ, đó gọi là: BỒ TÁT
SOI KHẮP NGÀN PHƯƠNG.
Kẻ Ngoại Giáo, người tham vọng khi xem những bộ kinh của Thiền Sư như:
KINH LIỄU NGỘ ĐỐN MÔN, học thuộc hiểu mới sơ qua vội chấp KHÔNG, cho tất
cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều KHÔNG, cho vạn pháp di chuyển Chánh Báo
Thọ Báo thảy đều KHÔNG, cho tất cả chư Phật cùng Bồ Tát Nguyện, Bồ Tát Hạnh
đều KHÔNG, cho tất cả sự tu hành, diễn tiến Phật Quốc Tịnh Độ đến Bát Đại Niết
Bàn đều KHÔNG, do nơi không trụ không mà theo Kiến Dục, ngôn ngữ TÀ KIẾN,
tự xưng Như Lai, tự xưng Phật làm cho một số con người phải lầm lạc, làm cho một
số con người Ngạo Mạn, làm cho một số con người Ngoại Giáo sa vào Vô Gián.
Nào họ có biết con người đối với Vũ Trụ, con người phải hiểu biết Vũ Trụ
từng ly, từng tí, từng lớp, từng lang, từng nơi Tu Chứng của các vị Bồ Tát, từng sự
lầm lạc của Nhân Sanh. Tiên Đạo, Thần Đạo Sanh cùng với Tánh Chất Hóa Sanh nơi
Vũ Trụ, nơi Như Lai Tạng và Tánh Chất Hóa Chất của hàng Tiên Thần đến Nhân
Loại, tất cả con người phải có đầy đủ Khả Năng kiến tạo, Công Năng vượt qua các
trở ngại, vượt qua những gì chưa hiểu biết đặng biết, những gì chưa Ngộ đặng Ngộ,
những gì chưa Nhập đặng Nhập, đó chính lẽ dĩ nhiên nó phải như thế. Từ khi con
người Hiểu thì nó Hiểu chớ chưa phải Biết, đến lúc Biết thì Biết chớ chưa phải Thật
Biết, từ lời Khai Thị để Hiểu đặng Biết chớ chưa phải Ngộ Nhập.
Thứ nhất giữa thời Hạ Lai lạc pháp nầy, bọn chúng làm cho Đạo Phật bị đánh
giá do bởi chúng đem Đạo Phật theo nơi hiểu biết quá tầm thường của chúng làm cho
con người ngỡ Đạo Phật TIÊU CỰC, ngỡ Đạo Phật MÊ TÍN, ngỡ Đạo Phật CHÁNH
TRỊ, có phải chúng hiểu biết thấp kém, lòng tham nơi chúng đầy GIẢ TƯỞNG nên
mới tranh giành nhỏ nhen hư vọng phải sa vào nơi Chánh Trị chăng? Đến ngày lâm
chung hậu quả của Thể Chất Tánh Chất nơi nó như thế nào nó phải Bị Sanh vào nơi
chúng tạo mà sa đọa vào ĐỊA NGỤC VÔ GIÁN.
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
12. BẬC THÁNH TĂNG THOÁT SANH NHƯ THẾ
NÀO?
Bậc chuyên chính giúp đỡ cho con người không cầu báo, đi trong cái KHỔ
đặng an vui vì cốt thật biết cái Khổ của con người nên chi bậc nầy không thấy Khổ.
Bậc nầy thường tìm nơi bệnh tật ngăn chấp, bệnh tật lười trễ, bệnh tật nằm yên, bệnh
tật tham vọng, bệnh tật GIẢ TƯỞNG, bệnh tật bảo thủ, nên chi lúc đau đớn bệnh tật
bậc nầy tìm không ra nơi bệnh tật đau đớn, trở thành thấy mình không có bệnh. Bậc
140
nầy chuyên chú vào nơi hiểu biết tăng trưởng hằng ngày, nhìn đến sự khai thông là
một nền tảng trẻ trung mới lạ nhất, nên chi không tìm đặng chỗ LÃO nơi mình. Bậc
nầy thật biết tỏ rõ con người đua chạy theo KHỞI SANH Bị Diệt trong Giả Tưởng lìa
bỏ TIỂU NGÃ Thể Tánh để tu hành nhiếp thu Giả Tưởng thật biết Giả Tưởng là
NGHIỆP cấu tạo Sanh Tử, khi bậc nầy rõ đặng khỏi lầm lẫn CHỨNG VÔ SANH, về
với TIỂU NGÃ, bậc nầy tu theo BÁT NHÃ lấy Bát Nhã cốt nương theo VÔ NGÃ về
với CHÂN NGÃ gọi là ĐẠI NGÃ chứng tri rốt ráo, biết tỏ rõ Sanh Tử Thọ Báo
Chánh Báo nó như thế nào rành mạch, gọi là: Giải Quyết SANH, TỬ, BỆNH, LÃO,
KHỔ Chánh Giác.
Mục tiêu của THÁNH TĂNG trọn vẹn có bấy nhiêu đó, nên chi từ bậc Sở Đắc
Chân Không Sơ Trụ Bồ Tát dù cho có thoát sanh như thế nào chăng cũng là: ĐỘ
SANH.
Từ bậc Sơ Trụ Bồ Tát trở lên, từ Hạnh Nguyện Hành Dụng Nhiếp Thâu LỤC
ĐẠO sự thoát sanh ít nhất có Ba Kiếp THƯỢNG SANH về Cõi trên như: Cõi Trời,
Cõi Tiên, Thần, tùy thuận mà Thượng Sanh, đến Ba Kiếp HẠ LỢI thoát sanh về Cõi
dưới như: A Tu La, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Bồ Tát vòng quanh Lục Đạo trong Sáu kiếp,
khi nhiếp thu Lục Đạo rốt ráo mới Chứng Tri Đại Bồ Tát, đến kiếp thứ Bảy, Bồ Tát
thành tựu Tịnh Độ Bồ Tát. Kiếp thứ Tám và kiếp thứ Chín Chứng Tri Bồ Tát Nhất
Sanh Bổn Xứ thành Phật, đến kiếp Bồ Tát thành Phật là chính kiếp thứ Mười, từ kiếp
thứ Chín có câu:
THƯỢNG SANH ĐÂU XUẤT TÔN
HẠ LAI VÔ THƯỢNG ĐẲNG
Thiền Sư vừa nói đến đây nhìn chúng tôi, Thiền Sư trầm lặng chốc lát nói tiếp:
“Các ông đang nghe những lời Tôi nói rất chân thật, các ông chớ nên nản chí,
đối với việc Đời, khi các ông xây cất mỗi một cái nhà nó cũng phải đầy đủ cửa lớn,
cửa nhỏ, nơi tắm, nhà bếp đến chỗ nơi để đại tiện không thiếu sót mới thành đặng cái
nhà. Còn về việc Đạo, việc khám phá Vũ Trụ với con người cũng phải tỏ rõ tỉ mỉ mới
đoạt đến mục đích hoàn mỹ, chớ chẳng nhẻ mới biết qua thô sơ đơn giản mà đã gọi là
làm chủ Vũ Trụ sao? Khi bậc đã Vô Thượng Đẳng thời không còn chỗ phân biệt Vũ
Trụ với con người hoàn toàn Chánh Giác, đó mới gọi là NHẤT THỂ.
Từ nơi Sơ Trụ Bồ Tát thoát sanh Ba kiếp THƯỢNG SANH hay HẠ LỢI nó
tùy thuộc nơi Bồ Tát tu theo Đạo Hạnh, Bồ Tát Đạo Hạnh NHÂN THIÊN thời thoát
sanh Thượng Sanh trước. Bằng Bồ Tát Đạo Hạnh Ngạ Quỷ, Súc Sanh thời thoát sanh
HẠ LỢI trước. Từ Hạ Lợi hay Thượng Sanh Bồ Tát phải hành thâm nhiếp độ cho tỏ
rõ mới bất thối chuyển, nếu chưa triệt thấu thì Bồ Tát thường bị Thối Chuyển hoặc
chạy theo Tà Kiến thoát sanh mơ màng không tìm đặng lối thoát.
Khi Sở Đắc CHÂN KHÔNG phải tu Hạnh Bồ Tát, phát Đại Nguyện gọi là Bồ
Tát Nguyện, lập Đạo Hạnh gọi là Bồ Tát Hạnh, thi hành Hạnh Nguyện tu Bồ Tát mới
đặng tâm không nhiễm trước gọi là Sơ Trụ Bồ Tát. Bậc Sơ Trụ Tâm không nhiễm
141
vạn pháp, nhưng chưa biết sử dụng vạn pháp thành thử mới thực hành trong Sáu Kiếp
cốt nhiếp thu Lục Đạo mà tận giác Lục Đạo, chừng đó mới tỏ rõ tỉ mỉ Sanh Tử Luân
Hồi, Sanh Tử chính là một sợi dây thuyên diễn BỆNH, LÃO, KHỔ vậy.
Bồ Tát Sơ Trụ Chứng Tri. Trước ngày Lâm Chung Bồ Tát thường hay biết
trước, vì sao? Vì hằng ngày Bồ Tát quán thấy ở trên đời, làm kiếp con người quá ư
cực khổ, con người lối sống giả tạo, vạn pháp thực hư, nhân tình ít thích hợp với tâm
khảm của Bồ Tát, Bồ Tát kiên cố nhẫn nại, kiên cố nhiếp thâu cho rồi lấy một kiếp,
Bồ Tát quán các Cõi, quán Niết Bàn, quán thân Tứ Đại Giả Hợp, Bồ Tát lại nhớ Hỷ
Xả nương theo Bát Nhã tu tập. Có Bồ Tát cố định Trường Trai cốt thanh tịnh ẫm
thực. Bồ Tát an lành bằng lối giúp đỡ cho con người chỉ dạy cho con người được hiểu
biết Đạo Phật. Bồ Tát tu hạnh ĐẦU ĐÀ, tu hạnh NHẪN NHỤC, tu hạnh LỄ BÁI
CUNG KÍNH tất cả Tam Thế Phật, Bồ Tát nhận lấy Nghịch Cảnh giúp cho con người
được an nhàn, Bồ Tát không sợ lời xâm xĩa, lời mắng nhiếc miễm làm sao sự xâm
xĩa, mắng nhiếc kia không vào tâm của Bồ Tát sân hận, thù hằn là Bồ Tát an vui đứng
nhất. Nói đến Hạnh Nguyện nơi Bồ Tát thật vô kể, vì Bồ Tát tùy mỗi vị thi hành hạnh
nguyện, chung lại Bồ Tát mong thành Phật phải thực hành VẠN HẠNH NHIẾP THU
mới đến Bất Thối Bồ Tát, đến khi Bồ Tát thành Phật phải thực hành VẠN TƯỚNG
mới thành Phật, các ông nên nhớ.
Lúc Lâm Chung Bồ Tát Sơ Trụ tùy theo Hạnh Nguyện Bồ Tát mà Bồ Tát thoát
sanh, nếu Bồ Tát Đạo Hạnh khang trang liền có mùi thơm ngào ngạt tất cả thảy đều
vắng lặng, Bồ Tát nhìn thấy tia sáng, sau tỏa khắp phòng hoặc giả Cốc hay tịnh xá,
Bồ Tát liền đặng thoát sanh lên cõi trên như các Cõi Trời chẳng hạn. Đến khi đặng
sanh, Bồ Tát sanh vào nhà Dân Thiên hay nhà Quan Thiên hoặc nhà quý tộc hoàng
gia tùy theo Công Đức Bồ Tát mà thành tựu.
Bồ Tát chưa biết đặng chính mình ở đâu lai sanh nơi nầy, tại sao mình đặng
sanh hay bị sanh vào nhà dân giả. Vì sao? Vì Bồ Tát đặng thoát sanh lên đến Cung
Trời liền được tiếp vận với TIỂU NGÃ THIÊN NGÃ còn Nhân Ngã trả về Nhân Ngã
để cho VÍA DẠI gìn giữ theo như trên đã nói.
Khi bấy giờ Bồ Tát, tâm thần sáng sủa nhìn đến sự sung sướng không bền
vững, Bồ Tát được cha mẹ mến yêu, được trải hoa để Bồ Tát yên nghỉ, được Ẫm
Thực cao lương mỹ vị, đặng y áo Gấm Tố Thiên, được tắm bằng nước Bạch Hương
Thủy. Đặng Thiên Nữ chăm sóc mang hài Huỳnh Long, được chư Thiên yêu quí. Bồ
Tát đương nhiên chưa thỏa mãn, chưa đặng lẽ sống khoan khoái nơi lòng, Bồ Tát
thường tụ tập chư Thiên, thường nói năng giúp chư Thiên những điều cao quí. Đến
một thời nào đó Bồ Tát phải nguyện NIỆM PHẬT, NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG tu trì
chuyên ròng thuyết pháp. Nên nhớ rằng: Bồ Tát một khi nhất tâm tinh tấn được sanh
vào cõi tu trì trong Mười Tám từng Trời ở Cõi Thiên. Đó gọi là Bồ Tát Tinh Tấn,
đứng thứ nhất trong hàng Sơ Trụ Bồ Tát.

142
Bằng có Bồ Tát được thoát sanh lên Cõi Trời sung sướng, đờn ca sáo thổi cùng
với Thiên Nữ múa hát đắm say, chạy theo Ngũ Dục mãi chơi bời, đôi lúc thấy lòng
mình chưa toại nguyện, bày thêm nhiều cuộc vui say, nó cứ thế mãi, sau mãn phần
một kiếp trở lại HẠ LỢI thoát sanh vào SÚC SANH GIỚI mà thi hành Hạnh Nguyện,
đến một hoặc hai kiếp, tùy thuận hợp hóa nơi nguyện mới Tái Sanh, nói đến chủ yếu
của Bồ Tát, Bồ Tát phải đầy đủ tỏ rõ nhiếp thu LỤC ĐẠO, khi Bồ Tát thực hành
nhiếp thu Lục Đạo, đó chính là pháp môn LỤC TỰ DI ĐÀ, pháp môn Lục Tự Di Đà
sở đắc hoàn mỹ đương nhiên Bất Thối, gọi là BẤT THỐI BỒ TÁT.
Đối với bậc Sơ Trụ đến bậc Bất Thối cùng chư Phật, khi lai phàm vẫn GIẢ MÊ
để Đồng Hành, Đồng Sự, Đồng Ngôn cùng Đồng Đẳng. Đến một thời nào đó Bồ Tát
Phát Nguyện tu hành lần tiến đến mức mình đã sở đắc từ ngàn xưa.” 
Thiền Sư nói đến đây căn dặn chúng tôi hai, ba lần Ngài nói: 
“Khi bậc Bồ Tát GIẢ MÊ rất mau ĐỐN NGỘ của mức Bồ Tát Đốn Ngộ. Qua
đến giai đoạn chưa đặng ngộ của thời trước thường hay dừng trụ, giai đoạn nầy phát
sanh ra nhiều Tự Ngã, nhiều ngạo mạn, nhiều lầm tưởng mà chấp trụ. Bồ Tát nên
Phát Tâm DŨNG MÃNH NGUYỆN trọn kiếp Cúng Dường Tam Thế, tinh tiến
không dừng trụ, thì nó liền qua cơn Thọ Ngã, qua cơn Ngạo Mạn, qua cơn lầm tưởng
đến mức Bất Thối.
Bậc Bất Thối Lục Đạo tỏ thông, lục đạo viên đạt, biện tài Vô Ngại, đạo hạnh
dung minh. Bậc nầy tỏ rõ đường đi lối về của con người chạy theo Lục Đạo, làm con
đường thay đổi, di chuyển gọi là SỐNG CHẾT, mang lấy Cá Tánh, gìn giữ Cá Nhân
cho mình hiểu biết, ưa thích dạy đời, hơn là chính mình phải học trùm khắp phải bị
Sanh Tử trong Lục Đạo. Do đó nên Thân Tâm Bất Thối chuyển, được gọi là BẤT
THỐI BỒ TÁT.
Bậc Bất Thối. Khi thoát sanh lâm chung bậc nầy đang bệnh nằm nơi giường,
bậc nầy lúc Chết vẫn chưa biết mình Đã Chết. Tiềm Thức (hồn) ngỡ mình đang còn
sống, thân mình nhẹ nhàng khỏe khoắn hết bệnh, nhìn thấy Tứ Chúng ra vào lễ bái
như thường lệ. Nếu là Cư Nhân vẫn thấy Gia Đình sinh sống như lúc bình thường. 
Đến bảy ngày sau, đương nhiên được biết mình Chết, nếu bậc bước vào Bất
Thối tuyệt đỉnh, bậc nầy an nhiên không còn TẬP KHÍ, không còn ÁI NHIỄM bước
ra đi dạo khắp các Cảnh Giới, giao du các TỊNH ĐỘ, lễ bái A Di Đà, một là an trú
Tịnh Độ, hai là phát Đại Nguyện Lai Trần, nếu lai trần xuống đặng làm vua minh
chánh, làm quan đại triều, làm lãnh tụ cứu nước, cứu dân an lành, giải khổ ách nô lệ.
Bậc nầy dù tái sanh nơi nào trong lục đạo cũng đặng làm thủ lãnh cứu nguy, chớ
không bao giờ làm thường dân cả, vì sao phải làm Vua hoặc làm Lãnh Tụ? Vì có làm
Vua hay làm Lãnh Tụ sau nầy mới có Trang Nghiêm thành Phật, trước tiên làm Chủ
giúp Dân, sau làm Chủ Vũ Trụ, đó chính là lẽ đương nhiên nó phải như thế. 
Bậc Bất Thối khi Tái Phàm nó đã có sẵn CHỦ ĐÍCH TIN VÂNG vào kinh
điển, vào mục đích nơi mình đang đi, đang thực hành. Như nhất khi vào một Pháp
143
Môn nào để tu trì thì đã có sẵn lập trường cao quí nhất là Tin nơi pháp môn, quí pháp
môn đã có sẵn đức tánh bất thối chuyển.
Còn nói đến ĐẠI BỒ TÁT, thật khó nghĩ bàn, khi bậc Đại Bồ Tát giả mê, bất
khả Thượng Hạ thảy đều học hỏi tu hành, không vì bạn bè mà không học, không vì
kẻ giai cấp nghèo nàn mà không học. Tự Tôn cao quí bậc THẦY, tự trọng thân hữu
bạn, tự mến thương giai cấp mà tự mến. Bậc ĐẠI BỒ TÁT tất cả công việc chư Phật
đã thi hành ngày nay Đại Bồ Tát phải làm, Đại Bồ Tát thu gọn tất cả những gì còn
thiếu sót, những gì A Tăng Kỳ kiếp chưa làm đến nay Đại Bồ Tát phải làm. Đại Bồ
Tát nhìn biết những môn Bồ Tát chưa làm, bằng tánh chất thua kém, bằng ý chí chưa
rộng, bằng Lề Lối biếng trễ, bằng đối xử với mọi người chưa chân thật đang còn
chênh lệch nhau, nay Đại Bồ Tát phải thực hành không thiếu sót.
Vị Đại Bồ Tát chưa bao giờ suy nghĩ việc nơi mình giúp đỡ rộng hẹp, lớn nhỏ
đối với con người, hoặc Tâm Tánh mình VÔ NGẠI để mình đặng ngôi thứ Bồ Tát.
Do nơi không so tính hơn thua rộng hẹp, lớn nhỏ đối với mọi người nên hóa độ được
KHỔ ÁCH.
Đại Bồ Tát nhìn tất cả những hiện vật Vũ Trụ đã hóa sanh có tất cả hình sắc,
nếu kẻ nào nhìn thấy hình sắc nơi hiện vật, mà cho là Đã Biết, thì thật ra chưa biết chi
cả, vì sao? 
Vì lúc nhìn những hiện vật thấy đặng thực chất hóa sanh ra nó mới thật là biết.
Có nhiều vị sống trong hình tướng thứ vị hơn là sống nơi mức tiến hóa của con
người. Nên chi Đại Bồ Tát sống theo nếp sống tiến hóa Vũ Trụ, hơn là ở nơi Thứ Vị
của Bồ Tát phải chịu nằm trong Vũ Trụ Bị Sanh. Do lẽ ấy nên Đại Bồ Tát không bao
giờ suy nghĩ mình là Đại Bồ Tát, duy chỉ mục đích thật biết tỏ rõ tất cả Động Cơ và
Phụ Thuộc Cơ của Vũ Trụ hóa sanh Sơn Hà Đại Địa cùng vô số thế giới, mỗi mỗi
đều có mức Sống cùng lối sống khác biệt, nhưng đồng cái sống.
Đại Bồ Tát không bao giờ cầu báo NIẾT BÀN, cầu báo Tịnh Độ các Cõi chư
Thiên, Tiên, vì Đại Bồ Tát thật biết chính mình tạo những gì, chính mình có nơi đó
chớ nào phải van xin cầu khẩn mới có, do biết NHƯ TƯỚNG cùng NHẤT TƯỚNG
mà tâm không bao giờ suy nghĩ vẩn vơ, suy nghĩ mong đợi duy nhất Hạnh Nguyện
thực thể mà đặng.
Đại Bồ Tát khi lâm chung cũng như thay nơi ở, tâm không quái ngại, nên
không có TẬP KHÍ. Lúc Tái Phàm hoặc Tái Sanh nơi nào tùy Đại Bồ Tát đến nơi
thai sanh mà Thị Hiện tái sanh.
Bậc Đại Bồ Tát NHẤT SANH BỔN XỨ THÀNH PHẬT, khi Bồ Tát Bất Thối
kiếp thứ Chín chưa tròn Hạnh Nguyện đến chừng kiếp thứ Mười Hai mới thành Phật,
vì phải tu trì đến mức Đại Bồ Tát mới đặng Thọ Ký Nhất Sanh Bổn Xứ thành Phật.
Bậc NHẤT SANH BỔN XỨ THÀNH PHẬT, bậc nầy đã tỏ rõ tỉ mỉ tất cả vạn
pháp di chuyển thay đổi nơi nó như thế nào, đặng thành tựu ra sao. Từ Chủng Tánh
Chúng Sanh đến Chủng Tánh Bồ Tát, phân định giữa hai trạng thái cử chỉ, đồng thời
144
nơi Nghe, Thấy, Biết nó như thế nào thảy đều tỏ rõ thật biết rành mạch. Cũng như
biết tỏ rõ tỉ mỉ Vũ Trụ từ nơi Thể Chất, các chất nơi Vũ Trụ hợp hóa ra sao, đặng hóa
sanh những gì, từ Sơn Hà Đại Địa đến Nhân Sinh, Thiên Sanh thảy đều biết rõ nơi
thọ chấp thứ bậc thành hình vậy.
Bậc nầy khi Lâm Chung, đã biết trước rõ ràng tỉ mỉ, bậc nầy định hướng nơi an
trú để sau Hạ Lai thành Phật. Bậc nầy lại sửa soạn quét dọn an bài đâu đó trước ba
tháng hoặc bảy tháng mới lâm chung. Bậc nầy trước khi thoát sanh đã căn dặn tất cả
Tín Chúng từ cử chỉ đến sự hệ trọng trên con đường Giải Thoát. Nhưng bậc nầy chưa
biết sau nầy chính mình Hạ Lai trong một nước nào, vì sao? Vì dưới mắt bậc Nhất
Sanh Bổn Xứ, nước nào cũng bình đẳng như nhau nên chưa lưu tâm đến. Đến ngày
lâm chung, đến phút lâm chung chư Phật nghìn phương đồng đứng lên Thọ Ký
"NHẤT SANH BỔN XỨ THÀNH PHẬT.” 
Thiền Sư vừa nói đến đây trời cũng về chiều, số người cùng Thiền Sư ra về,
mối tình cao cả Thiền Sư đã nói, anh em tâm niệm cảm kích vô cùng khó tả.
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
13. DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH CON NGƯỜI VỚI VŨ TRỤ
Khi con người đã nhận định được Vũ Trụ với con người, thì con người mới
biết đặng trong tập nầy quí vô giá, vì sao? Vì đứng trước quân minh, không có Đối
Tượng một Tôn Giáo nào, một Khoa Học, Triết Học hay một Chế Độ nào để nói lên
sự thật của Đạo Phật trong căn bản đưa con người biết nhận định giá trị nơi chính
mình, biết Bản Năng cùng Khả Năng lý trí của con người, biết con người có tương
quan với Vũ Trụ biết được chính mình là ỨNG THÂN ĐẠI DIỆN CHO VŨ TRỤ,
biết được mình là Động Cơ phơi bày những món gì Vũ Trụ đã có sẵn, nay con người
có Bổn Phận trách nhiệm phô trương phơi bày ra tất cả sự thật. Cho nên Vũ Trụ đối
với Con Người. Con người còn tiến bộ lên gấp vạn lần hiện nay Vũ Trụ đã biết nó
như thế.
Chưa hẳn Con Người đứng về tinh thần, chưa tin hẳn về ĐẠO PHẬT, chỉ vì
chưa có bậc khai sáng để cho con người đặng nhận chân, đem đến cho con người có
một nguồn sữa tươi Tin Vâng bất tận. Do đó mà hiện nay mới Lạc Pháp sắp tắt nguồn
sữa thời con người đang mong muốn háo danh. Thời hiện tại con người không còn
háo danh nữa mà con người đang tìm nguồn sống mới, nguồn SỐNG MỚI ấy là Thực
Tại Hưởng Thực Tại, Đạo Phật nói lên tất cả sự thật trong thực tại. Thực Tại đó phải
thực hành mới hưởng thực tại. ĐẠO PHẬT dùng mắt NHÃN TẠNG quân minh đưa
con người biết quan sát mới phương tiện lập Pháp Môn THIỀN. Đạo Phật thấy con
người thường ĐỐI TƯỢNG nên Đạo Phật bảo Lìa Ngã cùng Sở Ngã. Đạo Phật biết
sống riêng rẽ từng người, từng khối nên Đạo Phật mới dạy, Hành Thâm Pháp Giới,
nhiếp độ chúng sanh tánh. Đạo Phật thấy con người tham của hay cướp giựt giành xé
nhau nên dạy: Các Pháp như Huyển, nên Từ Bi Hỷ Xả tha thứ cho nhau, chỉ điểm
NHÂN QUẢ, chứng tỏ lãnh chất gì thời chịu lấy chất đó, đặng chất chi hưởng chất
145
đó. Đạo Phật chỉ dạy, diễn giải toàn là tháo gỡ từ đường kim đến sợi chỉ của những
sự rối ren con người lần đưa con người khám phá Vũ Trụ, cốt để con người nhận định
được Vũ Trụ với Con Người mà Giác Ngộ.
Đạo Phật từng phân định con người theo trình độ nhận định đúng sai, sai đúng
nên mới có sự Tu Chứng từng bậc như: Thinh Văn, Duyên Giác, A La Hán cho đến
Bồ Tát cùng Phật nữa. Đến chừng Tín Chúng tự cho mình là: Thinh Văn, Duyên
Giác, A La Hán hay Bích Chi hoặc Bồ Tát đến danh hiệu Phật. Thì Đạo Phật nói:
Nếu con người nhận định mình là Bồ Tát hay Phật thì chưa phải Bồ Tát hoặc Phật, vì
sao? Vì mục đích Đạo Phật đưa giác ngộ Vũ Trụ với con người, chớ chưa phải Đạo
Phật đưa mình đặng thứ vị Bồ Tát hay Phật nên chi Đạo Phật mới nói những lời trên.
Đạo Phật dạy con người lần bước tiến để nhận định đặng Vũ Trụ nên đức Bổn Sư,
Ứng Thân Tất Đạt Đa, giảng giải 49 năm cốt đem con người Liễu Ngộ, con người
lầm tưởng lời thuyết ấy là chủ đích, nên Ngài nói: “TA KHÔNG BAO GIỜ
THUYẾT PHÁP hay câu NGÓN TAY TA CHỈ CHÂN LÝ, CHỚ CHẲNG PHẢI
NGÓN TAY TA LÀ CHÂN LÝ.” Có phải Đạo Phật đưa từng lớp con người Khám
Phá Vũ Trụ chăng? 

Hóa Thân ĐỨC TĂNG CHỦ TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN


Chính ĐỨC VÔ THƯỢNG TÔN DI LẠC
ẤN GIÁO HỘI THƯỢNG, ngày 8 tháng 7 Đinh Tỵ (ngày 22-8-1977)

146

You might also like