Professional Documents
Culture Documents
Cháo Cám
Cháo Cám
- Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới rất quan trọng đối với mọi người, ai cũng sẽ cố gắng bằng
mọi giá làm cho nó được tươm tất, thịnh soạn nhất có thể. Tuy nhiên, vì cái đói đeo bám, vì thuộc
gia đình nghèo đứng bên bờ vực cái chết, cho nên dù có đầy đủ hơn ngày thường thì bữa cơm
cũng hiện lên hết sức thảm hại" mẹt rách "," độc một lùm rau chuối thái rối "," một đĩa muối ","
một niêu cháo loãng lõng bõng ". Ở đây, Kim Lân đã thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình với
đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa cơm đơn sơ, tuềnh toàng và sơ sài nói lên sự nghèo đói của một
gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội, từ đó vẽ lên hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm
của cả dân tộc mùa xuân 1945. ". Họ đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của
tử thần. Và điều cần nhất lúc này không đòi hỏi đến ăn ngon, đủ ăn mà chỉ cần có ăn để được
sống. Niềm vui của bà cụ Tử vì thế cũng chỉ là niềm vui tội nghiệp. Cảnh cơ hàn vẫn ám ảnh, bủa
vây cụ và các con, khiển họ chẳng thể vui trọn vẹn trong ngày đại hỷ của đời người. Bữa cơm
mừng đầu mới như một nét vẽ cuối cùng hoàn tất bức tranh thể thảm của nạn đói năm Ất Dậu.
Đói đến thê lương, thảm khốc. Đối đến nổi người chết thì như ngả ra, người sống cũng dật dờ như
những bóng ma
- Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác
đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng. “hai con mắt thị tối lại”, mặt Tràng “chun lại ngay, miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Không khí bữa ăn chùng xuống, bởi “không ai nói câu gì”,
“tránh nhìn mặt nhau” và đeo đuổi theo “nỗi tủi hờn” dâng lên trong tâm trí. Bữa ăn nhà Tràng
quả là thê thảm nhưng dù sao vẫn còn khá hơn nhiều nhà khác trong sự so sánh đầy lạc quan:
“Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Chao ôi là khổ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn
cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài
vật khi ăn thứ thức ăn thường dùng cho gia súc. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh
một lần nữa xuất hiện, đe dọa thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm. Nỗi xót xa,
buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.
Một đoạn văn ngắn mà đã nói được một cách thấm thía nỗi cơ cực của con người. Qua đây,
người đọc có thể nhận ra thái độ cảm thông và cách tố cáo hiện thực của một nhà nhân đạo chủ
nghĩa.
Niềm tin: Mặc dù cái đói khát tối sầm đang bủa vây nhưng gia đình họ vẫn tìm cho mình lí do,
niềm tin để vươn lên trên cái đói, cái thảm đảm để mà vui, mà hi vọng.
- Cái đói đã đẩy con người về hàng súc vật. Nhưng con người vẫn là con người, vẫn tìm cách
nương tựa vào nhau mà sống, vẫn khát khao, hi vọng. Bởi vậy, trong đoạn văn miêu tả bữa cơm
ngày đói của Kim Lân, ta vẫn thấy được không khí đầm ấm, đầy ắp tình người của gia đình
Tràng. “Chưa bao giờ trong gia đình này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế”. Bữa cơm thảm
hại về vật chất nhưng ai cũng ăn rất ngon lành, lại nói với nhau những điều rất vui vẻ. Nhân vật
tạo nên không khí đầm ấm đó không ai khác hơn là bà cụ Tứ. Trong bữa ăn “bà lão nói toàn
chuyện vui”, lúc nào cũng “tươi cười, đon đả” như để khỏa lấp tình trạng đen tối của hiện thực
hay cũng là nụ cười hạnh phúc của người mẹ nghèo trước cuộc sống mới của các con. Cụ
không nói về cháo cám như một món ăn dành cho con lợn, con gà, mà cụ nói đến nó như một
sự may mắn của gia đình khi nhiều nhà còn không có cả cám để ăn qua nạn đói. Bà kể chuyện
làm ăn, gia cảnh, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này, còn động viên các con bằng
những dự tính mà trong hoàn cảnh hiện tại ai cũng biết là viển vông, xa vời nhưng trong cách
nói của bà vẫn đầy náo nức, hi vọng rằng nếu may mắn, cố gắng họ vẫn có thể sống, vẫn có thể
vượt qua đói khát, ấm no, sung túc. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no
đủ hơn.
Chính ở người mẹ già gần đất xa trời ấy, người ta còn cảm nhận một niềm tin thật mãnh liệt vào
những điều tốt đẹp dù con người đang phải sống trong tận cùng của khổ cực đói khát.
Chính người mẹ đã truyền cho các con niềm tin sức mạnh “để đối mặt với khốn khổ để vượt lên
cái khốn khổ, cái đói, cái thảm hại để mà vui, mà hi vọng”.
Tiểu kết:
- " Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống". Kim Lân không chỉ gợi lại
sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi
những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu
thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng. So với những tác phẩm viết về
người lao động trước Cách mạng như Tắt đèn, Chí Phèo, Lão Hạc, Vợ nhặt mang đến một giá trị
nhân đạo mới mẻ hơn: Nhà văn không chỉ thấy nỗi khổ của con người và vẻ đẹp tâm hồn của họ
mà còn nhìn thấy tương lai và con đường sống tất yếu của họ. Nhà văn có một niềm tin tưởng
mãnh liệt vào khả năng tự vươn dậy của họ. Cho dù đang đứng bên miệng vực của cái đói, cái
chết, cho dù bị dồn đuối đến bước đường cùng thì người lao động Việt Nam vẫn tràn đầy khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai, vào một ngày mai tươi sáng.