Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 133

BÀI GIẢNG

MẠNG VIỄN THÔNG


(DÀNH CHO KHỐI KINH TẾ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG)

1
Lei nói đầu

Bài giảng này cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về mạng viễn
thông và những vấn đề liên quan đến mạng viễn thông. Bài giảng cũng thảo luận về các
mạng viễn thông cụ thể. Kết cấu bài giảng gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về viễn thông. Chương này trình bày những khái niệm
cơ bản về viễn thông, các dịch vụ và kỹ thuật mạng lưới viễn thông.
Chương 2: Mạng số liên kết đa dịch vụ ISDN. Chương này trình bày các vấn
đề cơ bản về mạng điện thoại cố định PSTN, mạng số đa dịch vụ băng hẹp N-ISDN và
mạng số đa dịch vụ băng rộng B-ISDN.
Chương 3: Mạng chuyển mạch gói. Chương này trình bày những vấn đề cơ bản
về chuyển mạch gói và các mạng gói điển hỉnh như X.25, Frame Relay, ATM.
Chương 4: Mạng IP và NGN. Chương này cơ bản về mạng IP và mạng thế hệ
sau NGN.
Mong rằng tài liệu này sẽ đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu về mạng viễn thông
của đông đảo các bạn sinh viên.
Trong quá trình biên soạn không thể tránh khỏi những sai sót, mong bạn đọc gửi
các ý kiến góp ý về Bộ môn Kỹ thuật viễn thông – Khoa Điện – Điện tử - Đại học Giao
thông vận tải. Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, 12/2010

2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ MẠNG VIỄN THÔNG
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỄN THÔNG
Viễn thông là một trong những bộ phận kinh doanh phát triển nhanh nhất trong
ngành kinh doanh công nghệ thông tin hiện đại. Chỉ cách đây vài thập kỷ, hiểu biết cơ
bản về viễn thông chỉ gói gọn trong mạng điện thoại là. Ngày nay, lĩnh vực viễn thông
bao gồm rất nhiều công nghệ và dịch vụ hiện đại. Ngoài một vài dịch vụ đã hoàn thiện
như dịch vụ điện thoại cố định còn có rất nhiều dịch vụ đã và đang bùng nổ như dịch vụ
điện thoại di động và Internet. Sự xóa bỏ những quy định trong nền công nghiệp viễn
thông đã làm kinh doanh tăng trưởng mặc dù giá cả của các dịch vụ ngày càng giảm.
I.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ VIỄN THÔNG
Viễn thông: bao gồm những vấn đề liên quan đến việc truyền thông tin (trao đổi
hay quảng bá thông tin) giữa các đối tượng qua một khoảng cách, nghĩa là bao gồm bất
kỳ hoạt động liên quan tới việc phát/nhận tin tức (âm thanh, hình ảnh, chữ viết, dữ liệu,
…) qua các phương tiện truyền thông (hữu tuyến như đường dây kim loại, cáp quang
hoặc vô tuyến hoặc các hệ thống điện từ khác).
Hình 1.1 là lược đồ phân loại viễn thông. Viễn thông chiếm phần chủ đạo trong
truyền thông. Truyền thông là việc truyền thông tin từ một điểm tới một điểm khác,
gồm có truyền thông cơ học (bưu chính) và truyền thông điện (viễn thông) bởi vì nó
phát triển từ dạng cơ học sang dạng điện/quang và ngày càng sử dụng những hệ thống
điện/quang phức tạp hơn.

Viễn thông

Đơn hướng Song hướng

Truyền Truyền Điện Điện Điện Truyền Thư Truyền


Telex thoại thoại điện
thanh hình báo dữ liệu hình
cố di tử ...
hội
định động nghị
Truyền
Truyền
hình
hình

cáp
tuyến

Hình 1.1: Lược đồ mạng Viễn thông


Tỷ phần truyền thông cơ học (thư từ, báo chí) đang có xu hướng giảm trong khi
tỷ phần truyền thông điện/quang, đặc biệt là truyền song hướng, lại gia tăng và sẽ chiếm
thị phần chủ đạo trong tương lai. Vì vậy, ngày nay những tập đoàn báo chí cũng đang

3
tập trung và hướng tới truyền thông điện/quang, coi đó là cơ hội kinh doanh tương lai
của mình.
I.2 CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VIỄN THÔNG
Viễn thông đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Hình 1.2 cho ta những
mốc lịch sử phát triển quan trọng trong viễn thông, chủ yếu nhấn mạnh vào sự phát triển
và mở rộng của các hệ thống và dịch vụ viễn thông.
Có thể phân sự phát triển của viễn thông qua bốn giai đoạn chính. Giai đoạn thứ
nhất kéo dài khoảng 90 năm từ khi điện thoại ra đời và phát triển. Giai đoạn thứ hai là
giai đoạn xuất hiện chuyển mạch SPC, truyền dẫn số và thông tin vệ tinh. Giai đoạn thứ
3 là giai đoạn phát triển đặc trưng của các mạng dữ liệu và công nghệ chuyển mạch gói.
Giai đoạn thứ 4 xuất hiện cùng vấn đề liên kết mạng truyền thông. Phần tiếp theo trình
bày những mốc thời gian đáng nhớ đi theo những sự kiện nổi bật liên quan tới viễn
thông.

Hình 1.2: Sự phát triển của các hệ thống và dịch vụ viễn thông
- 1838-1866 Điện báo (telegraph): Samuel Morse hoàn thiện hệ thống điện báo
của chính mình; điện báo là dịch vụ viễn thông đầu tiên xuất hiện năm 1844.
- 1876-1899 Điện thoại (telephony): Alexander Graham Bell phát minh ra điện
thoại (1876); xuất hiện tổng đài điện thoại đầu tiên với 8 đường dây; Almond
Strowger sáng chế ra tổng đài cơ điện kiểu từng nấc (step by step, 1887).
- 1920-1928 Carson, Nyquist, Johnson và Hartley giới thiệu lý thuyết truyền
dẫn.
- 1923-1938 Truyền hình (Television): Hệ thống cơ hình ảnh được thực hiện; bắt
đầu những thử nghiệm và thực nghiệm quảng bá.
- 1937 Alec Reeves hình thành khái niệm điều xung mã (PCM).

4
- 1938-1945 Các hệ thống radar và viba phát triển trong Đại chiến thế giới lần
thứ 2; FM được sử dụng rộng khắp trong truyền thông quân sự.
- 1948-1950 C.E. Shannon phát hành các bài báo nền tảng về lý thuyết thông tin.
- 1950 Ghép kênh phân chia theo thời gian (TDM) được áp dụng vào điện thoại.
- 1953 Các chuẩn Tivi màu được công bố ở Mỹ.
- 1955 J. R. Pierce đề xuất các hệ thống truyền thông vệ tinh.
- 1962-1966 Dịch vụ truyền dữ liệu được thương mại; PCM chứng tỏ sự thích
hợp cho truyền thoại và TV; lý thuyết truyền dẫn số được phát triển.
- 1965 Mariner IV truyền những bức ảnh từ Sao Hỏa về Trái Đất.
- 1976 Ethernet LAN do Metcalfe và Broggs (Xerox) sáng chế.
- 1970–1975 Chuẩn PCM được CCITT triển khai.
- 1980–1983 Khởi động của Internet toàn cầu dựa trên giao thức TCP/IP.
- 1980–1985 Các mạng di động tế bào hiện đại cung cấp dịch vụ; NMT ở Bắc
Âu, AMPS ở Mỹ, mô hình tham chiếu OSI được Tổ chức chuẩn hóa quốc tế
(ISO) định nghĩa.
- 1989 Tim Berners-Lee (CERN) đề cử ban đầu cho văn kiện kết nối Web trên
WWW (World Wide Web).
- 1990–1997 Hệ thống tế bào số đầu tiên, Global System for Mobile
Communications (GSM), được thương mại và phát triển mạnh trên toàn thế giới;
Sử dụng Internet và dịch vụ mở rộng nhanh chóng nhờ có WWW.
- 1997–2001 Cộng đồng viễn thông được bãi bỏ quy định và kinh doanh phát
triển nhanh chóng; các mạng tế bào số, đặc biệt là GSM mở rộng trên toàn
thếgiới; những ứng dụng thương mại của Internet mở rộng và một phần truyền
thông thoại truyền thống được chuyển từ mạng điện thoại chuyển mạch công
cộng (PSTN) sang Internet; chất lượng LAN được cải thiện với công nghệ
Ethernet tiên tiến có tốc độ lên tới tầm Gigabit/s
- 2001–2005 Truyền hình số bắt đầu thay thế truyền hình quảng bá tương tự; các
hệ thống truy nhập băng rộng mở rộng khả năng cung cấp dịch vụ Internet đa
phương tiện tới mọi người; dịch vụ thoại trở thành dịch vụ truyền thông cá nhân
khi sự xâm nhập của các hệ thống tế bào và PCS tăng lên.
- 2005– Truyền hình số sẽ thay thế truyền hình tương tự và bắt đầu cung cấp các
dịch vụ tương tác ngoài dịch vụ quảng bá; các hệ thống di động tế bào thế hệ thứ
3 và các công nghệ WLAN sẽ cung cấp các dịch vụ dữ liệu tiên tiến cho người
sử dụng di động; các dịch vụ di động nội hạt sẽ mở rộng, ứng dụng cho những
công nghệ không dây khoảng cách ngắn trong nhà và công sở sẽ tăng lên; mạng
viễn thông toàn cầu sẽ tiến triển hướng tới mặt bằng mạng chuyển mạch gói
chung cho tất cả các loại dịch vụ.

5
I.3 CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH MẠNG VIỄN THÔNG
Từ quan điểm phần cứng, mạng viễn thông bao gồm thiết bị đầu cuối, thiết bị
chuyển mạch và thiết bị truyền dẫn như chỉ ra trong hình 1.3.

Hình 1.3: Các bộ phận cấu thành mạng viễn thông


I.3.1 THIẾT BỊ ĐẦU CUỐI
Thiết bị đầu cuối sử dụng để giao tiếp giữa một mạng và người hay máy móc,
bao gồm máy điện thoại, máy fax, máy tính… Thiết bị đầu cuối chuyển đổi thông tin
sang dạng tín hiệu thích hợp để truyền đi trên đường truyền và trao đổi các tín hiệu điều
khiển với mạng lưới.
I.3.2 THIẾT BỊ CHUYỂN MẠCH
Thiết bị chuyển mạch được sử dụng để thiết lập một đường truyền dẫn giữa các
thuê bao bất kỳ (đầu cuối). Do vậy, chức năng của thiết bị chuyển mạch chính là thiết
lập đường truyền dẫn. Với thiết bị chuyển mạch như vậy, đường truyền dẫn được chia
sẻ và một mạng lưới có thể được sử dụng một cách kinh tế.
Thiết bị chuyển mạch được phân chia thành tổng đài nội hạt cung cấp dịch vụ
trực tiếp thuê bao và tổng đài và tổng đài chuyển tiếp được sử dụng như một điểm
chuyển mạch cho lưu lượng giữa các tổng đài khác.
I.3.3 THIẾT BỊ TRUYỀN DẪN
Thiết bị truyền dẫn được sử dụng để nối các tổng đài với nhau hoặc nối các tổng
đài và các thuê bao để truyền đi các tín hiệu điện nhanh chóng và chính xác.
Thiết bị truyền dẫn có thể được phân loại sơ lược thành thiết bị truyền dẫn phía
thuê bao (nối thiết bị đầu cuối với một tổng đài nội hạt) và thiết bị truyền dẫn chuyển
tiếp (kết nối các tổng đài). Xét về phương tiện truyền dẫn thì thiết bị truyền dẫn có thể
được phân loại thành thiết bị truyền hữu tuyến (sử dụng cáp kim loại, cáp quang để
truyền tín hiệu) và thiết bị thiết bị truyền dẫn vô tuyến (sử dụng các sóng vô tuyến để
truyền tín hiệu)

6
1. Thiết bị truyền dẫn phía thuê bao
Thiết bị truyền dẫn phía thuê bao bao gồm các cáp kim loại, các cáp sợi quang
hay thiết bị truyền dẫn vô tuyến. Cáp kim loại được sử dụng để truyền dẫn cho các thuê
bao có tốc độ thấp. Cáp quang được sử dụng cho các đường thuê bao riêng và mạng
thông tin số đa dịch vụ ISDN có tốc độ cao và yêu cầu một dung lượng lớn. Các đường
vô tuyến được sử dụng để phục vụ cho nhu cầu di động của người sử dụng.
2. Thiết bị truyền dẫn chuyển tiếp
Thiết bị truyền dẫn chuyển tiếp bao gồm hệ thống cáp quang, hệ thống cáp đồng
trục, hệ thống vi ba, hệ thống thông tin vệ tinh… Trong thiết bị truyền dẫn chuyển tiếp,
một số lớn các tín hiệu hay thông tin được truyền đi một cách kinh tế qua một đường
truyền dẫn đơn.
I.4 PHÂN LOẠI MẠNG VIỄN THÔNG
Mạng viễn thông có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau:
- Phân loại theo loại dịch vụ mà mạng cung cấp: gồm mạng điện thoại cố định,
mạng điện thoại di động, mạng số liệu,…
- Phân loại theo kỹ thuật chuyển mạch sử dụng trong mạng: gồm mạng chuyển
mạch kênh, mạng chuyển mạch gói…
-…
Các cách phân loại trên chỉ mang tính tương đối, tùy từng trường hợp cụ thể mà
ta sử dụng cách phân loại thích hợp.
II. KỸ THUẬT MẠNG LƯỚI VIỄN THÔNG
Kỹ thuật mạng lưới viễn thông cần thiết để làm cho sự kết hợp của các thiết bị
trong mạng có thể vận hành như một mạng lưới. Kỹ thuật mạng lưới viễn thông bao
gồm cấu hình mạng lưới, đánh số, tính cước, báo hiệu, đồng bộ mạng lưới…
II.1 KỸ THUẬT CẤU HÌNH MẠNG LƯỚI
Kỹ thuật cấu hình mạng lưới được sử dụng để xác định cách tổ chức mạng lưới
bằng cách kết hợp các tổng đài (như các điểm) với các đường truyền dẫn (như các
đường) một cách phù hợp nhất.
II.1.1 TỔ CHỨC MẠNG LƯỚI
Khi số thuê bao nhỏ, tất cả các thuê bao được nối đến một tổng đài, tổng đài làm
nhiệm vụ chuyển tiếp lưu lượng giữa các thuê bao, lúc này chưa hình thành mạng lõi.
Khi số thuê bao lớn, cần sử dụng nhiều tổng đài để đáp ứng nhu cầu trao đổi
giữa các thuê bao. Lúc này ta cần kết nối các tổng đài với nhau để thực hiện liên kết
giữa các thuê bao không cùng tổng đài, từ đó hình thành nên mạng lõi (mạng liên kết
giữa các tổng đài). Việc xác định cách thức kết nối các tổng đài sao cho phù hợp chính
là nhiệm vụ của kỹ thuật cấu hình mạng lưới.

7
Ta có các kiểu mô hình kết nối như sau: mạng hình lưới, mạng hình sao và mạng
hỗn hợp.

Hình 1.4: Cấu hình mạng cơ bản


1. Mạng hình lưới
Mạng hình lưới là tổ chức mạng mà tại đó tất cả các tổng đài được nối trực tiếp
đến tất cả các tổng đài khác trong mạng mà không qua bất kỳ tổng đài chuyển tiếp nào.
Với cách kết nối này, việc xác định các tuyến và lộ trình truyền dẫn giữa các nút được
thực hiện một cách đơn giản. Mạng này thích hợp với trường hợp khi lưu lượng trực
tiếp giữa các tổng lớn và yêu cầu độ tin cậy cao.
Mặ khác, với số tổng đài (nút mạng) là n thì số đường kết nối giữa các tổng đài
này sẽ là:
Số đường kết nối = n(n+1)/2
Như vậy, khi số tổng đài tăng lên thì số đường kết nối sẽ tăng theo tỷ lệ gần với
2
n . Do vậy mạng hình lưới không thích hợp với một mạng phạm vi rộng và có số tổng
đài lớn.

8
Nói chung, một mạng hình lưới thích hợp cho trường hợp mà ở đó một số lượng
nhỏ tổng đài được tập trung trong một vùng nhỏ hoặc khi khối lượng lưu lượng giữa các
tổng đài lớn. Đánh giá về mặt chi phí thì mạng hình lưới thích hợp cho trường hợp chi
phí về chuyển mạch cao hơn chi phí về truyền dẫn
2. Mạng hình sao
Mạng hình sao là tổ chức mạng mà tại đó tất cả các tổng đài nội hạt được nối
đến một tổng đài chuyển tiếp. Tổng đài chuyển tiếp có nhiệm vụ tập trung lưu lượng và
chuyển tiếp lưu lượng theo yêu cầu. Số lượng kết nối trong mạng hình sao giảm đi đáng
kể so với mạng hình lưới. Ngoài ra, lưu lượng giữa các tổng đài được tập trung bởi tổng
đài chuyển tiếp nên mạch vật lý được sử dụng hiệu quả. Tuy vậy hoạt động của mạng
này phụ thuộc rất lớn vào tổng đài chuyển tiếp. Nếu tổng đài chuyển tiếp gặp sự cố thì
không thể thiết lập kết nối giữa các thuê bao thuộc các tổng đài nội hạt khác nhau.
Mạng hình sao thích hợp cho trường hợp mạng trải dài trên phạm vi rộng và lưu
lượng trực tiếp giữa các tổng đài nột hạt là không cao. Về mặt chi phí, mạng hình sao
thích hợp cho trường hợp chi phí về truyền dẫn cao hơn chi phí về chuyển mạch.
3. Mạng hỗn hợp
Các mạng hình lưới và hình sao đều có nhưng ưu điểm và nhược điểm riêng.
Trong thực tế một mạng thường không dùng một loại cấu hình đơn thuần như hình sao
hoặc hình lưới mà dùng một mạng hỗn hợp kết hợp ưu điểm của hai loại trên.
Trong mạng hỗn hợp, khi khối lượng lưu lượng giữa các tổng đài nội hạt nhỏ,
cuộc gọi giữa các tổng đài này được kết nối qua một tổng đài chuyển tiếp. Khi khối
lượng lưu lượng lớn thì các tổng đài nội hạt được kết nối trực tiếp với nhau. Điều này
cho phép các tổng đài và thiết bị truyền dẫn được sử dụng một cách hiệu quả và góp
phần nâng cao độ tin cậy trong toàn bộ mạng lưới.
II.1.2 PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CẤU HÌNH MẠNG
Thông thường, mạng hỗn hợp được sử dụng cho các mạng lưới thực tế. Tuy
nhiên, để xác định một cấu hình mạng, cần phải xem xét đến số lượng thuê bao, vị trí
thuê bao, lưu lượng giữa các tổng đài, hướng lưu lượng, chi phí thiết bị,…
1. Tổ chức phân cấp
Khi một mạng có quy mô nhỏ, nó có thể được tổ chức không cần cấp nào, ví dụ
như một mạng hình lưới. Nhưng khi mạng lưới trở nên lớn về phạm vi, việc sử dụng chỉ
một mạng hình lưới trở nên phức tạp và không có lợi về mặt kinh tế. Vì lý do này, việc
phân cấp mạng được sử dụng cho mạng lưới có quy mô rộng.
Trong trường hợp này, mỗi tổng đài nội hạt trong vùng được nối đến tổng đài
cấp trên của nó (được biết đến như là một trung tâm cơ sở). Cuộc gọi giữa các tổng đài
trong vùng được kết nối qua trung tâm cơ sở.
Khi phạm vi mạng lưới rộng hơn, các trung tâm cơ sở được nối đến tổng đài
chuyển tiếp cấp cao hơn (trung tâm cấp hai). Tiếp tục như trên, mạng lưới được thiết lập
cấu hình

9
Thường thì, mạng lưới được tổ chức theo cách này có một tổ chức phân cấp như
được chỉ ra trong hình 1.5. Trong tổ chức mạng phân cấp này, cấp tổng đài của mỗi lớp
được gọi là office, vùng đảm trách được gọi là zone.

Hình 1.5: Tổ chức phân cấp


2. Định tuyến
Trong mạng phạm vi rộng, hai tổng đài nội hat nào đó được kết nối qua một
tổng đài chuyển tiếp. Thường thì, có nhiều đường kết nối giữa chúng. Việc lựa chọn
đường kết nối giữa chúng để truyền thông tin được gọi là định tuyến.
Xử lý thay thế thường được sử dụng để định tuyến. Như trong hình 1.6 khi tuyến
thứ nhất được lựa chọn bị chiếm, tuyến thứ hai được lựa chọn. Nếu tuyến thứ hai lại bị
chiếm, tuyến thứ 3 được lựa chọn. Như vậy, một tuyến được lựa chọn thay phiên. Khi
định tuyến trong trường hợp này, “sự luân phiên xa tới gần” thường được sử dụng. Một
tuyến đến tổng đài xa nhất từ tổng đài xuất phát và tổng đài đích. Khi tuyến thứ nhất bị
chiếm thì sau đó tổng đài xa thứ hai được lựa chọn, cứ tiếp tục như vậy.

Hình 1.6: Định tuyến thay thế


3. Các dạng của mạch
Về khía cạnh tổ chức mạng lưới, các mạch có thể được phân ra theo chức năng
thành các mạch cơ bản và các mạch ngang. Chúng còn có thể được phân loại theo chức
năng thay thế thành mạch sau cùng và mạch sử dụng cao.
Các dạng của mạch được chỉ ra trong hình 1.7

10
Mạch cơ bản
Tổng đài transit

Mạch ngang
Tổng đài nội hạt

Hình 1.7: Các dạng mạch


(a) Mạch cơ bản
Mạch cơ bản là các tuyến kết nối một tổng đài cấp cao hơn đến tổng đài cấp thấp
hơn hoặc kết nối giữa các tổng đài cấp cao nhất.
(b) Mạch ngang
Các mạch khác mạch cơ bản là mạch ngang. Mạch ngang nối trực tiếp các tổng
đài không cần quan tâm đến cấp của tổng đài. Thường thì một mạch ngang được thiết
lập ở những nơi mà có khối lượng lưu lượng lớn giữa các tổng đài. Các mạch ngang có
thể được kết nối trực tiếp với lợi ích về kinh tế hơn là được kết nối thông qua mạch cơ
bản.
(c) Mạch cuối
Mạch cuối không được phép định tuyến thay thế khi tất cả các mạch của tuyến
bị chiếm. thường thì mạch cơ bản là mạch cuối
(d) Mạch sử dụng cao
Mạch sử dụng cao cho phép định tuyến thay thế khi tất cả các mạch của tuyến bị
chiếm. Thông thường các mạch ngang là các mạch sử dụng cao.
II.2 ĐÁNH SỐ
Ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển mạch nhân công, các thuê bao có thể kết nối
cuộc gọi bằng cách nói với nhà khai thác tên của người được gọi mà không cần dùng số
điện thoại. Tuy nhiên khi số thuê bao ngày càng tăng và phạm vi mạng ngày càng rộng,
cách kết nối qua tổng đài nhân công trở nên lỗi thời và không đáp ứng được nhu cầu kết
nối ngày càng tăng.
Khi chuyển mạch tự động được đưa vào khai thác, thuê bao phải quay một số
điện thoại đại diện cho bên được gọi để kết nối với người cần liên lạc. Số này không chỉ
được dùng để xác định người gọi mà còn dùng để tính cước.
II.2.1 NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CHO VIỆC ĐÁNH SỐ

11
Phương pháp hình thành các số cho việc nhận dạng các đầu cuối và phương
pháp đưa ra các số được gọi là đánh số. Đánh số cần thỏa mãn những yêu cầu sau:
 Đối với người dùng phải dễ nhớ và dễ sử dụng
 Trong một thời gian dài không nên thay đổi số
 Định tuyến và tính cước dễ dàng
 Dễ dàng đưa ra các dịch vụ mới
II.2.2 HỆ THỐNG ĐÁNH SỐ ĐÓNG VÀ HỆ THỐNG ĐÁNH
SỐ MỞ
Đánh số được phân thành hệ thống đánh số đóng và hệ thống đánh số mở
1. Hệ thống đánh số đóng
Toàn bộ mạng lưới được coi là một vùng đánh số. Các số được chỉ định cho các
thuê bao trong mạng là thống nhất. Trong hệ thống này mỗi thuê bao có số riêng không
theo cấu trúc với số các chữ số như nhau.
2. Hệ thống đánh số mở
Trong hệ thống đánh số đóng, khi số lượng thuê bao tăng lên, mạng lưới phát
triển về quy mô, mỗi số phải có nhiều hơn các chữ số, và các số với số các chữ số lớn
gây ra nhiều bất tiện trong việc nhớ số, tính cước. Theo đó, trong hệ thống đánh số mở,
mạng lưới được sắp xếp như là một khối kết nối của nhiều vùng đánh số đóng .
Trong hệ thống đánh số mở, các thuê bao thuộc các vùng đánh số đóng khác
nhau có thể được kết nối với nhau bằng cách thêm vào một tiền tố trung kế hay mã
trung kế trước số đóng.
Việc chấp nhận hệ số đánh số mở cho phép nối giữa các thuê bao gần bằng cách
sử dụng mốt số với các chữ số nhỏ.
II.2.3 CẤU TẠO SỐ
1. Số quốc gia

Theo khuyến nghị của ITU-T, số “0” được sử dụng làm tiền tố trung kế (khuyến
nghị E.163)
Tùy trường hợp mà mã trung kế có thể bao gồm một, hai, ba hay bốn chữ số.
Số nội hạt có thể được gọi là số thuê bao trong một số trường hợp. Trong trình
bày này, nó được gọi như vậy để phân biệt với mã tổng đài

12
Ví dụ: 047664045
- 0: tiền tố trung kế
- 4: mã trung kế (của Hà Nội)
- 766: mã tổng đài trực tiếp quản lý thuê bao (tổng đài trực thuộc quận,
huyện)
- 4045: số trạm, đây chính là số đóng của thuê bao.
2. Số quốc tế

ITU-T khuyến nghị dùng số “00” làm tiền tố quốc tế.


Mã quốc gia bao gồm một, hai hay ba chữ số. ITU-T quy định mã quốc gia cho
từng nước trong khuyến nghị E.163
Kết hợp mã quốc gia và số quốc gia được gọi là số quốc tế. Vì số chữ số quốc tế
có ảnh hưởng lớn đến các tổng đài của mỗi quốc gia, ITU-T khuyến nghị rằng số quốc
tế không nên quá 12 chữ số (E.163). Do đó, số quốc gia lớn nhất là (12-n) chữ số (n: số
chữ số của mã quốc gia).
Chú ý: ITU-T khuyến nghị rằng độ dài số ISDN quốc tế lớn nhất nên là 15 chữ
số. Lý do là có nhiều mạng điện thoại và ISDN trong cùng một quốc gia, ITU-T đã kéo
dài kế hoạch số điện thoại từ 12 đến 15 chữ số, vì thế chúng có thể nhận biết được.
II.3 TÍNH CƯỚC
Tính cước là phương pháp tính giá sử dụng cho thuê bao đối với các dịch vụ
viễn thông. Đối với việc nghiên cứu về tính cước, các điều kiện sau đây cần được đảm
bảo:
 Việc tính cước phải dễ hiểu, hợp lý đối với người sử dụng
 Hệ thống giá cước đơn giản đối vơi người sử dụng
 Giá cước chấp nhận được từ góc độ chi phí dịch vụ
 Thiết bị tính cước đơn giản
III.3.1 CÁC DẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG GIÁ
CƯỚC
Hệ thống cơ bản để xác định các dạng viễn thông, số lượng, phương pháp tính
toán và giá cước được gọi là hệ thống giá cước. Hệ thống giá cước có thể được chia
thành ba dạng sau:

13
1. Hệ thống giá cước ngang bằng
Một giá cước cố định được áp dụng cho từng tháng độc lập với khối lượng lưu
lượng cũng như số cuộc gọi và thời gian giữ máy. Hệ thống này có những đặc trưng như
sau:
* Thu nhập ổn định
* Không cần các thiết bị đo đối với các cuộc gọi
* Tính toán hóa đơn đơn giản
* Không công bằng cho người sử dụng, đặc biệt đối với những người sử dụng ít
lưu lượng
2. Hệ thống giá cước được đo
Hóa đơn thanh toán được tính theo lưu lượng. Các đặc trưng của hệ thống:
* Công bằng với người sử dụng, ai dùng nhiều trả tiền nhiều, ai dùng ít trả tiền ít
* Cần có hệ thống đo đối với các cuộc gọi
* Khi không có cuộc gọi diễn ra, thu nhập của nhà mạng bằng 0 trong khi vẫn
phải trả các chi phí duy trì mạng.
3. Hệ thống kết hợp
Giá cước được tính bằng tổng của chi phí duy trì mạng và chi phí thực tế sử
dụng một cách hợp lý. Đặc trưng của hệ thống này:
 Công bằng với cả người sử dụng và nhà cung cấp
 Cần có các thiết bị đo đối với các cuộc gọi
III.3.2 TÍNH TOÁN TRONG TÍNH CƯỚC CUỘC GỌI
Trong hệ thống cước được đo, việc tính cước thường được dựa trên thời gian
cuộc gọi tương ứng theo khoảng cách. Khi giá cước cuộc gọi tại một khoảng cách nào
đó cho mỗi T giây được cố định là a thì cước cuộc gọi được tính theo công thức sau:
Cước cuộc gọi = a*thời gian cuộc gọi/T giây
Bằng cách thay đổi a hay T theo khoảng cách, có hai phương pháp sau:
1. Phương pháp tính cước thời gian cố định
Với thời gian đơn vị T cố định, a được thay đổi theo khoảng cách.

2. Phương pháp đo nhịp chu kỳ


Với tỷ lệ cước a cố định, thời gian đơn vị T được thay đổi theo khoảng cách.
III.3.3 CÁC DẠNG CỦA HỆ THỐNG TÍNH CƯỚC
1. Hệ thống đo

14
Trong hệ thống đo, một đồng hồ tính cước được cung cấp tương ứng với mỗi
đầu cuối xuất phát, cước cuộc gọi (thông tin cước) được đo một cách tự động tại thời
điểm của mỗi cuộc gọi.
2. Hệ thống hóa đơn chi tiết
Trong hệ thống lập hóa đơn chi tiết, ngày và giờ quay số, thời gian cuộc gọi,
người được gọi, … được ghi lại một cách tự động tại thời điểm của mỗi cuộc gọi và hóa
đơn được tính toán từ số liệu này.
II.4 BÁO HIỆU
II.4.1 KHÁI NIỆM
Một mạng viễn thông có nhiệm vụ chủ yếu là thiết lập, giải tỏa và duy trì kênh
giữa thuê bao với node chuyển mạch hay giữa các node chuyển mạch với nhau. Để
thực hiện được điều này, cần phải có một hệ thống thông tin hổ trợ được trao đổi giữa
hệ thống chuyển mạch với các thiết bị đầu cuối và giữa các hệ thống chuyển mạch với
nhau, hệ thống thông tin này gọi là hệ thống báo hiệu. Thông tin báo hiệu có thể có
nhiều dạng khác nhau để thuận tiện cho việc điều khiển các thao tác chuyển mạch, xử
lý gọi...
Thực chất, một sự trao đổi tin giữa người sử dụng và các thiết bị trong mạng cần
phải có một sự tổ chức để chúng có thể liên lạc với nhau một cách an tòan. Cho nên,
thông tin báo hiệu có trước, trong và sau một cuộc gọi. Để tăng hiệu suất làm việc,
thời gian làm việc của hệ thống báo hiệu càng nhỏ càng tốt, nó phụ thuộc vào các thiết
bị hiện đại trong mạng.
II.4.2 NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI BÁO HIỆU
Với sự phát triển của công nghệ chuyển mạch và truyền dẫn và sự thay đổi của
dịch vụ liên lạc, một vài báo hiệu đã được thay đổi. Báo hiệu được hi vọng phát triển
hơn nữa cùng với sự tiến bộ của công nghệ. Tuy nhiên những điều kiện sau đây cần
được đảm bảo:
 Dung lượng thông tin đầy đủ
 Trễ thời gian truyền tín hiệu là nhỏ nhất
 Các tín hiệu báo hiệu ổn định và không lỗi
 Đường truyền tín hiệu được thiết kế một các kinh tế
 Kết nối giữa các mạng trôi chảy thông qua việc tiêu chuẩn hóa tín hiệu

II.4.3 CÁC CHỨC NĂNG BÁO HIỆU


Ta có thể nêu các chức năng báo hiệu tổng quát như sau:
Chức năng giám sát
Chức năng giám sát được sử dụng để nhận biết và phản ảnh sự thay đổi về

15
trạng thái hoặc về điều kiện của một số phần tử (đường dây thuê bao, trung kế…).
Chức năng tìm chọn
Chức năng này liên quan đến việc thiết lập cuộc gọi và được khởi đầu băng thuê
bao chủ gọi gởi thông tin địa chỉ của thuê bao bị gọi. Các thông tin địa chỉ này cùng với
các thông tin của chức năng tìm chọn được truyền giữa các tổng đài để đáp ứng
quá trình chuyển mạch. Chức năng này phải có tính hiệu quả, độ tin cậy cao để đảm
bảo việc thực hiện chính xác các chức năng chuyển mạch.
Chức năng vận hành, bảo dưỡng
Nhận biết và chuyển thông tin về trạng thái tắc nghẽn trong mạng, thông thường
là trạng thái đường cho thuê bao chủ gọi. Thông báo về các thiết bị, các trung kế không
bình thường hoặc đang ở trạng thái bảo dưỡng. Cung cấp các thông tin tính cước. Cung
cấp các phương tiện để đánh giá, đồng chỉnh, cảnh báo từ tổng đài khác.
II.4.4 PHÂN LOẠI BÁO HIỆU
1. Phân theo chức năng
(a) Báo hiệu nghe - nhìn :
Là loại báo hiệu nghe thấy được đối với thuê bao trong tiến trình cuộc gọi. Đó
là các loại thông tin như sau chủ yếu từ tổng đài đến thuê bao như sau:
 Âm mời quay số: Khi thuê bao nhấc tổ hợp, trở kháng đường dây giảm xuống
đột ngột. Dẫn đến dòng điện trên dây tăng lên. Điều này được tổng đài nhận
biết thuê bao yêu cầu thiết lập cuộc gọi và nó phát cho thuê bao âm mời quay số
với tần số khoảng 425Hz liên tục.
 Âm báo bận hoặc thông báo: Trường hợp 1 thuê bao bận, hay sau khi kết thúc
cuộc gọi, thuê bao này đã đặt máy, tổng đài phát âm báo bận cho thuê bao kia
với tần số 425 HZ, tỷ lệ 1:1. Âm báo bận còn được gởi cho thuê bao chủ gọi khi
thuê bao này sau 1 khoảng thời gian sau khi đã nhận được âm mời quay số mà
vẫn chưa quay số. Trường hợp thuê bao bị gọi đi vắng hoặc có các dịch vụ đặc
biệt của nó thì tổng đài thông báo cho thuê bao chủ gọi các bản tin tương ứng.
 Dòng chuông: dòng chuông được phát cho thuê bao bị gọi khi thuê bao này
rỗi với tín hiệu xoay chiều khoảng 75VAC, 25Hz.
 Hồi âm chuông: Hồi âm chuông được phát cho thuê bao chủ gọi qua tuyến thoại
từ tổng đài khi đang đổ chuông cho thuê bao bị gọi. Tín hiệu hồi âm chuông có
tần số 425Hz, tỷ lệ 1:3.
 Các bản tin thông báo khác: Nếu trong tổng đài có các bản tin đặc biệt được ghi
sẵn về các lý do cuộc gọi không thành như tình trạng ứ tuyến, hỏng hóc… thì
tổng đài phát cho thuê bao chủ gọi các bản tin tương ứng. Trường hợp này là
do cuộc gọi không thành không phải bởi các lý do của thuê bao bị gọi.
 Tín hiệu phục hồi và giữ máy quá lâu: Tín hiệu này truyền tới thuê bao chủ gọi
khi thuê bao bị gọi đã đặt máy và tổng đài đã gởi tín âm báo bận mà thuê bao

16
chủ gọi không nghĩ đến việc giải tỏa tuyến gọi. Sau đó một khoảng thời gian
trễ thì tuyến mới được thực sự giải tỏa. Tín hiệu này cũng được phát khi thuê
bao duy trì trạng thái chọn số quá lâu. Tín hiệu này thường là sau âm báo bận.
(b) Báo hiệu trạng thái (báo hiệu giám sát): Xác định trạng thái đường dây của thuê
bao và cuộc gọi.
 Trạng thái nhấc tổ hợp: Xuất hiện khi thuê bao nhấc tổ hợp hoặc tín hiệu chiếm
dùng từ một đường trung kế gọi vào; nó biểu thị yêu cầu thiết lập cuộc gọi mới.
Sau khi thu được tín hiệu này, tổng đài sẽ đấu nối với một thiết bị thích hợp để
thu thông tin địa chỉ từ thuê bao chủ gọi hoặc từ đường trung kế.
 Trạng thái đặt tổ hợp: Xuất hiện khi thuê bao đặt tổ hợp hoặc tín hiệu yêu cầu
giải tỏa từ đường trung kế đưa tới. Thông tin này chỉ rằng cuộc gọi đã kết
thúc, yêu cầu giải tỏa tuyến gọi. Khi nhận được thông tin này, tổng đài giải
phóng tất cả các thiết bị dùng để đấu nối cuộc gọi này và xóa các thông tin
dùng để thiết lập và duy trì cuộc gọi, đồng thời thiết lập thông tin tính cước.
 Trạng thái rỗi – bận: Dựa vào tình trạng tổ hợp cúa thuê bao bị gọi hoặc
đường trung kế là rỗi hay bận hoặc ứ tuyến để tổng đài phát thông tin về trạng
thái của thuê bao bị gọi hoặc đường truyền cho thuê bao chủ gọi.
 Tình trạng hỏng hóc: Bằng các phép thử tổng đài xác định trình trạng của
đường dây để có thể thông báo cho thuê bao hoặc cho bộ phận điều hành và bảo
dưỡng.
 Tín hiệu trả về: Khi đổ chuông, ngay sau khi thuê bao bị gói nhấc máy, một
tín hiệu ở dạng đảo nguồn được truyền theo đường dây tới thuê bao chủ gọi.
Tín hiệu này dùng để thao tác một thiết bị đặt ở thuê bao chủ gọi như bộ tính
cước hoặc đối với thuê bao dùng thẻ.
(c) Báo hiệu địa chỉ: Thông tin địa chỉ gồm một phần hoặc toàn bộ địa chỉ của thuê bao
bị gọi, đôi khi còn kèm theo các số liệu khác. Sau khi nhận được âm mời quay số, thuê
bao tiến hành phát các chữ số địa chỉ của thuê bao bị gọi. Các chữ số này có thể được
phát dưới dạng thập phân hay ở dạng mã đa tần.
 Tín hiệu xung thập phân: Các chữ số địa chỉ được phát dưới dạng chuỗi của
sự gián đoạn mạch vòng một chiều (DC) nhờ đĩa quay số hoặc hệ thống phím
thập phân. Số lượng các lần gián đoạn chỉ thị chữ số địa chỉ trừ số ‘0’ ứng với
10 lần gián đoạn. Tốc độ gián đoạn là 10 lần mỗi giây và tỷ số xung là 1:2. Có
một khỏang thời gian giữa các số liên tiếp khoảng vài trăm ms trước chữ số
kế tiếp để tổng đài phân biệt các chữ số với nhau. Chú ý: Phương pháp phát các
chữ số thập phân này không thể phát khi đang hội thoại.

17
 Tín hiệu mã đa tần ghép cặp (DTMF): Phương pháp này khắc phục được nhược
điểm của phương pháp trên. Nó sử dụng 2 trong 6 tần số âm tần để chuyển các
chữ số địa chỉ. Khi ấn một phím, ta nhận được một tín hiệu bao gồm sự kết
hợp của hai tần số : một ở nhóm này và một ở nhóm kia gọi là đa tần ghép cặp
(Dual Tone Multifrequency : DTMF). Các tần số được chọn sao cho sự phỏng
tạo tín hiệu là bé nhất. Tín hiệu truyền đi dài hay ngắn phụ thuộc và thời gian
ấn phím. Thời gian này chính là thời gian kéo dài của tín hiệu.
Phương pháp này có ưu điểm là: Thời gian quay số nhanh hơn. Có thể quay số
trong khi đàm thoại (sử dung cho điện thoại hội nghị).

2. Phân theo đoạn báo hiệu


(a) Báo hiệu giữa tổng đài với thuê bao
o Tín hiệu đường dây thuê bao chủ gọi:
- Tín hiệu yêu cầu gọi.
- Tín hiệu yêu cầu giải tỏa tuyến gọi.
- Tín hiệu địa chỉ.
- Tín hiệu báo bận.
- Tín hiệu báo rỗi.
- Hồi âm chuông.
- Tín hiệu trả lời về.
- Tín hiệu giữ máy quá lâu.

18
o Tín hiệu đường dây thuê bao bị gọi:
- Tín hiệu chuông.
- Tín hiệu trả lời.
- Tín hiệu phục hồi
o Tín hiệu đường dây thuê bao thứ 3: Giống như tín hiệu đường dây thuê bao bị gọi.
Được sử dụng cho điện thoại hội nghị. Nó làm gián đoạn thuê bao chủ gọi trong
một khoảng thời gian nhỏ hơn tín hiệu giải tỏa gọi khoảng 200ms đến 320ms.
(b) Báo hiệu liên tổng đài:
Có thể được truyền dẫn tín hiệu báo hiệu theo đường dây báo hiệu riêng hoặc đi
chung với đường dây thọai. Chúng sử dụng tần số trong băng tần tiếng nói (trong
băng) hoặc ở ngoài dải tần tiếng nói (ngoài băng). Thường sử dụng 2 kỹ thuật truyền
sau:
- Báo hiệu kênh kết hợp (CAS).
- Báo hệu kênh chung (CCS).
Dạng của tín hiệu :
- Dạng xung : Tín hiệu được truyền đi dưới dạng xung, ví dụ như tín hiệu địa chỉ.
- Dạng liên tục : Truyền liên tục về mặt thời gian nhưng thay đổi về trạng thái đặc
trưng như tần số …
- Dạng áp chế : Tương tự như truyền xung nhưng khoảng truyền dẫn không ấn định
trước mà kéo dài cho đến khi có sự xác nhận của phía thu qua một thiết bị xác nhận
truyền về.
II.5 ĐỒNG BỘ MẠNG LƯỚI
II.5.1 KHÁI NIỆM
Kỹ thuật đồng bộ mạng viễn thông là quá trình tổ chức, quy hoạch các phần tử
mạng viễn thông, làm cho tất cả các thành phần của mạng viễn thông hoạt động nhịp
nhàng theo cùng một mẫu điều khiển (tín hiệu định thời) và nhất quán ở mọi thời điểm,
địa điểm.
Nói cách khác, tất cả các thành phần của mạng viễn thông được làm việc theo
cùng một xong nhịp đồng hồ. Các thành phần của mạng viễn thông gồm có các tổng đài
(nút mạng) và các đường truyền dẫn. Vì vậy chúng ta cần đồng bộ tại nút mạng và đồng
bộ trên đường truyền dẫn
Ở nút mạng, tín hiệu định thời dưới dạng xung nhị phân được phân phối tới tất
cả các mô đun trong tổng đài bằng các bus dữ liệu điều khiển.
Trên các hệ thống truyền dẫn, tín hiệu định thời thường được truyền cùng với tín
hiệu số.
II.5.2 CÁC YẾU TỐ GÂY MẤT ĐỒNG BỘ

19
Về mặt kỹ thuật, việc mất đồng bộ mạng xảy ra bởi các hiện tượng rung pha
(jitter), trôi pha (wander) và trượt (slip).
1. Rung pha
Rung pha là sự biến đổi ngắn hạn của thời điểm có ý nghĩa của tín hiệu số so với
vị trí lý tưởng theo thời gian. Tần số của sự biến động này không nhỏ hơn 10 Hz.
Các nguyên nhân gây ra rung pha trong hệ thống:
- Rung pha do nhiệt độ thay đổi. Đối với tín hiệu tần số thấp thì mạch vòng khóa
pha sẽ không phát hiện được sự thay đổi pha do nhiệt độ.
- Tạp âm và nhiễu. Đồng hồ cục bộ duy trì tần số trung bình lý tưởng nhưng tạo
ra một số rung pha do tạp âm và nhiễu ở đầu ra bộ tách sóng pha và bộ lặp, do đó sẽ gây
ra sự điều chỉnh sai tần số của đồng hồ cục bộ. Độ dịch tần sẽ tạo ra sự dịch pha ngày
càng tăng theo thời gian. Khi tính toán đường truyền dẫn số cần phải tính đến sự tích lũy
rung pha của chuỗi mạch liên tiếp trong các mạch khôi phục xung đồng hồ.
- Sự biến đổi độ dài tuyến truyền dẫn. Độ dài tuyến truyền dẫn bị biến đổi do sự
nén giãn của môi trường truyền dẫn.
2. Trôi pha
Trôi pha là sự biến đổi dài hạn của thời điểm có ý nghĩa của tín hiệu số so với vị
trí lý tưởng theo thời gian. Tần số của sự biến động này không lớn hơn 10 Hz.
Về bản chất trôi pha giống với rung pha, trôi pha còn được gọi là hiện tượng
rung pha chậm. Nguyên nhân gây trôi pha ngoài các nguyên nhân giống như rung pha
còn có các nguyên nhân sau:
- Sự trôi tần số của đồng hồ định thời.
- Sự không đong nhất của các vật liệu chế tạo các linh kiện trong mạch khôi
phục xung đồng hồ.
3. Trượt
Trượt là sự lặp lại hay mất các cụm bit trong luồng tín hiệu số.
Nguyên nhân gây ra trượt là do sự không đồng nhất giữa tần số ghi và tần số đọc
ở bộ nhớ đệm.
II.5.3 KHÁI QUÁT CÁC LOẠI ĐỒNG HỒ ĐỒNG BỘ MẠNG
Đồng hồ là nguồn tần số chuẩn có độ chính xác cao tạo ra một mốc thời gian
chuẩn để kiểm soát việc định thời (đồng bộ) trên toàn mạng viễn thông.
Đồng hồ được đặc trưng bởi hai tham số kỹ thuật là độ chính xác và độ ổn định.
 Độ chính xác: là mức độ tương ứng tần số của đồng hồ so với tần số chuẩn
có độ chính xác cao nhất
 Độ ổn định: là sự thay đổi tần số của đồng hồ sau một thời gian chạy liên
tục.

20
Các loại đồng hồ gồm có: đồng hồ cơ khí (đồng hồ cơ), đồng hồ tinh thể và đồng
hồ nguyên tử. Trong mạng viễn thông chúng ta dùng các loại đồng hồ tinh thể và đồng
hồ nguyên tử để định nhịp cho nút mạng.
1. Đồng hồ tinh thể thạch anh
Tinh thể thạch anh có độ bền cơ khí và hóa học lớn, tuy nhiên thường xảy ra
hiện tượng trôi tần số do ảnh hưởng của nhiệt độ. Để duy trì độ ổn định tần số cho đồng
hồ thạch anh cần phả kiểm tra và hiệu chỉnh thường xuyên. Đồng hồ thạch anh thường
được dùng trong các tổng đài và làm đồng hồ “tớ” cho đồng hồ nguyên tử.
Đồng hồ thạch anh có giá thành thấp, độ tin cậy cao và có khả năng tinh chỉnh.
Tần số của đồng hồ có thể thay đổi bằng cách thay đổi các điện áp đặt lên tinh thể. Để
đảm bảo độ chính xác, tinh thể thạch anh thường được đặt trong vỏ bọc đặc biệt để tối
thiểu hóa ảnh hưởng của môi trường xung quanh.
2. Đồng hồ nguyên tử
Đồng hồ nguyên tử thường được dùng làm đồng hồ chủ trong mạng viễn thông.
Nó hoạt động dựa trên các dao động tự nhiên của các nguyên tử khí trong hốc cộng
hưởng. Khi được cô lập với từ trường bên ngoai, một số phân tử khí như Cesium,
Rubidium sinh ra một tần số dao động dưới các điểu kiện xác định. Trong mạng viễn
thông sử dụng phổ biến hai loại đồng hồ nguyên tử là đồng hồ Cesium và Rubidium (do
Thụy Sĩ độc quyền sản xuất).
Đồng hồ Cesium: Thường được làm đồng hồ sơ cấp trong mạng viễn thông, có
độ chính xác rất cao. Đồng hồ này không có sự trôi tần số, do vậy có độ ổn định trong
thời gian dài (20-50 năm) mà không cần hiệu chỉnh với độ chính xác lên đến 10 -13. Tuy
nhiên giá thành của đồng hồ này rất đắt.
Đồng hồ Rubidium: Có độ chính xác 10 -11 , thường được sử dụng làm đồng hồ
thứ cấp trong mạng viễn thông. Độ chính xác phụ thuộc vào nhiệt độ, độ ẩm, áp suất và
cường độ ánh sáng, có thể bị trôi tần số. Để duy trì độ chính xác cho đồng hồ Rubidium
cần hiệu chỉnh thường xuyên, người ta thường dùng đồng hồ Cesium để hiệu chỉnh cho
đồng hồ Rubidium. Thời gian hiệu chỉnh thương 1 lần/năm, có thể hiệu chỉnh trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua nút mạng.
II.5.4 CÁC KỸ THUẬT ĐỒNG BỘ MẠNG LƯỚI
1. Kỹ thuật cận đồng bộ
Các đồng hồ của nút mạng sẽ hoạt động với một tần số f chuẩn và độc lập với
các đồng hồ khác trên mạng. Kỹ thuật này được sử dụng làm phương pháp giao tiếp của
mạng quốc gia và mạng quốc tế.
Ưu điểm:
- Linh hoạt trong mở rộng, điều chỉnh, và loại bỏ mạng lưới.
- Không cần một mạng phân phối đồng hồ
Nhược điểm:

21
- Một đồng hồ có độ tin cậy cao (như đồng hồ nguyên tử) cần lắp đặt cho mỗi
trạm để đảm bảo cho hoạt động đồng bộ.
- Cần thiết một cấu hình phức tạp của các đồng hồ trên.
- Chi phí cho đồng bộ mạng cao.
2. Kỹ thuật đồng bộ
a) Kỹ thuật đồng bộ chủ-tớ
Một đồng hồ có độ tin cậy cao được lắp đặt tại một trạm xác định (gọi là trạm
“chủ”) trong mạng lưới. Ngoài ra, các tín hiệu đồng hồ tin cậy cao được phân phối từ
trạm chủ đến các trạm khác (được gọi là trạm “tớ”) thông qua mạng phân phối đồng hồ.
Các tín hiệu đồng hồ này được tái tạo lại trong một thiết bị đồng bộ mạng được cài đặt
trong các trạm tớ để đồng nhất chúng với tần số trạm chủ trong mạng lưới. Hệ thống
này có các ưu nhược điểm như sau:
Ưu điểm:
- Không cần đồng hồ tin cậy cho mỗi trạm.
Nhược điểm:
- Cần một mạng phân phối đồng hồ (một đường truyền dẫn chung có thể sử dụng
được).
- Lỗi và rối loạn đường truyền trong đường phân phối đồng hồ có ảnh hưởng đến
các trạm tớ.
b) Kỹ thuật đồng bộ tương hỗ
Kỹ thuật này nhằm thực hiện một hệ thống tổng đài liên kết chặt chẽ với nhau
một cách đồng bộ mà không cần đồng hồ chủ. Tín hiệu đồng bộ của một tổng đài sẽ
được lấy từ giá trị trung bình của các đồng hồ lân cận và cấp cho các mô đun trong tổng
đài.
Ưu điểm:
- Không cần đồng hồ tin cậy cao trong mỗi trạm của mạng lưới.
- Không đòi hỏi sự phân cấp giữa các trạm.
Nhược điểm:
- Khi đồng hồ của một trạm trong mạng lưới hỏng, nó ảnh hưởng đến toàn bộ
mạng lưới.
- Do đường phân phối đồng hồ được cấu tạo vòng làm cho việc cách ly lỗi khó
khăn.
III. DỊCH VỤ MẠNG VIỄN THÔNG
Dịch vụ viễn thông là vấn đề rất quan trọng với cả khách hàng và nhà cung cấp
mạng, cũng như nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. Dịch vụ viễn thông liên quan và ảnh

22
hưởng rất lớn tới xu hướng phát triển của chính mạng cung cấp dịch vụ và phương thức
cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp viễn thông.
III.1 KHÁI NIỆM DỊCH VỤ VIỄN THÔNG
Khái niệm dịch vụ viễn thông luôn gắn liền với khái niệm mạng viễn thông. Mỗi
mạng viễn thông sẽ cung cấp một vài loại dịch vụ cơ bản đặc trưng cho mạng viễn
thông đó và mạng này có thể cùng hỗ trợ với mạng khác để cung cấp được một dịch vụ
viễn thông cụ thể.
"Dịch vụ viễn thông" là dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm
thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối thông qua
mạng viễn
thông.

Mạng viễn thông

Người sử dụng dịch Nhà cung cấp dịch vụ


vụ viễn thông
Nhà cung cấp hạ tầng mạng

Hình 1.8: Dịch vụ viễn thông


Nói một cách khác, đó chính là dịch vụ cung cấp cho khách hàng khả năng trao
đổi thông tin với nhau hoặc thu nhận thông tin thông qua mạng viễn thông (thường là
mạng công cộng như mạng điện thoại chuyển mạch công cộng, mạng điện thoại di
động, mạng Internet, mạng truyền hình cáp …) của các nhà cung cấp cung cấp dịch vụ
và nhà cung cấp hạ tầng mạng (Hình 1.8).
III.2 PHÂN LOẠI DỊCH VỤ
Khi nhắc đến việc cung cấp dịch vụ, chúng ta thường gặp các khái niệm: khách
hàng (người sử dụng dịch vụ), nhà cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp mạng (nhà cung
cấp hạ tầng mạng, quản lý và điều hành mạng). Ở đây, dịch vụ viễn thông thể hiện mối

23
quan hệ từ phía nhà cung cấp dịch vụ viễn thông bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ
thông tin và nhà điều hành mạng với khách hàng là những người sử dụng dịch vụ. Các
khái niệm này liên quan chủ yếu qua việc cung cấp dịch vụ và tính cước. Hình 1.9 thể
hiện kết nối cơ bản của các khái niệm này.

Hình 1.9: Mối liên hệ giữa các đối tượng cung cấp dịch vụ
Nhà cung cấp mạng (Network Provider): có hạ tầng mạng lưới đủ cung cấp
tài nguyên theo yêu cầu dịch vụ của khách hàng, bao gồm các thiết bị chuyển mạch,
truyền dẫn v.v. Nhà cung cấp mạng thực hiện nghĩa vụ phân phối tài nguyên mạng,
quản lý và duy trì sự hoạt động của hạ tầng mạng (đôi khi có thể thực hiện việc tính và
thu cước cho cả hai đối tượng trên). Ở Việt Nam nhà cung cấp mạng là doanh nghiệp
nhà nước hoặc doanh nghiệp mà góp vốn của nhà nước chiếm cổ phần chi phối hoặc cổ
phần đặc biệt, được thành lập theo quy định của pháp luật để thiết lập hạ tầng mạng và
cung cấp dịch vụ viễn thông. Các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng tại Việt Nam
tính tới thời điểm năm 2005 có 6 doanh nghiệp: Tổng công ty Bưu chính viễn thông
Việt Nam (nay là Tập đoàn BCVT Việt Nam - VNPT), Công ty điện tử viễn thông quân
đội (Viettel), Công ty cổ phần dịch vụ BC-VT Sài Gòn (SPT), Công ty viễn thông điện
lực (ETC), Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom), Công ty thông tin điện
tử hàng hải (Vishipel).
Nhà cung cấp dịch vụ (Service Provider) đảm bảo dịch vụ tương xứng với giá
cước phục vụ trong mọi điều kiện, thường thì nhà cung cấp này thực hiện việc thu cước
dịch vụ gồm cước thông tin và cước sử dụng mạng của khách hàng, sau đó trả cước sử
dụng mạng cho nhà điều hành mạng. Nhà cung cấp dịch vụ không sở hữu hạ tầng mạng
mà chỉ thiết lập các hệ thống thiết bị viễn thông trong phạm vi cơ sở và điểm phục vụ
công cộng của mình để trực tiếp cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng, dịch vụ truy nhập
Internet và bán lại dịch vụ viễn thông; không được thiết lập các đường truyền dẫn ngoài
phạm vi cơ sở và điểm phục vụ công cộng của mình. Ở Việt Nam, nhà cung cấp mạng
là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, được thành lập theo quy định của pháp
luật để cung cấp dịch vụ viễn thông. Hiện nay mới chỉ có duy nhất VNPT là doanh
nghiệp tham gia cung cấp toàn bộ các dịch vụ viễn thông, các doanh nghiệp cung cấp hạ
tầng mạng hác chỉ cung cấp một số dịch vụ viễn thông.
Khách hàng (Customer) yêu cầu dịch vụ viễn thông, sử dụng, khai thác dịch vụ
và phải có trách nhiệm thanh toán toàn bộ cước phí dịch vụ theo hợp đồng ký kết với
nhà cung cấp dịch vụ.

24
Ở Việt Nam và trên thế giới, đôi khi những khái niệm trên không được phân
định rạch ròi vì thường nhà cung cấp dịch vụ có thể chính là nhà cung cấp hạ tầng mạng
và nhà cung cấp thông tin. Vì vậy, đôi khi yêu cầu cung cấp dịch vụ của khách hàng tới
nhà cung cấp dịch vụ lại thông qua nhà cung cấp hạ tầng mạng. Thậm chí cũng khó
phân biệt được khách hàng sử dụng dịch vụ trực tiếp hay khách hàng môi giới dịch vụ
hoặc khách hàng trung gian.
Dịch vụ viễn thông rất đa dạng, vì vậy có nhiều phương pháp để phân loại dịch
vụ theo những quan điểm khác nhau, có hai kiểu phân loại chủ yếu là phân loại theo
người sử dụng dịch vụ và theo nhà cung cấp dịch vụ.
III.2.1 PHÂN LOẠI DỊCH VỤ THEO QUAN ĐIỂM CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG
1. Cách phân loại thông thường
Thông thường, dịch vụ viễn thông được phân chia thành các nhóm sau:
- Dịch vụ cơ bản: truyền đưa tức thời thông tin qua mạng viễn thông (bao gồm
cả internet) mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin. Đây là loại dịch
vụ tối thiểu (đơn giản nhất) mà nhà cung cấp dịch vụ cấp cho khách hàng, dựa trên năng
lực cơ bản của mạng viễn thông của nhà cung cấp.
- Dịch vụ Internet: bao gồm dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ kết nối Internet
và dịch vụ ứng dụng Internet. Với mạng Internet, người sử dụng có thể được cấp các
dịch vụ cơ bản trên đó như: Thư tín điện tử, truyền tệp (tập tin), dịch vụ truy nhập từ xa,
truy nhập cơ sở dữ liệu theo các phương thức khác nhau...
+ Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với Internet quốc
tế.
+ Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng
truy nhập Internet.
+ Dịch vụ ứng dụng Internet trong bưu chính, viễn thông là dịch vụ sử dụng
Internet để cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông cho người sử dụng. Dịch vụ
ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phải tuân theo các quy
định pháp luật về bưu chính, viễn thông và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
- Dịch vụ giá trị gia tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị thông tin của người sử
dụng dịch vụ bằng cách hoàn thiện loại hình, nội dung thông tin hoặc cung cấp khả năng
lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông. Những dịch vụ này
thuận tiện hơn cho người sử dụng, không chỉ kết nối thiết bị đầu cuối, có khả năng cung
cấp rộng khắp và tính cước linh hoạt.
- Các dịch vụ trên nền mạng thế hệ sau: Các dịch vụ được cung cấp trên nền
mạng thế hệ sau (NGN) là mạng có hạ tầng thông tin duy nhất dựa trên công nghệ gói
để có thể triển khai nhanh chóng các loại hình dịch vụ khác nhau dựa trên sự hội tụ giữa
thoại và số liệu, giữa cố định và di động. Hiện tại VNPT đang cung cấp các dịch vụ

25
NGN cho người sử dụng (dịch vụ thoại VoIP trả trước-1719, dịch vụ báo cuộc gọi từ
Internet- CWI …) và cho doanh nghiệp (dịch vụ thoại miễn phí-1800, Dịch vụ thông tin
giải trí-1900 …).
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại dịch vụ trên những cơ sở tiêu chí khác
nhau, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, hoạch định chính sách
của nhà nước.
2. Phân loại theo địa điểm cung cấp dịch vụ
Gồm dịch vụ tại nhà thuê bao và dịch vụ tại điểm công cộng:
- Dịch vụ tại nhà thuê bao là dịch vụ được cung cấp đến địa chỉ đăng ký của
từng chủ thuê bao trên cơ sở các thiết bị đầu cuối thuê bao được lắp đặt tại nhà thuê bao
và được đấu nối với mạng điện thoại công cộng thông qua hợp đồng cung cấp và sử
dụng dịch vụ được ký giữa chủ thuê bao với đơn vị cung cấp dịch vụ.
- Dịch vụ tại điểm công cộng là dịch vụ được cung cấp cho người sử dụng dịch
vụ trên cơ sở các thiết bị đầu cuối do đơn vị cung cấp dịch vụ lắp đặt tại các điểm công
cộng. Dịch vụ tại điểm công cộng bao gồm:
+ Dịch vụ có người phục vụ: điện thoại công cộng, Fax công cộng (Bureaufax),
truyền số liệu công cộng (truyền file).
+ Dịch vụ không có người phục vụ: điện thoại, Fax và truyền số liệu thanh toán
tự động bằng thẻ hoặc trực tiếp bằng tiền xu, tiền mặt.
3. Phân loại theo phương thức khai thác dịch vụ
Dịch vụ trên mạng điện thoại công cộng bao gồm dịch vụ quay số trực tiếp và
dịch vụ qua điện thoại viên:
- Dịch vụ quay số trực tiếp là dịch vụ mà việc liên lạc giữa các thiết bị đầu cuối
hoặc giữa thiết bị đầu cuối với thiết bị truy nhập mạng dịch vụ qua mạng điện thoại
công cộng được thực hiện bằng phương thức tự động quay (bấm) số trực tiếp.
- Dịch vụ qua điện thoại viên là dịch vụ mà việc liên lạc giữa các thiết bị đầu
cuối hoặc giữa thiết bị đầu cuối với thiết bị truy nhập mạng dịch vụ qua mạng điện thoại
công cộng được thực hiện bằng phương thức bán tự động thông qua sự trợ giúp của điện
thoại viên hoặc thiết bị hướng dẫn kết nối cuộc gọi.
4. Phân loại theo phạm vi cung cấp dịch vụ
Bao gồm dịch vụ nội hạt, dịch vụ đường dài trong nước và dịch vụ quốc tế:
- Dịch vụ nội hạt là dịch vụ mà liên lạc được thiết lập thông qua mạng điện thoại
công cộng giữa các thiết bị đầu cuối hoặc giữa thiết bị đầu cuối với thiết bị truy nhập
mạng dịch vụ trong cùng một phạm vi (vùng cước) nội hạt;
- Dịch vụ đường dài trong nước là dịch vụ mà liên lạc được thiết lập thông qua
mạng điện thoại công cộng giữa các thiết bị đầu cuối hoặc giữa thiết bị đầu cuối với
thiết bị truy nhập mạng dịch vụ nằm ở các phạm vi (vùng cước) nội hạt khác nhau.

26
Theo quyết định số 20/2003/QĐ-BBCVT ngày 19/2/2003 của Bộ BC-VT Việt
Nam, từ ngày 1/3/2003 dịch vụ đường dài trong nước tại Việt Nam được chia
làm 3 vùng cước (vùng 1: khoảng cách liên lạc đến 400km, vùng 2: đến 1200
km, vùng 3: trên 1200 km).
- Dịch vụ quốc tế là dịch vụ mà liên lạc được thiết lập thông qua mạng điện
thoại công cộng giữa các thiết bị đầu cuối hoặc giữa thiết bị đầu cuối với thiết bị truy
nhập mạng dịch vụ, trong đó có ít nhất một thiết bị đầu cuối hoặc thiết bị truy nhập
mạng dịch vụ được lắp đặt hoặc đăng ký sử dụng ở nước ngoài.
5. Phân loại theo phương thức thanh toán
Theo phương thức thanh toán, dịch vụ trên mạng điện thoại công cộng bao gồm
dịch vụ trả tiền trước và dịch vụ trả tiền sau:
- Dịch vụ trả tiền trước là dịch vụ mà người sử dụng thanh toán cước cho đơn vị
cung cấp dịch vụ trước khi sử dụng dịch vụ, dưới hình thức mua thẻ trả trước (prepaid
calling card) và cước dịch vụ sẽ được trừ dần trên thẻ hoặc trừ vào tài khoản trả trước
cho đến hết phụ thuộc vào phạm vi và thời gian liên lạc. Các dịch vụ trả tiền trước điển
hình hiện có ở Việt Nam là: điện thoại di động dùng thẻ trả trước Vinacard, Mobicard,
điện thoại dùng thẻ Cardphone…
- Dịch vụ trả tiền sau là dịch vụ mà người sử dụng thanh toán cước cho đơn vị
cung cấp dịch vụ sau khi sử dụng dịch vụ trên cơ sở thông báo hoặc hoá đơn thanh toán
cước của đơn vị cung cấp dịch vụ.
III.2.2 PHÂN LOẠI DỊCH VỤ THEO QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ
CUNG CẤP DỊCH VỤ
Theo quan điểm của nhà cung cấp dịch vụ, có hai loại dịch vụ viễn thông cơ
bản:

Hình 1.10: Dịch vụ mang và dịch vụ xa toàn phần


- Dịch vụ mang (Bearer service)
- Dịch vụ xa toàn phần (Teleservice)

27
Khi khai thác mạng viễn thông, khách hàng có thể sử dụng toàn bộ cơ sở hạ tầng
viễn thông cho nhu cầu trao đổi thông tin nội bộ của mình hoặc sử dụng một trong số
các dịch vụ viễn thông công cộng.
Trong trường hợp thứ nhất, nhà quản lý và vận hành mạng viễn thông (người sở
hữu mạng lưới) sẽ cung cấp cho khách hàng dịch vụ vận chuyển thông tin (bearer
service) theo yêu cầu cụ thể của người dùng. Khách hàng của loại dịch vụ này thường là
các tổ chức kinh doanh và khai thác dịch vụ viễn thông, các cơ quan, doanh nghiệp hay
các tổ chức lớn có nhu cầu trao đổi, truyền tải một lượng lớn thông tin nội bộ thường
xuyên giữa các thành viên với nhau. Ví dụ như các cơ quan chính phủ, ngân hàng, các
công ty lớn có các cơ sở đóng tại các địa điểm khác nhau...
Trong trường hợp thứ hai, khách hàng là những người sử dụng độc lập nhưng lại
có nhu cầu dùng chung một số dịch vụ viễn thông công cộng như điện thoại, fax, thông
tin máy tính... Khi đó, người dùng sẽ phải đăng ký quyền được sử dụng một trong số vô
vàn các dịch vụ viễn thông (teleservice) mà nhà khai thác dịch vụ viễn thông cung cấp.
Nhà khai thác dịch vụ viễn thông có thể chính là nhà quản lý và vận hành mạng viễn
thông, cũng có thể là một tổ chức cung cấp dịch vụ gián tiếp. Điều này có thể nhận thấy
rõ ràng nhất trong trường hợp khai thác dịch vụ Internet (các ISP - nhà cung cấp dịch vụ
Internet thuê một số kênh truy nhập Internet từ nhà quản lý và bán lại quyền truy nhập
thông qua các dịch vụ của mình).
Trong các phần liên quan đến dịch vụ ở phần sau, chúng ta sẽ đi vào phân tích
chi tiết về các loại dịch vụ trên quan điểm cơ bản của người sử dụng.
III.3 CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
Chất lượng dịch vụ là thước đo đánh giá khả năng cung cấp dịch vụ của nhà
cung cấp mạng và dịch vụ. Ngày nay, nhu cầu sử dụng các dịch vụ có chất lượng cao
ngày càng tăng. Để có thể thu hút được khách hàng, các nhà khai thác không chỉ phải
nâng cao khả năng phục vụ của mạng lưới mà còn phải nâng cao chất lượng của các
dịch vụ được cung cấp.
Đối với khách hàng, chất lượng dịch vụ trực tiếp là quan trọng, song để có được
cấp chất lượng như ý muốn, nhà vận hành mạng phải có được mạng lưới tốt và có cách
thức quản lý tài nguyên mạng hiệu quả. Ở đây có sự liên quan giữa chất lượng dịch vụ
và hiệu năng mạng. Rõ ràng khi nhìn vào các chỉ số của chất lượng dịch vụ, ta có thể
đánh giá được năng lực của mạng lưới và ngược lại khi tham khảo các yếu tố của hiệu
năng mạng, ta có thể đưa ra về mức chất lượng dịch vụ cho các dịch vụ mà mạng viễn
thông đó cung cấp. Như vậy, đây chính là hai khái niệm có quan hệ mật thiết với nhau.
Nhiều lúc chất lượng dịch vụ (ký hiệu là QoS – Quality of Service) và hiệu năng mạng
(ký hiệu là NP – Network Performance) được hiểu là như nhau.
Rõ ràng, chúng ta luôn luôn mong muốn nâng cao chất lượng dịch vụ và khả
năng của mạng lưới. Vậy thì QoS là gì? Để có QoS cao, chúng ta cần phải đáp ứng được
những yếu tố nào? Đó chính là các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ QoS và
hiệu năng mạng NP.

28
III.3.1 KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
Chất lượng dịch vụ (QoS): là tổng hợp những tham số, ý kiến thể hiện sự hài
lòng, không hài lòng của khách hàng đối với một dịch vụ viễn thông nào đó.
Chất lượng dịch vụ và hiệu năng mạng có mối liên hệ khá chặt chẽ. Hình 2.4 cho
ta thấy rằng muốn có được chất lượng dịch vụ tốt thì nó phải được dựa trên cơ sở hiệu
năng mạng tốt đi kèm.
Theo quan điểm của nhà cung cấp dịch vụ, khái niệm hiệu năng mạng là một
chuỗi tham số mạng có thể được xác định, đo được và được điều chỉnh để có thể đạt
được mức độ hài lòng của người sử dụng dịch vụ. Nhà cung cấp phải có nhiệm vụ tổ
hợp các tham số chất lượng mạng khác nhau thành một bộ chỉ tiêu để có thể vừa đảm
bảo các nhu cầu lợi ích kinh tế của mình đồng thời phải thoả mãn một cách tốt nhất cho
những yêu cầu của người sử dụng dịch vụ.
Theo khuyến nghị E.800 của ITU-T thì hiệu năng mạng được định nghĩa như
sau:
“Hiệu năng mạng (NP) là năng lực một mạng hoặc là phần mạng cung cấp các
chức năng có liên quan đến khả năng truyền thông giữa những người sử dụng”.

Hình 1.11: Liên hệ giữa QoS và NP


Từ định nghĩa trên, ta có thể hiểu là đánh giá hiệu năng mạng chính là đánh giá
các chỉ tiêu, các thông số kỹ thuật có liên quan tới khả năng truyền thông tin của mạng
với các chủng loại thiết bị thuộc mạng đó.

29
III.3.2 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG
DỊCH VỤ
Chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào tính kết hợp của nhiều yếu tố: các thành phần
mạng, cơ chế xử lý ở hai điểm đầu cuối, cơ chế điều khiển trong mạng. Đối với các
thành phần mạng (cơ sở hạ tầng vật lý) thông thường có 3 phần quan trọng: Thiết bị đầu
cuối, phương tiện truyền dẫn và thiết bị chuyển mạch (các thiết bị trung chuyển trên
mạng). Đối với mỗi phần có các yêu cầu về QoS tương ứng. Nhìn chung QoS được các
user (người dùng) ở hai đầu cuối truyền thông quyết định. Nhà cung cấp dịch vụ sẽ nắm
bắt được đánh giá QoS thông qua ý kiến khách hàng (dùng đơn vị MOS -Mean Opinion
Score).
Để nắm rõ được những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ, có thể lấy mô
hình tham khảo QoS từ đầu cuối tới đầu cuối (QoS end-to-end). Mô hình này thường có
một hoặc vài mạng tham gia, mỗi mạng lại có thể có nhiều nút.
+ Mỗi mạng tham gia này có thể gây ra trễ, tổn thất hoặc lỗi do việc ghép kênh,
chuyển mạch hoặc truyền dẫn, vì thế nó ảnh hưởng tới QoS.
+ Các biến động thống kê ở lưu lượng xuất hiện trong mạng cũng có thể gây tổn
thất do tràn bộ đệm xếp hàng, bộ xử lý hoặc do các liên kết giữa các nút mạng bị
nghẽn.
+ Mạng có thể thực hiện định hình (shaping) giữa các nút hay giữa các mạng để
tối thiểu hóa tích lũy trong biến động trễ và tổn thất.
Về nguyên tắc, người sử dụng không cần biết đặc tính kỹ thuật của các mạng
tham gia miễn là mạng chuyển được lưu lượng đảm bảo QoS end-to-end.

Hình 1.12: Mô hình tham khảo chất lượng dịch vụ end-to-end

30
III.3.3 CÁC THAM SỐ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
QoS phụ thuộc vào chất lượng về hỗ trợ dịch vụ, chất lượng về khai thác dịch
vụ, chất lượng về thực hiện dịch vụ và chất lượng về an toàn (xem Hình 1.11).
- Chất lượng về hỗ trợ: Tạo điều kiện thuận lợi để cho khách hàng được sử dụng
các dịch vụ đó. Ví dụ như việc cung cấp các thiết bị cần thiết cho khách hàng có thể
đăng ký thuê bao… Tham số đánh giá kết quả hỗ trợ mật độ điện thoại cố định đo bằng
số máy/100 dân.
- Chất lượng về khai thác dịch vụ: Về phía khách hàng có dễ khai thác hay
không, về phía nhà cung cấp có khả năng sửa chữa dịch vụ, thao tác bổ trợ …
- Chất lượng về thực hiện dịch vụ mạng (khả năng phục vụ): Việc truy cập tới
các nút
cung cấp dịch vụ:
+Tính phục vụ liên tục trong mọi tình huống thể hiện khả năng duy trì và cung
cấp dịch vụ.
+ Tính phục vụ trọn vẹn của mạng thể hiện sự hoàn hảo của dịch vụ cung cấp.
+ Yêu cầu truyền thông tăng liên tục gây nguy cơ suy giảm chất lượng của mạng,
do vậy phải thường xuyên phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng mạng để đáp ứng
nhu cầu dịch vụ. Đây chính là khả năng cung cấp dịch vụ hay là khả năng truy
nhập dịch vụ
- Chất lượng an toàn: Đảm bảo tính an toàn thông tin cho khách hàng, quyền
truy nhập, an toàn cho hệ thống thiết bị, an toàn cho người sử dụng.
Như ta đã thấy, những tham số chất lượng dịch vụ là những thông số tương đối
theo đánh giá của khách hàng. Song để đánh giá được bằng con số cụ thể, chúng ta cần
xét các tham số có thể đo đạc được. Như đã nói ở phần trên, chất lượng dịch vụ QoS và
hiệu năng mạng NP có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn có chất lượng dịch vụ tốt
thì phải dựa trên nền hiệu năng mạng tốt. Thông thường, có năm giá trị đánh giá hiệu
năng mạng sau đây được xem như có ảnh hưởng quan trọng nhất đến QoS đầu cuối -
đầu cuối (đặc biệt với dịch vụ mạng dựa trên công nghệ gói).
Độ khả dụng: Độ sẵn sàng phục vụ của mạng. Một mạng lý tưởng luôn sẵn sàng
100% thời gian. Thậm chí nếu là 99.8% tương ứng khoảng 1,5giờ mạng không hoạt
động được trong một tháng thì cũng chẳng có hãng truyền thông lớn nào chấp nhận.
Những hãng truyền thông uy tín luôn nỗ lực cho khả năng sẵn sàng 99,999%, tương ứng
khoảng 2,6 giây mạng không hoạt động được trong vòng một tháng.
Thông lượng (Throughput): Đây là tốc độ truyền tải dữ liệu thực tế được tính
bằng bit/s, Kb/s hoặc Mb/s. Đại lượng này hoàn toàn khác với dung lượng cực đại hay
tốc độ trên đường dây của mạng và thường bị nhầm lẫn với băng thông của mạng. Việc
dùng chung một mạng sẽ làm giảm thông lượng do việc phải đưa thêm vào tiêu đề của
tất cả gói các bit để nhận dạng và cho các mục đích khác. Nhà cung cấp dịch vụ phải
đảm bảo một tốc độ thông lượng tối thiểu cho khách hàng.

31
Tỷ lệ mất gói: Các thiết bị mạng, như các chuyển mạch và router, đôi khi phải
giữ các gói dữ liệu trong các hàng đợi khi có một liên kết bị nghẽn, nếu liên kết này bị
nghẽn trong một thời gian quá dài thì hàng đợi sẽ bị tràn và dữ liệu sẽ bị mất. Các gói bị
mất cần được truyền lại và tất nhiên sẽ làm tăng thời gian truyền dẫn. Trong một mạng
được quản lý tốt thì tỷ lệ mất gói thường nhỏ hơn 1%/tháng.
Trễ: Đó là thời gian để dữ liệu đi từ nguồn tới đích. Nếu không có tuyến truyền
dẫn vệ tinh trong kết nối thì trễ của một cuộc gọi thoại có khoảng cách 5000Km qua
mạng PSTN là khoảng 25ms. Với mạng Internet, ngoài trễ do khoảng cách truyền dẫn
thì trễ của một cuộc gọi thoại có thể dễ dàng bị vượt quá 150ms do còn phải có thời gian
để xử lý báo hiệu và thời gian xếp hàng của các gói truyền trên mạng.
Jitter (rung pha-biến thiên trễ): Jitter xảy ra do một số nguyên nhân như: những
biến động về thời gian xếp trong hàng đợi, các biến động trong thời gian xử lý cần thiết
để sắp xếp lại các gói, các gói đến đích không theo đúng thứ tự do chúng đi theo những
tuyến khác nhau và các biến động trong thời gian xử lý cần thiết để khôi phục các gói đã
bị nguồn gửi phân mảnh.
III.4 NHU CẦU VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DỊCH
VỤ VIỄN THÔNG
Ngày nay, nhu cầu dịch vụ của người sử dụng ngày càng đa dạng và có yêu cầu
cao về chất lượng. Bên cạnh đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong viễn
thông, công nghệ thông tin và điện tử đã làm mạng có khả năng truyền với tốc độ cao,
có chất lượng truyền tin tốt với khả năng xử lý thông minh và nhanh chóng. Vì thế cho
phép mạng lưới thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu của khách hàng và cả các nhà khai thác
dịch vụ viễn thông trong tương lai. Thị trường viễn thông thế giới đang đứng trong xu
thế cạnh tranh và phát triển hướng tới mạng viễn thông toàn cầu, tạo ra khả năng kết nối
đa dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới.
Tiến trình và xu hướng phát triển các loại dịch vụ viễn thông được chỉ ra trong
Hình 1.13. Cùng với sự phát triển của công nghệ viễn thông, các dịch vụ viễn thông
ngày càng phong phú và đa dạng.
Nhu cầu và xu hướng phát triển dịch vụ viễn thông của khách hàng bao gồm:
 Nhu cầu tăng về số lượng/loại hình dịch vụ. Như Hình 1.13, số lượng dịch
vụ còn rất ít vào những năm đầu thế kỷ 20. Từ khi ra đời mạng số đa dịch vụ
(ISDN), mới có thêm một số lượng lớn các loại hình dịch vụ khác nhau.
Mạng này không chỉ hỗ trợ cho các ứng dụng truyền thoại và số liệu có sẵn
mà còn có khả năng cung cấp thêm nhiều loại dịch vụ mới. Một số ứng dụng
của mạng đa dịch vụ băng hẹp (N-ISDN) là : Dịch vụ Fax, dịch vụ Teletex,
dịch vụ Videotex (dịch vụ khôi phục thông tin tương tác). Các dịch vụ này
nằm trong một nhóm các dịch vụ lớn sau: dịch vụ thoại, truyền số liệu,
truyền văn bản, truyền hình ảnh, phần lớn các dịch vụ này thực hiện ở tốc độ
64kb/s hoặc nhỏ hơn.

32
Hình 1.13: Xu hướng phát triển của các dịch vụ viễn thông
 Nhu cầu dịch vụ băng rộng. Khi mạng có dung lượng đủ lớn để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của khách hàng thì phạm vi các loại hình dịch vụ mà nó
có thể hỗ trợ cũng tăng lên. Băng thông yêu cầu cho các dịch vụ cũng lớn
hơn nhiều so với băng thông của các dịch vụ cơ bản như thoại, fax có tốc độ
truyền thường không quá 64kbit/s (xem Bảng 1.1).
ITU-T phân tích các dịch vụ băng rộng làm hai loại đó là các dịch vụ tương tác
và các dịch vụ phân bố.
+Các dịch vụ tương tác là các dịch vụ cho phép truyền thông tin theo hai chiều
(không tính đến các thông tin báo hiệu điều khiển) giữa các thuê bao với nhau
hoặc giữa thuê bao với nhà cung cấp dịch vụ.
+Các dịch vụ phân bố là các dịch vụ mà thông tin chỉ truyền theo một chiều, từ
nhà cung cấp dịch vụ băng rộng tới thuê bao.

33
Bảng 1.1: Yêu cầu kỹ thuật của một số loại dịch vụ
Độ phân giải Tốc độ khung
Dịch vụ Tốc độ bit Chuẩn
(điểm ảnh ×dòng) (khung/giây)
Videophone Không
5-10 kbit/s 170×128 2-5
tương tự có
Điện thoại thấy hình
56-128 kbit/s P×64 176×144 5-10
tốc độ cơ bản
Truyền hình hội nghị ≥ 384 kbit/s P×64 352×288 15-30
Đa phương tiện Tối đa
1-2 Mbit/s MPEG 15-30
tương tác 252×288
NTSC số 3-10 Mbit/s NTSC 720×480 30
Truyền hình
> 15Mbit/s FCC 1200×800 60
phân giải cao
Có một cách khác nữa để phân chia các loại dịch vụ băng rộng thành hai loại:
loại dịch vụ phục vụ cho việc kinh doanh và dịch vụ thông thường phục vụ các hộ thuê
bao (xem Bảng 1.2).
 Nhu cầu muốn có các dịch vụ phân bố và tương tác.
Ngoài ra, khách hàng còn có yêu cầu cao về chất lượng dịch vụ khác như phải
đảm bảo thời gian thực, dịch vụ đa phương tiện được cung cấp với giá rẻ và với thời
gian triển khai nhanh chóng, dịch vụ phải tiện lợi, dễ sử dụng.
Hiện nay, xu hướng phát triển công nghệ đang hướng sang mạng IP (internet
protocol) do sự thuận tiện, đơn giản và chi phí thấp khi triển khai dịch vụ trên mạng này
so với những mạng viễn thông truyền thống trước kia (PSTN, ISDN,…) nên những dịch
vụ mới ra đời cũng thường dựa một phần hoặc toàn bộ trên nền mạng IP.
Bảng 1.2: Các ứng dụng có triển vọng hiện nay và trong tương lai khi triển khai
mạng băng rộng.
Các dịch vụ phụ vụ thông thường
Các dịch vụ phục vụ kinh doanh
phục vụ các hộ thuê bao
- Dịch vụ truyền hình ảnh tốc độ cao - Dịch vụ phân bổ tín hiệu video
- Tự động thiết kế (CAD/CAM/CAE) - Dịch vụ quảng bá TV/HDTV
- Tư vấn, chiếu chụp y khoa - Dịch vụ quảng bá giáo dục từ xa
- Chế bản, xử lý ảnh - Các dịch vụ video trả tiền theo lần xem
- Trao đổi các hình ảnh đồ họa - Dịch vụ video theo yêu cầu
có độ phân giải cao - Dịch vụ quảng cáo, chào hàng qua video

34
- Mua hàng từ xa
- Đa phương tiện tương tác
- Đa phương tiện trong tương tác
- Giáo dục từ xa có tương tác
- Thư điện tử đa phương tiện
- Hội thảo từ xa
- Các dịch vụ 700, 800, 900 đa phương tiện
- Phối hợp trong công tác xuất bản
- Giáo dục từ xa có tương tác
- Các dịch vụ tư vấn
- Dịch vụ Internet có hỗ trợ đa phương tiện
- Thực tại ảo
- Các trò chơi điện tử tương tác
- Điện thoại đa phương tiện
- Điện thoại đa phương tiện và thực tại ảo
- Các dịch vụ dùng chung tài nguyên
III.4.1 DỊCH VỤ VOIP
Dịch vụ VoIP (Voice over IP) là dịch vụ sử dụng công nghệ/giải pháp truyền
thoại qua môi trường IP (mạng gói dựa trên giao thức Internet). Do mạng gói có đặc
điểm là tận dụng tối đa hiệu quả sử dụng băng thông mà ít quan tâm tới thời gian trễ lan
truyền và xử lý trên mạng, trong khi tín hiệu thoại lại là một dạng tín hiệu thời gian
thực, cho nên người ta đã bổ sung vào mạng các phần tử mới và thiết kế các giao thức
phù hợp để có thể đảm bảo chất lượng dịch vụ cho người dùng. Các thành phần này tạo
thành mạng VoIP. Mạng này không chỉ để truyền có thoại mà còn truyền cho các dịch
vụ khác, có thể tích hợp cả dịch vụ thoại, truyền hình và dữ liệu…
Với khả năng sử dụng hiệu quả và tiết kiệm độ rộng băng tần, dịch vụ VoIP có
nhiều ưu điểm so với dịch vụ thoại trên PSTN như sau:
• Giảm cước phí dịch vụ thoại đường dài: Giảm cước phí (đối với người sử
dụng), đặc biệt hiệu quả với đường truyền dài do kết hợp được nguồn tài nguyên sẵn có,
công nghệ nén…Cước phí VoIP bao giờ cũng chỉ bằng khoảng 30% cước phí của cuộc
gọi qua mạng điện thoại.
• Nhiều cuộc gọi hơn, giảm độ rộng băng thông cho mỗi kết nối
• Hỗ trợ thêm nhiều dịch vụ bổ sung khác và giúp triển khai các dịch vụ mới
nhanh chóng, dễ dàng, tự động dịch vụ, phát hiện trạng thái, quản lý thông tin, mã hoá
bảo mật...
• Sử dụng có hiệu quả giao thức IP: Tận dụng đầu tư, thiết bị sẵn có… của nhà
điều hành mạng và cung cấp dịch vụ
Ngoài ra, khi nhắc đến VoIP chúng ta còn có những dịch vụ liên quan trên nền
IP như: Cuộc gọi quốc tế, Fax qua IP, tiếp thị từ xa (trung tâm cuộc gọi đi): gọi đến các
khách hàng phục vụ hoạt động cung cấp hàng và dịch vụ/mối làm ăn, ví dụ như các
cuộc gọi miễn phí cho chủ gọi. Ở Việt Nam có các dịch vụ như 151, 900, 901…, ngoài
ra 1/7/2004 VNPT đưa ra những dịch vụ 1800, 1900 dành cho khách hàng doanh nghiệp
trên nền mạng NGN. Dịch vụ 1800 gọi là dịch vụ miễn phí, hay chính xác hơn là dịch
vụ người nghe trả tiền. Đây là dịch vụ hỏi đáp thông tin hay giao dịch với khách hàng

35
do các tổ chức có nhu cầu cung cấp. Ví dụ như một công ty kinh doanh lớn, có nhu cầu
tiếp thị và giải đáp khách hàng thường xuyên có thể đăng ký dịch vụ gọi miễn phí này.
Khi sử dụng, khách hàng của công ty chỉ cần quay 1800 và số điện thoại đã đăng ký
dịch vụ của công ty là sẽ được nối miễn phí tới các nhân viên giao dịch luôn luôn sẵn
sàng phục vụ và giải đáp các thông tin cần biết của khách hàng. Các dịch vụ 1900 được
sử dụng cho các mục đích giải trí. Các dịch vụ thông minh 1900 hiện nay đã được triển
khai rộng rãi với sự kết hợp mạnh giữa công nghệ thông tin và công nghệ mạng viễn
thông tiên tiến.
III.4.2 DỊCH VỤ VIDEO THỜI GIAN THỰC
Dịch vụ Video thời gian thực (real time video) được các công ty viễn thông cung
cấp, cho truyền Video theo thời gian thực tới các thuê bao khác nhau ở các địa điểm
khác nhau và ở thời điểm khác nhau.
Dịch vụ Video này sử dụng công nghệ ISDN hoặc IP, điều này khác với cầu
truyền hình truyền thống (Television bridge), đó là cho phép chia sẻ các ứng dụng của
công nghệ máy tính, như cùng làm việc với các trang tài liệu, cùng sử dụng các chương
trình phần mềm.
Ứng dụng video thời gian thực cùng audio thời gian thực là ứng dụng đa phương
tiện rất quan trọng của các mạng máy tính ngày nay, cho phép truyền thông hiệu quả
qua các mạng máy tính. Ứng dụng này yêu cầu băng thông lớn và độ trễ nhỏ. Ví dụ:
Videoconferencing được dùng cho đào tạo từ xa và để trao đổi công việc từ xa cho các
nhóm làm dự án.
- Giáo dục/đào tạo từ xa: Internet là kho vô tận về nguồn thông tin và tri thức
của loài người. Kết hợp các yếu tố này nếu được trang thiết bị hội nghị truyền hình, một
giáo viên giỏi có thể giảng dạy trực tuyến cho nhiều lớp học ở các địa điểm khác nhau,
đặc biệt là các lớp học ở vùng sâu, vùng xa nơi thiếu nhiều giáo viên giỏi. Đây là giải
pháp rất hiệu quả về mặt chi phí cũng như con người.
- Truyền hình theo yêu cầu (Video on demand): Truyền Video mạng Internet
theo yêu cầu về giá thành và chất lượng của khách hàng.
- Chơi game tương tác qua mạng: Hiện nay phong trào giải trí trên mạng rất phát
triển, những trò chơi trực tuyến với số lượng lớn người tham gia đòi hỏi mạng phải có
khả năng cung cấp tộc độ cao, băng thông lớn để tránh được các tình huống xấu do
nghẽn mạng.
- Chữa bệnh từ xa: Đây là một ứng dụng mà thông tin lưu trữ trong cơ sở của
máy chủ có thể bị kích hoạt thông qua trình duyệt trang web. Ứng dụng trên mô hình
khách/chủ này cho phép các thông tin, các chuẩn đoán, danh mục thuốc trong toa thuốc
và các số liệu hình ảnh (như chụp X quang) của bệnh nhân có thể được lấy ra và quan
sát. Từ đó, bác sỹ sẽ có cách điều trị tốt hơn cho bệnh nhân. Bác sỹ cũng có thể thu
được những số liệu mới nhất một cách nhanh chóng từ các bệnh viện hoặc trung tâm
chăm sóc sức khoẻ. Khi bác sỹ điều trị trực tiếp của bệnh nhân hỏi ý kiến các chuyên
gia y tế ở xa, các hình ảnh y khoa của bệnh nhân có thể được truyền tới các chuyên gia

36
này để sự góp ý và tư vấn đạt độ chính xác cao. Hoặc trong các trường hợp khẩn cấp,
bệnh viện có thể truy xuất lịch sử bệnh án của bệnh nhân đó.
- Làm việc tại nhà: Dịch vụ này cho phép nhân viên ngồi tại nhà làm việc bình
thường mà không cần phải đến văn phòng, công sở. Khi ngồi tại nhà, người nhân viên
sẽ là người sử dụng mạng LAN ảo và có thể truy cập đến máy chủ ứng dụng và chia sẻ
file với các đồng nghiệp. Họ có thể vào máy chủ fax trung tâm để lấy về các bản fax gửi
cho họ. Hoặc trong khi đọc, gửi email, họ vẫn đủ băng thông để nhận về những tin nhắn
thoại từ các máy chủ thư thoại (voice mail server) dễ dàng.
III.4.3 DỊCH VỤ MẠNG RIÊNG ẢO VPN
Dịch vụ “Mạng riêng ảo”: Đối với nhiều tổ chức, công ty hay cơ quan, xí nghiệp
lớn có nhu cầu trao đổi thông tin nội bộ giữa các thành viên thường xuyên nhưng lại
nằm ở các vị trí địa lý cách xa nhau, việc xây dựng một mạng thông tin nội bộ là rất cần
thiết. Trong trường hợp chưa cần thiết phải đầu tư cho một mạng thông tin thật sự riêng
biệt về mặt vật lý (trang thiết bị, kênh truyền dẫn…), họ có thể đăng ký sử dụng dịch vụ
mạng riêng ảo. Dịch vụ này cung cấp cho các cơ quan đó một mạng thông tin nội bộ ảo
với đầy đủ các tính năng như với một mạng riêng thực sự nhưng vẫn sử dụng chung cơ
sở hạ tầng của mạng thông tin công cộng.
Hiện nay ở Việt Nam, loại hình VPN phổ biến nhất là dịch vụ tạo lập một mạng
LAN ảo trên nền công nghệ IP và các ứng dụng Internet. Với dịch vụ này, các công ty,
doanh nghiệp có thể tạo cho mình một mạng diện rộng với khả năng truy nhập gián tiếp
hoặc trực tiếp qua mạng riêng ảo trên nền IP của VDC.
III.4.4 TÍCH HỢP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG TRÊN TRUYỀN
HÌNH CÁP
Xu hướng tích hợp dịch vụ và mạng hiện nay đang là vấn đề mà các nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông và dịch vụ truyền hình/truyền thanh rất quan tâm.
Với mạng truyền hình cáp, ngoài dịch vụ truyền hình (tin tức, phim ảnh, âm
thanh) còn có thể tích hợp các dịch vụ viễn thông trên đó như dịch vụ thoại, dịch vụ truy
cập internet … thông qua sợi cáp vật lý kết nối tới tận nhà thuê bao. Khi đó, các thiết bị
đầu cuối sẽ là các thiết bị đa phương tiện, vừa có khả năng thu nhận được các thông tin
quảng bá như ca nhạc, tin tức, phim ảnh, vừa cho phép sử dụng các dịch vụ viễn thông
thông thường trên cùng một thiết bị tích hợp.
III.4.5 DỊCH VỤ TRỰC TUYẾN
Dịch vụ trực tuyến là dịch vụ tư vấn, mua bán, tìm kiếm ...trực tiếp, thường thì
việc cung cấp dịch vụ này được thông qua mạng Internet và có thể truy cập 24/24.
Người sử dụng là những người truy cập vào Internet và có khả năng chi trả qua mạng
hoặc qua tài khoản.
Một số ví dụ cụ thể về dịch vụ này ở Việt Nam:
- Tin tức thời sự: Cung cấp thông tin thời sự trực tiếp trên mạng như Tin tức 24
giờ qua, Sự kiện đáng chú ý, Chính trị-Xã hội, Quốc tế, Kinh tế, Văn hóa …

37
- Tin thư: Cơ hội giao thương, Thể thao, Giải trí, Công nghệ thông tin và Viễn
thông.
- Tạp chí điện tử: Cung cấp thông tin báo ảnh trực tiếp trên mạng như Thế giới
24x7, Tuần tin tức, Sắc màu văn hoá, Internet & thương mại điện tử, Diễn đàn kinh
doanh …
- Sách điện tử: Thư viện điện tử cho phép người sử dụng có giấy phép/quyền
được truy nhập và tải sách về máy tính cá nhân. Thường thì dịch vụ này cung cấp trong
một mạng dùng riêng như thư viện trường đại học hay thư viện của một viện nghiên cứu
hoặc một công ty nào đó.
- Thương mại điện tử: Đây là dịch vụ trực tuyến cho lĩnh vực kinh doanh:
Marketing, bán hàng, dịch vụ chăm sóc khách hàng, ngân hàng và hóa đơn trực tuyến
… Một trong những dịch vụ ứng dụng thuộc loại này là: Cửa hàng âm nhạc ở đó bạn có
thể thưởng thức các chương trình audio, các video clip chất lượng cao từ các đĩa CD
mới nhất trước khi quyết định mua chúng. Đó cũng có thể là một cửa hàng thời trang
bán quần áo trực tuyến trên mạng Internet. Ứng dụng sử dụng các clip thực tế ảo để
xoay mẫu vật 360º. Khách hàng có thể nhìn quần áo phía trước, phía sau hoặc bên hông.
Tính tương tác giúp khách hàng hình dung hình dáng trước khi mặc thử, làm họ hài lòng
và tất nhiên tăng doanh thu cho người bán.
III.4.6 CÁC DỊCH VỤ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Phần này cho ta một số ví dụ điển hình về dịch vụ gia tăng trên mạng thoại cố
định, mạng điện thoại di động và mạng Internet.
1. Các dịch vụ gia tăng trên dịch vụ thoại cố định:
- Dịch vụ chuyển cuộc gọi tạm thời: cho phép cuộc gọi tới một thuê bao có đăng
ký dịch vụ này tự động chuyển tới một số máy đã chọn.
- Dịch vụ quay số tắt: cho phép thuê bao đăng ký dịch vụ này có thể tự tạo ra các
số máy chỉ dài 2-3 số cho các số máy cần gọi.
- Dịch vụ nhận dạng cuộc gọi có mục đích xấu: cho phép thuê bao có thể yêu
cầu ghi lại số máy của các máy gọi đến.
- Dịch vụ báo thức tự động: cho phép thuê bao tự ấn định một cuộc gọi đến vào
giờ đã định trước để báo thức.
- Dịch vụ thông báo thuê bao vắng nhà
- Dịch vụ thông báo có cuộc gọi đến khi đang đàm thoại
- Dịch vụ điện thoại hội nghị: cho phép một thuê bao có thể đồng thời gọi tới
thuê bao điện thoại khác để thiết lập một cuộc gọi tay ba.
- Dịch vụ giới hạn cuộc gọi đường dài (trong nước, quốc tế) theo yêu cầu của
thuê bao.
Ngoài các dịch vụ kể trên, càng ngày số lượng các dịch vụ gia tăng của điện
thoại càng nhiều, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng. Còn có các dịch vụ gia

38
tăng giá trị của dịch vụ điện thoại cung cấp cho người sử dụng tuỳ theo tính năng kỹ
thuật của hệ thống tổng đài điện thoại do công ty viễn thông tại địa phương đó cung cấp.
2. Các dịch vụ gia tăng trên dịch vụ điện thoại di động:
- Dịch vụ nhắn tin ngắn (SMS*).
- Hộp thư thoại (voicemail).
- Dịch vụ Fax và truyền số liệu.
- Dịch vụ WAP**.
- Dịch vụ chuyển tiếp cuộc gọi.
- Dịch vụ
- Dịch vụ chuyển vùng trong nước và quốc tế.
- Dịch vụ báo thức …
3. Các dịch vụ gia tăng trên nền Internet:
- Dịch vụ thư điện tử (E-mail): là dịch vụ đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin
giữa những người sử dụng Internet thông qua việc gửi, nhận thư điện tử (Electronic
Mail). Đây là một trong những dịch vụ được sử dụng nhiều nhất trên Internet với lý do
tiện lợi, nhanh chóng và kinh tế.
- Dịch vụ hộp thư thoại (Voice-mail): Hộp thư thoại là dịch vụ cung cấp cho
khách hàng một phương tiện lưu trữ thông tin bằng tiếng nói rất thuận tiện. Người cần
gửi thông tin chỉ cần gọi tới số máy của thuê bao đăng ký dịch vụ này và để lại tin nhắn
bằng tiếng nói. Người chủ thuê bao có thể truy xuất tin nhắn từ bất kỳ một thuê bao điện
thoại nào. Việc gửi và nhận tin nhắn được thực hiện hoàn toàn tự động. Người sử dụng
toàn hoàn yên tâm về bí mật vì chỉ có chủ của hộp thư thoại mới biết mã số cá nhân để
có thể truy xuất tới những tin nhắn trong hộp thư. Dịch vụ này có thể dùng dưới nhiều
dạng như: trả lời tự động nếu thuê bao đang bận hoặc không nhấc máy, điện thoại ảo,
cung cấp thông tin trả lời tự động.
- Dịch vụ truy cập dữ liệu và thông tin trên mạng: Thực ra đây chính là một dịch
vụ ứng dụng Internet, nhưng cụ thể là dịch vụ cung cấp thông tin mạng như cung cấp
văn bản pháp luật, báo chí, truyền hình qua mạng …
Ngoài ra còn có rất nhiều dịch vụ khác như: Dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử trên
mạng, dịch vụ hỏi đáp thông tin, dịch vụ fax gia tăng giá trị bao gồm lưu trữ và gửi, lưu
trữ và truy cập, dịch vụ chuyển đổi mã giao thức.
III.4.7 THÔNG TIN CÁ NHÂN TOÀN CẦU – DỊCH VỤ CHO
TƯƠNG LAI
Hiện nay, hầu hết các dịch vụ viễn thông đều được đăng ký thông qua một số
máy thuê bao đầu cuối xác định. Việc sử dụng dịch vụ đều được quy cho số máy đã
đăng ký dịch vụ mà không cần biết tới người sử dụng dịch vụ. Điều này sẽ không thoả
mãn cho khách hàng nếu họ di chuyển đến một địa điểm mới mà không muốn phải đăng
ký lại dịch vụ mà họ đã có tại địa điểm cũ. Khi dịch vụ thông tin cá nhân được đưa vào

39
sử dụng, mỗi khách hàng sẽ có một số nhận dạng cá nhân (ID – IDentification number)
tương ứng với các dịch vụ mà họ đã đăng ký và có thể sử dụng bất kỳ một thiết bị đầu
cuối nào để thông tin liên lạc. Như vậy, việc sử dụng dịch vụ viễn thông sẽ không còn
gắn với một thiết bị thuê bao cụ thể nào mà sẽ trực tiếp gắn với người sử dụng (cá nhân)
thông qua một ID duy nhất. Dịch vụ thông tin cá nhân toàn cầu sẽ trở thành hiện thực
nếu số nhận dạng ID của mỗi cá nhân được chấp nhận và thống nhất trên phạm vi toàn
thế giới.

40
CHƯƠNG 2
MẠNG SỐ LIÊN KẾT ĐA DỊCH VỤ ISDN
I. MẠNG ĐIỆN THOẠI CHUYỂN MẠCH CÔNG CỘNG PSTN
Mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN) là mạng dịch vụ phát triển rất
sớm, sau hệ thống điện báo Morse. Mạng PSTN cung cấp các dịch vụ thoại và phi thoại.
Do đây là một hệ thống cung cấp dịch vụ thoại nên nó được triển khai rộng khắp
trên thế giới và đã trải qua nhiều giai đoạn công nghệ khác nhau. PSTN là mạng viễn
thông lâu đời nhất và lớn nhất từ trước tới nay, tính đến 1998 đã có trên 700 triệu thuê
bao, tới năm 2000 đã có trên 1 tỷ thuê bao trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, tính đến 2004
đã có trên 6 triệu thuê bao điện thoại PSTN trên tổng số hơn 10 triệu thuê bao điện thoại
(cố định+di động) và tới 6/2006, con số tương ứng là khoảng 9 triệu thuê bao PSTN trên
tổng số khoảng 17 triệu thuê bao điện thoại.
Xét về bản chất PSTN là một mạng hoạt động theo phương thức mạch (circuit
mode), nghĩa là theo phương thức hướng kết nối (connection-oriented): một cuộc gọi
điện thoại được tiến hành theo 3 pha: Thiết lập kết nối, duy trì kết nối và giải phóng kết
nối (setup-conversation-released) bằng cách sử dụng các hệ thống báo hiệu.
Đặc điểm chủ yếu của PSTN:
- Truy nhập analog 300-3400 Hz
- Kết nối song công chuyển mạch kênh
- Băng thông chuyển mạch 64kb/s hoặc 300-3400Hz đối với chuyển mạch
analog
- Không có khả năng di động hoặc di động với cự ly hạn chế.
Hình 2.1 cho thấy mô hình cơ bản của mạng điện thoại này. Trong hình ta có các
thiết bị đầu cuối phía người sử dụng là các máy điện thoại cố định. Mạng điện thoại sẽ
có nhiệm vụ kết nối các máy điện thoại để thực hiện dịch vụ thoại. Mạng này gồm các
phần tử cơ bản là các thiết bị truyền dẫn và các thiết bị chuyển mạch, các thiết bị này
phối hợp hoạt động với nhau để nối thông các máy điện thoại cố định theo yêu cầu của
người sử dụng dịch vụ thoại.
Về nguyên tắc, tất cả các máy điện thoại có thể được đấu nối trực tiếp với nhau
như thời ban đầu của nó. Tuy nhiên khi mà số lượng thuê bao tăng lên, người ta thấy
rằng cần phải thực hiện chuyển mạch giữa các đôi dây với nhau. Sau đó chỉ có một số
tuyến nối cần thiết giữa các tổng đài do số lượng các cuộc gọi ra thì nhỏ hơn nhiều so
với số lượng thuê bao; Các thế hệ tổng đài ban đầu thực hiện chuyển mạch nhân công
dựa trên các phiến nối và phích cắm.

41
Hình 2.1: Mạng điện thoại cố định
Các hệ thống chuyển mạch tự động được gọi là các tổng đài tự động đầu tiên
được phát triển vào năm 1887 bởi Strowger. Sau đó thì quá trình chuyển mạch được
điều khiển bởi người sử dụng nhờ vào các xung được tạo ra khi quay số. Qua nhiều thập
kỷ, các tổng đài dựa trên hàng loạt các bộ chọn điện cơ phức tạp, nhưng trong khoảng
20 năm trở lại đây, chúng được phát triển thành các tổng đài số được điều khiển bằng
phần mềm và có thể cung cấp nhiều dịch vụ bổ sung. Các tổng đài hiện đại thường có
dung lượng tương đối lớn, hàng ngàn số, và có thể thực hiện nhiều cuộc gọi đồng thời.
Thông thường mạng điện thoại được chia thành các cấp khác nhau, từ cấp truy nhập (kết
nối từ thuê bao tới tổng đài nội hạt) tới cấp trung chuyển (kết nối giữa các tổng đài: kết
nối giữa các tổng đài host với nhau, giữa tổng đài host với tổng đài cấp cao hơn là tổng
đài quốc gia và quốc tế).
Truyền dẫn là quá trình truyền tải thông tin giữa các điểm kết cuối của một hệ
thống hay một mạng. Các hệ thống truyền dẫn có thể sử dụng một hoặc nhiều phương
tiện truyền dẫn cơ bản cho việc truyền đưa thông tin giữa các điểm như cáp đồng, cáp
quang hoặc thậm chí là môi trường vô tuyến (với điện thoại kéo dài).
Trong một mạng viễn thông, các hệ thống truyền dẫn sẽ kết nối các tổng đài với
nhau và các hệ thống truyền dẫn này còn được gọi là mạng truyền dẫn hay mạng truyền
tải. Chú ý rằng, số lượng kênh thoại (là một đơn vị đo dung lượng truyền dẫn) cần thiết
giữa các tổng đài thì nhỏ hơn rất nhiều so với số lượng thuê bao bởi vì số lượng thuê
bao thực hiện gọi đồng thời là nhỏ.

42
II. MẠNG SỐ ĐA DỊCH VỤ BĂNG HẸP N-ISDN
Các mạng hiện tại được xậy dựng riêng biệt cho mỗi loại dịch vụ, như mạng
điện thoại, fax,… Do đó khi sử dụng một hay nhiều dịch vụ, người sử dụng rất bất tiện
khi làm hợp đồng thuê bao, dẫn tới nhiều loại thuê bao cho nhiều loại dịch vụ khác
nhau. Mạng số tích hợp dịch vụ băng hẹp N-ISDN (Narrowband Intergrated Services
Digital Network hay “Normal” Intergrated Services Digital Network) hay đơn giản là
ISDN được xây dựng nhằm đưa ra nhiều dịch vụ khác nhau dưới cùng một số thuê bao,
dùng cáp thuê bao bằng mạng riêng biệt liên kết vào mạng số.
II.1 KHÁI QUÁT VỀ ISDN
CCITT đã định nghĩa ISDN như một mạng hoàn toàn số hóa có khả năng cung
cấp một phạm vi rộng rãi các dịch vụ thoại và phi thoại truy nhập bởi một tập hữu hạn
các giao diện người sử dụng. Như vậy, ở dạng đơn giản nhất thì ISDN đơn thuần là sự
nâng cấp đường điện thoại nội hạt cho phép truyền cả tiếng nói và số liệu trên cùng một
đôi dây. Còn ở dạng mong muốn thì ISDN là một mạng có thể cung cấp thuận tiện cho
người sử dụng vô số các dịch vụ viễn thông đa phương tiện bao gồm tiếng nói, số liệu,
âm thanh nổi, hình ảnh, truyền hình,… nhờ các hệ thống chuyển mạch số hiện đại.
II.1.1 CÁC KÊNH TRONG ISDN
Ở đây, “kênh” là đường truyền dẫn thông tin giữa người sử dụng và mạng, còn
được gọi là kênh thuê bao. Trong ISDN, kênh thuê bao chỉ truyền các tín hiệu số và
được chia thành ba loại kênh cơ bản: kênh D, kênh B và kênh H (xem bảng 2.1)
Bảng 2.1: Các loại kênh ISDN

Kênh Chức năng truyền tin Tốc độ

16 Kb/s (BRI)
D Báo hiệu và gói tin
64 Kb/s (PRI)

B Truyền tín hiệu tiếng nói, âm thanh, hình ảnh , số liệu 64 Kb/s

H0 Tổ hợp 6 kênh B (6B) 384 Kb/s

 H11 = 4H0 = 24B 1,536 Mb/s


H1
 H12 = 5H0 = 30B 1,920 Mb/s

 H21 32,768 Mb/s


H2
 H22 43-45 Mb/s

H4 ISDN băng rộng tốc độ cao 132-138,24 Mb/s

43
1. Kênh D
Kênh D dùng truyền các thông tin báo hiệu giữa người sử dụng và mạng. Vì
khối lượng trao đổi các thông báo báo hiệu có thể không sử dụng hết độ rộng băng tần
dùng cho kênh nên có thể dùng kênh D để truyền các gói tin của người sử dụng. Kênh D
hoạt động với tốc độ 16 Kb/s hoặc 64 Kb/s phụ thuộc vào giao diện người sử dụng (BRI
hoặc PRI).
2. Kênh B
Kênh B dùng truyền các tín hiệu tiếng nói, âm thanh (audio), số liệu và hình ảnh
(video) của người sử dụng. Kênh B có thể sử dụng cho cả chuyển mạch kênh và chuyển
mạch gói. Kênh B luôn hoạt động ở tốc độ 64 Kb/s.
3. Kênh H
Kênh H dùng để truyền thông tin với tốc độ cao hơn:
 Kênh H0 tương đương với 6 kênh B, có tốc độ 384 Kb/s
 Kênh H1 có 2 mức:
- H11 = 4 H0 = 24B, có tốc độ 1,536 Mbit/s (tốc độ T1)
- H22 có tốc độ từ 43-45 Mb/s
 Kênh H4 có tốc độ từ 132 đến 138,24 Mb/s
II.1.2 CÁC GIAO DIỆN VÀO ISDN
Mục tiêu của ISDN là cung cấp tất cả các dịch vụ trên một giao diện truy nhập
vào mạng duy nhất, không phụ thuộc vào loại thiết bị hoặc loại dịch vụ. Các tiêu chuẩn
ISDN hiện nay định nghĩa 2 giao diện vào ISDN, đó là giao diện tốc độ cơ bản (Basic
Rate Interface, viết tắt là BRI) và diện tốc độ cơ sở (Primary Rate Interface, viết tắt là
PRI). Bảng 2.2 đặc tả các kênh khả dụng và tốc độ tương ứng của mỗi loại giao diện
trên.
Bảng 2.2: Các giao diện ISDN

Giao diện Cấu trúc kênh Tốc độ tổng cộng Tốc độ dữ liệu người sử dụng

BRI 2B + D(16) 192 Kb/s 144 Kb/s

23B + D(64) 1,544 Mb/s 1,536 Mb/s


PRI
30B + D(64) 2,048 Mb/s 1,984 Mb/s

 Giao diện BRI có cấu trúc kênh là 2B+D trong đó kênh D luôn hoạt động với tốc
độ 16 Kb/s
BRI thường sử dụng để cung cấp lối vào giữa thiết bị người sử dụng và tổng đài
ISDN trung tâm. Tốc độ dữ liệu người sử dụng đối với BRI là 144 Kb/s

44
(2×64Kb/s + 16Kb/s), mặc dù các thông báo báo hiệu bổ sung yêu cầu BRI hoạt
động ở tốc độ tổng cộng là 192 Kb/s.
 Giao diện PRI có 2 cấu trúc kênh: 23B+D dùng cho Bắc Mỹ và 30B+D dùng
cho châu Âu.
Trong cả hai trường hợp, kênh D đều hoạt động ở tốc độ 64Kb/s. PRI chưa
nhiều kênh, cho phép cung cấp lối vào cho nhiều loại thiết bị của người sử dụng.
II.1.3 CÁC NHÓM CHỨC NĂNG VÀ ĐIỂM THAM CHIẾU
ISDN
Để đặc tả các giao diện truy nhập ISDN của người sử dụng, các tiêu chuẩn ISDN
đưa vào hai khái niệm
- Các nhóm chức năng (function groups)
- Các điểm tham chiếu (reference points)
Nhóm chức năng là một tập hợp các chức năng nhất định được thực hiện bởi các
phần tử vật lý của thiết bị còn điểm tham chiếu là khái niệm dùng để phân tách các
nhóm chức năng khác nhau. Hình 2.2 mô tả cấu trúc bên trong của một giao diện ISDN
cho khách hàng.

Hình 2.2: Nhóm chức năng và điểm tham chiếu ISDN


Trong đó:
ISDN terminal là nhóm chức năng đầu cuối tương hợp với các chuẩn ISDN;
Non-ISDN terminal là nhóm chức năng không tương hợp với chuẩn ISDN;
NT1 là nhóm chức năng đầu cuối mạng loại 1 có chức năng giám sát đặc tính
chất lượng đường truyền, định thời, truyền đạt công suất và ghép các kênh B và D;
NT2 là nhóm chức năng đầu cuối mạng loại 2 có chức năng chuyển mạch , ghép
kênh và tập trung;
Terminal Adaptor là bộ thích nghi đầu cuối cho phép một thiết bị không tương
thích ISDN có thể liên lạc với mạng.
Cần chú ý rằng một phần tử thiết bị vật lý có thể đảm nhận nhiệm vụ của một
hoặc nhiều nhóm chức năng ở trên, ví dụ một tổng đài PBX có thể thực hiện các chức
năng NT1 và NT

45
Các điểm tham chiếu xác định giao diện giữa các nhóm chức năng khác nhau.
Các điểm tham chiếu gồm có R, S, T, U:
R nối thiết bị PSTN với TA
S nối các TE với NT2
T nối TE2 với TE1
U nối NT1 với kết cuối chuyển tiếp ET (Exchange Termination)
II.2 CÁC MỤC TIÊU
Các hoạt động hiện nay đang mở rộng phát triển mạng ISDN diện rộng toàn thế
giới. Sự cố gắng này bao gồm các tổ chức chính phủ, các công ty truyền thông và xử lý
số liệu, các tổ chức chuẩn hoá và mọi thành viên khác. Chắc chắn mục tiêu chung là
được chia xẻ bởi các nhóm khác hẳn nhau. Các mục tiêu chính là:
♦ Được chuẩn hoá
♦ Trong suốt
♦ Tách biệt các chức năng cạnh tranh
♦ Các dịch vụ được thuê mướn và chuyển mạch
♦ Giá cước tương đối
♦ Di trú nhẹ nhàng
♦ Trợ giúp hợp kênh
II.3 CÁC LỢI ÍCH
Các lợi ích cơ bản của mạng ISDN với người dùng có thể được biểu diễn dưới
dạng tiết kiệm chi phí và sự linh hoạt. Sự tích hợp thoại và các loại dữ liệu trên một hệ
thống truyền dẫn đơn lẻ có nghĩa là người dùng không cần phải mua nhiều dịch vụ mà
chỉ mua các loại cần. Mức độ hiệu quả và mức độ kinh tế của mạng tích hợp là cho phép
các dịch vụ này được cung cấp với giá thấp hơn giá nếu chúng ta cung cấp chúng một
cách riêng biệt. Các yêu cầu của người dùng có thể rất khác nhau theo nhiều cách: Ví dụ
như theo cường độ lưu lượng thông tin, mẫu truyền tin, thời gian đáp ứng và các loại
giao diện … ISDN cho phép người dùng biến đổi các dịch vụ được mua thành các dịch
vụ cần thiết tới mức chưa có thể tại lúc đó. Thêm nữa , khách hàng có được các ưu điểm
của sự cạnh tranh trong số các thiết bị được bán. Các ưu điểm này bao gồm: thiết bị đa
dạng, giá thấp, và khả năng của các dich vụ là nhiều. Các giao diện chuẩn cho phép lựa
chọn các thiết bị đầu cuối , phương tiện truyền và các dịch vụ từ một số lớn sự canh
tranh màkhông cần thay đổi trong thiết bị hoặc phải sử dụng các bộ thích nghi đặc biệt.
Các nhà cung cấp mạng, tại một mức độ lớn hơn nhưng cùng một cách , lợi
dụng các ưu điểm của sự cạnh tranh , bao gồm các lĩnh vực của các thiết bị chuyển
mạch số và truyền dẫn số. Đồng thời , các sự chuẩn hoá trợ giúp thị trường có triển
vọng lớn và đa dạng cho các dịch vụ . Các giao diện chuẩn cho phép linh hoạt trong lựa

46
chọn các nhà cung cấp , các thủ tục điều khiển báo hiệu thích hợp, và các kĩ thuật mới
và phát triển mạng không làm khách hàng dính líu vào
Các nhà sản xuất có thể tập trung vào nghiên cứu và phát triển trên các áp dụng
kỹ thuật và được đảm bảo rằng một nhu cầu đầy triển vọng đang tồn tại. Thực tế , giá
của sự phát triển các công cụ VLSI được điều chỉnh bởi triển vọng của thị trường. Các
chỗ thích hợp riêng trên thị trường tạo cơ hội cho cạnh tranh , các nhỡ nhà sản xuất nhỏ
hơn. Mức độ kinh tế được nhận biết bởi các nhà sản xuất tại tất cả các cỡ . Giao diện
chuẩn đảm bảo rằng , thiết bị của các nhà sản xuất sẽ được tương thích chéo với nhau
qua giao diện.
Cuối cùng , các nhàcung cấp dịch vụ đã được tăng cường , ví dụ như của các
dịch vụ dựa vào trao đổi các thông tin , cứu các thông tin , sẽ có lợi từ cách truy cập
người dùng đã được đơn giản hoá. Những người sử dụng cuối cùng sẽ không bắt buộc
phải mua các sắp xếp dịch vụ đặc biệt hoặc các thiết bị đầu cuối để truy cập được vào
các dịch vụ đặc biệt.
Tất nhiên , bất kì một tiến bộ kĩ thuật nào cũng có ưu điểm đi đôi với nhược
điểm. Nhược chính ở đây làchi phí di trú. Chi phí này tuy nhiên cần phải được nhìn
nhận trong bối cảnh các nhu cầu của khách hàng đang tăng lên. Sẽ có các thay đổi trong
các chào mời về dịch vụ viễn thông đối với các khách hàng, có hoặc không có ISDN.
Hy vọng rằng khuôn khổ ISDN ít nhất sẽ kiểm soát được chi phí và giảm đi sự nhầm lẫn
trong việc di trú. Một nhược điểm tiềm tàng khác của ISDN là nó sẽ làm chậm các đổi
mới về kỹ thuật. Quá trình chấp nhận 1 tiêu chuẩn cũng là 1 quá trình dài lâu và phức
tạp. Kết quả là khi tiêu chuẩn được chấp nhận và các sản phẩm đã có thì đã xuất hiện
các giải pháp kĩ thuật tiến bộ hơn rồi. Đây luôn là vấn đề nan giải đối với kỹ thuật. Tuy
nhiên các lợi ích của các tiêu chuẩn vẫn đáng kể hơn thực tế dù chúng luôn đi chậm hơn
tính hiện đại một chút.
II.4 KIẾN TRÚC MẠNG
Trong hình 2.3 miêu tả kiến trúc của mạng ISDN. Mạng ISDN trợ giúp một kết
nối vật lý hoàn toàn mới cho người dùng như một đường thuê bao số hoặc một đường
có tính đa dạng truyền dẫn các dịch vụ.
Giao diện vật lý chung cung cấp một phương tiện chuẩn hoá để nối với mạng.
Cùng một giao diện có thể được dùng cho máy điện thoại, máy tính cá nhân và các đầu
cuối videotex. Các giao thức cần thiết xác định sự trao đổi các thông tin điều khiển giữa
các thiết bị của người dùng và các thiết bị mạng. Để dự phòng , phải có các giao diện
với tốc độ cao ví dụ cho PBX số hoặc LAN. Giao diện trợ giúp các dịch vụ cơ sở chứa 3
kênh TDM , 2 kênh 64 Kb/s và 1 kênh 16 Kb/s. Tuy nhiên thêm vào còn có các giao
diện dịch vụ sơ cấp cung cấp nhiều kênh 64 Kb/s.
Cả hai, dịch vụ cơ sở và dịch vụ sơ cấp là giao diện được xác định sử dụng giữa
các thiết bị của khách hàng. Các thiết bị đầu cuối nói chung được gọi là TE (Terminal
Equipment) và một thiết bị ở trong nhà của khách hàng gọi là NT (Network Terminal).
NT tạo ra ranh giới giữa khách hàng và mạng.

47
Hình 2.3: Kiến trúc ISDN
Máy CO (Central Offfice) của mạng ISDN nối một số lớn các đường thuê bao
thành mạng truyền dẫn số. Điều này cho phép truy cập tới các lớp mạng thấp (lớp 1-2-3
trong mô hình OSI) các phương tiện bao gồm :
♦ Các trạm có khả năng chuyển mạch kênh: Vận hành tại tốc độ 64 Kb/s. Đây là các
phương tiện cùng loại được cấp bởi mạng viễn thông chuyển mạch số
♦ Các trạm không có khả năng chuyển mạch: Mỗi một phương tiện như vậy cho một
đường nối chuyên dụng 64 Kb/s. Trạm không chuyển mạch tốc độ dữ liệu cao hơn
được nối tới mạng ISDN băng rộng, sẽ là mạch kênh ảo vĩnh viễn cho mode truyền
không đồng bộ ATM
♦ Các trạm chuyển mạch: Điều này chỉ tới các chuyển mạch tốc độ cao (> 64 Kb/s)
các kết nối khi sử dụng ATM như là một phần của ISDN băng rộng
♦ Các trạm có khả năng chuyển mạch gói: Các phương tiện này tương tự với các dịch
vụ chuyển mạch gói được cung cấp bởi các mạng dữ liệu khác.

48
♦ Các trạm có khả năng Frame-mode: Một dịch vụ trợ giúp các dịch vụ mode Frame
♦ Các trạm có khả năng báo hiệu kênh chung: Các trạm có khả năng này được sử
dụng để điều khiển mạng và cung cấp quản trị cuộc gọi nội bộ tới mạng. Báo hiệu
hệ thống số 7 (SS7) được sử dụng. Các trạm này chứa các tự chuẩn đoán điều khiển
người dùng–mạng. Sử dụng báo hiệu điều khiển để tự chuẩn đoán mạng người
dùng-người dùng là vấn đề xa hơn nữa của ITU-T
Các chức năng lớp thấp có thể được ứng dụng trong mạng ISDN . Tại một vài
nước, do sự cạnh tranh một số các chức năng lớp thấp này (mạng chuyển mạch gói) có
thể được cung cấp tại một mạng riêng rẽ và có thể vươn tới một thuê bao qua mạng
ISDN.
II.5 CHUẨN HÓA ISDN
CCITT là tổ chức chịu trách nhiệm chuẩn hóa ISDN với các khuyến nghị loại I.
Hình 2.4 chỉ ra sự phân bố các nhóm khuyến nghị loại I đã được công bố từ năm 1984
và tiếp tục được phát triển sau đó.

Các vấn đề tiếp tục Nhóm I-200: các vấn


phát triển khác đề về dịch vụ

Nhóm I-600: Nhóm I-300:


các nguyên lý Nhóm I-100: các vấn đề
tổng quát các vấn đề về
biểu diễn mạng

Nhóm I-500: các giao Nhóm I-400: các vấn


diện trong mạng đề về giao diện
người sử dụng mạng

Hình 2.4: Phân bố các khuyến nghị loại I về ISDN của CCITT.
Các tổ chức tiểu chuẩn hóa khác như ANSI, ISO,… cũng tham gia bổ sung các chuẩn
cho ISDN. Ví dụ ANSI với họ chuẩn T1E1 về các giao diện mạng và T1M1 về các hoạt
động nội bộ mạng, quản lý, bảo dưỡng, dự phòng…
Hình 2.5 mô tả kiến trúc tổng quát của ISDN theo khuyến nghị của CCITT.

49
Hình 2.5: Kiến trúc tổng quát ISDN
II.6 CÁC DỊCH VỤ
ISDN với các khả năng chuyển mạch khác nhau có thể cung câp rất nhiều dịch
vụ thông tin cho khách hàng theo mô hình công sở hoặc mô hình nhà riêng. Hình 2.6
minh họa các dịch vụ có thể có của ISDN.

Hình 2.6: Các dịch vụ ISDN

50
III. MẠNG SỐ ĐA DỊCH VỤ BĂNG RỘNG B-ISDN
III.1 SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG B-ISDN
Sự ra đời của mạng viễn thông thống nhất băng rộng B-ISDN được thúc đẩy bởi
các nguyên nhân sau:
• Các yêu cầu dịch vụ băng rộng đang tăng lên.
• Các kỹ thuật xử lý tín hiệu, chuyển mạch, truyền dẫn ở tốc độ cao (cỡ khoảng
vài trăm Mbit/s tới vài Gbit/s) đã trở thành hiện thực.
• Tiến bộ về khả năng xử lý ảnh và số liệu.
• Sự phát triển của các ứng dụng phần mềm trong lĩnh vực tin học và viễn thông.
• Sự cần thiết phải tổ hợp các dịch vụ phụ thuộc lẫn nhau ở chuyển mạch kênh
và chuyển mạch gói vào một mạng băng rộng duy nhất. So với các mạng khác,
dịch vụ tổ hợp và mạng tổ hợp có nhiều ưu điểm về mặt kinh tế, phát triển, thực
hiện, vận hành và bảo dưỡng.
• Sự cần thiết phải thoả mãn tính mềm dẻo cho các yêu cầu về phía người sử
dụng cũng như người quản trị mạng (về mặt tốc độ truyền, chất lượng dịch vụ
.v.v.).
Khuyến nghị ITU-T I.121 đưa ra tổng quan về khả năng của B-ISDN như sau:
Mạng tổ hợp dịch vụ số băng rộng (Broadband Integrated Services Digital
Network - B-ISDN) cung cấp các cuộc nối thông qua chuyển mạch, các cuộc nối cố định
(Permanent) hoặc bán cố định (Semi-Permanent), các cuộc nối từ điểm tới điểm tới
điểm hoặc từ điểm tới nhiều điểm và cung cấp các dịch vụ yêu cầu, các dịch vụ dành
trước hoặc các dịch vụ yêu cầu cố định. Cuộc nối trong B-ISDN phục vụ cho cả các
dịch vụ chuyển mạch kênh, chuyển mạch gói theo kiểu đa phương tiện (Multimedia),
đơn phương tiện (Monomedia), theo kiểu hướng liên kết (Connection- Oriented) hoặc
không liên kết (Connectionless) và theo cấu hình đơn hướng hoặc đa hướng.
B-ISDN là một mạng thông minh có khả năng cung cấp các dịch vụ cải tiến,
cung cấp các công cụ bảo dưỡng và vận hành (OAM), điều khiển và quản lý mạng rất
hiệu quả.
B-ISDN theo ITU-T dựa trên cơ sở kiểu truyền không đồng bộ ATM
(Asynchronous Transfer Mode). Như vậy ATM sẽ là nền tảng của B-ISDN trong tương
lai. ATM có hai được điểm quan trọng sau:
- Thứ nhất, ATM sử dụng các gói có kích thước nhỏ và cố định gọi là các tế bào
ATM (ATM Cell), các tế bào nhỏ cùng với tốc độ truyền lớn sẽ làm cho trễ
truyền và biến động trễ (Delay Jitter) giảm đủ nhỏ đối với các dịch vụ thời gian
thực, ngoài ra kích thước nhỏ cũng sẽ tạo điều kiện cho việc hợp kênh ở tốc độ
cao được dễ dàng hơn.

51
- Thứ hai, ATM còn có một đặc điểm rất quan trọng là khả năng nhóm một vài
kênh ảo (Virtual Channel) thành một đường ảo (Virtual Path), nhằm giúp cho
việc định tuyến được dễ dàng.
Kỹ thuật ATM sẽ được xem xét cụ thể trong chương 3.
III.2 CÁC DỊCH VỤ TƯƠNG LAI B-ISDN TRÊN CƠ SỞ ATM
III.2.1 CÁC DỊCH VỤ PHỤC VỤ CHO CÁC THUÊ BAO GIA
ĐÌNH
Các dịch vụ quan trọng cho các thuê bao gia đình là những dịch vụ truyền hình
(TV) bao gồm dịch vụ truyền hình cáp CATV, truyền hình số chuẩn SDTV(Standard
Digital TV) hay trong tương lai là dịch vụ truyền hình độ phân giải cao HDTV (High
Definition TV). Tuy vậy người ta còn phải giải quyết các vấn đề về tính tương thích giữa
các tín hiệu video nói trên sao cho một chương trình SDTV có thể xem được trên màn
hình HDTV và ngược lại.
Tất cả các tín hiệu video nói trên có thể được cung cấp bằng nhiều cách khác
nhau. Dễ thực hiện nhất là phương pháp mô phỏng CATV trong đó một loạt các chương
trình TV được đưa tới thuê bao theo các đường nối bán cố định. Một phương pháp khác
là các kênh TV được truy nhập theo kiểu chuyển mạch, nghĩa là khách hàng có thể chọn
một chương trình mong muốn theo một kênh thông tin xác định. Xa hơn nữa, người sử
dụng có thể gọi tới một thư viện video sau đó chọn lấy một kênh từ rất nhiều các kênh
truyền hình sẵn có.
Một ứng dụng quan trọng nữa là dịch vụ điện thoại truyền hình trong đó các
hình ảnh chất lượng cao được truyền đi ở tốc độ từ 2 tới 5 Mbit/s với giá thành phải
chăng.
Ngoài ra còn một loạt các ứng dụng thú vị khác như mua hàng tại nhà (Video-
Shopping), dạy học tại nhà (Home-Education), các dịch vụ thông tin quảng cáo .v.v.
III.2.2 CÁC DỊCH VỤ PHỤC VỤ TRONG LĨNH VỰC KINH
DOANH, GIAO DỊCH
Các thuê bao trong phạm vi công sở, văn phòng có những đặc điểm hoàn toàn
khác so với các thuê bao gia đình. Điểm chung duy nhất giữa hai lĩnh vực này là điện
thoại truyền hình. Tuy vậy dịch vụ này cũng phải được mở rộng để tiến tới điện thoại
hội nghị truyền hình, sao cho người sử dụng có thể dùng dịch vụ điện thoại truyền hình
để liên lạc giữa vài điểm cùng một lúc.
Có thể dự đoán nhiều dịch vụ của B-ISDN cho mạng LAN sẽ được đưa vào ứng
dụng trong tương lai. Các hệ thống ATM-LAN được nối với nhau sẽ tạo khả năng truy
nhập hệ cơ sở dữ liệu phân tán với tốc độ rất cao, điều này rất quan trọng do khả năng
của PC đang tăng lên không ngừng về mặt tốc độ xử lý cũng như khả năng lưu trữ thông
tin, do đó sẽ có ngày càng nhiều các phần mềm ứng dụng chạy trên các máy khác nhau
trong môi trường dữ liệu phân tán. Ngoài ra còn phải kể đến các dịch vụ khác như:
truyền ảnh y tế chất lượng cao để phục vụ cho việc chữa bệnh từ xa, giáo dục phân tán,
truyền thông đa phương tiện, thư tín điện tử.

52
Bảng 2.3: Đặc điểm các dịch vụ băng rộng cơ bản

Dịch vụ Tốc độ (Mbit/s)

Truyền số liệu (hướng liên kết) 1,5-130

Truyền số liệu (không liên kết) 1,5-130

Truyền văn bản, tài liệu 1,5-45

Điện thoại truyền hình/


1,5-130
Hội nghị truyền hình

TV 30-130

Truyền hình phân giải cao 130

Trong lĩnh vực sản xuất, các ứng dụng sẽ là điều khiển/giám sát từ xa, phân phối
các thông tin hình ảnh về sản xuất/xử lý tới công nhân trong nhà máy. Bảng 2.3 tóm tắt
các dịch vụ băng rộng cơ bản và tốc độ tương ứng của chúng.
III.3 CẤU TRÚC MẠNG B-ISDN PHÂN TẦNG

53
• Mạng của người sử dụng (Customer Network - CN): Là nơi các thuê bao sử
dụng để truy nhập vào mạng công cộng, tức là phần trung gian nối giữa các thiết thiết bị
đầu cuối, các bộ tập trung, MUX/DEMUX, ATM-LAN và tổng đài cơ quan PBX.
• Mạng truy nhập B-ISDN (Broadband Access Network): Là mạng công cộng
nơi phát ra hoặc nhận vào tất cả các luồng thông tin khác nhau từ/đến các thuê bao hoặc
mạng CN. Nếu không có mạng truy nhập thì sẽ không có một lưu lượng thông tin nào
được truyền trên mạng đường dài.
• Mạng đường dài (Back-bone Network): Dễ dàng nhận thấy rằng ta không thể
nối tất cả các nút của mạng truy nhập lại với nhau vì số nút này rất lớn do đó việc nối sẽ
quá phức tạp, vì vậy muốn nối tất cả các nút của mạng truy nhập, ta phải thông qua
mạng đường dài. Tuy vậy mạng truy nhập và mạng đường dài cũng không liên kết trực
tiếp với nhau mà thông qua hệ thống mạng trung kế (Trunk Network) hay còn gọi là
Tandem.
• Hệ thống mạng trung kế (Trunk Network): Là nơi tập trung và phân phối các
luồng thông tin đến từ các tầng mạng khác nhau, nói cách khác mạng trung kế nằm ở
giữa các tầng mạng: giữa mạng CN và mạng truy nhập ATM, giữa các tầng mạng: giữa
mạng CN và mạng truy nhập ATM, giữa mạng truy nhập và mạng đường dài .v.v.
• Mạng quản lý (Telecommunication Management Network - TMN): Là mạng
riêng nối với tất cả các nút chuyển mạch và truyền dẫn để làm các chức năng giám sát,
vận hành, quản lý, bảo dưỡng (OAM). TMN giám sát và nhận các thông tin về trạng
thái của tất cả các khâu trong B-ISDN, từ các nút chuyển mạch, các nút nối xuyên cho
đến hệ thống truyền dẫn .v.v.
• Mạng báo hiệu: Trong B-ISDN, mạng báo hiệu không chỉ có nhiệm vụ thiết
lập, duy trì, hủy bỏ các cuộc nối và truyền các thông tin về cuộc nối mà còn có tác dụng
là phần trung gian nối các điểm điều khiển dịch vụ để tạo thành các dịch vụ thông minh.
Sự kết hợp giữa mạng báo hiệu với các nút điều khiển dịch vụ này tạo nên một khái
niệm mạng hoàn toàn mới là mạng thông minh IN (Intelligent Network). Mạng IN đóng
vai trò ngày càng quan trọng trong B-ISDN vì nó cho phép đưa B-ISDN trở thành một
mạng đa năng, dễ được người sử dụng chấp nhận.
Mỗi mạng trên do có chức năng khác nhau nên đặc điểm của chúng cũng khác
nhau. Các tham số cần chú ý nhất là: Lưu lượng truyền trên mạng, tốc độ truyền,
phương pháp truyền (hướng liên kết hay không liên kết), các dịch vụ được truyền trên
mạng.

54
CHƯƠNG 3
MẠNG CHUYỂN MẠCH GÓI
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHUYỂN MẠCH GÓI
I.1 NGUYÊN LÝ CHUYỂN MẠCH GÓI

Hình 3.1: Mạng chuyển mạch gói


Chuyển mạch gói là hệ thống lưu lại và chuyển đi (store and forward). Thông tin
truyền đi dưới dạng các gói thông tin (thường là 1000octet/gói). Một gói được chia làm
hai vùng: vùng điều khiển và vùng thông tin. Vùng điều khiển chứa các thông tin liên
quan đến việc tìm đường cho gói tin. Tại các nút mạng gói được nhận, lưu tạm thời
(đệm) và chuyển cho nút kế tiếp.
Các bản tin của khách hàng từ máy chủ gọi A sẽ không được gửi đi một cách tức
thời và trọn vẹn qua mạng tới máy bị gọi như trong mạng chuyển mạch kênh mà sẽ
được cắt ra và tạo thành các gói chuẩn ở nút chuyển mạch gói nguồn PSWs: Mỗi gói sẽ
được truyền vào mạng một cách riêng rẽ độc lập và chúng sẽ dịch chuyển về nút chuyển
mạch gói đích PSWd theo môn đường đi tối ưu (nhanh nhất, ngắn nhất…) tại bất kỳ
thời điểm nào. Đồng thời mỗi gói sẽ được kiểm tra, giám sát lỗi trên đường truyền. Tại
PSWd, các gói sẽ được tái hợp lại để tạo thành bản tin nguyên vẹn ban đầu rồi gửi tới
thuê bao bị gọi B.
Trong chuyển mạch gói, kênh truyền chỉ bị chiếm dụng trong thời gian thực sự
truyền gói tin, sau đó kênh sẽ trở thành rảnh rỗi và được sử dụng cho các gói tin của các
thiết bị đầu cuối dữ liệu khác. Ngoải ra nhiều gói tin của cùng một bản tin có thể được
truyền một cách đồng thời và có thể theo các tuyến hoàn toàn khác nhau, do đó chuyển
mạch gói có thể sử dụng một cách triệt để các tính năng truyền dẫn của hệ thống.
I.2 KHÁI NIỆM MẠCH ẢO VÀ CÁC KÊNH LOGIC
I.2.1 MẠCH ẢO
Mạch ảo là đường nối giữa hai người sử dụng. Mạch ảo giống như một mạch
thật kết nối đầu cuối đến đầu cuối (end-to-end). Trên thực tế các gói dữ liệu được chọn
tuyến qua các nút khác nhau trong mạng trước khi đến được nút đích. Một mạch ảo chỉ

55
sử dụng đường truyền dẫn khi có dữ liệu được truyền. Nếu không có dữ liệu trên mạch
ảo thì các đường truyền dẫn có thể được sử dụng cho các mạch ảo khác.

Hình 3.2: Mạch ảo và kênh logic


I.2.2 KÊNH LOGIC
Một thiết bị đầu cuối số DTE được nối tới mạng truyền dữ liệu bằng một đường
vật lý đơn. Để cho phép truy cập đồng thời nhiều ứng dụng của DTE thì đường nối vật
lý giữa DTE-DCE-PSW được chia thành các kênh logic và mỗi mạch ảo sẽ liên quan tới
ít nhất 2 kênh logic, mỗi kênh ở một đầu DTE. Theo lý thuyết có tối đa 4096 kênh logic
trên 1 kênh ảo kết nối cho một cặp DTE-DCE.
I.2.3 CUỘC GỌI ẢO VC
Đây là một mạch ảo tạm thời giữa hai DTE. Về mặt logic nó có thể so sánh với
một cuộc gọi thông thường trong mạng chuyển mạch kênh. Một cuộc gọi ảo bao gồm
các giai đoạn: Sẵn sàng thiết lập cuộc gọi, truyền dữ liệu và xóa cuộc gọi.
I.2.4 MẠCH ẢO CỐ ĐỊNH
Đây là một mạch ảo cố định giữa hai DTE nó có thể so sánh với đường dây cho
thuê bao trong chuyển mạch kênh. Với kiểu mạch này thì không cần thiết lập hay hủy
một tuyến ảo qua mạng.
I.3 PHƯƠNG PHÁP TRAO ĐỔI DỮ LIỆU TRONG CHUYỂN
MẠCH GÓI
Trong chuyển mạch gói có hai phương pháp chuyển gói tin đến đích, đó là:
phương pháp không tạo cầu nối (Datagram hay Connectionless) và phương pháp tạo cầu
nối (Virtual circuit hay Connection oriented). Ta sẽ lần lượt xem xét nguyên lý của hai
phương pháp này.
I.3.1 CHẾ ĐỘ KHÔNG TẠO CẦU NỐI (DATAGRAM)
Mỗi gói sẽ được xử lý độc lập, nghĩa là các gói của cùng một khối thông tin có
thể đến đích theo nhiều đường khác nhau. Các gói có thể đến đích không theo thứ tự gửi

56
đi, các gói cũng có thể gặp sự cố trên đường truyền. Bên nhận sẽ thực hiện chức năng
sắp xếp lại các gói theo thứ tự và có cơ chế phát hiện và sửa lỗi với các gói bị sự cố.
Xét ví dụ quá trình truyền dữ liệu giữa trạm gửi và trạm nhận như trong hình
3.3. Khối dữ liệu cần truyền (file) được chia nhỏ thành các gói 1,2,3,… và thêm vào các
gói này các thông tin điều khiển cần thiết.
(a) Trạm gửi sẽ truyền các gói tới nút 1
(b) Nút 1 gửi các gói tới nút 2. Tại thời điểm gói 1 và 2 tới nút 2 thì đường đi
tối ưu tới đích sẽ là qua nút 4 nên gói 1 và 2 được gửi tới nút 4.
(c) Khi gói 3 đến nút 2 thì đường đi tối ưu đến đích đã thay đổi. Lúc này
đường đi tối ưu sẽ qua nút 3 chứ không còn là nút 4 nữa nên gói 3 sẽ được
gửi đến nút 3.
(d) Gói 3 đến đích nhanh hơn gói 1 và 2.
(e) Phía thu sắp xếp lại thứ tự gói.

Hình3.3: Chế độ làm việc không tạo cầu nối

57
I.3.2 CHẾ ĐỘ TẠO CẦU NỐI (VIRTUAL CIRCUIT)
Trong chế độ này, đường đi được tạo trước khi gởi các gói dữ liệu. Các gói yêu
cầu và chấp nhận kết nối được dùng để tạo kết nối (handshake). Mỗi đường đi được gán
một số chỉ số nhận dạng (ID) gọi là nhận dạng mạch ảo VCI (Virtual Circuit Identifier).
Mỗi gói chứa ID của đường đi thay vì địa chỉ đích. Hệ thống không cần tìm đương cho
riêng từng gói mà tất cả các gói trong cuộc nối này sẽ đi theo đường ảo đã được thiết lập
ban đầu.
Xét ví dụ quá trình truyền dữ liệu giữa trạm gửi và trạm nhận như trong hình
3.4. Khối dữ liệu cần truyền (file) được chia nhỏ thành các gói 1,2,3,… và thêm vào các
gói này các thông tin điều khiển cần thiết. Một tuyến ảo được định ra sau quá trình
handshake, tất cả các gói 1,2,3,… đều đi từ nguồn đến đích theo tuyến này.

Hình 3.4: Chế độ làm việc tạo cầu nối

58
I.4 ĐÓNG GÓI THÔNG TIN
I.4.1 CẤU TRÚC GÓI
Để khắc phục các lỗi và truyền nhận chính xác cần có sự phối hợp với các chiến
lược quản lý toàn cục, mỗi gói tin vì thế phải chứa các thông tin hỗ trợ, phần thông tin
hỗ trợ này được gọi là thông tin dẫn đường (overhead). Overhead có những dạng khác
nhau tùy thuộc vào kiểu mạng và kỹ thuật được dùng.
Overhead tồn tại dưới 2 dạng cơ bản: dạng kết hợp vào mỗi gói người dùng (user)
và dạng gói chuyên xác nhận hoặc chuyên điều khiển.
Bản tin hoặc tin tức quản lý của thuê bao có chiều dài L tùy ý khoảng từ vài bit
đến vài triệu bit. Hệ điều hành trong các mạng chuyển mạch gói không có khả năng
hoặc không thuật lợi để phát hết bản tin có chiều dài tùy ý L trong một lần. Tùy vào
giao thức, nhưng tổng quát với góc độ nhìn là mặt cắt giao tiếp người dùng mạng (user
network), sẽ chia bản tin lớn L thành các đơn vị nhỏ có chiều dài tối đa là M gọi chung
là segment. Bên trong mạng, trên các đường dây các node trao đổi với nhau các đơn vị
nhỏ được chia từ segment gọi là gói (packet) có chiều dài tối đa N bit. Tùy theo thiết kế
giao thức mạng mà giá trị M và N có thể bẳng nhau hoặc M>N. Dĩ nhiên tin tức người
dùng có chiều dài L tùy ý.
Biểu diễn toán học: L  M  N
Nếu thủ tục mạng qui định M = N, thủ tục mạng thuộc lớp giao thức có một gói tin
trong một segment (single–packet–per – segment). Nghĩa là mỗi segment chỉ chứa một
gói tin và các node mạng không cần chia gói trên segment đến từ host.
Nếu M > N, có thủ tục nhiều gói tin trên một segment, mỗi segment người dùng
có chiều dài M, khi đến mạng được các nút chia thành những gói tin có chiều dài N.
Thủ tục một gói tin trên một segment được sử dụng phổ biến trong mạng hoạt
động datagram hay trên các lớp logic làm việc theo chế độ datagram.
Thủ tục nhiều gói tin trên một segment thường sử dụng trong mạng hoạt đông theo
chế độ cầu ảo (Virtual Circuit).
Trong bất cứ trường hợp nào, đơn vị dữ liệu mà thuê bao sử dụng để giao tiếp với
node chuyển mạch trong mạng là các segment, trong khi đó giao tiếp giữa các node
chuyển mạch là các gói tin. Tin tức chứa trong các gói tin và các segment có thể giống
hoặc không giống nhau tùy thuộc vào giao thức đang sử dụng.
Thông tin của giao thức (Protocol Information)
Từ hình 3.5, ta thấy rằng segment thông tin của người dùng bao gồm ba vùng cơ bản,
đó là vùng leader, vùng thông tin, và vùng kiểm soát lỗi (error control).

59
Hình 3.5: Cấu trúc overhead tổng quát của chuyển mạch gói
Leader chứa địa chỉ nơi đến cùng với tin tức điều khiển được mạng yêu cầu, ví dụ
như là chỉ số thứ tự của segment, chỉ số kênh logic được dùng, đích đến của segment
đầu hoặc cuối, và kích thước vùng thông tin.
Các gói tin gồm các vùng header, thông tin, khối điều khiển lỗi (error control) và
mã đánh dấu đầu và kết thúc gói tin (start framing và end framing). Header chứa các
thông tin giống như leader nhưng là những thông tin thuộc tính của gói trong một
segment, cùng với các tin tức khác mà node cần để điều khiển sự di chuyển các gói
xuyên qua mạng. Ví dụ như địa chỉ nguồn, chỉ số thứ tự gói tin và khối điều khiển (để
ngăn ngừa việc looping, mất hoặc nhân đôi gói).
Vùng kiểm soát lỗi dùng nguyên lý mã hóa toán học cho phép các node nhận ra
nếu bất cứ bit nào hoặc nhóm bit nào bị lỗi. Quá trình kiểm soát lỗi là một phần của thủ
tục điều hành. Trong thực tế thường dùng mã CRC được trình bày ở mục dưới đây.
I.4.2 KÍCH THƯỚC GÓI
Tổng số tin tức chứa trong leader của segment và header của packet là đáng kể.
Đặc biệt nếu có tổng số 256 bit thông tin overhead được yêu cầu trong một gói kích
thước N bằng 1000 bit thì lượng overhead chiếm đến 25 % tổng dữ liệu được được phát.
Điều này cho thấy rằng có 25 % dung lượng xuyên mạng không có giá trị trong việc
giao tiếp giữa các người dùng với nhau. Vì vậy tỉ lệ phần trăm của overhead liên quan
đến việc so sánh hiệu quả của các kỹ thuật chuyển mạch.
Một ví dụ về cấu trúc overhead: bản tin người dùng có:
L = 70.000 bit, M = 8192 bit, N = 1024 bit
Ta có: L = 8. M + 4464 mà M = 8 N.
Trên hình 3.6 mô tả cấu trúc cơ bản của bản tin này, bản tin được chia làm 9
segment, mỗi segment trong 8 segment đầu được làm đầy với 8192 bit và 4464 bit còn
lại ở trong segment thứ 9. Mỗi segment trong 8 segment đầu chia thành 8 gói, mỗi gói

60
1024 bit. Segment thứ 9 được chia thành 5 gói trong đó 4 gói đầu chứa 1024 bit còn gói
thứ 5 chứa 368 bit còn lại.
Tỉ lệ của overhead trong gói còn là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian
truyền. Đây là vấn đề được đặt ra và xem xét khi chọn kích thước cho gói tin. Để tiếp
cận vấn đề này hãy tham khảo ví dụ ở hình 3.7.
Trong hình 3.7 giả sử có một cầu ảo từ X đến Y thông qua 2 node a và b. Giả sử
bản tin truyền bao gồm 30 byte, mỗi gói có 3 byte thông tin điều khiển; thông tin điều
khiển được đặt đầu mỗi gói va gọi là header. Toàn bộ thông báo gửi dưới dạng một gói
đơn 33 byte. Đầu tiên gói được truyền từ X đễn a. Khi tất cả dữ liệu đã đến a thì mới
chuyển tiếp đến b và cứ thế cho đến Y. Tổng thời gian truyền tại mỗi node thành ra 99
byte.

Hình 3.6: Sự chia bản tin thành cấu trúc segment và gói
Giả sử phân thành 2 gói, mỗi gói 15 byte và dĩ nhiên mỗi gói phải thêm vào 3 byte
header. Trong trường hợp này a sẽ truyền gói đầu tiên khi đã nhận đầy đủ gói này mà
không cần chờ nhận hết gói 2. Và vì vậy thời gian truyền tại mỗi node chỉ còn là thời
gian truyền 72 byte. Nếu chia 5 gói thi thời gian chỉ còn là 63 byte. Tuy nhiên nếu tăng
gói quá nhiều thì thời gian lại gia tăng bởi vì mỗi gói chứa một lượng header không đổi
và nhiều gói có nghĩa là nhiều header dẫn đến hiệu suất thông tin giảm và thời gian
truyền lại gia tăng trở lại. Do đó trong thiết kế gói cần xem xét kỹ các yếu tố trên.

61
   
X a b Y
       
X a b Y X a b Y

   
X a b Y
Hình 3.7. So sánh thời gian truyền giữa ba cách chia.
I.5 GHÉP KÊNH TRONG CHUYỂN MẠCH GÓI
Khác với chuyển mạch kênh sử dụng kỹ thuật ghép kênh theo thời gian đồng bộ
TDM (Time – Division Multiplexing), chuyển mạch gói sử dụng kỹ thuật ghép kênh
theo thời gian thống kê STDM (Statistical Time – Division Multiplexing).
Trong kỹ thuật TDM đồng bộ, có nhiều khe thời gian trong một khung bị lãng phí.
Một ứng dụng tiêu biểu của TDM đồng bộ có liên quan đến việc liên kết một số các đầu
cuối đến một cổng máy tính chủ chia sẻ thông tin. Ngay cả khi tất cả các đầu cuối đang

62
trong trạng thái hoạt động, hầu hết thời gian là không có dữ liệu truyền tại bất kỳ một
đầu cuối đặc biệt nào đó.

Hình 3.8. TDM đồng bộ khác với TDM thống kê


Kỹ thuật TDM bất đồng bộ hay còn gọi là ghép kênh phân thời thống kê statistical
TDM. Phương pháp ghép kênh này khai thác đặc tính chung nhất của truyền dữ liệu
bằng cách phân phối các khe thời gian một cách linh động theo yêu cầu. Cũng giống
như TDM đồng bộ, TDM bất đồng bộ cũng có một số các đường vào ra I/O trên một
mặt và một đường ghép kênh tốc độ cao trên mặt kia. Mỗi đường xuất nhập có một bộ
đệm (buffer) riêng. Trong trường hợp ghép kênh thống kê có n đường I/O nhưng chỉ có
K < n khe thời gian trong một khung TDM. Để nhập dữ liệu, các buffer được quét và dữ
liệu được nhập cho đến khi khung (frame) được làm đầy, sau đó sẽ truyền đi. Tại đầu
kia, bộ ghép kênh nhận một frame và phân phối các khe dữ liệu vào các bộ đệm xuất
thích hợp.
Vì ghép kênh thống kê lợi dụng điều thực tế thường xảy ra là các user không
truyền dữ liệu trong tất cả thời gian, nên tốc độ trên đường ghép kênh được thiết kế nhỏ
hơn tổng tốc độ của các đường vào. Nhờ đó số đầu vào tăng hơn so với bộ ghép kênh
TDM có cùng tốc độ.
Trên hình 3.8 mô tả 4 nguồn dữ liệu, và dữ liệu tạo ra trong 4 mốc thời gian t0, t1,
t2, t3.

63
Trong trường hợp TDM đồng bộ, tốc độ trên đường ghép kênh phải bằng bốn lần.
Trong suốt các khoảng thời gian, dữ liệu được lấy tuần tự từ tất cả bốn nguồn và gởi đi.
Ví dụ trong khoảng thời gian thứ nhất, nguồn C và D không có dữ liệu, do đó 2 trong 4
khe thời gian được truyền đi là rổng.
Ngược lại trong kỹ thuật TDM bất đồng bộ không gởi các khe trống đi (vì không
có dữ liệu). Do đó trong khoảng thời gian thứ nhất (frame thứ nhất) chỉ có khe thời gian
của A và B là được gởi đi.
Tuy nhiên ý nghĩa vị trí của các khe thì bị mất, không biết thời gian đầu của nguồn
dữ liệu sẽ ở tại khe nào, vì không biết trước dữ liệu đến từ đâu và được phân phối vào
đâu nên thông tin về địa chỉ phải được sử dụng. Do đó có nhiều overhead trong khe.
Cấu trúc khung được dùng có liên quan đến hoạt động. Rõ ràng cần tối thiểu
overhead để tăng hiệu suất đường truyền. Thông thường, một hệ thống TDM thống kê
sẽ dùng một giao thức như HDLC. Trong khung HDLC, khung dữ liệu phải chứa bit
điều khiển hoạt động ghép kênh. Hình 3.9 trình bày hai dạng khung có thể:
 Dạng 1 chỉ một nguồn dữ liệu bao gồm trong một khung (a). Nguồn này được
nhận dạng bởi một địa chỉ. Chiều dài của vùng dữ liệu thì thay đổi và kết thúc
được đánh dấu bởi mã cuối của toàn bộ khung. Dạng này chỉ hữu hiệu cho tải
nhẹ.
 Dạng 2 cho phép nhiều nguồn trong một khung đơn, nên cần chỉ ra chiều dài cho
mỗi nguồn. Do đó các khung con TDM thống kê bao gồm một tuần tự các vùng
dữ liệu, mỗi tuần tự được xác định bằng một vùng địa chỉ và một vùng chiều dài.

Hình 3.9. Các dạng khung của TDM thống kê


I.6 ƯU ĐIỂM KỸ THUẬT CHUYỂN MẠCH GÓI
Chuyển mạch gói có những ưu điểm mà chuyển mạch kênh không có đối với
dịch vụ truyền dữ liệu, đó là:

64
 Tăng hiệu suất đường truyền do một kết nối node-node có thể dùng chung bởi
nhiều gói và các gói được xếp hàng và truyền đi nhanh nhất có thể
 Chuyển đổi tốc độ dữ liệu. Các trạm đầu cuối có tốc độ khác nhau vẫn có thể
trao đổi dữ liệu với nhau. Mỗi trạm kết nối với node cục bộ bằng tốc độ của
trạm. Các node đệm dữ liệu nếu cần thiết để cân bằng tốc độ
 Các gói được nhận ngay khi mạng đang bận ( Việc phát có thể chậm lại).
 Có thể phân độ ưu tiên cho các thông báo
 Cho phép ứng dụng các thủ tục truyền, các phương pháp phát hiện và sửa lỗi
khác nhau đảm bảo độ tin cậy, tốc độ truyền dữ liệu.
Kỹ thuật chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói được kết hợp sử dụng để tổ
chức mạng truyền dữ liệu đa dịch vụ rất có hiệu quả.
II. KIẾN TRÚC PHÂN TẦNG VÀ MÔ HÌNH OSI
II.1 KIẾN TRÚC PHÂN TẦNG
Để giảm độ phức tạp của việc thiết kế và cài đặt mạng, hầu hết các mạng máy
tính hiện có đều được phân tích thiết kế theo quan điểm phân tầng (layering). Mỗi hệ
thống thành phần của mạng được xem như là một cấu trúc đa tầng, trong đó mỗi tầng
được xây trên tầng trước nó. Số lượng các tầng cũng như tên và chức năng của mỗi tầng
là tùy thuộc vào các nhà thiết kế. Tuy nhiên, trong hầu hết các mạng, mục đích của mỗi
tầng là để cung cấp một số dịch vụ (services) nhất định cho các tầng cao hơn. Hình 3.10
minh họa một kiến trúc phân tầng tổng quát, với giả thiết A và B là hai hệ thống thành
phần của mạng được nối với nhau.

Hình3.10: Minh họa kiến trúc phân tầng tổng quát

65
Nguyên tắc của kiến trúc phân tầng là: mỗi hệ thống trong một mạng đều có cấu
trúc tầng (số lượng tầng, chức năng của mỗi tầng là như nhau). Sau khi đã xác định số
lượng tầng và chức năng mỗi tầng thì công việc quan trọng tiếp theo là định nghĩa mối
quan hệ (giao diện) giữa hai tầng liền kề nhau và mối quan hệ (giao thức) giữa hai tầng
đồng mức ở hai hệ thống kết nối với nhau.
Trong thực tế, dữ liệu không được truyền trực tiếp từ tầng thứ i của hệ thống này
sang tầng thứ i của hệ thống khác (trừ đối với tầng thấp nhất trực tiếp sử dụng đường
truyền vật lý để truyền các chuỗi bit nhị phân từ hệ thống này sang hệ thống khác). Ở
đây quy ước dữ liệu ở bên hệ thống gửi (sender) được truyền sang hệ thống nhận
(receiver) bằng đường truyền vật lý và cứ thế đi ngược lên các tầng trên. Như vậy, giữa
hai hệ thống kết nối với nhau (ví dụ hệ thống A và B như trong hình vẽ) chỉ có ở tầng
thấp nhất mới có liên kết vật lý, còn ở những tầng cao hơn là những liên kết logic (hay
liên kết ảo) được đưa vào để hình thức hóa các hoạt động của tầng mạng thuận tiện cho
việc thiết kế và cài đặt các phần mềm truyền thông.
II.2 MÔ HÌNH OSI (OPEN SYSTEM INTERCONNECTION)
Mô hình kết nối các hệ thống mở OSI là mô hình căn bản về các tiến trình
truyền thông, thiết lập các tiêu chuẩn kiến trúc mạng ở mức Quốc tế, là cơ sở chung để
các hệ thống khác nhau có thể liên kết và truyền thông được với nhau. Mô hình OSI tổ
chức các giao thức truyền thông thành 7 tầng, mỗi một tầng giải quyết một phần hẹp của
tiến trình truyền thông, chia tiến trình truyền thông thành nhiều tầng và trong mỗi tầng
có thể có nhiều giao thức khác nhau thực hiện các nhu cầu truyền thông cụ thể.
II.2.1 NGUYÊN TẮC ĐỊNH NGHĨA CÁC TẦNG TRONG HỆ
THỐNG MỞ

7 Application Application Protocol Tầng Ứng dụng


6 Presentation Presentation Protocol Tầng Trình bày
5 Session Session Protocol Tầng Phiên
4 Transport Transport Protocol Tầng Vận chuyển
3 Network Network Protocol Tầng Mạng
2 Data Link Data Link Protocol Tầng Liên kết
1 Physical Physical Protocol Tầng Vật lý

Đường truyền vật lý

Hình 3.11: Mô hình kết nối các hệ thống mở OSI


Mô hình OSI tuân theo các nguyên tắc phân tầng như sau:

66
- Mô hình gồm N =7 tầng. OSI là hệ thống mở, phải có khả năng kết nối với các hệ
thống khác nhau, tương thích với các chuẩn OSI.
- Quá trình xử lý các ứng dụng được thực hiện trong các hệ thống mở, trong khi vẫn duy
trì được các hoạt động kết nối giữa các hệ thống.
- Thiết lập kênh logic nhằm thực hiện việc trao đổi thông tin giữa các thực thể.
II.2.2 CÁC GIAO THỨC TRONG MÔ HÌNH OSI
Trong mô hình OSI có hai loại giao thức được sử dụng: giao thức hướng liên kết
(Connection - Oriented) và giao thức không liên kết (Connectionless).
Giao thức hướng liên kết: Trước khi truyền dữ liệu, các thực thể đồng tầng
trong hai hệ thống cần phải thiết lập một liên kết logic. Chúng thương lượng với nhau
về tập các tham số sẽ sử dụng trong giai đoạn truyền dữ liệu. Dữ liệu được truyền với
các cơ chế kiểm soát lỗi, kiểm soát luồng dữ liệu, cắt/hợp dữ liệu, nhằm nâng cao độ tin
cậy và hiệu quả của quá trình truyền dữ liệu. Sau khi trao đổi dữ liệu, liên kết sẽ được
hủy bỏ. Thiết lập liên kết logic sẽ nâng cao độ tin cậy và an toàn trong quá trình trao đổi
dữ liệu.
Giao thức không liên kết: Dữ liệu được truyền độc lập trên các tuyến khác
nhau. Với các giao thức không liên kết chỉ có giai đoạn duy nhất truyền dữ liệu.
II.2.3 VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CHỦ YẾU CÁC TẦNG
Vai trò & chức năng tầng ứng dụng (Application Layer): Xác định giao diện
giữa người sử dụng và môi trường OSI. Bao gồm nhiều giao thức ứng dụng cung cấp
các phương tiện cho người sử dụng truy cập vào môi trường mạng và cung cấp các dịch
vụ phân tán. Khi các thực thể ứng dụng AE (Application Entity) được thiết lập, nó sẽ
gọi đến các phần tử dịch vụ ứng dụng ASE (Application Service Element). Mỗi thực thể
ứng dụng có thể gồm một hoặc nhiều các phần tử dịch vụ ứng dụng. Các phần tử dịch
vụ ứng dụng được phối hợp trong môi trường của thực thể ứng dụng thông qua các liên
kết gọi là đối tượng liên kết đơn SAO (Single Association Object). SAO điều khiển việc
truyền thông và cho phép tuần tự hóa các sự kiện truyền thông.
Vai trò & chức năng tầng trình bày (Presentation Layer): Tầng trình bày giải
quyết các vấn đề liên quan đến cú pháp và ngữ nghĩa của thông tin được truyền. Biểu
diễn thông tin người sử dụng phù hợp với thông tin làm việc của mạng và ngược lại.
Thông thường biểu diễn thông tin các ứng dụng nguồn và ứng dụng đích có thể khác
nhau bởi các ứng dụng được chạy trên các hệ thống có thể khác nhau. Tầng trình bày
phải chịu trách nhiệm chuyển đổi dữ liệu gửi đi trên mạng từ một loại biểu diễn này
sang một loại khác. Để đạt được điều đó nó cung cấp một dạng biểu diễn truyền thông
chung cho phép chuyển đổi từ dạng biểu diễn cục bộ sang biểu diễn chung và ngược lại.
Vai trò & chức năng tầng phiên (Session Layer): Tầng phiên cho phép người
sử dụng trên các máy khác nhau thiết lập, duy trì, huỷ bỏ và đồng bộ phiên truyền thông
giữa họ với nhau. Nói cách khác tầng phiên thiết lập "các giao dịch" giữa các thực thể
đầu cuối.

67
Dịch vụ phiên cung cấp một liên kết giữa 2 đầu cuối sử dụng dịch vụ phiên sao
cho trao đổi dữ liệu một cách đồng bộ và khi kết thúc thì giải phóng liên kết. Sử dụng
thẻ bài (Token) để thực hiện truyền dữ liệu, đồng bộ hóa và hủy bỏ liên kết trong các
phương thức truyền đồng thời hay luân phiên. Thiết lập các điểm đồng bộ hóa trong hội
thoại. Khi xẩy ra sự cố có thể khôi phục hội thoại bắt đầu từ một điểm đồng bộ hóa đã
thỏa thuận.
Vai trò & chức năng tầng vận chuyển (Transport Layer): Là tầng cao nhất có
liên quan đến các giao thức trao đổi dữ liệu giữa các hệ thống mở, kiểm soát việc truyền
dữ liệu từ mút tới mút (End- to -End). Thủ tục trong 3 tầng dưới (vật lý, liên kết dữ liệu
và mạng) chỉ phục vụ việc truyền dữ liệu giữa các tầng kề nhau trong từng hệ thống.
Các thực thể đồng tầng hội thoại, thương lượng với nhau trong quá trình truyền dữ liệu.
Tầng vận chuyển thực hiện việc chia các gói tin lớn thành các gói tin nhỏ hơn trước khi
gửi đi và đánh số các gói tin và đảm bảo chúng chuyển theo đúng thứ tự. Là tầng cuối
cùng chịu trách nhiệm về mức độ an toàn trong truyền dữ liệu nên giao thức tầng vận
chuyển phụ thuộc nhiều vào bản chất của tầng mạng. Tầng vận chuyển có thể thực hiện
việc ghép kênh (multiplex) một vài liên kết vào cùng một liên kết nối để giảm giá thành.
Vai trò & chức năng tầng mạng (Network Layer): Thực hiện các chức năng
chọn đường (Routing đi cho các gói tin từ nguồn tới đích có thể trong cùng một mạng
hoặc khác mạng nhau. Đường có thể được cố định, cũng có thể được định nghĩa khi bắt
đầu hội thoại và có thể đường đi là động (Dynamic) có thể thay đổi với từng gói tin tuỳ
theo trạng thái tải tức thời của mạng. Trong mạng kiểu quảng bá (Broadcast) routing rất
đơn giản.
Một chức năng quan trọng khác của tầng mạng là chức năng điều khiển tắc
nghẽn (Congestion Control). Nếu có quá nhiều gói tin cùng lưu chuyển trên cùng một
đường thì có thể xảy ra tình trạng tắc nghẽn. Thực hiện chức năng giao tiếp giữa các
mạng khi các gói tin đi từ mạng này sang mạng khác để tới đích.
Vai trò & chức năng tầng liên kết dữ liệu (Data link Layer): Chức năng chủ
yếu của tầng liên kết dữ liệu là thực hiện thiết lập các liên kết, duy trì và huỷ bỏ các liên
kết dữ liệu. Kiểm soát lỗi và kiểm soát lưu lượng.
Chia thông tin thành các khung thông tin (Frame), truyền các khung tuần tự và
xử lý các thông điệp xác nhận (Acknowledgement Frame) từ bên máy thu gửi về. Tháo
gỡ các khung thành chuỗi bít không cấu trúc chuyển xuống tầng vật lý. Tầng 2 bên thu,
tái tạo chuỗi bít thành các khung thông tin. Đường truyền vật lý có thể gây lỗi, nên tầng
liên kết dữ liệu phải giải quyết vấn đề kiểm soát lỗi, kiểm soát lưồng, kiểm soát lưu
lượng, ngăn không để nút nguồn gây “ ngập lụt” dữ liệu cho bên thu có tốc độ thấp hơn.
Trong các mạng quảng bá, tầng con MAC (Medium Acces Sublayer) điều khiển việc
truy nhập đường truyền.
Vai trò & chức năng tầng Vật lý (Physical layer): Tầng vật lý là tầng thấp nhất
trong mô hình 7 lớp OSI. Các thực thể tầng giao tiếp với nhau qua một đường truyền vật
lý. Tầng vật lý xác định các chức năng, thủ tục về điện, cơ, quang để kích hoạt, duy trì
và giải phóng các kết nối vật lý giữa các hệ thống mạng. Cung cấp các cơ chế về điện,
cơ hàm, thủ tục ...nhằm thực hiện việc kết nối các phần tử của mạng thành một hệ thống

68
bằng các phương pháp vật lý. Đảm bảo cho các yêu cầu về chuyển mạch hoạt động
nhằm tạo ra các đường truyền thực cho các chuỗi bit thông tin. Các chuẩn trong tầng vật
lý là các chuẩn xác định giao diện người sử dụng và môi trường mạng. Các giao thức
tầng vật lý có hai loại truyền dị bộ (Asynchronous) và truyền đồng bộ (Synchronous).
Tóm tắt chức năng các tầng như sau:

Tầng Chức năng chủ yếu Giao thức

7 – Application Giao tiếp người và môi trường mạng Ứng dụng

Chuyển đổi cú pháp dữ liệu để đáp ứng yêu cầu Giao thức
6 – Presentation
truyền thông của các ứng dụng biến đổi mã

Quản lý các cuộc liên lạc giữa các thực thể bằng Giao thức
5 – Session cách thiết lập, duy trì, đồng bộ hóa và hủy bỏ các
phiên truyền thông giữa các ứng dụng. phiên

Vận chuyển thông tin giữa các máy chủ (End-to-


Giao thức
4 – Transport End)
vận chuyển
Kiểm soát lỗi và luồng dữ liệu

Thực hiện chọn đường và đảm bảo trao đổi thông tin Giao thức
3 – Network trong liên mạng với công nghệ chuyển mạch thích
hợp. mạng

Tạo/gỡ bó khung thông tin (Frames), kiểm soát Thủ tục


2 – Data Link
luồng và kiểm soát lỗi. kiểm soát

Đảm bảo các yêu cầu truyền/nhận các chuỗi bit qua Giao diện
1 – Physical
các phương tiện vật lý. DTE-DCE

III. CÔNG NGHỆ X.25

Hình 3.12: Vị trí của giao thức X.25


Chuyển mạch gói X.25 hiện nay đang được sử dụng phổ biến trong các mạng
chuyển mạch gói công cộng. X.25 là một giao thức cho phép các thiết bị đầu cuối DTE
giao tiếp với mạng chuyển mạch gói bằng các thiết bị kêt cuối mạch dữ liệu DCE (ví dụ

69
card mạng LAN trong máy tính). Giao thức này cho phép các thiết bị đầu cuối hoạt
động theo phương thức gói trong mạng chuyển mạch gói.
X.25 là một giao thức thực thi giao tiếp DTE/DCE, rộng hơn có thể xem X.25
như một giao thức hoạt động theo chế độ tạo cầu giữa hai đầu cuối DTE qua mạng
chuyển mạch gói. Khuyến nghị X25 của CCITT được phân chia vào ba lớp dưới cùng
trong mô hình hệ thống mở OSI.

User To remote
process user process

Packet Packet
Multi-channel logical interface

Link Link
access access
Lap-B link-level logical interface

Physical Physical
X.21 physical interface

DTE DCE
X.25 Interface
Hình3.13 : Các lớp giao thức X.25
III.1 GIAO THỨC X.25 LỚP VẬT LÝ – PHYSICAL
Theo mô hình OSI, lớp vật lý là các chuẩn giao tiếp về cơ và điện. Chức năng
của lớp vật lý là cung cấp một tuyến nối để truyền luồng bit giữa các cặp nút hoặc giữa
một thiết bị bên ngoài với một nút qua mạng. Do đó phải có một khối giao tiếp vật lý tại
mỗi đầu của đường truyền thực hiện chức năng biến đổi luồng bit từ lớp cao hơn (tức là
lớp liên kết dữ liệu) thành các tín hiệu phù hợp với đường truyền. Ở phía thu, khối giao
tiếp này biến đổi ngược lại các tín hiệu đó thành luồng bit.
Khối giao tiếp vật lý thực hiện chức năng biến đổi này thường gọi là modem
(modulation – demodulation: điều chế và giải điều chế). Ở đây thuật ngữ modem được
dùng để chỉ bất kỳ khối nào thực hiện chức năng trên mặc dù nó có thể không thực hiện
bất kỳ sự điều chế nào như tên gọi của nó. Các loại modem khác nhau được thiết kế cho
các đường truyền khác nhau. Tuy nhiên đối với các lớp cao hơn, một “hộp đen” tạo bởi
modem – kênh truyền – modem sẽ đóng vai trò như một “ống dẫn bit” trong đó sự phức
tạp của tuyến nối vật lý được che đi. Ta cũng thấy rằng việc nối một DTE tới một nút
phải dùng hai khối giao tiếp vật lý hay hai modem (cũng chính là hai DCE).

70
Liên quan đến các mạch trong giao tiếp DTE/DCE, xác định các thành phần thuộc
tín hiệu điện và các chuẩn đấu nối. Cho phép hai chuẩn giao tiếp tiêu biểu là X21 và
X21bis. X21 quy định về giao tiếp vật lý giữa DTE và DCE thực hiện đồng bộ trên các
mạng số liệu công cộng, các thiết bị này được thiết kế để giao tiếp với các modem đồng
bộ họ V, X21bis tương đương với X21 nhưng chỉ khác ở chỗ nó qui định việc sử dụng
các giao tiếp nối tiếp họ V để sử dụng cùng với mạng số liệu công cộng.
III.2 GIAO THỨC X.25 LỚP LIÊN KẾT – DATA LINK
Mô tả dòng số liệu giữa hai điểm trong mạng (các thủ tục đường dây), thực chất
của lớp này là cung cấp một tuyến thông tin có thủ tục điều khiển luồng dữ liệu, hạn chế
lỗi giữa hai đầu cuối. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các lớp cao hơn làm việc mà
không quản ngại về sai lạc số liệu. Giao thức lớp liên kết này dùng một số khía cạnh từ
giao thức HDLC (giao thức điều khiển số liệu cấp cao)
Có hai loại giao thức X.25 lớp hai là LAP (thể thức xâm nhập tuyến) và LAPB
(thể thức xâm nhập tuyến cân bằng). LAPB hoàn thiện hơn LAP một ít và là loại mà
hầu hết các mạng đều sử dụng.
III.3 GIAO THỨC X.25 LỚP MẠNG – NETWORK
Mô tả việc gán địa chỉ và đóng gói thông tin. Các chức năng của X.25 tại mức ba
có thể được tóm tắt như sau:
 Ghép các đường thông tin một kênh thành một số kênh logic
 Kiểm tra dòng số liệu và xử lý lỗi.
 Đánh số các gói.
 Các chức năng dừng.
 Các cuộc gọi ảo giữa các DTE.
 Nối mạch ảo cố định.
 Nối mạch ảo có gán địa chỉ điểm nối điểm.
 Trao đổi thông tin có tính đến kích cỡ gói giữa DTE.
X.25 mức 3 trên thực tế định nghĩa là một giao thức giữa một DCE và một DTE
đấu nối trực tiếp qua một tuyến thông tin. DTE có thể như là một PAD còn DCE có thể
là thiết bị chuyển mạch gói X.25. Có thể có nhiều loại mạng khác nhau đang được sử
dụng để cung cấp tuyến nối giữa hai DXE. Thế nhưng điều quan trọng là giao thức lớp
mạng giữa DTE và DCE phải giữ giống nhau dù mạng truyền thuộc loại nào gồm cả
tuyến truyền giữa DXE nội hạt và DXE ở xa.
X.25 cấp 2 tạo ra phương thức để chuyển lên giao thức cấp cao hơn (trong các
khung tin) giữa hai đầu cuối của một liên kết thông tin nhằm đảm bảo tính chuẩn xác.
Đơn vị số liệu ở lớp ba là gói tin.

71
IV. CÔNG NGHỆ FRAME RELAY
IV.1 GIỚI THIỆU CHUNG
IV.1.1 ĐẶC ĐIỂM
Bước sang thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, công nghệ thông tin có những bước
tiến nhảy vọt đặc biệt là chế tạo và sử dụng cáp quang vào mạng truyền dẫn tạo nên chất
lượng thông tin rất cao. Sử dụng thủ tục hỏi đáp X25 để truyền đưa số liệu trên mạng
cáp quang, câu trả lời hầu như lúc nào cũng nhận tốt nhận đủ. Vấn đề đặt ra ở đây là có
cần dùng thủ tục Hỏi và Đáp mất rất nhiều thời gian của X25 để truyền đưa số liệu trên
mạng cáp quang hay không? và thế là công nghệ Frame Relay ra đời. Frame relay có thể
chuyển nhận các khung lớn tới 4096 byte trong khi đó gói tiêu chuẩn của X25 khuyến
cáo dùng là 128 byte, không cần thời gian cho việc hỏi đáp, phát hiện lỗi và sửa lỗi ở
lớp 3 (No protocol at Network layer) nên Frame Relay có khả năng chuyển tải nhanh
hơn hàng chục lần so với X25 ở cùng tốc độ. Frame Relay rất thích hợp cho tryền số
liệu tốc độ cao và cho kết nối LAN to LAN và cả cho âm thanh, nhưng điều kiện tiên
quyết để sử dụng công nghệ Frame relay là chất lượng mạng truyền dẫn phải cao.
IV.1.2 CẤU HÌNH CHUNG MẠNG FRAME RELAY

Hình 3.14: Mạng Frame Relay


Cơ sở để tạo được mạng Frame relay là các thiết bị truy nhập mạng FRAD
(Frame Relay Access Device), các thiết bị mạng FRND (Frame Relay Network Device),
đường nối giữa các thiết bị và mạng trục Frame Relay. Hình vẽ 1.
Thiết bị FRAD có thể là các LAN bridge, LAN Router v.v... Thiết bị FRND có
thể là các Tổng đài chuyển mạch khung (Frame) hay tổng đài chuyển mạch tế bào (Cell
Relay - chuyển tải tổng hợp các tế bào của các dịch vụ khác nhau như âm thanh, truyền
số liệu, video v.v..., mỗi tế bào độ dài 53 byte, đây là phương thức của công nghệ
ATM). Đường kết nối giữa các thiết bị là giao diện chung cho FRAD và FRND, giao
thức người dùng và mạng hay gọi F.R UNI (Frame Relay User Network Interface).
Mạng trục Frame Relay cũng tương tự như các mạng viễn thông khác có nhiều tổng đài
kết nối với nhau trên mạng truyền dẫn, theo thủ tục riêng của mình. Trong OSI 7 lớp,
lớp 3 - lớp network, Frame Relaykhông dùng thủ tục gì cả (Transparent).

72
IV.1.3 HOẠT ĐỘNG
Người sử dụng gửi một Frame (khung) đi với giao thức LAP-D hay LAP-F
(Link Access Protocol D hay F), chứa thông tin về nơi đến và thông tin người sử dụng,
hệ thống sẽ dùng thông tin này để định tuyến trên mạng. Công nghệ Frame Relay có
một ưu điểm đặc trưng rất lớn là cho phép người sử dụng dùng tốc độ cao hơn mức họ
đăng ký trong một khoảng thời gian nhất định, có nghĩa là Frame Relay không cố định
độ rộng băng (Bandwith) cho từng cuộc gọi một mà phân phối bandwith một cách linh
hoạt điều mà X25 và thuê kênh riêng không có. Ví dụ người sử dụng ký hợp đồng sử
dụng với tốc độ 64 kb, khi họ chuyển đi một lượng thông tin quá lớn, Frame Relay cho
phép truyền chúng ở tốc độ cao hơn 64 kb. Hiện tượng này được gọi là "bùng nổ" -
Bursting.
Thực tế trên mạng lưới rộng lớn có rất nhiều người sử dụng với vô số frame
chuyển qua chuyển lại, hơn nữa Frame Relay không sử dụng thủ tục sửa lỗi và điều
hành thông lượng (Flow control) ở lớp 3 (Network layer), nên các Frame có lỗi đều bị
loại bỏ thì vấn đề các frame được chuyển đi đúng địa chỉ, nguyên vẹn, nhanh chóng và
không bị thừa bị thiếu là không đơn giản. Để đảm bảo được điều này Frame relay sử
dụng một số nghi thức sau.
(1) DLCI (Data link connection identifier) - Nhận dạng đường nối data.
Cũng như X25, trên một đường nối vật lý frame relay có thể có rất nhiều các
đường nối ảo, mỗi một đối tác liên lạc được phân một đường nối ảo riêng để tránh bị
lẫn, được gọi tắt là DLCI.
(2) CIR ( committed information rate ) - Tốc độ cam kết.
Đây là tốc độ khách hàng đặt mua và mạng lưới phải cam kết thường xuyên đạt
được tốc độ này.
(3) CBIR ( Committed burst information rate ) - Tốc độ cam kết khi bùng nổ thông tin.
Khi có lượng tin truyền quá lớn, mạng lưới vẫn cho phép khách hàng truyền quá
tốc độ cam kết CIR tại tốc độ CBIR trong một khoảng thời gian (Tc) rất ngắn vài ba
giây một đợt, điều này tuỳ thuộc vào độ "nghẽn" của mạng cũng như CIR.
(4) DE bit ( Discard Eligibility bit ) - Bit đánh dấu Frame có khả năng bị loại bỏ.
Về lý mà nói nếu chuyển các Frame vượt quá tốc độ cam kết, thì những Frame
đó sẽ bị loại bỏ và bit DE được sử dụng. Tuy nhiên có thể chuyển các frame đi với tốc
độ lớn hơn CIR hay thậm chí hơn cả CBIR tuỳ thuộc vào trạng thái của mạng Frame
relay lúc đó có độ nghẽn ít hay nhiều (Thực chất của khả năng này là mượn độ rộng
băng "Bandwith" của những người sử dụng khác khi họ chưa dùng đến). Nếu độ nghẽn
của mạng càng nhiều (khi nhiều người cùng làm việc) thì khả năng rủi ro bị loại bỏ của
các Frame càng lớn. Khi Frame bị loại bỏ, thiết bị đầu cuối phải phát lại.
Do mạng Frame relay không có thủ tục điều hành thông lượng (Flow control)
nên độ nghẽn mạng sẽ không kiểm soát được, vì vậy công nghệ Frame relay sử dụng hai
phương pháp sau để giảm độ nghẽn và số frame bị loại bỏ.
(1) Sử dụng FECN (Forward explicit congestion notification):

73
Thông báo độ nghẽn cho phía thu và BECN (Backward Explicit Congestion
Notification) Thông báo độ nghẽn về phía phát. Thực chất của phương pháp này để
giảm tốc độ phát khi mạng lưới có quá nhiều người sử dụng cùng lúc.

Hình 3.15. Nguyên lý sử dụng FECN và BECN


(2) Sử dụng LMI (Local Manegment Interface): để thông báo trạng thái nghẽn
mạng cho các thiết bị đầu cuối biết. LMI là chương trình điều khiển giám sát đoạn kết
nối giữa FRAD và FRND.
IV.2 CẤU TRÚC KHUNG CỦA FRAME RELAY
IV.2.1 CẤU TRÚC CHUNG
Cấu trúc khung của Frame Relay (Hình vẽ 3.16) hoàn toàn tương tự như X25 chỉ
khác là khung này có trường địa chỉ A dài hơn (2byte) và không có trường lệnh C vì ở
Frame relay không có thủ tục hỏi đáp. Tuy nhiên trên thực tế không có một cuộc nối
nào hoàn hảo tới mức tuyệt đối, thu phát không có một lỗi nhỏ, vì vậy vẫn phải cần tới
trường FCS để phân tích được các Frame có lỗi cũng như theo dõi được số thứ tự của
chúng.

Hình vẽ 3.16: Cấu trúc khung của Frame relay


Cấu trúc khung của Frame Relay (Hình vẽ 3) hoàn toàn tương tự như X25 chỉ
khác là khung này có trường địa chỉ A dài hơn (2byte) và không có trường lệnh C vì ở
Frame relay không có thủ tục hỏi đáp. Tuy nhiên trên thực tế không có một cuộc nối
nào hoàn hảo tới mức tuyệt đối, thu phát không có một lỗi nhỏ, vì vậy vẫn phải cần tới
trường FCS để phân tích được các Frame có lỗi cũng như theo dõi được số thứ tự của
chúng.
Cấu trúc của một khung có các phần sau:
(1) 1 byte dành cho cờ F (flag) dẫn đầu.
(2) 2 byte địa chỉ A (adress) để biết khung chuyển tới đâu .
(3) Trường I (Information) dành cho dữ liệu thông tin có nhiều byte .
(4) 2 byte cho việc kiểm tra khung - FCS (Frame Check Sequence) để phân tích
và biết được các gói thiếu, đủ, đúng, sai trên cơ sở đó trả lời cho phía phát biết.

74
(5) Và cuối cùng là 1 byte cờ F để kết thúc.
Như vậy cấu trúc khung của Frame Relay và gói X25 cơ bản giống nhau đều có
cờ đi trước mở đường và kết thúc để bảo vệ cho dữ liệu thông tin đi giữa.
IV.2.2 CHI TIẾT CỦA MỘT KHUNG
(1) Byte thứ nhất và byte cuối cùng: Flag - cờ luôn có giá trị 01111110. Thể hiện theo
mã Hexal là 7E.
(2) 2 byte tiếp dành cho địa chỉ. Trong đó.
a/ Byte thứ 2 bao gồm:
Bit1 - EA: Extended Address. Khi khách hàng dùng nhiều cần mở rộng thêm địa
chỉ có nghĩa là tăng số DLCI thì dùng bit mở rộng địa chỉ EA. Bình thường như hình vẽ
4 giới thiệu đây thì giá trị EA của byte 2 là 0 và EA của byte 3 là 1. Nếu mở rộng như
hình vẽ 5 thì EA sẽ là 0, 0, 1 theo thứ tự trên xuống.
Bit2 - C/R - Command/ respond. Bit này tương tự như thủ tục X25 dùng để hỏi
và đáp, nhưng mạng Frame Relay không dùng mà chỉ dành cho các thiết bị đầu cuối
(FRAD) sử dụng mỗi khi cần trao đổi thông tin cho nhau, Bit C/R do FRAD đặt giá trị
và được giữ nguyên khi truyền qua mạng.
bit 8 7 6 5 4 3 2 1
byte
1 FLAG 1 byte cờ

2 DLCI (6 bit) C/R EA


2 byte địa chỉ
3 DLCI (4 bit) FECN BECN DE EA

Trường thông tin


I
(độ dài thay đổi)

FCS
2 byte FCS
FCS

FLAG 1 byte cờ

Hình vẽ 3.17. Chi tiết cấu trúc khung Frame relay

75
Từ bit3 đến bit8 - DLCI ở byte thứ 2 có 6 bit và ở byte thứ 3 có 4 bit tổng cộng
10 bit để nhận dạng đường nối data nói cách khác là địa chỉ nơi nhận, 10 bit có thể nhận
dạng tới 1024 địa chỉ. Khi các đường kết nối ảo DLCI phát triển thêm chúng ta có thể
dùng 3 byte địa chỉ như hình vẽ 3.18, lúc này sẽ có 16 bit địa chỉ tương đương 65536
địa chỉ. Tương tự chúng ta có thể dùng 4 byte địa chỉ.

Hình vẽ 3.18. Trường hợp mở rộng 3 byte địa chỉ.


b/ Byte thứ 3.
Bit 1 - bit EA.
Bit 2 - bit DE. Bít đánh dấu các Frame mà mạng lưới, thiết bị có quyền loại bỏ
nó nếu như độ nghẽn của mạng cao. Mạng lưới hoặc FRAD sẽ đặt bit DE = 1 cho các
Frame phát đi với tốc độ cao hơn tốc độ khách hàng đăng ký (CIR) mà mạng phải cam
kết đảm bảo. Tuy nhiên các khung Frame này vẫn được chuyển đi bình thường tới
người nhận nếu độ nghẽn mạng thấp, nhưng nếu độ nghẽn mạng cao thì những Frame
có DE = 1 này sẽ bị loại bỏ trước tiên. Bình thường bit DE = 0. (Hình vẽ 3.19).

Hình vẽ 3.19 : Minh hoạ cho bit DE

76
Bc: (Committed Burst Size): Là số lượng dữ liệu data tối đa mạng lưới
chấp nhận truyền đi trong các khoảng thời gian Tc .
Tc: (Committed Rate Measurement Interval): Tc = Bc/CIR là khoảng
thời gian mà FRAD cho phép gửi Bc và thậm chí cả Be.
Be: (Exess Burst Size): Là số lượng dữ liệu data tối đa mà mạng không
đảm bảo truyền tốt nhưng vẫn truyền thử xem.
Bit 3 - Bit BECN.
Bit 4 - Bit FECN.
Hai bit này do mạng lưới đặt cho từng cuộc nối một (Từng DLCI) báo cho các
FRAD biết để điều hành thông lượng. Khi bị nghẽn các bit này được đặt = 1 theo 4
trường hợp sau đây:

Hướng đi FECN BECN Ghi chú

A đến B 0 0 Không nghẽn


1
B đến A 0 0 Không nghẽn

A đến B 1 0 Nghẽn
2
B đến A 0 1 Không nghẽn

A đến B 0 1 Không nghẽn


3
B đến A 1 0 Nghẽn

A đến B 1 1 Nghẽn
4
B đến A 1 1 Nghẽn

Bit 5 đến bit 8 - Dành cho DLCI.


(3) Trường thông tin I.
Trường thông tin của một Frame có thể thay đổi độ dài nhưng đều chứa hai loại thông
tin chính đó là thông tin dữ liệu của người dùng (Application Data hay User Data) và
thông tin về giao thức từng lớp sử dụng PCI (Protocol Control Information) để thông
báo cho lớp tương ứng của bên nhận biết. (Hình vẽ 3.20)

77
bit 8 7 6 5 4 3 2 1
byte
1 FLAG 1 byte cờ

2 DLCI (6 bit) C/R EA


2 byte địa chỉ
3 DLCI (4 bit) FECN BECN DE EA

USER PCI PCI PCI Trường thông tin


DATA lớp 1 lớp 1 lớp 1 (độ dài thay đổi)

FCS
2 byte FCS
FCS

FLAG 1 byte cờ

Hình vẽ 3.20 : Trường thông tin I trong cấu trúc khung .


(4) Hai Byte kiểm tra khung - FCS (Frame Check Sequence).
Hai byte 16 bit để kiểm tra khung (FCS) đi sát với trường thông tin phần user
data thực chất là kết quả của kiểm tra độ dư theo chu kỳ - CRC (Cyclic Redundacy
Check).
CRC nói chung là một giá trị được tính toán theo một phương pháp riêng phụ
thuộc vào tổng số byte của một khối dữ liệu (Block of data), giá trị này sẽ được bên phát
gửi sang bên phía thu, bên thu cũng đếm lại và so sánh với giá trị bên phát gửi sang, nếu
hai giá trị như nhau có nghĩa là dữ liệu truyền đi tốt, nếu khác nhau là có lỗi.
Đối với Frame relay CRC kiểm tra từ bit thứ nhất của trường địa chỉ cho tới bit
cuối cùng trường thông tin. FCS được FRAD phát đếm và FRAD đầu thu đếm lại (Các
FRND cũng đếm) như hình vẽ 8. Phát hiện FCS sai ở đâu thì Frame bị huỷ tại đó.

78
Hình vẽ 3.21: Kiểm tra lỗi các khung gửi đi bằng FCS
IV.3 FRAME RELAY VÀ MÔ HÌNH OSI 7 LỚP
Trong mẫu 7 lớp của OSI (Open System Interconnection) X25 và Frame Relay
có mặt ở 3 lớp dưới..
Tương tự như DTE (Data Terminal Equipment) và DCE (Data Circuit
Equipment) cuả X25, ở Frame Relay gọi FRAD (Frame Relay Access Device) và
FRND (Frame Relay Network Device).
IV.3.1 LỚP VẬT LÝ – PHYSICAL LAYER
Lớp 1 của Frame relay cũng định nghĩa giao diện vật lý, điện lý dùng chung giữa
FRAD và FRND, Frame relay dùng ở tốc độ cao nên vẫn hay dùng giao diện V35.
IV.3.2 LỚP KẾT NỐI - LINK LAYER
Lớp này định nghĩa thể lệ và thủ tục kết nối liên lạc, được coi như LAP (Link
Access Protocol). Frame Relay hiện tại đang dùng 2 loại LAP là:
- LAP-D là giao thức cơ bản của lớp 2 của ISDN - D channel , nó cũng được dùng
cho Frame relay để chuyển tải thông tin theo tiêu chuẩn CCITT I.441/Q821.
- LAP-F. Giao thức của Frame relay cải tiến từ LAP-D do tiêu chuẩn Q922 định
nghĩa và được sử dụng nhiều hơn (Cấu trúc khung nêu ở trên theo LAP-F).
Lớp 2 của Frame Relay chia thành 2 lớp chức năng là Core Funtion và Upper
Function, chức năng của lớp 2 cũng đảm bảo thủ tục kết nối LAP-F:
- Core function: Kiểm soát để các Frame không bị đúp hay mất, kiểm tra độ dài của
một khung, phân tích lỗi truyền dẫn qua FCS, điều khiển nghẽn qua FENC/BECN.
- Upper function: Điều khiển DLCI (Data Link Connection Identification) định nghĩa
đường nối Logic giữa FRAD và FRND.

79
Hình vẽ 3.22 . Frame relay trong OSI 7 lớp .
IV.3.3 LỚP MẠNG – NETWORK LAYER
Lớp 3 không có thủ tục gì vì vậy nó nhanh hơn nhiều so với X25 hay SNA.
Lớp mạng định nghĩa các khung dữ liệu chuyển dịch như thế nào giữa các hệ
thống, đảm bảo định tuyến trong một mạng hay giữa các mạng với nhau.
Giao thức kết nối 2 mạng X25 là X75 còn giao thức kết nối giữa 2 mạng Frame
relay là NNI - Network to Network Interface (Hình vẽ 3.23)

Hình vẽ 3.23: Giao diện kết nối hai mạng Frame Relay
V. CÔNG NGHỆ ATM
V.1 GIỚI THIỆU CHUNG
ATM là phương thức truyền tải mang đặt tính của chuyển mạch gói, sử dụng kỹ
thuật ghép kênh chia thời gian không đồng bộ,bằng việc ghép các luồng tính hiệu vào

80
các khối có kích thước cố định, gọi là tế bào .Tế bào gồm có trường thông tin mang
thông tin của khách hàng và mào đầu mang thông tin về mạng, ví dụ thông tin về định
tuyến . Vì trên cùng một đường truyền, có hể có nhiều tế bào từ các nguồn tín hiệu ghép
lại với nhau nên cần phải có biện pháp phân biệt các tế bào cùng chung một nguồn tín
hiệu , biện pháp này được thực hiện bằng thông tin được mang trong mào đầu tế bào.
Luồng thông tin được biểu diển như sau:

ATM là kỹ thuật có tính chất kết nối, mà trong đó đường truyền được thiết lập
trước khi khách hàng trôi đổi thông tin với nhau. Điều này được thực hiện bởi thủ tục
thiết lập kết nối tại thời điểm bắt đầu và thủ tục giải phóng cuộc gọi tại thời điểm kết
thúc .thủ tục kết nối sử dụng giao thức báo hiệu đối với các kết nối theo yêu cầu và một
số phương thức khác .ví dụ như thủ tục quản lý mạng đối với các kết nối bán cố định và
cố định.
V.2 MÔ HÌNH ATM VÀ MẠNG ATM
V.2.1 MÔ HÌNH THAM CHIẾU GIAO THỨC
Mô hình tham chiếu giao thức mạng B-ISDN như sau:

Chức năng của các mảng:


* Mảng khách hàng: truyền tải thông tin cho khách hàng
* Mảng điều khiển: dùng cho các chức năng điều cuộc gọi và điều khiển kết nối. Hai
mảng này được cấu thành các lớp. Ba lớp phía dưới là các lớp : lớp vật lý, lớp ATM và
lớp tương thích (AAL ), lớp bậc cao. Chức năng của các lớp đó như sau:

81
+ Lớp vật lý: liên quan đến việc truyền tải thông tin dưới dạng bit và tế bào.
+ Lớp ATM: xử lý các tế bào như chuyển mạch , định tuyến,, ghép kênh , phân
kênh.
+ Lớp tương thích AAL: thực hiện các chức năng phụ thuộc dịch vụ ,thực liên
kết lớp AAL với các lớp bậc cao.
+ Lớp bậc cao: gồm các chức năng không có ở lớp phía dưới , về nguyên tắc có
thể là bất cứ một chức năng nào khác.
* Mảng quản lý: cung cấp các chức năng về giám sát mạng . Quản lý được chia thành
quản lý mảng và quản lý lớp:
+ Quản lý mảng: thực hiện các chức năng quản lý toàn hệ thống và phối hợp các
mảng với nhau.
+ Quản lý lớp thực hiện các chức năng liên quan tới nguồn thông tin và các
thông số của thực thể giao thức tại mỗi lớp.
1. Lớp ATM
Đây là lớp đóng vai trò quang trọng nhất liên quan tới việc truyền tải thông tin
qua mạng ATM. Phương thức truyền tải ATM là sử dụng các kết nối ảo và các kết nối
ảo này được chia làm hai mức : đường ảo VP và kênh bảo VC và đây cũnglà đặc tính
quang trọng nhất của ATM. Lớp ATM có các chức năng chính sau:
 Ghép và tách tế bào :
Tại phần phát, chức năng ghép tế bào thực hiện tổ hợp các tề bào từ các đường
ảo VP và các kênh ảo VC khác nhau thành một luồng tế bào. Tại phần thu, chức năng
tách tế bào thực hiện phân chia các tế bào về các đường ảo và kênh ảo thích hợp.
 Tạo và tách mào đầu tế bào :
Chức năng này được thực tại những điểm có kết cuối của lớp ATM. Tại phần
phát, chức năng tạo mào đầu tế bào sau khi nhận trường thông tin tế bào từ lớp AAL sẽ
tạo ra mào đầu tế bào tương thích , trừ giá trị điều khiển lổi mào đầu (HEC) được tính
toán và chèn vào ở lớp vật lý . Mào đầu kết hợp với trường thông tin thành tế bào ATM.
Tại phần thu , chức năng tách mào tế bào thực hiện tách mào đầu tế bào ra khỏi tế bào
ATM và gởi trường thông tin cho lớp AAL.
 Điều khiển luồng chung ( GFC )
Chức năng này chỉ có tại giao diện khách hàng - mạng UNI, phục vụ điều khiển
luồng tín hiệu từ khách hàng vào mạng. Chức năng này giúp khách hàng có thể gia vào
việc điều khiển lưu lượng phụ thuộc vào các loại chất lượng dịch vụ (QoS) khác nhau
theo hướng khách hàng về phía mạng nhưng không tham gia được theo hướng mạng về
phía khách hàng.
Thông tin GFC không được truyền tải qua các thành phần mạng , đối với mạng
riêng của khách hàng, GFC có thể được dùng nhằm phân chia dung lượng giữa các thiết
bị đầu cuối và đã được áp dụng trong các mạng LAN sử dụng công nghệ ATM.

82
2. Lớp tương thích ATM – ALL
(a) Nguyên lý chung
Lớp tương thích AAL có nhiệm vụ tạo ra sự tương thích giữa các dịch vụ được
cung cấp bởi lớp ATM với các lớp cao hơn thông qua lớp tương thích AAL,thì các đơn
vị số liệu giao thức PDU (Protocol data Unit) ở các lớp cao hơn sẽ được chia nhỏ ra và
đưa vào trường dữ liệu của tế bào ATM .
Lớp AAL chỉ có ở mặt phẳng điều khiển chứ không có ở mặt phẳng người sử
dụng vì nút mạng không thực hiện chức năng AAL đối với thông tin người sử dụng.
Chức năng này chỉ thực hiện tại thiết bị đầu cuối.
AAL hổ trợ cho nhiều loại ứng dụng lkhác cho phép ánh xạ bất kỳ một cấu trúc
dữ liệu của trình ứng dụng thành khuôn dạng của tế bào ATM .
AAL được chia thành hai lớp con CS (convergence sublayer) và SAR
(segmentation and reassembly). Lớp con CS lại được chia thành SSCS (service specific
CS- phần phụ thuộc dịch vụ ) và CPCS ( common part CS –phần chung ).
Để đơn giản hoá các loại thủ tục ITU-T đã sắp xếp các kiểu dịch vụ thành 4 lớp
A,B,C,D.Việc chia đó chủ yếu dựa vào ba thuộc tính dịch vụ :
- Quan hệ đồng bộ giữa đầu phát và đầu thu.
- Tốc độ bit
- Loại dịch vụ

Có 5 loại AAL khác nhau được đánh số từ 1 đến 5 tuy nhiên xét về mặt chức
năng thì AAL-3 và AAL-4 giống nhau nên được ghép chung thành AAL ¾ .Như vậy
chức năng tổng quát của AAL là:
 Phân đoạn và tái toạ dữ liệu
 Xử lý trì hoãn
 Xử lý mất hoặc chèn sai tế bào
 Khôi phục tần số phát
 Khôi phục các cấu trúc dữ liệu
 Kiểm tra và xử lý lỗi trên thông tin điều khiển AAL
 Kiểm tra và xử lý lỗi dữ liệu

83
(b) Phân loại AAL
AAL-1:
AAL-1 sử dụng các loại dịch vụ loại A, có tốc độ bit cố định , AAL-1 cung cấp
các loại dịch vụ sau đây cho khách hàng sử dụng AAL là lớp bậc cao ( dịch vụ loại A là
nó phục vụ dịch vụ yêu cầu về thời gian thực ,tốc truyền không thay đổi,kiểu truyền
hướng liên kết,các dịch vụ loại này thường là tiếng nói và tín hiệu Video có tốc độ
không đổi ):
• Truyền tải và phân phát các khối SDU với tốc độ bit cố định
• Truyền tải các thông tin về nhịp giữa phần phát và phần thu
• Truyền tải cấu trúc thông tin giữa phần phát và phần thu
• Khi cần thiết chỉ thị các thông tin bị mất hoặc lỗi mà AAL-1 không có khả
năng sửa lỗi.
Ngoài ra AAL-1 có thể thực hiện một số chức năng liên quan tới các dịch vụ
được lớp ATM cung cấp như:
• Phân tách và tái tạo các thông tin khách hàng
• Xử lý độ trễ tế bào
• Xử lý tổ hợp thông tin tải tế bào
• Xử lý các tế bào mất và nhầm địa chỉ
• Taí tạo nhịp phát tại phần thu
• Tái tạo cấu trúc thông tin số liệu phát tại phần thu
• Kiểm tra và xử lý thông tin điều khiển giao thức AAL (PCI) dùng cho các lỗi
bit
• Kiểm tra và có thể xử lý các lỗi bit của trường thông tin
Cấu trúc lớp con SAR-PDU như sau :

84
SAR có nhiệm vụ gắn một octet header vào 47 octet nhận được từ CS và tách
octet header từ 48 octet chuyển lên từ lớp ATM.
Trường số thứ tự SN dùng để đánh số thứ tự cá khối SAR-PDU , gồm 4 bit . Bit
hứ nhất chỉ thị lớp phụ hội tụ CSI ,có giá trị ngầm định là 0 . Bit CSI còn được sử dụng
liên quan tới khái niệm tái tạo xung nhịp, 3 bit tiếp theo là cá bit chỉ thị thứ tự tế bào
dùng để phát hiện tế bào mất hoặc chỉ thị chèn nhầm.
Trường bảo vệ số thứ tự SNP dùng để bảo vệ trường SN. Trường này cũng được
chia thành nhóm 3 bit và 1 bit. Nhóm 3 bit hình thành một hợp CRC, có tác dụng sửa
một bit lổi và phát hiện hai bit lỗi. Bit cuối cùng dùng để kiểm tra thuộc tính chẵn lẻ.
Trong trường hợp không có bit lỗi hoặc có một bit lổi và đã được sửa, trường SN được
gửi cho mức CS và sẽ được tiếp tục xử lý phụ thuộc vào loại ứng dụng. Hiện có 4 loại
ứng dụng được định nghĩa là:
- Truyền tải mạch dùng cho hai loại mạch đồng bộ và không đồng bộ
- Truyền tải tín hiệu Video dùng cho các loại dịch tương hỗ và phân phối
- Truyền tải tín hiệu thoại
- Truyền tải tín hiệu âm thanh chất lượng cao
AAL-2:
AAL-2 sử dụng cho các loại dịch vụ loại B, có tốc độ bit thay đổi ví dụ các dịch
vụ nén âm thanh và hình ảnh .Hiện nay các tiêu chuẩn về AAL-2 vẫn chưa được ITU
hoàn thiện. Cấu trúc số liệu của SAR của AAL2 có thể gồm SN,IT,LI,và CRC . Tuy
nhiên kích thước của các trường này vẫn chưa xác định một cách chắc chắn. Chức năng
của SN và CRC củng giống như ở AAL-1 , LI chỉ thị phần tế bào được lấp đầy, IT dùng
để phân biệt loại hình dịch vụ . Các dịch vụ AAL-2 có thể cung cấp cho lớp bậc cao là :
• Truyền tải các SDU với tốc độ biến đổi
• Truyền tải thông tin nhịp giữa nguồn và đích
• Chỉ thị thông tin bị mất và lổi mà AAL-2 không có khả năng phục hồi .
AAL-3/4:
AAL-3 được thiết kế cho các dịch vụ loại C ( loại C là loại không yêu cầu thời
gian thực, tốc độ truyền thay đổi phương pháp truyền hướng liên kết.Nó phục vụ cho
các loại dịch vụ truyền số liệu hướng liên kết và báo hiệu .
AAL-4 được dùng cho các dịch vụ loại D ( loại D là loại không yêu cầu về thời
gian thực, tốc độ thay đổi, kiểu truyền không liên kết . Được sử dụng cho các loại dịch
vụ truyền số liệu không liên kết .
Trong quá trình tiêu chuẩn hoá , do có nhiều điểm trùng hợp , hai giao thức này
đựơc gộp lại thành một và có tên là AAL –3/4.
Hai phương thức dịch vụ được sử dụng trong giao thức AAL –3/4 message và
streaming

85
Phương thức message : Theo phương thức messge khối số kiệu dịch vụ ( SDU)
AAL, chuyển tải giao diện ( IDU-interface data unit ) AAL dịch vụ này có thể truyền tải
các khối số liệu dịch vụ với kích thước cố định và thay đổi.

Dịch vụ theo phương thức message


Phương thức streaming: Trong phương thức này khối số liệu dịch vụ (SDU )
AAL chuyển tải qua giao diện AAL có kích thước bằng 1 hoặc bội số khối số liệu giao
diện (IDU) AAL.

Dịch vụ theo phương thức streaming


Việc chuyển tải các AAL-IDU này qua giao diện AAL có thể xảy ra tại nhiều
thời điểm khác nhau do vậy dịch vụ này truyền tải các khối số liệu dịch vụ với kích
thước thay đổi . Trong dịch vụ theo phương thức Streaming có loại dịch vụ loại bỏ, dịch
vụ này có khả năng loại bỏ một phần số liệu dịch vụ được vận chuyển qua giao diện
AAL.
AAL-5:
AAL-5 phục vụ cho cho các dịch vụ có tốc độ thay đổi, không theo thời gian
thực , AAL-5 được sử dụng chủ yếu theo yêu cầu về truyền số liệu.
AAL-5 được thiết kế cho các dịch vụ có tính năng như AAL-3/4 nhưng có cấu
trúc đơn giản hơn và đòi hởi ít số liệu phụ thuộc hơn. khác với AAL-3/4, AAL-5 sử
dụng hết 48 octet của trường thông tin tế bào để chuyển tải khối số liệu giao thức CS-
PDU và thông tin giao thức SAR được cung cấp bằng việc sử dụng 1 bit nằm trong mào

86
đầu tế bào ATM . Điều này có nghĩa là sẽ không có khả năng đấu ghép và điều khiển lổi
tại SAR . Tuy nhiên trong lớp phụ CS vẫn có trường CRC.
3. Lớp vật lý
(a) Nguyên lý
Lớp vật lý bao gồm hai lớp phụ: lớp phụ môi trường vật lý (PM) và lớp phụ
đồng qui truyền dẫn TC
 Lớp phụ môi trường vật lý PM có chức năng về môi trường vật lý và dung lượng
truyền dẫn bao gồm cả việc truyền tải bit và đồng bộ bit mã đường dây và biến
đổi quang điện.
 Lớp phụ TC : thự hiện các chức năng liên quan tới việc biến đổi thông tin luồng
tế bào sang thông tin các khối số liệu (dưới dạng bit) để cóthể phát và thu tín
hiệu trong môi trường vật lý.
Theo hướng từ lớp vật lý tới lớp ATM , luồng số liệu chuyển tải sang ranh giới
hai lớp là luồng các tế bào hợp lệ . Tế bào hợp lệ là tế bào ma mào đầu tế bào không có
lổi, việc kiểm tra lổi mào đầu tế bào được thực hiện ở lớp phụ TC.
Theo hướng ngược lại từ lớp ATM tới lớp vật lý , luồng tế bào ATM được ghép
thêm thông tin phân tách tế bào va thông tin về khai thác và bảo dưởng (OAM) liên
quan tới luồng tế bào này .
(b) Dung lượng truyền tải
Có hai tốc độ bit sử dụng cho lớp vật lý tại điểm tham chiếu tế bào: 155,52 Mb/s
cho cả hai hướng và 622,08 Mb/s cho ít nhất một hướng . Giao diện có thể là giao diện
điện hoặc quang và có thể dựa trên cấu trúc tế bào hoặc cấu trúc khung SDH.
Tốc độ bit kể trên là tốc độ đường truyền tại lớp vật lý bao gồm cả những bit phụ
dùng trong việc tạo ra các octet cấu trúc khung của lớp vật lý hoặc trong các tế bào lớp
vật lý. Tốc độ bit dùng trong các tế bào ATM và tải thông tin SDH tương ứng được
trình bày trong bảng sau:

STM-1 (Mb/s) STM-4 (Mb/s)

Tốc độ bit lớp vật lý 155,52 622,08


Tốc độ bit tối đa trong thực tế 149,76 599,04
Tốc độ bit cho luồng thông tin 135,631 542,526

Số bit cực đại dùng cho khách hàng chiếm tỉ lệ 8/53 tốc độ bit.Tuy nhiên tốc độ
bit dùng cho các tế bào ATM cũng có thể được dùng cho các tế bào báo hiệu và các tế
bào mang thông tin OAM cho lớp ATM và lớp bậc cao. Do vậy tốc độ bit thực tế dùng
cho khách hàng sẽ nhỏ hơn các giá trị nêu ở bảng trên.
(c) Lớp vật lý dùng cho giao diện tế bào

87
Cấu trúc giao diện tế bào gồm một chuổi tế bào liên tục. Khoảng cách cực đại
giữa các tế bào kế tiếp nhau của lớp vật lý là 26 tế bào ATM, điều này nghĩa là sau qua
trình truyền tải liên tục 26 tế bào ATM. Các tế bào lớp vật lý mới được chèn vào để tạo
ra dung lượng thích hợp với tốc của giao diện. Tế bào lớp vật lý cũng được chèn khi
không có tế bào ATM được truyền đi. Các tế bào lớp vật lý được chèn có thể là “tế bào
rỗng” hoặc tế bào OAM lớp vật lý theo yêu cầu về OAM .
Các tế bào OAM lớp vật lý được dùng để truyền tải các thông tin OAM của lớp
vật lý. Số lượng các tế bào OAM được chèn phụ thuộc vào các yêu cầu OAM . Tuy
nhiên đối với chặn truyền dẫn , trường hợp nhiều nhất là sau 26 và ít nhất là sau 512 tế
bào, phải có một tế bào OAM của lớp vật lý. Mào đầu tế bào OAM lớp vật lý có thông
tin nhận dạng riêng.
(d) Lớp vật lý dùng cho giao diện SDH
Cấu trúc khung 15,552Mbit/s SDH của giao diện UNI như hình vẽ sau:

Đối với giao diện 622,08Mbit/s, tế bào có thể vượt ranh giới của C4-4c.
Đối với giao diện 155,52Mbit/s luồng tế bào ATM trước tiên được chuyển đổi
vào container C-4 và sau đó cộng với các thông tin phụ cảu VC-4 để thành container C-
4 ảo các ranh giới của tế bào ATM được dùng đồng chỉnh với các ranh giới của octet
STM-1
Do dung lượng của C-4 không phải là bội số nguyên của kích thước tế bào
(53octet) tế bào có thể vượt ranh giới của C-4.
V.2.2 CẤU TRÚC MẠNG ATM
1. Giới thiệu về đặc tính khai thác mạng ATM
Mạng ATM được thiết kế để truyền tải chung các thông tin như thông tin
thoại, âm thanh , hình ảnh và dữ liệu ….và do vậy mạng phải có các đặc tính hoạt

88
động tương thích với tất cả các dịch . Tuy nhiên các dịch vụ khác nhau phải có các
yêu cầu khác nhau và các thông số đặc trưng khác nhau được trình bày ở bảng sau:

Đặc tính Thoại Dữ liệu Video

Băng tần Thấp Biến đổi Cao


Dung sai về lỗi Thấp Biến đổi Trung bình, thấp
Tính đột biến Không có Nhiều Biến đổi

Do đó việc dưa ra các đặc tính chung của mạng không phải là vấn đề đơn
giản, mà đây không phải là một vấn đề về băng tần mà còn liên quan tới rất nhiều
các yếu tố khác nhau như ảnh hưởng của trể , dung sai về lổi , tính đột biến của dữ
liệu ,… việc tổng hợp các yêu cầu về thoại ,hình ảnh , dữ liệu làm cho thông tin của
ATM củng mang tính đột biến, vì vậy các thông số mạng ATM cần phải được định
nghĩa để hoạt động của lớp ATM phải hợp với tất cả các dịch vụ và ITU đã định
nghĩa 4 khả năng có thể xảy ra khi tế bào truy nhập vào mạng ATM như sau :
- Tế bào truyền tải thành công tức là tế bào về tới đích với thời gian nhỏ hơn
cho phép và không có lổi.
- Tế bào lổi là tế bào tế bào chứa ít nhất một lổi trong trường thông tin, một
khả năng khác là tế bào bị lổi trầm trọng với lổi trong trường thông tin từ hai
trở lên.
- Tế bào bị mất là tế bào không bao giờ vế đích hay về đích với thời gian trể
lớn hơn giá trị trể T trong trường hợp thứ hai , tế bào sẽ bị xoá bỏ khi về đích
- Tế bào nhầm là tế bào có lổi ở mào đầu tế bào, mà không bị phát hiện hoặc
chuyển nhầm tại các nút chuyển mạch và nhầm địa chỉ.
2. Cấu trúc và các thành phần của mạng ATM
Cấu trúc tổng quát của mạng ATM như sau:

89
Mục tiêu chính của mạng ATM là cung cấp các kết nối ATM nghĩa là cung cấp
các đầu cuối ATM để chuyển tải các thông tin khách hàng trên cơ sở các tế bào. để thực
hiện điều này cần phải có các hệ thông chuyển mạch, truyền dẫn , cùng với các hệ thống
điều khiển và quản lý.
Để đơn giản hoá trong hình vẽ không nêu đầy đủ các thành mạng của mạng
ATM chẳng hạn như cấu hình vệ tinh. Đối vơi mạng băng rộng thì nó tồn tại hai mạng
đó là mạng khách hàng và mạng công cộng.
Thiết bị đầu cuối và các thiết bị chuyển đổi được nối với mạng công cộng qua
khối chức năng NT1 . Trong một số mạng khách hàng có thêm khối NT2-thực hiện các
chức năng của tổng đài PBX là cung cấp kết nối giữa NT1 và các thiết bị đầu cuối, khối
chức năng NT2 được tách biệt ra khỏi NT1 và cung một số chức năng tối thiếu để kết
nối thiết bị khách hàng và mạng công cộng. Điểm tham chiếu T là điểm phân giới giữa
mạng khách hàng và mạng công cộng .
Ơ một số nước, việc áp dụng NT1 và NT2 sẽ được tách riêng do thông lệ qui
định , nhưng xét về mặc kinh tế và kỹ thuật thì vịêc hợp nhất hai NT1&NT2 thì sẽ có
nhiều tiện ít hơn.
Về phía mạng công cộng NT1 có thể nối trực tiếp đến các tổng đài nội hạt LEX
hoặc qua các thiết bị vệ tinh, thiết bị vệ tinh có thể có chức năng tự chuyển mạch và
không có sự điều khiển trực tiếp của tổng đài LEX , LEX có thể đấu nối trực tiếp với
nhau hoặc có thể được nối qua các tổng đài đường dài TEX .. Các tổng đài đường dài
TEX có thể cung cấp các khả năng chuyển mạch các cuộc gọi hoặc đơn giản là các bộ
đấu chéo ATM .
Cổng Gateway (GW ) thực hiện các đấu nối với các mạng khác như sơ đồ sau :

90
Về nguyên tắc GW cóthể lắp đặt tại bất kỳ một điểm nào tại các vệ tinh của
LEX, tại LAEX , tại TEX hoặc tại mạng khách hàng . Như vậy tại cổng GW đưọc dùng
để đấu nối mạng với mạng MAN, N-ISDN và các mạng không phải ISDN . Tuy nhiên
trong mạng khách hàng thiết bị đấu nối không phải ATM sẽ được đấu nối tới mạng
ATM thông qua khối chuyển đổi TA tại điểm tham chiếu R như đã miêu tả ở phần trên.
V.3 TẾ BÀO ATM
V.3.1 CẤU TRÚC TẾ BÀO
Tế bào ATM có kích thước nhỏ , chiều dài cố định và nó có 53 octet trong đó có
48 octet trường thông tin và 5 octet mào đầu. Kích thước nhỏ có tác dụng giảm thời gian
trể tại các bộ đệm và chiều dài cố định làm tăng hiệu quả chuyển mạch . Điểu này có tác
dụng rất lớn vì ATM là mạng có tốc độ rất cao. Mào đầu dùng để định tuyến tế bào và
được cập nhật với các giá trị nhận dạng mới tại các nút chuyển mạch. Trường thông tin
được truyền thông suốt qua mạng không hề bị thay đổi trong quá trình truyền tải .
Có hai loại cấu trúc tế bào được định nghĩa : một dùng cho UNI và một dùng
cho NNI .Giao diện UNI là giao diện nằm giữa thiết bị khách hàng và tổng đài ATM
đầu tiên còn giao diện NNI là giao diện nằm giữa các tổng đài ATM trong cùng một
hoặc giữa mạng với mạng, đối với các mạng riêng giao diện ATM UNI có thể nằm tại
Các điểm chuẩn R và S, đồi với cá mạng công cộng giao diện ATM UNI có thể nằm tại
các điểm chuẩn T và U. Vì thế mà cấu trúc mào đầu tế bào ATM cũng có hai loại, đó là
loại tại giao diện UNI và loại tại giao diện NNI, hai cấu trúc này được thể hiện ở hình
vẽ sau :

GFC (General flow control ) :trưòng bít điều khiển luồng chung
VPI (vitual path Identifier ) :trường bít nhận dạng đường ảo
VCI (Vitual channel Identifier) :trường bit nhận dạng kênh ảo
PT (payload type) :trường bit xác định kiểu thông tin
CLP (Cell Loss Priority ) :bit xác định quyền ưu tiên tế bào
HEC (Header Error control ) :các bít điều khiển lổi cho trường bít tiêu đề
Chức năng của các trường bit tiêu đề :

91
 Trường GFC : gồm có 4 bit , 2 bit dùng cho điều khiển và 2 bit dùng làm tham
số .trường này chỉ có tại giao diện UNI , nó cho phép điều khiển luồng đối với
các cuộc nối ATM , mục đích là giảm tình trạng quá tải trong khoảng thời gian
ngắn có thể xảy ra trong mạng . Trường này dùng cho tất cả các phương thức
đấu nối ( từ điểm tới điểm và từ điểm tới đa điểm ) .Ngoài ra trường này còn để
báo hiệu , việc sử dụng GFC tại giao diện UNI là nhược điểm của ATM nó làm
cho thủ tục của ATM không còn đồng nhất .
 Trường định tuyến (VCI/ VPI) : Đối với UNI, gồm có 24 bit (8 bit VPI và 16 bit
VCI ) và đối với giao diện NNI , gồm có 28 bit ( 12 bit VPI và 16 bit VCI). Đặc
tính cơ bản của ATM là chuyển mạch xảy ra trên cơ sở giá trị trường định tuyến
của các tế bào. Nếu chuyển mạch chỉ dựa trên gía trị VPI thì được gọi kết nối
đường ảo, nếu chuyển mạch dựa trên cã hai giá trị VPI/VCI thì được gọi là kết
nối kênh ảo.
 Trường tải thông tin ( PT ): gồm có 3 bit dùng để chỉ thị thông tin được truyền
tải là thông tin khách hàng hay thông tin mạng
+ Bit thứ nhất = 0: báo hiệu đây là tế bào mang thông tin của người sử dụng
= 1: báo hiệu đây là tế bào mang thông tin về quản lýmạng
+ Bit thứ hai = 0: báo hiệu đây là tế bào mang thông tin không tắc nghẽn mạng
= 1: báo hiệu đây là tế bào mang thông tin về tắc nghẽn mạng
+ Bit thứ ba = 0: chỉ thị ở đầu và giữa khối dữ liệu của người sử dụng hay còn gọi là
bit báo hiệu lớp AAL
=1: chỉ thị ở cuối khối dữ liệu của người sử dụng.
 Trường điều khiển lỗi tiêu đề ( HEC ): có 8 bit, trường này được xử lý ở lớp vật
lý và có thể được dùng sửa các lổi bị một lổi bit hoặc là để phát hiện các lổi bị
nhiều lổi bit.
 Trường ưu tiên tổn thất tế bào CLP : gồm 1 bit, giá trị bit này cóthể được xác lập
bởi khách hàng hoặc nhà cung cấp dịch vụ, dùng cho mục đích. Các tế bào trong
đó CLP =0 là có mức ưu tiên cao và CLP =1 là có mức ưu tiên thấp hơn. Các tế
bào có CLP =1 sẽ bị loại bỏ khi xảy ra tắt nghẻn trong mạng.
Khi xét ATM thì chủ yếu xét cấu trúc tiêu đề Header (5 octet) còn trường thông
tin không quan tâm . Tóm lại CCIT đã đưa ra một cấu trúc tế bào ATM như sau : là mỗi
tế bào ATM gồm có 53 octet, 5 octet cho trường bit tiêu đề và 48 octet dùng cho trường
bit thông tin được biểu diển như ở hình dưới dây:

92
Cấu trúc tế bào ATM tại giao diện UNI

Cấu trúc tế bào ATM tại giao diện NNI

93
V.3.2 PHÂN LOẠI TẾ BÀO
Trong mạng ATM dùng 5 loại tế bào ATM đư ợc thể hịên ở hình vẽ sau:

V.4 KHÁI NIỆM ĐƯỜNG ẢO, KÊNH ẢO


Trước khi xem xét nguyên lý trường chuyển mạch ATM, ta xem xét một số khái
niệm mấu chốt liên quan trực tiếp đến cơ chế điều hành chuyển mạch của các trường
chuyển mạch ATM. Mục này sẽ trình bàycác khái niệm kênh ảo VC, luồng ảo VP,
chuyển mạch VC và VP và nguyên tắc chuyển mạch của trường chuyển mạch ATM.
V.4.1 KÊNH ẢO VC (VIRTUAL CHANNEL)
Để thiết lập một kết nỗi giữa hai đầu cuối đòi hỏi sự kết hợp của một chuỗi
nhiều liên kết với nhau từ nguồn cho tới đích. Tổ hợp chuỗi các liên kết kênh ảo được
gọi là kết nối ảo VCC (Virtual Channel Connection). Việc quyết định khả năng sử dụng
từng liên kết phụ thuộc vào băng tần khách hàng yêu cầu và dung lượng còn lại của liên
kết. Trong từng tế bào, kênh ảo được nhận dạng bởi giá trị VCI (Vitual channel
Identifier), là một thành phần của phần tiêu đề tế bào.
Tại các nút chuyển mạch, bảng định tuyến sẽ cung cấp các thông tin biên dịch
VCI cho từng tế bào khi được truyền tới. Thông tin cần thiết của bảng này được cập
nhật trong giai đoạn thiết lập cuộc gọi và giữ nguyên trong suốt quá trình cuộc gọi. Các
kết nối kênh ảo có thể dùng trong các ứng dụng sau:
 Các ứng dụng từ khách hàng tới khách hàng

94
Trong ứng dụng này, VCC được thiết lập giữa thiết bị đầu cuối khách hàng tại
các đầu của kết nối. Thông tin được tryền tải dưới dạng các tế bào ATM giữa
các thiết bị đầu cuối khách hàng.
 Các ứng dụng khách hàng tới mạng
Trong ứng dụng này, VCC được thiết lập nối thiết bị đầu cuối của khách hàng
với điểm nút mạng và cung cấp truy nhập tới các thành phần của mạng.
 Các ứng dụng mạng tới mạng
Trong ứng dụng này, VCC được thiết lập giữa hai điểm nút mạng. ứng dụng
mạng - mạng của VCC gồm cả quản lý lưu lượng và định tuyến mạng.
Một số đặc tính của kết nối kênh ảo gồm có:
 Khách hàng sử dụng VCC có khả năng yêu cầu chất lượng dịch vụ xác định bởi
các tham số như tỷ lệ mất tế bào, biến thiên độ trễ tế bào …
 VCC được cung cấp trên cơ sở yêu cầu trực tiếp hoặc bán cố định.
 Trong VCC, thứ tự tế bào không thay đổi. Đây là nguyên lý cơ bản của ATM
 Đối với từng VCC, các tham số về dung lượng sẽ được thoả thuận giữa khách
hàng và mạng khi kết nối được thiết lập và sau đó có thể thoả thuận lại.
Đối với việc gán các giá trị VCI có 4 phương pháp được sử dụng: Do mạch gán,
do khách hàng gán, theo sự thoả thuận của khách hàng và mạng và theo phương pháp
được chuẩn hoá.
Nói chung, giá trị VCI được gán độc lập với dịch vụ được cung cấp qua VC
tương ứng. Tại NNI, VCI được gán trước trong các trường hợp sau: Chỉ thị tế bào
không được gán, chỉ thị tế bào lớp vật lý, chỉ thị báo hiệu Meta và chỉ thị báo hiệu
quảng bá chung.
V.4.2 ĐƯỜNG ẢO VP (VIRTUAL PATH)
Đường ảo là một tập các kênh ảo có cùng điểm kết nối. Chuỗi các liên kết đường
ảo liên kết với nhau hình thành một kết nối đường ảo VPC (Virtual Path Connection)
nối giữa hai điểm kết cuối VPC (điểm kết cuối VPC là điểm mà ở đó các VPI được hình
thành, biên dịch và bị loại bỏ), hoặc trong cấu hình điểm-đa điểm có số điểm kết nối từ
2 trở lên.
Khái niệm đường ảo VP dùng để chỉ các đường nối logic trực tiếp (sử dụng bởi
nhiều kênh ảo) giữa các điểm chuyển mạch thông qua các điểm nối chéo trung gian.
Đường truyền ảo là hình thức (đấu nối bán cố định hoặc chuyển mạch) tạo ra
liên kết có tính chất tương đương về mặt logic giữa hai nút chuyển mạch mà không cần
thiết phải đấu nối trực tiếp bằng một liên kết vật lý. Điều này cho phép phân biệt giữa
cấu trúc mạng vật lý và logic, đồng thời cho phép sắp xếp lại cấu trúc logic phù hợp các
yêu cầu về lưu lượng. Đường truyền ảo được phân biệt bằng giá trị trường nhận dạng
đường ảo VPI, là một tham số của tiêu đề tế bào.

95
Các bảng biên dịch định tuyến tại các nút chuyển mạch thực hiện biên dịch giá
trị VPI của từng tế bào khi thâm nhập vào các bộ nối chéo. Tuy nhiên, thông tin đối với
các kênh ảo thuộc đường ảo này không bị xử lý. Tất cả các kênh ảo thuộc đường ảo sẽ
được truyền tải trên cùng một đường ảo ở đầu ra.
V.5 NGUYÊN LÝ CHUYỂN MẠCH ATM
V.5.1 CHUYỂN MẠCH ĐƯỜNG ẢO, KÊNH ẢO
Tại một số nút chuyển mạch, việc biên dịch VPI được thực hiện cùng với việc
biên dịch VCI tạo nên sự thay đổi của VCI và VPI. Hình 3.24 chỉ ra 2 phương pháp
chuyển mạch theo kênh ảo và theo đường ảo.
Dãy các tế bào ATM được đảm bảo cho mỗi VCC trong phạm vi cùng một VPC.
Các tham số QoS như: độ tổn thất tế bào, biến thiên độ trễ tế bào… sẽ được đảm bảo
cho mỗi VCC. Tại thời điểm thiết lập VCC, các tham số lưu lượng khách hàng sẽ được
xác định qua sự thoả hiệp giữa mạng và khách hàng và sau đó mạng sẽ giám sát các
tham số đó.
Tương tự như đối với các kết nối ảo VCC, các kết nối ảo VPC có thể được dùng
cho việc truyền thông tin giữa khách hàng với khách hàng, giữa khách hàng với mạng
và giữa mạng với khách hàng. Việc thiết lập và giải phóng VPC được thực hiện bằng
các thủ tục quản lý mạng, phụ thuộc vào việc các VPC sẽ được gán hoặc được cung cấp
khi có nhu cầu. Khi đó việc thiết lập và giải phóng các VPC theo nhu cầu có thể được
mạng hoặc khách hàng thực hiện.

Hình 3.24: Chuyển mạch VP và VC

96
V.5.2 KẾT CẤU CHUYỂN MẠCH ATM
Chuyển mạch ATM có thể được chia dựa trên các kỹ thuật chuyển mạch của nó,
bao gồm hai nhóm sau: Chuyển mạch phân chia theo thời gian(Time Division Switching
– TDS) và chuyển mạch phân chia theo không gian(Space Division Switching – SDS).
TDS được chia ra làm hai loại là dùng chung bộ nhớ(shared memory) và loại dùng
chung môi trường(shared medium). SDS được chia ra thành loại chuyển mạch đơn
tuyến(single path) và đa tuyến(multiple path). Trong chuyển mạch đa tuyến lại được
chia ra thành một vài loại khác nhau, được minh họa ở hình 3.25. Trong phần này,
chúng ta mô tả sơ lược về hoạt động, ưu điểm, và nhược điểm, và giới hạn vốn có của
mỗi loại chuyển mạch.

Hình 3.25. Sự phân loại các kiến trúc chuyển mạch ATM
1. Chuyển mạch phân chia theo thời gian
Trong TDS, có một cấu trúc truyền thông đơn bên trong, cái mà được chia sẻ bởi
tất cả các tế bào di chuyển từ các cổng vào tới các cổng ra qua bộ chuyển mạch. Cấu
trúc truyền thông bên trong có thể là một BUS, một vòng, hay là một bộ nhớ. Nhược
điểm chính của kỹ thuật này là giới hạn dung lượng chính xác của nó trong cấu trúc
truyền thông bên trong. Tuy nhiên, loại này cung cấp một ưu điểm là tất cả các tế bào
chảy dọc theo một cấu trúc truyền thông đơn, nó có thể dễ dàng được mở rộng để hỗ trợ
các hoạt động multicast và broadcast.
(a) Chuyển mạch dùng chung môi trường
Ở trong một bộ chuyển mạch dùng chung môi trường, các tế bào đến các cổng
vào được ghép kênh theo thời gian trong một phương tiện tốc độ cao thường như là một
bus hay một vòng(ring), thì dải thông sẽ bằng với N lần tốc độ đường truyền vào. Thông
lượng của môi trường được chia sẻ này xác định dung lượng của bộ chuyển mạch đầy
đủ. Như chỉ ra ở hình 3.26, mỗi đường truyền ra được kết nối tới môi trường tốc độ cao
được chia sẻ qua một giao diện gồm một bộ lọc địa chỉ(Address Filter - AF) và một bộ
điệm FIFO lối ra. Bộ lọc địa chỉ kiểm tra phần đầu(header) của các tế bào lối vào, và
sau đó chấp nhận chỉ những tế bào dành cho chính nó. Phương pháp tập trung này có
một ưu điểm là mỗi cổng ra có thể hoạt động độc lập và có thể được xây dựng tách biệt

97
nhau. Tuy nhiên, nhiều nguyên lý thiết kế phần cứng và nhiều bộ đệm được yêu cầu để
cung cấp các giao diện tách biệt cho mỗi cổng ra.

Hình 3.26. Cấu trúc chuyển mạch dùng chung môi trường
Một khe thời gian được chia làm N khe nhỏ. Trong mỗi khe nhỏ, một cell từ một
đầu vào được quảng bá tới tất cả các cổng đầu ra. Điều này làm đơn giản hóa quá trình
truyền đa hướng. Một bit sắp đặt các cổng lối ra với mỗi bit hiển thị nếu tế bào được
định tuyến tới cổng lối ra mà có thể được đính kèm tới phần trước của tế bào. Mỗi AF
sẽ kiểm tra chỉ những bit tương ứng với quyết định xem tế bào được lưu trữ ở trong
FIFO theo đây. Một nhược điểm của cấu trúc này là kích cỡ của bộ chuyển mạch N bị
giới hạn bởi tốc độ của bộ nhớ. Nói một cách cụ thể là khi tất cả các tế bào lối vào N
được dành cùng cổng lối ra thì FIFO không thể lưu trữ tất cả N tế bào trong một khe
thời gian nếu kích cỡ bộ chuyển mạch là quá lớn hay tốc độ đường vào là quá cao. Một
nhược điểm khác là sự thiếu bộ nhớ bởi việc chia sẻ giữa các bộ đệm FIFO. Khi một
cổng lối ra bị tắc nghẽn tạm thời do nạp vào lưu lượng cao thì bộ đệm FIFO bị đầy và
bắt đầu loại bỏ các tế bào. Trong lúc đó, các bộ đệm FIFO khác có thể có một ít khoảng
trống nhưng không thể được dùng bởi cổng đã tắc nghẽn. Kết quả là, một bộ chuyển
mạch dùng chung bộ nhớ được dùng thay thế.
(b) Chuyển mạch dùng chung bộ nhớ
Trong một bộ chuyển mạch dùng chung bộ nhớ như hình 3.27, tất cả các tế bào
đi vào được ghép kênh phân chia theo thời gian vào trong một dòng dữ liệu đơn và được
ghi một cách tuần tự tới bộ nhớ dùng chung. Việc định tuyến các tế bào này được thiết
lập bằng việc rút ra những tế bào đã lưu trữ để hình thành một luồng dữ liệu lối ra đơn.
Luồng dữ liệu này sau đó được phân kênh vào trong những đường ra khác nhau. Các địa
chỉ mà cho cả việc ghi các tế bào đi vào và đọc các tế bào đã lưu trữ ra thì được cung
cấp bởi một module điểu khiển tùy theo thông tin định tuyến được rút ra từ các phần
đầu tế bào.

98
Hình.3.27. Cấu trúc cơ bản của các chuyển mạch dùng chung bộ nhớ
Ưu điểm của loại chuyển mạch này là nó cung cấp ứng dụng bộ nhớ tốt nhất, khi
tất cả các cổng lối vào/ lối ra chia sẻ cùng bộ nhớ. Kích cỡ bộ nhớ nên được hiệu chỉnh
tùy theo việc giữ tốc độ mất tế bào dưới một giá trị đã chọn. Có hai sự khác nhau trong
việc dùng chung bộ nhớ giữa các cổng là: dùng chung đầy đủ(full sharing) và dùng
chung chia phần đầy đủ(complete partitioning). Với sự dùng chung chia phần đầy đủ thì
toàn bộ bộ nhớ được chia thành N phần bằng nhau, trong đó N là số lượng các cổng
vào/ra, và mỗi phần được gán với một cổng ra cụ thể. Còn ở sự dùng chung đầy đủ, thì
toàn bộ bộ nhớ được dùng chung bởi tất cả các cổng ra mà không có sự đặt dành riêng
nào. Một vài cơ cấu khác dùng việc đặt một đường biên trên và biên dưới trong không
gian bộ nhớ thì được dùng để ngăn chặn sự giữ độc quyền của bộ nhớ bởi một vài cổng
ra.
Giống như các bộ chuyển mạch dùng chung môi trường, các bộ chuyển mạch
dùng chung bộ nhớ có nhược điểm là tốc độ truy cập bộ nhớ giới hạn kích thước bộ
chuyển mạch và hơn nữa sự điều khiển trong các bộ chuyển mạch dùng chung bộ nhớ
thì phức tạp hơn. Bởi vì những ứng dụng đệm tốt hơn của nó nên loại dùng chung bộ
nhớ vẫn phổ biến hơn và có nhiều biến thể hơn loại dùng chung môi trường.
2. Chuyển mạch phân chia theo không gian
Trong TDS, một cấu trúc truyền thông bên trong đơn được chia sẻ bởi tất cả các
cổng vào và ra. Trong khi đó trong SDS tất cả nhiều đường dẫn vật lý được cung cấp
giữa các cổng vào và ra. Những đường dẫn này hoạt động đồng thời làm sao để nhiều tế
bào có thể được truyền qua bộ chuyển mạch cùng một lúc. Dung lượng tổng cộng của
bộ chuyển mạch do đó là tích số của dải thông của mỗi đường dẫn và số lượng các
đường dẫn mà có thể truyền các tế bào đồng thời. Tuy nhiên trong thực tế nó bị giới hạn
bởi các ràng buộc của sự thực thi phần cứng như là pin thiết bị, các giới hạn kết nối, các
vấn đề đồng bộ. Các bộ chuyển mạch SDS được chia dựa trên số lượng các đường dẫn
có hiệu lực giữa một vài cặp vào/ra. Ở các bộ chuyển mạch đơn đường thì chỉ có một
đường dẫn tồn tại cho một vài cặp vào/ra, trong khi đó ở các bộ chuyển mạch đa đường
thì có nhiều hơn một đường dẫn cho một vài cặp vào ra. Ở bộ đơn đường có sự điều

99
khiển định tuyến đơn giản hơn bộ đa đường, nhưng ở bộ đa đường thì lại có dung lỗi
(fault tolerance) cao hơn.

100
CHƯƠNG 4
MẠNG IP VÀ NGN
I. MẠNG IP
Ngày nay giao thức IP được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu cho kết nối
mạng viễn thông. Mạng sử dụng giao thức IP loại bỏ ranh giới giữa dịch vụ số liệu và
thoại. Trước đây chúng ta phải xây dựng các mạng riêng lẻ dựa trên các giao thức khác
nhau nên khả năng kết nối giữa các hệ thống là rất khó khăn.
Giao thức IP độc lập với lớp liên kết dữ liệu. Nghĩa là ở lớp 2, chúng ta có thể
dùng ATM, Frame Relay, LAN hoặc PPP. Điều này cho phép truyền gói tin IP giữa hai
điểm mà giữa chúng là các liên kết lớp 2 bất kỳ. Mạng IP được xây dựng dựa trên các
tiêu chuẩn toàn cầu của IETF. Do đó, thiết bị của các nhà sản xuất khác nhau có thể dễ
dàng tương hoạt. Hiện nay, nếu nói tới tiêu chuẩn truyền thông phổ biến nhất thì đó
chính là giao thức IP.
I.1 BỘ GIAO THỨC TCP/IP
TCP/IP là bộ giao thức được phát triển bởi cục các dự án nghiên cứu cấp cao
(ARPA) của bộ quốc phòng Mỹ. Ban đầu nó được sử dụng trong mạng ARPANET. Khi
công nghệ mạng cục bộ phát triển, TCP/IP được tích hợp vào môi trường điều hành
UNIX và sử dụng chuẩn Ethernet để kết nối các trạm làm việc với nhau. Đến khi xuất
hiện các máy PC, TCP/IP lại được chuyển mang sang môi trường PC, cho phép các máy
PC chạy DOS và các trạm làm việc chạy UNIX có thể kết nối trên cùng một mạng. Hiện
nay, TCP/IP được sử dụng rất phổ biến trong mạng máy tính, mà điển hình là mạng
Internet.

Hình 4.1: mô hình OSI và TCP/IP


TCP/IP được phát triển trước mô hình OSI. Do đó, các tầng trong TCP/IP không
tương ứng hoàn toàn với các tầng trong mô hình OSI (hình 4.1). Chồng giao thức

101
TCP/IP được chia thành bốn tầng: giao diện mạng (network interface), liên mạng
(internet), giao vận (transport) và ứng dụng (application).
I.1.1 TẦNG ỨNG DỤNG
Tầng ứng dụng cung cấp các dịch vụ dưới dạng các giao thức cho ứng dụng của
người dùng. Một số giao thức tiêu biểu tại tầng này gồm:
− FTP (File Transfer Protocol): Đây là một dịch vụ hướng kết nối và tin cậy, sử
dụng TCP để cung cấp truyền tệp giữa các hệ thống hỗ trợ FTP.
− Telnet (TERminaL NETwork): Cho phép các phiên đăng nhập từ xa giữa các
máy tính. Do Telnet hỗ trợ chế độ văn bản nên giao diện người dùng thường ở
dạng dấu nhắc lệnh tương tác. Chúng ta có thể đánh lệnh và các thông báo trả lời
sẽ được hiển thị.
− HTTP (Hyper Text Transfer Protocol): Trao đổi các tài liệu siêu văn bản để hỗ
trợ WEB.
− SMTP (Simple Mail Transfer Protocol): Truyền thư điện tử giữa các máy tính.
Đây là dạng đặc biệt của truyền tệp được sử dụng để gửi các thông báo tới một
máy chủ thư hoặc giữa các máy chủ thư với nhau.
− POP3 (Post Office Protocol): Cho phép lấy thư điện tử từ hộp thư trên máy
chủ.
− DNS (Domain Name System): Chuyển đổi tên miền thành địa chỉ IP. Giao
thức này thường được các ứng dụng sử dụng khi người dùng ứng dụng này dùng
tên chứ không dùng địa chỉ IP.
− DHCP (Dynamic Host Configuration Protocol): Cung cấp các thông tin cấu
hình động cho các trạm, chẳng hạn như gán địa chỉ IP.
− SNMP (Simple Network Managament Protocol): Được sử dụng để quản trị từ
xa các thiết bị mạng chạy TCP/IP. SNMP thường được thực thi trên các trạm
của người quản lý, cho phép người quản lý tập trung nhiều chức năng giám sát
và điều khiển trong mạng.
I.1.2 TẦNG GIAO VẬN
Tầng giao vận chịu trách nhiệm chuyển phát toàn bộ thông báo từ tiến trình-tới-tiến
trình. Tại tầng này có hai giao thức là TCP và UDP, mỗi giao thức cung cấp một loại
dịch vụ giao vận: hướng kết nối và phi kết nối.
1. Giao thức TCP
TCP là giao thức hướng kết nối, đầu cuối tới đầu cuối. Nó là giao thức có độ tin
cậy và cung cấp nhiều ứng dụng mạng. Giao thức TCP cung cấp cho ta nhiều hình thức
xử lý truyền tin đáng tin cậy. Về cơ bản TCP có thể hoạt động phía trên phạm vi rộng
của những dãy hệ thống truyền tin từ đường kết nối hệ thống tới mạng chuyển mạch
gói. Giao thức IP cũng phân mảnh hoặc nhóm lại từng phần TCP được đòi hỏi để hoàn
thành việc vận chuyển và phân chia thông qua nhiều mạng và kết nối liên tiếp nhiều
cổng lại với nhau.

102
TCP thực hiện một số chức năng như sau.
Chức năng đầu tiên là nhận luồng dữ liệu từ chương trình ứng dụng; dữ liệu này
có thể là tệp văn bản hoặc là một bức ảnh. TCP chia luồng dữ liệu nhận được thành các
gói nhỏ có thể quản lý. Sau đó gắn mào đầu vào trước mỗi gói. Phần mào đầu này có
chứa địa chỉ cổng nguồn và cổng đích. Ngoài ra, nó còn chứa số trình tự để chúng ta
biết gói này nằm ở vị trí nào trong luồng dữ liệu.
Sau khi nhận được một số lượng gói nhất định, TCP sẽ gửi xác nhận. Ví dụ, nếu
số lượng gói được quy định là 3 thì phía thu sẽ gửi xác nhận cho phía gửi sau khi nhận
được 3 gói. Ưu điểm của việc làm này là TCP có khả năng điều chỉnh việc gửi và nhận
các gói tin.
2. Giao thức UDP
UDP (User Datagram protocol) là một giao thức truyền thông phi kết nối, được
dùng thay thế cho TCP ở trên IP theo yêu cầu của ứng dụng. UDP không cung cấp sự
tin cậy, nó gửi gói tin vào tầng IP nhưng không có sự đảm bảo rằng gói tin sẽ đến được
đích của chúng. UDP có trách nhiệm truyền các thông báo từ tiến trình-tới-tiến trình,
nhưng không cung cấp các cơ chế giám sát và quản lý.
UDP cũng cung cấp cơ chế gán và quản lý các số cổng để định danh duy nhất
cho các ứng dụng chay trên một trạm của mạng. Do ít chức năng phức tạp nên UDP có
xu thế hoạt động nhanh hơn so với TCP. Nó thường được dùng cho các ứng dụng không
đòi hỏi độ tin cậy cao trong giao vận.
3. Kỹ thuật điều khiển luồng và điều khiển lỗi
Trong tầng giao vận có 2 vấn đề kỹ thuật quan trọng là điều khiển luồng và điều
khiển lỗi.
Điều khiển luồng định nghĩa lượng dữ liệu mà nguồn có thể gửi trước khi nhận
một xác nhận từ đích. Trong trường hợp đặc biệt, giao thức tầng giao vận có thể gửi một
byte dữ liệu và đợi xác nhận trước khi gửi byte tiếp theo. Nhưng nếu làm như vậy, quá
trình gửi sẽ diễn ra rất chậm. Nếu dữ liệu phải đi qua đoạn đường dài thì nguồn sẽ ở
trạng thái rỗi trong khi đợi xác nhận.
Trong một trường hợp đặc biệt khác, giao thức tầng giao vận có thể gửi tất cả dữ
liệu nó có mà không quan tâm tới xác nhận. Làm như vậy sẽ tăng tốc độ truyền, nhưng
có thể làm tràn ngập trạm đích (trạm đích không xử lý kịp). Bên cạnh đó, nếu một phần
dữ liệu bị mất, bị nhân đôi, sai thứ tự hoặc bị hỏng thì trạm nguồn sẽ không biết.
TCP sử dụng một giải pháp nằm giữa hai trường hợp đặc biệt này. Nó định
nghĩa một cửa sổ, đặt cửa sổ này lên bộ đệm gửi và chỉ gửi lượng dữ liệu bằng kích
thước cửa sổ. Kỹ thuật này gọi là kỹ thuật cửa sổ trượt (sliding window). Hay nói một
cách khác, để thực hiện điều khiển luồng, TCP sử dụng giao thức cửa sổ trượt. Hai trạm
ở hai đầu kết nối TCP đều sử dụng một cửa sổ trượt. Cửa sổ này bao phủ phần dữ liệu
trong bộ đệm mà một trạm có thể gửi trước khi quan tâm tới xác nhận từ trạm kia. Nó
được gọi là cửa sổ trượt do có thể trượt trên bộ đệm khi trạm gửi nhận được xác nhận.

103
Ngoài điều khiển luồng, TCP còn hỗ trợ điều khiển lỗi. Nó là kỹ thuật đảm bảo
tính tin cậy cho TCP. Điều khiển lỗi gồm các cơ chế phát hiện phân đoạn bị hỏng, bị
mất, sai thứ tự hoặc nhân đôi. Nó cũng gồm cơ chế sửa lỗi sau khi chúng được phát
hiện.
Phát hiện lỗi trong TCP được thực hiện thông qua việc sử dụng ba công cụ đơn
giản: tổng kiểm tra, xác nhận và thời gian chờ (time-out). Mỗi phân đoạn có chứa một
trường tổng kiểm tra để phát hiện phân đoạn lỗi. Nếu phân đoạn lỗi, nó sẽ bị TCP phía
nhận bỏ đi. TCP sử dụng phương pháp xác nhận để thông báo sự nhận các gói đã tới
đích mà không lỗi. Không có xác nhận gói hỏng trong TCP. Nếu một phân đoạn không
được xác nhận trước khi hết giờ thì nó được xem như bị hỏng hoặc bị mất trên đường
đi.
Cơ chế sửa lỗi trong TCP rất đơn giản. TCP nguồn đặt một bộ định thời cho mỗi
phân đoạn được gửi đi. Bộ định thời được kiểm tra định kỳ. Khi nó tắt, phân đoạn tương
ứng được xem như bị hỏng hoặc bị mất và sẽ được truyền lại.
I.1.3 TẦNG LIÊN MẠNG
Tầng liên mạng trong chồng giao thức TCP/IP tương ứng với tầng mạng trong
mô hình OSI, cho phép kết nối nhiều mạng với các công nghệ khác nhau qua mạng lõi
sử dụng giao thức IP (hình 4.2).

Hình 4.2: Kết nối liên mạng sử dụng giao thức IP


Chức năng chính của tầng mạng là đánh địa chỉ lôgic và định tuyến gói tới đích.
Giao thức đáng chú ý nhất ở tầng liên mạng chính là giao thức liên mạng (IP – Internet
Protocol). Ngoài ra còn có một số giao thức khác như ICMP, ARP và RARP. Sau đây sẽ
trình bày khái quát về các giao thức này.
1. Giao thức IP
IP là một giao thức phi kết nối và không tin cậy. Nó cung cấp dịch vụ chuyển
gói nỗ lực tối đa. Nỗ lực tối đa ở đây có nghĩa IP không cung cấp chức năng theo dõi và
kiểm tra lỗi. Nó chỉ cố gắng chuyển gói tới đích chứ không có sự đảm bảo. Nếu độ tin
cậy là yếu tố quan trọng, IP phải hoạt động với một giao thức tầng trên tin cậy, chẳng
hạn TCP.
2. Giao thức ICMP

104
Như đã trình bày ở trên, IP là giao thức chuyển gói phi kết nối và không tin cậy.
Nó được thiết kế nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả tài nguyên mạng. IP cung cấp
dịch vụ chuyển gói nỗ lực nhất. Tuy nhiên nó có hai thiếu hụt: thiếu điều khiển lỗi và
thiếu các cơ chế hỗ trợ; IP cũng thiếu cơ chế truy vấn. Một trạm đôi khi cần xác định
xem router hoặc một trạm khác có hoạt động không. Một người quản lý mạng đôi khi
cần thông tin từ một trạm hoặc router khác.
Giao thức thông báo điều khiển liên mạng (ICMP – Internet Control Message
Protocol) được thiết kế để bù đắp hai thiếu hụt trên. Nó được đi kèm với giao thức IP.
I.1.4 TẦNG TRUY NHẬP MẠNG
Tầng truy nhập mạng đôi khi còn được gọi là giao diện mạng. Nó cung cấp giao
tiếp với mạng vật lý (thông thường tầng này bao gồm các driver thiết bị trong hệ thống
vận hành và các card giao diện mạng tương ứng trong máy tính. Chức năng của tầng
này là điều khiển tất cả các thiết bị phần cứng, thực hiện giao tiếp vật lý với cáp hoặc
với bất kỳ môi trường nào được sử dụng cũng như là kiểm soát lỗi dữ liệu phân bố trên
mạng vật lý. Tầng truy nhập mạng không định nghĩa một giao thức riêng nào cả, nó hỗ
trợ tất cả các giao thức chuẩn (standard) và độc quyền (proprietory), ví dụ như Ethernet,
Token Ring, FDDI, X25, Frame Relay, ATM, …
I.2 ĐỊA CHỈ IP
Ở mức ứng dụng, chúng ta có thể coi một liên mạng là một mạng đơn lẻ kết nối
các trạm với nhau. Để một trạm truyền thông với trạm khác, chúng ta cần một hệ thống
định danh toàn cầu. Nói cách khác, chúng ta cần đặt tên duy nhất cho mỗi trạm. Hệ
thống định danh này chỉ được sử dụng tại tầng ứng dụng, không thể sử dụng ở tầng
mạng vì trên mạng còn có các thực thể khác gắn tới, chẳng hạn router.
Một liên mạng được tạo nên từ sự kết hợp của các mạng vật lý (LAN hoặc
WAN) kết nối với nhau qua các router. Khi một trạm truyền thông với một trạm khác,
gói dữ liệu có thể di chuyển từ một mạng vật lý này đến mạng vật lý khác bằng cách sử
dụng các router này. Nghĩa là việc truyền thông tại mức này cũng cần có một hệ thống
định danh toàn cục. Một trạm phải có thể truyền thông với một trạm bất kỳ mà không
phải lo lắng về mạng vật lý phải đi qua. Nghĩa là tại tầng này, một trạm cũng phải được
định danh duy nhất và toàn cục. Hơn nữa, để định tuyến tối ưu và hiệu quả, mỗi router
cũng phải được định danh duy nhất và toàn cục tại tầng này.
Số hiệu nhận dạng được sử dụng ở tầng liên mạng của bộ giao thức TCP/IP
được gọi là địa chỉ liên mạng hay địa chỉ IP. Đối với phiên bản IPv4, địa chỉ này là một
số nhị phân 32 bít, được thực thi trong phần mềm, dùng để định danh duy nhất và toàn
cục một trạm hoặc một router trên liên mạng.
Các địa chỉ IP là duy nhất theo nghĩa mỗi địa chỉ định danh một và chỉ một thiết
bị (trạm hoặc router) trên liên mạng. Hai thiết bị trên liên mạng không thể có cùng địa
chỉ IP. Tuy nhiên, một thiết bị có thể có nhiều địa chỉ IP nếu chúng được kết nối tới
nhiều mạng vật lý khác nhau.

105
Các địa chỉ IP là toàn cục theo nghĩa hệ thống đánh địa chỉ này phải được tất cả
các trạm muốn kết nối tới liên mạng chấp nhận.
Mỗi địa chỉ IP gồm 4 byte, định nghĩa hai phần: địa chỉ mạng (NetID) và địa chỉ
trạm (HostID). Các phần này có chiều dài khác nhau tuỳ thuộc vào lớp địa chỉ. Các bít
đầu tiên trong phần địa chỉ mạng xác định lớp của địa chỉ IP.

Hình 4.3: Ký pháp dấu chấm thập phân


Để dễ đọc và dễ nhớ, các địa chỉ IP thường được biểu diễn dưới dạng dấu chấm
thập phân. Trong cách biểu diễn này, các byte được tách riêng và biểu diễn dưới dạng
thập phân, viết cách nhau bởi dấu chấm (hình 3.3).
Các lớp địa chỉ IP: Địa chỉ IP được chia làm 5 lớp, ký hiệu là A, B, C, D và E. Chiều
dài phần địa chỉ mạng và phần địa chỉ trạm của các lớp là khác nhau. Cấu trúc của các
lớp được chỉ ra trong hình 4.4. Các bit đầu tiên của địa chỉ IP được dùng để định danh
lớp địa chỉ (0 - lớp A; 10 - lớp B; 110 - lớp C; 1110 - Lớp D và 1111 - lớp E).

Hình 4.4: Các lớp địa chỉ IP


I.2.1 ĐỊA CHỈ LỚP A
Trong địa chỉ lớp A, byte đầu tiên được dùng để định nghĩa địa chỉ mạng. Tuy
nhiên bít đầu tiên phải luôn luôn bằng ‘0’, 7 bít còn lại định nghĩa các mạng khác nhau.
Nghĩa là số mạng có địa chỉ IP lớp A rất hạn chế. Về lý thuyết có thể có 27 = 128 mạng
lớp A. Tuy nhiên trên thực tế chỉ có 126 mạng vì có 2 mạng được dành riêng cho các
mục đích cụ thể.
Trong một mạng địa chỉ lớp A, 24 bít được sử dụng để định danh địa chỉ trạm.
Nghĩa là về lý thuyết có thể có tối đa 224 = 16.777.216 trạm. Tuy nhiên cũng có hai địa

106
chỉ đặc biệt (phần địa chỉ trạm gồm toàn bít ‘0’ hoặc toàn bít ‘1’) được sử dụng làm các
địa chỉ đặc biệt. Nghĩa là thực tế chỉ có tối đa 16.777.214 trạm trong một mạng lớp A.
Các địa chỉ lớp A được thiết kế cho các tổ chức có số lượng máy tính cực lớn kết
nối vào mạng. Tuy nhiên, không một tổ chức nào có số lượng máy lớn như vậy do đó
rất nhiều địa chỉ bị lãng phí.
I.2.2 ĐỊA CHỈ LỚP B
Trong địa chỉ lớp B, 2 byte đầu được dùng để định nghĩa địa chỉ mạng và 2 byte
sau để định nghĩa địa chỉ trạm. Tuy nhiên, hai bít đầu tiên trong phần địa chỉ mạng luôn
luôn là ‘10’, nên chỉ có 14 bít để định nghĩa các mạng khác nhau. Nghĩa là có nhiều
mạng lớp B hơn lớp A. Số mạng lớp B là 214 = 16.384.
Trong một mạng lớp B, 16 bít được sử dụng để định danh trạm, nghĩa là về lý
thuyết mỗi mạng có thể có tối đa 216 = 65.536 trạm. Tuy nhiên cũng có hai địa chỉ đặc
biệt nên thực tế một mạng lớp B chỉ có tối đa 65.534 trạm.
Các địa chỉ lớp B được thiết kế cho các công ty cỡ vừa, những công ty có số
lượng máy tính tương đối lớn. Tuy nhiên cũng giống những mạng lớp A, nhiều địa chỉ
IP bị lãng phí vì rất ít công ty có số lượng máy tính lớn như vậy.
I.2.3 ĐỊA CHỈ LỚP C
Trong địa chỉ lớp C, 3 byte đầu được dùng cho phần địa chỉ mạng và 1 byte cuối
được dùng cho phần địa chỉ trạm. Tuy nhiên, 3 bít đầu tiên trong phần địa chỉ mạng
luôn luôn là ‘110’, nên chỉ còn 21 bít để định nghĩa địa chỉ mạng. Số mạng lớp C lớn
hơn số mạng lớp A, B và bằng 221 = 2.097.152 mạng.
Một mạng lớp C về lý thuyết có thể có tối đa 28 = 256 trạm. Tuy nhiên thực
tếchỉ có thể có tối đa 254 trạm do có hai địa chỉ được sử dụng cho các mục đích đặc
biệt.
Địa chỉ lớp C được thiết kế cho các công ty nhỏ, những công ty chỉ có ít trạm
nối vào mạng.
I.2.4 ĐỊA CHỈ LỚP D
Địa chỉ lớp D được định nghĩa cho truyền đa hướng (multicasting). Trong lớp
này, không có phần địa chỉ mạng và địa chỉ trạm. 4 bít đầu luôn luôn bằng ‘1110’ để
định nghĩa địa chỉ lớp D, 28 bít còn lại để định nghĩa địa chỉ đa hướng (multicast).
I.2.5 ĐỊA CHỈ LỚP E
Lớp E được dự phòng để sử dụng cho các mục đích đặc biệt. Không có phần địa
chỉ mạng và địa chỉ trạm. 4 bít đầu tiên bằng ‘1111’ để định nghĩa lớp E.
I.3 ĐỊA CHỈ CỔNG VÀ SOCKET
Mặc dù có một số cách để thực hiện truyền thông tiến trình-tới-tiến trình, nhưng
cách thông dụng nhất là thực hiện thông qua mô hình khách-chủ (client-server). Một

107
tiến trình trên máy cục bộ, được gọi là khách, cần một dịch vụ từ một ứng dụng trên
trạm ở xa, được gọi là chủ.
Các hệ điều hành hiện nay hỗ trợ cả môi trường đa người dùng và đa chương
trình. Một máy ở xa có thể chạy nhiều chương trình ứng dụng cùng lúc, giống như nhiều
máy cục bộ có thể chạy một hoặc nhiều chương trình khách cùng lúc. Để truyền thông,
chúng ta cần xác định:
− Trạm cục bộ,
− Tiến trình cục bộ
− Trạm ở xa
− Tiến trình ở xa
Trạm cục bộ và trạm ở xa được xác định sử dụng địa chỉ IP. Để xác định các tiến
trình, chúng ta cần một số hiệu nhận dạng thứ hai, đó là số cổng. Trong TCP/IP, số cổng
là một số nguyên nằm trong khoảng từ 0 đến 65535 (số 2 byte). Chương trình khách tự
xác định nó bằng một số cổng được chọn ngẫu nhiên. Cổng này được gọi là cổng ngẫu
nhiên.
Chương trình chủ cũng phải tự xác định bằng một số cổng. Tuy nhiên, cổng này
không thể được chọn ngẫu nhiên. Nếu máy chủ ở xa chạy một tiến trình chủ và lấy một
số ngẫu nhiên là số cổng, thì ứng dụng ở máy khách muốn truy nhập và sử dụng dịch vụ
trên máy chủ đó sẽ không biết được số cổng cần sử dụng. Tất nhiên, một giải pháp có
thể là gửi một gói đặc biệt để yêu cầu số cổng của một ứng dụng chủ cụ thể, tuy nhiên
cách này làm tăng lưu lượng mạng. TCP/IP đã chọn cách sử dụng các số cổng thông
dụng cho các ứng dụng chủ. Mọi tiến trình khách phải biết số cổng của tiến trình chủ
tương ứng.
Như vậy, địa chỉ IP và số cổng đóng vai trò khác nhau trong việc chọn đích cuối
cùng của dữ liệu. Địa chỉ IP đích xác định trạm trong số nhiều trạm khác nhau. Sau khi
trạm đã được chọn, số cổng xác định một tiến trình trên trạm cụ thể đó.
Các số cổng được chia thành ba vùng: thông dụng, đăng ký và động.
Cổng thông dụng nằm trong khoảng từ 0 đến 1023. Những cổng này được gán
và giám sát bởi IANA.
Cổng đăng ký nằm trong khoảng từ 1024 đến 49151, không do IANA gán và
điều khiển. Chúng chỉ có thể được đăng ký với IANA để tránh trùng lặp.
Cổng động nằm trong khoảng từ 49152 đến 65535 có thể được sử dụng bởi mọi
tiến trình. Chúng còn được gọi là các cổng ngẫu nhiên.
Để thiết lập một kết nối cần có hai số hiệu nhận dạng: địa chỉ IP và số cổng. Sự
kết hợp địa chỉ IP và số cổng được gọi là địa chỉ socket. Để sử dụng dịch vụ chúng ta
cần một cặp địa chỉ socket: địa chỉ socket khách và địa chỉ socket chủ. Địa chỉ socket
khách để định danh duy nhất ứng dụng khách. Địa chỉ socket chủ để định danh duy nhất
ứng dụng chủ. Bốn thông tin này là một phần của tiêu đề IP và tiêu đề TCP. Tiêu đề IP
chứa địa chỉ IP; tiêu đề TCP chứa địa chỉ cổng.

108
I.4 ĐỊNH TUYẾN TRONG MẠNG IP
I.4.1 KHÁI NIỆM VỀ ĐỊNH TUYẾN
Định tuyến là quá trình xác định đường đi để chuyển tải thông tin trong liên
mạng từ nguồn đến đích. Nó là một chức năng được thực hiện ở tầng mạng. Chức năng
này cho phép router đánh giá các đường đi sẵn có tới đích. Để đánh giá đường đi, định
tuyến sử dụng các thông tin về Topology của mạng. Các thông tin này có thể do người
quản trị thiết lập hoặc được thu thập thông qua các giao thức định tuyến.
Tầng mạng hỗ trợ chuyển gói cuối-tới-cuối cố gắng nhất (best-effort) qua các
mạng được kết nối với nhau. Tầng mạng sử dụng bảng định tuyến IP để gửi các gói từ
mạng nguồn đến mạng đích. Sau khi đã quyết định sử dụng đường đi nào, router tiến
hành việc chuyển gói. Nó lấy một gói nhận được ở giao diện vào và chuyển tiếp gói này
tới giao diện ra tương ứng (giao diện thể hiện đường đi tốt nhất tới đích cho gói).

Hình 4.5: Định tuyến gói tin theo địa chỉ mạng và địa chỉ trạm
Trong một liên mạng, mỗi mạng được định danh bởi một địa chỉ mạng và router
sử dụng các địa chỉ mạng này để nhận biết đích. Router sử dụng địa chỉ mạng để nhận
dạng mạng đích (LAN) của một gói tin trong một liên mạng. Hình 4.5 minh họa ba địa
chỉ mạng được dùng để nhận diện các phân đoạn kết nối tới router.
Khi định tuyến dữ liệu từ nguồn đến đích, router thường chuyển tiếp gói từ một
liên kết dữ liệu (mạng) này đến một liên kết dữ liệu khác, sử dụng hai chức năng cơ bản
là xác định đường đi và chuyển mạch.

109
I.4.2 ĐỊNH TUYẾN TĨNH VÀ ĐỊNH TUYẾN ĐỘNG
Các tuyến tĩnh được người quản trị cập nhật và quản lý một cách thủ công.
Trong trường hợp tôpô mạng thay đổi, người quản trị phải cập nhật lại các tuyến tĩnh
cho phù hợp.
Định tuyến động hoạt động khác với định tuyến tĩnh. Sau khi người quản trị
nhập các lệnh cấu hình để khởi tạo định tuyến động, thông tin về tuyến sẽ được cập nhật
tự động mỗi khi nhận được một thông tin mới từ liên mạng. Các thay đổi về tôpô mạng
được trao đổi giữa các router.
1. Định tuyến tĩnh
Định tuyến tĩnh có một số ứng dụng hữu ích. Định tuyến động có khuynh hướng
truyền đạt tất cả các thông tin về một liên mạng. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do
an toàn, chúng ta có thể muốn che dấu một số phần của liên mạng. Định tuyến tĩnh cho
phép chúng ta chỉ rõ thông tin muốn tiết lộ.
Trong trường hợp chỉ có một đường đi duy nhất tới mạng, thì chỉ một tuyến tĩnh
tới mạng là đủ. Loại mạng này được gọi là mạng cụt (stub network). Cấu hình định
tuyến tĩnh cho một mạng cụt tránh được lưu lượng cập nhật định tuyến động.
2. Định tuyến động
Mạng ở hình 4.6 sẽ thích ứng khác nhau đối với các thay đổi về tôpô mạng, tuỳ
thuộc việc nó sử dụng định tuyến tĩnh hay định tuyến động.
Định tuyến tĩnh cho phép các router định tuyến gói tin từ mạng này tới mạng
khác dựa trên các thông tin được cấu hình thủ công. Trong ví dụ này, Router A luôn gửi
lưu lượng có đích là Router C qua Router D. Router A tham chiếu tới bảng định tuyến
của nó và dựa theo các thông tin tĩnh để chuyển tiếp gói tới Router D. Router D cũng
thực hiện các công việc tương tự và chuyển tiếp gói tới Router C. Router C chuyển gói
tới trạm đích.
Nếu đường đi giữa Router A và Router D bị lỗi, Router A không không thể
chuyển gói tới Router D thông qua tuyến tĩnh đã thiết lập này. Như vậy, truyền thông
với mạng đích không thể thực hiện được cho đến khi Router A được cấu hình lại để
chuyển gói qua Router B. Đây chính là một nhược điểm của định tuyến tĩnh.

110
Hình 4.6: Định tuyến động và khả năng thay thế tuyến hỏng
Định tuyến động hoạt động linh hoạt hơn. Theo bảng định tuyến của Router A,
gói có thể tới đích của nó qua Router D. Tuy nhiên, còn có một đường đi sẵn có khác tới
đích, đó là đi qua Router B. Khi Router A nhận ra rằng liên kết tới Router D bị lỗi, nó
điều chỉnh bảng định tuyến và đường đi tới mạng đích sẽ qua Router B.
Khi liên kết giữa Router A và D được khôi phục, Router A có thể một lần nữa
thay đổi bảng định tuyến để chuyển đường đi tới đích là qua Router D.
Các giao thức định tuyến động cũng có thể chuyển lưu lượng từ cùng một phiên
làm việc qua nhiều đường đi khác nhau trong mạng để có hiệu suất cao hơn. Tính chất
này được gọi là chia sẻ tải (load sharing).
Sự thành công của định tuyến động phụ thuộc vào hai chức năng cơ bản của
router:
− Duy trì bảng định tuyến,
− Chia sẻ tri thức cho các router khác dưới dạng các cập nhật định tuyến.
Định tuyến động dựa vào các giao thức định tuyến để chia sẻ tri thức giữa các
router. Giao thức định tuyến định nghĩa một tập luật mà router sử dụng khi liên lạc với
các router kế cận.
3. Xác định khoảng cách trên các đường đi
Khi một giải thuật định tuyến cập nhật bảng định tuyến, mục đích chính của nó
là xác định đâu là thông tin tốt nhất để lưu trong bảng định tuyến. Mỗi giải thuật định
tuyến xác định thông tin tốt nhất theo cách của riêng nó. Giải thuật tạo ra một số, được
gọi là giá trị metric, cho mỗi đường đi qua mạng. Thường thì giá trị metric càng nhỏ thì
đường đi càng tối ưu.
Có thể tính toán các metric dựa trên một đặc tính đơn lẻ của đường đi; hoặc cũng
có thể tính các metric phức tạp hơn bằng cách kết hợp nhiều đặc tính. Các metric được

111
sử dụng phổ biến gồm: chiều dài đường đi, độ tin cậy, độ trễ định tuyến, băng thông, tải,
giá truyền thông.
Hầu hết các giải thuật định tuyến đều thuộc một trong 3 loại sau:
• Giải thuật vectơ khoảng cách (distance vector).
• Giải thuật trạng thái liên kết (Link State).
• Giải thuật lai.
Giải thuật định tuyến vectơ khoảng cách xác định hướng (vectơ) và khoảng cách
tới bất kỳ một liên kết nào trên liên mạng. Giao thức định tuyến vectơ khoảng cách gửi
định kỳ các bản sao của một bảng định tuyến từ một router tới các router hàng xóm
(router nối trực tiếp). Những cập nhật đều đặn này giữa các router truyền đạt các thay
đổi về tôpô mạng.
Giải thuật trạng thái liên kết (còn được gọi là giải thuật đường đi ngắn nhất) tạo
lại chính xác tôpô của toàn bộ liên mạng (hoặc ít nhất một phần của liên mạng mà
Router nối tới). Các giải thuật định tuyến trạng thái liên kết, còn được gọi là giải thuật
đường đi ngắn nhất trước (SPF), duy trì một cơ sở dữ liệu phức tạp về thông tin tôpô.
Trong khi giải thuật véctơ khoảng cách có các thông tin không cụ thể về các mạng ở xa
và không có hiểu biết về các router ở xa, thì giải thuật định tuyến trạng thái liên kết duy
trì các thông tin đầy đủ về router ở xa và cách chúng được kết nối với nhau.
Các giải thuật trạng thái liên kết dựa trên việc sử dụng các cập nhật trạng thái
liên kết. Mỗi khi tôpô trạng thái liên kết thay đổi, các router đầu tiên biết được sự thay
đổi này gửi một thông tin mới tới các router khác hoặc tới một router chỉ định (nơi các
router khác có thể sử dụng để cập nhật).
I.4.3 GIAO THỨC ĐỊNH TUYẾN
Ngày nay, một liên mạng có thể lớn đến mức một giao thức định tuyến không
thể xử lý công việc cập nhật các bảng định tuyến của tất cả các router. Vì lý do này, liên
mạng được chia thành nhiều hệ thống tự trị (AS - Autonomous System). Hệ thống tự trị
là một nhóm các mạng và router chịu một quyền lực quản trị chung. Nó đôi khi còn
được gọi là vùng định tuyến (routing domain). Định tuyến bên trong một hệ thống tự trị
được gọi là định tuyến trong. Định tuyến giữa các hệ thống tự trị được gọi là định tuyến
ngoài. Mỗi hệ thống tự trị có thể chọn một giao thức định tuyến trong để thực hiện định
tuyến bên trong hệ thống. Tuy nhiên, thường chỉ có một giao thức định tuyến ngoài
được chọn để thực hiện định tuyến giữa các hệ thống tự trị.
Hiện nay có nhiều giao thức định tuyến trong và ngoài đang được sử dụng. Tuy
nhiên, tiêu biểu nhất và phổ biến nhất là giao thức định tuyến trong (OSPF) và một giao
thức định tuyến ngoài (BGP). OSPF có thể được sử dụng để cập nhật các bảng định
tuyến bên trong một hệ thống tự trị. BGP có thể được sử dụng để cập nhật các bảng định
tuyến cho các router nối các hệ thống tự trị với nhau.

112
II. MẠNG NGN
II.1 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN MẠNG
II.1.1 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA MẠNG HIỆN TẠI
Hiện nay có rất nhiều loại mạng khác nhau cùng song song tồn tại. Mỗi mạng lại
yêu cầu phương pháp thiết kế, sản xuất, vận hành, bảo dưỡng khác nhau. Như vậy hệ
thống mạng viễn thông hiện tại có rất nhiều nhược điểm mà quan trọng nhất là:
- Chỉ truyền được các dịch vụ độc lập tương ứng với từng mạng. Các mạng viễn
thông hiện tại có đặc điểm chung là tồn tại một cách riêng lẻ, ứng với mỗi loại dịch vụ
thông tin lại có ít nhất một loại mạng viễn thông riêng biệt để phục vụ dịch vụ đó.
+ Mạng Telex: dùng để gửi các bức điện dưới dạng ký tự đã được mã hoá bằng 5
bit (mã Baudot). Tốc độ truyền rất thấp (từ 75 tới 300 bit/s)
+ Mạng điện thoại công cộng, còn gọi là mạng POTS (Plain Old Telephone
Service): ở đây thông tin tiếng nói được số hóa và chuyển mạch ở hệ thống
chuyển mạch điện thoại công cộng PSTN.
+ Mạng truyền số liệu: bao gồm các mạng chuyển mạch gói để trao đổi số liệu
giữa các máy tính dựa trên giao thức của X.25 và hệ thống truyền số liệu chuyển
mạch kênh dựa trên các giao thức X.21.
+ Các tín hiệu truyền hình có thể được truyền theo ba cách: truyền bằng sóng vô
tuyến, truyền qua hệ thống mạng truyền hình cáp CATV (Community Antenna
Television) bằng cáp đồng trục hoặc truyền qua hệ thống vệ tinh, hay còn gọi là
truyền hình trực tiếp DBS (Direct Broadcast System).
+ Trong phạm vi cơ quan, số liệu giữa các máy tính được trao đổi thông qua
mạng cục bộ LAN (Local Area Network) mà nổi tiếng nhất là mạng Ethernet,
Token Bus và Token Ring.
Mỗi mạng được thiết kế cho các dịch vụ riêng biệt và không thể sử dụng cho các
mục đích khác. Ví dụ ta không thể truyền tiếng nói qua mạng chuyển mạch gói
X.25 vì trễ qua mạng này quá lớn.
- Thiếu mềm dẻo: Sự ra đời của các công nghệ mới ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc
độ truyền tín hiệu. Ngoài ra, sẽ xuất hiện nhiều dịch vụ truyền thông trong tương lai mà
hiện nay chưa dự đoán được, mỗi loại dịch vụ sẽ có tốc độ truyền khác nhau. Ta dễ
dàng nhận thấy mạng hiện tại sẽ rất khó thích nghi với những đòi hỏi này.
- Kém hiệu quả trong việc bảo dưỡng, vận hành cũng như sử dụng tài nguyên.
Tài nguyên sẵn có trong một mạng không thể chia sẻ cho các mạng khác cùng sử dụng.
Mặt khác, mạng viễn thông hiện nay được thiết kế nhằm mục đích khai thác dịch
vụ thoại là chủ yếu. Do đó, đứng ở góc độ này, mạng đã phát triển tới một mức gần như
giới hạn về sự cồng kềnh và mạng tồn tại một số khuyết điểm cần khắc phục.
- Kiến trúc tổng đài độc quyền làm cho các nhà khai thác gần như phụ thuộc
hoàn toàn vào các nhà cung cấp tổng đài. Điều này không những làm giảm sức cạnh

113
tranh cho các nhà khai thác, đặc biệt là những nhà khai thác nhỏ, mà còn tốn nhiều thời
gian và tiền bạc khi muốn nâng cấp và ứng dụng các phần mềm mới.
- Các tổng đài chuyển mạch kênh đã khai thác hết năng lực và trở nên lạc hậu
đối với nhu cầu của khách hàng. Các chuyển mạch Class5 đang tồn tại làm hạn chế khả
năng sáng tạo và triển khai các dịch vụ mới, từ đó dẫn đến việc làm giảm lợi nhuận của
các nhà khai thác.
- Sự bùng nổ lưu lượng thông tin đã khám phá sự kém hiệu quả của chuyển
mạch kênh TDM. Chuyển mạch kênh truyền thống chỉ dùng để truyền các lưu lượng
thoại có thể dự đoán trước, và nó không hỗ trợ lưu lượng dữ liệu tăng đột biến một cách
hiệu quả. Khi lượng dữ liệu tăng vượt lưu lượng thoại, đặc biệt đối với dịch vụ truy cập
Internet quay số trực tiếp, thường xảy ra nghẽn mạch do nguồn tài nguyên hạn hẹp.
Trong khi đó, chuyển mạch kênh làm lãng phí băng thông khi các mạch đều rỗi trong
một khoảng thời gian mà không có tín hiệu nào được truyền đi.
Đứng trước tình hình phát triển của mạng viễn thông hiện nay, các nhà khai thác
nhận thấy rằng “sự hội tụ giữa mạng PSTN và mạng PSDN” là chắc chắn xảy ra. Họ
cần có một cơ sở hạ tầng duy nhất cung cấp cho mọi dịch vụ (tương tự - số, băng hẹp -
băng rộng, cơ bản - đa phương tiện,…) để việc quản lý tập trung, giảm chi phí bảo
dưỡng và vận hành, đồng thời hỗ trợ các dịch vụ của mạng hiện nay.
II.1.2 ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC
MẠNG
1. Nhu cầu phát triển của xã hội thông tin
Trong bối cảnh xã hội ngày càng đa dạng nhu cầu về phát triển kinh tế, giáo dục,
xã hội, y tế, an ninh quốc phòng, đã tác động mạnh đến sự phát triển lĩnh vực truyền
thông nhằm đáp ứng những nhu cầu đó:
(a) Nhu cầu về cung cấp đa dịch vụ và các dịch vụ mới
Sự phát triển của xã hội thông tin đã làm nảy sinh nhu cầu được cung cấp đa
dịch vụ và các dịch vụ mới: các dịch vụ truyền thông băng rộng, truyền thông băng hẹp,
các dịch vụ truyền thông thời gian thực (như trò trơi trên mạng thời gian thực,..), các
dịch vụ chuyên ngành (trợ giúp từ xa, đào tạo giáo dục từ xa qua mạng, chăm sóc sức
khoẻ qua mạng,..), các dịch vụ đa phương tiện, các dịch vụ hội nghị truyền hình, cầu
truyền hình ra nước ngoài, và tới các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa,…
(b) Nhu cầu về khả năng liên lạc thông tin rộng khắp
Các dịch vụ được cung cấp phải tiện lợi, dễ sử dụng, có khả năng liên lạc thông
tin rộng khắp đa phương tiện, đảm bảo độ tin cậy, có tốc độ truy nhập cao, có thể truy
nhập ở bất kỳ thời gian nào, bất kỳ đâu (công sở hay ở nhà, hay những nơi công
cộng,…).
(c) Nhu cầu về việc phát triển hệ thống linh hoạt, mềm dẻo
Để thuận tiện trong việc giám sát quản lý, phát triển cung cấp dịch vụ đáp ứng
nhu cầu của thuê bao, đòi hỏi có một cấu trúc mạng phải đơn giản, độ linh hoạt cao, có

114
khả năng hỗ trợ tất cả các kết nối cho cả vô tuyến và hữu tuyến, hỗ trợ tất cả các dịch vụ
của các mạng hiện tại, dễ dàng nâng cấp và mở rộng…
(d) Nhu cầu dễ dàng phát triển dịch vụ mới
Cấu trúc mạng phải cho phép việc tạo ra các dịch vụ mới được dễ dàng. Các nhà
khai thác mạng, và các tổ chức cá nhân có thể dựa trên cấu trúc mạng để phát triển dịch
vụ mới, mà không phụ thuộc vào nhà cung cấp mạng, để có thể tạo ra các dịch vụ mới
tích hợp công nghệ thông tin và viễn thông IT (Information telecommunication), các
dịch vụ đáp ứng cho các nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp, …
2. Xu hướng phát triển
Trong nhiều năm gần đây, nền công nghiệp Viễn thông vẫn đang trăn trở về vấn
đề phát triển công nghệ căn bản nào và dùng mạng gì để hỗ trợ các nhà khai thác trong
bối cảnh luật viễn thông đang thay đổi nhanh chóng, cạnh tranh ngày càng gia tăng
mạnh mẽ. Khái niệm mạng thế hệ mới (hay còn gọi là mạng thế hệ tiếp theo - NGN) ra
đời cùng với việc tái kiến trúc mạng, tận dụng tất cả các ưu thế về công nghệ tiên tiến
nhằm đưa ra nhiều dịch vụ mới, mang lại nguồn thu mới, góp phần giảm chi phí khai
thác và đầu tư ban đầu cho các nhà kinh doanh.
Một chiến lược để phát triển nhịp nhàng từ mạng hiện tại sang kiến trúc mạng
mới là rất quan trọng nhằm giảm thiểu yêu cầu đầu tư trong giai đoạn chuyển tiếp, trong
khi sớm tận dụng được những phẩm chất của mạng NGN. Tuy nhiên bất kỳ bước đi nào
trong tiến trình chuyển tiếp này cũng cần tạo điều kiện dễ dàng hơn cho mạng để rốt
cuộc vẫn phát triển sang kiến trúc NGN dựa trên chuyển mạch gói. Bất cứ giải pháp nào
được chọn lựa thì các hệ thống chuyển mạch truyền thống cũng sẽ phải tồn tại bên cạnh
các phần tử mạng công nghệ mới trong nhiều năm tới.
Mạng thế hệ sau được tổ chức dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau :
- Đáp ứng nhu cầu cung cấp các loại hình dịch vụ viễn thông phong phú, đa
dạng, đa dịch vụ, đa phương tiện.
- Mạng có cấu trúc đơn giản.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng, chất lượng mạng lưới và giảm thiểu chi phí khai
thác và bảo dưỡng.
- Dễ dàng mở rộng dung lượng, phát triển các dịch vụ mới.
- Độ linh hoạt và tính sẵn sàng cao, năng lực tồn tại mạnh.
Việc tổ chức mạng dựa trên số lượng thuê bao theo vùng địa lý và nhu cầu phát
triển dịch vụ, không tổ chức theo địa bàn hành chính mà tổ chức theo vùng mạng hay
vùng lưu lượng.
Ở đây, chủ yếu chúng ta xem xét quá trình tiến hóa về cấu trúc từ mạng hiện có
lên cấu trúc mạng NGN.

115
Hình 4.7: Nhu cầu tiến hóa mạng
Như hình vẽ, chúng ta nhận thấy mạng viễn thông hiện tại gồm nhiều mạng
riêng lẻ kết hợp lại với nhau thành một mạng “hỗn tạp”, chỉ được xây dựng ở cấp quốc
gia, nhằm đáp ứng được nhiều loại dịch vụ khác nhau. Xét đến mạng Internet, đó là một
mạng đơn lớn, có tính chất toàn cầu, thường được đề cập theo một loạt các giao thức
truyền dẫn hơn là theo một kiến trúc đặc trưng. Internet hiện tại không hỗ trợ QoS cũng
như các dịch vụ có tính thời gian thực ( như thoại truyền thống).
Do đó, việc xây dựng mạng thế hệ mới NGN cần tuân theo các chỉ tiêu :
1. NGN phải có khả năng hỗ trợ cả cho các dịch vụ của mạng Internet và của
mạng hiện hành.
2. Một kiến trúc NGN khả thi phải hỗ trợ dịch vụ qua nhiều nhà cung cấp khác
nhau. Mỗi nhà cung cấp mạng hay dịch vụ là một thực thể riêng lẻ với mục tiêu kinh
doanh và cung cấp dịch vụ khác nhau, và có thể sử dụng những kỹ thuật và giao thức
khác nhau. Một vài dịch vụ có thể chỉ do một nhà cung cấp dịch vụ đưa ra, nhưng tất cả
các dịch vụ đều phải được truyền qua mạng một cách thông suốt từ đầu cuối đến đầu
cuối.
3. Mạng tương lai phải hỗ trợ tất cả các loại kết nối (hay còn gọi là cuộc gọi),
thiết lập đường truyền trong suốt thời gian chuyển giao, cả cho hữu tuyến cũng như vô
tuyến.

116
Vì vậy, mạng NGN sẽ tiến hóa lên từ mạng truyền dẫn hiện tại (phát triển thêm
chuyển mạch gói) và từ mạng Internet công cộng ( hỗ trợ thêm chất lượng dịch vụ
QoS).

Hình 4.8: Xu hướng hội tụ công nghệ


II.2 KHÁI NIỆM MẠNG THẾ HỆ SAU NGN (NEXT
GENERATION NETWORK)
Khái niệm: Mạng viễn thông thế hệ sau là một mạng có hạ tầng thông tin duy
nhất dựa trên công nghệ gói để có thể triển khai nhanh chóng các loại hình dịch vụ khác
nhau dựa trên sự hội tụ giữa thoại và số liệu, giữa cố định và di động.
Mạng viễn thông thế hệ mới có nhiều tên gọi khác nhau, chẳng hạn như:
− Mạng đa dịch vụ (cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau)
− Mạng hội tụ (hỗ trợ cho cả lưu lượng thoại và dữ liệu, cấu trúc mạng hội tụ)
− Mạng phân phối (phân phối tính thông minh cho mọi phần tử trong mạng)
− Mạng nhiều lớp (mạng được phân phối ra nhiều lớp mạng có chức năng độc
lập nhưng hỗ trợ nhau thay vì một khối thống nhất như trong mạng TDM).
Cho tới hiện nay, mặc dù các tổ chức viễn thông quốc tế và cung các nhà cung
cấp thiết bị viễn thông trên thế giới đều rất quan tâm và nghiên cứu về chiến lược phát
triển NGN nhưng vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể và chính xác nào cho mạng NGN.
Do đó khái niệm mạng NGN nêu ra ở đây không thể bao hàm hết mọi chi tiết về mạng
thế hệ mới, nhưng nó có thể tương đối là khái niệm chung nhất khi đề cập đến NGN.
Bắt nguồn từ sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ chuyển mạch gói
và công nghệ truyền dẫn băng rộng, mạng thông tin thế hệ mới (NGN) ra đời là mạng
có cơ sở hạ tầng thông tin duy nhất dựa trên công nghệ chuyển mạch gói, triển khai các
dịch vụ một cách đa dạng và nhanh chóng, đáp ứng sự hội tụ giữa thoại và số liệu, giữa
cố định và di động.

117
Như vậy, có thể xem mạng thông tin thế hệ mới là sự tích hợp mạng thoại
PSTN, chủ yếu dựa trên kỹ thuật TDM, với mạng chuyển mạch gói, dựa trên kỹ thuật
IP/ATM. Nó có thể truyền tải tất cả các dịch vụ vốn có của PSTN đồng thời cũng có thể
nhập một lượng dữ liệu rất lớn vào mạng IP, nhờ đó có thể giảm nhẹ gánh nặng của
PSTN.
Tuy nhiên, NGN không chỉ đơn thuần là sự hội tụ giữa thoại và dữ liệu mà còn là sự
hội tụ giữa truyền dẫn quang và công nghệ gói, giữa mạng cố định và di động. Vấn đề
chủ đạo ở đây là làm sao có thể tận dụng hết lợi thế đem đến từ quá trình hội tụ này.
Một vấn đề quan trọng khác là sự bùng nổ nhu cầu của người sử dụng cho một khối
lượng lớn dịch vụ và ứng dụng phức tạp bao gồm cả đa phương tiện, phần lớn trong đó
là không được trù liệu khi xây dựng các hệ thống mạng hiện nay.
II.3 ĐẶC ĐIỂM MẠNG NGN
Mạng NGN có bốn đặc điểm chính:
1. Nền tảng là hệ thống mạng mở.
2. Mạng NGN là do mạng dịch vụ thúc đẩy, nhưng dịch vụ phải thực hiện độc
lập với mạng lưới.
3. Mạng NGN là mạng chuyển mạch gói, dựa trên một giao thức thống nhất.
4. Là mạng có dung lượng ngày càng tăng, có tính thích ứng cũng ngày càng
tăng, có đủ dung lượng để đáp ứng nhu cầu.
Trước hết, do áp dụng cơ cấu mở mà :
- Các khối chức năng của tổng đài truyền thống chia thành các phần tử mạng độc
lập, các phần tử được phân theo chức năng tương ứng, và phát triển một cách
độc lập.
- Giao diện và giao thức giữa các bộ phận phải dựa trên các tiêu chuẩn tương
ứng.
Việc phân tách làm cho mạng viễn thông vốn có dần dần đi theo hướng mới, nhà
kinh doanh có thể căn cứ vào nhu cầu dịch vụ để tự tổ hợp các phần tử khi tổ chức mạng
lưới. Việc tiêu chuẩn hóa giao thức giữa các phần tử có thể thực hiện nối thông giữa các
mạng có cấu hình khác nhau.
Tiếp đến, mạng NGN là mạng dịch vụ thúc đẩy, với đặc điểm của:
- Chia tách dịch vụ với điều khiển cuộc gọi
- Chia tách cuộc gọi với truyền tải
Mục tiêu chính của chia tách là làm cho dịch vụ thực sự độc lập với mạng, thực
hiện một cách linh hoạt và có hiệu quả việc cung cấp dịch vụ. Thuê bao có thể tự bố trí
và xác định đặc trưng dịch vụ của mình, không quan tâm đến mạng truyền tải dịch vụ và
loại hình đầu cuối. Điều đó làm cho việc cung cấp dịch vụ và ứng dụng có tính linh hoạt
cao.

118
Thứ ba, NGN là mạng chuyển mạch gói, giao thức thống nhất. Mang thông tin
hiện nay, dù là mạng viễn thông, mạng máy tính hay mạng truyền hình cáp, đều không
thể lấy một trong các mạng đó làm nền tảng để xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin. Nhưng
mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ IP, người ta mới nhận thấy rõ
ràng là mạng viễn thông, mạng máy tính và mạng truyền hình cáp cuối cùng rồi cũng
tích hợp trong một mạng IP thống nhất, đó là xu thế lớn mà người ta thường gọi là
“dung hợp ba mạng”. Giao thức IP làm cho các dịch vụ lấy IP làm cơ sở đều có thể thực
hiện nối thông các mạng khác nhau; con người lần đầu tiên có được giao thức thống
nhất mà ba mạng lớn đều có thể chấp nhận được; đặt cơ sở vững chắc về mặt kỹ thuật
cho hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia (NII).
Giao thức IP thực tế đã trở thành giao thức ứng dụng vạn năng và bắt đầu được
sử dụng làm cơ sở cho các mạng đa dịch vụ, mặc dù hiện tại vẫn còn ở thế bất lợi so với
các chuyển mạch kênh về mặt khả năng hỗ trợ lưu lượng thoại và cung cấp chất lượng
dịch vụ đảm bảo cho số liệu. Tốc độ đổi mới nhanh chóng trong thế giới Internet, mà nó
được tạo điều kiện bởi sự phát triển của các tiêu chuẩn mở sẽ sớm khắc phục những
thiếu sót này.

Hình 4.9: Topo mạng thế hệ sau

119
II.4 MÔ HÌNH CẤU TRÚC MẠNG NGN

Hình 4.10: Cấu trúc mạng viễn thông NGN


Cho đến nay vẫn chưa có một khuyến nghị chính thức nào của tổ chức viễn
thông quốc tế ITU về cấu trúc mạng NGN. Các hãng cung cấp thiết bị viễn thông đã
đưa ra một số mô hình cấu trúc mạng thế hệ mới NGN khác nhau. Nhưng nhìn chung từ
các mô hình này cấu trúc mạng viễn thông thế hệ mới có đặc điểm chung là bao gồm
các lớp chức năng sau:
- Lớp ứng dụng dịch vụ.
- Lớp điều khiển.
- Lớp lõi /chuyển tải.
- Lớp truy nhập.
- Lớp quản lý.
Sau đây sẽ phân tích đặc điểm cấu trúc của từng lớp chức năng của mạng NGN
II.4.1 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC LỚP ỨNG DỤNG DỊCH VỤ
Lớp ứng dụng dịch vụ của cấu trúc mạng NGN phải có khả năng cung cấp các
dịch vụ thông thường như thoại, fax, internet, dịch vụ đa phương tiện, các trò chơi trên
mạng thời gian thực, dịch vụ truyền số liệu,… và cung cấp các dịch vụ mới được xây
dựng, ví dụ như dịch vụ đào tạo giáo dục từ xa qua mạng, khám chữa bệnh từ xa, các
dịch vụ tích hợp IT (Information Telecommunication), các dịch vụ hình ảnh động,… Do
đó cấu trúc của lớp ứng dụng dịch vụ của mạng thế hệ mới NGN phải có các đặc điểm
sau:

120
• Phải có khả năng liên lạc thông tin rộng khắp đa phương tiện, đảm bảo độ tin
cậy, tốc độ truy cập cao với bất kỳ thời gian nào, bất kỳ đâu, phương tiện truy
nhập gì.
• Dễ sử dụng, cho phép truy nhập các dịch vụ một cách nhanh chóng, cung cấp
giao diện cho người sử dụng cho phép tương tác giữa người và máy tính một
cách tự nhiên, có khả năng cung cấp các thông tin trợ giúp, lựa chọn tự động
tương tác với các dịch vụ, có khả năng cung cấp các menu các dịch vụ ứng dụng
cho người sử dụng.
• Các dịch vụ quản lý thông tin cá nhân, cung cấp các dịch vụ giám sát thông tin
sử dụng và tính cước,…
• Quản lý thông minh, nó giúp người sử dụng quản lý tình trạng quá tải thông tin
bằng việc đưa ra khả năng tìm kiếm, sắp xếp và lọc bản tin hoặc dữ liệu.
II.4.2 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC LỚP ĐIỀU KHIỂN
Lớp điều khiển có nhiệm vụ điều khiển kết nối để cung cấp các dịch vụ với bất
kỳ loại giao thức nào. Lớp điều khiển bao gồm các hệ thống điều khiển được tổ chức
theo kiểu module các bộ điều khiển: IP/MPLS Controler, ATM/SVC Controler,
Voice/SS7 Controler.

Hình 4.11 Cấu trúc lớp điều khiển mạng NGN


Lớp điều khiển thực hiện giám sát, sửa đổi và giải phóng các phiên giao dịch cụ
thể là: Áp dụng các dịch vụ/ ứng dụng cho các kết nối dựa trên các thông tin truy nhập
dịch vụ, nhận dạng tín hiệu báo hiệu để từ đó xác định các tham số cần thiết cho dịch vụ
để thống nhất trong quá trình bắt tay với các thực thể khác, kết nối và khởi phát các báo
hiệu hoặc đan xen các giao thức báo hiệu thông qua việc chuyển đổi các giao thức báo
hiệu này, thực hiện quản lý các kết nối trong và sau khi thiết lập và điều phối, quản lý

121
các tài nguyên hệ thống cho các dịch vụ được yêu cầu. Thực hiện điều khiển huỷ bỏ kết
nối, quản lý ghi lại các thông số của cuộc kết nối để cung cấp thông tin cho việc xử lý
tính cước,…
Các đặc điểm cấu trúc của lớp điều khiển:
Cấu trúc lớp điều khiển phải có khả năng điều khiển các phiên giao dịch trong
một hệ thống mạng hội tụ dịch vụ và công nghệ nên nó phải có khả năng hỗ trợ một số
lượng lớn các giao thức khác nhau đã từng tồn tại trong các mạng chuyển mạch độc lập
trước đây, như giao thức báo hiệu cuộc gọi liên đài, các giao thức điều khiển cổng
phương tiện MG (Media Gateway), cổng ghép trung kế ghép nối với các mạng trước
đây TG (Trunk Gateway), cổng ghép nối với hệ thống báo hiệu SG(Signaling Gateway),

Cấu trúc lớp điều khiển phải có khả năng hỗ trợ tất cả các dịch vụ mạng hiện tại
bao gồm các dịch vụ cơ bản, các dịch vụ mạng thông minh, các dịch vụ bổ sung ...
Số bản tin thiết lập một cuộc gọi lớn, trong mạng IP số lượng các bản tin dùng
cho thiết lập, duy trì và huỷ bỏ 1 cuộc gọi lớn hơn nhiều so với các chuyển mạch kênh
truyền thống, sở dĩ như vậy vì mạng IP cần nhiều thông tin để đảm bảo sự đồng bộ và
an toàn thông tin
Do cấu trúc mạng NGN là một hệ thống phục vụ nhiều người dùng với nhiều
loại hình dịch vụ do đó lớp điều khiển có các tham số vào là một tham số ngẫu nhiên có
tính thống kê, nó phụ thuộc vào các yếu tố như địa bàn phục vụ, thời gian trong ngày vì
vậy việc xử lý hệ thống, tài nguyên dùng cho xử lý cuộc gọi cũng thay đổi phụ thuộc
vào các tham số trên ngoài ra còn phụ thuộc vào cả độ phức tạp của logic dịch vụ được
sử dụng.
Các hệ thống điều khiển cần xử lý nhiều cuộc gọi đồng thời. Mỗi cuộc gọi đang
diễn ra bao giờ cũng có những CSDL động cần giám sát, như vậy hệ thống điều khiển
phải làm việc với một CSDL khá lớn và đòi hỏi thời gian truy xuất nhanh. Ngoài việc
xử lý cuộc gọi, hệ thống điều khiển cũng quản lý dữ liệu tĩnh của thuê bao khá lớn. Cơ
sở dữ liệu của thuê bao này dù tĩnh nhưng cũng cần thời gian truy xuất ngắn để đảm bảo
thời gian chung để thiết lập cuộc gọi.
II.4.3 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC LỚP CHUYỂN TẢI/LÕI
Lớp chuyển tải/lõi của mạng NGN sẽ thực hiện chức năng chuyển mạch và chức
năng truyền dẫn:
• Chức năng chuyển mạch
Công nghệ chuyển mạch mạng NGN có những thay đổi lớn so với các thiết bị
chuyển mạch TDM trước đây. Công nghệ chuyển mạch của mạng thế hệ mới NGN là
công nghệ ATM/IP được tổ chức thành hai lớp chuyển mạch
- Lớp chuyển mạch lõi ATM/IP core
- Lớp chuyển mạch biên Multiservice Switch

122
Chuyển mạch mạng thế hệ mới phải có khả năng hỗ trợ các dịch vụ chuyển
mạch khác với chuyển mạch gói như chuyển mạch TDM, Fram Relay, các dịch vụ truy
nhập vô tuyến… sang môi trường chuyển mạch gói và ngược lại.
• Chức năng truyền dẫn
Hệ thống truyền dẫn của mạng NGN sẽ thực hiện chức năng định tuyến, truyền
tải các luồng thông tin trong mạng dưới sự điều khiển của các thiết bị thuộc lớp điều
khiển.
Mạng truyền dẫn mạng viễn thông thế hệ mới phải có tốc độ truyền dẫn cao,
băng thông lớn để đáp ứng cho việc truyền tải thông tin yêu cầu thời gian thực, dung
lượng lớn. Công nghệ truyền dẫn cho mạng NGN sẽ sử dụng công nghệ truyền dẫn phân
cấp số đồng bộ SDH kết hợp với công nghệ ghép kênh quang theo bước sóng WDM và
tiến tới xây dựng mạng truyền dẫn công nghệ OTN sử dụng phương thức
IP/ATM/SDH/Optic.
II.4.4 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC LỚP TRUY NHẬP
Cấu trúc của lớp truy nhập mạng viễn thông thế hệ mới sẽ bao gồm toàn bộ
nútvtruy nhập hữu tuyến và vô tuyến nhằm cung cấp đa loại hình dịch vụ cho thuê bao.
Truy nhập hữu tuyến sử dụng các đường truyền cáp đồng, đường truyền tín hiệu
số xDSL hiện đang sử dụng, đường truyền cáp quang. Trong tương lai tiến tới truyền
dẫn quang DWDM (Dense Wavelength Division Multiplex) và hệ thống truy nhập sử
dụng các đường truyền cáp đồng, đường truyền dẫn tín hiệu số xDSL sẽ dần thu hẹp lại.
Các thiết bị truy nhập tích hợp có khả năng cung cấp các cổng giao tiếp: POTS,
VoIP, IP, ATM, X25, IP-VPN, xDSL,… thuê bao có thể sử dụng mọi truy nhập tương
tự, số, TDM, ATM, IP,… để truy nhập các dịch vụ ứng dụng của mạng NGN.
II.4.5 ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC LỚP QUẢN LÝ
Lớp quản lý của mạng thế hệ mới là một lớp đặc biệt xuyên suốt các lớp, từ lớp
ứng dụng dịch vụ cho tới lớp truy nhập.
Kiến trúc lớp quản lý đó là kiến trúc gồm các hệ thống phân tán và một tập giới
hạn các dịch vụ hệ thống, hỗ trợ những nhu cầu về quản lý và điều hành, kinh doanh.
Tại lớp quản lý mạng NGN người ta có thể triển khai kế hoạch xây dựng mạng
giám sát viễn thông TMN (Telecommunications Management Network), như một mạng
riêng theo dõi và điều phối các thành phần mạng viễn thông đang hoạt động. Vì căn bản
mạng NGN sẽ dựa trên các giao diện mở và cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ trong
mạng đơn, cho nên mạng quản lý phải làm việc trong một môi trường đa nhà đầu tư, đa
nhà khai thác, đa dịch vụ.
Có rất nhiều tổ chức đưa ra các mô hình quản lý mạng viễn thông thế hệ mới
khác nhau, theo khuyến nghị của tổ chức viễn thông quốc tế ITU đưa ra, mạng quản lý
TMN sẽ bao gồm 4 lớp là :
• Quản lý phần tử mạng.
• Quản lý mạng.

123
• Quản lý dịch vụ.
• Quản lý kinh doanh.
Việc quản lý ở mỗi lớp là khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Quá trình làm
việc từ trên xuống, mỗi lớp đặt lên các yêu cầu với các lớp bên dưới. Quá trình làm việc
từ dưới lên, mỗi lớp cung cấp năng lực và tiềm năng đến lớp trên.

Hình 4.12: Mạng quản lý TMN theo khuyến nghị của ITU
II.5 MẠNG THẾ HỆ SAU CỦA VIỆT NAM
Sơ đồ cấu trúc mạng viễn thông thế hệ mới NGN của Việt Nam được tổ chức
như hình 4.13:
Cấu trúc mạng NGN gồm 5 lớp chức năng:
 Lớp ứng dụng dịch vụ.
 Lớp điều khiển.
 Lớp chuyển tải /lõi.
 Lớp truy nhập.
 Lớp quản lý.

124
Hình 4.13 Cấu trúc mạng NGN của Việt Nam
II.5.1 CẤU TRÚC LỚP ỨNG DỤNG DỊCH VỤ
Lớp ứng dụng có chức năng cung cấp các dịch vụ thoại, phi thoại, dịch vụ đa
phương tiện, các dịch vụ giá trị gia tăng, dịch vụ băng rộng,..
Được tổ chức thành một cấp trong toàn mạng nhằm cung cấp dịch vụ đến tận
thuê bao một cách thống nhất và đồng bộ.
Số lượng nút ứng dụng dịch vụ phụ thuộc vào lưu lượng dịch vụ, số lượng và
loại hình dịch vụ của từng vùng.
Các nút ứng dụng dịch vụ được đặt tương ứng với vị trí đặt các nút điều khiển và
nút chuyển tải.

125
II.5.2 CẤU TRÚC LỚP ĐIỀU KHIỂN

Hình 4.14 Cấu trúc lớp điều khiển và ứng dụng mạng NGN
Lớp điều khiển có chức năng điều khiển lớp chuyển tải/ lõi và lớp truy nhập
cung cấp các dịch vụ mạng với bất kỳ loại giao thức và báo hiệu nào.
Lớp điều khiển được tổ chức thành một cấp cho toàn mạng và được phân theo
vùng lưu lượng nhằm giảm tối đa cấp mạng. Lớp điều khiển được chia thành các vùng
lưu lượng sau đây:
• Vùng lưu lượng miền Bắc gồm gồm các tỉnh từ Hà Giang đến Hà Tĩnh.
• Vùng lưu lượng Hà Nội và một số tỉnh lân cận.
• Vùng lưu lượng miền Trung và Tây Nguyên từ Quảng Bình đến Lâm Đồng.
• Vùng lưu lượng TP.Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận.
• Vùng lưu lượng miền Nam và đồng bằng sông Cửu Long.
Số lượng nút điều khiển phụ thuộc vào lưu lượng của từng vùng và được tổ chức
thành từng cặp (Plane A&B) nhằm đảm bảo tính an toàn mạng lưới khi xảy ra sự cố.
Mỗi một nút điều khiển được kết nối đến một cặp nút chuyển mạch ATM/IP đường trục.
Lớp điều khiển bao gồm các hệ thống điều khiển được tổ chức theo kiểu module
các bộ điều khiển IP/MPLS Controler, ATM/SVC Controler, Voice/SS7 Controler các
bộ điều khiển này sẽ được đặt tương ứng với vị trí của các nút chuyển mạch ATM/IP
Core tại 5 vùng lưu lượng.

126
II.5.3 CẤU TRÚC LỚP CHUYỂN TẢI/LÕI

Hình 4.15: Cấu trúc lớp chuyển tải/lõi


Lớp chuyển tải/lõi có chức năng chuyển mạch ATM/IP và chức năng truyền dẫn
• Chức năng chuyển mạch ATM/IP
Chức năng chuyển mạch của lớp chuyển tải lõi sẽ thực hiện nhiệm vụ chuyển
mạch tương thích với kỹ thuật chuyển mạch gói IP hay chuyển mạch kênh ATM trên
mạng chuyển tải. Nghĩa là nó sẽ thực hiện chuyển đổi loại môi trường chẳng hạn TDM,
Fram Relay, Vô Tuyến,… sang môi trường truyền dẫn chuyển mạch gói và ngược lại.
Mạng chuyển mạch ATM/IP được tổ chức làm 2 lớp: chuyển mạch ATM/IP lớp
lõi và chuyển mạch ATM/IP lớp biên.
+ Chuyển mạch ATM/IP lớp lõi
Chuyển mạch ATM/IP lớp lõi gồm 5 trung tâm chuyển mạch cho 5 vùng lưu
lượng:
- Vùng lưu lượng Hà Nội đặt tại Hà Nội.
- Vùng lưu lượng các tỉnh miền Bắc đặt tại Hà Nội.
- Vùng lưu lượng miền Trung Tây Nguyên đặt tại Đà Nẵng.
- Vùng lưư lượng các tỉnh miền Nam đặt tại TP.Hồ Chí Minh.
- Vùng lưu lượng Tp.Hồ Chí Minh đặt tại TP.Hồ Chí Minh.

127
Các tổng đài chuyển mạch lớp lõi được kết nối với nhau theo dạng lưới và tổ
chức làm 2 mặt phẳng chuyển mạch A&B nhằm đảm bảo an toàn mạng lưới, khi một
tổng đài bị sự cố lưu lượng sẽ được định tuyến qua tổng đài khác theo sự điều hành của
trung tâm quản lý mạng viễn thông Quốc Gia.
Các chuyển mạch ATM/IP lớp lõi thực hiện chức năng:
- Chuyển mạch các cuộc gọi liên vùng.
- Chuyển mạch các cuộc gọi đi quốc tế.
Lưu lượng quốc tế của các vùng lưu lượng phía Nam và TP.Hồ Chí Minh được
chuyển đi quốc tế qua chuyển mạch ATM/IP Core đặt tại TP.Hồ Chí Minh.
Lưu lượng quốc tế của các vùng phía Bắc và Hà Nội được chuyển đi quốc tế qua
chuyển mạch ATM/IP Core đặt tại Hà Nội.
Lưu lượng quốc tế của các vùng lưu lượng miền Trung được chuyển đi quốc tế
qua chuyển mạch ATM/IP Core đặt tại Đà Nẵng.
+ Chuyển mạch ATM/IP lớp biên
Các tổng đài chuyển mạch ATM/IP lớp biên đóng vai trò các tổng đài chuyển
mạch vùng, các node truy nhập đa dịch vụ sẽ được kết nối tời các tổng đài chuyển mạch
biên này.
Các tổng đài chuyển mạch ATM/IP lớp biên được phân bố nằm ở các node
chuyển mạch chính của mỗi vùng lưu lượng nhằm mục đích:
- Giảm dần số lượng các tổng đài Host phân bổ theo địa bàn hành chính
như hiện nay bằng các tổng đài chuyển mạch biên Multiservice Switch công
nghệ ATM/IP có dung lượng và năng lực lớn, tổ chức phân theo vùng lưu lượng
và số lượng thuê bao, không tổ chức theo địa giới hành chính.
- Chuyển đổi dần cấu hình Host – Vệ tinh hiện nay sang cấu hình chuyển
mạch đa dịch vụ Multiservice.
• Chức năng truyền dẫn
Cung cấp các đường truyền dẫn thông tin tốc độ cao sử dụng công nghệ truyền
dẫnphân cấp só đồng bộ SDH kết hợp với công nghệ ghép kênh theo bước sóng quang
WDM. Tiến tới xây dựng mạng chuyển tải dựa trên công nghệ OTN (Optical Transport
Networking) sử dụng phương thức IP/ATM/SDH/Optic.
Mạng truyền dẫn được tổ chức thành các vòng Ring với cơ chế bảo vệ hợp lý
thiết bị truyền dẫn để đảm bảo an toàn mạng lưới đề phòng các trường hợp xảy ra sự cố.
Mạng truyền dẫn sẽ kết nối các chuyển mạch lõi ATM/IP Core với nhau, kết nối các
chuyển mạch lõi ATM/IP Core với các chuyển mạch biên ATM/IP Edge, kết nối các
chuyển mạch biên ATM/IP Edge với nhau. Cấu trúc của mạng truyền dẫn gồm 2 cấp:
đường trục quốc gia, đường truyền dẫn cấp vùng.
Mạng truyền dẫn cấp đường trục quốc gia bao gồm toàn bộ các đường truyền
dẫn qua các nút chuyển mạch lõi ATM/IP Core và được tổ chức làm 2 mặt phẳng truyền
dẫn và chuyển mạch (Plane A&B). Số lượng và quy mô nút chuyển mạch đường trục

128
quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển lưu lượng trên mạng đường trục, thực hiện kết
nối chéo giữa các nút mạng đường trục với tốc độ truyền dẫn trên mạng đường trục ≥
2,5 Gbps nhằm đảm bảo an toàn mạng lưới.
Mạng truyền dẫn cấp đường trục được xây dựng trên cơ sở tuyến trục Bắc Nam
trên quốc lộ 1, tuyến truyền dẫn dọc đường dây 500KV, và tuyến truyền dẫn cáp quang
dọc tuyến đường Hồ Chí Minh sử dụng công nghệ ghép kênh quang theo bước sóng
WDM với số kênh quang 8 hoặc 16, tốc độ STM-16 mỗi kênh.
Mạng truyền dẫn cấp vùng bao gồm các đường truyền dẫn kết nối các nút
chuyển mạch ATM/IP nội vùng. Các nút chuyển mạch ATM/IP nội vùng được kết nối
lên 2 plane chuyển mạch đường trục quốc gia qua các tuyến truyền dẫn liên vùng với
tốc độ truyền dẫn ≥155 Mbps.
Mạng truyền dẫn cấp vùng được xây dựng trên cơ sở các tuyến truyền dẫn kết
nối thành các vòng Ring nội vùng sử dụng công nghệ truyền dẫn quang tốc độ truyền
dẫn ≥ 155 Mbps.
II.5.4 CẤU TRÚC LỚP TRUY NHẬP
Lớp truy nhập bao gồm toàn bộ các nút truy nhập hữu tuyến và vô tuyến nhằm
cung cấp đa loại hình dịch vụ cho thuê bao.
• Truy nhập vô tuyến
- Mở rộng và phát triển mạng thông tin di động.
- Phát triển các dịch vụ mạng thông tin di động thế hệ mới.
- Phát triển các dịch vụ viễn thông cơ bản như: điện thoai, fax cho các vùng
nông thôn, miền núi, hải đảo.
• Truy nhập hữu tuyến
- Tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ bằng cách sử dụng công nghệ truy nhập
cáp quang công nghệ ATM/IP và truy nhập các đường truyền dẫn số xDSL
- Thiết bị truy nhập thuê bao có khả năng cung cấp các loại hình dịch vụ: dịch vụ
thoại, dịch vụ số liệu, cung cấp các dịch vụ thuê kênh riêng tốc độ cao tới
2Mbps.
• Tổ chức mạng truy nhập trong cấu trúc mạng viễn thông thế hệ mới theo
định hướng sau
- Lớp truy nhập bao gồm toàn bộ các nút truy nhập hữu tuyến và vô tuyến không
tổ chức theo địa giới hành chính.
- Các nút truy nhập của vùng lưu lượng được kết nối với các chuyển mạch nội
vùng, các chuyển mạch nội vùng sẽ được kết nối tới nút chuyển mạch đường
trục của vùng lưu lượng đó.
- Các tuyến kết nối nút truy nhập với nút chuyển mạch nội vùng có dung lượng
≥ 2 Mbps và tổ chức theo vùng lưu lượng và phụ thuộc vào số lượng thuê bao.

129
• Công nghệ sử dụng trong mạng truy nhập của mạng viễn thông thế hệ mới
của Việt Nam gồm các công nghệ sau:
+ Công nghệ truy nhập vô tuyến:
- Sử dụng WLL đa dịch vụ.
- Thông tin di động.
- Thông tin vệ tinh.
+ Công nghệ truy nhập hữu tuyến
- Cáp đồng xDSL
- Cáp quang.
Các tuyến truyền dẫn quang ở lớp truy nhập được triển khai theo dạng vòng
Ring SDH cáp quang truyền dẫn tốc độ ≤ 2,5 Gbps. Khi dung lượng vòng Ring nội hạt
> 2,5 Gbps thì sử dụng công nghệ SDH/WDM.
• Các thiết bị truy nhập thế hệ mới phải có khả năng cung cấp cổng dịch vụ
POTS, VoIP, IP, ATM, FR, X25, IP-VPN, xDSL.
II.5.5 CẤU TRÚC LỚP QUẢN LÝ
Lớp quản lý mạng viễn thông thế hệ mới là một lớp đặc biệt xuyên suốt các lớp,
từ lớp ứng dụng cho tới lớp truy nhập. Lớp quản lý sẽ thực hiện theo dõi, điều phối các
thành phần mạng viễn thông đang hoạt động.
Lớp quản lý mạng viễn thông Việt Nam được xây dựng theo mô hình cấu trúc
lớp quản lý trong khuyến nghị của ITU đưa ra. Lớp quản lý sẽ bao gồm 4 lớp chức năng
sau:
- Quản lý phần tử mạng.
- Quản lý dịch vụ.
- Quản lý kinh doanh.
Cụ thể mạng quản lý của mạng viễn thông Việt Nam được tổ chức như sau:
• Mạng quản lý viễn thông quốc gia NMC (Network Management Control)
tại Hà Nội có chức năng:
- Quản lý mạng.
- Quản lý dịch vụ.
- Quản lý kinh doanh.
• Các trung tâm quản lý ở từng vùng có chức năng:
- Quản lý trực tiếp các phần tử mạng.
- Cung cấp các số liệu cho trung tâm quản lý mạng quốc gia theo yêu cầu và
tham gia vào quá trình quản lý mạng và quản lý dịch vụ.

130
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Qui hoạch phát triển mạng viễn thông, NXB KHKT, 2000.
2. ThS. Đàm Thuận Trinh, ThS. Nguyễn Ngọc Huy, Kỹ thuật chuyển mạch, NXB
GTVT 2007
3. Nguyễn Thúc Hải, Mạng máy tính và các hệ thống mở, NXB GD 1999
4. ThS Đỗ Mạnh Cường, Báo hiệu trong mạng viễn thông, NXB KHKT 2001
5. LGIC, The ATM and CDMA technology, NXB Thanh Niên 1996

131
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 ..................................................................................................................3
TỔNG QUAN VỀ MẠNG VIỄN THÔNG ....................................................................3
I.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ VIỄN THÔNG ...................................................... 3
I.2 CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VIỄN THÔNG ........................................... 4
I.3 CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH MẠNG VIỄN THÔNG .................................. 6
I.4 PHÂN LOẠI MẠNG VIỄN THÔNG .............................................................. 7
II. KỸ THUẬT MẠNG LƯỚI VIỄN THÔNG ......................................................... 7
II.1 KỸ THUẬT CẤU HÌNH MẠNG LƯỚI ........................................................ 7
II.2 ĐÁNH SỐ .....................................................................................................11
II.3 TÍNH CƯỚC .................................................................................................13
II.4 BÁO HIỆU ...................................................................................................15
II.5 ĐỒNG BỘ MẠNG LƯỚI .............................................................................19
III. DỊCH VỤ MẠNG VIỄN THÔNG .....................................................................22
III.1 KHÁI NIỆM DỊCH VỤ VIỄN THÔNG .......................................................23
III.2 PHÂN LOẠI DỊCH VỤ ...............................................................................23
III.3 CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT
LƯỢNG DỊCH VỤ..............................................................................................28
III.4 NHU CẦU VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DỊCH VỤ VIỄN
THÔNG ...............................................................................................................32
CHƯƠNG 2 ................................................................................................................ 41
MẠNG SỐ LIÊN KẾT ĐA DỊCH VỤ ISDN ............................................................... 41
I. MẠNG ĐIỆN THOẠI CHUYỂN MẠCH CÔNG CỘNG PSTN ..........................41
II. MẠNG SỐ ĐA DỊCH VỤ BĂNG HẸP N-ISDN ...............................................43
II.1 KHÁI QUÁT VỀ ISDN ................................................................................43
II.2 CÁC MỤC TIÊU ..........................................................................................46
II.3 CÁC LỢI ÍCH ...............................................................................................46
II.4 KIẾN TRÚC MẠNG.....................................................................................47
II.5 CHUẨN HÓA ISDN .....................................................................................49
II.6 CÁC DỊCH VỤ .............................................................................................50
III. MẠNG SỐ ĐA DỊCH VỤ BĂNG RỘNG B-ISDN ...........................................51
III.1 SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG B-ISDN ......................................................51
III.2 CÁC DỊCH VỤ TƯƠNG LAI B-ISDN TRÊN CƠ SỞ ATM .......................52
III.3 CẤU TRÚC MẠNG B-ISDN PHÂN TẦNG................................................53
CHƯƠNG 3 ................................................................................................................ 55
MẠNG CHUYỂN MẠCH GÓI ................................................................................... 55
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHUYỂN MẠCH GÓI ..............................................55
I.1 NGUYÊN LÝ CHUYỂN MẠCH GÓI ...........................................................55
I.2 KHÁI NIỆM MẠCH ẢO VÀ CÁC KÊNH LOGIC ........................................55

132
I.3 PHƯƠNG PHÁP TRAO ĐỔI DỮ LIỆU TRONG CHUYỂN MẠCH GÓI .... 56
I.4 ĐÓNG GÓI THÔNG TIN .............................................................................. 59
I.5 GHÉP KÊNH TRONG CHUYỂN MẠCH GÓI .............................................. 62
I.6 ƯU ĐIỂM KỸ THUẬT CHUYỂN MẠCH GÓI............................................. 64
II. KIẾN TRÚC PHÂN TẦNG VÀ MÔ HÌNH OSI ................................................ 65
II.1 KIẾN TRÚC PHÂN TẦNG .......................................................................... 65
II.2 MÔ HÌNH OSI (OPEN SYSTEM INTERCONNECTION) ........................... 66
III. CÔNG NGHỆ X.25 ........................................................................................... 69
III.1 GIAO THỨC X.25 LỚP VẬT LÝ – PHYSICAL ......................................... 70
III.2 GIAO THỨC X.25 LỚP LIÊN KẾT – DATA LINK ................................... 71
III.3 GIAO THỨC X.25 LỚP MẠNG – NETWORK........................................... 71
IV. CÔNG NGHỆ FRAME RELAY ....................................................................... 72
IV.1 GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................. 72
IV.2 CẤU TRÚC KHUNG CỦA FRAME RELAY ............................................. 74
IV.3 FRAME RELAY VÀ MÔ HÌNH OSI 7 LỚP............................................... 79
V. CÔNG NGHỆ ATM ........................................................................................... 80
V.1 GIỚI THIỆU CHUNG .................................................................................. 80
V.2 MÔ HÌNH ATM VÀ MẠNG ATM .............................................................. 81
V.3 TẾ BÀO ATM .............................................................................................. 91
V.4 KHÁI NIỆM ĐƯỜNG ẢO, KÊNH ẢO ........................................................ 94
V.5 NGUYÊN LÝ CHUYỂN MẠCH ATM ........................................................ 96
CHƯƠNG 4 .............................................................................................................. 101
MẠNG IP VÀ NGN .................................................................................................. 101
I. MẠNG IP........................................................................................................... 101
I.1 BỘ GIAO THỨC TCP/IP ............................................................................. 101
I.2 ĐỊA CHỈ IP .................................................................................................. 105
I.3 ĐỊA CHỈ CỔNG VÀ SOCKET .................................................................... 107
I.4 ĐỊNH TUYẾN TRONG MẠNG IP .............................................................. 109
II. MẠNG NGN .................................................................................................... 113
II.1 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN MẠNG ........................................................... 113
II.2 KHÁI NIỆM MẠNG THẾ HỆ SAU NGN (NEXT GENERATION
NETWORK) ..................................................................................................... 117
II.3 ĐẶC ĐIỂM MẠNG NGN........................................................................... 118
II.4 MÔ HÌNH CẤU TRÚC MẠNG NGN......................................................... 120
II.5 MẠNG THẾ HỆ SAU CỦA VIỆT NAM .................................................... 124

133

You might also like