Dịch 1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Regulation and deregulation

In the late 1920s, several American commercial banks that were (1) _______________
security issues for companies weren‘t able to sell the stocks to the public, because there
wasn‘t enough demand. So they used money belonging to their (2) _______________ to
buy securities. If the stock price later fell, their customers lost a lot of money.

This led government to step up the (3) _______________ of banks, to protect depositors
̳funds, and to maintain investors‘ confidence in the banking system. In 1933 the Glass-
Steagall Act was passed, which (4) _______________ American commercial banks from
underwriting securities. Only investment banks could issue stocks for corporations. In
Britain too, retail or commercial banks remained separate from investment or merchant
banks. A similar law was passed in Japan after World War II.

Half a century later, in the 1980s and 90s, many banks were looking for new markets and
higher profits in a period of increasing globalization. So most industrialized countries (5)
_______________ their financial systems. The Glass- Steagall Act was (6)
_______________ . A lot of commercial banks merged with or acquired investment
banks and insurance companies, which created large financial (7) _______________. The
larger American and British banks now offer customers a complete range of financial
service, as the universal banks in Germany and Switzerland have done for a long time.
The law forbidding US commercial banks from operating in more than one state was also
abolished. In Britain, many building societies, which specialized in mortgages, started to
offer the same services as commercial banks.

Yet in al countries, financial institutions, are still quite strictly controlled, either by the
central bank or another financial authority. In 2002, ten of Wall Street‘s biggest banks
paid (8) _______________ of $1.4 billion for having advised investors, in the 1990s, to
buy stocks in companies that they knew had financial difficulties. They had done this in
order to get investment banking business from these companies - exactly the kind of
practice that led the US government to separate commercial and investment banking in
the 1930s.

Vào cuối những năm 1920, một số ngân hàng thương mại Mỹ đang bảo lãnh phát hành chứng
khoán cho các công ty đã không thể bán cổ phiếu ra công chúng vì không có đủ cầu. Vì vậy, họ
đã sử dụng tiền thuộc về người gửi tiền của họ để mua chứng khoán. Nếu sau đó giá cổ phiếu
giảm, khách hàng của họ sẽ mất rất nhiều tiền.

Điều này dẫn đến việc chính phủ đẩy mạnh quy định của các ngân hàng, để bảo vệ tiền của
người gửi tiền, và để duy trì niềm tin của các nhà đầu tư vào hệ thống ngân hàng. Năm 1933
Đạo luật Glass-Steagall được thông qua cấm các ngân hàng thương mại Mỹ bảo lãnh phát hành
chứng khoán. Chỉ các ngân hàng đầu tư mới có thể phát hành cổ phiếu cho các tập đoàn. Ở Anh
cũng vậy, các ngân hàng thương mại hoặc bán lẻ vẫn tách biệt với các ngân hàng đầu tư hoặc
ngân hàng thương mại. Một luật tương tự đã được thông qua ở Nhật Bản sau Thế chiến II.

Nửa thế kỷ sau, vào những năm 1980 và 90, nhiều ngân hàng đang tìm kiếm thị trường mới và
lợi nhuận cao hơn trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày càng gia tăng. Vì vậy, hầu hết các nước công
nghiệp hóa đã bãi bỏ quy định đối với hệ thống tài chính của họ. Đạo luật Glass-Steagall bị bãi
bỏ Rất nhiều ngân hàng thương mại sáp nhập hoặc mua lại các ngân hàng đầu tư và công ty bảo
hiểm, tạo ra các tập đoàn tài chính lớn. Các ngân hàng lớn hơn của Mỹ và Anh hiện cung cấp
cho khách hàng một loạt các dịch vụ tài chính, giống như các ngân hàng đa năng ở Đức và Thụy
Sĩ đã làm từ lâu. Luật cấm các ngân hàng thương mại của Mỹ hoạt động ở nhiều bang cũng bị
bãi bỏ. Ở Anh, nhiều hiệp hội xây dựng, chuyên về thế chấp, bắt đầu cung cấp các dịch vụ giống
như các ngân hàng thương mại.

Tuy nhiên, ở các quốc gia khác, các tổ chức tài chính vẫn bị kiểm soát khá chặt chẽ, bởi ngân
hàng trung ương hoặc cơ quan tài chính khác. Năm 2002, mười ngân hàng lớn nhất của Phố
Wall đã nộp phạt 1,4 tỷ đô la vì đã tư vấn cho các nhà đầu tư, vào những năm 1990, mua cổ
phiếu của các công ty mà họ biết là đang gặp khó khăn về tài chính. Họ đã làm điều này để có
được hoạt động kinh doanh ngân hàng đầu tư từ các công ty này - chính xác là loại thông lệ đã
khiến chính phủ Hoa Kỳ tách biệt ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư vào những năm
1930.

You might also like