Chapter 3 Properties of Material

You might also like

Download as txt, pdf, or txt
Download as txt, pdf, or txt
You are on page 1of 38

Chapter 3.

PROPERTIES OF MATERIALS

Contents.

3.1. INTRODUCTION:

a. Chemical Properties.

b. Physical Properties.

c. Mechanical Properties.

d. Processing Properties.

3.2 . Physical Properties.

a. DENSITY AND VISCOSITY.

b. THERMAL PROPERTIES.

c. ELECTRICAL PROPERTIES OF MATERIALS.

d. MAGNETIC PROPERTIES.

0. General.

1. Classes of Properties.

a. Chemical Properties.

b. Physical Properties.

c. Mechanical Properties.

d. Processing Properties.

2. Significance of Properties of Design.

a. General.

b. Material Choice a Compromise.

3.2. LOADING SYSTEMS AND MATERIAL FAILURE LOADING SYSTEMS.

1. Stress.

2. Nomal Stress.

3. Shear Stress.

4. Bending.

5. Effects of Stresses.

3.3. TESTING:

0. General.
1. The Tensile Test.

a. General.

b. Tensile Specimens.

c. Stress-Strain Diagram.

d. Elastic Deformation and Plastic Flow.

e. Ultimate and Breaking Strengths.

f. Yield Point and Yield Strength.

g. Modulus of Elasticity.

h. Ductility.

i. Resilience and Toughness.

2. True Stress-True Strain.

3. Compression Testing.

4. Transverse Rupture Testing.

a. Limitations of Tensile Tests for Brittle Materials.

b. The Transverse Rupture Test.

c. Limitations of Transverse Rupture Testing.

5. Shear Testing.

6. Fatigue Testing.

a. Introduction.

b. Fatigue Failure Initiation and Development.

c. Endurance Limits.

d. Fatigue Strength.

7. Creep Testing.

8. Notched Bar Testing.

a. Introduction.

b. Charpy Test.

c. Izod Test.

d. Test Specimens.

e. Tensile Impact Test.

9. Bend Testing.
a. Free Bend Test.

b. Guided Bend Test.

10. Hardness Testing.

a. Introduction.

b. Mohs Test.

c. File Test.

d. Brinell Test.

d1. Introduction.

d2. Advantage and Limitation of Brinell Tests.

e. Rockwell Test.

e1. Principle.

e2. Introduction.

e3. Standard Rockwell Scales.

e4. Superficial Rockwell Test.

f. Vickers Test.

f1. Principle.

f2. Introduction.

g. Microhardness.

11. Factor of Safety.

3.1. INTRODUCTION:

0. General

- Bởi vì các sản phẩm được làm từ các vật liệu có nhiều tính chất khác nhau, do đó
nhân viên NDT thường phải quen thuộc với các loại vật liệu kỹ thuật cũng như tính
năng và hạn chế của chúng.

Sự lựa chọn vật liệu kỹ thuật để thực hiện việc thiết kế các bộ phận khả dụng hoặc
sự lắp ráp chúng lại với nhau đòi hỏi phải có kiến thức về tính chất hóa học, vật
lý và cơ học của chúng:

Hầu hết các vật liệu kết cấu chịu tác động của tải trọng bởi các lực bên ngoài vì
vậy nó tạo ra mức độ ứng suất cơ học bên trong vật liệu khá cao. Sự tương tác của
các thành phần đối với sự phân phối ứng suất mới được tạo ra bởi sự phát triển của
các bất liên tục có thể rất quan trọng đối với khả năng tiếp tục hoạt động của các
chi tiết.

Để thực hiện kiểm tra có ý nghĩa, nhân viên NDT phải nhận thức được cả các tính
chất vật liệu thông thường và sự ảnh hưởng của bất liên tục dựa trên khả năng làm
việc của vật liệu trong phạm vi sử dụng của nó.

Như đã chỉ ra trong Chương 2, chất lượng của vật liệu(the qualities of materials)
cái mà định lượng được thì gọi là tính chất, được phân biệt với cấu tạo vật lý của
vật liệu gọi là cấu trúc nguyên tử.

Khoa học trong những năm gần đây, đã có những bước tiến lớn trong việc xác định cấu
trúc nguyên tử của vật liệu.

Số lượng và sự sắp xếp các hạt trong mỗi nguyên tử thực sự xác định tất cả các tính
chất của bất kỳ vật liệu nào và về mặt lý thuyết có thể dự đoán(predict) tính chất
của vật liệu từ cấu trúc của các nguyên tử của nó.

Các nhà vật lý và hóa học có thể dựa trên cấu trúc vật liệu để đưa ra một số dự
đoán về các tính chất, đặc biệt là tính chất hóa học và điện, , nhưng các tính chất
cơ học vẫn phải được xác định và đo lường bằng thử nghiệm thực nghiệm cho từng vật
liệu.

Because manufactured items are made from materials with various properties,
responsible NDT personnel must be generally familiar with engineering materials and
their capabilities and limitations.

Selection of an engineering material to implement the design of a usable part or


assembly requires knowledge of the material's chemical, physical, and mechanical
properties.:

Most structural materials are loaded by external forces which generate high levels
of internal mechanical stress within the materials. The reaction of the component
to a new stress distribution caused by the development of discontinuities may be
critical to its continued functioning.

In order to perform meaningful inspections, the responsible nondestructive testing


personnel must be cognizant of both the normal material properties and of the
effects of discontinuities upon the material serviceability in its intended
applications.

As indicated in Chapter 2, the qualities of materials are measured quantitites


called properties, as distinguished from the physical makeup of materials called
atomic structure.

The number and the arrangement of particles in each atom actually determine all the
properties of any material, and it should be theoretically possible to predict the
properties of a material from the structure of its atoms.

Physicists and chemists can make some predictions of properties, particularly


chemical and electrical, based on structure, but the mechanical properties of
greatest interest to a study of manufacturing processes must still be defined and
measured by empirical test for each material.

1. Classes of Properties.

a. Chemical Properties.

Các tính chất hóa học (phản ứng với các vật liệu khác) được quan tâm cho tất cả các
vật liệu chủ yếu là do nhu cầu chống ăn mòn gần như phổ biến.

Trong khi cấu trúc nguyên tử và tinh thể của tất cả các kim loại mang lại cho chúng
độ dẫn điện và nhiệt cao so với phi kim, các kim loại riêng lẻ vẫn khác nhau đáng
kể.

The chemical properties (reaction with other materials) are of interest for all
material mainly because of the almost universal need for resistance to corrosion.

While the atomic and crystalline structure of all metals gives them high electrical
and thermal conductivity compared to nonmetals, individual metals still differ
considerably.

b. Physical Properties.

Tính chất vật lý cho mỗi vật liệu là các hằng số liên kết với cấu trúc nguyên tử.

Các tính chất này bao gồm mật độ (trọng lượng trên một đơn vị thể tích), loại tinh
thể(crystalline type), khoảng cách nguyên tử, nhiệt dung riêng(specific heat),
cường độ kết dính(cohesive strength)-(lý thuyết) và điểm nóng chảy(melting point).

Physical properties for each material are constants associated with the atomic
structure.

These properties include density (weight per unit volume), crystalline type, atomic
spacing, specific heat, cohesive strength (theoretical), and melting point.

c. Mechanical Properties.

Quan tâm nhất đến sản xuất là các tính chất cơ học đó là độ cứng, độ bền và các
tính chất khác; đó là tầm quan trọng hàng đầu trong việc xem xét thiết kế để xác
định kích thước và hình dạng cần thiết để mang tải.

Những phẩm chất này cũng sẽ xác định lượng tải trọng cần thiết cho bất kỳ phương
pháp gia công áp lực nào

Of most interest to manufacturing are the mechanical properties of hardness,


strength, and other; that are of prime importance in design considerationa for
determining sizes and shapes necessary for carrying loads.

These qualities will also determine the workloads for any deformation type of
manufacturing process.

d. Processing Properties.

- Như đã chỉ ra ở đầu chương, các tính chất đã được thảo luận ở đây thực sự phụ
thuộc vào cấu trúc nguyên tử của vật liệu, nhưng trong thực tế, các tính chất này
phải được đo đạc một cách riêng lẻ.

- Các tính chất khác liên quan đến độ cứng, độ bền, độ dẻo và các tính chất cơ lý
khác phải được xác định bằng các phương pháp kiểm tra riêng biệt.

- Các phương pháp này bao gồm các phương pháp kiểm tra về khả năng đúc, khả năng
hàn, khả năng gia công và uốn cong, cái mà mô tả khả năng gia công của vật liệu
theo những cách xác định.

- Các phương pháp kiểm tra này có thể được phát triển bất cứ lúc nào để xác định
khả năng của vật liệu trong việc đáp ứng yêu cầu của việc gia công và chúng thường
được thực hiện trong các điều kiện rất giống với các phương pháp gia công được thực
hiện.

- As pointed out at the beginning of the chapter, the properties that have been
discussed are actually dependent on the atomic structure of a material, but in
practice these properties must be separately measured.

- In a similar way, different properties that are related to hardness, strength,


ductility, and other physical and mechanical properties and that are frequently of
even greater importance to manufacturing must in practice be defined by separate
tests.

- These include tests for castability, weldability, machinability, and bending that
describe the ability of the material to be processed in definite ways.

- Tests of this type may be developed at any time there is need for determining the
ability of the material to meet critical needs of processing, and they are usually
performed under conditions very similar to those under which the process is
performed.

2. Significance of Properties of Design.

a. General.

Một nhà thiết kế nhất thiết phải quan tâm đến các tính chất bởi vì anh ta phải
biết:

- độ bền của vật liệu trước khi anh ta có thể tính toán kích thước và hình dạng
cần thiết để mang tải,

- tính chất hóa học có đáp ứng được các điều kiện ăn mòn

- và các tính chất khác để đáp ứng các yêu cầu chức năng khác.

Kiến thức về các tính chất gia công có thể có tầm quan trọng đối với nhà sản xuất
hơn là nhà thiết kế, mặc dù thậm chí anh ta phải có khả năng chọn vật liệu có thể
được sản xuất theo cách hợp lý về kinh tế.

Nhiều vấn đề sản xuất phát sinh từ việc lựa chọn vật liệu chỉ dựa trên các yêu cầu
chức năng mà không xem xét loại nào phù hợp nhất cho yêu cầu của quá trình gia công
.

Kết quả tương tự có thể xảy ra khi khả năng kiểm tra chưa được xem xét thích hợp
trong thiết kế.

A designer is necessarily interested in properties because he must know:

- material strengths before he can calculate sizes and shapes required to carry
loads,

- chemical properties to meet corrosive conditions,

- and other properties to satisfy other functional requirements.

Knowledge of processing properties is likely to be of more importance to


manufacturing personnel than to the designer, although even he must be able to
choose material that can be manufactured in a reasonably economical manner.

Many manufacturing problems arise from choice of materials based only on functional
requirements without considering which is the most suitable for the processing
required.

Similar results can occur when inspectability has not been given proper
consideration in design.
b. Material Choice a Compromise.

Hầu hết các sản phẩm có thể được sản xuất từ một số vật liệu khác nhau có thể sẽ
đáp ứng các yêu cầu chức năng.

Tuy nhiên, một số được mong muốn từ quan điểm sản phẩm hơn những số khác và một vật
liệu cụ thể có thể có sự kết hợp tốt nhất có thể của các thuộc tính.

Tương tự như vậy, tất cả các vật liệu có thể được sản xuất bằng một số cách khác
nhau, mặc dù chi phí sản xuất sẽ khác nhau, và có khả năng sẽ có một vật liệu mà từ
đó một sản phẩm có thể sử dụng có thể được sản xuất với chi phí thấp nhất.

Ít khi một vật liệu có thể được chọn có các đặc tính tối ưu cho cả sản phẩm và sản
xuất, do đó, phần lớn các lựa chọn vật liệu hóa ra là thỏa hiệp.

Sự lựa chọn cuối cùng có thể là kết quả của các thử nghiệm thử và sai trong số một
số vật liệu và quá trình gia công tốt nhất có thể .

Lựa chọn mới có thể được yêu cầu với những thay đổi của thiết kế, sự sẵn có về
nguyên liệu, quá trình gia công , hoặc nhu cầu thị trường.

Most products can be manufactured from a number of different possible materials


that will satisfy the functional requirements.

However, some are more desirable from the product standpoint than others, and one
particular material may have the best possible combination of properties.

Likewise, all materials can be manufactured by some means, although costs of


manufacturing will vary, and there will likely be one single material from which a
usable product could be manufactured at lowest cost.

Seldom can a material be chosen that has optimum properties for both the product
and the manufacturing, so the majority of material choices turn out to be
compromises.

The final choice may be a result of trial and error tests among several possible
best materials and processes.

New choices may be required with changes of design, material availability,


processes, or market demand.

3.2. LOADING SYSTEMS AND MATERIAL FAILURE LOADING SYSTEMS.

Tải trọng vật lý của vật liệu là kết quả của một hoặc nhiều hệ thống tải tác dụng
lực vào vật liệu .

Trong gần như tất cả các trường hợp, ngay cả khi chỉ là một mẩu nhỏ bị tác động bởi
một ngoại lực thì nội lực sinh ra cũng được phát triển phức tạp hơn so với ngoại
lực áp dụng.

Tuy nhiên, trong nhiều quy trình thử nghiệm, sự phức tạp này bị coi nhẹ và các lực
được xử lý như thể chúng đồng nhất với nhau trên vật liệu.

Physical loading of material is a result of applying force under one or more


simple, basic loading systems.

In nearly all cases, even when a piece is loaded by only a single set of outside
forces, the internal loads developed are more complex than those applied.

However, in many testing procedures this complexity is disregarded, and the forces
are treated as though they are uniform thoughout the material.

1. Stress.

a. Ứng suất, đại lượng biểu thị nội lực phát sinh trong vật thể biến dạng do tác
dụng của các nguyên nhân bên ngoài như tải trọng, sự thay đổi nhiệt độ, v.v.

2. Normal Stresses

b. Ứng suất kéo là trạng thái ứng suất khi vật liệu chịu tác động kéo căng hướng
trục. Bất kỳ một vật liệu nào thuộc loại đàn hồi thì phần lớn chịu được ứng suất
kéo trung bình, ngược lại là các vật liệu chịu đựng lực kéo kém như: gốm, hợp kim
giòn. Trong ngành chế tạo thép, một số loại thép có khả năng chịu được ứng suất kéo
rất lớn, như các sợi dây cáp thép trong các thiết bị nâng hạ.

Ứng suất kéo luôn thể hiện khả năng liên kết các vi tinh thể của vật liệu. Khi vật
liệu bị kéo bằng hai lực ngược chiều nhau, thì phần lớn các vật liệu sẽ bị đứt ở
một giới hạn ứng suất nào đó. Tại thời điểm vật liệu bị kéo đứt, thông số ứng suất
đó được ghi nhận và được xem như độ bền kéo của vật liệu đó.

c. Ứng suất nén là trạng thái ứng suất khi vật liệu bị tác động ép chặt. Trường hợp
đơn giản của sự ép là lực ép đơn gây ra bởi phản lực tác động, lực đẩy. Sức bền nén
của vật liệu luôn cao hơn sức bền kéo của vật liệu đó, tuy nhiên hình thể lại quan
trọng để phân tích khi ứng suất nén đạt đến giới hạn cong vênh.

Với những vật liệu dẻo, khi chịu ứng suất nén thường biến dạng méo mó, nhưng với
các vật liệu có tính dòn thì khi vượt sức chịu đựng sẽ gây vỡ vụn.

3. Shear Stresses

d. Ứng suất cắt là kết quả khi lực tác động lên sản phẩm mà gây ra biến dạng trượt
của vật liệu trên một mặt phẳng song song với hướng tác động của lực áp vào. Ví dụ
như người ta dùng kéo để cắt một tấm tôn mỏng, hay việc đột dập tôn trong chế tạo
lõi thép máy điện.

4. Bending

Tải trọng uốn tạo ra một sự kết hợp của các ứng suất. Mặt lõm của một thân uốn cong
sẽ bị nén và mặt lồi bị căng với lực cắt ngang xảy ra dọc theo trục giữa chúng.

5. Effects of Stresses.

a. Điểm chính được đưa ra trong cuộc thảo luận về lực và ứng suất này là các thiết
kế cho kết cấu phải có kích thước và hình dạng phù hợp và phải được làm bằng vật
liệu có giá trị cường độ phù hợp để chịu được tải trọng đặt lên chúng.

b. Khi một thành phần của cấu trúc chịu tải trọng vật lý bởi trọng lượng, bởi áp
lực từ các nguồn cơ học, thủy lực hoặc khí nén, bởi giãn nở hoặc co lại vì nhiệt,
hoặc bởi các phương tiện khác, thì các ứng suất bên trong sẽ được hình thành trong
thành phần đó.

c. Kích thước, hướng và loại ứng suất phụ thuộc vào hệ thống tải. Độ lớn của ứng
suất đơn vị sẽ phụ thuộc không chỉ vào lực tác dụng mà còn phụ thuộc vào diện tích
vật liệu chống lại ứng suất.
d. Khi tải được tăng lên, ứng suất đơn vị sẽ tăng đến điểm mà , một hoặc nhiều giá
trị đạt tới các giá trị tới hạn liên quan đến vật liệu. Lúc này sự hư hỏng do bởi
chảy dão hoặc do gãy vỡ sẽ xuất hiện sau đó , tùy thuộc vào giá trị quan trọng nào
đạt được trước tiên. Trong gần như tất cả các trường hợp hư hỏng do gãy vỡ, việc
tách vật liệu được bắt đầu bằng ít nhất một lượng nhỏ chảy dão.Trong những trường
hợp chảy dão xảy ra ở mức độ lớn, sự cố gãy vỡ cuối cùng cũng sẽ xảy ra.

a. The principal point to be made in this discussion of forces and stresses is that
structural designs must be of suitable size and shape and must be made of material
with proper strength values to withstand the loads imposed upon them.

b. When a structural member (almost any object) is physically loaded by weight, by


pressure from mechanical, hydraulic, or pneumatic sources, by thermal expansion or
contraction, or by other means, internal stresses are set up in the member.

c. The size, direction, and kind of stresses are dependent upon the loading system.
The magnitude of the unit stresses will be dependent not only upon the applied
force but also upon the area of material resisting the stresses.

d. As loads are increased, unit stresses will increase to the point where, in some
direction, one or more reach critical values in relation to the material.

Failure by plastic flow or by fracture can then be expected, depending upon which
critical values are reached first. In nearly all cases of fracture failure, the
separation of material is preceded by at least a small amount of plastic flow.

In those cases in which plastic flow occurs to a large degree, fracture failure
will finally result.

3.3. TESTING:

0. General.

Kiểm tra vật liệu là điều cần thiết để có được kiến thức thực tế về cách vật liệu
phản ứng trong các tình huống khác nhau. Mục tiêu cuối cùng của bất kỳ thử nghiệm
nào là cho phép đưa ra các quyết định mang lại kết quả kinh tế tốt nhất.

Trong thực tế, hai phương pháp thử nghiệm chung được sử dụng là kiểm tra trực tiếp
và kiểm tra gián tiếp.

An understanding of a tensile test can best be acquired from a stress-strain


diagram made by plotting the unit tensile stress against the unit strain
(elongation), as shown in Figure 3-6. The illustration displays ata from a tensile
test on ductile steel and is representative of this kind of material only. Curves
for other materials take on slightly different shapes.

Testing of material is essential to gain practical knowledge of how materials react


under various situations. The ultimate goal of any test is to enable the making of
decisions that provide the best economic results. In practice, two general methods
of testing are used.

a. Kiểm tra trực tiếp.

a1. Là phép kiểm tra duy nhất cung cấp thông tin tuyệt đối về mẫu hoặc vật liệu là
kiểm tra các thuộc tính quan tâm cụ thể được thực hiện trên chính bộ phận đó.

a2. Trong phương pháp kiểm tra trực tiếp này,


- cần cố gằng thực hiện trên các vật liệu trong các điều kiện sử dụng thực tế

- và phép kiểm tra nên liên quan đến một sản phẩm, một phương pháp gia công hoặc cả
hai.

a3. Kiểm tra trực tiếp thường tốn thời gian(time-consuming) và, để các kết quả có ý
nghĩa thống kê, thường yêu cầu tổng hợp dữ liệu từ nhiều mẫu thử.

a4. Quy trình kiểm tra là cần thiết, Tuy nhiên, chỉ áp dụng với:

- những trường hợp không có sẵn các phương pháp đơn giản hơn để thực hiện

- và thông tin lịch sử chưa được tích lũy(accumulated) đủ để cho phép xác định mối
tương quan giữa thuộc tính về thông tin nào đó được mong muốn và một số yếu tố có
thể đo lường khác

a. Direct testing.

The only test that supplies absolute information about a workpiece or a material is
a test of the particular property of interest conducted on that part itself.

In this method of direct testing, an attempt is made to use the materials under the
exact conditions of practical use, and the test may be concerned with a product, a
process, or both.

Direct testing is usually time-consuming, and, for the results to have statistical
significance, often requires compilation of data from many test samples.

The procedure is necessary, however, for those cases in which simpler methods are
not available and in which sufficient historical information has not been
accumulated to permit correlation between the attribute about which information is
desired and some other measurable factor.

b. Kiểm tra gián tiếp.

b1. Kiểm tra gián tiếp liên quan đến việc sử dụng một mối tương quan như vậy, sao
cho kiến thức chính xác về mối quan hệ giữa hai yếu tố phải tồn tại. Trong ví dụ
dưới đây cho thấy mối quan hệ giữa yếu tố âm thanh khi kiểm tra gián tiếp và sự
đánh giá đà mài đủ độ bền để làm việc.

Ví dụ : Khả năng của đá mài để chống lại lực ly tâm được áp dụng khi sử dụng phép
kiểm tra trực tiếp bằng cách quay chúng ở tốc độ cao hơn tốc độ sử dụng thực tế.
phép kiểm tra như vậy chỉ ra rằng độ bền của đá là đủ để sử dụng bình thường với
một số giới hạn an toàn.

Trong khi đó phép kiểm tra gián tiếp đôi khi được sử dụng cho cùng một mục đích có
thể được thực hiện bằng cách gõ một bánh xe lơ lửng để gây ra rung động cơ học
trong phạm vi âm thanh. Một âm rõ ràng cho thấy không có vết nứt.

b2. Một mối nguy hiểm của phép kiểm tra gián tiếp là các kết luận phụ thuộc vào giả
định rằng mối tương quan giữa yếu tố đo lường và yếu tố quan trọng tồn tại trong
mọi điều kiện.

Ví dụ: phép kiểm tra gõ đá mài không cho bất kỳ dấu hiệu thực sự nào về độ bền của
đá , trừ khi kiến thức về lịch sử của đá mài cho phép giả định rằng không có vết
nứt, và nó có đủ độ bền để sử dụng.

b. Indirect Testing.
b1. Indirect testing involves the use of such a correlation, such that accurate
knowledge of the relationship between the two factors must exist.

The ability of grinding wheels to resist the centrifugal forces imposed in use is
directly tested by rotating them at higher speeds than those of actual use. Such a
test indicates that the wheel strength is sufficient for normal use with some
safety margin.

An indirect test that is sometimes used for the same purpose can be performed by
rapping a suspended wheel to cause mechanical vibrations in the sonic range. A
clear tone indicates no cracks.

b2. A danger of indirect testing is that the conclusions depend on the assumption
that the correlation between the measured factor and the critical factor exists
under all conditions.

The rapping test for grinding wheels does not give any real indication of strength,
unless knowledge of the wheel's history permits the assumption that with no cracks
it has sufficient strength for use.

c. Thử nghiệm phá hủy.

c1. Một số lượng lớn các phép kiểm tra trực tiếp là kiểm tra phá hủy.

c2. Điều này cũng nguy hiểm vì giả định được đưa ra rằng những vật liệu không được
kiểm tra là giống như những vật liệu đã thu được thông tin kiểm tra.

Ví dụ Một phần của mối hàn có thể được kiểm tra chất lượng bằng cách cắt nó để tìm
kiếm các rỗ khí, kẹt xỉ, không thấu, liên kết và cấu trúc kim loại bằng cách kiểm
tra trực quan.

Bằng cách này, phần này của mối hàn đã bị phá hủy; Bất kể chất lượng đã được tìm
thấy, kiến thức duy nhất có được về phần còn lại của mối hàn xuất phát từ một giả
định rằng nó tương tự như đối tượng được kiểm tra bởi vì nó được thực hiện trong
cùng điều kiện.

c. Destructive Testing.

c1. A large number of direct tests are destructive.

c2. These also are dangerous because the assumption must be made that those
materials not tested are like the ones for which test information has been
obtained.

A portion of weld bead may be examined for quality by sectioning it to look for
voids, inclusions, penetration, bond, and metallurgical structure by visual
examination.

By this aperation, this portion of the bead has been destroyed; regardless of the
quality that was found, the only knowledge acquired about the remaining portion of
the weld comes from an assumption that it is similar to that examined because it
was made under the same conditions.

d. Kiểm tra không phá hủy.

d1. Ngoài tính năng không phá hủy thì,

- đòi hỏi trước tiên đối với các phép kiểm tra này gần như hoàn toàn là các phép
kiểm tra gián tiếp ,
- và thứ hai, là Sự tương quan với các khiếm khuyết đang được tìm kiếm, với đánh
giá hoặc giải đoán của chuyên gia về các bằng chứng được thu thập được.

d2. Các phép kiểm tra không phá hủy có thể là đối với các lỗi và bất liên tục nằm
trên bề mặt hoặc bên trong và có thể được thực hiện trước, trong và sau quá trình
gia công.

d3. Các phép kiểm tra này được thực hiện bằng cách:

- Cho vật liệu sản phẩm tiếp xúc với một loại môi trường thăm dò (năng lượng bức
xạ, năng lượng âm thanh, năng lượng từ và điện và các phương tiện khác),

- một số tín hiệu chỉ thị thu được từ môi trường thăm dò và sau đó

- giải thích các tín hiệu là bằng chứng của sự hiện diện hoặc vắng mặt của các
khiếm khuyết có thể có.

Để hoạt động chính xác, một phương tiện thăm dò phù hợp phải là một phương tiện mà
nó có thể được áp dụng theo cách là nó sẽ bị tác động bởi bất kỳ khiếm khuyết nào
đang tồn tại và các tín hiệu thu được phải có sự tương quan với các khuyết tật.

d. Nondestructive Testing.

d1. In addition to the nondestructive feature, these tests almost entirely are
indirect tests that require first, correlation with the defects that are being
sought, and second, expert evaluation or interpretation of the evidence that is
gathered.

d2.Nondestructive tests may be for faults and discontinunities located on either


the surface or internally and may be performed before, during, and after the
manufacturing process.

d3.These tests are performed by:

- exposing the product material to some kind of probing medium (radiation energy,
sonic energy, magnetic and electrical energy, and other media),

- obtaining some kind of indicating signals from the probing medium, and then .

- interpreting the signals as evidence of the presence or absence of possible


defects.

To function properly, a suitable probing medium must be one that can be applied in
such a manner that it will be affected by any defects present, and the signals
obtained must be correlated with the defects.

e. Sự chuẩn hóa các phép kiểm tra.

e1. Trong những năm qua, một số tphép kiểm tra đã được chuẩn hóa để kiểm tra các
thuộc tính vật liệu. Một số trong số này cung cấp dữ liệu hữu ích cho tính toán
thiết kế, trong khi các số khác có mục đích chính là hỗ trợ cho công tác lựa chọn
vật liệu bằng cách cung cấp thông tin so sánh.

e2. Nhiều các thuộc tính chỉ được xác định bởi quy trình kiểm tra đã được được phát
triển để đo lường của chúng.

e3. Để bao quát phạm vi rộng về sự khác nhau về vật liệu, hình dạng và kích thước ,
thì các bộ điều kiện khác nhau đã được thiết lập cho một số phép kiểm tra.
e4. Đối với bất kỳ phép kiểm tra nào được cho là đúng, thì điều kiện cần thiết là
các điều kiện kiểm tra được sử dụng phải được chỉ định như một phần của phép đo.

e. Standardized Tests.

e1. Over the years a number of tests have been standardized for checking of
material properties. Some of these provide data that are useful for design
calculation, while others have the-primary purpose of aiding in material choices by
supplying comparative information.

e2. Many properties are defined only by the test procedure that has been developed
for their measurement.

e3. To cover the wide range of values occurring with different materials, shapes,
and sizes, different sets of conditions have been established for some of the
tests.

e4. For any test for which this is true, it is necessary that the test conditions
used be indicated as part of the measurement.

f. Testing

Cơ tính của vật liệu được biểu thị bằng các đặc trưng cơ học, chúng cho biết khả
năng chịu tải của vật liệu trong các điều kiện tương ứng, là cơ sở của các tính
toán sức bền, khả năng sử dụng vào một mục đích nhất định và để so sánh các loại
vật liệu với nhau. Các đặc trưng cơ học này được xác định trên các mẫu nhỏ đã được
tiêu chuẩn hóa của các mác vật liệu, được trình bày trong các sách tra cứu nên rất
tiện lợi cho sử dụng. Khi sử dụng các số liệu cơ tính cần chú ý các điểm sau:

- Với vật liệu hoàn toàn như nhau tuy được thử theo mẫu đã được
chuẩn hóa nhưng khác nhau về hình dạng, kích thước (như thử theo các tiêu chuẩ n
khác nhau) thì cơ tính đo được vẫn khác nhau, mẫu với kích thước lớn bao giờ cũng
cho cơ tính thấp hơn do xác suất có khuyết tậ t cao hơn.

- Điều kiện thử mẫu nói chung là đơn giản hơ n so với thực tế làm việc của kết
cấu, chi tiết.

- Các phép thử nghiệm thường chỉ tiến hành ở nhiệt độ thường, trong khi đó thực
tế không hoàn toàn như vậy.

Chính vì vậy ngày nay có xu hướng thử nghiệm trong các điều kiện gần giống hay
giống hoàn toàn với điều kiện làm việc của chi tiết máy (gọi là thử trên bệ hay
sten), tuy đạt được số liệu chính xác song rất khó thực hiện vì đòi hỏi máy lớn,
phức tạp, thời gian thử kéo dài.

Do có sự khác nhau về hình dạng, kích thước và điều kiện làm việc nên chỉ tiêu cơ
tính đo được trên mẫu chuẩn không phản ảnh đúng 100% khả năng của chi tiết, kết cấu
thực, vẫn cần có những hiệu chỉnh cần thiết. Tuy nhiên không thể phủ nhận chúng
vẫn là cơ sở đáng tin cậy nhất của các suy đoán, tính toán khi chọn lựa vật liệu
và thiết kế .Cần nắm vững các chỉ tiêu cơ tính thường gặp là độ bền, độ dẻo ,độ
cứng ,độ dai va đập ,độ dai phá hủy biến dạng phẳng cùng các ý nghĩa của chúng.

1. THE TENSILE TEST.

a. General.

Một trong những phép kiểm tra quan trọng để xác định tính chất cơ học của vật liệu
là kiểm tra lực kéo(the tension test). Phép kiểm tra này cho ta biết được 2 thông
số quan trọng là độ bền và độ dẻo của vật liệu.

a1. Độ bền là tập hợp của các đặc trưng cơ học phản ánh sức chịu đựng tải trọng cơ
học tĩnh của vật liệu, chúng được xác định bằng ứng suất quy ước của tải trọng gây
ra các đột biến về hình học cho mẫu đo. Tùy theo dạng của tải trọng tác dụng người
ta phân biệt độ bền kéo, nén, uốn, xoắn...

- Các chỉ tiêu quan trọng để phản ảnh độ bền của vật liệu là giới hạn đàn hồi, giới
hạn chảy và giới hạn bền.

- Giới hạn đàn hồi là ứng suất lớn nhất tác dụng lên mẫu khi bỏ tải trọng mẫu không
bị thay đổi hình dạng và kích thước (tuy nhiên rất khó xác định được điều này nên
thường quy định tạo ra độ độ biến dạng dư là 0,01% và 0,05% của chiều dài ban
đầu.

- Giới hạn chảy vật lý là ứng suất tại đó vật liệu bị "chảy", tức là ứng suất bé
nhất bắt đầu gây nên biến dạng dẻo, thường được xác định ứng với đoạn nằm ngang
trên biểu đồ kéo. Đối với đa số kim loại và hợp kim thường không có đoạn nằm ngang
này nên thường dùng giới hạn chảy quy ước.

- Giới hạn chảy quy ước là ứng suất dưới tác dụng của nó sau khi bỏ tải trọng mẫu
bị biến dạng dư là 0,20% của chiều dài ban đầu.

- Giới hạn bền là ứng suất cao nhất gây ra biến dạng cục bộ rồi dẫn đến phá hủy.

a2. Độ dẻo là tập hợp của các chỉ tiêu cơ tính phản ánh độ biến dạng dư của vật
liệu khi bị phá hủy dưới tải trọng tĩnh, nó quyết định khả năng chịu biến dạng
dẻo, gia công áp lực của vật liệu như dập ,dát mỏng, kéo sợi...

- Người ta đánh giá độ dẻo cùng với độ bền khi thử kéo bằng đo sự thay đổi tương
đối của độ dài và tiết diện mẫu sau khi bị phá hủy qua hai chỉ tiêu: là độ giãn dài
tương đối và độ thắt tiết diện tương đối

a3. Mẫu vật liệu được buộc chặt giữa một bàn cố định và một bàn di động trên một
máy được thiết kế đặc biệt cho mục đích này (Hình 3-4). Một đồng hồ đo được gắn
vào các bàn sao cho khi các bàn này di chuyển xa nhau thì tải trọng đặt lên(imposed
on) mẫu vật có thể được đo.

Một số máy được trang bị các thiết bị phụ trợ để xác định mối quan hệ giữa tải
trọng đặt vào và độ giãn dài của mẫu thử để vẽ biểu đồ ứng suất thực tế của quá
trình kiểm tra. Các kết quả tương tự có thể được thực hiện mà không cần thiết bị
đặc biệt này bằng cách đo độ giãn dài khi tải được tăng lên và vẽ các điểm riêng lẻ
để phát triển đường cong.

One of the more important tests for determination of mechanical properties of


materials is the tension test.

Material specimens are fastened between a fixed table and a movable table on a
machine designed specifically for this purpose (Figure 3-4). A weighing scale is
attached to the tables so that as they are moved apart (together for compression
testing), the load imposed on the specimen can be measured.

Some machines are fitted with auxiliary equipment that takes into account the loads
imposed and the resulting elongation of the specimen to actually plot a stress-
strain diagram of the test. The same results can be accomplished without this
special equipment by measuring the elongation as the loads are increased and
plotting the individual points to develop the curve.
a4. Nguyên lý làm việc.

Khi kéo từ từ theo chiều trục một mẫu kim loại tròn, dài ta được biểu đồ kéo [hay
còn gọi là biểu đồ tải trọng (hay ứng suất) - biến dạng] với dạng điển hình được
trình bày ở hình 2.1. Biểu đồ này cho ta một khái niệm chung về các loại biến
dạng và phá hủy

Khi tải trọng đặt vào nhỏ, F < Fđh, độ biến dạng (ở đây biểu thị bằng độ giãn dài
delta-l) tỷ lệ bậc nhất với tải trọng, khi bỏ tải trọng biến dạng mất đi. Biến dạng
như vậy được gọi là biến dạng đàn hồi(Elastic Deformation). Ví dụ, dưới tải
trọng F1 mẫu bị dài thêm đoạn O1, nhưng khi nhấc (bỏ) tải trọng đi mẫu lại trở lại
kích thước ban đầu.

Khi tải trọng đặt vào lớn, F > Fđh, độ biến dạng tăng nhanh theo tải trọng, khi bỏ
tải trọng biến dạng không bị mất đi mà vẫn còn lại một phần. Biến dạng này được gọi
là biến dạng dẻo. Ví dụ, khi đặt tải trọng F vào thì mẫu bị kéo dài theo đường A-
C tức bị dài thêm đoạn A-X, nhưng khi bỏ tải trọng mẫu bị co lại theo đường song
song với đoạn thẳng A-B nên cuối cùng vẫn còn bị dài thêm một đoạn A-X-1, phần này
chính là phần biến dạng dẻo hay dư, còn lại sau quá trình; còn X-1-X là phần biến
dạng đàn hồi bị mất đi sau quá trình.

Nhờ biến dạng dẻo ta có thể thay đổi hình dạng, kích thước kim loại tạo nên nhiều
chủng loại phong phú đáp ứng tốt yêu cầu sử dụng.

Nếu tiếp tục tăng tải trọng đến giá trị cao nhất Fb, lúc đó trong kim loại xảy ra
biến dạng cục bộ (hình thà nh cổ thắt), tải trọng tác dụng giảm đi mà biến dạng vẫn
tăng (cổ thắt hẹp lại) dẫn đến đứt và phá hủy ở điểm c.

Khi biến dạng đàn hồi các nguyên tử chỉ dịch chuyển đi khoảng cách nhỏ (không quá
một thông số mạng), thông số mạng tăng từ a lên a1, tức chưa sang vị trí cân bằng
mới nên khi bỏ tải trọng lại trở về vị trí cân bằng cũ. Biến dạng đàn hồi xảy ra do
cả ứng suất tiếp lẫn ứng suất pháp. Khi biến dạng dẻo các nguyên tử dịch chuyển đi
khoảng cách lớn hơn (quá một thông số mạng) nên khi bỏ tải trọng nó trở về vị trí
cân bằng mới. Cần nhớ là biến dạng dẻo chỉ xảy ra do ứng suất tiếp. Khi biến dạng
đàn hồi và dẻo lực liên kết giữa các nguyên tử vẫn được bảo tồn, còn khi phá hủy
các liên kết bị hủy hoại dẫn đến đứt rời.

b. Tensile Specimens.

Để các phép kiểm tra tiêu chuẩn này có thể được tái hiện chính xác và có giá trị để
so sánh với các phép kiểm tra khác, mẫu kiểm tra được thực hiện theo một trong một
số thiết kế tiêu chuẩn. Hình 3-5 cho thấy kích thước của mẫu kiểm tra thử kéo tiêu
chuẩn với chiều dài dưỡng kiểm tra(gage length) là 8 inch, 2 đầu phẳng.

Bán kính cong của đoạn tiếp giáp trong thanh này và các mẫu kiểm tra thử kéo khác
là được chỉ định, để giảm thiểu cái gọi là hiệu ứng hướng ứng suất(stress
direction effects) từ tải kẹp ở đầu thanh. Các thanh tròn có cùng chiều dài thước
đo 8 inch là được tiêu chuẩn hóa cho các phép kiểm tra với loại vật liệu là rod and
bar, nhưng vì thường không thể tạo ra các mẫu thử có độ dài này từ vật đúc và vật
rèn và các nguồn vật liệu khác, nên các dưỡng kiểm tra có chiều dài 2 inch thường
được sử dụng hơn.

In order that these standard tests can be accurately reproducible and valuable for
comparison with other tests, test specimens are made to one of several standard
designs. Figure 3-5 shows the dimensions for a standard tension test bar with 8-
inch gage length for rolled, flat stock.

The radius from outside the gage-length portion to the increased section size at
the ends are designed, in this and other test bars, to minimize stress direction
effects from clamping loads on the end of the bar. Round test bars with the same 8-
inch gage length are standard for testing rod and bar materials, but because it is
often impossible to produce test samples of this length from castings and forgings
and other material sources, a 2-inch gage length is frequently used.

c. Stress-Strain Diagram/ Sơ đồ ứng suất biến dạng.

Một sự hiểu biết về phép kiểm tra độ bền kéo tốt nhất có thể có được từ một Sơ đồ
ứng suất biến dạng(Stress-Strain Diagram), sơ đồ này được thực hiện bằng cách hiển
thị mối quan hệ giữa ứng suất kéo đơn vị (unit tensile stress) chống lại sự biến
dạng đơn vị (the unit strain, hay còn gọi là độ giãn dài), như trong Hình 3-6. Hình
minh họa hiển thị dữ liệu từ phép kiểm tra độ bền kéo trên thép dễ uốn(ductile
steel) và đây là sơ đồ đặc trưng của loại vật liệu này. Đường cong cho các vật liệu
khác nhau sẽ có hình dạng hơi khác nhau.

An understanding of a tensile test can best be acquired from a stress-strain


diagram made by plotting the unit tensile stress against the unit strain
(elongation), as shown in Figure 3-6. The illustration displays data from a tensile
test on ductile steel and is representative of this kind of material only. Curves
for other materials take on slightly different shapes.

d. Elastic Deformation and Plastic Flow.

- Đường thẳng từ A đến B đại diện cho tải trọng và biến dạng trong phạm vi đàn hồi,

- nếu tải trọng không tại điểm B không vượt quá, thì vật liệu sẽ quay lại vị trí và
hình dạng ban đầu của nó sau khi loại bỏ tải. điểm B được gọi là giới hạn đàn
hồi(the elastic limit) của vật liệu này

- Nếu tải trọng vượt quá giới hạn đó sẽ gây biến dạng vĩnh viễn (biến dạng dẻo) và
vật liệu không thể phục hồi bằng cách loại bỏ tải.

- Khi tải trọng đạt đến điểm C, biến dạng dẻo xảy ra với tốc độ làm cho các ứng
suất được giảm nhanh hơn so với khi chúng được hình thành và sự biến dạng tăng lên
mà không cần thêm, hoặc thậm chí là giảm ứng suất. Ứng suất đơn vị tại C được gọi
là điểm giới hạn chảy(the yield point).

- biến dạng dẻo xảy ra ở nhiệt độ bình thường được gọi là làm mềm cơ học(cold
working), bất kể loại tải trọng mà nó được đặt vào.

- Khi biến dạng dẻo diễn ra, các tinh thể và nguyên tử của vật liệu sắp xếp lại bên
trong để có khả năng chống lại mạnh hơn với các sự thay đổi tiếp theo. Hiện tượng
Các vật liệu trở nên bền hơn và cứng hơn và được gọi là sự hóa bền cơ học(work
hardening).

- Tại điểm D trong Hình 3-6, đường cong đột nhiên quay lên trên, cho thấy vật liệu
đã trở nên bền hơn do quá trình work hardening và lúc này để tiếp tục biến dạng vật
liệu thì yêu cầu tải trọng đặt vào phải cao hơn .

- Tuy nhiên, tốc độ biến dạng tăng cho đến khi tại điểm E, điểm được gọi là giới
hạn bền(the ultimate strength) được chỉ định.

- The straight line from A to B represents loads and deformations in the elastic
range,

- and as long as the load at B is not exceeded, the material will resume its
original position and shape after removal of the load. B is the elastic limit for
this particular material,
- and loads above that limit will cause permanent deformation (plastic flow) that
cannot be recovered by removal of the load.

- At the load represented by the point at C, plastic flow is occurring at such a


rate that stresses are being relieved faster than they are formed, and strain
increases with no additional, or even with a reduction of, stress. The unit stress
at C is known as the yield point.

- Plastic flow occurring at normal temperature is called cold working, regardless


of the kind of loading system under which it is accomplished.

- As plastic flow takes place, the crystals and atoms of the material rearrange
internally to take stronger positions resisting further change. The material
becomes stronger and harder and is said to be work hardened.

- At the point D in Figure 3-6, the curve suddenly turns upward, indicating that
the material has become stronger because of work hardening and that higher loads
are required to continue deformation.

- The deformation rate, however, increases until at point E the ultimate strength
is indicated.

e. Ultimate and Breaking Strengths

- giới hạn bền kéo của vật liệu được xác định là độ bền cao nhất tính bằng pound
trên mỗi inch vuông, dựa trên diện tích mặt cắt ngang ban đầu.

- Theo định nghĩa này, các vật liệu dẻo(ductile materials) là loại vật liệu dễ kéo
dài đáng kể và diện tích mặt cắt ngang giảm xuống đáng kể , Sự đứt gãy( rupture) ở
mức tải trọng thấp hơn so với trước khi bị gãy vỡ(fracture).

- Độ bền đứt(Breaking Strength), hoặc Độ bền vỡ, đối với vật liệu này được thể hiện
ở điểm F, vị trí này thấp hơn đáng kể so với giới hạn bền(the ultimate strength).

- Đây là điển hình của vật liệu dẻo, nhưng khi vật liệu trở nên ít dẻo hơn, the
ultimate strength và the breaking strength ngày càng gần nhau hơn cho đến khi không
có sự khác biệt có thể phát hiện được.

- The ultimate tensile strength of a material is defined as being the highest


strength in pounds per square inch, based on the original cross-sectional area.

- By this definition, ductile materials that elongate appreciably and neck down
with considerable reduction of cross-sectional area, rupture at a load lower than
that passed through previous to fracture.

- The breaking strength, or rupture strength, for this material is shown at F,


considerably below the ultimate strength.

- This is typical of ductile materials, but as materials become less ductile, the
ultimate strength and the breaking strength get closer and closer together until
there is no detectable difference.

f. Yield Point and Yield Strength..

- Nhiều vật liệu có Giới hạn chảy không được xác định rõ. Sự thể hiện các giá trị
ứng suất biến dạng kéo(tensile stress-strain values) tạo ra một đường cong đặc
trưng được thể hiện trong Hình 3- 7.

- Đối với các vật liệu này, một giá trị quy ước(an artificial value), giá trị này
có thể được tính toán được và nó tương tự như Giới hạn chảy, được gọi là độ bền
chảy(Yield Strength) . độ bền chảy được định nghĩa là mức độ ứng suất cần thiết để
tạo ra một lượng biến dạng thường trực(permanent strain hay là biến dạng dư) được
xác định trước (predetermined).

- Một biến dạng(strain) hoặc biến dạng(deformation) thường được sử dụng là 0,002
inch mỗi inch, hoặc bù 0,2%, phải được chỉ định nhất định với giá trị độ bền chảy.
độ bền chảy là giá trị ứng suất được biểu thị bằng điểm giao nhau giữa đường cong
ứng suất và đường bù được vẽ song song với phần thẳng của đường cong.

Many materials do not have a well-defined or reproducible yield point. Plotting of


tensile stress-strain values produces a curve of the type shown in Figure 3-7.

For these materials, an artificial value similar to the yield point, called yield
strength, may be calculated. The yield strength is defined as the amount of stress
required to produce a predetermined amount of permanent strain

g. Modulus of Elasticity

Nếu ứng suất đạt dưới giới hạn đàn hồi, tỷ lệ ứng suất đơn vị với biến dạng đơn vị,
hoặc độ dốc của đường cong, được gọi là mô đun đàn hồi, hoặc mô đun Young, và được
biểu thị bằng E. E, do đó, bằng ứng suất đơn vị chia cho biến dạng đơn vị.

Các giá trị tổng của mô đun đàn hồi rất quan trọng đối với thiết kế của các chi
tiết vì khi đó phải xem xét đến độ võng hoặc biến dạng trong phạm vi đàn hồi cho
phép.

Độ cứng tương đối hoặc độ cứng của các vật liệu khác nhau có thể được xác định chỉ
bằng cách so sánh mô đun của chúng.

Bằng cách sắp xếp lại công thức cho E, biến dạng đơn vị trở thành bằng ứng suất đơn
vị chia cho E.

Nếu một thanh thép có diện tích mặt cắt ngang là 1 inch vuông và có mô đun đàn hồi
30 triệu pound mỗi inch vuông, chịu lực kéo 1.000 pound, thì ta sẽ có ứng suất đơn
vị sẽ bằng lực kéo chia cho diện tích, bằng 1000 chia cho 1 và bằng 1000. độ biến
dạng đơn vị bằng ứng suất đơn vị chia cho mô đun đàn hồi, và bằng 1000 chia cho 30
triệu. như vậy mỗi inch chiều dài của thanh sẽ được kéo dài 1 phần 30.000 inch. Một
thanh thép dài 30 inch với tiết diện này sau đó sẽ được kéo dài 30 phần 30.000
như vậy là bằng (0,001) của một inch tổng thể với tải trọng kéo 1.000 pound.

In the stress range below the elastic limit, the ratio of unit stress to unit
deformation, or the slope of the curve, is referred to as the modulus of
elasticity, or Young's modulus, and is represented by E. E, therefore, equals unit
stress divided by unit deformation.

The gross values of the modulus of elasticity are important to the design of
members when deflection or deformation in the elastic range must be given
consideration. The relative stiffness or rigidity of different materials can be
ascertained merely by comparing their modulus.

By rearrangement of the formula for E, the unit deformation becomes equal to the
unit stress divided by E.

If a bar of steel with a cross-sectional area of 1 square inch and with a modulus
of elasticity of 30 million pounds per square inch is subjected to a tensile pull
of 1,000 pounds, each inch of length of the bar will be stretched 1/30,000 of an
inch. A 30-inch-long steel bar with this cross section would then be elongated
1/1,000 (0.001) of an inch overall with a 1,000-pound tensile load.
h. Ductility.

Phép kiểm tra kéo cung cấp hai cách tính độ dẻo vật liệu đó là:

h1. Một được gọi là độ giãn dài phần trăm, được biểu thị bằng công thức tỉ lệ của
độ dãn dài sau khi kéo với độ dài ban đầu của mẫu.

Đối với vật liệu dẻo, phần chính của độ giãn dài sẽ xảy ra trên một phần tương đối
nhỏ của gage length sau khi mẫu vật bắt đầu bị thắt tiét diện lại( sự thắt này tạo
ra Neck) khi nó tiến đến điểm phá vỡ. Bởi vì độ giãn dài bị cục bộ , nên một sự
thay đổi của gage length sẽ gây ra sự khác biệt về phần trăm tính toán của độ giãn
dài.

h2. Một biện pháp khác, giảm phần trăm diện tích, là được tính bằng cách so sánh
diện tích ban đầu của mẫu vật với diện tích nhỏ nhất của mẫu khi đứt.

i. Resilience and Toughness./ Khả năng phục hồi và độ dẻo dai.

Vùng diện tích dưới một đường cong biến dạng ứng suất bị ảnh hưởng bởi cả hai yếu
tố được sử dụng để tạo đường cong đó. Trong đồ thị biến dạng ứng suất, Vùng diện
tích nằm dưới bất kỳ phần nào của đường cong biểu thị năng lượng cần thiết để làm
biến dạng vật liệu. Khi lên đến giới hạn đàn hồi, năng lượng này có thể phục hồi và
được gọi là khả năng phục hồi.

Độ dẻo dai được định nghĩa là khả năng của vật liệu hấp thụ năng lượng mà không bị
gãy. Đối với phép kiểm tra kéo, tổng diện tích dưới đường cong là thước đo độ dẻo
dai

The area under a curve is influenced by both factors that are used to make that
curve. In a stress-strain diagram the area under any portion of the curve
represents the energy required to deform the material. Up to the elastic limit,
this energy is recoverable and is called resilience.

Toughness is defined as the ability of a material to absorb energy without


fracture. For the tension test, the total area under the curve is a measure of
toughness

2. TRUE STRESS-TRUE STRAIN

3. Compression Testing.

a. Khi đạt đến giới hạn đàn hồi, hầu hết các kim loại đều có giá trị xấp xỉ bằng
nhau dưới tải trọng kéo hoặc nén.

Tuy nhiên, gang có độ bền kéo chỉ bằng một nửa độ bền nén của nó và do đó được sử
dụng chủ yếu trong các ứng dụng trong đó tải trọng chính thuộc loại nén.

Nhiều phi kim như gỗ, bê tông và các cốt liệu khác cũng được sử dụng gần như hoàn
toàn để hỗ trợ tải trọng nén.

Điều này một phần là do độ bền nén cao hơn, nhưng đồng thời cũng là vì những vật
liệu này có tỷ lệ xuất hiện khuyết tật bên trong, cái mà có thể gây ra sự hư hỏng
đột ngột khi chịu kéo, nhưng chúng lại tạo ra hiệu ứng tương đối nhỏ khi chịu tải
trọng nén.

b. Việc kiếm tra nén được tiến hành theo cách tương tự như trong kiểm tra kéo. Mẫu
thử được đặt giữa các bàn của máy thí nghiệm được ghép lại với nhau để làm cho mẫu
thử chịu tải trọng nén.

Mẫu thử nén phải ngắn so với đường kính của chúng để hiệu ứng cột sẽ không gây ra
uốn cong với tải lệch tâm, không đều.

a. Up to the elastic limit, most metals are approximately equal in properties under
either tensile or compressive loading.

Cast iron, however, has a tensile strength of only about one-half its compressive
strength and is therefore used mostly in applications where the principal loads are
of the compressive type.

Many nonmetals such as timber, concrete, and other aggregates are also used almost
entirely for supporting compressive or compactive loads.

This is due in part to higher compressive strength, but also these materials have a
high incidence of flaws and faults that might cause sudden failure in tension but
produce relatively small effect under compressive loading.

b. The testing of materials in compression is conducted in much the same manner as


in testing under tension. Specimens are placed between tables of a testing machine
that are brought together to subject the specimen to compressive loads.
Compression specimens must be short compared to their diameter so that column
effect will not cause bending with eccentric, unequal loading.

4. TRANSVERSE RUPTURE TESTING

a. Limitations of Tensile Tests for Brittle Materials.

Hạn chế của các phép kiểm tra sức bền kéo đối với vật liệu giòn.

- Trong một số trường hợp, việc thay thế cho kiểm tra độ bền kéo là cần thiết. Như
đới với một số vật liệu khó định hình hoặc rất dễ vỡ trong tự nhiên, việc sản xuất
một mẫu kiểm tra sức bền kéo là không thực tế.

- Tình trạng này xảy ra đặc biệt với gốm sứ. Với hầu hết các vật liệu có đặc tính
rất giòn, mặc dù có thể tạo ra mẫu thử độ bền kéo, nhưng kết quả từ kiểm tra sức
bền kéo tiêu chuẩn sẽ chỉ có ý nghĩa hạn chế.

- Hầu như không thể đảm bảo trong phép kiểm tra sức bền kéo rằng tải trọng đặt vào
sẽ được định tâm chính xác trong mẫu thử và sẽ chính xác song song với trục của mẫu
thử.

- Nếu đây không phải là trường hợp, moment uốn được tạo ra trong mẫu vật. Với vật
liệu dẻo, một lượng nhỏ biến dạng dẻo sẽ diễn ra trong mẫu thử, đặc biệt là khi tải
được áp dụng; mẫu thử tự nó căn chỉnh cho phù hợp với tải trọng; và các ứng suất
được đồng nhất trên khu vực được kiểm tra.

- Với một vật liệu giòn trong đó sự căn chỉnh này không thể diễn ra, các moment uốn
dẫn đến ứng suất cao hơn ở một mặt của mẫu thử so với mặt kia. Mẫu thử bị hỏng khi
ứng suất cao nhất đạt đến một số giá trị tới hạn, nhưng ứng suất quan sát được tại
thời điểm này, dựa trên giả định về tính đồng nhất, có phần thấp hơn. Hệ quả là,
kết quả từ việc kiểm tra một số mẫu vật giòn tương tự cho thấy có một sự biến thiên
rộng và không đại diện cho sức bền thực sự của vật liệu.

In a number of cases a substitute for the standard tensile test is necessary. With
some materials that are difficult to shape or very brittle in nature, it is
impractical to produce a specimen for tension testing.
This condition occurs particularly with ceramics. With most materials that are very
brittle in character, even though a tensile specimen might be produced, the results
from the standard tensile test would have only limited significance.

It is almost impossible to insure in the tension test that the applied load will be
precisely centered in the specimen and will be exactly parallel to the axis of the
specimen.

If this is not the case, bending moments are introduced in the specimen. With a
ductile material, small amounts of plastic flow take place in the specimen,
particularly where the load is applied; the specimen aligns itself properly with
the load; and the stresses are uniform across the tested area.

With a brittle material in which this alignment cannot take place, the bending
moments result in higher stresses on one side of the specimen than on the other.
The specimen fails when the highest stress reaches some critical value, but the
observed stress at this time, based on the assumption of uniformity, is somewhat
lower. As a consequence, the results from testing a number of similar brittle
specimens exhibit wide variations and are not representative of the true strength
of the material.

b. The Transverse Rupture Test.

- Phép kiểm tra này cung cấp ít thông tin đầy đủ hơn so với phép kiểm tra độ bền
kéo, Phép kiểm tra này là một thử nghiệm nhanh và đơn giản, sử dụng các mẫu thử
được chuẩn bị dễ dàng hơn và đặc biệt phù hợp với các vật liệu giòn. Trong nhiều
trường hợp, mẫu vật có thể là một phôi thực tế. Phép kiểm tra này đặc biệt phù hợp
với những vật liệu sẽ được sử dụng trong các thanh dầm (beam application). Nó thực
sự là loại kiểm tra độ bền có ý nghĩa duy nhất cho bê tông cốt thép .

- Phép kiểm tra này bao gồm việc đưa tải trọng vào một thanh dầm đơn giản như minh
họa trong Hình 3-9. Mặc dù đã có một số tiêu chuẩn đã được đặt ra cho các vật liệu
cụ thể này, nhưng đến nay vẫn không có tiêu chuẩn chung nào cho kích thước và hình
dạng mẫu vật như đã có cho phép kiểm tra độ bền kéo.

- Mô-đun vỡ(The modulus of rupture), hoặc độ bên của thanh dầm(beam strength), được
tính theo công thức

- while it gives less complete information than the tension test, is a fast and
simple test, making use of more easily prepared specimens, and is especially well
suited to brittle materials. In many instances the specimen can be an actual
workpiece. The test is particularly well suited for those materials that are to be
used in beam applications. It is really the only meaningful type of strength test
for reinforced concrete.

- The test consists of loading a simple beam as illustrated in Figure 3-9. While
some standards have been set for particular materials, there are no univeral
standards for specimen sizes and shapes as there are for the tension test.

- The modulus of rupture, or beam strength, is calculated by the formula

c. Limitations of Transverse Rupture Testing.

- Mặc dù công thức này là công thức được sử dụng để tính toán ứng suất thực tế tối
đa trong các mặt bên ngoài của thanh dầm, nhưng nó dựa trên sự giả định(assumption)
rằng ứng suất vẫn tỷ lệ thuận(proportional) với biến dạng.

- Đây không phải là trường hợp của hầu hết các vật liệu khi chịu tải trọng lớn, với
kết quả là "ứng suất" được tính toán cao hơn ứng suất thực tế ở các mặt bên ngoài
khi vỡ và không thể so sánh trực tiếp với các giá trị của giới hạn bền kéo(the
ultimate tensile strength) được lấy từ phép kiểm tra độ bền kéo,

- và cũng không thể sử dụng các giá trị mô đun vỡ như các giá trị độ bền kéo thiết
kế. Các giá trị mà rất hữu ích để so sánh các vật liệu và chúng rất hữu ích trong
thiết kế khi vật liệu được sử dụng làm thanh dầm.

- While this formula is the formula that is used to calculate the maximum actual
stress in the outer fibers in a beam, it is based on the assumption that stress
remains proportional to strain.

- This is not the case for most materials when highly loaded, with the result that
the calculated "stress" is higher than the actual stress in the outer fibres at
rupture, and direct comparison cannot be made with ultimate tensile strength values
taken from a tension test,

- nor can the values of modulus of rupture be used as design tensile strength
values. The values are useful for comparing materials, and they are useful in
design when the material is to be used as a beam.

5. SHEAR TESTING.

Trong phần trước, đã chỉ ra rằng khi một thanh chịu tải trọng kéo như trong phép
kiểm tra sức bền kéo, giá trị ứng suất cắt( shear stress) tồn tại trong thanh tại
thời điểm bị hỏng có thể được tính toán từ tải trọng và kích thước của thanh (Hình
3-10).

Tuy nhiên, thuật ngữ cắt(shear) có ý nghĩa rộng hơn ứng suất cắt và nó được sử dụng
để mô tả các hệ thống tải tọng cái mà tác động lên vật liệu hành động cắt(a
shearing action).

Trên thực tế, phân phối ứng suất trong hệ thống tải như vậy khá phức tạp, nhưng một
phép kiểm tra độ bền cắt khá đơn giản đã được phát triển, cái mà mô phỏng các điều
kiện của tải thực tế và cung cấp thông tin có thể được sử dụng trong thiết kế, tại
đó tình huống tải tương tự như thử nghiệm .

Tải như vậy xảy ra trong việc sử dụng bu lông hoặc đinh tán và trong các hoạt động
cắt trong đó vật liệu đang được tách ra. Trong thử nghiệm được chỉ ra trong Hình 3-
ll, thanh có diện tích mặt cắt ngang A được tạo ra sự hư hỏng đồng thời( fail
simultaneously) ở hai vị trí sao cho diện tích hỏng là 2A và độ bền cắt được xác
định là = P chia 2A

In the section dealing with material failure, it was pointed out that when a bar is
subjected to a tension load as in the tension test, the value of shear stress
existing in the bar at failure can be calculated from the load and the dimensions
of the bar (Figure 3-10)

The term shear, however, has a broader meaning than shear stress only and is used
to describe loading systems that subject a material to a shearing action.

Actually, the stress distribution in such loading system is quite complex, but a
rather simple shear strength test has been developed that simulates the conditions
of actual loading and provides information that may be used in deisgn where the
loading situation is similar to that of the test.

Such loading occurs in using bolts or rivets and in shearing operations in which
material is being separated. In the test indicated in Figure 3-ll, the bar with
cross-sectional area A is made to fail simultaneously in two places so that the
area of failure is 2A, and shear strength is defined as shear strength = P divided
2A

6. FATIGUE TESTING.

a. Introduction.

Một kim loại có thể bị hư hỏng trong các chu kỳ ứng suất lặp lại(cycles of repeated
stress) đủ nhiều, mặc dù ứng suất tối đa được áp dụng ít hơn đáng kể so với sức bền
của vật liệu được xác định bằng thử nghiệm tĩnh.

Sự hư hỏng sẽ xảy ra ở mức độ ứng suất thấp hơn nữa nếu tải trọng theo chu kỳ(the
cyclic loading) bị đảo ngược(reversed), ứng suất xen kẽ và nén, so với khi các chu
kỳ được lặp lại theo cùng một hướng theo thời gian.

Kết luận từ một nghiên cứu toàn diện về các hư hỏng trong quá trình sử dụng là
khoảng 90% của các hư hỏng như vậy trong đó xảy ra sự gãy đổ, có liên quan đến sự
hư hỏng do mỏi.

Các thành phần của kết cấu chịu rung động, chịu tải trọng biến đổi lặp đi lặp lại,
hoặc chịu bất kỳ sự xáo trộn theo chu kỳ(cyclic disturbance) gây ra sự uốn( hoặc
võng hoặc lệch) phải được thiết kế để có mức độ ứng suất đủ nhỏ để hiện tượng mỏi
sẽ không gây ra sự hư hỏng

A metal may fail under sufficient cycles of repeated stress, even though the
maximum stress applied is considerably less than the strength of the material
determined by static test.

Failure will occur at a lower stress level if the cyclic loading is reversed,
alternating tension and compression, than if the cycles are repeated in the same
direction time after time.

The conclusion from one comprehensive study of service failures was that in 90% of
such failures in which fracture occurred, fatigue was involved.

Structural members subject to vibration, repeated variation of load, or any cyclic


disturbance causing deflection must be designed to have low enough stress levels
that fatigue phenomena will not cause failure

b. Fatigue Failure Initiation and Development.

Hư hỏng do mỏi(Fatigue Failure) khởi đầu và phát triển.

Fatigue Failure thường bắt đầu tại một số nơi tập trung ứng suất cao vì hình dạng
của thành phần hoặc một số không hoàn hảo khác. Các lỗ xuyên qua vật liệu, các vết
khía trên bề mặt, các rổ khí, vết nứt hoặc ngậm xỉ hoặc thậm chí các vết trầy xước
nhỏ và các lỗi do sự tấn công của ăn mòn trên ranh giới hạt, có thể là nguồn gốc
của Fatigue Failure.

Với việc ứng suất lặp đi lặp lại, một vết nứt bắt đầu tại một trong những hạt nhân
chịu mỏi này và phát triển cho đến khi không đủ kim loại rắn để mang tải. Sự gãy vỡ
hoàn toàn thường xuất hiện rất bất ngờ. Như đã thấy trong Hình 3-11, trên bề mặt lộ
ra của một Fatigue Failure cho thấy một phần của bề mặt rất mịn và như được đánh
bóng, trong khi phần còn lại thể hiện cấu trúc hạt được xác định rõ.

Với thể hiện cấu trúc hạt bị tách ra trong lần phá vỡ đột ngột cuối cùng. phần của
bề mặt rất mịn và như được đánh bóng là do bởi sự chuyển động của vật liệu với sự
lệch lặp đi lặp lại(repeated deflection) khi vết nứt phát triển và lớn lên.
Fatigue Failure là thường xuyên hơn so với suy nghĩ thông thường. Đã có ước tính
rằng với các thiết bị có bộ phận chuyển động hoặc bị rung động đến 90% hư hỏng là
do Fatigue Failure gây ra .

Bởi vì bất kỳ loại bất liên tục nào, đặc biệt là những điểm ở (hoặc gần) bề mặt nơi
có ứng suất kéo có khả năng cao nhất, có thể là nguyên nhân chính cho sự Fatigue
Failure, Việc kiểm tra NDT ở các vị trí này có thể ngăn ngừa sự thất bại thảm
khốc(catastrophic failure) sau này.

Fatigue failure normally starts at some spot where stress concentration is high
because of the shape of the member or some imperfection. Holes through the
material, notches in the surface, internal flaws, such as voids, cracks, or
inclusions or even minor scratches and faults caused by corrosive attack on the
grain boundaries, mey be sources of fatigue failure.

With repeated stressing, a crack starts at one of these fatigue nuclei and grows
until insufficient solid metal remains to carry the load. Complete failure in a
sudden, brittle manner results. As seen in Figure 3-11, the exposed surface of a
fatigue failure shows part of the surface to be smooth and polished, while the rest
exhibits a well-defined grain structure.

The crystalline-appearing portion was separated in the sudden, final break. The
smooth part was polished and burnished by the movement of the material with
repeated deflection as the crack developed and grew.

Fatigue failure is more frequent than commonly thought. There have been estimates
that with equipment having moving parts or subject to vibration as much as 90%
failures include fatigue insome form.

Because any kind of discontinuity, particularly those at (or near) the surface
where tensile stresses are likely to be highest, can be the nucleus for fatigue
failure, location of these spots by NDT may prevent a later catastrophic failure.

c. Endurance Limits.

Giới hạn bền mỏi

Bởi vì một vật liệu có thể bị hư hỏng trong các điều kiện của rất nhiều tải trọng
lặp đi lặp lại ở mức ứng suất thấp hơn nhiều so với độ bền kiểm tra tiêu chuẩn, nên
một nhà thiết kế phải biết các vật liệu khác nhau chịu đựng thế nào trong các điều
kiện này.

Các phép kiểm tra đã được phát triển với các máy móc đặc biệt, những thiết bị này
có thể uốn cong các mẫu thử hình tấm hoặc đặt một thanh dầm quay vào tải trọng uốn
cho số lượng lớn các chu kỳ.

Từ dữ liệu được thu thập từ các phép kiểm tra như vậy, Endurance Limits của vật
liệu có thể được xác định. Endurance Limits được xác định là trị số với ứng suất
tác dụng cao nhất được duy trì trong một số lượng chu kỳ lớn vô hạn mà vẫn không
gây ra hư hỏng. Endurance Limits có 2 loại là giới hạn mỏi ngắn hạn và độ bền mỏi
dài hạn của vật liệu.

Hình 3-12 cho thấy đường cong S-N (hay còn gọi là Đường cong mỏi). Đường cong mỏi
thể hiện mối quan hệ giữa ứng suất (ứng suất trung bình hoặc ứng suất lớn nhất) và
số chu kỳ thay đổi ứng suất N của chi tiết máy tới khi hỏng hoàn toàn. Từ đồ thị ta
thấy ứng suất càng cao thì tuổi thọ càng giảm. Khi ứng suất vượt qua giá trị delta-
K số chu kỳ ứng suất giảm mạnh. Trị số delta-K gọi là giới hạn mỏi ngắn hạn của vật
liệu. Ứng suất càng giảm thì số chu kỳ ứng suất càng tăng. Khi ứng suất giảm đến
giá trị delta-0 thì đường cong mỏi gần như nằm ngang tức là số chu kỳ ứng suất có
thể tăng lên rất lớn mà chi tiết không bị gãy hỏng. Trị số delta-0 gọi là độ bền
dài hạn của chi tiết máy. Ứng với delta-0 là số chu kỳ cơ sở N-0. Các vật liệu đại
diện bởi đường cong này sẽ có delta-0 lên đến 42.000 pound mỗi inch vuông (290 MPa)
và ứng suất ở mức này có thể được tiếp tục vô thời hạn mà không hư hỏng

Giới hạn chịu đựng tương quan khá chặt chẽ với độ bền kéo và đối với hầu hết các
vật liệu là từ khoảng một phần ba đến một phần hai ứng suất cần thiết để phá vỡ một
mẫu thử kéo.

Because a material may fail under conditions of a great many repeated loads at a
stress level far below that determined by the standard strength test, a designer
must know how different materials stand up under these conditions. Tests have been
developed with special machines that bend plate-shaped test specimens or subject a
rotating beam to a bending load for large numbers of cycles.

From data collected from such tests, the endurance limit of a material can be
determined.

The endurance limit is the highest completely reversed stress whose repeated
application can be endured for an indefinitely large number of cycles without
failure. Figure 3-12 shows a typical S-N, or endurance limit, curve.

The material represented by this curve would have an endurance limit of 42,000
pounds per square inch (290 MPa) because the curve has flattened out, and stressing
at this level could be continued indefinitely without failure.

Endurance limits correlate fairly closely with tensile strength and for most
materials are from about one-third to onehalf the stress required to break a
tensile specimen.

d. Fatigue Strength.

Đối với một số vật liệu, đường cong không bị hạ phẳng ngay cả sau vài trăm triệu
chu kỳ. Nên khi không thể xác định Giới hạn bền mỏi hoặc giới hạn này là không thực
tế(impractical) khi thực hiện thử nghiệm đủ lâu để xác định, thì thông thường người
ta sẽ sử dụng một giá trị khác, độ bền mỏi, để đánh giá khả năng của vật liệu chống
lại sự fatigue failure.

Độ bền mỏi là ứng suất có thể được áp dụng cho một số chu kỳ tùy ý(arbitrary) mà
không bị hư hỏng. Số lượng chu kỳ mà độ bền mỏi là hợp lệ phải luôn được chỉ định
vì ứng suất hoạt động(operating stress) được chọn có thể ở mức mà đường cong S-N
vẫn độ dốc và hoạt động theo chu kỳ không xác định(indefinite) để có thể gây ra sự
fatigue failure.

For some materials the curve does not flatten even after several hundred million
cycles. When the endurance limit cannot be determined, or it is impractical to
carry on a test long enough for this determination, it is common practice to use
another value, fatigue strength, to evaluate the ability of a material to resist
fatigue failure.

Fatigue strength is the stress that can be applied for some arbitrary number of
cycles without failure. The number of cycles for which a fatigue strength is valid
must always be specified because the operating stress chosen may be at a level
where the S-N curve still slopes, and indefinite cyclic operation could cause
fatigue failure.

7. CREEP TESTING.

Thuật ngữ rão(creep) được sử dụng để mô tả một biến dạng liên tục của vật liệu khi
chịu tải không đổi, ứng suất đơn vị được tạo ra nhỏ hơn giới hạn đàn hồi .

Ở nhiệt độ bình thường, ảnh hưởng của creep là rất nhỏ và có thể bị bỏ
quên(neglected). Khi nhiệt độ hoạt động tăng, tuy nhiên, biến dạng này do biến dạng
dẻo chậm trở nên rất quan trọng trong thiết kế và sử dụng vật liệu.

Sự Công nhận hiện tượng này(this phenomenon) là quan trọng nhất đối với các vật
liệu có độ bền cao hơn, cái mà sẽ được sử dụng ở nhiệt độ cao hơn. Creep tests được
thực hiện bằng cách áp dụng một tải trọng không đổi vào mẫu vật liệu được giữ ở
nhiệt độ mong muốn(the desired temperature) và được đo định kỳ cho biến dạng trong
một khoảng thời gian dà. Kết quả đo có thể được vẽ trên đồ thị độ giãn dài theo
thời gian, như trong hình 3-13, với một chỉ dẫn về nhiệt độ được duy trì và mức độ
ứng suất được duy trì, theo đó thử nghiệm được áp dụng.

Hầu hết Creep tests được thực hiện trong khoảng thòi gian ít nhất 1.000 giờ, vì vậy
đây là một bài kiểm tra tốn thời gian.

Độ bền rão của vật liệu là ứng suất cần thiết để tạo ra tốc độ rão được xác định
trước(predetermined creep rate) ( chính là độ dốc của phần thẳng của một đường
cong) trong một khoảng thời gian kéo dài.

Thông thường, sự căng thẳng cần thiết để tạo ra tốc độ rão(creep rate) 1% trong
10.000 giờ được sử dụng như độ bền rão(creep strength).

Ứng suất độ bền đứt(Stress rupture strength) được định nghĩa là sự ứng suất cần
thiết để tạo ra sự phá hủy tại thời gian và nhiệt độ bắt buộc nhất định(prescribed
values).

The term creep is used to describe the continuous deformation of a material under
constant load, producing unit stresses below those of the elastic limit.

At normal temperature, the effect of creep is very small and can be neglected. As
operating temperatures increase, however, this deformation by slow plastic flow
becomes very important in the design and use of material.

Recognition of this phenomenon is most important for the higher strength materials
that are to be used at elevated temperatures.

Creep tests are conducted by applying a constant load to a material specimen held
at the desired temperature and measured periodically for deformation over a long
period of time. The results may be plotted on a graph of elongation against time,
as in Figure 3-13, with an indication of the maintained temperature and stress
level under which the test was jconducted.

Most creep tests are carried on for peridds of at least 1,000 hours, so this is a
time-consuming test.

The creep strength of a material is the stress required to produce some


predetermined creep rate (the slope of the straight portion of a curve) for a
prolonged period of time. Commonly, the stress required to produce a creep rate of
1% in 10,000 hours is used as creep strength.

Stress rupture strength is defined as the stress required to produce failure at


prescribed values of time and temperature.

8. NOTCHED BAR TESTING

a. Introduction.
Rất nhiều chi tiết máy làm việc dưới tải trọng đặt vào với tốc độ lớn,đột ngột hay
nói khác đi là chịu va đập,như ôtô khi gặp chướng ngại, bị xóc hay phanh đột ngột.

Một cách đánh giá khả năng chống phá hủy của vật liệu khi chịu tải trọng động
như vậy là cách thử va đập bằng cách uốn, tức đo công phá hủy hay độ dai va đập.

Cũng có thể đoán định công phá hủy đó qua biểu đồ kéo.

Qua hai biểu đồ kéo trình bày ở hình 2.17 thấy rằng vật liệu tương ứng với đường AB
có công phá hủy (nếu quan niệm công = lực x độ dài) bé vì diện tích mà đường
cong chiếm chỗ (phần gạch chéo) khá nhỏ, trong khi đó vậ t liệu tương ứng với
đường AB' có công phá hủy lớn.

Một cách gần đúng có thể coi độ dai va đập tỷ lệ với tích số của độ bền với độ dẻo
(giới hạn bền kéo hay giới hạn chảy x độ giãn dài tương đối). Thử va đập bằng cách
dùng búa rơ i kiểu con lắc để phá vỡ mẫu chuẩn, qua đó xác định công phá hủy
bằng cách xá c định hiệu thế năng của con lắc trước và sau một hành trình rơi (hì
nh 2.18).

Vật liệu thường được sử dụng trong các tình huống mà tải trọng động được tạo ra đột
ngột để tạo nên sự sốc, cái mà làm tăng hiệu quả của tải trọng vượt xa mức dự kiến
so với việc áp dụng tải dần dần(gradual) hoặc tải trọng tĩnh.

Các thử nghiệm được thiết kế để kiểm tra khả năng chịu đựng loại vật liệu này là
các thử nghiệm hấp thụ năng lượng(energy absorption tests) cái mà hiếm khi có thể
được sử dụng để cung cấp thông tin để có thể được sử dụng trực tiếp trong thiết kế,
nhưng chủ yếu cung cấp dữ liệu để so sánh các vật liệu khác nhau.

Mặc dù các thử nghiệm như vậy thường được gọi là phép kiểm tra va đập(impact
tests), năng lượng cần thiết để gây ra sự failure không khác nhiều so với yêu cầu
nếu tải được áp dụng chậm.

Sự hư hỏng do va đập xảy ra thì khả năng hấp thụ năng lượng của vật liệu bị giảm
đáng kể, chỉ xảy ra ở tốc độ cao hơn nhiều.

Materials are often used in situations in which dynamic loads are suddenly applied
to produce shock that increases the effective load far above that which would be
expected from gradual application of the same load or a similar static load.

Tests designed to check the ability of a material to withstand this kind of loading
are energy absorption tests that seldom can be used to give information that can be
used directly in design, but primarily provide data for comparison of different
materials.

While such tests are frequently called impact tests, the energy required to cause
failure does not differ greatly from that required if the load were applied slowly.

True impact failure, in which the energy-absorbing capacity of a material is


greatly reduced, occurs only at much higher speeds.

b. Charpy Test.

Các thử nghiệm được tiến hành phổ biến nhất là thử nghiệm va đập uốn cong, sử dụng
một trong hai loại mẫu thử (Hình 3-14).

Mẫu thử Charpy được kẹp ở cả hai đầu bằng máy kiểm tra tác động tiêu chuẩn và bị
đập vào mặt đối diện với rãnh. Máy thí nghiệm được chế tạo với một con lắc có trọng
số, được nâng lên để bắt đầu thử nghiệm.

Khi được thả ra, con lắc đi dao động(swings) sẽ đập vào mẫu vật và phá vỡ nó. Sau
Khi con lắc dao động va đập vào mẫu vật, năng lượng còn lại có thể được đo bằng thế
năng của con lắc và năng lượng hấp thụ được xác định.

The most commonly conducted tests are bending impact tests, using one of two kinds
of notched specimens (Figure 3-14).

The Charpy specimen is supported at both ends by a standard impact testing machine
and struck on the side opposite that of the notch. The testing machine is
constructed with a weighted pendulum, which is lifted to start the test.

Upon its release, the pendulum swings past the specimen, and breaks it. As the
pendulum swings past, the remaining energy can be measured by the height of the
swing and the absorbed energy determined.

c. Izod Test.

Mẫu thử của Izod chỉ được kẹp trong máy thử nghiệm ở một đầu và bị tác động bởi tải
trọng dưới dạng thanh dầm đúc hẫng với một rãnh ở phía va chạm. Hấp thụ năng lượng
được đo theo cách tương tự như với mẫu vật Charpy.

The Izod specimen is supported in the testing machine by one end only and is loaded
as a cantilever beam with a notch on the side of impact. Energy absorption is
measured in the same way as with the Charpy specimen.

d. Test Specimens.

Hai loại rãnh được sử dụng trên mẫu vật kiểm tra va đập uốn. Mẫu vật của phương
pháp Izod thường được chế tạo với một rãnh khía (notch) góc 45 ° với bán kính 0,010
inch ở phía dưới đáy. Mẫu thử cực kỳ nhạy (extremely sensitive) với sự thay đổi
kích thước notch hoặc thay đổi bán kính, và cực kỳ cẩn thận(extreme care) trong quá
trình gia công mẫu thử là cần thiết cho khả năng tái tạo kết quả thử nghiệm.

Rãnh khía kiểu lỗ khóa trên mẫu vật Charpy có thể được nhân đôi(duplicated) chính
xác hơn nhưng bị giới hạn ở độ nhỏ của lỗ tạo ra hiệu ứng rãnh khía bởi kích thước
của mũi khoan nhỏ nhất sẽ không "trôi" trong quá trình tạo lỗ. Các rãnh khía trong
mẫu thử đóng vai trò là các điểm tập trung ứng suất và bán kính rãnh khía càng nhỏ
thì ứng suất tại điểm này càng khắc khe.

Các mẫu thử được tạo rãnh khía này thực sự chỉ cung cấp thông tin liên quan đến vật
liệu sẽ được sử dụng trong điều kiện có rãnh khía tương tự (a similar notched
condition) nhưng thường thực tế vì vật liệu thường được sử dụng với hình dạng thiết
kế hoặc không hoàn hảo về mặt cấu trúc, cái mà dẫn đến thành phần cấu trúc bị ảnh
hưởng giống như dầm bị khía.

Two kinds of notches are used on bending impact specimens. The Izod specimen is
usually made with a 45° angular notch with a 0.010-inch radius at the bottom. The
specimen is extremely sensitive to variation of notch size or change of radius, and
extreme care in manufacture of the test specimen is necessary for reproducibility
of test results.

The key hole notch shown on the Charpy specimen can be duplicated more accurately
but is limited in the smallness of the hole producing the notch effect by the size
of the smallest drill that will not "drift" in making the hole. The notches in the
test specimens act as points of stress concentration, and the smaller the notch
radius, the more severe is the stressing at this point.
These notched test specimens actually provide only information regarding material
that is to be used in a similar notched condition but are often practical because
materials are frequently used with design shapes or structural imperfections that
cause a structural member to be, in effect, a notched beam.

e. Tensile Impact Test.

Độ tái lập lớn hơn và độ tương tự lớn hơn giữa điều kiện thử nghiệm và một số điều
kiện sử dụng có thể được cung cấp bằng Phép Kiểm tra va đập kéo. Các mẫu thử cho
các thử nghiệm này không được tạo rãnh khía và được kẹp chặt(supported) để có thể
áp dụng tải trọng kéo đơn phương(uniaxial tensile impact loads). Máy Kiểm tra va
đập kéo tiêu chuẩn với trọng lượng con lắc có thể được sử dụng để Kiểm tra các mẫu
vật nhỏ của loại này. Đối với mẫu vật lớn hơn một thiết bị đặc biệt có bánh đà thay
đổi được tốc độ để lưu trữ năng lượng có thể được sử dụng.

Greater reproducibility and greater similarity between the test and some use
conditions can be provided by tensile impact tests. The specimens for these tests
are not notched and are supported so that uniaxial tensile impact loads may be
applied. The standard impact testing machine with pendulum weight can be tooled for
testing small specimens of this type. For larger specimens a special machine with a
variable-speed flywheel to store energy can be obtained.

9. BEND TESTING

Các vật liệu bị biến dạng trong quá trình gia công hay làm việc dưới tác dụng của
tải trọng uốn và các vật liệu có thể bị ảnh hưởng bởi gia nhiệt cục bộ, như trong
quá trình hàn, đôi khi được kiểm tra bằng các phép kiểm tra uốn để cung cấp dữ liệu
so sánh.

Materials that are to be deformation processed by being subjected to bending loads


and materials that may have been affected by localized heating, such as in welding,
are sometimes tested by bend tests to provide comparative data.

a. Free Bend Test.

Các Phương pháp Kiểm tra uốn tự do được thực hiện(accomplish) bằng uốn cong nhẹ một
mẫu phẳng để tạo nên độ lệch tâm và sau đó đặt tải trọng nén vào mẫu cho đến khi
failure xảy ra hoặc mẫu bị uốn cong 180 độ. Thông thường, các tải trọng để thực
hiện điều này rất khác nhau đến mức chúng có giá trị nhỏ và không được ghi lại.
Thay vào đó, góc uốn cong khi failure được so sánh với kết quả của các thử nghiệm
khác.

Free bends are accomplished by prebending a flat specimen slightly to produce


eccentricity and then loading the specimen in compression (column) until failure
occurs or a 180° bend is produced. Normally, the loads to accomplish this are so
variable that they are of little value and are not recorded. Instead, the angle of
bend at failure is compared with results of other tests.

b. Guided Bend Test.

Trong các Phương pháp Kiểm tra uốn định hướng, mẫu thử được uốn cong từ một khoảng
bán kính cố định đến cho đến 180 độ. Góc uốn của failure trước khi uốn 180 độ
thường không thể thỏa đáng(satisfactorily) khi so với các kết quả thử nghiệm khác
do sự chảy dẻo không đồng nhất trong vật liệu mẫu thử gây ra bởi áp lúc của hệ
thồng đồ gá Phương pháp Kiểm tra uốn định hướng đã được thiết lập.

uốn định hướng đa bán kính có thể được sử dụng cho mẫu thử định mức bằng cách xác
định bán kính nhỏ nhất mà mẫu chuẩn sẽ uốn đến 180 độ.
In guided bend tests, the test specimen is bent about a fixed radius to 180°. The
bend angle of a failure before 180° bending usually cannot be satisfactorily
compared with other test results because of nonuniform plastic flow of material in
the specimen caused by pressures set up by the guided bend fixture.

Multiple-radius guided bends may be used for rating specimens by determining the
smallest radius about which a standard specimen will bend 180°.

10. Hardness testing.

a. Introduction.

a1. Các phép kiểm tra được sử dụng thường xuyên nhất để xác định tính chất vật liệu
là các phép kiểm tra độ cứng.

- Với kiến thức đầy đủ về thành phần vật liệu và quá trình xử lý trước đó, Kiểm tra
độ cứng có thể được sử dụng như các phép đo gián tiếp để xác định các thuộc tính
khác của vật liệu hoàn toàn khác(entirely different) với độ cứng.

- Ví dụ, độ cứng đôi khi có thể được sử dụng để phân loại các vật liệu thô có thành
phần khác nhau, để xác định xem có hay không việc thực hiện xử lý nhiệt phù
hợp(satisfactory) hoặc các phép xử lý khác đã được thực hiện , hoặc để đo độ bền và
đặc tính chống mài mòn(wear-resistant) của sản phẩm.

- Các phép đo độ cứng, do đó, thường được thực hiện trên vật liệu thô, trên các chi
tiết đang trong quá trình gia công và trên thành phẩm đã sẵn sàng để sử dụng.

a1. The most frequently used tests for determining material properties are hardness
tests.

- With sufficient knowledge of material composition and previous processing,


hardness tests can be used as indrrect measures of properties entirely different
from hardness.

- For example, hardness can sometimes be used to separate raw materials of


different composition, to determine whether or not satisfactory heat treating or
other processing has been accomplished, or to measure the strength and wear-
resistant properties of a product.

- Hardness measurements, therefore, are frequently made on raw material, on parts


in process, and on finished goods ready for use.

a2. Với một số hợp kim, thì độ dẫn điện và độ cứng có liên quan trong phạm vi giới
hạn.

- Do đó, phép kiểm tra dòng điện xoáy được tiêu chuẩn hóa để đo độ dẫn điện có thể
được sử dụng như một phép đo độ cứng gián tiếp.

- Các phép kiểm tra như vậy phải được áp dụng một cách thận trọng(applied
cautiously) vì các phạm vi bị hạn chế trong đó mối quan hệ giữa độ cứng và độ dẫn
là tuyến tính hợp lý.

- Phương pháp này đáng tin cậy hơn khi tiến hành kiểm tra với Hợp kim nhôm và các
kim loại không sắt từ(non-ferrous metals) khác so với hợp kim có tính sắt từ.

a2. With some metal alloys, electrical conductivity and hardness are related within
limited ranges.
- Eddy current tests standardized to measure electrical conductivity can therefore
be used as an indirect measure of hardness.

- Such tests must be applied cautiously since the ranges are restricted over which
the relationship between hardness and conductivity are reasonably linear.

- Aluminum alloys and other non-ferrous metals are more reliably tested by this
method than are ferrous alloys.

a3. Hầu hết các kết quả kiểm tra độ cứng của một số phép đo là cho chúngt ta biết
khả năng chống lại sự xâm nhập(penetration) gần bề mặt của vật liệu.

- Sự thâm nhập của vật liệu với bất kỳ sự lún(indentor) nào vào vật liệu cũng đòi
hỏi phải sử dụng lực và liên quan đến(involves) sự chảy dẻo của vật liệu được kiểm
tra.

- Do đó, chất lượng làm cứng nguội(The work-hardening) của vật liệu trở thành một
phần của hầu hết các phép đo độ cứng và điều đó giải thích một phần về sự khó khăn
khi chuyển đổi từ một loại độ cứng này sang loại độ cứng khác, bởi vì các phương
pháp đo độ cứng khác nhau không thể đo chính xác cùng một việc.

- Tuy nhiên, chúng cũng đã được tiêu chuẩn hóa đủ để cung cấp những thông tin hữu
ích và thiết thực .

a3. Most hardness tests result in some kind of measure of the ability of a material
to resist penetration of the near surface material.

- Penetration of material with any kind of indentor requires the use of force and
involves plastic flow of the tested material.

- The work-hardening qualities of a material, therefore, become part of most


hardness measurements and partially explain the difficulty of converting from one
type of hardness measure to another, because different methods of measuring
hardness do not measure exactly the same thing.

- They are, however, well enough standardized to provide useful and practical
information.

b. Mohs Test.

Một trong những hệ thống tiêu chuẩn đầu tiên về đo độ cứng được sử dụng là thang độ
cứng Mohs(the Mohs scale of hardness), trong đó quy định mười khoáng chất tiêu
chuẩn được sắp xếp theo thứ tự độ cứng tăng dần và được đánh số theo vị trí của
chúng. Bắt đầu với số 1 là mềm nhất, thang đo Mohs tiêu chuẩn như sau:

- 1 is Talc.
- 5 is Apatit
-10 is Kim cương.

Nếu một vật liệu có thể bị trầy xước đáng chú ý bởi topaz khoáng sản (số 8) nhưng
không thể bị trầy xước bởi thạch anh (số 7), thì nó sẽ có giá trị độ cứng từ 7 đến
8 trên thang Mohs. Thang đo độ cứng Mohs có ít giá trị để kiểm tra độ cứng của kim
loại nhưng vẫn được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực khoáng vật học.

One of the first standardized systems of measuring hardness made use of the Mohs
scale of hardness, which specifies ten standard minerals arranged in order of their
increasing hardness and numbered according to their position. Starting with number
1 as the softest, the standard Mohs scale is as follows:
- 1.... Talc.
- 5.... Apatite
-10.... Diamond.

If a material can be noticeably scratched by the mineral topaz (number 8) but


cannot be scratched by quartz (number 7), it would have a hardness value between 7
and 8 on the Mohs scale. The Mohs scale of hardness has little value for hardness
testing of metals but is still widely used in the field of mineralogy.

c. File Test.

Một phương pháp đo độ cứng hoặc trầy xước khác để đo độ cứng, cái mà nó có một số
ứng dụng thực tế trong gia công kim loại là file test. Standard test files có thể
được sử dụng để đo nhanh độ cứng gần đúng của vật liệu và, mặc dù không chính xác
lắm, nhưng cũng có thể được sử dụng trong nhiều trường hợp tại xưởng gia công(Shop)
với kết quả khả quan(satisfactory results). Kinh nghiệm và sự so sánh với các khối
kiểm tra tiêu chuẩn sẽ cho phép đạt được mức độ chính xác hợp lý.

Another abrasion or scratch method of measuring hardness that does have some
practical use in metal working is the file test. Standard test files can be used to
gage quickly the approximate hardness of a material and, although not very
accurate, can be used in many shop situations with satisfactory results. Experience
and comparison with standard test blocks will permit a fair degree of accuracy to
be attained.

d. Brinell Test.

d1. Introduction.

- Năm 1900 Johan August Brinell, một kỹ sư người Thụy Điển, đã giới thiệu một hệ
thống phổ quát(universal system) mới để đo độ cứng.

- Phương pháp này liên quan đến việc nén ( hoặc đóng dấu hay là in dấu-
impressing), một quả bóng thép cứng vào vật liệu cần kiểm tra với một tải trọng xác
định, và tính toán số độ cứng Brinell từ kích thước dấu hiển thị(impression size)
(Hình 3-15).

- Một dải rộng về độ cứng có thể được kiểm tra bằng cách thay đổi kích thước của
quả bóng và tải trọng tác động, nhưng trong phạm vi độ cứng được kiểm tra thường
xuyên nhất, một quả bóng có đường kính 10 mm được nén vào vật liệu dưới tải trọng
3.000 kg trong 10 giây để kiểm tra thép và dưới tải trọng 500 kg trong 30 giây để
kiểm tra vật liệu màu.

- Giá trị bằng số của độ cứng Brinell thu được bằng cách chia tải trọng tính bằng
kilogam cho diện tích của vết lõm hình cầu tính bằng milimét.

- Trong thực tế, đường kính trung bình của việc nén(impression) thường được đọc
bằng kính hiển vi đo và số độ cứng Brinell được xác định trực tiếp từ một bảng.

- In 1900 Johan August Brinell, a Swedish engineer, introduced a new universal


system for hardness measurement.

- The method involves impressing, with a definite load, a hardened steel ball into
the material to be tested and calculating a Brinell hardness number from the
impression size (Figure 3-15).

- A wide range of hardnesses can be tested by varying the size of the ball and the
loads imposed, but in the hardness range most frequently tested, a ball 10
millimeters in diameter is impressed into the material under a load of 3,000
kilograms for 10 seconds to check steel and under a load of 500 kilograms for 30
seconds to check nonferrous materials.

- The numerical value of the Brinell hardness number is obtained by dividing the
load in kilograms by the area of the spherical impression in millimeters.

- In practice, the average diameter of the impression is usually read with a


measuring microscope and the Brinell hardness number determined directly from a
table.

d2. Advantage and Limitation of Brinell Tests.

d2.1. Phương pháp độ cứng Brinell có ưu điểm, so với hầu hết các phương pháp đo
khác:

- xác định giá trị độ cứng trên một diện tích tương đối lớn, do đó làm giảm sự
không nhất quán(the inconsistencies) có thể bị gây ra bởi sai sót, không hoàn hảo
và không đồng nhất(nonhomogeneity) trong vật liệu,

- có khả năng được đưa ra với phép đo diện tích nhỏ chỉ bao gồm một vài hạt kim
loại. Với thép cacbon và thép hợp kim thấp, mối quan hệ giữa độ bền kéo và độ cứng
Brinell rất phù hợp(consistent) khi vật liệu nằm trong trong phạm vi độ cứng trung
bình, cái mà độ bền kéo của thép có thể xấp xỉ bằng 500 lần độ cứng Brinell (BHN).

d2.1. The Brinell hardness method has the advantage, as compared to most other
measuring methods,

- of determining a hardness value over a relatively large area, thus reducing the
inconsistencies caused by flaws, imperfections, and nonhomogeneity in the material,

- likely to be introduced with small area measurement that includes only a few
metallic grains. With plain carbon and low alloy steels, the relation between
tensile strength and Brinell hardness is so consistent in the medium hardness range
that the tensile strength of the steel can be closely approximated by multiplying
the Brinell hardness number (BHN) by 500.

d2.2. Nhược điểm chính của phương pháp Brinell là:

-Thiết bị cung cấp tải trọng để tạo nên sự nén quả bóng kim loại vào vật liệu
thường rất cồng kềnh(cumbersome) và không thể luôn tạo ra sự impressing như mong
muốn.

- Quả bóng không thể được impressed trong các loại vật liệu cos chiều dày rất mỏng
và, tất nhiên, không thể được sử dụng để kiểm tra các mẫu cực nhỏ.

- và sự impression có kích thước như vậy có thể gây hại cho hình dạng bên ngoài
hoặc việc sử dụng của bề mặt hoàn thiện.

d2.2. The principal disadvantages of the Brinell method are that:

- the machine to supply the load for impressing the ball into the material is often
cumbersome and cannot always produce the impression where desired.

- The ball cannot be impressed in very thin materials and, of course, cannot be
used to examine extremely small samples,
- and the impression is of such size that it may harm the appearance or use of
finished surfaces.

e. Rockwell Test.

e1. Principle:

Trên các dòng máy đo độ cứng Rockwell, ta dùng mũi đo kim cương có góc ở đỉnh là
120 độ hay mũi đo viên bi thép được tôi cứng để ấn lên bề mặt mẫu thử.

- Độ cứng được xác định bằng cách ta tác dụng lên viên bi hoặc mũi kim cương hai
lực ấn nối tiếp, lực ban đầu là 100N (gọi là lực sơ cấp), lực tiếp theo là 600N
hoặc 1000N hoặc 1500N (gọi là lực thứ cấp) tùy theo thang chia.

- Quy trình đo độ cứng bằng phương pháp Rockwell theo sơ đồ hình dưới, cơ bản như
sau: ta tác động đầu thử vào vật mẫu với một lực tối thiểu, thường là 10kgf hoặc
30kgf nếu vật liệu mềm. Khi đạt độ cân bằng, thiết bị đo sẽ ghi lại giá trị xác
định (theo dõi dịch chuyển đầu đo và các phản hồi về thay đổi chiều sâu tác động
của đầu đo. Tiếp đến, trong khi vẫn duy trì lực tác động tối thiểu, ta tác động
thêm một lực tối đa. Các quá trình đo này được thực hiện trên máy đo độ cứng kim
loại hoàn toàn tự động.

- Khi đạt được độ cân bằng, thôi tác dụng lực tối đa nhưng vẫn duy trì lực tối
thiểu ban đầu. Khi lực tối đa được thu về, độ sâu vết lõm trên bề mặt vật thử sẽ
được phục hồi một phần. Độ Sâu vết lõm còn lại (kết quả của phát và thu lực tối đa)
được sử dụng để tính toán độ cứng Rockwell.

e2. Introduction.

- Vì sự tiện lợi của nó là chỉ để lại các dấu vết nhỏ trên bề mặt vật liệu được
kiểm tra, nên phép kiểm tra độ cứng Rockwell là một trong những phép kiểm tra được
sử dụng thường xuyên nhất (FigUre 3-16).

- Đây cũng là một phép kiểm tra nén(impression test), nhưng chỉ số độ cứng được xác
định bằng phép đo chênh lệch độ sâu có thể được đọc trực tiếp trên thiết bị được sử
dụng để áp dụng(impose) tải trọng(Hình 3-17 cho thấy máy đo độ cứng Rockwell).

- Để có được chỉ số độ cứng Rockwell, lần đầu tiên thiết bị được sử dụng để impose
một tải trọng phụ 10 kg vào kim đo( hay vật xuyên thấu-the penetrator). Điều này
làm giảm ảnh hưởng của bụi bẩn, màng dầu, chất bẩn và các điều kiện bề mặt khác có
thể ảnh hưởng đến việc đọc. Tải trọng chính có khối lượng 60, 100 hoặc 150 kg, tùy
thuộc vào loại penetrator và loại thang đo(scale) được sử dụng, sau đó sẽ được
impose vào penetrator để xuyên thấu vào vật liệu kiểm tra. Sau khi penetrator đã
đạt hết độ sâu thì tải trọng chính được loại bỏ. Độ sâu chênh lệch vĩnh viễn giữa
các tải trọng phụ (10 kg) và chính sau đó được đọc trực tiếp dưới dạng số độ cứng
Rockwell.

- Because of its convenience and the fact that only small marks are left in the
work tested, one of the most frequently used tests is the Rockwell hardness test
(FigUre 3-16).

- This also is an impression test, but the hardness number is determined by a


differential depth measurement that can be read directly on a dial indicator of the
machine used to impose the load (Figure 3-17 shows the Rockwell hardness tester).

- To obtain a Rockwell hardness reading, the quipment is first used to place a


minor load of 10 kilograms on the penetrator. This reduces the effect of dirt, oil
films, scale, and other surface conditions that might affect the reading. A major
load of 60, 100, or 150 kilograms, depending upon the type of penetrator and scale
being used, is then imposed to force the penetrator into the work material. After
the penetrator has seated to its full depth - the time usually being controlled by
a dash pot built into the equipment - the major load is removed. The permanent
differential depth between the minor and major loads is then read directly as a
Rockwell hardness number.

e3. Standard Rockwell Scales.

- Hầu như tất cả các thử nghiệm độ cứng với thiết bị Rockwell đều được thực hiện
với hai bộ đầu đo xuyên thấu(penetrator) tiêu chuẩn.

- Loại được sử dụng cho các vật liệu mềm hơn là một quả bóng thép cứng có đường
kính 1/16 inch được hỗ trợ trong một mâm cặp đặc biệt cho phép thay thế dễ dàng nếu
quả bóng bị hỏng.

- Loại được sử dụng cho các vật liệu cứng hơn có thể gây biến dạng quá mức của quả
bóng thép cứng nên nó được thay thế thực hiện bằng penetrator kim cương có điểm
hình nón 120 ° và đầu hình cầu bán kính 0,200 mm. Penetrator kim cương, hay
indentor, được gọi là brale.

- The penetrator được sử dụng và kích thước tải trọng tạo nên impressing vào vật
liệu kiểm tra được quy ước bằng một chữ cái ( từ A đến G) và việc này trở thành một
phần của việc đọc chỉ số độ cứng Rockwell. Bảng 3-2 đi kèm cho thấy mối quan hệ
giữa thang đo chỉ định , tải trọng và các loại penetrator.

- Chữ cái được ghi ở cột thang đo chỉ định sẽ chỉ định các điều kiện kiểm tra, nó
là phần rất quan trọng trong hệ thống ký hiệu độ cứng bởi vì các con số đứng một
mình có thể đại diện cho một số điều kiện độ cứng khác nhau. Ví dụ, chỉ số độ cứng
Rockwell được đọc là B60 sẽ liên quan đến vật liệu tương đối mềm , chẳng hạn như
một hợp kim đồng cứng vừa. Trong khi đó chỉ số độ cứng Rockwell được đọc là
C60( hay đôi khi được viết Rc 60), mặt khác sẽ đại diện cho độ cứng mà có thể được
sử dụng cho thép công cụ cứng để cắt kim loại

- Although provision has been made for use of a 1/8-inch-diameter ball as a


penetrator, almost all hardness testing with the Rockwell equipment is done with
two standard penetrators.

- The one used for softer materials is a 1/16-inch-diameter hardened steel ball
supported in a special chuck that permits easy replacement should the ball become
damaged.

- The testing of harder materials that would cause excessive deformation of the
hardened steel ball is performed with a diamondtipped penetrator with a 120°
conical point and a spherical tip of 0.200-millimeter radius. The diamond
penetrator, or indentor, is known as a brale.

- The penetrator used and the size of load impressing it into the test material are
defined by a letter that becomes part of the Rockwell reading. The accompanying
Table 3-2 shows the relationship among the scale designation, the loads, and the
penetrators.

- The letter designating the test conditions is a very important part of a hardness
notation because the number alone could represent several different hardness
conditions. For example, a Rockwell hardness reading of B 60 would represent a
relatively soft material, such as a medium hard copper alloy. A Rockwell hardness
reading of C 60, sometimes written Rc 60, on the other hand would represent a
hardness such as might be used for a hardened tool steel to cut metals

e4. Superficial Rockwell Test.

Kiểm tra độ cứng Rockwell bề mặt.

- Một máy khác, máy kiểm tra độ cứng Rockwell bề mặt , được chế tạo và sử dụng theo
cách tương tự như máy tiêu chuẩn nhưng là máy kiểm tra mục đích đặc biệt được thiết
kế để sử dụng khi chỉ cho phép impression rất cạn(shallow impression) trên vật liệu
hoặc khi đo độ cứng của vật liệu rất gần bề mặt là mục tiêu chính.

- Máy kiểm tra độ cứng bề mặt sử dụng cùng các penetrators, ngoại trừ việc brale có
độ chính xác cao hơn và được chỉ định là N brale. Tải trọng được sử dụng để gây ra
sự penetration là nhẹ hơn: 15, 30 và 45 kg. Bảng 3-3 cho thấy các điều kiện kiểm
tra để kiểm tra độ cứng Rockwell bề mặt( 15N, 30N, 45N, 15T, 30T, 45T).

- Như trong trường hợp trước, thang đo chỉ định phải được sử dụng làm tiền tố cho
số độ cứng đọc từ mặt số.

- Another machine, the Rockwell superficial hardness tester, is contructed and used
in much the same manner as the standard machine but is a special-purpose tester
designed to be used when only a very shallow impression is permissible or when
measurement of hardness of material very close to the surface is the principal aim.

- The superficial hardness tester makes use of the same penetrators, except that
the brale is of higher precision and is designated as N brale. The loads used to
cause penetration are lighter: 15, 30, and 45 kilograms. Table 3-3 shows the
testing conditions for Rockwell superficial hardness testing

- As in the previous case, the scale indication must be used as a prefix to the
hardness number read from the dial.

f. Vickers Test.

f1. Principle.

Là loại độ cứng có phương pháp đo tương tự như Brinen, tức cũng được đo bằng tỷ số
F/S và có thứ nguyên ứng suất (kG/mm2) song với những khác biệt sau:

- mũi đâm làm bằng kim cương hình tháp bốn mặt đều với góc ở đỉnh giữa hai mặt
đối diện là 136 độ như biểu thị ở hình.

- tải trọng tác dụng nhỏ, từ 1 đến 100kG, trong đó mức 30kG với thời gian giữ
tải trọng 10-15s được coi là điều kiện tiêu chuẩn,

- khi thay đổi tải trọng tỷ lệ giữa tải trọng và bình phương đường chéo vết
lõm nhậ n được luôn luôn không đổi, điều này cho phép dùng tải trọng thay đổi mà
không ảnh hưởng đến kết quả đo (xem công thức ở sau), với vật mỏng có thể dùng
tải trọng nhỏ thích hợp (các phương pháp trên không có được ưu điểm này). Vì
vậy độ cứng Vicke được dùng để đo độ cứng cho mọi vật liệu từ rất mềm đến
rất cứng với lớp cần đo rất mỏng (có thể tới 0,04- 0,06mm) trong các mẫu mỏng (dày
0,3-0,5mm), được coi là độ cứng chuẩn trong nghiên cứu khoa học.

f2. Introduction.

- Máy đo độ cứng Vickers hoạt động theo nguyên tắc giống như thiết bị đo độ cứng
Brinell nhưng sử dụng dụng cụ xuyên kim cương có hình dạng như một kim tự tháp bốn
chân.
- impression được tạo ra bởi penetrator được đo chính xác bằng cách xoay kính hiển
vi vào vị trí mà không di chuyển mẫu thử trong máy. Như trong phương pháp Brinell,
số độ cứng của Vickers là tỷ lệ của lực tác dụng lên vết lõm vào khu vực của
impression hình chóp.

- Trong phạm vi độ cứng thấp hơn, theo Brinell 300, số độ cứng của Vickers và
Brinell gần như giống nhau, nhưng trên phạm vi này, chúng tách ra khi độ cứng tăng,
chủ yếu là do biến dạng của quả bóng thép được sử dụng để kiểm tra Brinell khi nó
bị ép với vật cứng hơn nguyên vật liệu

- The Vickers hardness tester operates on the same principle as the Brinell
instrument but makes use of a diamond penetrator shaped as a foursided pyramid.

- The impression made by the penetrator is accurately measured by swinging a


microscope into position without moving the test piece in the machine. As in the
Brinell method, the Vickers hardness number is the ratio of the force imposed on
the indentor to the area of the pyramidal impression.

- In the lower range of hardness, under Brinell 300, Vickers and Brinell hardness
numbers are almost identical, but above this range they separate as hardness
increases, primarily because of distortion of the steel ball used for Brinell
testing when it is forced against the harder materials

g. Microhardness.

Độ cứng vi mô.

- Là điều thường xuyên quan trọng, đặc biệt là trong công việc nghiên cứu hoặc phát
triển, để kiểm tra độ cứng của vật liệu trong khu vực rất mỏng hoặc rất nhỏ .

- Một số máy móc đặc biệt đã được phát triển để xác định "độ cứng vi mô". Một trong
những thiết bị thường được sử dụng thuộc loại này là máy kiểm tra độ cứng vi mô
Tukon. Thông thường, Máy được gắn chặt với penetrator kim cương kéo dài. Phép đo
hiển vi của sự impression cung cấp thông tin có thể được chuyển đổi thành số Knoop.

- Đo độ cứng Knoop thường không thể so sánh trực tiếp với phép đo độ cứng Brinell
hoặc Vickers vì elongated impression bị ảnh hưởng khá mạnh bởi các tính chất định
hướng của vật liệu được thử.

- Việc sử dụng symmetrical hình kim tự tháp đối xứng, vuông góc sẽ cung cấp dữ liệu
độ cứng tương đương với các hệ thống khác.Cần phải tự chứng minh rằng tải trọng của
the indentor càng nhẹ và the impressions được tạo ra càng nhỏ thì càng phải thận
trọng khi sử dụng để thực hiện kiểm tra độ cứng càng cao và chất lượng phải tốt
hơnbề mặt mà nó được thực hiện.

- Trong phép đo độ cứng Brinell, các khiếm khuyết bề mặt nhỏ có xu hướng được tính
trung bình do diện tích lớn được bao phủ, nhưng trong microhardness, impression có
thể chỉ vài phần nghìn inch, vết xước nhỏ và khiếm khuyết bề mặt có thể gây ra lỗi
lớn.

- Microhardness testing thường được thực hiện trên bề mặt có độ bóng cao và trong
nhiều trường hợp, để có được độ tái lập, cần phải khắc bề mặt để lộ cấu trúc cấu
thành để xác định vị trí impression đúng.

- It is frequently important, particularly in research or development work, to test


the hardness of material that is very thin or very small in area.

- A number of special machines have been developed for determining "microhardness."


One of the more commonly used pieces of equipment of this type is the Tukon
microhardness tester. Normally,the machine is fitted with an elongated
diamondshaped penetrator. Microscopic measurement of the impression provides
information that can be converted to Knoop numbers.

- Knoop hardness measurement often cannot be compared directly with Brinell or


Vickers hardness measurement because the elongated impression is rather strongly
affected by the directional properties of the material being tested.

- The use of a symmetrical, square-based, pyramidshaped indentor will provide


hardness data comparable with that of the other systems.

It should be self-evident that the lighter the indentor loads and the smaller the
impressions made, the greater the care that must be used to perform a hardness
test, and the better must be the quality of surface on which it is made.

- In Brinell testing, small surface imperfections tend to be averaged out because


of the large area covered, but in microhardness checks, in which the impression may
be only a few thousandths of an inch long, small scratches and surface
imperfections may contribute large errors.

- Microhardness testing is usually performed on a highly polished surface, and in


many cases, to obtain reproducibility, it is necessary to etch the surface to
reveal the constituent structure in order to locate the impression properly.

You might also like