Professional Documents
Culture Documents
U Truc Trang 2022
U Truc Trang 2022
1. Tổng quan
1.1. Giới thiệu ung thư trực tràng
Ung thư đại trực tràng (CRC) kết hợp là loại ung thư được chẩn đoán phổ biến thứ ba
ở Hoa Kỳ và gây tử vong liên quan tới ung thư đứng thứ hai. Ung thư trực tràng có các mối
liên quan với môi trường riêng biệt và các yếu tố nguy cơ di truyền khác từ đại trực tràng.
Sự biến đổi của biểu mô trực tràng bình thường thành một tổn thương loạn sản và cuối
cùng là một ung thư biểu mô xâm lấn đòi hỏi sự kết hợp của các đột biến di truyền soma
(mắc phải) hoặc dòng mầm (di truyền) trong khoảng thời gian 10 đến 15 năm.
Ung thư đại trực tràng xảy ra cả nam và nữ khoảng 145.600 trường hợp ung thư đại
trực tràng mới sẽ được chẩn đoán và ước tính có 51.020 trường hợp tử vong do ung thư đại
trực tràng sẽ xảy ra vào năm 2019[1]. Rất khó để ước tính số liệu thống kê đặc biệt là ung
thư trực tràng bởi vì, trong lịch sử nhiều báo cáo về ung thư trực tràng đã được kết hợp với
ung thư đại tràng là một thực thể bệnh đơn lẻ của “ung thư đại trực tràng ” Nhìn chung, tỷ
lệ mắc ung thư đại trực tràng đã giảm trong những thập kỷ qua, phần lớn là do yếu tố nguy
cơ sửa đổi và do tầm soát[2]. Tuy nhiên, từ 18 đến 50 tuổi nhóm đại diện cho một nhóm
bệnh nhân duy nhất trong đó tỷ lệ mắc bệnh ung thư trực tràng ngày càng gia tăng. Trái
ngược với xu hướng chung, tỷ lệ mắc ung thư trực tràng tăng 1,8% hàng năm ở những
người trẻ tuổi từ 1990 đến 2013.
Tỷ lệ mắc bệnh ung thư trực tràng ở Liên minh Châu Âu là 125 000 mỗi năm, tức là
35% tổng tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại trực tràng, phản ánh 15 – 25 trường hợp/ 100000 dân
số mỗi năm và được dự đoán sẽ tăng hơn nữa ở cả hai giới tính. Tỷ lệ tử vong là 4 –10/
100000 dân số mỗi năm. Tuổi trung bình khi chẩn đoán là 70 năm, nhưng các dự đoán cho
rằng con số này sẽ tăng lên trong tương lai.
1.2. Sinh lý sinh ung thư
Sự phát triển của ung thư trực tràng là một quá trình không đồng nhất nhiều bước do
sự thay đổi trong quá trình phân chia và nhân lên của tế bào. Ba con đường phân tử chính
cho sự phát triển của ung thư trực tràng đã được mô tả: (1) không ổn định nhiễm sắc thể,
(2) không ổn định tế bào vi mô vệ tinh (MSI), và (3) siêu metyl hóa DNA.
1.2.1. Không ổn định nhiễm sắc thể
Sự bất ổn định của nhiễm sắc thể thứ phát do đột biến trong gen sinh ung thư và /
hoặc gen ức chế khối u có thể dẫn đến hình thành khối u, với tất cả các ảnh hưởng đến biểu
hiện, tiên lượng và đáp ứng với điều trị. Hơn 75% trường hợp ung thư trực tràng là kết quả
của sự bất ổn định của nhiễm sắc thể[3].
Proto-oncogenes là các gen bình thường (kiểu hoang dã) giúp điều chỉnh sự phát triển
và biệt hóa của tế bào. Một đột biến ở một allen proto-oncogene sẽ dẫn đến tăng chức năng
với sự kích hoạt và tăng sinh tế bào không kiểm soát được, và sau đó điều này sẽ được gọi
là gen ung thư. Sản phẩm protein của KRAS proto-oncogene (Ras protein) tham gia vào
quá trình truyền tín hiệu phân bào (nguyên phân). Khi liên kết với guanosine diphosphate
(GDP), KRAS ở trạng thái không hoạt động. Kết quả chuyển đổi GDP thành guanosine
triphosphate (GTP) trong quá trình kích hoạt. Protein kích hoạt GTPase (GAP) thủy phân
GTP thành GDP, đưa KRAS trở lại trạng thái không hoạt động. Hoạt động GAP được hoạt
động dẫn đến suy giảm khả năng bất hoạt KRAS và tăng trưởng tế bào không kiểm soát.
Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) là một thụ thể tín hiệu ngược dòng trong con
đường kích hoạt protein kinase (MEK) của mitogen, và điều chỉnh KRAS. Đột biến KRAS
dẫn đến tín hiệu MEK cấu thành không bị cản trở bởi EGFR. Các đột biến KRAS đơn độc
thường dẫn đến các polyp tăng sản hoặc tiền ung thư. Các khối u nhỏ hơn 1 cm sẽ có đột
biến từ 10% đến 15% thời gian, so với 30% đến 60% đối với những khối u lớn hơn 1 cm.
Khi có trước đột biến gen ức chế khối u polyposis coli (APC), gen gây ung thư KRAS
thường liên quan đến ung thư và được tìm thấy trong 30% đến 60% ung thư biểu mô
tuyến[4].
Gene trông coi, gene gác cổng và gene chăm sóc là các loại gen ức chế khối u. Các
gene chăm sóc ngăn chặn sự tích tụ của các đột biến di truyền được kết hợp vào bộ gen và
rất quan trọng trong nhiều con đường bao gồm cả con đường sửa chữa không phù hợp
(MMR) Ngoài ra, đột biến gene chăm sóc làm tăng xác suất đột biến xảy ra ở các gen khác.
Các gen trông coi kiểm soát các tương tác tế bào và tế bào-ngoại bào quan trọng trong quá
trình tăng sinh. APC và TP53 đều là gen ức chế khối u liên quan đến trình tự ung thư biểu
mô tuyến. Gen APC được ví như người gác cổng vì nó là bước khởi đầu cho sự phát triển
của hầu hết các ung thư biểu mô tuyến trực tràng. Sản phẩm gen APC, protein APC, tương
tác với nhiều protein khác thông qua con đường tín hiệu WNT, mà chịu trách nhiệm cho tín
hiệu tế bào, kết dính và tăng sinh. Đột biến gen APC sẽ làm mất hoặc rối loạn chức năng
của protein APC, do đó dẫn đến sự phát triển và phân chia không kiểm soát của tế bào
thông qua chuyển vị không bị ức chế β-catenin[5].
Bệnh đa polyp tuyến gia đình (FAP) là kết quả của di truyền đột biến gen APC. Đột
biến gen chăm sóc TP53 đồng hợp tử được tìm thấy trong 75% các ung thư biểu mô tuyến
đại trực tràng so với 5% các polyp tuyến.
1.2.2. Mất ổn định vi vệ tinh (Microsatellite Instability:MSI)
Thông tin được phiên mã (chuỗi con) phải giống với sợi khuôn mẫu (mẹ) của DNA.
Các vùng vi vệ tinh trơn trượt mononucleotide lặp lại ngắn, dinucleotide hoặc bậc cao hơn
các vùng nucleotide trong DNA có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trong gen. Khi các sợi
con đang được tạo ra, DNA polymerase có thể trượt trên các vùng vi vệ tinh, tương tự như
dây kéo trên áo khoác, tạo ra sự không khớp, chèn hoặc xóa, điều này sẽ làm thay đổi thông
tin trong các sợi mới. Các vùng vi vệ tinh thường được tìm thấy trong không mã hóa các
khu vực của bộ gen, là đa hình giữa các cá thể, thường không có tác động đo lường được
đối với kiểu hình và là duy nhất và đồng nhất về chiều dài ở mỗi người. Một đột biến trong
vùng vi tế bào, nếu không được sửa chữa, sẽ dẫn đến sự thay đổi trong biểu hiện của gene.
Các protein chính được biểu hiện bởi các gen MMR là MLH-1, MSH-2, MSH-3, MSH-6,
PMS-1 và PMS-2. Khi các gen MMR bị lỗi, các gen không khớp sẽ không được sửa chữa
và được sao chép thành các tế bào mới dưới dạng đột biến, được gọi là sự không ổn định vi
mô vệ tinh (MSI). Chỉ 10% đến 25% của ung thư đại trực tràng biểu hiện MSI và cho thấy
mất biểu hiện của MLH-1 và PMS-2, với sự siêu methyl hóa MLH-1 hiện diện trong phần
lớn. MSI phổ biến hơn trong giai đoạn II (khoảng 20%) so với với giai đoạn III (khoảng
12%) và IV (khoảng 4%) bệnh ung thư trực tràng[6].
Ung thư trực tràng lẻ tẻ với MSI thường tiết lộ quá trình metyl hóa sinh học của
MLH-1, không có MLH-1 và PMS-2, không phân cụm gia đình và đột biến BRAF V600E
thường xuyên. Khối u MSI thường nhầy, ở giai đoạn thấp, thiếu mảnh vụn tế bào hoại tử,
chứa các tế bào lympho thâm nhiễm khối u và có ít đột biến KRAS hơn.
1.2.3. Siêu metyl hóa DNA
Trình tự cytosine-guanine (CpG) lặp đi lặp lại được tìm thấy trong vùng khởi động
của nhiều gen ức chế khối u. Các vùng giàu CpG dinucleotide lặp lại (đảo CpG) và dễ bị
methyl hóa được gọi là kiểu hình methylator đảo CpG (CIMP). Không giống như chuỗi ung
thư biểu mô tuyến, polyp hình răng cưa thường liên quan đến ung thư CIMP hơn[7].
Đột biến ban đầu thường xảy ra ở gen sinh ung thư BRAF, dẫn đến biến đổi niêm
mạc bình thường thành bất thường bằng cách thay thế một acid amin duy nhất (V600E).
Methyl hóa CIMP và MLH-1 (hMLH-1) sau đó xảy ra, cản trở quá trình phiên mã. Các
bệnh ung thư lẻ tẻ có liên quan nhiều hơn đến đột biến BRAF V600E và hMLH-1. Sự siêu
methyl hóa MLH-1 làm mất protein MMR và liên quan đến khoảng 85% của bệnh ung thư
đại trực tràng MSI-H[8].
Sự siêu methyl hóa CpG của DNA có thể kích hoạt hoặc làm im lặng sự biểu hiện của
một số gen nhất định, BRAF và MLH1 tương ứng. Đột biến soma sinh ung thư (RAS,
SRC, MYC) có liên quan đến CRC, là RAS phù hợp nhất về mặt lâm sàng. Mặt khác, các
gen ức chế khối u yêu cầu mất hai allen (“mô hình 2 lần trúng đích”) và được mô tả trong
việc mất gen APC 5q21 (80% lẻ tẻ), gen TP53 17p (50% đến 70% lẻ tẻ) và DCC /
SMAD2-4 18q gen (73% lẻ tẻ). Các đột biến gen MMR cụ thể có thể xảy ra ở hMSH2,
hMLH1, hPMS1 và hPMS2, hMSH6, và hMLH3; mỗi một trong số chúng có thể tương tác
với MLH1 và được tìm thấy khoảng 15% trong số tất cả các CRC lẻ tẻ gây ra một hội
chứng giống Lynch với MSI-H kêu gọi thử nghiệm toàn cầu. Các khuyết tật MUTYH có
kiểu di truyền lặn tại một thời điểm yêu cầu đánh dấu lần thứ hai allen hoặc kết hợp với đột
biến gen APC. Cyclooxygenase (COX-2) và gen thụ thể kích hoạt peroxisome-tăng sinh
(PPAR) đã liên quan đến quá trình hình thành khối u CRC hiện đang được nghiên cứu bảo
vệ bằng hóa trị.
Hình 3. a mạc cùng trực tràng, b phẫu tích giải phóng trực tràng, khoang trực tràng
Hình 4. Khoang quanh trực tràng
Mặt trước phần ngoài phúc mạc của trực tràng được bao phủ bởi mạc tạng chậu, lớp
mạc riêng trực tràng, hay còn gọi là màng cân phủ. Trước mạc riêng trực tràng là một lớp
mỏng mô liên kết được gọi là cân mạc Denonvilliers[17]. Nó ngăn cách trực tràng với túi
tinh và tuyến tiền liệt hoặc âm đạo (Hình 5). Cân mạc Denonvilliers không có các lớp vĩ
mô có thể nhận biết được. Về mặt mô học, nó được cấu tạo bởi collagen dày đặc, sợi cơ
trơn và sợi đàn hồi thô[18] [19]. Các phần đính kèm của nó còn nhiều sự nhầm lẫn và tranh
luận. Một số tác giả tin rằng nó dính vào trực tràng[19] [20] [21] [22] trong khi những tác giả
khác lưu ý rằng nó dính vào túi tinh và tuyến tiền liệt.
Hình 8. Giải phẫu học động mạch đại tràng (The ASCRS Textbook of Colon and Rectal Surgery)
1.5.2. Động mạch trực tràng trên
Động mạch mạc treo tràng dưới tiến xuống dưới, bắt chéo động mạch chậu chung trái
và tĩnh mạch đến đáy của mạc treo đại tràng sigma để trở thành động mạch trực tràng trên.
Động mạch trực tràng trên bắt đầu từ nhánh cuối cùng của động mạch đại tràng sigma. Nó
nằm ở phía sau bên phải của đại tràng sigma, tiếp xúc gần với mặt sau của ruột tại chỗ nối
sigma trực tràng. Nó tạo thành một nhánh sigma trực tràng và nhánh trực tràng trên, sau đó
chia thành các nhánh tận cùng bên trái và bên phải. Các nhánh tận cùng kéo dài xuống phía
trước và đi xuống xung quanh hai phần ba phía dưới của trực tràng đến mức cơ nâng. Các
nhánh nhỏ đi lên dưới phúc mạc đến mặt trước của một phần ba trên của trực tràng và nối
thông với nhánh phía trên trực tràng.
Nhánh động mạch sigma trực tràng phát sinh ở chỗ nối sigma trực tràng và phân chia
trực tiếp thành hai nhánh phân kỳ. Một hướng lên đến đại tràng sigma và nối thông với các
nhánh cuối của động mạch sigma, và đoạn kia đi xuống trực tràng và nối thông với nhánh
bên trên trực tràng. Nhánh bên trực trên tràng phát sinh từ động mạch trực tràng trên trước
khi phân đôi. Nó tạo ra một nối thông ngoài lòng ruột với nhánh dưới của động mạch sigma
trực tràng và nhánh tận của động mạch trực tràng trên.
Hình 9. Động mạch trực tràng
1.5.3. Động mạch trực tràng giữa
Hầu hết các động mạch trực tràng giữa xuất phát từ động mạch thẹn trong (67%).
Phần còn lại đến từ các động mạch mông dưới (17%) và động mạch chậu trong (17%)[15].
Động mạch trực tràng giữa có đường kính đáng kể (1–2 mm) được quan sát thấy ở cả hai
bên chỉ 4,8%, bên phải là 4,8% và ở bên trái là 2,4% trong giải phẫu tử thi của Ayoub[32].
Sato và cộng sự[15] tìm thấy động mạch trực tràng giữa trong 22% mẫu vật. Các nhánh tận
cùng của chúng xuyên qua thành trực tràng ở những điểm thay đổi nhưng thường ở 1/3
dưới của trực tràng. Có thể đoán trước được sự hiện diện của động mạch trực tràng giữa
nếu đường kính của các nhánh tận cùng của động mạch trực tràng trên nhỏ hơn bình
thường. Ngược lại, khi không có động mạch trực tràng giữa thì động mạch trực tràng trên
có kích thước lớn hơn bình thường[32].
Có tranh cãi đáng kể trong tài liệu liên quan đến sự hiện diện và nguồn gốc của động
mạch này. Các loạt bài khác cho thấy động mạch trực tràng giữa hiện diện trong 47 đến
100% trường hợp[26] [33] [34]. Sato và cộng sự[15] tin rằng sự khác biệt, phần lớn là do bóc
tách không hoàn chỉnh. Nguồn gốc và đường đi của một số động mạch, từ động mạch túi
tinh, động mạch đến ống dẫn tinh, và động mạch tử cung hoặc âm đạo, hầu như không thể
phân biệt được với động mạch trực tràng giữa, đi vào trực tràng qua cuống bên. Khi có
bệnh lý tắc mạch máu, Fisher và Fry[35] tin rằng tuần hoàn bàng hệ phát triển giữa các động
mạch trực tràng trên và giữa.
1.5.4. Động mạch trực tràng dưới
Các động mạch trực tràng dưới, là các nhánh dưới động mạch chậu, phát sinh từ động
thẹn (trong ống Alcock). Chúng đi ngang qua vùng hố ngồi hậu môn và cung cấp cho ống
hậu môn và các cơ thắt ngoài. Không có sự thông nối ngoài lòng ruột giữa các động mạch
trực tràng dưới và các động mạch trực tràng khác. Tuy nhiên, chụp động mạch cho thấy có
nhiều chỗ nối giữa các động mạch trực tràng dưới và trên ở các mặt phẳng sâu hơn trong
thành của ống hậu môn và trực tràng[32].
Động mạch trực tràng trên là nguồn cung cấp máu chính của trực tràng. Các động
mạch trực tràng giữa không phù hợp và không thể nối lại được sau khi thắt động mạch trực
tràng trên. Mặc dù không có nối thông ngoài lòng ruột của đông mạch trực tràng trên, giữa
và dưới trong số phẫu tích tử thi, chụp động mạch đồ cho thấy nhiều thông nối giữa các
động mạch quanh thành ruột, đặc biệt là động mạch trực tràng dưới[31] [36].
Khi phẫu thuật cắt trước thấp cho ung thư biểu mô trực tràng được thực hiện trong đó
động mạch trực tràng trên và động mạch trực tràng giữa được thắt bỏ, trực tràng còn lại dựa
vào cung cấp máu từ các động mạch trực tràng dưới. Có thể an toàn hơn nếu thực hiện nối
thấp hơn thay vì cao hơn, miễn là ở đó không căng thẳng.
1.5.5. Động mạch cùng giữa
Động mạch cùng giữa xuất phát từ mặt sau của động mạch chủ tại 1,5 cm trên phân
giác của nó và đi xuống trên hai phần cuối cùng đốt sống thắt lưng, xương cùng và xương
cụt, và phía sau tĩnh mạch chậu chung trái (Hình 8). Các nhánh của động mạch tạo thành
động mạch cùng giữa. Thường tìm thấy phần cuối của đường phân chia trước của động
mạch chậu trong, động mạch thẹn trong, động mạch cơ nâng và động mạch túi tinh dưới ở
nam và động mạch âm đạo ở nữ. Những nhánh này phân bố chủ yếu đến các mô cạnh trực
tràng và thưa thớt đến thành của trực tràng. Không có đường nối rõ ràng nào tồn tại giữa
các nhánh này và các động mạch trực tràng khác. Chúng là nguồn chính của sự rỉ máu
trong quá trình di động trực tràng[32]. Ý nghĩa phẫu thuật của động mạch cùng giữa là trong
quá trình cắt bỏ trực tràng, nó lộ ra ở mặt trước của xương cùng và khi xương cụt bị tiêu
hủy, mạch máu này có thể gây chảy máu rất khó chịu. Sự hiện diện của động mạch này là
không hằng định (thường là không có), và nó có thể là không đáng kể trong việc cung cấp
máu cho trực tràng thấp.
1.5.6. Vòng thông nối
Động mạch bờ, thường được gọi là động mạch bờ của Drummond, là một loạt các
cung động mạch dọc theo ranh giới mạc treo của toàn bộ đại tràng. Nó là nhánh nối động
mạch mạc treo tràng trên và mạc treo tràng dưới. Các vòng cung bắt đầu với nhánh đại
tràng lên của động mạch hồi đại tràng và tiếp tục đi xa đến động mạch sigma (Hình 8). Các
vòng cung nối thường hằng định và hiếm khi không trọn vẹn. Thắt động mạch mạc treo
tràng dưới khi thực hiện phẫu thuật cắt trực tràng có thể giữ cho đại tràng trái có thể sống
được qua động mạch bờ.
Slack[37] quy kết hiểu biết hiện tại của chúng ta về sự phân bố của các mạch quanh đại
tràng vào bài báo kinh điển của Drummond năm 1916. Mô tả đó vẫn được chấp nhận cho
đến ngày nay. Bằng cách sử dụng các nghiên cứu về tiêm, Slack đã xác định được mối
quan hệ chính xác của các mạch máu cung cấp đến các lớp cơ đại tràng và vị trí của túi
thừa. Những phát hiện của ông đã ủng hộ những phát hiện của Drummond. Ngay nhánh
xuyên trực tràng phát sinh từ động mạch bờ, chúng chia thành các nhánh trước và sau,
ngoại trừ ở đại tràng sigma, nơi chúng có thể hình thành các cung phụ (Hình 10)[38].
Ban đầu chúng chạy trong lớp thanh mạc ruột, và ngay trước dải cơ dọc, chúng xuyên
qua cơ lớp cơ vòng và tiếp tục trong lớp dưới niêm mạc về phía đối diện bờ mạc treo.
Những động mạch ngắn là nhánh nhỏ xuất phát từ động mạch trực dẫn và có vài nhánh từ
động mạch bờ. Chúng cấp máu cho 2/3 chu vi mạc treo. Tuy nhiên, một điểm quan trọng
thực sự tồn tại ở góc lách, nơi động mạch bờ thường nhỏ. Như đã ghi nhận ở 11% đối
tượng trong một loạt nghiên cứu của Sierociński[39], khu vực từ 1,2 đến 2,8 cm ở góc lách
không có động mạch trực dẫn. “Điểm yếu” này dễ khiến nguồn cung cấp máu bị tổn hại.
Trong trường hợp không có động mạch đại tràng trái trái, động mạch biên ở vùng này lớn
hơn bình thường[40].
Hình 10. Động mạch trực dẫn ngắn và trực dẫn
"Vòng cung Riolan" được tìm thấy trong khoảng 7% cá thể. Nó là một vòng nối ngắn
của nhánh trái của động mạch đại tràng giữa và thân của động mạch mạc treo tràng dưới
(Hình 8). Thuật ngữ này thường bị trích dẫn sai cho sự thông nối bờ đại tràng góc trái.
Cung Riolan còn được gọi là “động mạch mạc treo uốn khúc”. Nó nằm trong mạc đại tràng
trái gần song song với đường viền mạc treo đại tràng. Kích thước của nó to ra đặc biệt khi
tắc mạch xẩy ra. Nếu cung Riolan xuất hiện ở những bệnh nhân đã trải qua các cuộc phẫu
thuật sửa phình động mạch, thì nên cân nhắc đến việc tái tạo động mạch mạc treo tràng
dưới. Nếu động mạch mạc treo tràng trên bị hẹp, thì động mạch thân tạc và động mạch mạc
treo tràng dưới cung cấp dòng chảy chính song song cần thiết cho sự sống của ruột non và
đại tràng phải[35] (Hình 11a). Nếu động mạch mạc treo tràng dưới bị xơ hóa, thì động mạch
mạc treo tràng trên cung cấp máu chính thông nối cần thiết cho khả năng tồn tại của đại
tràng trái và trực tràng (Hình 11b).
Động mạch mạc treo tràng dưới cũng có thể hoạt động như một mạch phụ quan trọng
dẫn đến chi dưới[35]. Trong các trường hợp tắc động mạch chủ ở xa, thân của động mạch
mạc treo tràng dưới, động mạch chậu trong và động mạch chậu ngoài thường được giữ
nguyên. Trong trường hợp này, máu chảy ngược dòng qua động mạch mạc treo tràng uốn
khúc chảy vào động mạch trực tràng trên, sau đó tạo thành một mạng lưới phụ với động
mạch trực tràng giữa, một nhánh phân chia trước của động mạch chậu trong. Máu có thể
chảy từ động mạch trực tràng giữa vào động mạch chậu trong và từ đó vào động mạch chậu
ngoài. Rõ ràng, thắt không chính xác động mạch mạc treo tràng hoặc động mạch mạc treo
uốn khúc không chỉ đe dọa khả năng sống của trực tràng mà còn có thể gây thiếu máu cục
bộ cấp tính ở chi dưới (Hình 17c).
Đỏ: hạch quanh đại/ trực tràng Xanh dương: hạch trung gian Vàng: hạch chính Xanh lá cây: hạch bên
Trắng: hạch gần hạch chính
Hình 14. Hạch vùng trực tràng
Trong trực tràng, hạch bạch huyết chính là số 253, và hạch bạch huyết trung gian là
số 252. Hạch quanh đại tràng gồm các hạch nằm giữa điểm chảy vào động mạch sigmoid
thấp nhất và cách xa 3 cm (RS và Ra) hoặc 2 cm (Rb) đối với bờ khối u. Tuy nhiên, nếu
khoảng cách từ rìa khối u đến điểm chảy vào động mạch sigma thấp nhất nhỏ hơn 10 cm,
sau đó các hạch quanh đại tràng bao gồm những hạch bạch huyết trong vùng lên đến 10 cm.
1.5.9. Phân bố thần kinh
Giao cảm: Các sợi giao cảm đến trực tràng có nguồn gốc từ ba đoạn thắt lưng của tủy
sống, đi qua các chuỗi hạch giao cảm và rời khỏi thắt lưng là thần kinh giao cảm tham gia
đám rối trước động mạch chủ. Từ đó, một đoạn kéo dài dọc theo động mạch mạc treo tràng
dưới như đám rối mạc treo vươn đến phần trên của trực tràng. Thần kinh trước xương cùng
hoặc đám rối hạ vị trên phát sinh từ đám rối động mạch chủ và hai cơ thắt lưng bên dây
thần kinh (Hình 15)
2. Lâm sàng
2.1. Biểu hiện lâm sàng
Phần lớn ung thư trực tràng không có triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi khám
hậu môn trực tràng hoặc nội soi. Đối với bệnh nhân với các dấu hiệu và triệu chứng như
chảy máu là phổ biến nhất và xảy ra khoảng 60%. Các dấu hiệu khác bao gồm sự thay đổi
trong thói quen đại tiện (43%), máu ẩn trong phân (26%), đau bụng (20%), tắc ruột (9%),
khó chịu (9%), đau vùng chậu (5%), thủng hoặc viêm phúc mạc (3%), và vàng da do di căn
gan (<1%).
Khai thác bệnh sử toàn diện và thăm khám tỉ mỉ nên được thực hiện để đánh giá các
dấu hiệu liên quan triệu chứng. Tiền sử bao gồm mọi bệnh lý đi kèm hiện tại có thể ảnh
hưởng đến xử trí chu phẫu, tiền sử gia đình và phẫu thuật trước đó. Liên quan đến gợi ý
ung thư cụ thể có thể bao gồm sụt cân đáng kể, đại tiện máu bầm, dịch hôi, mót rặn, đau khi
đại tiện và các triệu chứng tắc nghẽn. Sự hiện diện của bất kỳ triệu chứng nào trong số này
nên lưu ý lâm sàng về bệnh tiến triển nặng hơn. Đặc biệt, cảm giác mót rặn, cảm giác đại
tiện không hết hoặc cảm giác mắc cầu liên tục, gợi ý về một khối u lớn ít di động.
Đau khi đại tiện có thể gợi ý khối u thấp có thể liên quan đến cơ vòng, như ung thư
trực tràng phía trên đường nối hậu môn trực tràng thường không đau trừ khi có sự xâm lấn
cấu trức chung quanh.
2.2. Khám thực thể
Khám trực tràng bằng ngón tay (DRE) nên được thực hiện để xác định khoảng cách
của bờ dưới khối u đến vòng hậu môn trực tràng (cơ mu trực tràng), vị trí giải phẫu (trước,
sau, bên), mức độ di động, sự dính với các cấu trúc xung quanh và chức năng của cơ thắt
hậu môn. DRE bị giới hạn bởi vị trí của khối u, không thể đánh giá đầy đủ đối với ung thư
trực tràng ở xa hơn ngón tay khám. Đối với phụ nữ có khối u trực tràng, phải khám toàn bộ
vùng chậu và âm đạo. Sờ vùng bẹn để đánh giá sự hiện diện của hạch. Khám bụng để kiểm
tra gan và các bất thường có thể sờ thấy.
Hình 26: Khối u bên trong trực tràng giữa được phân giai đoạn lâm sàng là T3b, với các hạch bạch huyết
trực tràng dương tính, tích tụ chất nhầy trong lòng trực tràng (* ở a và b), và các đường viền cao ở mép trên
và mép dưới của khối u. (a) Hình ảnh MRI có trọng số Sagittal T2 cho thấy một khối u có đường viền nhô cao
(mũi tên) ở mép trên và mép dưới của khối u. Đường đứt nét = mặt phẳng của hình MRI xiên trục cho ở b. (b,
c) Hình ảnh MRI có trọng số T2 xiên theo trục (b) và vùng được phóng đại quan tâm (phác thảo hình vuông ở
b) (c) thu được vuông góc với khối u, nửa theo hướng trục, cho thấy hình chữ C khối u (mũi tên đứt nét). Một
lớp phủ màu xám được thêm vào trong C mô tả hình dạng của khối u. Phần xâm lấn nhiều nhất của khối u
thường nằm xung quanh trung tâm của hình chữ C. Khối u thâm nhiễm ra ngoài lớp đệm cơ, 2 mm vào mạc
treo trực tràng (T3b) (đầu mũi tên ở b), và hai hạch bạch huyết ở trực tràng không đồng nhất hình tròn 7 mm
(mũi tên đặc ở c) được mô tả, làm cho khối u dương tính với liên quan đến hạch bạch huyết.
T1 u thâm nhiễm dưới niêm mạc, và T2 khối u kéo dài vào lớp đệm cơ. MRI trực tràng
không cung cấp sự phân biệt đáng tin cậy giữa hai loại này, ngoại trừ ở một số bệnh nhân
với các khối u T1 khi có thể xác định được lớp dưới niêm mạc được bảo tồn (tín hiệu
cường độ cao) bên dưới sang thương. Do đó, bệnh nhân nên siêu âm lòng trực tràng do hiệu
quả chẩn đoán vượt trội của nó trong những trường hợp này. Các khối u T3 được đặc trưng
bởi sự gián đoạn của lớp đệm cơ, với phần mở rộng của khối u vào mạc treo trực tràng mà
không xâm nhập vào mạc riêng trực tràng hoặc các cơ quan lân cận (20) (Hình 27c). Được
phân thành bốn loại phụ thuộc vào khoảng cách giữa rìa ngoài cùng của lớp đệm cơ và rìa
tối đa sự lan rộng của khối u (T3a <1 mm; T3b 1–5 mm; T3c 5–15 mm; và T4d > 15 mm).
Phân biệt khối u T2 với khối u T3 sớm có thể khó. Thâm nhập vào lớp cơ các lớp mạch nhỏ
và phản ứng khử dẻo là những cạm bẫy phổ biến có thể dẫn đến việc phóng đại khối u T2
như một khối u T3. Phản ứng Desmoplastic được mô tả như các nốt sần với cường độ tín
hiệu thấp khi chụp ảnh T2W, trong khi các khối u T3 có xuất hiện trên diện rộng hoặc dạng
node với cường độ tín hiệu trung gian ở hình ảnh có sung T2 nặng. Cuối cùng, các khối u
T4 là những khối u xâm nhập vào nếp gấp phúc mạc (T4a) hoặc các cơ quan cấu trúc vùng
chậu khác (T4b).
Hình 27. Hình ảnh MRI trực tràng cho thấy các giai đoạn khối u riêng biệt thu được từ ba bệnh nhân
khác nhau. (a, b) Đứng dọc (a) và ngang (b) Hình ảnh MRI xung T2 nặng cho thấy a tổn thương dạng polyp
(mũi tên đặc) bao quanh bằng chất nhầy, có một cuống mỏng dính vào thành trực tràng và nguyên vẹn lớp
đệm cơ (mũi tên đứt nét), phát hiện đặc trưng của khối u T1 hoặc T2. (c) Hình ảnh MRI xung T2 nặng theo
trục xiên ở một bệnh nhân khác cho thấy một khối u thâm nhiễm 7 mm ngoài lớp đệm cơ (T3c), có thâm
nhiễm mạc riêng trực tràng dương tính (đầu mũi tên). (d) Trục xiên có xung T2 hình ảnh MRI ở bệnh nhân
thứ ba cho thấy một khối u xâm lấn nếp gấp trước phúc mạc (đầu mũi tên), một phát hiện đặc trưng của khối
u T4a.
4.3. Giai đoạn u trực tràng thấp, phức hợp cơ thắt ống hậu môn
Ở bệnh nhân ung thư trực tràng thấp, hình ảnh học đóng một vai trò quan trọng trong
đánh giá trước phẫu thuật. Cần phải đánh giá chính xác giai đoạn để hóa – xạ trị tân bổ trợ
hoặc định hướng mặt phẳng phẫu thuật [96] [97]. Thông thường khó đánh giá đủ vì các khối u
trong trực tràng thấp gần với phức hợp hậu môn cơ vòng và có nhiều khả năng xâm lấn
mạc riêng trực tràng và các cơ quan lân cận, bờ diện cắt dương tính trong khoảng 30%
trường hợp do sự thu hẹp mạc treo trực tràng. Các báo cáo phải mô tả nếu khối u xâm lấn
cơ thắt trong, mặt phẳng liên cơ, và cơ thắt ngoài và/hoặc cơ nâng hậu môn (Hình 28). Mặt
phẳng xiên là mặt phẳng tốt nhất cho đánh giá này ở MRI tại sung T2.
Hình 28. (a) khối u loét hình bán nguyệt. (b) Hình ảnh MRI T2 khối u hình bán nguyệt (đầu mũi tên) ở
trực tràng dưới. (mũi tên đặc ở c, d) thâm nhiễm ra ngoài lớp đệm cơ và xâm nhập vào cơ thắt ngoài bên trái
và cơ thắt lưng (mũi tên đứt nét).
4.4. Diện cắt vòng quanh (CRM)
CRM là bề mặt của phần không được phúc mạc hóa của trực tràng được cắt bỏ trong
quá trình phẫu thuật, MRI là phương thức hình ảnh đáng tin cậy nhất để xác định khả năng
liên quan đến CRM [98]. CRM có thể thu được bằng cách đo khoảng cách ngắn nhất giữa
phần ngoài cùng của khối u trực tràng và mạc riêng trực tràng [99]. CRM dương tính phép
đo này nhỏ hơn 1 mm và bị đe dọa nếu nó nằm giữa 1 và 2 mm. Điều quan trọng là phải
làm nổi bật rằng trực tràng không được bao quanh hoàn toàn bởi mạc riêng trực tràng (Hình
29), và do đó trạng thái CRM không được áp dụng nếu khối u nằm ở cạnh phúc mạc của
thành trực tràng. Khoảng cách khối u – mạc riêng trực tràng hơn 1 mm là một dự báo đáng
tin cậy cho tỷ suất âm tính sau TME [100]. Mặt khác, một CRM dương tính là yếu tố dự đoán
quan trọng nhất về sự tái phát tại chổ và khả năng sống sót kém [101]. Do đó, mọi báo cáo
nên bao gồm trạng thái CRM và vị trí về sự tham gia tiềm năng (phương pháp mặt đồng
hồ).
Lưu đồ 1. Chỉ định phẫu thuật nội soi: T1 – 4a không biến chứng
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư đại – trực tràng số 2549/QĐ-BYT ngày 19/4/2018
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư đại – trực tràng số 2549/QĐ-BYT ngày 19/4/2018
5.2. Thuật ngữ phẫu thuật
a. Phân chia theo phẫu thuật
Trực tràng – sigma: Đoạn từ nhô cao của ụ nhô đến bờ dưới của đốt sống xương
cùng thứ hai
Trực tràng trên: Đoạn cao từ dưới của đốt sống xương cùng thứ hai đến nếp gấp
phúc mạc
Trực tràng thấp: Bờ dưới nếp phúc mạc đến mu trực tràng.
b. Các ngã tiếp cận
Qua hậu môn, xuyên cơ thắt, xuyên xương cùng, qua ổ bụng (nội soi ổ bụng, mở),
và một số phương pháp khác.
c. Tên các phẫu thuật
Phẫu thuật cắt trước cao – thấp (High and low anterior resections): được phân
loại bởi chiều cao của đường cắt bỏ so với mức của nếp gấp phúc mạc.
Phẫu thuật cắt trước cực thấp (Ultra low anterior resections): là một phương
pháp phẫu thuật được thực hiện bằng phương pháp tiếp cận qua ổ bụng để loại bỏ khối
trực tràng gần điểm đính mu cơ trực tràng (cả bên gần hoặc bên xa); nối đoạn ruột với
ống hậu môn.
Tiêu chí cắt u:
Theo các tác giả Nhật Bản[104], khối u phía trên nếp gấp phúc mạc mặt cắt dưới u
tối thiểu 3cm, nếu u tại hoặc thấp hơn nếp phúc mạc thì mặt cắt dưới cách tối thiểu 2cm
(Hình 31).
Theo tác giả Hoa Kỳ[105]: Để điều trị cắt bỏ các khối u ở một phần ba trên trực
tràng, cắt bỏ trực tràng cụ thể được thực hiện như một phần của phẫu thuật cắt bỏ trước
thấp (LAR) với lấy toàn bộ mạc treo trực tràng, lý tưởng, ít nhất là 5 cm dưới bờ xa của
khối u. Đối với các khối u tại phần ba giữa và dưới trực tràng, cắt bỏ toàn bộ trực tràng
(TME được thực hiện như một phần của phẫu thuật cắt trước cực thấp hay phẫu thuật
cắt trực tràng – tầng sinh môn (APR). Diện cắt dưới bờ dưới u xa tối thiểu 2 cm thường
là thích hợp cho ung thư trực tràng thấp khi kết hợp với TME. Bờ dưới xa 1 cm thường
được chấp nhận đối với u nằm thấp hoặc dưới mạc treo trực tràng.
Hình 32. A) Phẫu thuật cắt trước B) Phẫu thuật cắt trước thấp
Phẫu thuật gian cơ thắt (Intersphincteric resection): là một phương pháp phẫu
thuật bao gồm cả tiếp cận qua đường bụng và ngã hậu môn. Nó liên quan đến phẫu
thuật bóc tách giữa cơ thắt trong và ngoài, cắt trọn khối trực tràng cùng với cơ thắt
trong. Nối trực tiếp ống hậu môn giải phẫu trên đường lược đến hố gian cơ thắt với đầu
xa đại tràng sigma và hậu môn.
Chỉ định:
(1) có thể để đảm bảo diện cắt bỏ với CRM sạch (không thâm nhiễm vào cơ
thắt ngoài hậu môn hoặc cơ nâng)
(2) có thể đảm bảo biên độ phẫu thuật xa phù hợp (nói chung, 2 cm hoặc
nhiều hơn đối với khối u T2/T3 và 1 cm trở lên đối với khối u T1). ISR không
được khuyến nghị cho các trường hợp ung thư biệt hóa kém, giai đoạn cuối và
các trường hợp giảm trương lực cơ thắt hậu.
Cắt toàn bộ mạc treo trực tràng qua ngã hậu môn (taTME: Transanal total
mesorectal excistion): tiến hành 2 nhóm, một nhóm phẫu tích ngã bụng, di động góc
lách thắt động – tĩnh mạch mạc treo tràng dưới, di động nữa trên trực tràng, nhóm phẫu
tích từ ống hậu môn lên hợp với nhóm trên.
Phẫu thuật cắt trực tràng – tần sinh môn ngã bụng (APR: Abdominoperineal
resection hay phẫu thuật Miles): Phẫu thuật cắt bỏ trực tràng và đoạn đại tràng chậu
hông, hậu môn, các cơ thắt và cơ nâng hậu môn phải được cắt và đưa ra ngã tầng sinh
môn, kết hợp với nạo hạch rộng tạo hậu môn nhân tạo vĩnh viễn.
Hình 33. Mặt cắt APR a) Gian cơ thắt, b) Ngoài cơ thắt, c) Ngoài cơ nâng
Phẫu thuật cắt u tại chổ: Cắt bỏ tại chổ được chỉ định cho ung thư cTis và cT1 thể
(xâm lấn nhẹ) nằm xa valve Houston thứ hai (nếp gấp phúc mạc). Kết quả mô học của bệnh
phẩm được cắt bỏ cho phép xác định khả năng điều trị sẽ chữa khỏi hoàn toàn tình trạng
bệnh, cùng với nhu cầu điều trị bổ sung (cắt bỏ ruột kèm theo bóc tách hạch).
d. Thuật ngữ phẫu tích mạc treo
Cắt toàn bộ mạc treo trực tràng (TME: Total mesorectal excision): là phương
pháp lấy toàn bộ mạc treo trực tràng trên ống hậu môn.
Cắt bỏ mạc trực tràng khối u đặc hiệu (TSME: Tumor‑specific mesorectal
excision): là phương pháp cắt bỏ một phần mạc treo trực tràng tương ứng vị trí của
khối u.
5.3. Thuật ngữ bệnh phẩm
5.3.1. Mẫu bệnh phẩm
Diện cắt trên (PM)
PMX: Không liên quan đến khối u ở rìa gần
PM0: Không xác định được u ở rìa gần
PM1: Khối u được xác định ở rìa gần
Diện cắt dưới (DM)
DMX: Không xác định u của rìa xa
DM0: Không xác định được khối u nào ở rìa xa
DM1: Khối u được xác định ở rìa xa
Diện cắt vòng quanh (CRM) (RM)
RMX: Không thể đánh giá u của rìa vòng quanh
RM0: Không có khối u nào được xác định ở rìa vòng quanh
RM1: Khối u được xác định ở rìa vòng quanh
5.3.2. Đánh giá mạc treo trực tràng
Hình 34. Các định nghĩa để xác định chất lượng của mạc treo trực tràng
(A) Cắt bỏ toàn vẹn mạc treo trực tràng - cho thấy phần lớn mạc treo với bề mặt nhẵn
và không có khiếm khuyết.
(B) Sự cắt bỏ gần hoàn toàn mạc treo trực tràng cho thấy phần lớn mạc treo còn tốt,
nhưng có một số khiếm khuyết hoặc không đều trên bề mặt (có hình mũi tên).
(C) Không đầy đủ mạc treo trực tràng thể hiện một khiếm khuyết sâu trên mạc treo
bên dưới nếp gấp phúc mạc, trông thầy lớp đệm cơ (có mũi tên).
5.3.3. Đánh giá hạch
Theo AJCC khuyến cáo tối thiểu 12 hạch để đánh giá chính xác giai đoạn bệnh.
Không đạt 12 có thể xẩy ra khi có hóa trị trước mổ. Nghiên cứu ghi nhận lượng hạch tối
thiểu cần đánh giá xếp giai đoạn II của bệnh, số lượng hạch tối thiểu đã được ghi nhận như
>7, >9, >13, >20 và >30. Hầu hết các nghiên cứu từ ung thư đại trực tràng được phẫu thuật
ban đầu. Hai nghiên cứu đã xác nhận đối với ung thư trực tràng từ 14 hạch và tối thiểu trên
10 hạch để đánh giá chính xác giai đoạn II. Số lượng hạch trung bình thu được trong ung
thư trực tràng sau liệu pháp tân bổ trợ thường ít hơn phẫu thuật đơn thuần (13 so với 19
hạch, p< 0,05; 7 so với 10; p<0,001)[106].
5.3.4. Đánh giá hạch canh gác, vi di căn bằng hóa mô miễn dịch
Kiểm tra hạch bạch huyết (hạch canh gác, thường qui) bằng mô học và/hoặc hóa mô
miễn dịch giúp xác định di căn. Phát hiện tế bào đơn độc bằng hóa mô miễn dịch (IHC)
hoặc nhuộm H&E đa tầng và/hoặc cụm tế bào u <0,2mm liên quan đến tế bào u (pN0).
Theo phân loại AJCC 8th cụm tế bào u ≥0,2mm nhưng đường kính ≤2mm hoặc nhóm từ 10
– 20 tế bào u là di căn vi thể được xem là tiêu chuẩn hạch dương tính (pN+).
5.3.5. Xét nghiệm gene KRAS, NRAS và BRAF
Tất cả bệnh nhân u thư đại trực tràng di căn đều phải xét nghiệm xác định đột biến
gene RAS (KRAS và NRAS) và BRAF. Bệnh nhân đột biến KRAS (exon 2, 3, 4) hoặc NRAS
(exon 2, 3, 4) không nên điều trị cả Cetuximab và Panitumumab. Đột biết BRAF V600E có
đắp ứng với Cetuximab và Panitumumab.
5.3.6. Xét nghiệm mất ổn định vi vệ tinh (MSI) và lỗi sửa bắt cặp (MMR)
Xét nghiệm MSI bằng phương pháp PCR hoặc giải trình tự gene (NGS panel) đặc
biệt trên bệnh nhân di căn cần xác định gen RAS và BRAF.
Hóa mô miễn dịch có thể phát hiện protein tổng hợp từ bốn gene MMR được biết là
đột biến trong hội chứng Lynch (MLH1, MSH2, MSH6 và PMS2).
5.3.7. Xét nghiệm HER2
Thực hiện bằng hóa mô miễn dịch, kỹ thuật FISH hoặc giải trình tự gene.
Hóa mô miễn dịch dương tính được định nghĩa nhuộm màu 3+ trên hơn 50% tế bào
u. FISH dương tính khi điểm HER2 2+ khi được khếch đại bằng FISH có tỉ số
HER2:CEP17 ≥2 trong hơn 50% tế bào. Giải trình tự gene là phương pháp khếch HER2
khác.
Liệu pháp kháng HER2 chỉ có chỉ định trong khếch đại u HER2 có RAS và BRAF
hoang dã.
5.4. Xạ trị
5.4.1. Chỉ định
Thể tích xạ CTV
TMN Chỉ định Nguy cơ chuẩn Nguy cơ cao Hạch Diện
bẹn cắt (+)
Hậu phẫu
pT1,2N0M0 Không có chỉ định xạ
pT3N0M0
Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28 lần 45Gy 50,4Gy - -
pT4N0M0
với Capecitabine /5FU-LV tăng
pT1-4N1aM0
nhạy xạ
pT4N1bM0 1.Hóa trị
45Gy 50,4Gy - -
pT4N1cM0 2.Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28 lần
pT1-4N2M0 với Capecitabine /5FU-LV tăng
nhạy xạ
3.Hóa trị
Tiền phẫu
cT1,2N1-2 Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28 lần
45Gy 50,4Gy - -
cT3-4N bất kỳ với Capecitabine /5FU-LV tăng
nhạy xạ
Không PT được 1.Hóa trị
45Gy 50,4Gy - -
2. Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28
lần với Capecitabine /5FU-LV
tăng nhạy xạ
Diện cắt (+) /R2 Hóa xạ đồng thời 59,4 Gy/33 lần -
45Gy 50,4Gy 59.4Gy
(không PT) với Capecitabine /5FU-LV tăng
(IMPT) nhạy xạ
Nancy Y. Lee et al., 2015. Rectal cancer. Target volume delineation for conformal and intensity-
modulated radiation therapy
Valentini et al. (2016). International consensus guidelines on Clinical Target Volume delineation in
rectal cancer. Radiotherapy and Oncology, 120(2), 195-201. https://doi.org/10.1016/j.radonc.2016.07.017
Thể tích xạ CTV
TMN Chỉ định Nguy cơ Nguy cơ Hạch Diện
chuẩn cao bẹn cắt (+)
Di căn xa
T(+) N(+) M1 1.Hóa trị→ xạ 45Gy (gồm: 50,4Gy
(hạch bụng) 2.Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28 vùng giữa (hạch M1) - -
lần với Capecitabine /5FU-LV hạch chậu –
tăng nhạy xạ hạch bụng)
T(+) N(+) M1 Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28 lần 45Gy 50,4Gy - -
(cơ quan khác) với Capecitabine /5FU-LV tăng
nhạy xạ
Xạ trường hợp đặc biệt (sau phẫu thuật)
Xâm lấn cơ thắt Hóa xạ đồng thời 50,4 Gy/28 lần
45Gy 50,4Gy 45Gy -
hậu môn hoặc với Capecitabine /5FU-LV tăng
1/3 dưới âm đạo nhạy xạ
Hạch bẹn (+), Hóa xạ đồng thời 59,4 Gy/33 lần
45Gy 50,4Gy 59.4Gy -
nạo hạch bẹn với Capecitabine /5FU-LV tăng
(gồm vùng
(IMRT) nhạy xạ
bẹn)
Diện cắt (+) /R2 Hóa xạ đồng thời 59,4 Gy/33 lần -
45Gy 50,4Gy 59.4Gy
(không PT) với Capecitabine /5FU-LV tăng
(IMPT) nhạy xạ
Nancy Y. Lee et al., 2015. Rectal cancer. Target volume delineation for conformal and intensity-
modulated radiation therapy
Valentini et al. (2016). International consensus guidelines on Clinical Target Volume delineation in
rectal cancer. Radiotherapy and Oncology, 120(2), 195-201. https://doi.org/10.1016/j.radonc.2016.07.017
5.4.2. Phác đồ xạ trị
a. Phác đồ hóa xạ đồng thời hậu phẫu với Capecitabine:
Trước xạ trị:
Capecitabine 1250mg/m2/lần x 2 lần (sáng – chiều) trong 02 tuần, nghỉ 01tuần, x 2
chu kỳ.
Trong lúc xạ trị:
Bắt đầu xạ trị vào tuần thứ 8
Capecitabine 825mg/m2/lần x 2 lần (sáng – chiều), 5 ngày/ tuần x 6 tuần
Sau xạ trị:
Bắt đầu sau xạ 01 tuần, Capecitabine 1250mg/m2/lần x 2 lần (sáng – chiều) trong 02
tuần, nghỉ 01 tuần, x 3 chu kỳ
b. Phác đồ hóa trị trong hóa xạ đồng thời tiền phẫu với Capecitabine:
Trong lúc xạ trị:
Capecitabine 825mg/m2/lần x 2 lần (sáng –chiều), 5 ngày/ tuần) x 6 - 7tuần
Chuyển phẫu thuật sau 4 tuần xạ trị.
Sau phẫu thuật, hóa trị.
5.5. Hóa trị
5.5.1. Chỉ định
Giai đoạn III và II nếu có nguy cơ cao: (NCCN ver3.2021 Colon cancer)
✓ Nhập viện do tắc ruột hoặc thủng
✓ Hạch nạo < 12 hạch
✓ Diện cắt dương (R1/R2)
✓ Biệt hóa kém, CEA cao trước phẫu thuật
✓ Xâm lấn mạch máu, bạch huyết hoặc hệ thần kinh, mô học biệt hoá kém
5.5.2. Thuốc hóa trị
a. Nhóm độc tế bào:
Fluorouracil (5 ‑ FU), 5 ‑ FU + levofolinate canxi (l‑LV), tegafur uracil (UFT),
tegafur gimeracil oteracil kali (S‑1), UFT + canxi folinate (LV), capecitabine
(Cape), irinotecan hydrochloride hydrate (IRI), oxaliplatin (OX),
trifluridine/tipiracil hydrochloride (FTD /TPI).
b. Nhóm phân tử nhắm trúng đích:
Ức chế sinh mạch VEGF: Bevacizumab (BEV)
Chống VEGFR: Aflibercept (AFL), Ramucirumab (RAM)
Đích VEGFR1-3, TIE2, (PDGFR-β, FGFR): Regorafenib (REG)
Chống EGFR: Panitumumab (PANI), Cetuximab (CET) (KRAS, NRAS, BRAF
WT không đột biến, u bên phía trái đại tràng).
Nhóm ức chế miễn dịch:
Pembrolizumab (Pembro); Nivolumab khi có MSI-H hoặc dMMR, Ipilimumab
5.5.3. Các phác đồ
Thường dùng
FOLFIRI hoặc FOLFOX hoặc CapeOX ± Bevacizumab
FOLFIRI hoặc FOLFOX ± Panitumumab hoặc Cetuximab
Phác đồ FOLFIRI
Irinotecan: 180 mg/m2 TTM 30 – 90 phút ngày 1
Leucovorine: 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1, ngày 2
5-FU: 400 mg/m2 tiêm tĩnh mạch chậm ngày 1
5-FU: 1200 mg/m2/ngày tiêm tĩnh mạch chậm 2 ngày tổng (2400 mg/m2 trong 46 –
48 giờ) chù kỳ 2 tuần
Phác đồ CAPEOX
Oxaliplatin 130 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Capecitabine 1000 mg/m2 uống 2 lần/ngày trong 14 ngày, chu kỳ 3 tuần
Phác đồ mFOLFOX6
Oxaliplatin 85 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Leucovorin 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
5-FU 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1, theo sau 1200 mg/m2 tiêm tĩnh mạch
chậm 2 ngày tổng (2400 mg/m2 trong 46 – 48 giờ) chù kỳ 2 tuần.
Phác đồ mFOLFOX7
Oxaliplatin 85 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Leucovorin 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
5-FU 1200 mg/m2 tiêm tĩnh mạch chậm 2 ngày tổng (2400 mg/m2 trong 46 – 48
giờ) chù kỳ 2 tuần.
Phác đồ FOLFOX + Bevacizumab
Bevacizumab 5mg/kg truyền tĩnh mạch ngày 1, chu kỳ 2 tuần.
Phác đồ FOLFOX + Panitumumab (KRAS, NRAS, BRAF hoang dại)
Panitumumab 6 mg/kg truyền tĩnh mạch trên 60 phút ngày 1, chu kỳ 2 tuần
Phác đồ FOLFOX + Cetuximab
Cetuximab 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch trên 2 giờ trong lần đầu và 250 mg/m2 trên
60 phút mỗi tuần hoặc Cetuximab 500 mg/m2 truyền trên 2 giờ ngầu đầu và mỗi 2
tuần.
CAPEOX + Bevacizumab
Oxaliplatin 130 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Capecitabine 1000 mg/m2 uống 2 lần/ngày trong 14 ngày
Bevacizumab 7,5 mg/kg truyền tĩnh mạch ngày 1, chu kỳ mỗi 3 tuần
Phác đồ FOLFIRI + Bavacizumab
Bevacizumab 5 mg/kg truyền tĩnh mạch ngày 1, Chu kỳ mỗi 2 tuần
5.5.4. Hóa trị ung thư tiến triển, di căn
Phác đồ FOLFIRI + Cetuximab (KRAS/NRAS/BRAS hoang dại)
Cetuximab 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch trên 2 giờ trong lần đầu và 250 mg/m2 trên
60 phút mỗi tuần hoặc Cetuximab 500 mg/m2 truyền trên 2 giờ ngầu đầu và mỗi 2
tuần.
Phác đồ FOLFIRI + Panitumumab (KRAS, NRAS, BRAF hoang dại)
Panitumumab 6 mg/kg truyền tĩnh mạch trên 60 phút ngày 1, chu kỳ 2 tuần
Phác đồ FOLFIRI + Ramucirumab
Ramucirumab 8mg/kg truyền trên 60 phút ngày 1
Chu kỳ mỗi 2 tuần
Phác đồ FOLFOXIRI
Irinotecan 165 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Oxaliplatin 85 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Leucovorin 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1
Fluorouracil 1200 mg/m2 truyền/ngày x 2 ngày (tổng 2400 mg/m2 trên 48 giờ) bắt
đầu ngày 1.
Chu kỳ 2 tuần
Phác đồ FOLFOXIRI + Bavacizumab (có lợi trên bệnh nhân có BRAF V600E đột biến [35])
Bevacizumab 5 mg/kg truyền tĩnh mạch ngày 1
Chu kỳ mỗi 2 tuần
Phác đồ FOLFOXIRI + Cetuximab (KRAS/NRAS/BRAS hoang dại)
Cetuximab 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch trên 2 giờ trong lần đầu và 250 mg/m2 trên
60 phút mỗi tuần hoặc Cetuximab 500 mg/m2 truyền trên 2 giờ ngầu đầu và mỗi 2
tuần.
Phác đồ Regorafenib
Regorafenib 160 mg uống từ ngày 1 – 21 hoặc
Chu kỳ đầu tiên: Regorafenib 80 mg uống mỗi ngày từ ngày 1 – 7 sau đó 120 mg
uống mỗi ngày từ ngày 8 – 14 theo sau 160 mg uống mỗi ngày từa ngày 15 – 21.
Chu kỳ 28 ngày
Phác đồ Trifluridine + tipiracil ± Bevacizumab
Trifluridine + tipiracil 35 mg/kg lên tới 80 mg mỗi liều uống 2 lần/ngày từ ngày 1 –
5 và ngày 8 – 12
Bevacizumab 5 mg/kg truyền tĩnh mạch ngày 1 và 15, chu kỳ 28 ngày
Phác đồ Pembrolizumab (dMMR/MSI-H dương tính)
Pembrolizumab 2 mg/kg truyền tĩnh mạch mỗi 3 tuần hoặc
Pembrolizumab 200 mg truyền tĩnh mạch mỗi 3 tuần hoặc
Pembrolizumab 400 mg truyền tĩnh mạch mỗi 6 tuần
Phác đồ Nivolumab (dMMR/MSI-H dương tính)
Nivolumab 3 mg/kg truyền mỗi 2 tuần, hoặc
Nivolumab 240 mg truyền mỗi 2 tuần, hoặc
Nivolumab 480 mg truyền mỗi 4 tuần
Phác đồ Trastuzumab + Pertuzumab (HER2 khuếch đại và RAS, BRAS hoang dại)
Trastuzumab 8 mg/kg truyền ngày 1 chu kỳ 1 theo sau 6 mg/kg truyền mỗi 21 ngày
Pertuzumab 840 mg truyền ngày 1 chu kỳ 1 theo sau 420 mg truyền mỗi 21 ngày
Phác đồ Trastuzumab + Lapatinib (HER2 khuếch đại và RAS, BRAS hoang dại)
Trastuzumab 4 mg/kg truyền ngày 1 chu kỳ 1 theo sau 2mg/kg mỗi tuần
Lapatinib 1000 mg uống mỗi ngày
Phác đồ Encorafenib + Cetuximab (BRAF V600E dương tính)
Encorafenib 300 mg uống/ngày
Cetuximab 400 mg/m2 truyền tĩnh mạch trên 2 giờ trong lần đầu và 250 mg/m2 trên
60 phút mỗi tuần
Phác đồ Encorafenib + Panitumumab (BRAF V600E dương tính)
Encorafenib 300 mg uống/ngày
Panitumumab 6 mg/kg truyền tĩnh mạch trên 60 phút ngày 1, chu kỳ 2 tuần
5.5.5. Không thể can thiệp phẫu thuật
Bộ đôi*4 hoặc
Bên trái FOLFOX hoặc FOLFIRI + CET/ PANI*3 Bên phải bộ ba *5 + BEV
6. Tiên lượng
Nhóm nguy cơ Sống thêm toàn bộ Sống còn không bệnh Tái phát Di căn xa
(OS 5 năm) (DFS)
Thấp: T1-2N0
90% 90% <5% 10%
Trung bình: T1-2N1 5 – 10%
80% 75% 15 – 20%
T3N0
(75 – 80%) (65 – 80%)