Vấn đề bệnh tật và sức khỏe đã được đặt ra với nhân loại từ lâu. Y học có nhiệm vụ chẩn đoán, phát hiện bệnh tật để điều trị và dự phòng chúng. Trong sự phát triển của mình, y học luôn cố gắng nghiên cứu để tìm hiểu một cách sâu sắc mọi khía cạnh, mọi diễn biến, mọi biểu hiện cụ thể của bệnh tật nhằm mục đích nắm chắc được bản chất của bệnh một cách rõ ràng và chính xác nhất. Stanley Robbins đã viết:ʻʻViệc nghiên cứu hình thái chỉ là một khía cạnh của Giải phẫu bệnh học. Giải phẫu bệnh góp phần rất quan trọng cho Y học lâm sàng. Các nhà Giải phẫu bệnh không chỉ quan tâm ghi nhận các rối loạn về cấu trúc mà còn cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nghĩa là, những tác động của sự thay đổi đó đến chức năng của tế bào và mô ra sao và cuối cùng là những biểu hiện trên người bệnh. Giải phẫu bệnh không phải là lĩnh vực tác biệt với bệnh nhân đang được điều trị mà là cách tiếp cận cơ bản để hiểu hơn về bệnh tật và là nền tảng của Y học lâm sàng theo đúng nghĩa”. Về nguyên tắc, mỗi bệnh đều gây nên các thương tổn trên cơ thể, phá hủy hoặc làm biến đổi tổ chức và tế bào. Mặt khác để chống đỡ hoặc để thích nghi với trạng thái bệnh lý, cơ thể cũng phản ứng lại bằng cách thay đổi kiến trúc, thay đổi hình thái của tổ chức và tế bào. Giải phẫu bệnh là khoa học mô tả các hình thái tổn thương. Tuy nhiên mô tả tổn thương không phải mục đích cuối cùng của môn giải phẫu bệnh học. Việc mô tả tổn thương là để so sánh tình trạng bệnh lý với tình trạng bình thường về phương diện đại thể (nhìn bằng mắt thường), vi thể (nhìn dưới kính hiển vi) và siêu vi thể (nhìn dưới kính hiển vi điện tử). Nghiên cứu các biến đổi về hình thái để giải thích những biến đổi chức năng và những triệu chứng lâm sàng. Tóm lại: Giải phẫu bệnh học là môn học nghiên cứu các tổn thương của tế bào, mô và các cơ quan bị bệnh để giải thích những thay đổi về chức phận và những triệu chứng lâm sàng, đồng thời tìm hiểu về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh, cách diễn biến của bệnh để góp phần chẩn đoán bệnh. Chính vì vậy mà môn giải phẫu bệnh được coi là môn y học cơ sở bởi vì người ta phải dựa vào nó và các môn y học cơ sở khác để tìm hiểu và giải thích bệnh. II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIẢI PHẪU BỆNH Sự phát triển giải phẫu bệnh đi cùng với sự phát triển của y học nói chung, có quan hệ rất chặt chẽ với sự phát triển của môn giải phẫu, mô phôi. Nhờ có việc phẫu tích nên ta mới nắm được hình thái, kích thước, vị trí, kích thước, cấu trúc vi thể các tạng bình thường, từ đó làm cơ sở để so sánh, thấy được các tổn thương của chúng khi bị bệnh trên cơ thể. Sự phát triển của giải phẫu bệnh được tạm chia qua 4 giai đoạn tương ứng với các giai đoạn phát triển của y học: 2.1. Giai đoạn giải phẫu bệnh kinh nghiệm (trước năm 1850): giai đoạn giải phẫu bệnh mô tả tổn thương của bệnh tật là chủ yếu mà không giải thích được tổn thương. Ngay từ thế kỷ cuối trước công nguyên người ta đã phẫu thuật khỉ ở Ai Cập, giao tử thi các tội phạm cho thầy thuốc nghiên cứu. Thế kỷ thứ II, Galien là người đầu tiên mổ tử thi để thấy mối tương quan giữa các triệu chứng của người bệnh và các tổn thương quan sát được. Khi Thiên chúa giáo phát triển (ra đời cuối thế kỷ I) việc mổ tử thi bị cấm, khi đó bệnh tật được coi như thứ gì ở ngoài con người, các lý thuyết triết học thần bí làm y học cũng như các khoa học khác bị kìm hãm, đẩy lùi. Thời kỳ phục hưng (thế kỷ XIV-XVII), y học mới lại được phát triển. Đến thế kỷ XVI sau 14 thế kỷ, y học mới lại được mổ xác tử thi để nghiên cứu về giải phẫu, giải phẫu bệnh và pháp y. 2.2. Giai đoạn giải phẫu bệnh bệnh căn (từ 1850-1900): Bắt đầu tìm ra nguyên nhân và cơ chế của các tổn thương. Năm 1856 Rudolf Virchow (1821-1902) xuất bản cuốn ”Bệnh lý tế bào”trên cơ sở quan sát các tổn thương dưới kính hiển vi, những điều mà ông tìm thấy đã chứng minh được rằng: bệnh tật có một cơ sở vật chất, tất cả các vấn đề bệnh học trên cơ thể chẳng qua chỉ là vấn đề bệnh học của tế bào. Ông đã xây dựng môn tổ chức bệnh một bộ phận quan trong của môn giải phẫu bệnh. Học thuyết Virchow đã có một ảnh hưởng rất lớn, nó đã phá tan các quan niệm huyền bí về bệnh tật. Nó đã chứng minh rằng bệnh tật cũng chỉ là một mặt biểu hiện của sự sống, song những biểu hiện này xảy ra trong những điều kiện không bình thường, các công trình của Ông còn có giá trị trong việc tìm ra mối lien quan giữa hình thái và chức phận được thể hiện trong tạp chí”Tài liệu tham khảo Virchow về giải phẫu bệnh, về sinh lý và về y học lâm sàng”do Ông sáng lập ra và còn cho tới ngày nay. 2.3.Giai đoạn giải phẫu bệnh kinh điển (1900-1950): Đây là giai đoạn ngành giải phẫu bệnh phát triển với các phương pháp chuyển đúc nến, cắt mảnh mô học, các kỹ thuật nhuộm thông thường và đặc biệt được quan sát với kính hiển vi quang học. 2.4.Giai đoạn giải phẫu bệnh học hiện đại (từ 1950 cho đến nay): đặc biệt trong khoảng vài ba chục năm gần đây những tiến bộ to lớn về kính hiển vi điện tử, về gen về hóa tổ chức, hóa mô miễn dịch, sinh học phân tử….kết hợp với chẩn đoán hình ảnh, đã giúp cho thầy thuốc chẩn đoán được nhiều bệnh đặc biệt là các bệnh ung thư. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA GIẢI PHẪU BỆNH: 3.1. Tế bào, mô và cơ quan bị bệnh (trên cơ thể người) 3.2. Động vật thực nghiệm: - Gây ra/tìm cách gây ra bệnh (nào đó) trên động vật để tìm ra nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh (diễn biến của bệnh). Từ đó góp phần tiên lượng, điều trị và phòng bệnh trên cơ thể con người. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIẢI PHẪU BỆNH 4.1. Quan sát đại thể - - Mô tả các đặc điểm tổn thương của các cơ quan, bộ phận trên cơ thể người chết; Mô tả đặc điểm bệnh phẩm trên cơ thể người sống bao gồm: Hình dạng, kích thước, màu sắc, mật độ, ranh giới... 4.2. Quan sát vi thể - Mô tả các tổn thương của tế bào (tế bào bệnh học) và mô trên cơ thể người sống (sinh thiết); người chết (tử thiết) 4.3. Liên hệ đối chiếu tổn thương vi thể với đại thể, đối chiếu tổn thương với triệu chứng lâm sàng. 4.4. Cách thức tiến hành 4.4.1. Khám nghiệm tử thi: Là xem xét những tổn thương trên tử thi (thông qua phẫu thuật) và các mô, cơ quan nghi ngờ có bệnh lý trên cơ thể tử thi (tử thiết) để chẩn đoán bệnh, xác minh nguyên nhân gây chết, giúp lâm sàng rút kinh nghiệm về công tác chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh. Khám nghiệm tử thi được thực hiện với cả mục đích pháp lý lẫn y tế. Ngoài ra đối với những bệnh mặc dù đã biết rõ ràng, nhưng vẫn cần phải mổ tử thi do nhiều trường hợp tử vong lại do một bệnh nào đó và làm cho người thầy thuốc sẽ có một quan niệm ngày càng đầy đủ hơn về một bệnh nhất định. Có thể nói giải phẫu thi thể (khám nghiệm tử thi) có một vai trò rất quan trọng để tìm hiểu bệnh tật như Bichat đã nói: ”Người ngồi bên bệnh nhân hàng chục năm chẳng qua cũng chỉ thấy được một mớ triệu chứng, nhưng người dự giải phẫu thi thể một lần hiểu được tất cả bệnh”. Bởi vậy khám nghiệm tử thi chính là để cho thầy thuốc lâm sàng rút ra những kinh nghiệm có ích cho công tác của mình, điều đó có nghĩa”cái chết phục vụ cho sự sống. 4.4.2. Sinh thiết: Chẩn đoán bệnh trên những bệnh phẩm lấy ở bệnh nhân còn sống. Dựa trên chẩn đoán giải phẫu bệnh, bác sỹ lâm sàng sẽ có đường lối điều trị phù hợp cho bệnh nhân đó. Các bệnh phẩm sinh thiết được xử lý theo phương pháp tương tự như mô học thông thường. Ngoài ra xét nghiệm sinh thiết tức thì, đòi hỏi chẩn đoán mô bệnh trong 15-20 phút ngay trong cuộc phẫu thuật, để cho thầy thuốc ngoại khoa có quyết định, xử trí đúng đắn, đặc biệt khi phẫu thuật các khối u lành tính hay ác tính . Ngày nay xét nghiệm sinh thiết ngoài phương pháp nhuộm Hematoxylin và Eosine (H.E) thông thường, phương pháp nhuộm hóa mô, miễn dịch, men học, sinh học phân tử ngày càng được sử dụng phổ biến để nâng cao chất lượng chẩn đoán. 4.4.3. Tế bào bệnh học: Nhận xét sự thay đổi hình thái của tế bào để chẩn đoán một số bệnh. Lấy một mẫu thử tế bào thì dễ dàng, ít gây mệt mỏi, ít gây biến chứng và đỡ tốn kém, tiết kiệm thời gian hơn cho người bệnh so với sinh thiết. Trong nhiều trường hợp sinh thiết cho kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên với một số tình huống, độ chính xác của tế bào học và sinh thiết là như nhau. Một số phương pháp xét nghiệm tế bào học như: + Xét nghiệm tế bào học bong (Cytologie Exfotiative): xét nghiệm tế bào ở các dịch, chất tiết của cơ thể, ví dụ: dịch màng phổi, màng tim, màng bụng… các chất dịch này thường được ly tâm, sau đó lấy cặn để phết lên lam kính, sau đó cố định, nhuộm và đọc. + Xét nghiệm tế bào học bằng phương pháp áp (apposition): áp dụng với các tổn thương hở ở da, niêm mạc mà tay thầy thuốc có thể tiếp cận được như cổ tử cung, niêm mạc miệng, môi… + TB dịch rửa: Trong dịch rửa và hút phế quản chứa các tế bào bong ra của phổi, phế quản cũng như các tế bào từ các tổn thương có trên các cơ quan này bong vào trong dịch. Vì vậy, cần lấy được các tế bào này và nhận định loại tế bào, hình thái, số lượng tế bào trong dịch, sự sắp xếp tế bào, nền phiến đồ dưới kính hiển vi quang học để chẩn đoán bệnh. + Xét nghiệm tế bào học bằng phương pháp chọc hút tế bào bằng kim nhỏ: áp dụng với hầu hết các khối u hoặc tổ chức mà kim có thể tới. Đây là phương pháp chủ yếu được Marcel Zara năm 1947 dùng kim nhỏ chọc vào một u giáp cục và hút ra dịch. Cho đến nay đây là phương pháp thường dung phổ biến rộng rãi. 4.5. Các phương pháp khác - Cần lưu trữ lại bệnh phẩm, tiêu bản, chụp ảnh, vẽ tranh minh hoạ,… nhằm phục vụ cho các công tác chẩn đoán, hội chẩn, nghiên cứu, giảng dạy,… 5. NỘI DUNG CỦA MÔN HỌC GIẢI PHẪU BỆNH Nội dung chương trình cũng như một cuốn sách giải phẫu bệnh lý thường gồm hai phần: giải phẫu bệnh đại cương và giải phẫu bệnh cơ quan. Phần đại cương nhằm giới thiệu các kiến thức chung nhất, những kiến thức có tính chất nguyên lý, có tính chất quy luật để từ đó khi học các môn lâm sàng bằng suy luận học viên có thể hiếu được cơ chế tổn thương, diễn biến của những bệnh tật. 5.1. Giải phẫu bệnh đại cương: Bao gồm các phần tổn thương cơ bản của tế bào và mô, bệnh học viêm, bệnh học khối u (bao gồm cả u lành và u ác hay ung thư). 5.2. Giải phẫu bệnh cơ quan: bệnh về tổn thương riêng của từng cơ quan, hệ thống như hệ thống tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, bộ máy thần kinh ... VI. NHIỆM VỤ CỦA GIẢI PHẪU BỆNH 6.1. Chẩn đoán bệnh Việc áp dụng các kiến thức mới: các phân loại mô bệnh học mới và áp dụng các kỹ thuật mới như hóa mô miễn dịch, giúp cho giải phẫu bệnh có những kết luận chính xác và khách quan hơn. Các kỹ thuật tế bào hỗ trợ cho lâm sàng như FNA cũng rất hữu ích trong thực hành lâm sàng; xét nghiệm tế bào và dịch cơ thể cũng hết sức quan trọng trong tầm soát và chẩn đoán bệnh ung thư. Chẩn đoán và sàng lọc phát hiện sớm ung thư. Giải phẫu bệnh không tham gia trực tiếp vào điều trị mà gián tiếp, bằng việc chẩn đoán chính xác bệnh giúp lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp nhất. Bên cạnh đó, xét nghiệm giải phẫu bệnh trong giai đoạn điều trị cũng góp phần đánh giá, kiểm tra hiệu quả điều trị trước đó… 6.2. Đào tạo cán bộ y tế Giải phẫu bệnh là một trong những môn cơ sở quan trọng trong bộ ba hình thái học, và còn là môn học được đào tạo để giúp cho các bệnh viện xây dựng và phát triển khoa giải phẫu bệnh, đào tạo nhân lực có trình độ và đạo đức nhằm phục vụ đắc lực cho chẩn đoán và sàng lọc phát hiện sớm ung thư. Việc giảng dạy/học tập được thực hiện thông qua xem xét các bệnh phẩm, tiêu bản (đại thể, vi thể) đã được lưu trữ lại, hay các tranh ảnh, tài liệu… 6.3. Nghiên cứu y học Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng có tính khoa học, khách quan và chuyên môn cao. 6.4 Xây dựng một nền y học dân tộc và khoa học Cùng với các chuyên ngành khác, giải phẫu bệnh học tham gia nghiên cứu xác định các đặc điểm riêng về bệnh tật của người Việt Nam.