Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

KHOA KINH TẾ
BỘ MÔN: KINH TẾ CƠ BẢN
----------

BÀI TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ

CHỦ ĐỀ: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Giáo viên hướng dẫn : HÀN HUYỀN HƯƠNG


Lớp : QKD61 ĐHT1
Khóa năm : 2020 – 2024
Nhóm sinh viên thực hiện : CHU ANH TÚ
: ĐẶNG QUỐC TOÀN
: TÔ HOÀNG DƯƠNG
: ĐẶNG ĐÌNH ĐỨC
: NGUYỄN VĂN ĐỨC

Hải Phòng – 2021


Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

MỤC LỤC
Trang
Mục lục:.............................................................................................................................. 1
Lời cảm ơn:......................................................................................................................... 2
Phần I: Lời mở đầu............................................................................................................3
Phần II: Nội dung............................................................................................................... 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC...................4
1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước..................................................................................4
1.2. Bản chất cuả Ngân sách nhà nước Việt Nam............................................................4
1.3. Vai trò của Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế
xã hội của các quốc gia.......................................................................................................5
Chương 2: CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.................6
2.1. Thu và chi Ngân sách nhà nước.................................................................................6
2.2. Chi Ngân sách nhà nước.............................................................................................10
2.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước......................................................................12
2.4. Thâm hụt ngân sách nhà nước...................................................................................13
2.5. Năm ngân sách và chu trình quản lý ngân sách nhà nước.......................................13
Chương 3: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................................................................15
3.1. Nguồn thu của ngân sách nhà nước...........................................................................15
3.2. Các khoản chi Ngân sách nhà nước...........................................................................16
3.3. Thâm hụt ngân sách và vấn đề gia tăng nợ Chính phủ............................................17
3.4. Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam..............18
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................18
4.1. Giải pháp tài chính - ngân sách..................................................................................18
4.2. Tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách nhà nước............................................22
4.3. Xây dựng dự toán Ngân sách nhà nước.....................................................................23
4.4. Giám sát hoạt động của Ngân sách nhà nước...........................................................23
4.5. Dự toán Ngân sách nhà nước và phương án phân bổ Ngân sách Trung ương.......27
Phần III: Kết luận..............................................................................................................28

1
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

LỜI CẢM ƠN

Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ, giúp đỡ
dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu
học tập trên lớp đến nay chúng em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của Cô giáo.

Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, chúng em xin gửi đến Cô giáo – Hàn Huyền Hương lời cảm
ơn chân thành nhất, người đã tận tân hướng dẫn chúng em qua từng buổi học trên lớp. Nếu
như không có những lời hướng dẫn dạy bảo của Cô thì chúng em nghĩ bài tiểu luận này của
nhóm em rất khó để hoàn thiện được.
Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn Cô.

Bài tiểu luận được thực hiện trong khoảng thời gian 4 tuần, do kiến thức của các thành viên
trong nhóm còn hạn chế và số lượng tài liệu tìm hiểu còn ít ỏi, vì vậy không tránh khỏi những
thiếu sót, chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Cô để bài tiểu
luận của nhóm em ngày càng hoàn thiện hơn.

Sau cùng thay mặt nhóm, chúng em xin kính chúc Cô giáo dồi dào sức khỏe, tràn đầy niềm
tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là truyền đạt lại những kiến thức cho thế hệ
mai sau.

Em xin chân thành cảm ơn!

2
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

LỜI MỞ ĐẦU

Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu
tranh giai cấp, Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện
các chức năng va nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức
năng chấn áp và các nhiệm vụ xã hội.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Nhà nước cần phải có nguồn lực tài
chính – ngân sách Nhà nước, đó là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.
Ngày nay kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí và vai trò của tài chính nhà nước ngày
càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, xây dựng nền tài chính tự chủ
vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta,
trong đó ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia.
Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế, có mối quan hệ
chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cùng mối quan hệ khăng khít với tất
cả các khâu của hệ thống tài chính. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính
để đảm bảo cho các chi tiêu của Nhà nước, và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo
cho sự ổn định phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế, và đảm bảo thu nhập cho người dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của Ngân sách nhà nước, nhóm 02 – Lớp
QKD61 ĐHT1 đã thảo luận và cùng phân tích về chủ đề: “ Ngân sách nhà nước “ và tình
hình hoạt động của hệ thống Ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay.

3
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

NỘI DUNG

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước, hay Ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài chính.
Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi
quốc gia. Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà nước đã khá lâu, song quan niệm về ngân sách nhà
nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo
các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà
nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia.
Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa:
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng
và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của
đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
1.2. Bản chất cuả Ngân sách nhà nước Việt Nam.
Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế
khác trong nền kinh tế, thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
nhà nước.
Từ khái niệm bản chất trên, ta có thể rút ra các đặc điểm sau:

 Thứ nhất: Hoạt động thu-chi ngân sách Nhà nước và gắn liền với việc
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của Nhà nước.
 Thứ hai: Mọi hoạt động thu-chi của Ngân sách nhà nước đều phải dựa
trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Ví dụ như: pháp lệnh, chế độ, quy
định về huy động vào ngân sách và chi tiêu Ngân sách nhà nước.
 Thứ ba: Quỹ Ngân sách nhà nước được hình thành thông qua quá trình
phân phối lại dưới nhiều hình thức, trong đó thuế là hình thức chủ yếu và
phổ biến nhất.

4
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

 Thứ tư: Đằng sau các hoạt động thu-chi Ngân sách nhà nước là các quan
hệ kinh tế mà trước hết là quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các
chủ thể kinh tế - xã hội.
1.3. Vai trò của Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội của
các quốc gia.
Trong hệ thống tài chính thống nhất, Ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ vị
trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời,
tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của
hàng hoá, tiền tệ.
Trong cơ chế thị trường, những quan hệ kinh tế thuộc nội dung Ngân sách nhà nước chỉ có
thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tính chất, quy mô, mức đọ và hiệu quả của quá trình
hoạt động này là tiền đề vật chất quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước. Sẽ không có một
Ngân sách lành mạnh nếu như sự vận động của các quan hệ tiền tệ trong quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá bị ách tắc hoặc bị biến dạng theo xu thế không có lợi, làm tổn thương đến
sự vận động của hàng hoá. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng: trong mối quan hệ giữa
Ngân sách nhà nước với sự vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất,
lưu thông hàng hoá, các quan hệ tiền tệ thuộc nội dung Ngân sách nhà nước hoàn toàn không
mang tính thụ động mà có ảnh hưởng tích cực trở lại. Sự ảnh hưởng trở lại đó hoàn toàn phụ
thuộc vào việc nhà nước sử dụng Ngân sách làm công cụ quản lý kinh tế - xã hội như thế nào.
Trong cơ chế thị trường, Ngân sách nhà nước được nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng
để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Do vậy có thể nói cùng với việc đảm bảo chỉ tiêu của
nhà nước bằng việc huy động các nguồn tài chính trên phạm vi rộng lớn trong và ngoài nước.
Vai trò tất yếu của Ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là
công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị
trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
 Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát
triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo
mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển ổn định và bền vững.

5
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt
động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh
nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị
trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể,
nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới
hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế,
ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản
xuất kinh doanh.
 Giải quyết các vấn đề xã hội.
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như
chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các
khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng
bào bão lụt.
 Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược.
Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia.
Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm
chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp Ngân sách nhà
nước góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Chương 2: CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Thu và chi Ngân sách nhà nước:
a. Thu Ngân sách nhà nước.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia
tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Một trong các đại
lượng biểu thị sự tăng trưởng kinh tế đó là tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ như nước ta. Nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự tăng trưởng kinh tế, thông qua việc sử dụng
công cụ ngân sách của mình. Công cụ ngân sách nhà nước chủ yếu là thu và chi tiêu của nhà
nước. Nguồn thu quan trọng và chủ yếu là thuế, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu ngân sách

6
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

nhà nước. Ngoài thuế, Nhà nước còn sử dụng các hình thức khác để huy động vốn vào ngân
sách nhà nước như: thu từ bán tài sản của Nhà nước trong quá trình thực hiện cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước, thu từ bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê
trước đây, thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách nhà nước, thu từ bán lại các cơ sở
kinh tế của Nhà nước cho các thành phần kinh tế, thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên thiên
nhiên, thu lệ phí và phí. thu do nhận viện trợ và vay nợ của chính phủ. Chi ngân sách nhà nước
gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế và chi trả nợ viện trợ. Mỗi hình thức thu
ngân sách nhà nước đều có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế của
quốc gia. hay sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội.
Đứng về phương diện pháp lý, thu Ngân sách nhà nước bao gồm những khoản tiền Nhà
nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất,
thu Ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh
trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu Ngân sách nhà nước chỉ bao
gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách
nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, nội
dung các khoản thu Ngân sách nhà nước bao gồm:
 Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp
luật;
 Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước:
 Lợi tức từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
 Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
 Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
 Thu từ hoạt động sự nghiệp;
 Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
 Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích;
 Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở;
 Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài
nước;
 Các khoản di sản Nhà nước được hưởng;
 Thu kết dư ngân sách năm trước;

7
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

 Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn vị hành
chính, sự nghiệp;
 Các khoản tiền phạt, tịch thu;
 Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
 Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ
các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài;
 Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp bội
chi và khoản huy động vốn đầu tư trong nước của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) quy định tại khoản 3 Điều 8 của
Luật Ngân sách Nhà nước được đưa vào cân đối ngân sách.
Cần lưu ý là không tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản thu mang tính chất hoàn trả
như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước
( Thông tư 342/2016/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 163/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật ngân
sách nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ) chỉ tính vào thu Ngân sách nhà nước các
khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay
ưu đãi không được tính vào thu Ngân sách nhà nước.
Căn cứ vào tính chất sử dụng của các khoản thu, thu ngân sách nhà nước chia làm 2 loại:
thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
* Thu trong cân đối ngân sách.
- Thuế: đây là hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước đến nay để tạo nguồn thu cho ngân
sách nhà nước. Tỉ lệ đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước luôn ở mức cao. Chẳng hạn
như các nước ASEAN có tỉ lệ thuế trong thu thường xuyên của ngân sách rất cao.
Ở Việt Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là nguồn thu từ thuế. Mặt khác nếu so
sánh tỉ lệ thuế động viên vào ngân sách Nhà nước từ GDP của Việt Nam so với những nước
thành viên ASEAN. tỉ lệ này ở nước ta cũng cao nhất.
Điều đó cho thấy, Việt Nam khó huy động được nguồn thu ở một mức cao hơn nữa từ GDP
so với hiện nay. Do đó, một trong những nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế bước 2 là
tiến hành điều chỉnh hợp lý cơ cấu các sắc thuế trong kết cấu thu nhằm bảo đảm nguồn thu
ngân sách nhà nước theo hướng giảm thuế suất, tăng thu theo diện rộng. Đồng thời, việc cải
cách thuế phải thực hiện được nhiệm vụ khuyến khích. thúc đẩy sản xuất phát triển. Với hệ
thống thuế tối ưu, nguồn thu thuế sẽ tăng lên mà không cần đòi hỏi phải tăng thuế suất. Nhờ
thế, Nhà nước sẽ có được nguồn thu ổn định ở mức cao, dễ dàng chủ động thực hiện các chức
năng quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
8
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

- Phí và lệ phí: tuy chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước, song vẫn được huy
động và khai thác nguồn thu đưa vào ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày
càng tăng của Nhà nước.
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: khoản thu này phản ánh hoạt động kinh tế đa dạng
của Nhà nước. Trong giai đoạn trước mắt, Nhà nước có thể sử dụng các khoản thu này để xây
dựng các công trình công cộng y tế, giáo dục, đường sá, nhà ở. Với chủ trương bán nhà thuộc
sở hữu nhà nước cho các đối tượng đã thuê. số thu về hàng năm khá lớn. Cùng với tiến trình
cổ phần hoá doanh nghiệp nà nước, số vốn thu hồi vào ngân sách sẽ tăng. Đồng thời, khi các
công ty cổ phần đi vào hoạt động và làm ăn có hiệu quả, Nhà nước còn thu được lãi tức cổ
phần được chia. Như vậy, tiền thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước sẽ là phần đóng góp
quan trọng trong giai đoạn trước mắt để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình.
- Viện trợ không hoàn lại: bao gồm môt phần vốn ODA (chiếm khoản 25%) và toàn bộ
khoản viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) để phục vụ cho đầu tư cộng cộng; giáo
dục, y tế, giao thông. Trong tương lai, khoản viện trợ không hoàn lại này có xu hướng giảm
dần. Do đó, Nhà nước cần tranh thủ tối đa nguồn vốn này bằng việc cải tiến các khâu điều tra
và quản lý để giải ngân nhanh hơn các chương trình ODA và cần quan tâm nhiều hơn đến việc
quản lý, sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả.
Như vậy toàn bộ khoản thu trên sẽ là khoản ổn định và thường xuyên của ngân sách nhà
nước. Nhà nước sử dụng nguồn thu này để chi cho những hoạt động quản lý thường xuyên và
chi trả nợ của Nhà nước. Khoản chi này tuy không trực tiếp làm tăng thêm giá trị tổng sản
phẩm, nhưng rất cần thiết cho sự phát triển xã hội. Theo Luật Ngân Sách Nhà nước qui định là
toàn bộ khoản thu trong cân đối này sẽ tài trợ cho các loại chi nói trên, phần còn lại sẽ được
dùng cho chi đầu tư phát triển kinh tế. Đây chính là mức tiết kiệm của ngân sách nhà nước.
Nếu số thu này không đủ cho chi thường xuyên thì cương quyết cắt giảm chi. Do đó, có thể
nói thông qua nguồn thu này, Nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển tốt nhất.
* Thu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
- Các khoản vay nợ của Chính phủ gồm có vay trong nước và vay ngoài nước. Theo Luật
Ngân Sách của nước ta ban hành năm 1996, qui định là Nhà nước sẽ dùng khoản tiết kiệm của
ngân sách để chi cho đầu tư phát triển kinh tế. nếu không đủ. Nhà nước sẽ đi vay để bù đắp
thâm hụt ngân sách. không sử dụng khoản vay nợ cho chi thường xuyên. Vay của Nhà nước
bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài. Vay trong nước được thực hiện bởi việc phát
hành công trái dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, và trái phiếu công
trình. Vay nợ nước ngoài được thực hiện dưới các hình thức như: hiệp ước hay hiệp định vay

9
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

mượn giữa hai Chính phủ, hiệp định vay mượn giữa Chính phủ với các tổ chức tài chính tiền
tệ thế giới hoặc phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Vay nợ nước ngoài có 2 loại: vay ưu đãi
với lãi suất rất thấp, thời gian hoàn vốn khá dài; vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian
hoàn vốn cũng dài. Đối với khoản vay nợ nước ngoài thì nước vay nợ dễ gặp rủi ro do tỉ giá
hối đoái tăng làm cho đồng tiền trong nước mất giá. gánh nặng nợ nần chồng chất. Vì vậy, cần
phải tính đến hiệu quả kinh tế và hết sức thận trọng trong việc sử dụng nguồn vốn vay này.
Đối với khoản vay trong nước, nếu Nhà nước vay quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến mức tiết kiệm
và tích luỹ của các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. do đó đầu tư của các
thành phần này cũng có thể giảm. Hơn nữa, nếu Chính phủ vay trong nước nhiều. lãi suất có
xu hướng gia tăng, giá cả hàng hoá tăng, lạm phát có nguy cơ xảy ra.
- Phát hành tiền: trước năm 1992 để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước còn sử dụng hình
thức này. Tuy nhiên, đối với tình trạng sản xuất yếu kém như nước ta trước đây việc chọn giải
pháp này thường làm cho nền kinh tế không ổn định, do lạm phát có xu hướng gia tăng. Vì thế
đối với nước ta từ năm 1993 đến nay không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Như
vậy để đầu tư phát triển kinh tế, trong khi nguồn thu ngân sách trong cân đối không đáp ứng
đủ, Nhà nước sử dụng biện pháp vay nợ hoặc phát hành tiền để bù đắp. Trong điều kiện hiện
nay việc phát hành tiền bị hạn chế nhiều. Do đó. nếu nguồn vay được sử dụng có hiệu quả thì
tổng sản phẩm quốc nội tăng đáng kể. Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt chức năng mở đường
và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển kinh tế. đồng thời để
có thể kiểm soát được các mặt hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước cần khống chế tỷ lệ vay
nợ bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức nhất định nào đó. chẳng hạn mức khống chế hiện
nay là dưới 3,5% GDP.
Toàn bộ khoản thu ngân sách nói trên đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của tổng sản
phẩm quốc nội hay sự tăng trưởng kinh tế một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên. việc
huy động vốn vào ngân sách nhà nước chỉ nên huy động ở mức vừa phải, hợp lý để Nhà nước
vẫn thực hiện được chức năng quản lý kinh tế xã hội. Đồng thời còn thực hiện vai trò động
viên các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển sản xuất, đưa đất nước phát triển
một cách vững chắc nhất.
2.2. Chi Ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo
những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Thực hiện chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tại chính cho các
nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng, đó là:

10
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Chính
phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ
thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang
tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt chính trị và xã hội, ngoại giao.
Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là cần sử dụng tổng hợp các
chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh
giá tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi phí ở tầm vĩ mô.
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát
không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần có
sự phân tích, tính toán trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh
được những lãng phí không cần và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách trong từng thời kỳ
người ta có thể phân chia các khoản chi ngân sách theo nhiều tiêu thức khác nhau.
 Theo chức năng nhiệm vụ của nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước
gồm:
 Chi kiến thiết kinh tế.
 Chi văn hoá – xã hội.
 Chi quản lý hành chính.
 Chi an ninh - quốc phòng.
 Các khoản chi khác.
 Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia các nội dung
sau đây:
Chi thường xuyên về:
 Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông
tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các
sự nghiệp khác;
 Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
 Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
 Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
 Hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam;

11
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

 Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt
Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt
Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam;
 Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
 Các chương trình quốc gia;
 Hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
 Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
 Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của pháp
luật;
 Trả lãi tiền do Nhà nước vay;
 Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài;
 Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
 Chi đầu tư phát triển:
 Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có
khả năng thu hồi vốn;
 Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước; góp vốn cổ phần,
liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia
của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
 Chi cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quỹ hỗ trợ phát triển đối với
các chương trình, Dự án phát triển kinh tế;
 Dự trữ nhà nước;
 Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.
 Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.
 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách nhà nước theo các ngành kinh tế, theo tính chất
của quá trình tái sản xuất xã hội.
2.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước.
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước. Ở
nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức theo hai cấp:
ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, trong đó ngân sách
địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành phố (hay tỉnh), ngân sách quận
(huyện), ngân sách xã (phường).

12
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo nguyên
tắc tập trung và dân chủ, thể hiện những đặc điểm sau đây:
 Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp
thành một thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu,
cùng định mức chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.
 Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập
trung các nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp
dưới chịu sự chi phối của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách
cấp trên nhằm đảm bảo Cân đối của ngân sách cấp mình.
 Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ
ngân sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và
được quyền chi phối ngân sách cấp mình.
Đảm bảo tính phủ hợp giữa cấp Ngân sách với cấp chính quyền Nhà nước.
Căn cứ vào Luật Ngân sách nhà nước quy định, Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung
ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (ngân sách địa phương).
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh);
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện);
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
2.4. Thâm hụt ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng khi
tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của
ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so
với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một
nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân
sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
2.5. Năm ngân sách và chu trình quản lý ngân sách nhà nước.
Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, tài khoá), là giai đoạn mà trong đó dự toán
thu – chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Hiện nay ở tất cả các nước trên thế giới, thời gian cho một năm ngân sách bằng với thời
gian của một năm dương lịch (bằng với 12 tháng). Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính trị,

13
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

xã hội ở mỗi nước khác nhau nên thời điểm bắt đầu và kết thúc của một năm ngân sách được
tính từ ngày mùng 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
Trong chu trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là khâu khởi đầu, có ý nghĩa quyết định
đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là dự toán các
khoản thu chi của ngân sách trong một năm ngân sách. Việc dự toán thu chi đúng đắn, có cơ
sở khoa học, cơ sở thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và thực tiễn ngân sách nói riêng.
Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiện ngân sách
được triển khai. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu Ngân sách nhà nước và bố trí cấp
ngân sách nhà nước cho các nhu cầu đã được phê chuẩn. Việc chấp hành ngân sách nhà nước
thuộc về tất cả các pháp nhân và thể nhân dưới sự điều hành của chính phủ. Trong đó, Bộ Tài
chính có vai trò quan trọng.
Mục tiêu đặt ra trong việc tổ chức chấp hành dự toán thu là không ngừng bồi dưỡng, tăng
nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên mà Quốc hội đã phê chuẩn, đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước đã hoạch định.
Đối với tổ chức chấp hành dự toán chi, mục tiêu đặt ra là đảm bảo đầy đủ và kịp thời
nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương
trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Khâu cuối cùng trong chu trình trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước là khâu quyết
toán ngân sách nhà nước. Thông qua quyết toán ngân sách sẽ thấy được kết quả toàn diện về
hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước, hoạt động Ngân sách nhà nước với tư cách là công cụ
vĩ mô của nhà nước trong thời gian qua, từ đó rút knih nghiệm cần thiết trong điều hành ngân
sách nhà nước. Do đó, yêu cầu của quyết toán Ngân sách nhà nước phải đảm bảo chính xác,
tính trung thực và kịp thời.
Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
 Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước;
 Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản
để bảo đảm thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước;
 Phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần
trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, trong trường hợp có trượt
giá, chỉ xem xét điều chỉnh tăng số bổ sung cho ngân sách cấp dưới theo
một phần trượt giá;
14
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Kết thúc mỗi kỳ ổn định, căn cứ khả năng thu và yêu cầu chi, Chính phủ, Uỷ ban nhân dân
tỉnh thực hiện việc điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các
cấp và mức bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
Chương 3: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN
NAY
3.1. Nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Năm 2009, mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới, nền kinh tế Việt Nam vẫn có chuyển biến tích cực. Việc thực hiện nhiệm vụ tài chính –
ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2009 được đánh giá rất khả quan, dù điều kiện hoạt động
sản xuất - kinh doanh, xuất - nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu song
việc thu Ngân sách nhà nước năm 2009 cơ bản đạt dự toán. Trong đó thu nội địa, thu từ hoạt
động xuất nhập khẩu (chưa tính hoàn thuế giá trị giá tăng) và thu viện trợ đạt và vượt dự toán;
riêng thu từ dầu thô giảm so với dự toán do giá dầu giảm. Tăng trưởng GDP quý sau cao hơn
quý trước (quý I tăng trưởng 3,1%, quý II là 4,5%, quý III đạt 5,8% và quý IV có khả năng đạt
6,8%).
Theo báo cáo của Bộ Tài chính thì ước thu Ngân sách nhà nước cả năm 2009 đạt 390.650
tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (vượt 750 tỷ đồng), đạt tỷ lệ động viên 23,3% GDP. Tổng chi
Ngân sách nhà nước năm 2009 ước đạt 533.005 tỷ đồng, tăng 8,5% (41.705 tỷ đồng) so với dự
toán. Tổng thu Ngân sách nhà nuớc trong 7 tháng đầu năm 2009 ước đạt 222.120 tỷ đồng, đạt
57,0%, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, thu nội địa ước đạt 59,1% dự toán,
giảm 2,8% so với cùng kỳ, thu từ dầu thô ước đạt 48% dự toán, giảm 37,2% so với cùng kỳ,
thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 57,5% dự toán, giảm 5,7% so với cùng
kỳ.
Xét về tiến độ thực hiện dự toán, số thu 7 tháng đầu năm 2009 tuy thấp hơn cùng kỳ năm 2008
(đạt 73,1%) song vẫn ở mức khá hơn so với những năm gần đây (năm 2006 đạt 56,5%; năm
2007 đạt 55,0%). Đây là kết quả tích cực trong điều kiện kinh tế suy giảm, phát triển không
thuận lợi, phải thực hiện nhiều ưu đãi về chính sách thuế để kích thích kinh tế, ngăn chặn suy
giảm và duy trì tăng trưởng knih tế, đồng thời thể hiện quyết tâm và nỗ lực lớn của cả hệ thống
chính trị, các ngành, các cấp và các cơ quan chức năng liên quan.
Riêng về thu dầu thô, giá dầu thô tháng 7 trên thị trường thế giới giảm nhẹ so với tháng 6, bình
quân chỉ đạt 64USD/thùng. Do có độ trễ trong thanh toán nên giá dầu tính thu Ngân sách nhà
nước tháng 7 ước đạt 67 USD/thùng, nâng mức giá bình quân 7 tháng đạt 50USD/thùng. Số
lượng đầu thanh toán 7 tháng ước đạt 9,4 triệu tấn, 59,2% kế hoạch năm.

15
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Đến hết tháng 7 năm 2009, theo báo cáo đã có 29 trên 63 địa phương thu đạt trên 65% dự toán
(Hậu Giang, Hoà Bình, Đồng Tháp, Kon Tum). Tuy nhiên, cũng còn một số địa phương thu
đạt dưới 50% dự toán (Quảng Ngãi, Cà Mau, Vĩnh Phúc, Bình Phước, Bình Thuận).
Ước cả năm 2009, thu ngân sách khoảng 422.000 tỷ đồng vượt 8,2% so với dự toán.
3.2. Các khoản chi Ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước đã tập trung nguồn lực để tăng chi đầu tư phát triển (22.700 tỷ đồng),
tăng kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an
ninh (26.705 tỷ đồng). Góp phần quan trọng ngăn chặn suy giảm kinh tế, tạo đà phục hồi tăng
trưởng trong năm 2010.
Tổng chi Ngân sách nhà nước thực hiện tháng 7 ước đạt 39.340 tỷ đồng, luỹ kế chi 7 tháng
đạt 264.820 tỷ đồng, bằng 53,9% dự toán, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó: chi
đầu tư phát triển: thực hiện tháng 7 ước đạt 8.190 tỷ đồng, luỹ kế chi 7 tháng đạt 61.675 tỷ
đồng, bằng 54,7% dự toán, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2008; riêng chi đầu tư xây dựng cơ
bản ước đạt 53,7% dự toán, tăng 10% so với cùng năm 2008; chi phát triển sự nghiệp kinh tế -
xã hội và quản lý nhà nước (bao gồm cả chi cải cách tiền lương): thực hiện tháng 7 ước đạt
26.840. tỷ đồng, luỹ kế chi 7 tháng đạt 169.045 tỷ đồng, bằng 55,3% dự toán năm, tăng 11,5%
so với cùng kỳ năm 2008. Ngân sách nhà nước đảm bảo chi kịp thời, đầy đủ các khoản chi
theo tiến độ thực hiện và dự toán được duyệt đáp ứng các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh và các nhiệm vụ mới phát sinh, như chi chống hạn, cứu đói và khắc phục hậu
quả hạn hán, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội...
Chi Ngân sách nhà nước đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ chi theo tiến độ và dự toán được
duyệt tập trung nguồn nhân lực để tăng chi đầu tư phát triển, thực hiện tốt các chính sách bảo
đảm an sinh xã hội phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Số bội chi Ngân
sách nhà nước năm 2009 là 115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP
Năm nay, Việt Nam giữ được mức tăng trưởng GDP hơn 5%, có thể đạt 5,2-5,3%. Đây là một
dấu hiệu đáng mừng vì quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và toàn dân ngăn chặn đà suy giảm
kinh tế đã thành công. Kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội được bảo đảm...Do đó, nhiệm vụ
được đặt ra đối với ngành tài chính trong năm 2010 là cùng với các bộ, ngành, địa phương
trong cả nước là tập trung phục hồi đà tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội.
Chi ngân sách ước cả năm 566.000 tỷ đồng. Mức bội chi ngân sách có thể xấp xỉ 8% GDP.
Công tác đầu tư phát triển và giải ngân vốn đầu tư xây dựng khá chậm, tính đến hết tháng 7
năm 2009, các Bộ, ngành đã phân bổ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung thuộc ngân sách

16
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Trung ương 20.431,3 tỷ đồng (Chính phủ giao kế hoạch 21.397,6 tỷ đồng). Vốn đầu tư từ
nguòn trái phiếu Chính phủ, đến hết tháng 7 năm 2009 mới giải ngân khoảng 10.300 tỷ đồng,
bằng 29% kế hoạch năm 2009, trong đó, các dự án giao thông, thuỷ lợi giải ngân ước đạt
25,0% kế hoạch, các dự án giáo dục giải ngân ước đạt 43,0% kế hoạch.
Trong 7 tháng đầu năm, Ngân sách nhà nước đã vay 35.200 tỷ đồng (vay trong nước
31.000 tỷ đồng và vay nước ngoài 4.200 tỷ đồng) để bù đắp bội chi Ngân sách nhà nước theo
dự toán đã được Quốc hội phê chuẩn.
Toàn bộ hệ thống kho bác nhà nước đã thực hiện kiểm soát chi thường xuyên 131.000 tỷ
đồng, đã phát hiện 24.000 khoản chi của 10.800 lượt đơn vị chưa chấp hành đúng thủ tục chế
độ quy định đã yêu cầu đơn vị bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục cần thiết. Đã từ chối với số
tiền ước khoảng 150 tỷ đồng chi không đúng chế độ quy định.
Tuy nhiên, trong công tác điều hành, thực hiện dự toán Ngân sách nhà nước trên thực tế
vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế. Đến thời điểm hiện nay, vẫn còn một số bộ, ngành, địa
phương chưa hoàn thành việc phân khai kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung năm 2009
và tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 thấp. Tình trạng lãng phí trong một số
lĩnh vực như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai vẫn chậm được khắc phục
(thậm chí có trường hợp do động cơ tham nhũng dẫn đến các vi phạm về quản lý kéo theo hậu
quả lãng phí). Chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” ở một số nơi vẫn
còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất, do đó chưa mang lại hiệu quả cao.
Kết luận tại Hội nghị trực tuyến tống kết công tác năm 2009 và triển khai nhiệm vụ năm
2010, do Bộ Tài Chính tổ chức ngày 30/11, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh
đã đặt ra mục tiêu trong năm 2010 của ngành tài chính là thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch 2010,
phục hồi nền kinh cao hơn năm 2009, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn tái lạm phát ở mức
cao, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2006 -
2010.
Bên cạnh đó, trong năm 2010 công việc mà ngành tài chính phải phấn đấu để đạt được là
đấu tranh hoàn thành vượt mức chỉ tiêu Quốc hội giao; huy động các nguồn lực từ doanh
nghiệp phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, huy động vốn trái phiếu chính phủ; tiếp tục hỗ
trợ lãi suất cho các đối tượng ở nông thôn, quan tâm kiểm soát chặt chi tiêu công, tăng cường
công tác kiểm tra, đảm bảo ngân sách, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, chủ động rà soát
các công ty nhà nước chuyển đổi sang công ty cổ phần.
3.3. Thâm hụt ngân sách và vấn đề gia tăng nợ Chính phủ.

17
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Năm 2009, tổng thu ngân sách dù vượt kế hoạch đề ra khi đạt trên 390.000 tỷ đồng nhưng
tổng chi ngân sách nhà nước là 582.200 tỷ đồng, tăng 76% so với năm trước đó. Cộng cả các
nguồn thu khác thì thâm hụt ngân sách năm 2009 vẫn đạt 6,9%. Dù thấp hơn mức cao nhất của
dự báo trước đó, nhưng vấn đề nợ Chính phủ sẽ tiếp tục nan giải trong năm 2010. Để bù đắp
khoản thiếu hụt này, giải pháp trước mắt là việc tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ.
Sau nhiều phiên không thành công trong năm 2009 để phát hành thành công trái phiếu chính
phủ trong năm 2010 thì phải tăng lãi suất tiền nhằm tạo hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Với chỉ
tiêu tăng tổng GDP năm 2010 là 6,5% kết hợp với vấn đề tăng chi cho an ninh xã hội và chi bù
dắp mức lương tối thiểu được nâng từ 650.000 lên 730.000 nghìn đồng, chắc chắn gánh nặng
chi tiêu công sẽ gây áp lực lên ngân sách. Việc hạ giá Việt Nam đồng cũng sẽ làm gia tăng nợ
Chính phủ và nợ doanh nghiệp từ nguồn vay ngoại tệ từ nước ngoài.
3.4. Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam.
Bội chi ngân sách xảy ra khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu ngân sách huy động
được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số thu ngân sách thì có bội thu ngân sách (hay
thặng dư ngân sách). Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của
Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp
dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội
chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với
các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền
kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách
thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện,
nước... Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng
vẫn bội chi ngân sách. Việc xử lý bội chi Ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng của
chinh sách tài khoá của Nhà nước, có tác động đến kinh tế vĩ mô...
Chính những yếu kém trong ngân sách (thu Ngân sách nhà nước không đủ chi và bù đắp
thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền
phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát... Thực tế trong những năm gần đây,
mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi Ngân sách nhà nước từ hai nguồn là vay nước
ngoài và vay trong nước nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức
ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư lại tăng lên.
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY.
4.1. Giải pháp tài chính - ngân sách trong giai đoạn 2006-2010.

18
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Việt Nam đã xác định cần sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển vào trước năm 2010, tạo
đà phát triển để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục
tiêu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là Việt Nam cần phải xây dựng được một
nền tài chính quốc gia đủ mạnh để điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh về bền
vững, giải quyết các vấn đề xã hội.

Như vậy, điều này cũng đồng nghĩa với chính sách tài chính - ngân sách cần được đổi mới,
phù hợp hơn với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; có khả năng động
viên tối đa, nâng cao hiệu quả quản lý, phân phối và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn
nội lực và ngoại lực.
Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2010 như đã nêu trên, thì tỷ lệ huy động vào ngân
sách Nhà nước cần ở khoảng 21-22% GDP; kiểm soát và duy trì tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà
nước ở mức không quá 5% GDP; kiểm soát nợ Chính phủ, nợ ngoài nước của quốc gia đều ở
mức không quá 50% GDP; hình thành đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn
và dịch vụ tài chính, thị trường bất động sản; hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; đồng thời tăng
cường tính công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính.
Để một nền tài chính quốc gia đủ mạnh đạt được mục tiêu trên, trong khuôn khổ Hội nghị
Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội, đại diện Bộ Tài chính
cho biết một số nhiệm vụ và giải pháp tài chính - ngân sách trong giai đoạn 2006 – 2010, đó
là:
Về chính sách tài khoá, tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước,
trong đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn với việc
quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc thực hiện các chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể các cơ
chế, chính sách hiện hành để bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp.
Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước trong đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước tập trung chủ yếu
cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công trình
trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát triển
con người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy nhanh

19
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài chính cho tăng trưởng bền vững,
xoá đói, giảm nghèo.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất, vai trò chủ đạo và
điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm và
tính chủ động trong quản lý ngân sách của các bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng kinh
phí ngân sách.
Về cải cách hệ thống chính sách thuế và hải quan, triển khai có hiệu quả chương trình cải
cách hệ thống thuế đến năm 2010 với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính sách thuế đồng
bộ, công bằng, hiệu quả, minh bạch và công khai nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển, bảo đảm nguồn lực tài chính lâu dài và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân; sửa đổi
Luật thuế giá trị gia tăng nhằm bảo đảm công bằng và đơn giản, hoàn thiện phương pháp tính
thuế, khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế; sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng
mở rộng đối tượng chịu thuế và không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước, hàng
nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm giảm mức thuế suất, diện miễn giảm và
hướng tới thống nhất mức ưu đãi giữa các thành phần kinh tế; hoàn thiện chính sách thuế về sử
dụng đất, thuế tài nguyên như ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường, Luật Thuế tài sản. Xây
dựng và triển khai Luật Quản lý thuế; áp dụng rộng rãi cơ chế tự khai, tự nộp thuế trong quản
lý thuế kết hợp với hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hiện đại hoá hệ thống hải quan; chuẩn
bị các điều kiện cần thiết về hệ thống pháp lý để nhanh chóng gia nhập Nghị định thư sửa đổi
Công ước Kyoto của Hải quan Thế giới.
Về thị trường vốn, tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài hạn,
an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước hội nhập với thị trường vốn khu
vực và thế giới. Đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính phủ làm chuẩn mực cho các công cụ nợ;
khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức phát hành
cổ phần, trái phiếu; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là gắn cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng cường khả
năng huy động vốn và tạo tiền đề phát triển thị trường chứng khoán. Hoàn thiện thể chế hoạt
động của thị trường chứng khoán, phát triển hệ thống các định chế tài chính trung gian, mở
rộng thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức (qua Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm
giao dịch chứng khoán) và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung.
Tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; thực hiện giám sát và cưỡng chế
thực thi nghiêm ngặt; áp dụng nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối với các

20
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

công ty niêm yết, công ty đại chúng. Từng bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập; tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn quốc
tế.
Về cải cách doanh nghiệp, xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh
nghiệp, bảo đảm bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế. Hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính theo hướng đẩy nhanh quá trình đổi
mới, sắp xếp gắn liền với việc tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước.
Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả các tổng công ty và doanh
nghiệp lớn trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Đổi mới căn bản chính sách,
cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tách bạch rõ chức năng quản lý nhà
nước theo ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh với chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của
Nhà nước tại doanh nghiệp; xoá bỏ cơ chế chủ quản; áp dụng cơ chế nhà nước đặt hàng việc
sản xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công ích. Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước từng bước đảm nhiệm vai trò quản lý đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp và chức năng đầu tư tài chính. Thực hiện cơ chế tín dụng đầu tư Nhà nước thông qua
Ngân hàng phát triển Việt Nam; tạo cơ chế chính sách để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp
cận được với thị trường vốn (như Quỹ Bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa…).
Về quản lý tài sản công, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tài sản công theo hướng tạo ra cơ
sở pháp lý đẩy đủ và đồng bộ để quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả nguồn lực từ đất
đai, tài nguyên và công sản. Kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư, mua sắm và sử dụng tài sản công
đi đôi với việc tăng cường phân cấp quản lý tài sản, gắn quyền lợi với trách nhiệm, gắn kết quả
với chi phí. Từng bước phát triển thị trường nhà đất lành mạnh, đặc biệt là thể chế chính sách
đối với hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhằm phát huy những tác động tích cực
đến phát triển kinh tế - xã hội.
Về hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về tài chính, xác
định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hoá từng bước luồng vốn trong điều kiện hội
nhập, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác; hoàn thiện công tác
quản lý nợ nước ngoài, quản lý nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA; xây dựng hệ
thống giám sát nợ, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các dự án, chương trình sử dụng
vốn vay nước ngoài; tổ chức việc thanh toán nợ đúng hạn. Hoàn thiện bộ máy, tăng cường

21
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

nhân lực trong quản lý nợ nước ngoài. Hoàn thiện khung pháp lý về tài chính theo chuẩn mực
quốc tế để hội nhập thành công; điều chỉnh và xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp
với các cam kết song phương và đa phương, chủ động phát triển các định chế tài chính, ngân
hàng, thương mại có trọng điểm, có thời gian và lộ trình rõ ràng, minh bạch.
Tăng cường công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính, xây dựng và tăng cường công
tác kế toán, kiểm toán, thanh tra giám sát, công bố thông tin đối với các hoạt động thu chi tài
chính, ngân sách. Thực hiện chế độ kiểm toán và công bố thông tin bắt buộc đối với các cấp
ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách và các công ty nhà nước. Phân định trách nhiệm và
tăng cường phối hợp giữa cơ quan kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm soát nội bộ,
mở rộng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập đối với các đơn vị thu, chi tài chính, ngân sách. Tổ
chức triển khai có hiệu quả việc thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật
Phòng, chống tham nhũng. Nâng cao năng lực giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức xã
hội nghề nghiệp và nhân dân. Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan
đơn vị trong việc sử dụng ngân sách; áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài chính - ngân sách.
Về cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, củng cố
và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài chính, xây
dựng đội ngũ công chức tài chính đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao. Hiện đại hoá quản lý tài chính - ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc;
tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công tác tài chính theo
tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế
4.2. Tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách nhà nước.
Năm 2009, Nhà nước tăng cường chỉ đạo công tác thu Ngân sách nhà nước, chống thất thu,
gian lận thuế, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất dự toán thu Ngân sách nhà nước đã được
Quốc hội quyết định. Thực hiện tốt các nhiệm vụ chi Ngân sách nhà nước, tăng cường kiểm
tra, kiểm soát và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách nhà nước, đặc biệt là kiểm soát các
khoản chi đầu tư, chi kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng từ Ngân sách nhà nước.
Duy trì và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thu và các lực lượng chức năng kiểm
soát chặt chẽ, đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thu vào ngân sách nhà nước. Có
biện pháp tích cực chống thất thu thuế, phí và lệ phí; chống buôn lậu và gian lận thương mại,
thực hiện thu hồi các khoản nợ, đọng thuế. Xác định rõ trách nhiệm của những người, những

22
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

tổ chức để thất thu, để nợ đọng và chiếm dụng tiền thuế của nhà nước. Có biện pháp đôn đốc
và hỗ trợ các địa phương chủ động phấn đấu.
4.3. Xây dựng dự toán Ngân sách nhà nước.
Nhà nước đảm bảo quán triệt tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp về thúc đẩy quá
trình phục hồi tăng trưởng kinh tế bền vững, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã
hội.
Dự toán thu Ngân sách nhà nuớc phải xây dựng tích cực, vững chắc, có tính khả thi cao với
mức động viên phấn đấu đạt trên 21% GDP, trong đó, thu thuế và phí đạt trên 20% GDP, có
tính đến các yếu tố tác động do thực hiện miễn, giảm, giãn thuế năm 2009; trong đó, dự toán
thu nội địa ( không kể thu từ dầu thô, thu tiền sử dụng đất ) tăng bình quân tối thiểu 16¬ -18%
so với đánh giá ước thực hiện năm 2009 ( đã loại trừ các yếu tố tác động do thực hiện miễn,
giảm, giãn thuế năm 2009 ); dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng tối thiểu 5-7% so
với đánh giá ước thực hiện năm 2009 (đã loại trừ các yếu tố tác động do thừc hiện miễn, giảm,
giãn thuế trong năm 2009 ). Đồng thời phải có các biện pháp và lộ trình cụ thể để xử lý các
khoản nợ đọng thuế; chống thất thu, trốn lậu thuế và gian lận thương mại; tăng cường thanh
tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm.
Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại các khoản chi NS (kể cả chi thương xuyên và đầu tư phát triển)
để triệt để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả chi NS, đảm bảo nguồn lực đẻ triển khai thực hiện
dự án, chương trình chính sách an sinh xã hội, góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững, giữ
vững an ninh tài chính quốc gia. Chủ động dự kiến các nhu cầu kinh phí thực hiện chính sách,
chế độ nhiệm vụ mới; bảo đảm các chính sách, chế độ, dự kiến ban hành thực hiện từ năm
2010 phải được cân đối đủ nguồn lực, han chế không để xảy ra tình trạng thiếu kinh phí thực
hiện các nhiêm vụ thường xuyên, các chính sách chế độ đã ban hành và các nhiệm vụ mới đã
được cấp có thẩm quyền nhất định.
4.4. Giám sát hoạt động của Ngân sách nhà nước.
Giám sát Ngân sách nhà nước (NSNN) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ
quan quyền lực nhà nước các cấp ở mọi quốc gia. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phân cấp,
phân quyền giữa các cơ quan công quyền kể từ khi xuất hiện NSNN và là biện pháp hữu hiệu
nâng cao hiệu quả hoạt động của NSNN.
Một số công cụ mà cơ quan quyền lực nhà nước có thể sử dụng để giám sát NSNN, bao gồm:
pháp luật, mục lục NSNN, kế hoạch hóa, kiểm toán, thông tin, chuyên gia.
- Công cụ pháp luật: Đây là công cụ có sớm nhất và chung nhất để phục vụ cho quản lý nhà
nước ở mọi quốc gia. Nó luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Theo xu

23
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

hướng chung, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, năng lực quản lý của nhà nước
cũng ngày càng được nâng cao đã làm cho hệ thống pháp luật- với tư cách là công cụ phục vụ
cho quản lý Nhà nước, cũng ngày càng được đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn. Pháp luật đã luôn
giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong số các công cụ mà Nhà nước phải sử dụng để quản lý nền
kinh tế. Bởi lẽ, pháp luật có tác dụng điều chỉnh hành vi cho mọi tổ chức, cá nhân khi tham gia
vào các hoạt động của xã hội, nó còn là thước đo chung mức độ chấp hành pháp luật của mọi
chủ thể.
Muốn thực hiện quyền giám sát NSNN, đòi hỏi các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà
nước các cấp phải hiểu rõ các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thu, chi NSNN từ
Luật NSNN, Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Thu nhập DN…, các văn bản hướng dẫn thi
hành các Luật này, hiểu rõ các sắc luật điều chỉnh vào các hoạt động quản lý tài chính- tiền tệ
ngoài phạm vi hoạt động của NSNN và các sắc luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế khác.
Nếu hiểu không tường tận các sắc luật quản lý NSNN, thì sẽ gây ra xung đột ngay trong hệ
thống chính sách và làm méo mó quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thực tế điều
hành NSNN của nước ta những tháng đầu năm 2008 đã phản ánh rõ nét hậu quả của sự thiên
lệch này.
- Mục lục NSNN: Là bảng phân loại thu, chi NSNN theo những tiêu thức khoa học giúp cho
quá trình hạch toán kiểm toán và thống kê NSNN được nhanh, chính xác nên Mục lục NSNN
đã trở thành công cụ quan trọng trong suốt quá trình quản lý NSNN của mỗi quốc gia.
Qua số liệu thống kê ở Mục lục NSNN có thể thấy được trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
quan, tổ chức có liên quan đến thu, chi NSNN thông qua mã số “Chương” của Mục lục
NSNN. Từ đó cơ quan quyền lực nhà nước có thể sử dụng đòn bẩy NSNN mà khuyến khích
hay bắt buộc các tổ chức, cá nhân tiếp tục phải làm tốt hơn phận sự của mình.
Thông qua sự phân loại cơ cấu thu, chi NSNN theo các chỉ tiêu “Loại, Khoản” của Mục lục
NSNN các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước biết được thứ tự ưu tiên trong phân bổ
ngân sách gắn với các ngành kinh tế sẽ hoặc đang và đã diễn ra như thế nào và có phù hợp với
cơ cấu phát triển kinh tế- xã hội đã được xác lập trong Nghị quyết cùng kỳ của cơ quan quyền
lực nhà nước có thẩm quyền hay không? Hoặc nếu cơ cấu thu, chi NSNN đã có sự phù hợp với
thứ tự ưu tiên theo cơ cấu ngành của cơ quan quyền lực nhà nước nhưng kết quả hoạt động của
các ngành/lĩnh vực được ưu tiên kinh phí của NSNN này vẫn không có cải thiện gì đáng kể, thì
nhất thiết phải xem lại năng lực quản lý điều hành ngân sách của cơ quan hành pháp; đặc biệt
là vai trò của người đứng đầu cơ quan hành pháp này.

24
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Thông qua sự phân loại thu, chi NSNN theo nhóm, tiểu nhóm mà giám sát mức độ gắn kết
giữa các nguồn thu và cơ chế sử dụng các nguồn thu của NSNN mỗi cấp. Trách nhiệm này
thuộc về người đứng đầu các cơ quan hành pháp ở mỗi cấp được giao điều hành NSNN ở cấp
đó. Ví dụ: nếu phát hiện có hành vi sử dụng quỹ NSNN được hình thành từ nguồn vay bù đắp
bội chi để sử dụng cho nhu cầu mua sắm tài sản cố định của các cơ quan quyền lực nhà nước
phải yêu cầu người đứng đầu cơ quan hành pháp cùng cấp dừng ngay hành động này và thu
hồi số vốn đã cấp.
Thông qua sự phân loại thu, chi NSNN theo mục, tiểu mục mà giám sát mức độ phù hợp
giữa thực tiễn quản lý kinh tế, tài chính nảy sinh và các hình thức thu, chi đã được xác lập
trong Mục lục NSNN. Nếu có phát sinh các nguồn tài chính mới, có thể huy động vào NSNN
nhưng chưa có hình thức động viên thì phải xây dựng và ban hành chính sách thu mới và
ngược lại. Hay có phát sinh các nhu cầu chi mới và khả năng NSNN có thể đảm bảo, thì phải
bổ sung các hình thức chi mới và ngược lại. Mặt khác, cũng thông qua các hình thức thu, chi
này mà giám sát trách nhiệm thực thi của những tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ quản lý NSNN
và cả trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thực thi các hình thức thu, chi NSNN.
Ví dụ: giám sát chi đãi ngộ với người có công với cách mạng, nếu phát hiện nhầm đối
tượng thụ hưởng thì phải kiến nghị thu hồi và xử lý nghiêm đối với những người cố tình khai
gian hoặc làm sai lệch hồ sơ. Hoặc tổng hợp số liệu từ các mục chi cho con người mà chiếm tỷ
trọng quá lớn trong tổng chi thường xuyên hàng năm, thì nhất thiết phải xem lại cơ cấu tổ chức
của bộ máy nhà nước và đối tượng được hưởng các khoản chi thanh toán cho cá nhân từ
NSNN.
-Kế hoạch hóa: cũng là công cụ quan trọng mà Nhà nước phải sử dụng trong quản lý điều hành
nền kinh tế. Giữa các nước khác nhau chỉ khác nhau ở phạm vi và cách thức sử dụng công cụ
kế hoạch hóa. Hoặc trong phạm vi một quốc gia cách thức và phạm vi sử dụng công cụ kế
hoạch hóa cũng có sự thay đổi qua các thời kỳ tùy thuộc vào Nhà nước ở quốc gia đó lựa chọn
cơ chế quản lý đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện được quyền giám sát NSNN khi sử dụng công cụ kế hoạch hóa, các đại biểu
của cơ quan quyền lực nhà nước cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội mà thẩm tra, đánh giá tính phù hợp của các chỉ tiêu thu, chi trong dự toán NSNN.
Đồng thời cũng phải căn cứ vào mức độ của các chỉ tiêu thu, chi đã được xác lập trong dự toán
NSNN mà điều chỉnh lại mức độ của các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình chấp hành NSNN phải luôn đối chiếu so sánh giữa mức độ chấp hành thu, chi
NSNN với mức độ thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Mỗi đồng

25
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

tiền chi ra từ NSNN nhất thiết phải gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội mà nhà
nước phải làm và đã được xác định trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Mỗi đồng tiền thu
vào NSNN phải được hình thành từ kết quả của các hoạt động kinh tế thực thụ của các tổ
chức, cá nhân hay từ các quyền sở hữu đích thực của nhà nước. Khi phê chuẩn quyết toán
ngân sách cho một năm đã qua nhất thiết phải rà soát lại các kết quả đích thực về phát triển
kinh tế-xã hội của năm đó. Đây mới chính là những kết quả mà xã hội mong đợi. Những thành
tựu hay những yếu kém trong quản lý của Nhà nước được bộc lộ một cách rõ nét nhất thông
qua số liệu quyết toán NSNN và kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội cùng kỳ
quyết toán đó.
-Kiểm toán: Cùng với triển khai thực hiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, thì vấn
đề công khai, minh bạch NSNN đã trở thành một đòi hỏi tất yếu. Quản lý NSNN chỉ được coi
là công khai, minh bạch khi có sự đánh giá của các tổ chức, cá nhân từ bên ngoài (không trực
tiếp tham gia quản lý điều hành NSNN). Một trong những chỗ dựa cho những người cần thông
tin về tình hình quản lý NSNN là các báo cáo của các tổ chức kiểm toán; đặc biệt là KTNN.
Đối với nước ta, kiểm toán NSNN hàng năm là trách nhiệm của cơ quan KTNN đã được
chính thức thể chế hóa trong Luật NSNN. Do vậy, NSNN các cấp, các đơn vị sử dụng ngân
sách đều thuộc phạm vi kế toán của KTNN. Với một đội ngũ chuyên nghiệp, trình độ chuyên
môn được trang bị tốt, KTNN có trách nhiệm phải đánh giá, xác nhận một cách chính xác tính
hợp lệ, hợp pháp; và đặc biệt là tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý NSNN. Báo cáo kết quả từ
các cuộc kế toán của KTNN luôn là nguồn thông tin tin cậy nhất để cơ quan quyền lực nhà
nước các cấp và những tổ chức, cá nhân có nhu cầu thông tin về ngân sách sử dụng cho các
hoạt động của mình.
Khi thực hiện quyền giám sát cơ quan quyền lực nhà nước vừa có quyền sử dụng các thông
tin đã có, vừa có quyền yêu cầu cơ quan KTNN tiếp tục kiểm toán, xác nhận các thông tin cần
thiết, bổ sung thêm cho việc đưa ra các nhận xét, đánh giá chuẩn xác hơn về kết quả quản lý
điều hành NSNN của Chính phủ và UBND các cấp.
-Thông tin: trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát NSNN, cơ quan quyền lực nhà nước
phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nên thông tin vừa là phương tiện, vừa là
công cụ phục vụ cho quá trình giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Ở đây thông
tin được hiểu là công cụ để cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện nhiệm vụ giám sát của
mình. Thông tin sẽ trở thành công cụ cho giám sát NSNN khi:
Thông tin cung cấp cho các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước hiểu rõ hơn về tình hình
quản lý thu, chi NSNN tại một ngành, địa phương sau một thời gian nhất định. Những thông

26
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

tin loại này, các đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước có thể tìm thấy và tổng hợp được từ hệ
thống sổ sách, báo cáo của kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ kho bạc nhà nước; hay báo
cáo tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí của các đơn vị hành chính sự nghiệp; và một số
báo cáo kế toán ở các đơn vị đặc thù khác.
Thông tin phản hồi từ phía người dân, hay của các cơ quan đơn vị có liên quan đến thu, chi
NSNN. Kênh thông tin này rất đa dạng, nhưng độ chuẩn xác không hẳn đã cao. Song nó có
khả năng tạo ra áp lực mạnh và buộc các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm đầy đủ hơn
trong quá trình thực hiện công khai, mình bạch tình hình tài chính ngân sách hàng năm hay các
năm đã qua.
Các phương tiện thông tin luôn trở thành các công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc thu thập
và xử lý các thông tin, để đưa ra các nhận xét, đánh giá về tình hình quản lý NSNN của mỗi
ngành, mỗi địa phương, mỗi đơn vị. Khi các nhận xét, đánh giá được định lượng bằng một số
chỉ tiêu cụ thể thì tính thuyết phục của hoạt động giám sát sẽ được nâng cao.
-Chuyên gia: phạm vi tác động của NSNN rất rộng, có liên quan tới hoạt động của mọi ngành,
mọi cấp, mọi lĩnh vực. Do vậy, đòi hỏi một đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước có thể am
hiểu tường tận tất cả các lĩnh vực quả là không thể có được. Nhưng họ lại có trách nhiệm khi
biểu quyết hay thực hiện giám sát bất cứ vấn đề nào của NSNN. Điều đó đã gây nên những rắc
rối cho các vị đại biểu có trách nhiệm của các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Và việc
cần thiết đặt ra chỉ có một cách duy nhất là thuê chuyên gia ở lĩnh vực khác nhau tư vấn cho
các đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước trước mỗi vấn đề mà các đại biểu này không đủ tự tin
để nêu ra các ý kiến nhận xét đánh giá hay biểu quyết. Khi đó các chuyên gia đã trở thành một
trong những công cụ trợ giúp cho các đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước. Song muốn sử
dụng được công cụ này thì phải chi một khoản tiền nhất định tùy theo quy mô, tính phức tạp
mà đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước yêu cầu.
4.5. Dự toán Ngân sách nhà nước và phương án phân bổ Ngân sách Trung ương.
Theo báo cáo của Chính phủ ngày 23 tháng 10 năm 2009, Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa
XII, dự toán ngân sách nhà nước năm 2009 được triển khai thực hiện trong bối cảnh nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế thế giới đã tác
động lớn đến kinh tế nước ta, nhiều mặt hoạt động sản xuất- kinh doanh, xuất khẩu hàng hóa,
du lịch, dịch vụ suy giảm trong nhiều tháng liên tiếp, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng
khó khăn, vấn đề giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội trở lên bức xúc (Dự toán thu
cân đối ngân sách nhà nước năm 2009 là 389.900 tỷ đồng; thực hiện 9 tháng ước đạt 288.335
tỷ đồng, bằng 74% dự toán. Phấn đấu cả năm đạt 390.650 tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán).

27
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành ngân sách nhà nước năm 2009, không thực
hiện cắt giảm tổng mức chi ngân sách nhà nước, nhưng có yêu cầu sắp xếp, điều chỉnh các
nhiệm vụ chi, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, giảm những khoản chi chưa thực sự cấp thiết để
tăng chi cho các nhiệm vụ ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội (mức được
Quốc hội quyết định là 491.300 tỷ đồng; thực hiện 9 tháng ước đạt 349.691 tỷ đồng, bằng
71,2% dự toán). Dự toán số bội chi ngân sách nhà nước năm 2009 là 87.300 tỷ đồng, thực hiện
9 tháng 47.856 tỷ đồng, bằng 54% dự toán. Ước đạt cả năm, bội chi ngân sách thực hiện là
115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP... Về dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ
ngân sách trung ương năm 2010, Chính phủ xác định mục tiêu là: Tập trung huy động các
nguồn lực tài chính, sử dụng có hiệu quả để phấn đấu phục hồi tăng trưởng kinh tế cao hơn
năm 2009, tạo đà tăng trưởng nhanh và bền vững vào năm 2011 và những năm tiếp theo; giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2006-
2010.

KẾT LUẬN

Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hầu hết các nước đều xác
lập cho mình những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Những mục tiêu phát triển đều dựa
vào khả năng khai thác các nguồn lực trong nước và nước ngoài và phải tạo ra được sự tiến bộ
toàn diện cả về kinh tế và xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình theo đuổi
mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Để trở thành một nước có nền kinh tế phát triển thì điều tất yếu mà bất kỳ nhà
nước nào cũng phải có là nguồn lực. Một trong những nguồn lực đó là Ngân sách nhà nước, nó
giữ vai trò rất quan trọng, chi phối hầu như toàn bộ hoạt động của nhà nước. Có ngân sách thì
nhà nước mới hoạt động được, mới thực hiện được các mục tiêu đề ra. Vì vậy, việc quản lý
các hoạt động của Ngân sách nhà nước của mỗi quốc gia, cụ thể là các khoản thu - chi ngân
sách sao cho phù hợp, sao cho hợp lý và đạt hiệu quả là một điều rất quan trọng mà không
phải quốc gia nào cũng làm được. Nó là sự thách thức mà nước Việt nam ta phải vượt qua
được để hoàn thành quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không chỉ ở hiện tại mà
còn cả trong tương lai.
28
Chủ đề: Ngân sách nhà nước Giáo viên hướng dẫn: Hàn Huyền Hương

Do năng lực bản thân của mỗi thành viên trong nhóm còn hạn chế, nên đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được những đóng góp ý kiến và phê bình của Cô
giáo và các bạn để chúng tôi kịp thời nắm bắt và củng cố kiến thức.

29

You might also like