De Cuong On Tap Kinh Te Chinh Tri 4

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Câu 1. Phân tích mối quan hệ giữa tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá và hai
thuộc tính của hàng hoá. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.

- Khái niệm hàng hoá: Hàng hóa là sản phẩm lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hoá tồn tại ở hai dạng chủ yếu: dạng hữu hình như sắt,
thép, lương thực,…và dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo
viên, y bác sĩ,...
- 2 thuộc tính cơ bản của hàng hóa: Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sản xuất
hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hoá
thì đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
+ GTSD: GTSD của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá là một phạm trù vĩnh viễn vì nó do thuộc tính tự nhiên
của vật thể hàng hoá quyết định. Trong mỗi hàng hóa có thể có 1 hay nhiều giá trị sử dụng, số lượng
giá trị sử dụng của một vật được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển khoa học - kỹ thuật.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, là nội dung vật chất của
của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào. Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất
thiết phải có giá trị sử dụng, nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng đều là hàng hoá (VD:
không khí, nước suối, rau rừng, quả dại - đều có giá trị sử dụng nhưng không phải hàng hoá). Như
vậy, muốn trở thành hàng hoá thì giá trị sử dụng của một vật phải là vật được sản xuất để mua
bán, trao đổi, tức là vật đó có giá trị trao đổi. Trong nền kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật
mang giá trị trao đổi.
+ Giá trị: Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá.
Chất của giá trị là lao động, vì vậy, sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất kết
tinh trong nó thì không có giá trị. Sản phẩm nào có lao động hao phí để sản xuất càng nhiều thì giá
trị càng cao. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vật phẩm, để trao đổi giữa chúng với
nhau.
Giá trị hàng hoá là biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, cụ thể là mối quan hệ giữa những người
sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, là thuộc
tính xã hội của hàng hoá.
Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hoá phải có đủ hai thuộc tính GTSD & GT.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa là mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn
- Thống nhất vì chúng luôn cùng tồn tại trong mỗi hàng hoá. Hai thuộc tính này cùng đồng
thời tồn tại trong một hàng hóa. Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người, của XH), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao
động) sẽ không phải là hàng hóa. Ngược lại một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh) nhưng
không có giá trị sử dụng (tức không thể thỏa mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không
trở thành hàng hóa.
- Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người sản xuất hàng
hoá chỉ quan tâm đến giá trị hàng hoá, nếu họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng chỉ là để có được
giá trị. Ngược lại, người mua hàng hoá lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá, nhưng phải
trả giá trị của sản phẩm cho người bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực
hiện giá trị sử dụng. Giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.
Hàng hóa có 2 thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó mà
là lao động của sản xuất hàng hóa có tính hai mặt (Lao động cụ thể và Lao động trừu tượng). Tính
hai mặt này quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng và kết
quả riêng. LĐ cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa, không kể đến hình
thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hóa về cơ bắp,
thần kinh, trí óc. LĐ trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Vậy có thể nói giá trị của hàng hóa là lao
động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Lao động trừu tượng là cơ sở để so
sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau.

- Ý nghĩa lý luận: Việc phát hiện ra tính 2 mặt của lđ sxhh có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận.
Là cơ sở để chỉ ra nguồn gốc của 2 thuộc tính GT và GTSD của hàng hóa. Phát hiện này mang lại
cơ sở khoa học cho học thuyết giá trị thặng dư và các học thuyết khác sau này.
- Ý nghĩa thực tiễn: Nước ta là 1 nước có nền KT thị trường định hướng XHCN, tức là nền KT
nhiều thành phần, sản xuất đa dạng các loại HH nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và trao đổi, mua
bán trên thị trường TG. Do đó, SXHH ở nước ta phải đảm bảo 2 thuộc tính GTSD & GT.

Ở nước ta, Đảng và nhà nước đã xác định phương hướng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay
nước ta còn thiếu vốn, KHKT chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng hàng hóa chưa cao, giá
thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế. Vì vậy hội nhập kinh tế quốc tế cũng
góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc
tế, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp
dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn
có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước
ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, đẩy
mạnh phân công lđ để phát triển KT HH, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của XH; phải coi
trọng cả 2 thuộc tính của HH để không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành.
trong nền KT hnay, KT HH không thể thiếu được vì nó góp phần thúc đẩy KT và nếu phát triển, nó
góp phần giải quyết việc làm và sự phân công LĐ trong XH.

Câu 2. Phân tích lượng giá trị của hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
của hàng hóa. Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
* Lượng giá trị của hàng hoá:
Hàng hóa là sản phẩm lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi,
mua bán.
Giá trị của HH là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Lượng giá
trị của hàng hoá là lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hoá, lượng lao động đã hao phí được tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Vậy, lượng giá trị của 1 đơn vị HH là lượng thời gian hao
phí LĐ XH cần thiết để SX ra đơn vị HH đó.
- Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó
trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động
trung bình.
Trong SX, người SX phải tích cực đổi mới, sáng tạo tăng năng suất LĐ nhằm giảm thời gian
hao phí LĐ cá biệt tại đơn vị SX của mình xuống mức thấp hơn mức hao phí trung bình cần thiết.
Khi đó sẽ có được ưu thế trong cạnh tranh.
VD: A -> áo = 2 giờ (HPLĐ cá biệt)
B -> áo = 2,5 giờ (HPLĐ cá biệt) HPLĐXHCT = 2,5 giờ
C ->áo = 3 giờ (HPLĐ cá biệt)
* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị trong một đơn vị HH được đo lường bởi TGLĐXH cần thiết để SX ra HH đó, cho
nên, về nguyên tắc, những nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí XH cần thiết để SX ra
1 đơn vị HH tất sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của HH. C.Mác cho rằng có những nhân tố sau đây:
Một là: Năng suất lao động:
+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra
một sản phẩm.
+ Năng suất lao động tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị
hàng hóa giảm xuống từ đó lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm. Do đó, lượng giá trị của
một đơn vị hàng hóa và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Vì vậy, trong thực hành SX,
kinh doanh cần phải chú ý, để có thể giảm hao phí LĐ cá biệt, cần phải thực hiện các biện pháp để
góp phần tăng NSLĐ.
+ Năng suất lao động phụ thuộc vào: trình độ khéo léo trung bình của người lao động; mức độ
phát triển khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất; sự kết hợp xã hội
của quá trình sản xuất; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
+ Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị
hàng hóa. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động trong sản
xuất. Tăng cường độ LĐ là tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động LĐ. Vì vậy, khi cường
độ lao
động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng
sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì
không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến cường độ LĐ: sức khỏe, thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề thành
thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động...
+ Nếu Tăng CĐLĐ quá mức dẫn đến sức khỏe người lao động giảm, làm cho NSLĐ giảm thì
lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa tăng lên. Nếu thời gian LĐCB tăng thì cần có CĐLĐ hợp lý cho
người lao động. Việc tăng CĐLĐ cũng có ý nghĩa như tái SX mở rộng theo chiều rộng và cũng có ý
nghĩa nhất định trong những điều kiện nhất định.
Hai là: Tính chất phức tạp của lao động:
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo
mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
- Lao động giản đơn là LĐ chưa qua đào tạo, là LĐ không đòi hỏi có quá trình đào tạo một
cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
- Lao động phức tạp là LĐ qua đào tạo, là những hoạt động LĐ yêu cầu phải trải qua 1 quá
trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá
trị hơn so với lao động giản đơn. C.Mác gọi Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp
bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa
do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao
động giản đơn trung bình. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để cả nhà quản trị và người LĐ tính toán,
xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động LĐ trong quá trình tham gia vào các
hoạt động kinh tế XH.
* Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề
Trong hoạt động thực tiễn trên thị trường các chủ thể cạnh tranh rất gay gắt với nhau, lợi thế
luôn thuộc về người SX có năng suất LĐ cao nhất tức chi phí SX thấp nhất, ngược lại họ sẽ gặp bất
lợi và có nguy cơ phá sản. Vì thế cạnh tranh để tăng NSLĐ, giảm chi phí LĐ có ý nghĩa sống còn
của doanh nghiệp, do vậy các yếu tố tác động tới NSLĐ được đặc biệt quan tâm ứng dụng. Cụ thể
như:
- Chủ doanh nghiệp không ngừng ứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý hóa sản xuất nhằm
tăng năng suất lao động. Bên cạnh đó nâng cao quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất có ảnh
hưởng rất lớn đến năng suất lao động.
- Đẩy mạnh giáo dục đào tạo nhằm hình thành một đội ngũ lao động có trình độ chất xám cao
(lao động phức tạp), tạo cơ sở cho tăng năng suất lao động.
- Nâng cao trình độ quản lí cũng là một trong những biện pháp quan trọng trong việc nâng cao
năng suất lao động. Hiệu quả trong quản lí người lao động, trong việc tổ chức sản xuất, quản lí
doanh nghiệp cùng với việc quảng bá sản phẩm, marketing sẽ đem lại hiệu quả lớn trong việc cạnh
tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc chuyển
đổi số doanh nghiệp là một việc làm rất cần thiết để các doanh nghiệp không bị tụt lại phía sau.
Câu 3. Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị
trường. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này.
* Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất của sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và ảnh hưởng của quy luật giá trị.
* Nội dung quy luật giá trị: sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết.
* Yêu cầu của quy luật giá trị:
- Trong sản xuất: Trong nền sản xuất hàng hóa, mỗi nhà sản xuất có điều kiện sản xuất khác
nhau do vậy mà hao phí lao động cá biệt cũng rất khác nhau nhưng khi trao đổi hàng hóa phải căn
cứ vào hao phí lao động xã hội. Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
được tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Do vậy theo yêu cầu của quy luật
giá trị, người sản xuất muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi thì phải hạ
được hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong trao đổi: Phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị hàng hóa làm cơ sở,
không dựa trên giá trị cá biệt. Nếu bán cao hơn giá trị thì hàng hóa không bán được, không thu hồi
được vốn. Ngược lại nếu bán thấp hơn giá trị thì sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản.
+ Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Lấy giá trị làm
cơ sở, hàng hoá có giá trị cao thì giá cả cao và ngược lại. Bên cạnh đó giá cả còn phụ thuộc vào các
nhân tố khác (cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền). Sự vận động giá cả thị trường của
hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
* Tác động của quy luật giá trị:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
- Trong sản xuất, thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường dưới tác động của quy luật
cung - cầu mà người SX sẽ điều hòa, phân bổ các yếu tố SX giữa các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế. Cụ thể: Thông qua sự biến động của giá cả, người SX sẽ biết được tình hình cung cầu của
hàng hóa đó và quyết định phương án SX. Nếu giá cả hàng hóa bằng hoặc lớn hơn giá trị thì việc
sản xuất nên được tiếp tục mở rộng, theo đó, tư liệu SX và sức LĐ sẽ được tự phát dịch chuyển vào
ngành đang có giá cả cao và ngược lại.
- Trong lưu thông, Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ sự
biến động của giá cả thị trường thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao
hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng, đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nhằm tăng năng suất lao động
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự
quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, họ phải hạ
thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ và tổ chức sản xuất hợp lý
nhằm tăng năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các
quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn
đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng
giảm xuống.
Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một cách
tự nhiên
- Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị sẽ dẫn đến kết quả: những người sản xuất nhạy bén với
thị trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã
hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém,
trình độ công nghệ lạc hậu... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và dễ lâm vào tình trạng thua
lỗ, dẫn đến phá sản, thậm chí phải đi làm thuê.

* Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật giá trị: Quy luật giá trị buộc các chủ thể
kinh doanh phải nhạy bén với thị trường, phân bổ các nguồn lực của XH hiệu quả,…nhờ đó thúc
đẩy lực lượng SX phát triển, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế một cách linh hoạt, đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của XH. Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường, HH kém chất lượng, gia tăng khoảng cách về thu nhập, phân hóa XH,…Vì vậy,
rất cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước để khắc phục những hạn chế này. Bên cạnh đó, cần
nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay. Từ đó, vận dụng tốt cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò tích cực của quy luật giá trị và hạn chế mặt
tiêu cực của nó để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Câu 4. So sánh hai thuộc tính của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động. Vì
sao trong cơ cấu giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư liệu sinh
hoạt cần thiết để nuôi con của người lao động?
1. Hàng hóa, hàng hóa sức lao động
- Hàng hóa là sản phẩm lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao
đổi, mua bán. Hàng hóa có 2 thuộc tính cơ bản là GTSD của hàng hóa và GT của hàng hóa.
+ GTSD: GTSD của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người. Giá trị sử dụng của hàng hoá là một phạm trù vĩnh viễn vì nó do thuộc tính tự nhiên
của vật thể hàng hoá quyết định. Trong mỗi hàng hóa có thể có 1 hay nhiều giá trị sử dụng, số lượng
giá trị sử dụng của một vật được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển khoa học - kỹ thuật.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, là nội dung vật chất của của cải,
không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.
+ GT: Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy, sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất kết
tinh trong nó thì không có giá trị. Sản phẩm nào có lao động hao phí để sản xuất càng nhiều thì giá
trị càng cao. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vật phẩm, để trao đổi giữa chúng với
nhau. Giá trị hàng hoá là biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, cụ thể là mối quan hệ giữa những người
sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, là thuộc
tính xã hội của hàng hoá.
- Hàng hóa sức lao động:
+Sức lao động là là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể 1 con
người đang sống và được người đó đem ra vận dụng trong quá trình lao động. Trong bất kỳ xã hội
nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình lao động sản xuất nhưng sức lao động
chỉ trở thành hàng hoá với hai điều kiện sau: Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể,
làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức sức lao động của mình như một hàng hóa;
Thứ hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với s ức lao động
tạo ra hàng hóa.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nh ưng
trước CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa s ức lao động
mới xuất hiện và trở thành phố biến.
Hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính là Giá trị và Giá trị sử dụng:
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã h ội c ần thi ết để s ản xu ất
và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Xét về cấu thành, giá trị sức lao động được xác định bằng
giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái s ản xu ất ra s ức lao động c ủa
người lao động.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khả năng thực hiện 1 loại lao động cụ thể
nào đó và được thể hiện ra trong quá trình lao động. Giá trị sử dụng của slđ phải phù hợp với yêu
cầu của người sử dụng slđ. Giá trị sd hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt mà không hàng
hóa thông thường nào có được đó là trong khi sử dụng nó không những giá trị của nó được bảo tồn
mà còn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn.
2. So sánh hai thuộc tính của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động
* Khác nhau:
- Về mặt giá trị: Giá trị của hàng hóa thông thường là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá
kết tinh trong hàng hoá. Chất của giá trị hàng hóa là lao động, vì vậy, sản phẩm nào không có lao
động của người sản xuất kết tinh trong nó thì không có giá trị. Song giá trị của hàng hoá slđ bao
gồm cả yếu tố tinh thần, vật chất và phụ thuộc vào đk lịch sử, đk sản xuất của mỗi quốc gia…nghĩa
là ngoài những nhu cầu về vật chất,người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa…
Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kì, đồng thời nó còn
phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó. Bên cạnh đó, giá trị slđ có xu hướng ko cố
định: tăng lên khi nhu cầu trung bình về hàng hoá, dịch vụ của con người tăng và yêu cầu kỹ thuật
lao động tăng; Giảm khi năng suất lao động xh tăng làm giảm giá trị hàng hoá tiêu dùng.
- Về mặt giá trị sử dụng: Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng
thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Đối với hàng hoá sức lao
động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá
trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính
là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
có chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức nó có thể tao ra giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ
chuyển hóa thành tư bản.
3. Vì sao trong cơ cấu giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi con của người lao động?
Trong cơ cấu lượng giá trị hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết để nuôi dưỡng con cái người lao động vì giá trị hàng hóa sức lao động được hợp thành từ:
- Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho bản thân người lao động
- Những phí tổn đào tạo người lao động để họ có được trình độ lành nghề thích hợp
- Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người lao động
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức lao động mà người sử
dụng lao động (nhà nước, chủ doanh nghiệp) phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo
các quy luật của thị trường sức lao động và pháp luật của nhà nước. Do đó, cơ sở của tiền lương là
giá trị sức lao động. Với tư cách là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, một bộ phận của
tiền lương phải bảo đảm nuôi con cái người lao động. Bởi vì, tái sản xuất sức lao động không chỉ về
chất lượng mà còn về số lượng. Con cái người lao động chính là lực lượng thay thế và bổ sung cho
thị trường sức lao động. Quy mô một gia đình Việt Nam hiện nay trung bình có hai con, nên mỗi
người lao động phải bảo đảm nuôi được ít nhất một con.
=>Vì Vậy để đảm bảo và duy trì nguồn HH sức lđ thì giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi
dưỡng con cái người lđ là việc tất yếu mà mỗi lao động cần có để tái sản xuất sức lao động vì đây là
nguồn hàng hóa đặc biệt và thiết yếu để tạo ra giá trị thặng dư của nguồn kinh tế.

Câu 5. Phân tích quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Căn cứ và ý nghĩa phân
chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động?
1. Quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản
1.1. Tuần hoàn tư bản
- Khái niệm tuần hoàn của tư bản: Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản lần
lượt trải qua 3 giai đoạn dưới 3 hình thái kế tiếp nhau (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng
hóa) gắn với thực hiện những chức năng tương ứng để rồi quay trở lại hình thái ban đầu cùng với
giá trị thặng dư.
- Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn lưu thông: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với các yếu tố
sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, chức năng của giai đoạn này là mua các yếu tố cho
quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai là giai đoạn sản xuất: Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư
bản sản xuất, thực hiện kết hợp hai yếu tố là tư liệu sản xuất và sức lao động đề sản xuất ra hàng hóa
và tạo ra giá trị thặng dư, giai đoạn này được xem là giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn
trực tiếp với mục đích của nền sản xuất TBCN. Kết thúc giai đoạn này là tư bản sản xuất chuyển
hóa thành tư bản hàng hóa.
- Giai đoạn thứ ba là giai đoạn lưu thông: Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư
bản hàng hóa, chức năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất và tạo ra giá trị
thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng, hàng hóa
của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa chuyển thành
tư bản tiền tệ. Như vậy, mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban
đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước, dưới hình thái tiền tệ và có kèm theo
giá trị thặng dư. Quá trình này lặp lại không ngừng tạo nên sự vận động tuần hoàn của tư bản, là sự
vận động liên tục không ngừng.
* Chu chuyển của tư bản
 Khái niệm: Chu chuyển của tư bản là tuần hoàn của tư bản được xét với tư cách là quá trình
định kỳ, thường xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian. Chu chuyển tư bản được đo lường
bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu chuyển tư bản.
*Thời gian chu chuyển là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thái nhất định cho
đếnkhi quay trở về dưới hình thái đó có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển của tư bản
bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
+ Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự
trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân tố như: tính
chất, quy mô ngành sản xuất, chất lượng sản phẩm, tác động của tự nhiên, năng suất và tình trạng dự
trữ của các yếu tố sản xuất.
+ Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu
thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản
xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời
gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc các nhân tố sau đây: thị trường xa hay gần, tình hình thị
trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.
Như vậy, thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
*Tốc độ chu chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay
trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong 1 đơn vị thời gian nhất định. Thông
thường tốc độ chu chuyển được tính bằng số vòng chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta có
công thức số vòng chu chuyển của tư bản như sau: n=CH/ch
Trong đó: n là số vòng chu chuyển tư bản
CH là thời gian của một năm
ch là thời gian của một vòng chu chuyển
Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.
Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và lưu thông của nó.
Căn cứ để phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động:
Căn cứ vào phương thức chu chuyển, người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư
bản lưu động.
- Tư bản cố định là 1 bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động (máy
móc, thiết bị, nhà xưởng,...) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không
chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong quá
trình sản xuất. Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao mòn
dần trong quá trình sản xuất. Có hai lại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình: Hao
mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy; hao mòn vô hình là sự
hao mòn thuần túy về mặt giá trị.
- Tư bản lưu động là một bộ phân tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ, sức lao động,… mà giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại
toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động:
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất, căn cứ
vào tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân chia tư bản cố định và tư bản lưu
thông thật sự chưa làm rõ bản chất bóc lột của tư bản nhưng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của
doanh nghiệp trong việc bảo tồn và tái sản xuất tư bản cố định và lưu động, xác định đúng những
chi phí hình thành sản phẩm hàng hóa. Nó là cơ sở để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, đặc biệt
với sự phát triển khoa học công nghệ hiện nay đặt ra đòi hỏi bức xúc trong quản lý sản xuất kinh
doanh sao cho giảm tối đa hao mòn của vốn cố định.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao
tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do tự
nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh, nâng cao
hiệu quả sử dụng tư bản.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ
làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước;
mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư
và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản lưu
động sẽ góp phần tăng hiệu quả sử dụng của vốn tư bản, tiết kiệm tư bản ứng trước, đồng thời tăng
tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Câu 6. Phân tích đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tại sao thành phần kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo?

1. Phân tích đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Sở hữu được hiểu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của quá
trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định.
- Sở hửu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý :
+ Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện của sản xuất, là lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu
được thụ hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu. Về mặt này, sở hữu là cơ sở để các chủ thể thực hiện
lợi ích từ đối tượng sở hữu, không xác lập quan hệ sở hữu sẽ không có cơ sở để thực hiện lợi ích
kinh tế.Vì vậy, khi có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu, địa vị của các chủ thể
sở hữu sẽ thay đổi trong đời sống xã hội hiện thực.
+ Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn
hay nghĩa vụ của chủ thể sở hữu. Trong trường hợp này, sở hữu luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu
khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý nhà nước với quá trình phát triển nói chung. Vì vậy, về
mặt pháp lý, sở hữu giả định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật pháp.Khi đó, những lợi ích kinh tế
mà chủ thể sở hữu được thụ hưởng sẽ không bị các chủ thể khác phản đối. Khi đó việc thụ hưởng
được coi là chính đáng và hợp pháp.
- Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là chế độ
công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công
hữu và tư hữu. Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại nhiều
hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo
pháp luật. Đây không chỉ là điểm khác biệt cơ bản với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà
còn phản ánh nhận thức mới về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để đi lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần
trong đó kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển kinh tế.

2. Tại sao thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?
Nói đến vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của một bộ phận kinh tế nào đó tức là nói đến tầm
quan trọng của nó và tính chất quyết định của nó đối với một chế độ xã hội. Bộ phận kinh tế chủ đạo
đó phải chi phối và dẫn dắt các bộ phận kinh tế khác cùng phát triển. Như vậy, việc Đảng ta xác
định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” là đúng đắn, cần thiết, phù hợp với quy luật phát triển.
Về mặt kinh tế, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu (sở hữu Nhà nước) về tư liệu sản xuất,
là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hóa của lực lượng sản xuất. Thành phần kinh tế nhà
nước không chỉ bao gồm doanh nghiệp nhà nước mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau
các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước. Nó bao hàm khả năng tổ chức và hoạch
định chính sách đúng đắn của Nhà nước, sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài
chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Với sức mạnh kinh tế tổng hợp đó,
thành phần kinh tế nhà nước có khả năng tạo ra các điều kiện vật chất và các tiền đề kinh tế-xã hội
để phát triển tất cả các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế bằng cách giữ vị trí then chốt, yết
hầu, và xương sống của nó, do đó có khả năng chi phối, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ và liên kết các
thành phần kinh tế khác để bảo đảm sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Nó còn đảm nhận các lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, đòi hỏi vốn đầu tư
lớn vượt quá khả năng của tư nhân. Kinh tế nhà nước tham gia vào các lĩnh vực khoa học, công
nghệ mũi nhọn và có hệ số rủi ro cao.
Về mặt chính trị, kinh tế nhà nước là "hòn đá thử vàng" để đánh giá sự đúng đắn hay sai lệch của
chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. Với tư cách là một nhà nước xã hội chủ nghĩa,
công nông và của những người lao động, việc khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và
phát triển thành phần này trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân là rất cần thiết để
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu kinh tế nhà nước không được củng cố và tăng cường,
thì không thể đạt được chủ nghĩa xã hội. Nếu kinh tế nhà nước không thực hiện tốt vai trò chủ đạo
của mình, thì không thể đạt được định hướng xã hội chủ nghĩa và đường đi lên chủ nghĩa xã hội
cũng sẽ không được đảm bảo.
Về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, nên thành phần kinh tế nhà nước
gánh vác chức năng và vai trò xã hội to lớn. Đối với bộ phận phi doanh nghiệp (ngân sách, dự trữ
quốc gia...) thì đương nhiên, bên cạnh chức năng kinh tế, chính trị, còn có cả chức năng xã hội. Đó
là điều không cần phải bàn. Đối với bộ phận “doanh nghiệp” trong thành phần kinh tế nhà nước,
hoạt động theo nguyên tắc thị trường cũng đảm nhận những vai trò xã hội lớn. Điều này thể hiện ở
chỗ, các doanh nghiệp này phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính
trị-xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo
vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu. Đó là những “người lính đi
đầu” trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo và
tụt hậu. Ngay cả những người phản biện nghiêm khắc nhất đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng
không thể phủ nhận được thực tế đó.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo đúng đắn và cần thiết trên cả ba khía cạnh kinh tế, chính trị và xã
hội. kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước có thể định hướng và điều tiết
nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Những điều trên đã được Đại hội Đảng lần
thứ IX khẳng định: "KTNN phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan
trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí
then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu
quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật"
Câu 7. Cách mạng công nghiệp là gì? Nêu đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần
thứ tư và vai trò của cách mạng 4.0 đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam?

- Cách mạng công nghiệp:


+ Cách mạng công nghiệp trong tiếng Anh là Industrial Revolution là cuộc cách mạng trong lĩnh
vực sản xuất, là sự thay thế lao động thủ công (còn gọi là lao động tay chân) của con người bằng lao
động máy móc, chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang nền sản xuất cơ khí .
+ Việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc; nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao
động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn chính là ý nghĩa lớn
nhất của cách mạng công nghiệp.
+ Cách mạng công nghiệp diễn ra đầu tiên ở Anh vào những năm 60 của thế kỉ 18 bắt đầu từ những
phát minh máy móc trong ngành dệt, sau đó lan sang các nước khác như Mỹ, Pháp, Đức,...
+ Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi cơ bản điều kiện về: Kinh tế - xã hội, Văn hóa, và
Khoa học kĩ thuật của xã hội loài người.
 Cuộc CMCN lần thứ 4.0:
+ Khái quát: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh
vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động
sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới.Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0)
được đề cập lần đầu tiên tại Hội chợ triển lãm công nghệ Hannover (Đức), năm 2011, sau đó được
Chính phủ Đức đưa vào “Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao” năm 2012, sau đó nhiều
nước khác như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Pháp…cũng đã công nhận cuộc cách mạng này.

- Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Có thể khái quát bốn đặc trưng chính
của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như sau:
+ Một là, Sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối
internet vạn vật là nền tảng thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất
thông minh.
+ Hai là, Sử dụng công nghệ in 3D để sản xuất sản phẩm một cách hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các
dây chuyền sản xuất không phải qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ - công nghệ này cũng cho
phép con người có thể in ra sản phẩm mới bằng những phương pháp phi truyền thống, bỏ qua các
khâu trung gian và giảm chi phí sản xuất nhiều nhất có thể. 
+ Ba là, công nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu
hết các lĩnh vực.
+ Bốn là, trí tuệ nhân tạo và điều khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa, không giới hạn về
không gian, thời gian, tương tác nhanh hơn và chính xác hơn.
- Vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam:
Trước tình hình thực tiễn, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang lại những cơ hội và thách thức
tác động đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời gian tới. Cụ thể:
+ Về cơ hội:
Một là, trên phương diện vĩ mô, cách mạng công nghiệp 4.0 góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất
lao động và tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Hai là, ở phương diện vi mô, cách mạng công nghiệp 4.0 đưa đến việc nhận thức lại một số giá trị,
định hình lại các ngành công nghiệp, dịch vụ… mở ra những “khoảng trống”, “kẽ hở” và “không
gian” mới trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Và do đó, tạo điều kiện và mở ra các cơ hội cho các
doanh nghiệp Việt Nam vừa “xếp hàng” vừa “chen lấn” và “lấn sân” vào các chuỗi giá trị toàn cầu
của các ngành công nghiệp, dịch vụ mới.
Ba là, cách mạng công nghiệp 4.0 làm sâu sắc hơn quá trình toàn cầu hóa và cùng với toàn cầu hóa
tác động, thúc đẩy sự biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực kinh tế. Đó cũng là
cơ hội để Việt Nam đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, phát triển và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra điều kiện và cơ hội để mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tập
thể tổ chức cuộc sống, làm việc, học tập, sinh hoạt, giải trí tốt hơn và ngày càng có chất lượng hơn.
+ Về thách thức:
Thứ nhất, khó khăn và thách thức lớn nhất là: nếu Việt Nam chậm chạp trong việc chuẩn bị các điều
kiện cần thiết (vật chất, tinh thần, cơ chế, chính sách, nhân lực…) để tiếp thu và ứng dụng ngay
công nghệ mới của cách mạng công nghiệp 4.0, thì Việt Nam có thể “lỡ hẹn” với cơ hội mà cách
mạng công nghiệp 4.0 mang lại; và điều này dẫn đến tụt hậu không chỉ xa hơn về kinh tế, mà còn tụt
hậu cả về khoa học – công nghệ, tiềm lực an ninh, quốc phòng và chủ quyền số so với các nước phát
triển trong khu vực và thế giới.
– Thứ hai, sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 là khách quan và tất yếu (kể cả trong trường
hợp Việt Nam chưa chuẩn bị được các điều kiện cần thiết để chủ động tiếp thu và ứng dụng công
nghệ mới), vì vậy, trong một không gian và thời gian nhất định, ở Việt Nam sẽ diễn ra tình
trạng thất nghiệp (do lao động máy móc thay cho lao động con người), sự gia tăng nghèo đói và nới
rộng khoảng cách giàu nghèo.
– Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 tác động, tạo khó khăn trong việc tuyển dụng nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu công việc; có thể tạo ra sự phá sản của một số công ty do không cạnh
tranh nổi trên thị trường (công nghệ, nhân lực…).
– Thứ tư, cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự giao tiếp trên Internet đặt ra thách thức về bảo mật
thông tin cho cá nhân con người và cả hệ thống cộng đồng xã hội; đặc biệt là vấn đề bảo mật kinh
tế, chính trị quốc gia.

Câu 8. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Là sinh viên, anh/chị hãy cho biết bản thân nên làm gì
để góp phần phát huy tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế?

1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế


Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh
tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực
quốc tế chung.
Hội nhập kinh tế là xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và là phương thức
phát triển phổ biến của các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.

2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam
a. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
 Tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp, thương mại,
các ngành dịch vụ,...
 Thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích
cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
 Thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và mở rộng quan hệ hợp tác phát
triển (ODA).
 Tạo thêm việc làm, tác động tích cực tới tiền lương và thu nhập của mọi tầng lớp cư dân,
tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh (quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm).
 Tiếp thu được khoa học-công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực, đào
tạo cho Việt Nam đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.
 Góp phần hoàn thiện thể chế trong nước trên góc độ pháp luật và tổ chức bộ máy, cùng với
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
 Thúc đẩy cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hoàn thiện môi trường
kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế dài hạn, tạo ra môi trường kinh
doanh bình đẳng, minh bạch, dễ dự đoán, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
 Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực,
chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực.
b. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi
và thách thức, đó là:
 Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và
ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi
về mặt kinh tế - xã hội.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị
trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính
trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các
nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và
bất bình đẳng xã hội.
 Các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự
nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ
trở thành bãi rác công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy
hoại môi trường ở mức độ cao.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ
quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an
toàn xã hội.
 Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam bị
xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
 Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội
phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…

3. Liên hệ bản thân

You might also like