Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

BỘ TƯ PHÁP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH NỮ QUỲNH NGA


453328

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN MÔN

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY


HÔN TẠI TÒA ÁN
(CHUYÊN ĐỀ THUỘC BỘ MÔN: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH)

CƠ SỞ THỰC TẬP: TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

HÀ NỘI - 2023
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là báo cáo thực tập do tôi thực hiện trong
thời gian thực tập tại cơ quan tiếp nhận thực tập. Các nội dung
trong báo cáo là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./.

Xác nhận của Cán bộ Tác giả báo cáo thực tập
hướng dẫn thực tập (Ký và ghi rõ họ tên)
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................... i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................................ii
MỤC LỤC................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN...........................................................................2
1.1. Khái niệm ly hôn................................................................................................2
1.2. Các trường hợp ly hôn......................................................................................3
1.2.1. Trường hợp thuận tình ly hôn.....................................................................3
1.2.1.1. Khái niệm thuận tình ly hôn....................................................................3
1.2.1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn..................................3
1.2.1.3. Một số quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn tại toà án.......................................................................................................4
1.2.2. Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên.............................................4
1.2.2.1. Khái niệm ly hôn theo yêu cầu của một bên............................................4
1.2.1.2. Đặc điểm thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên.................4
1.2.2.3. Một số quy định về thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên
tại Toà án............................................................................................................. 5
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI
TAND, NHỮNG BẤT CẬP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ...........................................5
2.1. Khái quát sơ lược về Tòa án nhân dân tối cao................................................5
2.2. Tình hình ly hôn trên cả nước và những kết quả đạt được trong giải quyết
yêu cầu ly hôn tại tòa án nhân dân..........................................................................6
2.3. Thực tiễn giải quyết yêu cầu ly hôn tại Tòa án nhân dân...............................8
2.3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật........................................................................8
2.3.2. Một số vấn đề bất cập, khó khăn khi thực hiện giải quyết ly hôn tại Tòa
án nhân dân...........................................................................................................8
2.4. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết ly hôn tại toà án nhân dân 13
2.4.1. Những kiến nghị về mặt lập pháp..............................................................13
2.4.2. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật..........................15
KẾT LUẬN................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................17
PHỤ LỤC 1................................................................................................................18
MỞ ĐẦU

1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN

1.1. Khái niệm ly hôn

Hôn nhân là sợi dây kết nối giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên
nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung
sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bền
vững. Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời
con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy
nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có
những bất đồng, không thể hòa hợp trong cuộc sống hàng ngày hay thậm chí là mâu
thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt
ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình.
Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ
hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ. Ly hôn là quá
trình phá vỡ và chấm dứt cuộc hôn nhân giữa hai người. Đây là quyết định pháp lý mà
một tòa án có thẩm quyền hoặc cơ quan tương tự phải ra để cho phép hai bên chia tay
và không còn nghĩa vụ hôn nhân với nhau. Quá trình ly hôn thường liên quan đến việc
xác định sự phân chia tài sản, quyền nuôi con cái, chăm sóc và hỗ trợ tài chính sau khi
ly hôn. 
Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Ly hôn là việc chấm
dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.”
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án. Trong quan hệ pháp luật hôn nhân, nếu việc kết hôn làm phát
sinh quan hệ này thì ly hôn làm chấm dứt quan hệ đó. Nếu như việc kết hôn đòi hỏi
phải tuân theo pháp luật mới có giá trị pháp lý, thì việc ly hôn cũng vậy, phải có bản
án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án mới làm chấm dứt quan hệ vợ
chồng về pháp lý.
Tình trạng ly hôn xuất phát từ việc tình cảm giữa đôi nam nữ không còn do nhiều
nguyên nhân, khi ở tình trạng đôi bên không còn tự nguyện chung sống, gắn bó, yêu
thương nhau và có nhu cầu giải thoát (chấm dứt) khỏi cuộc hôn nhân. Xuất phát từ
việc tôn trọng nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, Luật đã ghi nhận quyền ly hôn
của đôi nam, nữ đã kết hôn. Cụ thể là vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết ly hôn. Điều này có nghĩa là việc ly hôn có thể do một bên đơn
phương yêu cầu ly hôn và cũng có thể cả hai bên cùng thống nhất việc ly hôn.

2
1.2. Các trường hợp ly hôn

1.2.1. Trường hợp thuận tình ly hôn

1.2.1.1. Khái niệm thuận tình ly hôn

Khái niệm "thuận tình ly hôn" (hay còn được gọi là "ly hôn theo đúng pháp luật")
ám chỉ một tình huống trong đó cả hai bên trong một mối quan hệ hôn nhân đều đồng
tình và chấp nhận việc ly hôn một cách hòa bình, thường thông qua thỏa thuận và thực
hiện theo quy định của pháp luật.
Điều này thường được coi là tốt đẹp vì nó có thể giảm thiểu mất mát tinh thần và
căng thẳng cho cả hai bên và cả gia đình, và thường dẫn đến quá trình ly hôn suôn sẻ
hơn mà không cần phải qua nhiều tranh chấp, đòi hỏi thời gian và tài nguyên lớn.
Trong trường hợp "thuận tình ly hôn," cả hai bên thường cùng nhau thảo luận và
thỏa thuận về việc phân chia tài sản, chăm sóc con cái (nếu có), và các yếu tố khác liên
quan đến việc kết thúc mối quan hệ hôn nhân một cách hòa bình. Qua đó, họ có thể đạt
được sự thoả thuận dựa trên tôn trọng và hợp tác thay vì bất đồng và xung đột.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải mọi tình huống ly hôn đều có thể đạt được
"thuận tình ly hôn." Có những tình huống mà một trong hai bên không đồng tình hoặc
có xung đột lớn về các vấn đề quan trọng như tài sản, quyền nuôi con cái, hoặc vấn đề
khác. Trong những trường hợp này, quá trình ly hôn có thể trở nên phức tạp và kéo dài
hơn.

1.2.1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn

Thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn có một số đặc điểm quan trọng, nhằm đảm
bảo việc chấm dứt mối quan hệ hôn nhân một cách hòa bình và tôn trọng quyền lợi của
cả hai bên. Dưới đây là một số đặc điểm chính của thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn:
Thứ nhất, thỏa thuận và hợp tác: Trong thủ tục này, cả hai bên đều tham gia và
thỏa thuận về việc ly hôn và các điều kiện kèm theo, chẳng hạn như phân chia tài sản,
chăm sóc con cái, hỗ trợ tài chính, và các vấn đề khác. Thỏa thuận này thường đạt
được thông qua đàm phán thông qua đàm phán và lắng nghe quan điểm của nhau,
được thực hiện bằng văn bản và được xem xét kỹ lưỡng trước khi tiến hành thủ tục ly
hôn chính thức.
Thứ hai, tôn trọng quyền lợi của cả hai bên: Thủ tục này nhấn mạnh tôn trọng
quyền lợi và mong muốn của cả hai bên. Mục tiêu là đảm bảo rằng cả hai bên đều thỏa
thuận với các điều kiện hợp lý, cùng nhau xem xét lợi ích của con cái (nếu có) và hòa
giải các tranh chấp có thể phát sinh.

3
Thứ ba, Pháp lý và hợp đồng: Thỏa thuận giữa hai bên thường được tạo thành
bằng văn bản và có thể được xem xét bởi luật sư hoặc chuyên gia pháp lý để đảm bảo
tính pháp lý và đảm bảo rằng không có vấn đề pháp lý sau này. Thỏa thuận này có thể
được gọi là "hợp đồng ly hôn" và thường cần phải được đệ trình tới cơ quan tòa án để
được công nhận và có hiệu lực.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả thời gian và tài chính: Vì hai bên đều đồng tình và
tham gia tích cực trong thủ tục, điều này thường dẫn đến giảm thiểu thời gian và chi
phí so với những trường hợp ly hôn mà có sự tranh chấp lớn.
Thứ năm, giữ lại mối quan hệ tốt: Thủ tục này thường giúp giữ lại mối quan hệ
tốt giữa hai bên sau khi chấm dứt hôn nhân. Điều này quan trọng đặc biệt khi có con
cái, vì việc hòa giải và giữ lại mối quan hệ tốt có thể tạo điều kiện tốt cho con cái phát
triển trong một môi trường hòa thuận.
Tóm lại, thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn có những đặc điểm tích cực về việc
tạo ra một quá trình ly hôn êm đẹp và hợp tác giữa hai bên, đồng thời giảm thiểu căng
thẳng và tạo điều kiện tốt cho tương lai.

1.2.1.3. Một số quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn tại toà án

1.2.2. Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên

1.2.2.1. Khái niệm ly hôn theo yêu cầu của một bên

Ly hôn theo yêu cầu của một bên, còn được gọi là ly hôn không đồng thuận hoặc
ly hôn theo một chiều, là tình huống khi một trong hai bên trong mối quan hệ hôn nhân
muốn chấm dứt mối quan hệ này mà không cần sự đồng thuận của bên còn lại. Điều
này tương phản với việc ly hôn thuận tình, trong đó cả hai bên đều đồng tình với quyết
định ly hôn và thường thỏa thuận về các điều kiện kèm theo.

1.2.1.2. Đặc điểm thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên

Thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên thường có một số đặc điểm
quan trọng do tính chất không đồng thuận giữa hai bên. Dưới đây là một số đặc điểm
phổ biến của thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên:
Thứ nhất, thủ tục pháp lý chặt chẽ: Người yêu cầu ly hôn thường phải tuân theo
quy định pháp luật của quốc gia về việc nộp đơn ly hôn và tuân thủ các yêu cầu pháp
lý khác. Điều này bao gồm việc xác định lý do hợp lệ cho ly hôn và điền đầy đủ các
biểu mẫu và thông tin cần thiết.

4
Thứ hai, có thể gây tranh chấp: Thủ tục này thường có khả năng gây ra tranh
chấp lớn giữa hai bên. Bên kia có thể không đồng tình với quyết định ly hôn và có thể
tham gia vào các vụ tranh chấp về tài sản, chăm sóc con cái, quyền thăm con cái, hoặc
các vấn đề khác liên quan đến việc chấm dứt mối quan hệ hôn nhân.
Thứ ba, về yếu tố tâm lý: Thủ tục ly hôn theo yêu cầu của một bên thường gây ra
căng thẳng tâm lý cho cả hai bên, đặc biệt đối với bên bị yêu cầu ly hôn. Sự bất đồng
quan điểm và xung đột có thể tạo ra mối lo lắng, sự thất vọng, và mất niềm tin trong
mối quan hệ.
Thứ tư, tác động tới tài sản và tài chính: Việc ly hôn có thể kéo theo các vấn đề
liên quan đến phân chia tài sản và nợ nần chung. Bên yêu cầu ly hôn có thể yêu cầu
một phần tài sản hoặc yêu cầu quyền hỗ trợ tài chính từ bên kia.
Thứ năm, về thời gian và chi phí: Thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một
bên thường kéo dài thời gian hơn và tốn kém hơn so với ly hôn thuận tình, đặc biệt nếu
có tranh chấp phức tạp. Các vụ tranh tụng tốn kém thời gian và tài chính hơn.
Tóm lại, thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên có thể phức tạp và
đầy thách thức do tính không đồng thuận giữa các bên. Cần có sự chú ý đến các yếu tố
pháp lý, tâm lý, tài chính, và khả năng gây ra tranh chấp trong quá trình này.

1.2.2.3. Một số quy định về thủ tục giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên tại
Toà án

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG


HỢP LY HÔN TẠI TAND, NHỮNG BẤT CẬP VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ

2.1. Khái quát sơ lược về Tòa án nhân dân tối cao 

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các
Tòa án khác do luật định. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa
án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội
phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Tòa án nhân dân tối cao tọa lạc tại số 48 phố Lý Thường Kiệt phường Trần Hưng
Đạo quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội. Căn cứ theo quy định tại Điều 20 Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân 2014, Tòa án nhân dân tối cao có các nhiệm vụ bao gồm giám
5
đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị theo quy định của luật tố tụng; giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ
trường hợp do luật định; tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử; đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức
danh khác của Tòa án nhân dân; quản lý các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự về tổ
chức theo quy định Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 và các luật có liên quan, bảo
đảm độc lập giữa các Tòa án; trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết; trình Ủy
ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo quy định của luật.
Tòa án Nhân dân Tối cao nắm giữ nguyên tắc độc lập và công bằng. Nó không
phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan chính trị nào, đảm bảo tách biệt giữa quyền lực lập pháp,
thực thi, và tư pháp. Sự độc lập này giúp bảo vệ quyền lợi của công dân và đảm bảo
luật pháp được thực hiện một cách công bằng. Tòa án Nhân dân Tối cao thường giám
sát và kiểm tra hoạt động của các cơ quan tư pháp khác, đảm bảo sự thực hiện chính
xác và công bằng của luật pháp. Điều này giúp duy trì sự tin tưởng của công chúng
vào hệ thống tư pháp. Tòa án Nhân dân Tối cao ở một quốc gia đóng vai trò rất quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân, duy trì sự công bằng, và đảm bảo việc
thực thi luật pháp. Hiện nay, về cơ cấu tổ chức, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao: gồm Chánh án, 4 Phó Chánh án và 10 Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao do
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án Nhân dân
Tối cao.

2.2. Tình hình ly hôn trên cả nước và những kết quả đạt được trong giải
quyết yêu cầu ly hôn tại tòa án nhân dân

Hiện nay, tình hình ly hôn ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo thời gian và ảnh
hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau, như văn hóa, kinh tế, xã hội, và pháp luật. Nhìn
chung, số vụ ly hôn tăng nhanh qua từng năm, thời gian từ kết hôn đến ly hôn ngắn
phần nào cho thấy tính bền vững trong hôn nhân của các gia đình Việt trẻ đang ngày
càng thấp. Nhiều yếu tố góp phần vào sự gia tăng này, bao gồm tăng đáng kể trong
nhận thức về quyền tự do cá nhân, sự thay đổi trong giá trị gia đình, và áp lực từ môi
trường xã hội.
Trong một số cộng đồng ở Việt Nam, tư duy về hôn nhân đã thay đổi. Ngày càng
nhiều người coi hôn nhân là mối quan hệ dựa trên sự hiểu biết, tôn trọng, và tình cảm,
và khi mối quan hệ này không còn hài hòa, họ sẵn sàng tìm đến ly hôn. Bên cạnh đó,
sự phát triển kinh tế và tăng trưởng của nền giáo dục đã giúp nhiều phụ nữ và đôi khi
cả nam giới trở nên độc lập hơn về tài chính và quyết định cá nhân. Điều này có thể
dẫn đến sự thay đổi trong mối quan hệ gia đình và đôi khi là tăng số lượng vụ ly hôn.

6
Tổng số vụ ly hôn trên nước ta trong giai đoạn 2018 - 2022

2018 2019 2020 2021 2022

Cấp huyện 26.143 23.564 20.790 19.763 26.293

Cấp tỉnh 1.933 2.138 1.972 2.369 2.717

Tổng số 28.076 25.702 22.762 22.132 29.010

Nguồn: Tổng cục thống kê 


Đặc biệt, theo thống kê của Tổng cục Thống kê chỉ trong năm 2022, có đến 8
tỉnh trên nước có tổng số vụ ly hôn là trên 1000 vụ: Hà Nội (1.209), Thanh Hóa
(1.124), Nghệ An (1.091), Tây Nguyên (1.828), TP. Hồ Chí Minh (1.656), Tiền Giang
(1.271) và Cà Mau (1.415).
Các vụ việc ly hôn có xu hướng diễn ra ở các cặp vợ chồng trẻ (độ tuổi từ 28-35),
thời gian kết hôn ngắn. Tính chất gay gắt, phức tạp chủ yếu liên quan đến các tranh
chấp về tài sản chung – riêng như bất động sản, cổ phần, cổ phiếu trong các công ty…
hoặc về con chung, mức độ cấp dưỡng. Các tranh chấp về HNGĐ có nguyên nhân chủ
yếu do bất đồng về quan điểm, lối sống, khó khăn về kinh tế hoặc vì lý do một bên
ngoại tình, không quan tâm chăm sóc bên còn lại hoặc con cái… Có thể thấy rằng, ly
hôn là một quá trình phức tạp ở Việt Nam, đặc biệt khi liên quan đến các vấn đề về tài
sản, chăm sóc con cái, và hỗ trợ tài chính. Thách thức này có thể tác động đến tâm lý
và tài chính của các bên trong vụ ly hôn.
Bên cạnh đó, thống kê của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới vào năm 2018,
trung bình cả nước có trên 60.000 vụ ly hôn mỗi năm, chiếm tỷ lệ 30% tổng số cặp
đôi. Điều này đồng nghĩa với việc cứ 10 cặp đôi kết hôn thì có đến 3 cặp ly hôn. Trong
số các cặp đôi ly hôn, 70% số vụ thuộc về các gia đình trẻ trong độ tuổi từ 18-30, 60%
ly hôn sau từ 1-5 năm chung sống, nhiều trường hợp chỉ kết hôn được vài tháng hoặc
vài ngày.
Thực tế những năm gần đây, số vụ ly hôn còn nhiều hơn thế. Thống kê của Tòa
án nhân dân tối cao cho biết, năm 2018, các vụ hôn nhân và gia đình mà tòa án thụ lý

7
là 262.906 vụ (trong đó ly hôn do mâu thuẫn gia đình chiếm tới 73,6%). Năm 2019,
tòa án thụ lý 256.793 vụ (trong đó ly hôn do mâu thuẫn gia đình chiếm 84,2%). Năm
2021, số vụ ly hôn do mâu thuẫn gia đình mà tòa án thụ lý chỉ là 162.072 vụ. Tuy
nhiên, năm 2021 là năm cao điểm phòng chống dịch Covid-19 với nhiều đợt giãn cách
nên con số này có thể chưa phản ánh đúng thực tế.
Thực tế, thống kê của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới cũng chỉ ra nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn đến khủng hoảng hôn nhân. Trong đó, 27,7% là mâu
thuẫn về lối sống, 25,9% đến từ ngoại tình, yếu tố kinh tế chiếm 13%, bạo lực gia đình
chiếm 6,7%, sức khỏe chiếm 2,2% và sống xa nhau nhiều ngày chiếm 1,3%. Tất cả
những khủng hoảng kể trên đều dẫn đến kết cục ly hôn khi không thể tìm được hướng
giải quyết.             
Từ 01/01/2022 đến 31/07/2023, trong tổng số 272.274 bản án, quyết định của toà
án đã công bố, có 139.781 bản án, quyết định thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình,
chiếm tỉ lệ gần 51,34% (quá nửa số bản án, quyết định đã được công bố), bao gồm: 
99.1% án sơ thẩm và 0.9% án phúc thẩm; trong đó, số bản án, quyết định ly hôn là
2.170 (chiếm tỉ lệ 1.56%).  
Tổng số bản án, quyết định ly hôn của nước ta vào năm 2022

Quan hệ pháp luật Sơ thẩm Phúc thẩm Tổng số

Mâu thuẫn gia đình 2.097 4 2.101

Bạo lực gia đình 8 0 8

Ngoại tình 3 0 3

Bệnh tật, không có con 2 0 2

Nghiện ma tuý, rượu chè, cờ bạc 3 0 3

8
Do một bên ở nước ngoài 13 0 13

Do một bên bị mất tích 0 0 0

Do mâu thuẫn về kinh tế 0 0 0

Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn 37 3 40

2.170

Nguồn: Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của tòa án

2.3. Thực tiễn giải quyết yêu cầu ly hôn tại Tòa án nhân dân

2.3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật


2.3.2. Một số vấn đề bất cập, khó khăn khi thực hiện giải quyết ly hôn tại Tòa
án nhân dân 

Thứ nhất, về giải quyết yêu cầu nuôi con chung trong trường hợp ly hôn với
người bị Tòa án tuyên bố mất tích mà người bị tuyên bố mất tích mang theo con vị
thành niên.
Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt
quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án”.
Khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp vợ
hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn”.
Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định
của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

9
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi
bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết
định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;
nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn với người bị Tòa án tuyên bố mất tích mà
người đó khi bỏ đi đã mang theo cả con chưa thành niên đi cùng đã phát sinh vấn đề
vướng mắc về việc giải quyết yêu cầu nuôi con của nguyên đơn. Thực tế, Tòa án đã
tuyên bố người vợ/chồng mất tích nhưng không có quyết định gì về người con chưa
thành niên. Vậy khi giải quyết vấn đề nuôi con chung thì Tòa án có cần làm thủ tục hỏi
con chưa thành niên theo quy định tại Điều khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia
đình không? Về vấn đề này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. 
Thứ hai, về thời điểm bắt đầu thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn
Vẫn còn mâu thuẫn về việc khi nào mới là thời điểm bắt đầu thực hiện việc cấp
dưỡng nuôi khi toà án giải quyết việc ly hôn cho vợ và chồng. Liệu thời điểm bắt đầu
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ thuộc trường hợp nào trong ba trường hợp sau: Một
là, ngày bàn án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật; hai là, ngày Toà án tuyên
án, ban hành quyết định sơ thẩm; ba là, thời điểm cha/mẹ không sống chung với con
trên thực tế.
Ví dụ 1: tại Bản án số 142/2018/HNGĐ-ST ngày 12/06/2018 về ly hôn, tranh
chấp nuôi con của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B đã tuyên: “Về con chung: Giao
cháu Đinh Nguyễn Thị Thảo N1 - sinh ngày 14/3/2009 (hiện cháu N1 đang sống
chung với bà Tr) cho bà Nguyễn Thị Tr được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc ông T
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (cháu N1) hàng tháng là 650.000đồng, thời hạn cấp
dưỡng nuôi con tính từ khi Bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu
N1 tròn 18 tuổi.”
Nếu thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là ngày bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật, thì thời điểm xảy ra sự kiện pháp lý làm phát sinh
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là thời điểm hôn nhân của vợ/chồng chấm dứt hoặc thời
điểm Toà án xác định cha/mẹ cho con bằng bàn án, quyết định có hiệu lực pháp luật
mình. Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 2
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì những bản
án, quyết định về cấp dưỡng của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có
thể bị kháng cáo, kháng nghị. Điều này có nghĩa là ngay sau khi bản án, quyết định sơ
10
thẩm được ban hành, đương sự đã có quyền yêu cầu thi hành án về phần cấp dưỡng
nuôi con chưa thành niên. Do đó, việc tuyên thời điểm cấp dưỡng nuôi con từ khi bản
án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực theo quan điểm này vô hình chung đã vô hiệu hóa
quy định về quyền ưu tiên yêu cầu thi hành án về phần cấp dưỡng cấp dưỡng nuôi con
trong Luật Thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, cách xác định thời điểm bắt đầu thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng theo quan điểm này cũng không bảo đảm quyền và lợi ích cho con
chưa thành niên. Bởi lẽ, kể từ ngày Tòa án ban hành bản án, quyết định sơ thẩm cho
đến ngày bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật có thể là một khoảng thời gian rất
dài nếu bản án, quyết định đó bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp kết quả xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên hủy bản án sơ thẩm để
giải quyết lại vụ án thì khoảng thời gian này còn kéo dài hơn nữa. Do đó, nếu suy luận
một cách logic thì sẽ có trường hợp đợi đến khi bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật thì con chung đã thành niên rồi.
Ví dụ 2: Tại Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp ly hôn,
nuôi con chung của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh T đã tuyên: “Giao con chung cháu
Nguyễn Đức Tài, sinh ngày 05/8/2011, cho chị Bùi Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao
động hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Ghi
nhận sự tự nguyện việc anh Nguyễn Thế A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung
cùng chị T mỗi tháng 1000.000đ (một triệu đồng). Thời điểm thực hiện cấp dưỡng kể
từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi). Nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con chung chấm dứt theo Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình hoặc đến
khi chị T, anh A có yêu cầu thay đổi việc cấp dưỡng.”
Nếu thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên là
ngày tuyên án, ban hành quyết định sơ thẩm thì trong trường hợp này, nghĩa vụ cấp
dưỡng là một dạng nghĩa vụ đặc biệt so với các nghĩa vụ dân sự khác; gắn liền với
nhân thân, mang ý nghĩa về mặt đạo đức truyền thống và ý nghĩa pháp lý trong việc
bảo vệ quyền trẻ em. Bản chất của cấp dưỡng là để duy trì cuộc sống thường ngày của
con chưa thành niên. Kể từ ngày Tòa tuyên án cho vợ chồng được ly hôn thì các nguồn
thu nhập của vợ chồng đã tách bạch nên để đảm bảo quyền lợi cho con chưa thành
niên thì việc cấp dưỡng cần thiết phải bắt đầu từ thời điểm này. Trong thực tiễn xét xử,
nhiều Tòa án đã tuyên về thời gian cấp dưỡng nuôi con từ khi tuyên án hoặc ban hành
quyết định sơ thẩm.
Ví dụ 3: Tại Quyết định giám đốc thẩm số 15/2009/DS-GĐT ngày 16/7/2009 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án tranh chấp nuôi con giữa anh
Đặng Thành T và chị Lê Thị Thu H, Hội đồng Thẩm phán đã nhận định: “…năm 2002
anh T, chị H ly hôn, Tòa án giao con chung cho anh T nuôi dưỡng, nhưng anh T chỉ
11
nuôi dưỡng một thời gian ngắn rồi trả cháu Tr về để chị H nuôi, con anh T đi kết hôn
với người khác. Lẽ ra, khi giải quyết lại vụ án thì Tòa án phải buộc anh T cấp dưỡng
nuôi con chung từ khi anh T giao cháu Tr cho chị H nuôi dưỡng hoặc từ tháng 8/2004
theo thỏa thuận tại Biên bản hòa giải thành ngày 16/7/2004 mới đúng. Tòa án cấp sơ
thẩm chỉ buộc anh T cấp dưỡng nuôi con chung từ tháng 02/2006 là không đúng, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của chị H và cháu Tr.” 
Rất nhiều trường hợp trước khi ly hôn, vợ chồng đã không còn chung sống với
nhau trong cùng một mái nhà và tự quản lý riêng thu nhập của mình. Đối với trường
hợp người mẹ yêu cầu Tòa án xác định cha cho con thì ngay từ khi con được sinh ra đã
không nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người cha. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng
con chưa thành niên do một bên thực hiện.
Thứ ba, về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung
của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật
này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng”.
Khi giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, khoản 3 Điều
59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc: “Tài sản chung của vợ
chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị;
bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì
phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch”.
Theo quy định nêu trên, việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải ưu
tiên chia bằng hiện vật, trường hợp không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị,
bên nhận tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh
toán giá trị chênh lệch cho bên kia.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
cho thấy, có trường hợp tài sản chung của vợ chồng là cổ phần phổ thông trong các
công ty thuộc tập đoàn, không thuộc trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng theo quy
định tại khoản 3 Điều 119, khoản 1 Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014 (tương
ứng với khoản 3 Điều 120, khoản 1 Điều 127 Luật Doanh nghiệp năm 2020) nên về
nguyên tắc, số cổ phần này có thể phân chia được bằng hiện vật. Vợ chồng đều nắm
giữ cổ phần với số lượng lớn, giữ vai trò quản lý, điều hành hoạt động của tập đoàn
12
cũng như các công ty thuộc tập đoàn, trong đó người chồng luôn giữ chức danh lãnh
đạo đứng đầu tập đoàn, có vị trí quan trọng trong việc xây dựng, vận hành và phát
triển của tập đoàn. Tuy nhiên, vợ chồng có mâu thuẫn trong việc quản lý, điều hành
công ty; người vợ còn có mâu thuẫn với cổ đông khác; nếu chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn bằng cổ phần cho họ để họ tiếp tục là cổ đông và cùng quản lý, điều
hành công ty thì sẽ dẫn đến khó khăn cho sự tồn tại và phát triển của công ty, ảnh
hưởng lớn tới sự ổn định và việc làm cho số lượng lớn người lao động. Trường hợp
này, mặc dù vợ chồng đều có yêu cầu được nhận tài sản bằng hiện vật và tài sản là cổ
phần có thể chia được bằng hiện vật nhưng việc chia tài sản có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của bên thứ ba (không phải là đương sự trong vụ án) thì Tòa án có
áp dụng cứng nhắc nguyên tắc chia tài sản bằng hiện vật hay không?
Thứ tư, về xác định công sức trong việc quản lý, làm tăng giá trị quyền sử
dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn.
Khi giải quyết về tranh chấp tài sản sau khi ly hôn, các Thẩm phán thường gặp
vướng mắc khi chia tài sản khi ly hôn mà có quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ,
chồng. Mặc dù pháp luật quy định: Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu
của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của
Luật này. Tuy nhiên trên thực tế, quá trình vợ chồng chung sống, người vợ, chồng
không phải là chủ sở hữu đã có đóng góp công sức rất nhiều trong việc quản lý làm
tăng giá trị quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này nếu chỉ áp dụng quy định của
pháp luật xác định đây là tài sản riêng của vợ, chồng mà không tính đến công sức của
người vợ, chồng kia thì có phù hợp không. Pháp luật hiện nay quy định về việc xác
định công sức đóng góp trong quan hệ dân sự cũng chưa đề cập đến vấn đề này, cụ thể
như sau: 
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng được
chia đôi nhưng có tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập,
duy trì và phát triển khối tài sản chung; trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không
xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia
đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển
khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình . Như vậy, pháp luật
chưa có quy định cụ thể đối với trường hợp xác định công sức trong việc quản lý, làm
tăng giá trị quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ (chồng) khi ly hôn.
Thực tiễn xét xử có trường hợp quyền sử dụng đất là của người chồng có từ trước
khi kết hôn, trong đó phần lớn diện tích là đất nông nghiệp. Quá trình chung sống hai
vợ chồng cùng tạo lập tài sản trên đất nhưng người chồng không nhập quyền sử dụng
thửa đất này vào tài sản chung của vợ chồng, hai vợ chồng thực hiện các thủ tục, giấy
13
tờ, nghĩa vụ tài chính cần thiết để xin thay đổi mục đích sử dụng đất đối với phần diện
tích đất nông nghiệp và hiện nay đã được công nhận là đất ở tại đô thị. Khi tranh chấp
chia tài sản, Tòa án xác định quyền sử dụng đất của người chồng thì có tính công sức
đóng góp cho việc làm tăng giá trị quyền sử dụng đất đó cho người vợ không?

2.4. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết ly hôn tại toà án nhân
dân

2.4.1. Những kiến nghị về mặt lập pháp

Thứ nhất, về giải quyết yêu cầu nuôi con chung trong trường hợp ly hôn với
người bị Tòa án tuyên bố mất tích mà người bị tuyên bố mất tích mang theo con vị
thành niên. 
Nên có văn bản hướng dẫn trong trường hợp Tòa án quyết định giao con cho bên
nào được trực tiếp nuôi là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và căn cứ vào điều
kiện về mọi mặt của người trực tiếp nuôi con; việc lấy lời khai để xem xét nguyện
vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên chỉ là một trong những điều kiện để Tòa án xem xét
chứ không phải là điều kiện bắt buộc duy nhất. Trong trường hợp này, người vợ/chồng
đã bị Tòa án tuyên bố mất tích và cũng không có tin tức gì về người con chưa thành
niên nên việc yêu cầu Tòa án thu thập, lấy lời khai để giải quyết việc giao cháu cho ai
nuôi là không có căn cứ để thực hiện. Do đó, việc giải quyết vấn đề con chung trong
cùng vụ án này là không thực hiện được. Hơn nữa, khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và
gia đình quy định “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.” Do đó, trường hợp này Tòa án
chỉ giải quyết yêu cầu ly hôn cho đương sự, các yêu cầu về tài sản, con chung sẽ được
giải quyết sau khi người mất tích trở về và có yêu cầu. Giải pháp này sẽ đảm bảo tốt
nhất quyền và lợi ích của đương sự có yêu cầu ly hôn với người mất tích. Nếu quá
cứng nhắc áp dụng giải quyết triệt để ba mối quan hệ hôn nhân, tài sản, con chung
trong cùng một vụ án thì sẽ gây khó khăn trong việc xét xử của các Tòa án, kéo dài
thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của người yêu
cầu ly hôn.
Thứ hai, về xác định thời điểm bắt đầu thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con khi
ly hôn. 
Nên có quy định cụ thể về thời điểm bắt đầu việc thực hiện cấp dưỡng nuôi con
là thời điểm cha/mẹ không sống chung với con trên thực tế. Có thể thấy rằng, việc xác
định thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con từ ngày tuyên án hay từ
ngày án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đều chưa thể hiện được đúng bản chất của “thời

14
điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha (mẹ) đối với con”.. Bởi lẽ, rất nhiều trường
hợp trước khi ly hôn, vợ chồng đã không còn chung sống với nhau trong cùng một mái
nhà và tự quản lý riêng thu nhập của mình. Đối với trường hợp người mẹ yêu cầu Tòa
án xác định cha cho con thì ngay từ khi con được sinh ra đã không nhận được sự chăm
sóc, nuôi dưỡng của người cha. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên do
một bên thực hiện. Do đó, trong trường hợp này phải vận dụng quy định tại Điều 110
Luật Hôn nhân và gia đình để xác định thời điểm bắt đầu thực hiện việc cấp dưỡng
nuôi con là từ ngày bên không chung sống với con không thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng. Giải pháp này cho thấy tính bao quát và bảo vệ gần như triệt để quyền được
cấp dưỡng của con chưa thành niên. Ví dụ: Tại Quyết định giám đốc thẩm số
15/2009/DS-GĐT ngày 16/7/2009 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án tranh chấp nuôi con giữa anh Đặng Thành T và chị Lê Thị Thu H, Hội đồng
Thẩm phán đã nhận định: “…năm 2002 anh T, chị H ly hôn, Tòa án giao con chung
cho anh T nuôi dưỡng, nhưng anh T chỉ nuôi dưỡng một thời gian ngắn rồi trả cháu
Tr về để chị H nuôi, con anh T đi kết hôn với người khác. Lẽ ra, khi giải quyết lại vụ
án thì Tòa án phải buộc anh T cấp dưỡng nuôi con chung từ khi anh T giao cháu Tr
cho chị H nuôi dưỡng hoặc từ tháng 8/2004 theo thỏa thuận tại Biên bản hòa giải
thành ngày 16/7/2004 mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc anh T cấp dưỡng nuôi
con chung từ tháng 02/2006 là không đúng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
lợi của chị H và cháu Tr.”
Thứ ba, về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. 
Mặc dù luật không quy định ngoại lệ đối với nguyên tắc “Tài sản chung của vợ
chồng được chia bằng hiện vật…”, tuy nhiên trong tình huống cụ thể, nếu áp dụng
nguyên tắc này một cách cứng nhắc sẽ dẫn đến vướng mắc, ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của bên thứ ba (không phải là đương sự trong vụ án), thậm chí gây hệ
lụy về mặt xã hội. Chính vì vậy, dù theo nguyên tắc về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn thì phải chia tài sản chung của vợ chồng bằng hiện vật, tuy nhiên nếu
chia bằng hiện vật cho người vợ được nhận cổ phần thì sẽ không có lợi cho sự phát
triển của công ty, ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của các cổ đông khác cũng như kéo
theo hệ lụy về xã hội là công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động trong các
công ty thuộc tập đoàn. Do vậy, Tòa án nên cân nhắc giữa việc áp dụng pháp luật đơn
thuần về hôn nhân và gia đình với việc áp dụng pháp luật có tính đến các góc độ kinh
tế, xã hội bị ảnh hưởng do hệ quả của sự việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn mang lại, đảm bảo rằng việc chia tài sản chung là cổ phần của vợ chồng trong
công ty không ảnh hưởng tiêu cực đến bên thứ ba cũng như hoạt động sản xuất, kinh
doanh của công ty. Trên cơ sở đó, Tòa án quyết định giao cho người chồng sở hữu
toàn bộ cổ phần của vợ chồng tại các công ty thuộc tập đoàn và buộc người chồng phải
15
thanh toán cho người vợ khoản tiền tương ứng với giá trị tài sản mà người vợ được
hưởng là hợp lý. Đường lối giải quyết vụ án như vậy có thể coi là sự bổ khuyết cho
“khoảng trống” của pháp luật, có thể giúp hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất
pháp luật trong xét xử.
Thứ tư, về xác định công sức trong việc quản lý, làm tăng giá trị quyền sử
dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn.
Khi chia tài sản quyền sử dụng đất vẫn là tài sản riêng của người chồng, nhưng
công sức của người vợ phải được ghi nhận và người chồng phải thanh toán cho người
vợ tiền công sức đóng góp trong việc làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, mức công sức
là do Thẩm phán căn cứ vào từng vụ việc cụ thể để đánh giá và đưa ra phán quyết. Khi
tính toán công sức cho người vợ, cần phải căn cứ vào mức độ đóng góp của người vợ
trong việc làm tăng giá trị quyền sử dụng đất và phần giá trị tài sản được tăng thêm.
Trong trường hợp người vợ có khó khăn về chỗ ở và có yêu cầu thì có thể xem xét tính
công sức cho người vợ bằng cách chia cho người vợ một phần diện tích đất để ổn định
cuộc sống sau khi ly hôn.

2.4.2. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

16
KẾT LUẬN

17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

18
PHỤ LỤC 1

Bản án số 142/2018/HNGĐ-ST ngày 12/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con


của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT


HUYỆN C NAM
TỈNH BẾN TRE Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 142/2018/DS-ST
Ngày: 12-6-2018
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thúy


Hằng. Các Hội thẩm nhân dân:

1. Ông Nguyễn Văn Hơn;


2. Ông Hà Công Tâm.

Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Kim Hà - Thư ký Tòa án nhân dân huyện

C.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C tham gia phiên tòa: Ông

Nguyễn Huỳnh hước - Kiểm sát viên.

19
Trong ngày 12 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 88/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm
2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 45/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Đinh Công T - sinh năm 1972, địa chỉ: ấp C1, xã PP, huyện C,
tỉnh Bến Tre. Có mặt.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tr - sinh năm 1981, địa chỉ: ấp C1, xã PP, huyện C, tỉnh
Bến Tre. Có mặt, tuy nhiên tự ý bỏ về không tham dự phiên tòa, không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện ngày 16/3/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn
ông Đinh Công T trình bày:
Vào năm 2006, ông Đinh Công T và bà Nguyễn Thị Tr tự nguyện tiến
đến hôn nhân và sau đó có đăng ký kết hôn lại tại xã PP vào ngày 25/11/2015.
Thời gian chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên
nhân ông T cho rằng vợ chồng thường xuyên gây gỗ, luôn bất đồng quan điểm
trong cuộc sống, dẫn đến mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống hôn
nhân không đạt được cho nên ông T và bà Tr đã sống ly thân từ tháng 7/2017 đến
nay mà không thể đoàn tụ được. Do đó, ông T yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C
giải quyết cho ông ly hôn với bà Nguyễn Thị Tr và không yêu cầu cấp dưỡng giữa
vợ chồng khi ly hôn.
Về con chung: Gồm có hai người con chung tên Đinh Nguyễn Thị Thảo
N1 - sinh ngày 14/3/2009 và Đinh Thị Thảo N2 - sinh ngày 30/4/2015 (hiện cháu
N1 đang sống chung với bà Tr, còn cháu N2 sống với ông T). Khi ly hôn, ông T
yêu cầu cháu N1 theo ai thì người đó nuôi, nếu theo ông thì ông nuôi và không
yêu cầu bà Tr cấp dưỡng nuôi con, nếu theo bà Tr thì ông không cấp dưỡng nuôi
con.
Còn cháu N2 thì đang sống với ông cho nên ông yêu cầu được quyền trực
tiếp nuôi cháu N2 và không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.
Bà Tr thì có mặt theo giấy triệu tập tại phiên tòa nhưng tự ý bỏ ra về. Do
đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo qui định tại điểm b
khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, theo bản tự
khai và biên bản hòa giải ngày 20/4 và ngày 03/5/2018 bà Tr cho rằng: Bà Tr

20
thống nhất với lời trình bày của ông T về thời gian kết hôn, còn nguyên nhân phát
sinh mâu thuẩn là do hoàn cảnh gia đình khó khăn, cho nên bà phải bỏ con ở nhà
cho chồng chăm sóc từ tháng 8 năm 2017 đến nay để đi làm ăn xa. Từ đó đến nay,
bà Tr và ông T đã sống ly thân mà không hàn gắn được, nay ông T xin ly hôn thì
bà Tr không đồng ý.
Về con chung: Gồm có hai người con chung tên Đinh Nguyễn Thị Thảo
N1 - sinh ngày 14/3/2009 và Đinh Thị Thảo N2 - sinh ngày 30/4/2015 (hiện cháu
N1 đang sống chung với bà Tr, còn cháu N2 đang sống chung với ông T). Khi ly
hôn, bà Tr yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi cháu Đinh Nguyễn Thị Thảo N1 và
yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con hằng tháng là 650.000đồng. Thời hạn cấp
dưỡng nuôi con tính từ khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu
N1 tròn 18 tuổi.
Bà Tr đồng ý để cho ông T được quyền trực tiếp nuôi cháu Đinh Thị Thảo
N2 và bà không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu quan điểm giải quyết
vụ án:
Về tố tụng, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 203
Bộ Luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56,
81, 82, 83, 110 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn
của ông T, ghi nhận việc ông T không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly
hôn.
Về con chung: Ghi nhận việc thỏa thuận người trực tiếp nuôi con chung
của bà Tr và ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử
nhận định đây là vụ án hôn nhân về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C theo qui định tại điều 28,
Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điều 56 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014.

[1] Về hôn nhân: Xét thấy, hôn nhân của ông T, bà Tr là hợp pháp. Bỡi lẽ,
ông bà đã tự nguyện tìm hiểu nhau rồi tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn

21
theo đúng qui định pháp luật. Tuy nhiên, thời gian sống chung với nhau chỉ được
04 năm thì phát sinh mâu thuẩn, mà chính ông T và bà Tr đều thừa nhận là có sự
mâu thuẫn xảy ra và ông bà đã sống ly thân từ tháng 7/2017 đến nay. Trong
khoảng thời gian sống ly thân, thì ông bà mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm ai
và cũng không có trao đổi gì với nhau để hàn gắn gia đình, thậm chí cả trong quá
trình hòa giải thì bà Tr chỉ nói rằng không đồng ý ly hôn chứ không có thiện chí
hòa giải hàn gắn, chứng tỏ tình cảm của ông bà đã có sự rạn nứt.

Mặc khác, qua biên bản xác minh ngày 25/4/2018, bà hạm Thị Kiếm (mẹ
ruột của ông T) cho rằng: cuộc sống vợ chồng của ông T và bà Tr thường xuyên
cự cãi, không ai nhường nhịn ai, bà Tr lớn tiếng với ông T và ông T do nóng giận
nên có đánh bà Tr một bạt tay rồi bà Tr bỏ đi từ tháng 8/2017 AL đến nay. Khi đi,
bà Tr không nói đi đâu, làm gì và cũng không liên lạc gì với gia đình, bỏ lại hai
người con cho ông T chăm lo. Sau khoảng 02 tháng, bà Tr về nhà và rước cháu
Đinh Nguyễn Thị Thảo N1 đi theo, còn cháu N2 thì để lại cho ông T tiếp tục nuôi
dưỡng. Việc bà Tr và ông T cự cãi nhau làng xóm đều biết và khuyên răn để cả
hai có thể hàn gắn gia đình nhưng không được.
Từ các căn cứ trên, cho thấy mục đích hôn nhân của ông T, bà Tr không
đạt được, tình cảm vợ chồng của ông bà không còn, nên yêu cầu của ông T là phù
hợp với qui định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 nên chấp nhận.

[2] Về con chung: Xét thấy, việc thỏa thuận người trực tiếp nuôi con của
ông T, bà Tr tại biên bản hòa giải ngày 20/4 và ngày 03/5/2018 và tại biên bản ghi
ý kiến của bà Tr ngày 12/6/2018 là hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện và nguyện
vọng của cháu N1 muốn được sống với mẹ. Do đó, việc giao cháu N1 cho bà
Nguyễn Thị Tr và cháu N2 cho ông T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù
hợp với qui định của pháp luật và cũng không trái đạo đức xã hội nên chấp nhận.

Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, ông T không đồng ý cấp dưỡng nuôi con
với lý do cho rằng bà Tr gây khó khăn cho ông trong việc giải quyết vụ án, làm
ông phải đi lại nhiều lần, mất việc làm nên ông không đồng ý cấp dưỡng nuôi con
cho cháu N1 là không hợp lý. Bởi lẽ, việc cấp dưỡng nuôi con là để đảm
bảo quyền lợi của con và người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con. Hơn nữa, hiện tại bà Tr không có việc làm ổn định, phải đi làm
ăn xa, cho nên việc ông có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu N1 là phần nào để cho
cháu N1 có điều kiện học tập tốt hơn như bao trẻ khác và điều đó cũng phù hợp
với qui định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên yêu cầu

22
cấp dưỡng nuôi con của bà Tr là có căn cứ để chấp nhận.
Ghi nhận việc ông T không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng nuôi cháu N2.

[3] Về tài sản và nợ chung: Ông T và bà Tr đều không yêu cầu Tòa án
giải quyết, nên Tòa không đặt ra để xem xét.
[4] Từ các căn cứ trên, xét thấy lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm
sát và yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật
nên chấp nhận.
[5] Theo qui định tại điểm a, khoản 1 Điều 24 và điểm a, khoản 5 và điểm
a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 và Điều 147 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly
hôn, không phụ thuộc vào việc Tòa chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn và người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu mức án phí dân sự sơ
thẩmb như đối với T hợp vụ án dân sự không có giá ngạch. Do đó, nguyên đơn
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Áp dụng các Điều 51, 56, Điều 71, 72, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014, Điều 28, 35 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết:
326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Đinh Công T đối với bà
Nguyễn Thị Tr.
Cụ thể tuyên:
Về hôn nhân: Cho Đinh Công T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Tr. Ghi
nhận việc ông T, bà Tr không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn.
Về con chung: Giao cháu Đinh Nguyễn Thị Thảo N1 - sinh ngày
14/3/2009 (hiện cháu N1 đang sống chung với bà Tr) cho bà Nguyễn Thị Tr được
quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (cháu
N1) hàng tháng là 650.000đồng, thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ khi Bản án
của Tòa có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu N1 tròn 18 tuổi.
Giao cháu Đinh Thị Thảo N2 - sinh ngày 30/4/2015 (hiện cháu N2 đang
sống chung với ông T) cho ông Đinh Công T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng.
Ông T không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng nuôi con.
23
Về tài sản và nợ chung: Ông T và bà Tr đều không yêu cầu Tòa giải
quyết, nên Tòa không đặt ra để xem xét.
Án phí dân sự sơ thẩm: là 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng), gồm
300.000đồng án phí hôn nhân và 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
Buộc ông Đinh Công T phải nộp 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) tiền án
phí dân sự sơ thẩm. Số tiền ông T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0024094
ngày 26 tháng 3 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre
được chuyển sang án phí. Như vậy, ông Đinh Công T còn phải nộp thêm
300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí.
Nguyên đơn (ông Đinh Công T) có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án ngày 12/6/2018, bị đơn (bà Nguyễn Thị
Tr) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được
tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc
thẩm.
Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- Phòng GĐKT-TAND tỉnh Bến THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tre;
- VKSND huyện C;
- Chi cục THADS C;
- UBND xã PP;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA+V . LÊ THỊ THÚY HẰNG

24

You might also like