Professional Documents
Culture Documents
Luat Lao Dong 2021
Luat Lao Dong 2021
1. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT
LAO ĐỘNG
1.1. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động
Lao động là hoạt động có ý thức, có ý chí của con người nhằm tạo ra những giá
trị sử dụng nhất định. Trong quá trình lao động, con người, một mặt có quan hệ với tự
nhiên (quan hệ con người - tự nhiên) và mặt khác có quan hệ với nhau (quan hệ con
người - con người - quan hệ xã hội). Quan hệ giữa người và người trong quá trình lao
động gọi là quan hệ lao động. Quan hệ lao động bao giờ cũng diễn ra trong một hình
thái nhất định của lịch sử. Vì vậy, quan hệ lao động còn được gọi là quan hệ lao động
xã hội.
Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, luật lao động Việt Nam bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam, có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động làm công
ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với
quan hệ lao động. Luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của
người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao
động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được phát triển hài hòa và ổn định trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là lĩnh vực quan hệ xã hội với những
tính chất, đặc điểm tương đối giống nhau. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động Việt
Nam là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao động. Quan hệ lao động là một loại quan
hệ xã hội tổng hợp bao gồm nhiều chủ thể tương tác lẫn nhau trong quá trình lao động
sản xuất.
Đối tượng điều chỉnh của luật lao động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác định trong Bộ luật Lao động do Quốc hội
khóa IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/6/1994, được sửa đổi, bổ sung năm 2002,
2006, 2007 (viết tắt là Bộ luật Lao động năm 1994): "Bộ luật Lao động điều chỉnh
quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động
và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động" (Điều 1). Ngành luật
lao động điều chỉnh các quan hệ xã hội bao gồm quan hệ lao động giữa người lao động
làm công ăn lương với người sử dụng lao động và ngoài ra còn điều chỉnh các quan hệ
xã hội khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động này.
Đánh dấu sự phát triển của quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường, Bộ luật
Lao động do Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 13 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 18/6/2012 (viết tắt là Bộ luật Lao động năm 2012) quy
định:“Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng,
trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động” (Khoản 6 Điều 3, Bộ luật
Lao động 2012).
Bộ luật lao động số 45/2019/QH-14 do Quốc hội khóa 14 kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 20/11/2019 (viết tắt là Bộ luật lao động 2019) giải thích quan hệ lao động là:
“Quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa
người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền”.
Như vậy quan hệ lao động bao gổm tổng thể các quan hệ xã hội phát sinh từ
những vấn đề lao động. Chủ thể của quan hệ lao động bao gồm cả người lao động,
người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của người lao động và người sử dụng lao
động, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tham gia vào quan hệ lao động. Quan hệ
lao động bao gồm quan hệ lao động cá nhân và quan hệ lao động tập thể.
1.1.1. Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động
Quan hệ lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật lao động hình thành trên cơ sở giao kết hợp đồng lao
động (hoặc hợp đồng thuê lại lao động). Về mặt nội dung, quan hệ lao động này là các
quan hệ về thu hút, tuyển dụng lao động; quan hệ về phân công và hiệp tác giữa người
lao động với nhau trong một đơn vị sử dụng lao động; quan hệ về duy trì kỷ luật, trật
tự trong quá trình lao động; quan hệ về bảo đảm những điều kiện làm việc cho người
lao động; quan hệ về phân phối (trả công); quan hệ về tái sản xuất sức lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, người lao động có thể xác lập nhiều loại công việc
với tính chất khác nhau. Họ có thể được tuyển dụng vào các cơ quan Nhà nước với tư
cách là cán bộ, công chức, viên chức, có thể góp tài sản và công sức vào hợp tác xã trở
thành thành viên hợp tác xã; làm việc theo hợp đồng khoán việc dân sự, có thể xác lập
quan hệ hợp đồng lao động với các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình hoặc
cá nhân với tư cách là người lao động làm công ăn lương và còn có thể là người lao
động tự do không bị rằng buộc bởi quan hệ lao động. Do mỗi công việc, hoạt động lao
động này có những tính chất, đặc điểm khác nhau nên được điều chỉnh bởi những
ngành luật khác nhau.
Trong quan hệ xã hội giữa cán bộ, công chức với cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức được nhà nước trao một phần quyền lực nhà nước và họ được thừa hành một
phần quyền lực đó. Công việc của cán bộ, công chức mang tính chất quản lý, do đó,
quan hệ lao động của họ với cơ quan Nhà nước là một loại quan hệ quản lý, do ngành
luật hành chính điều chỉnh. Quan hệ lao động giữa viên chức với đơn vị sử dụng công
lập xác lập trên cơ sở hợp đồng làm việc có nhiều điểm tương đồng với quan hệ lao
động giữa người lao động với người sử dụng lao động nhưng đây cũng là đối tượng
điều chỉnh của pháp luật hành chính1.
Trong quan hệ xã hội giữa thành viên hợp tác xã với hợp tác xã, do hợp tác xã
được tạo lập bởi sự tự nguyện đóng góp tài sản và công sức của các thành viên hợp tác
xã nên thành viên hợp tác xã vừa là người lao động vừa là đồng chủ sở hữu hợp tác xã.
Trong cơ cấu tổ chức của hợp tác xã, thành viên hợp tác xã là thành viên của đại hội
thành viên - cơ quan có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã, vậy nên quan hệ
giữa thành viên hợp tác xã với hợp tác xã còn có tính chất của quan hệ quản lý. Ở đây,
quan hệ góp vốn, quan hệ sở hữu tài sản, quan hệ quản lý và quan hệ hợp tác lao động
tạo thành một loại quan hệ xã hội thống nhất với tính chất, đặc điểm riêng và do pháp
luật kinh tế điều chỉnh, cụ thể là các văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác xã 2.
Quan hệ lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật lao động có các đặc điểm khác với quan hệ hành chính
và quan hệ kinh tế. Trong quan hệ lao động này, người lao động làm việc với tư cách
chính danh, họ đưa hoạt động lao động phục vụ cho những mục đích nhất định của
người sử dụng lao động và đổi lại, họ được nhận tiền lương, tiền công, còn người sử
dụng lao động có quyền quản lý, điều hành công việc của người lao động. Căn cứ để
xác định quan hệ lao động này là hợp đồng lao động.
Ngoài ra còn có quan hệ thuê lại lao động. Trong quan hệ thuê lại lao động,
người lao động ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động là doanh nghiệp
cho thuê lại lao động nhưng làm việc và chịu sự điều hành của người sử dụng lao động
khác nhưng vẫn duy trì quan hệ lao động với người sử dụng lao động đã giao kết hợp
đồng lao động.
1.1.2. Các quan hệ xã hội khác thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật lao động.
Ngoài quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động thì còn
có các quan hệ xã hội khác thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động là:
Quan hệ về việc làm, giáo dục nghề nghiệp và phát triển kỹ năng nghề là quan hệ
xã hội hình thành giữa cá nhân có nhu cầu tìm việc làm hoặc học nghề với các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân có khả năng và điều kiện do pháp luật quy định để tạo việc
làm và tổ chức dạy nghề. Quan hệ xã hội này nhằm tạo điều kiện cho sự ra đời của
quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động nên được luật lao
động điều chỉnh.
Quan hệ về tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao
động là các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể là người lao động, tập thể lao động,
người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử
dụng lao động. Các quan hệ này phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động giữa người lao
1
Tham khảo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Luật viên chức
năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
2
Tham khảo Luật Hợp tác xã năm 2012
động với người sử dụng lao động. Các quan hệ này liên quan trực tiếp tới quan hệ lao
động giữa người lao động và người sử dụng lao động, được hình thành nhằm giải
quyết một cách hài hòa những vấn đề liên quan đến lao động, sản xuất, đời sống của
người lao động.
Tổ chức công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và người
lao động. Công đoàn tham gia vào quan hệ lao động với vai trò đại diện cho tập thể lao
động để bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại
cơ sở bao gồm Công đoàn và các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Tổ
chức đại diện người sử dụng lao động cũng đã được pháp luật lao động quy định vị trí
và vai trò pháp lý tham gia quan hệ lao động để phát triển hài hòa quan hệ lao động và
bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các bên.
Quan hệ về bồi thường thiệt hại là loại quan hệ xã hội phát sinh trong trường hợp
một bên chủ thể của quan hệ lao động gây thiệt hại về tài sản hoặc sức khỏe, tính mạng
cho chủ thể bên kia thì phải bồi thường những thiệt hại đã gây ra. Thiệt hại do một bên
gây ra trong quá trình thực hiện quan hệ lao động gây thiệt hại trực tiếp cho quan hệ
lao động.
Quan hệ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao
động: là quan hệ về bảo đảm vật chất cho người lao động trong những trường hợp bị
tạm thời hoặc hoàn toàn mất khả năng lao động hoặc gặp những rủi ro, hiểm nghèo
làm giảm hoặc mất thu nhập bình thường.
Quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động và đình công là quan hệ xã hội giữa
một bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật giao quyền giải quyết các tranh
chấp trong quá trình thực hiện quan hệ lao động với bên kia là các chủ thể của quan hệ
lao động có tranh chấp bao gồm người lao động, tập thể lao động và người sử dụng lao
động trong trường hợp các bên tranh chấp có yêu cầu. Giải quyết đình công liên quan
đến những tranh chấp về lợi ích của tập thể lao động. Giải quyết tranh chấp lao động
và đình công nhằm tạo điều kiện ổn định quan hệ lao động; do đó, quan hệ về giải
quyết tranh chấp lao động và đình công có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động và
được pháp luật lao động điều chỉnh.
Quan hệ quản lý nhà nước về lao động là quan hệ xã hội giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với người sử dụng lao động trong quá trình các cơ quan nhà nước
thực hiện việc quản lý lao động xã hội và tổ chức tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thi
hành pháp luật lao động cũng như việc xử lý các vi phạm pháp luật lao động. Quản lý
nhà nước về lao động thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
(bao gồm các cơ quan chuyên ngành và các cơ quan hành chính nhà nước từ trung
ương đến địa phương)3. Hoạt động quản lý nhà nước về lao động có sự phối hợp giữa
các cơ quan quản lý nhà nước về lao động với các cơ quan quản lý ngành liên quan và
3
Xem Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, Nghị định số 14/2017/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động Thương binh & Xã hội.
đặc biệt còn được thực hiện bởi sự tham gia của các chủ thể khác là tổ chức đại điện
người lao động (VD: Tổ chức Công đoàn) và tổ chức đại diện người sử dụng lao động
(VD: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) tuy nhiên việc tham gia của các tổ
chức đại diện này thực hiện theo quy định của pháp luật.
1.2. Phương pháp điều chỉnh của luật lao động
Phương pháp điều chỉnh của ngành luật là cách thức, biện pháp mà pháp luật sử
dụng thông qua các quy phạm pháp luật để tác động lên hành vi xử sự của các bên
tham gia quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Phương pháp
điều chỉnh của ngành luật được quy định bởi đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó
mà suy cho cùng là bởi tính chất, đặc điểm của quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều
chỉnh của ngành luật đó.
Luật lao động sử dụng cả hai phương pháp điều chỉnh - phương pháp thỏa thuận
và phương pháp mệnh lệnh - tùy thuộc vào từng loại quan hệ xã hội hoặc từng mặt của
loại quan hệ xã hội mà pháp luật lao động điều chỉnh.
1.2.1. Phương pháp thỏa thuận
Thỏa thuận là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của pháp luật dân sự trong các
quan hệ mà các chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Trong quan hệ lao
động, người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm, có quyền xác lập quan hệ lao
động với bất cứ người sử dụng lao động nào trong phạm vi khả năng và điều kiện của
mình. Cũng tương tự như vậy, người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn bất cứ
người lao động nào phù hợp với mục đích sử dụng lao động của mình. Đó là cơ sở để
phương pháp thỏa thuận được áp dụng để điều chỉnh quan hệ lao động (thể hiện trong
các quy định về hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, thời giờ làm việc và
thời giờ nghỉ ngơi, giải quyết tranh chấp lao động v.v...).
1.2.2. Phương pháp mệnh lệnh
Phương pháp mệnh lệnh là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật hành
chính mà nội dung là một bên chủ thể phải phục tùng quyết định của chủ thể bên kia.
Trong quan hệ lao động, sau khi hai bên đã xác lập mối quan hệ một cách bình
đẳng dựa trên sự thỏa thuận bằng hợp đồng lao động thì việc thực hiện quan hệ lao
động đó là sự tổ chức, quản lý và điều hành của người sử dụng lao động đối với người
lao động trong khuôn khổ của pháp luật. Trong quá trình hoạt động lao động, người
lao động phải chấp hành sự điều hành đó của người sử dụng lao động. Phương pháp
mệnh lệnh được sử dụng trong quản lý nhà nước về lao động và sử dụng có mức độ
trong các quan hệ về kỷ luật lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, v.v...
Từ việc phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật lao
động có thể đưa ra định nghĩa sau đây: Luật lao động Việt Nam là tổng thể các quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh bằng phương pháp thích hợp
quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa
người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm mục đích ổn định và phát triển lao động xã hội.
Hiện nay, Điều 128 Bộ luật Lao động năm 2019 đã quy định tương đối chặt chẽ
việc thực hiện quyền này của người sử dụng lao động:
+ Thủ tục: Người sử dụng lao động có quyền tạm đình chỉ công việc của người lao
động khi vụ việc vi phạm có những tình tiết phức tạp nếu xét thấy để người lao động
tiếp tục làm việc sẽ gây khó khăn cho việc xác minh. Việc tạm đình chỉ công việc của
người lao động chỉ được thực hiện sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện
người lao động tại cơ sở mà người lao động đang bị xem xét tạm đình chỉ công việc là
thành viên.
+ Thời hạn tạm đình chỉ công việc: không được quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt
không được quá 90 ngày.
+ Chế độ: Trong thời gian bị tạm đình chỉ công việc, người lao động được tạm ứng
50% tiền lương trước khi bị đình chỉ công việc. Hết thời hạn tạm đình chỉ công việc,
người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc. Trường hợp người
lao động bị xử lý kỷ luật lao động, người lao động cũng không phải trả lại số tiền
lương đã tạm ứng. Trường hợp người lao động không bị xử lý kỷ luật lao động
thì được người sử dụng lao động trả đủ tiền lương cho thời gian bị tạm đình chỉ công
việc.
Hành vi vi phạm kỷ luật lao động được hiểu là hành vi của người lao động vi
phạm các quy định trong nội quy lao động của đơn vị, ngoài ra còn bao gồm cả những
vi phạm sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ lao động, gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động.
Trường hợp giữa các bên có hợp đồng trách nhiệm thì sự vi phạm thoả thuận trong hợp
đồng gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động cũng là căn cứ để bồi thường.
Hợp đồng trách nhiệm thông thường được ký kết khi người sử dụng lao động giao cho
người lao động quản lý, sử dụng, bảo quản v.v... những tài sản có giá trị kinh tế lớn mà
việc làm hư hỏng hoặc mất mát sẽ gây ra những hậu quả lớn và lâu dài cho quá trình
kinh doanh, sản xuất của đơn vị sử dụng lao động. Hợp đồng trách nhiệm nhằm đảm
bảo nghĩa vụ của người lao động đối với tài sản được giao.
Căn cứ thứ hai: Có thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động.
Đây là căn cứ quan trọng để người sử dụng lao động yêu cầu người lao động bồi
thường thiệt hại. Bởi một trong những mục đích cơ bản của việc bồi thường thiệt hại là
nhằm khôi phục lại tình trạng tài sản cho người sử dụng lao động. Để có thể “khôi
phục” thì phải có sự thiệt hại về tài sản. Cho nên trong trường hợp người lao động có
hành vi vi phạm kỷ luật lao động, nhưng không gây thiệt hại về tài sản thì về nguyên
tắc họ không phải bồi thường mà chỉ có thể bị xử lí kỷ luật lao động.
Thiệt hại ở đây được hiểu là sự biến đổi theo chiều hướng xấu đi trong tài sản thể
hiện ở những tổn thất thực tế tính được bằng tiền. Thiệt hại gồm có thiệt hại trực tiếp
và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp được hiểu là thiệt hại do chính hành vi vi
phạm kỷ luật lao động của người lao động gây ra sự giảm sút về giá trị hoặc mất mát
tài sản của người sử dụng lao động. Còn thiệt hại gián tiếp là thiệt hại phát sinh (kéo
theo) như phần lợi nhuận bị bỏ lỡ, phần thu nhập bị mất, bị giảm sút mà lẽ ra đơn vị có
thể có được. Đó là thiệt hại có tính dự báo, phải dựa trên sự suy đoán khoa học mới
xác định được.
Việc bồi thường thiệt hại vật chất trong luật lao động chỉ căn cứ vào những thiệt
hại trực tiếp mà không phải bồi thường những thiệt hại gián tiếp. Đây là điểm khác
nhau cơ bản giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự.
Căn cứ thứ ba: có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm kỷ luật lao động
và thiệt hại tài sản.
Chỉ khi chứng minh rằng sự thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động là do
hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động gây ra, trong đó hành vi vi phạm
kỷ luật của người lao động là nguyên nhân, còn sự thiệt hại về tài sản của người sử
dụng lao động là hậu quả tất yếu của nguyên nhân đó, thì người lao động mới phải bồi
thường.
Lỗi là căn cứ quan trọng để buộc người lao động bồi thường thiệt hại về vật chất.
Xét về mặt nội dung thì người lao động có lỗi nếu hành vi vi phạm kỷ luật lao động
gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động là kết quả của sự tự lựa chọn của
người lao động trong khi họ có đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan để thực
hiện đúng nghĩa vụ lao động của mình.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc
vào tình trạng tài sản (hư hỏng hay mất) áp dụng cả với lỗi cố ý và vô ý của hành vi vi
phạm kỷ luật. Tuy nhiên, khi xem xét lỗi đối với hành vi gây thiệt hại tài sản thì chủ
yếu là vô ý đối với hậu quả của hành vi vi phạm kỷ luật vì nếu thực hiện bởi lỗi cố
ý đối với hậu quả của hành vi thì người lao động có thể phải gánh chịu loại trách
nhiệm pháp lý khác (Ví dụ: chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi cố ý phá
hoại tài sản của người sử dụng lao động).
Người lao động không phải bồi thường thiệt hại về vật chất cho người sử dụng lao
động khi họ vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại nhưng không bị coi là có lỗi nếu rơi
vào các trường hợp loại trừ trách nhiệm pháp lý (Ví dụ: xảy ra các sự kiện bất khả
kháng).
Ngoài bốn căn cứ trên, người sử dụng lao động còn phải xem xét các yếu tố khác
như: khả năng, kinh nghiệm làm việc, hoàn cảnh gia đình, tài sản cũng như ý thức kỷ
luật, thái độ của người lao động, trước, trong và sau khi vi phạm.
3.3. Cách xác định mức bồi thường trong trách nhiệm vật chất.
Về nguyên tắc, khi áp dụng trách nhiệm vật chất, người sử dụng lao động sẽ xem
xét các căn cứ để áp dụng nhưng khi xác định mức bồi thường thì cần lưu ý: Mức bồi
thường, nội quy lao động của đơn vị, thỏa thuận trước nếu có, các trường hợp bất khả
kháng v.v...
Cụ thể, theo quy định tại Điều 129 Bộ luật lao động năm 2019:
- Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại
tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật
hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động.
- Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá
trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại
nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng
tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương.
- Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động
hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức
cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường
hoặc nội quy lao động; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo
hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy
hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể
khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì
không phải bồi thường.
Như vậy, đối với trường hợp này pháp luật không quy định cụ thể mức và cách
thực hiện bồi thường mà trao quyền để người sử dụng lao động tự quyết định việc
bồi thường một phần hay toàn bộ thiệt hại theo giá thị trường và có quy định trước
trong nội quy lao động. Đồng thời, để đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên, pháp
luật cũng thừa nhận trường hợp bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm (nếu có). Quy
định bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở thoả thuận của các bên hoặc trên cơ sở nội
quy quy định giúp cho người sử dụng lao động xử lí việc bồi thường một cách linh
hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
Trình tự, thủ tục, thời hiệu xem xét, xử lý việc bồi thường thiệt hại thực hiện theo
quy định tại Khoản 2 Điều 130 Bộ luật lao động 2019 và được hướng dẫn tại Điều 71
và 72 Nghị định 145/2020/NĐ-CP.
Người bị xử lý kỷ luật lao động, bị tạm đình chỉ công việc hoặc phải bồi thường
theo chế độ trách nhiệm vật chất nếu thấy không thoả đáng có quyền khiếu nại với
người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về
giải quyết khiếu nại trong lao động hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân theo trình tự do pháp luật quy định (Điều 131 Bộ luật lao động 2019)./.
BÀI 8: TRANH CHẤP LAO ĐỘNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG.
4
Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã được sửa đổi bởi Điều 219 Bộ luật lao động 2019. Bộ luật
lao động 2019 có hiệu lực từ 1/1/2021 nên từ 1/1/2021 áp dụng theo Điều 32 đã được sửa đổi. Điều
219 Bộ luật lao động 2019 cũng bãi bỏ khoản 2 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
1b. Tranh chấp lao động tập thể về quyền theo quy định của pháp luật về lao động
đã qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải không thành, hết thời
hạn hòa giải theo quy định của pháp luật về lao động mà hòa giải viên lao động không
tiến hành hòa giải hoặc một trong các bên không thực hiện biên bản hòa giải thành thì
có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
1c. Tranh chấp lao động tập thể về quyền mà hai bên thỏa thuận lựa chọn Hội
đồng trọng tài lao động giải quyết nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật về
lao động mà Ban trọng tài lao động không được thành lập, Ban trọng tài lao động
không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành
quyết định của Ban trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”;
Việc lao động (yêu cầu về lao động) là việc người lao động, người sử dụng lao
động không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận
một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của mình, hoặc yêu cầu
công nhận cho mình quyền về lao động. Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án (Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự 2015):
- Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu.
- Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án,
quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định
lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết lao động của Trọng
tài nước ngoài.
- Các yêu cầu khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vụ việc lao động
Nguyên tắc giải quyết vụ việc lao động là tư tưởng chỉ đạo của pháp luật đối với
việc giải quyết vụ việc lao động. Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định các
nguyên tắc tố tụng từ điều 3 đến điều 25 trong đó có các nguyên tắc chung áp dụng
cho nhiều loại hình tố tụng và một số nguyên tắc đặc thù của tố tụng dân sự và cũng là
của tố tụng lao động đó là:
Nguyên tắc về quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4)
và nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự (Điều 5).
Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập
một cách tự nguyện trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của các bên căn cứ vào các quy định
của pháp luật. Vì vậy, khi quyền và lợi ích bị vi phạm, mỗi bên đều có quyền yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ hoặc từ bỏ quyền yêu cầu đó. Họ có quyền
khởi kiện hoặc không khởi kiện, có quyền tự quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt
yêu cầu của mình, có quyền tự thỏa thuận với nhau về phương thức giải quyết vụ kiện
một cách tự nguyện và không trái pháp luật. Tòa án chỉ tiến hành thụ lý để giải quyết
vụ việc lao động khi có đơn kiện hoặc đơn yêu cầu của đương sự và cũng chỉ giải
quyết vụ việc trong phạm vi đơn kiện, đơn yêu cầu đó.
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh (Điều 6) và Nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
(Điều 7).
Trong tố tụng lao động, khi các đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình thì đồng thời có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp hoặc đưa ra chứng cứ để phản bác lại yêu cầu
của bên kia. Vì vậy, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh trong tố tụng lao
động là nghĩa vụ của các đương sự. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp đương sự
gặp khó khăn trong việc thu thập chứng cứ (như trường hợp chứng cứ đang nằm trong
các cơ quan, tổ chức v.v…) thì Tòa án sẽ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo
quy định của pháp luật.
Mặt khác, pháp luật cũng quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho Tòa án, đương sự các tài
liệu, chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ hoặc quản lý.
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng (Điều 10).
Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là được xác lập trên cơ sở tự nguyện,
cho nên hòa giải là nguyên tắc bắt buộc mà Tòa án phải thực hiện khi giải quyết các vụ
việc lao động. Tòa án có thể thông qua hòa giải để giải quyết vụ việc lao động mà
không nhất thiết phải tiến hành xét xử. Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc lao
động theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng (Điều 21).
Cũng như các loại hình tố tụng khác, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng lao động; Viện kiểm sát thực hiện các quyền yêu
cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ việc lao động được kịp thời, đúng pháp luật. Tuy nhiên đối với một số
trường hợp cụ thể, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có những quy định riêng, theo đó
Viện kiểm sát không tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp mà chỉ tham gia phiên
họp sơ thẩm đối với các việc lao động, phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án lao động
do Tòa án thu thập chứng cứ hoặc đương sự chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi hoặc chưa có điều luật để áp dụng. Viện kiểm sát cũng tham gia các
phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
3.2 Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng lao động
* Cơ quan tiến hành tố tụng lao động
Cơ quan tiến hành tố tụng lao động là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết các vụ việc lao động, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng lao động.
Cơ quan tiến hành tố tụng lao động bao gồm Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, trong tố tụng lao động, Tòa án có các nhiệm
vụ, quyền hạn chủ yếu sau:
- Thụ lý các vụ việc lao động thuộc thẩm quyền để giải quyết;
- Lập hồ sơ vụ việc lao động;
- Thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không tự thu thập được và có
yêu cầu;
- Hòa giải các vụ án lao động;
- Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp
luật;
- Tổ chức phiên tòa để xét xử các vụ án lao động, tổ chức phiên họp để giải quyết
các việc lao động.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Trong tố tụng lao động, Viện kiểm sát có các nhiệm vụ, quyền hạn chủ
yếu sau:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc lao động;
- Yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án theo quy định
của pháp luật;
- Tham gia các phiên tòa xét xử vụ án lao động, phiên họp giải quyết việc lao
động theo quy định của pháp luật.
* Người tiến hành tố tụng lao động
Người tiến hành tố tụng lao động là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc giải quyết vụ việc lao động, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng lao
động. Người tiến hành tố tụng lao động gồm có: Chánh án Tòa án; Thẩm phán; Hội
thẩm nhân dân; Thẩm tra viên; Thư ký Tòa án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên; Kiểm tra viên.
Chánh án Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức việc giải quyết các vụ việc lao
động thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Thẩm phán là người tiến hành tố tụng chủ yếu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc lao động.
Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng được bầu để tham gia giải quyết
các vụ việc lao động tại phiên tòa sơ thẩm. Đối với vụ án lao động, Hội thẩm nhân dân
là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có
kiến thức về pháp luật lao động (Điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Thẩm tra viên là người thẩm tra hồ sơ các vụ việc dân sự theo quy định, thu thập
tài liệu chứng cứ có liên quan, hỗ trợ thẩm phán thực hiện hoạt động tố tụng dân sự.
Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc ghi biên bản tố tụng và tiến hành những công việc khác theo sự phân công của
Chánh án Tòa án và Thẩm phán.
Viện trưởng Viện kiểm sát là người tổ chức kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giải quyết các vụ việc lao động.
Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc giải quyết các vụ việc lao động theo sự phân công và dưới sự chỉ đạo
của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Kiểm tra viên là người nghiên cứu hồ sơ vụ việc, lập hồ sơ kiểm sát vụ việc, giúp
kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của người tiến hành tố tụng lao động được quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (từ điều 46 đến điều 62).
* Người tham gia tố tụng lao động
Trong tố tụng lao động, ngoài những người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ
giải quyết các vụ việc lao động, còn có cá nhân, cơ quan, tổ chức khác tham gia vào
giải quyết vụ việc lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người
khác hoặc hỗ trợ cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ việc lao động.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức này gọi là người tham gia tố tụng lao động.
Người tham gia tố tụng lao động là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc
lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ
Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc lao động. Người tham gia tố tụng lao động
được chia thành hai nhóm: (1) Đương sự và (2) Người tham gia tố tụng khác.
*Đương sự
Đương sự trong vụ án lao động là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân sự là cơ
quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn trong vụ án lao động là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ
chức khác do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ án lao động khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Bị đơn trong vụ án lao động là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ
chức khác khởi kiện khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người
đó xâm phạm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án lao động là người tuy không
khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án lao động có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc được các đương sự khác đề
nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết vụ án lao động có liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người yêu cầu giải quyết việc lao động là người yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về lao
động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận
cho mình quyền về lao động.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc lao động là người tuy không
yêu cầu giải quyết việc lao động nhưng việc giải quyết có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự đề nghị và được Tòa án
chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Trường hợp giải quyết việc lao động có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Năng lực pháp luật tố tụng lao động, năng lực hành vi tố tụng lao động và quyền,
nghĩa vụ tố tụng của đương sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(từ điều 69 đến điều 74).
* Người tham gia tố tụng khác
Người tham gia tố tụng khác bao gồm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người đại diện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ có thể là luật sư hoặc một
người khác có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Đối với vụ án lao động,
người đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động trong vụ việc lao động theo quy định của pháp luật lao động,
công đoàn (Điểm c Khoản 2 điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ việc lao động
được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm
chứng.
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của
pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc
đương sự yêu cầu giám định theo quy định.
Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt
và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng
Việt. Người phiên dịch được một bên đương sự lựa chọn hoặc các bên đương sự thỏa
thuận lựa chọn và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để phiên dịch.
Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu
của người khuyết tật nghe, nói cũng được coi là người phiên dịch. Trường hợp chỉ có
người đại diện hoặc người thân thích của người khuyết tật nhìn hoặc người khuyết tật
nghe, nói biết được chữ, ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật thì người đại diện
hoặc người thân thích có thể được Tòa án chấp nhận làm người phiên dịch cho người
khuyết tật đó.
Người đại diện trong tố tụng lao động bao gồm người đại diện theo pháp luật và
người đại diện theo ủy quyền.
Người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện
theo pháp luật trong tố tụng lao động, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo
quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng lao động
của người được bảo vệ.
Tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể
người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích
hợp pháp của tập thể người lao động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động
đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người
lao động ủy quyền. Trường hợp nhiều người lao động có cùng yêu cầu đối với người
sử dụng lao động, trong cùng một doanh nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một
đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động thay mặt họ khởi kiện vụ án lao động,
tham gia tố tụng tại Tòa án. (Khoản 3 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng lao động là người đại diện theo ủy
quyền theo quy định của Bộ luật dân sự.
Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người đại diện quy định trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Từ Điều 75 đến Điều 90).
3.3 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong tố tụng lao động
Thẩm quyền về lao động của Tòa án nhân dân là thẩm quyền xem xét, giải quyết
các vụ việc lao động, quyền ra các bản án, quyết định khi giải quyết các vụ việc lao
động đó theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền về lao động của Toà án được xác
định theo vụ việc, cấp tòa, lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn và người yêu
cầu.
* Thẩm quyền của Toà án theo vụ việc.
Thẩm quyền về lao động của Tòa án theo vụ việc là thẩm quyền của Tòa án trong
việc thụ lý giải quyết các vụ việc lao động theo thủ tục tố tụng dân sự. Việc xác định
thẩm quyền theo vụ việc cũng là xác định các loại tranh chấp trong lĩnh vực dân sự
(dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình).
Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết tất cả các tranh chấp lao động và các yêu
cầu về lao động được quy định tại điều 32 và điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
* Thẩm quyền của Tòa án theo cấp
Thẩm quyền của Tòa án theo cấp được hiểu là Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải
quyết vụ việc lao động nào theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Tòa án cấp huyện) có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp lao động quy định tại điều
32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các yêu cầu về lao động quy định tại Khoản 1,
5 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Điều 35, 36 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Tòa án cấp tỉnh) có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về lao động mà có
đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại
diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài. Tòa án nhân dân cấp tỉnh còn có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Điều 37, 38
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015)
* Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp chỉ mới đề cập việc phân định vụ việc
lao động nào thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp nào mà chưa xác định Tòa án địa
phương nào có thẩm quyền giải quyết các vụ việc lao động. Xác định thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền sơ thẩm vụ việc lao động giữa các
Tòa án cùng cấp.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp lao động là
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (đối với trường hợp bị đơn là cá nhân) hoặc Tòa án
nơi bị đơn có trụ sở (đối với trường hợp bị đơn là cơ quan, tổ chức). Các đương sự
cũng có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm
việc, đặt trụ sở của nguyên đơn giải quyết các tranh chấp lao động (Khoản 1 Điều 39
Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
Đối với việc giải quyết các việc lao động, thẩm quyền của Tòa án được quy định
theo Điểm d, đ, e, s, v, x Khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
* Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên đơn trong việc yêu cầu Tòa án giải
quyết các tranh chấp lao động, pháp luật quy định một số trường hợp nguyên đơn có
quyền lựa chọn Tòa án để khởi kiện vụ án lao động. Đó là các trường hợp tại điểm a,
b, c, đ, e, g, h Khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bộ luật lao động
2015 không quy định quyền lựa chọn của người yêu cầu trong các việc lao động.
Trong trường hợp vụ việc lao động đã được Toà án thụ lý nhưng sau đó phát hiện
ra là không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Toà án đó ra quyết định chuyển
hồ sơ vụ việc lao động cho Toà án có thẩm quyền, xóa tên vụ án trong sổ thụ lý. Quyết
định phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan (Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
3.4 Thủ tục giải quyết vụ án lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm
* Khởi kiện và thụ lý vụ án lao động:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường
hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được
người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện và phải thực hiện theo
điều 189, 190 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thủ tục nhận đơn kiện, xử lý đơn kiện, trả lại đơn kiện, yêu cầu sửa đổi bổ sung,
đơn kiện được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Điều 191, 192, 193).
Thụ lý vụ án lao động là việc Tòa án chấp nhận đơn kiện của đương sự để giải
quyết vụ án lao động. Thủ tục thụ lý vụ án, thông báo việc thụ lý vụ án, phân công
thẩm phán giải quyết thực hiện theo Điều 195, 196, 197, 198, 199 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015.
Trong giai đoạn này, cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của
mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền có yêu cầu độc lập
nếu đủ điều kiện. Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo
quy định của pháp luật về thủ tục khởi kiện (Điều 200, 201, 202 Bộ luật tố tụng dân sự
2015).
* Hòa giải và chuẩn bị xét xử vụ án lao động
Hòa giải là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án lao động. Cơ sở của hòa giải vụ án lao
động là quyền tự định đoạt của các bên có tranh chấp. Tòa án có trách nhiệm tiến hành
hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án lao động, trừ những vụ án không được hòa giải và những vụ án không tiến
hành hòa giải được.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án
lao động thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự. Việc hòa giải thành vụ án lao động có ý nghĩa quan trọng trong
việc giải quyết vụ án lao động vì một mặt Tòa án không cần phải mở phiên tòa giải
quyết vụ án, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài, phức tạp, tiết kiệm thời gian và
tiền của cho nhà nước, cho người lao động và người sử dụng lao động; mặt khác góp
phần bảo đảm mối quan hệ thân thiện giữa người lao động và người sử dụng lao động
trong quan hệ lao động.
Việc hòa giải được tiến hành theo nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận
của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các
đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Nội dung thỏa thuận giữa
các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại án lao động có thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày
thụ lý vụ án (trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước
ngoài). Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
nhưng không quá 01 tháng. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ
án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết
vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án lao động, tùy thuộc vào những trường hợp
cụ thể, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có quyền đưa ra các quyết định
sau đây:
+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
+ Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
+ Đưa vụ án ra xét xử.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử vụ án lao động được quy định trong Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 (Từ Điều 203 đến Điều 221).
* Phiên tòa sơ thẩm vụ án lao động
Phiên tòa sơ thẩm vụ án lao động là phiên tòa xét xử lần đầu của Tòa án đối với vụ
án lao động. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án sẽ quyết định giải quyết các vấn đề của vụ
án, xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự làm cơ sở cho việc thi hành án.
Phiên tòa sơ thẩm được tiến hành bởi Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và hai
Hội thẩm nhân dân; trường hợp đặc biệt thì có thể có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm
nhân dân, với sự có mặt của đương sự và những người tham gia tố tụng khác theo quy
định của pháp luật. Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có
Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em.
Trình tự tiến hành phiên tòa sơ thẩm bao gồm: thủ tục khai mạc phiên tòa, tranh
tụng tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Phiên tòa sơ thẩm vụ án lao động được quy
định cụ thể tại Chương 14 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (từ Điều 222 đến Điều
269).
3.5 Thủ tục giải quyết vụ án lao động tại Tòa án cấp phúc thẩm
*Khái niệm
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị.
Mục đích của việc xét xử phúc thẩm là để khắc phục những sai sót của Tòa án cấp
sơ thẩm trong bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và cũng để Tòa án cấp
trên kiểm tra chất lượng xét xử của Tòa án cấp dưới, qua đó, rút kinh nghiệm chỉ đạo
hoạt động xét xử được thống nhất, đúng pháp luật.
*Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Kháng cáo là hoạt động tố tụng theo đó, đương sự, người đại diện hợp pháp của
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm,
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ
tục phúc thẩm.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có
mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn
kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với
trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia
phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời
hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.
Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định.
Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo
được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong
bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn
kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận.
Kháng nghị là hoạt động tố tụng mà theo đó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp
và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ
thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát
cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên
án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ
ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết
định.
Đơn kháng cáo và quyết định kháng nghị được gửi đến Tòa án cấp sơ thẩm đã xét
xử vụ án và Tòa án này phải gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn luật định.
Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị là những phần của bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật
quy định cho thi hành ngay; những phần của bản án, quyết định không bị kháng cáo,
kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tính chất của xét xử phúc thẩm và kháng cáo, kháng nghị quy định trong Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 (Từ Điều 284 đến Điều 284).
* Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Chuẩn bị xét xử phúc thẩm là giai đoạn tố tụng mà Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý
vụ án, thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công Thẩm phán làm chủ tọa
phiên tòa. Trong giai đoạn này, căn cứ vào tình hình cụ thể của vụ án, Tòa án cấp phúc
thẩm có thể ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ xét xử vụ án, quyết định đưa vụ
án ra xét xử, quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thủ tục chuẩn bị xét xử phúc phẩm được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 (Từ Điều 285 đến Điều 292)5.
* Thủ tục xét xử phúc thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị.
Thủ tục làm việc tại phiên tòa phúc thẩm về cơ bản cũng tương tự như phiên tòa
sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm ba Thẩm phán (Điều 64 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015).
Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền: Giữ nguyên bản án sơ thẩm; Sửa bản án sơ
thẩm; Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm; Hủy bản án sơ thẩm và
đình chỉ giải quyết vụ án; Đình chỉ xét xử phúc thẩm. Ngoài ra còn có thể tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy
phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản trả
lời Tòa án kết quả xử lý.
Thủ tục xét xử phúc thẩm được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (từ
điều 293 đến Điều 315)
3.6 Thủ tục xét lại quyết định, bản án lao động đã có hiệu lực
Về nguyên tắc, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được
mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy
có trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện
có sai lầm nghiêm trọng hoặc có những tình tiết mới có khả năng làm thay đổi cơ bản
nội dung của vụ án. Trong các trường hợp đó, pháp luật quy định việc xem xét lại bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và tái
thẩm.
*Thủ tục giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ theo quy định pháp luật.
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện
được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không
được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
+ Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định
không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Người có thẩm quyền kháng nghị là:
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ.
Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 03 năm kể từ ngày bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền:
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật;
+ Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản
án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa;
+ Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm;
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án;
+ Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.
Những vấn đề pháp lý về thủ tục giám đốc thẩm được quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 (Từ Điều 325 đến Điều 350)
Ngoài ra Tòa án có thể áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm (từ Điều 316 đến Điều 324 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Thủ tục rút gọn
được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện với trình tự đơn giản so với
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng
nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật.
*Thủ tục tái thẩm
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án,
quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định
đó.
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ:
+ Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể
biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên
dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
+ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án
hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
+ Bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa
án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ.
Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết
định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm kể từ ngày người có thẩm
quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị.
Hội đồng xét xử tái thẩm có thẩm quyền:
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật.
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ
tục do Bộ luật này quy định.
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Những vấn đề pháp lý về thủ tục tái thẩm được quy định trong Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 (Từ Điều 351 đến Điều 357)
3.7 Giải quyết việc lao động tại Tòa án nhân dân.
* Giải quyết việc lao động
Giải quyết việc lao động là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp,
nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn
cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về lao động.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn
yêu cầu với những nội dung theo quy định của pháp luật. Kèm theo đơn yêu cầu phải
có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ pháp luật. Thủ
tục giải quyết yêu cầu về lao động gồm thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu, thông báo
thụ lý đơn yêu cầu, chuẩn bị xét đơn yêu cầu, phiên họp giải quyết việc lao động;
quyết định giải quyết việc dân sự (Từ Điều 361 đến Điều 370 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015).
Quyết định giải quyết việc lao động có thể bị người yêu cầu, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan kháng cáo và Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm (Từ Điều 371 đến Điều 375 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
* Giải quyết yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động
tập thể vô hiệu
Người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên bố hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu khi có căn cứ theo quy định của Bộ
luật lao động (Điều 401 Bộ luật lao động năm 2015).
Theo Điều 402 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thủ tục xem xét yêu cầu tuyên bố
hợp đồng vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu được thực hiện như sau:
Thời hạn chuẩn bị xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu là 10 ngày,
thỏa ước lao động tập thể vô hiệu là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu.
Hết thời hạn này, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động
tập thể vô hiệu, Tòa án có trách nhiệm gửi thông báo thụ lý cho người có đơn yêu cầu,
người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động và Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Tòa án
phải mở phiên họp để xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Tòa án phải mở phiên họp để xét yêu
cầu tuyên bố thỏa ước lao động tập thể vô hiệu.
Khi xét đơn yêu cầu, Thẩm phán có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu
tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu. Trường hợp
chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán ra quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu,
thỏa ước lao động tập thể vô hiệu. Trong quyết định này, Tòa án phải giải quyết hậu
quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô
hiệu. Quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô
hiệu phải gửi đến người có đơn hoặc văn bản yêu cầu, người sử dụng lao động, tổ chức
đại diện tập thể lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động nơi doanh nghiệp
đóng trụ sở chính, cơ quan quản lý nhà nước về lao động cùng cấp trong trường hợp có
liên quan đến doanh nghiệp không có trụ sở chính tại Việt Nam.
*Thủ tục xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
Thủ tục xét tính hợp pháp của cuộc đình công được quy định ở chương 31 (từ
Điều 403 đến Điều 413) Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và được phân tích trong nội
dung của Bài 9 về Đình công.
4. HÒA GIẢI TRANH CHẤP LAO ĐỘNG THEO LUẬT HÒA GIẢI VÀ ĐỐI
THOẠI TẠI TÒA ÁN.
Ngày 16/6/2020 Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 9 thông qua Luật Hòa giải và
đối thoại tại Tòa án số 58/2020/QH14. Luật quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà
nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án,
các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án trong hoạt
động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại và công nhận kết quả hòa
giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.
Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa án được
thực hiện trước khi Tòa án thụ lý vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Như vậy với các tranh chấp lao động thì các bên có thể lựa chọn hòa giải theo
quy định của Luật Hòa giải và đối thoại tại tòa án năm 2020 trước khi khởi kiện ra Tòa
án.
4.1 Khái niệm và nguyên tắc hòa giải
Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi
Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định (Khoản 2 Điều 2 Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa
án năm 2020).
Hòa giải viên tại Tòa án (sau đây gọi là Hòa giải viên) là người có đủ điều kiện,
được Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm để tiến hành hòa giải tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) và đối thoại khiếu kiện hành
chính theo quy định (Khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa án)5
Hòa giải thành là thông qua hòa giải, các bên tham gia hòa giải tự nguyện thỏa
thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự mà phần này không liên
quan đến những phần khác của vụ việc dân sự đó.
Các bên tham gia hòa giải là cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến vụ việc
dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Điều 3 Luật Hòa giải và đối thoại tại tòa án năm 2020 quy định nguyên tắc hòa
giải như sau:
Các bên tham gia hòa giải phải tự nguyện hòa giải.
Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận, thống nhất của các bên; không được ép
buộc các bên thỏa thuận, thống nhất trái với ý chí của họ.
Bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác.
Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải phải được giữ bí mật theo quy định
tại Điều 4 của Luật.
Phương thức hòa giải được tiến hành linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế,
đặc điểm của mỗi loại vụ việc.
Hòa giải viên tiến hành hòa giải độc lập và tuân theo pháp luật.
Tiếng nói và chữ viết dùng trong hòa giải là tiếng Việt. Người tham gia hòa giải
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình; trường hợp này họ có thể
tự bố trí hoặc đề nghị Hòa giải viên bố trí phiên dịch cho mình.
Người tham gia hòa giải là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có
quyền dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường
hợp này phải có người biết ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết
tật để dịch lại và họ cũng được coi là người phiên dịch.
Bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong hòa
giải.
5
Chương 2 Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa án 2020 quy định điều kiện, tiêu chuẩn hòa giải viên, Bổ
nhiệm Hòa giải viên và quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên.
4.2 Trình tự thủ tục Hòa giải và công nhận kết quả hòa giải thành
Trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên (Điều
16)
Lựa chọn, chỉ định Hòa giải viên (Điều 17, 18)
Thời hạn hòa giải tại Tòa án (Điều 21)
Phương pháp hòa giải tại Tòa án (Điều 22)
Phiên hòa giải tại Tòa án (Điều 24, 25, 26)
Phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải tại Tòa án (Điều 27, 28, 29, 30, 31)
Ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành (Điều
32, 33, 34, 35)
Xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành (Điều 36, 37, 38, 39)
Chấm dứt hòa giải tại Tòa án (Điều 40, 41)
4.3 Trách nhiệm của Tòa án và quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải
Trách nhiệm của Tòa án án (Điều 7)
Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia (Điều 8)
Quyền và nghĩa vụ của Hòa giải viên (Điều 14, 23)
6
Khoản 1 Điều 15, Điều 16 Bộ luật lao động 2019
7
Điều 19 Bộ luật lao động 2019
- Thứ ba: khi các bên tiến hành giao kết hợp đồng lao động thì khuyến khích
những thỏa thuận trong hợp đồng có lợi hơn cho người lao động. Pháp luật lao động
quy định cho người lao động những quyền lợi tối thiểu mà họ phải có được khi tham
gia quan hệ lao động và nghĩa vụ tối đa mà người sử dụng lao động có thể yêu cầu. Vì
vậy, trong quá trình thỏa thuận, luôn khuyến khích những quy định đem lại lợi ích cao
hơn cho người lao động so với quy định khung.
Thứ tư: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao
động tập thể và đạo đức xã hội 8. Nội dung của hợp đồng không được trái pháp luật nói
chung và pháp luật lao động nói riêng, không trái thỏa ước lao động tập thể và không
trái đạo đức xã hội. Các điều khoản của hợp đồng lao động chính là sự cụ thể hóa
những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên mà pháp luật lao động đã quy định
nhưng không được trái pháp luật. Ví dụ: Nhà nước không đặt mức lương tối đa nhưng
lại quy định số giờ làm việc không được vượt quá, v.v... Thỏa thuận của hai bên trong
hợp đồng không trái với thỏa ước lao động tập thể; quyền lợi trong hợp đồng lao động
không thấp hơn trong thỏa ước lao động tập thể, nếu thấp hơn phải thay đổi và thực
hiện theo thỏa ước lao động tập thể.
2.2 Chủ thể của hợp đồng lao động
Chủ thể của quan hệ hợp đồng lao động là các cá nhân hoặc tổ chức tham gia vào
quan hệ hợp đồng lao động để được hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ
pháp lý nhất định. Các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng lao động gồm một bên là
người lao động và một bên là người sử dụng lao động. Các chủ thể phải có đầy đủ
những điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi thì mới có thể tham gia vào
quan hệ pháp luật lao động và giao kết hợp đồng lao động.
2.2.1 Người lao động
“Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận,
được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động”
(Khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động 2019)
8
Khoản 2 Điều 15 Bộ luật lao động 2019
Người lao động là cá nhân có đủ năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi
lao động. Năng lực pháp luật lao động là khả năng mà pháp luật quy định cho cá nhân
đó được tham gia vào quan hệ hợp đồng lao động để được hưởng quyền và thực hiện
những nghĩa vụ nhất định. Năng lực hành vi là khả năng mà cá nhân có thể tự mình
tham gia vào quan hệ hợp đồng lao động. Người lao động được coi là có đầy đủ năng
lực hành vi khi đạt đến độ tuổi nhất định và có trí tuệ phát triển bình thường. Pháp luật
lao động quy định độ tuổi tối thiểu để người lao động được tham gia vào quan hệ hợp
đồng lao động là 15 tuổi. Người đủ 15 tuổi, phát triển bình thường có khả năng lao
động thì có thể giao kết và thực hiện hợp đồng lao động.
Tuy nhiên, điều kiện về năng lực chủ thể không đồng nghĩa với điều kiện tuyển
dụng. Không phải tất cả những chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật lao động và năng
lực hành vi lao động là đã có thể tham gia ký kết hợp đồng lao động mà khi ký kết hợp
đồng lao động để thực hiện một công việc nhất định thì người lao động còn phải đáp
ứng những yêu cầu riêng của người sử dụng lao động như hiểu biết về công việc, trình
độ, kinh nghiệm, học vấn, ngoại ngữ, v.v... Một số người bị tước hoặc bị hạn chế năng
lực pháp luật lao động, ví dụ như đang bị tạm giữ, tạm giam, bị pháp luật cấm làm
những công việc hoặc đảm nhiệm những chức vụ nhất định.
Khi giao kết hợp đồng lao động với lao động chưa thành niên (người lao động
chưa đủ 18 tuổi) cần phải tuân thủ một số quy định riêng theo Mục 1 Chương XI (Từ
điều 143 đến 147 Bộ luật lao động 2019).
Nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành niên (Điều 144 Bộ luật lao động 2019)
- Lao động chưa thành niên chỉ được làm công việc phù hợp với sức khỏe để bảo
đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách.
- Người sử dụng lao động khi sử dụng lao động chưa thành niên có trách nhiệm
quan tâm chăm sóc người lao động về các mặt lao động, sức khỏe, học tập trong quá
trình lao động.
- Khi sử dụng lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động phải có sự đồng
ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ; lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng
năm sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khỏe định kỳ và xuất
trình khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
- Người sử dụng lao động phải tạo cơ hội để lao động chưa thành niên được học
văn hóa, giáo dục nghề nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.
Các quy định cụ thể về công việc đối với người chưa thành niên:
- Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được làm công việc hoặc làm
việc ở nơi làm việc pháp luật cấm (Điều 147 của Bộ luật lao động 2019).
- Người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh
mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.
- Người sử dụng lao động không được tuyển dụng và sử dụng người chưa đủ 13
tuổi làm việc, trừ các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại
đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi và phải có sự
đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam là người có quốc tịch
nước ngoài, phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp lý và chỉ được làm công việc vị trí
quản lý, điều hành, chuyên gia, lao động kỹ thuật mà người lao động Việt Nam chưa
đáp ứng được theo như cầu sản xuất kinh doanh (Điều 151, 152 Bộ luật lao động
2019). Ngoài ra còn có người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc
diện cấp giấy phép lao động.
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phải tuân theo quy định của
pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Công dân Việt Nam làm việc cho các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, trong khu
công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao hoặc làm việc cho cá nhân
là công dân nước ngoài tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam và được pháp
luật bảo vệ.
Thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động (Khoản 1, 2, 4 Điều 18 Bộ luật lao động
2019)
Người lao động trực tiếp giao kết hợp đồng lao động. Đối với công việc theo mùa
vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì nhóm người lao động từ đủ 18
tuổi trở lên có thể ủy quyền cho một người lao động trong nhóm để giao kết hợp đồng
lao động; trong trường hợp này, hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản
và có hiệu lực như giao kết với từng người lao động. Hợp đồng lao động do người
được ủy quyền ký kết phải kèm theo danh sách ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh,
giới tính, nơi cư trú và chữ ký của từng người lao động.
Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người lao động là người thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
- Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi có sự đồng ý bằng văn
bản của người đại diện theo pháp luật của người đó;
- Người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó;
- Người lao động được những người lao động trong nhóm ủy quyền hợp pháp
giao kết hợp đồng lao động.
Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động không được ủy quyền lại cho
người khác giao kết hợp đồng lao động.
2.2.2 Người sử dụng lao động
“Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia
đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa
thuận; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ” (Khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động 2019).
Người sử dụng lao động là tổ chức thì phải có đầy đủ tư cách pháp lý và đủ điều
kiện cần thiết đảm bảo cho việc sử dụng lao động như khả năng trả lương, bảo đảm
điều kiện lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội v.v…
Người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
có đủ năng lực và tài sản để tổ chức quá trình lao động và đảm bảo quyền lợi cho
người lao động.
Thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động (Khoản 3 Điều 18 Bộ luật lao động
2019)
Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động là người
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền
theo quy định của pháp luật;
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp
luật hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;
- Người đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;
- Cá nhân trực tiếp sử dụng lao động.
2.3 Nội dung của hợp đồng lao động
Đối tượng của hợp đồng lao động là “Việc làm” - là công việc mà người lao động
sẽ phải thực hiện. Việc làm chính là nội dung thỏa thuận để các bên thông qua đó xác
lập quan hệ lao động với nhau. Trên thị trường lao động, việc làm rất đa dạng và có
nhiều loại với những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau. Mọi công việc, hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
Nội dung của hợp đồng là toàn bộ các vấn đề mà hai bên thương lượng, bàn bạc
và đưa vào hợp đồng, trong đó có chứa đựng quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp
đồng phải đảm bảo các nội dung chủ yếu theo quy định của pháp luật lao động. Các
bên thỏa thuận những nội dung của điều khoản nhưng không được trái pháp luật, trái
thỏa ước lao động tập thể. Căn cứ vào tính chất nội dung, hợp đồng lao động có các
loại điều khoản sau:
Điều khoản thường lệ: Là những điều khoản thông thường mà nội dung đã được
quy định theo pháp luật và hai bên có thể thỏa thuận đưa vào hoặc không đưa vào nội
dung của hợp đồng. Nếu có ghi nhận trong hợp đồng thì phải phù hợp với quy định
của pháp luật. Nếu không quy định trong hợp đồng thì coi như hai bên đã mặc nhiên
thừa nhận và trong quá trình thực hiện hợp đồng phải tuân thủ các quy định của pháp
luật.
Điều khoản chủ yếu: Những điều khoản cơ bản mà bắt buộc phải có trong mỗi
bản hợp đồng lao động, nếu thiếu thì hợp đồng lao động không thể giao kết được.
Điều 21 Bộ luật lao động 2019 quy định các điều khoản chủ yếu sau:
Tên, địa chỉ người sử dụng lao động và họ tên, chức danh của người giao kết
hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động. Tên người sử dụng lao động xác
định theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận
đầu tư hoặc quyết định thành lập cơ quan, tổ chức; trường hợp là cá nhân thì ghi họ và
tên người sử dụng lao động theo chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu được cấp. Địa
chỉ của người sử dụng lao động ghi theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hợp
tác xã hoặc giấy chứng nhận đầu tư hoặc quyết định thành lập cơ quan, tổ chức theo
quy định của pháp luật.
Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, số thẻ căn cước công dân,
chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người giao kết hợp đồng lao động bên phía
người lao động. Số căn cước hoặc chứng minh nhân dân hoặc số hộ chiếu do cơ quan
có thẩm quyền cấp của người lao động. Số giấy phép lao động, ngày tháng năm cấp,
nơi cấp giấy phép lao động của cơ quan có thẩm quyền cấp đối với lao động là người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Công việc và địa điểm làm việc: sự thỏa thuận về công việc phải làm là yếu tố
quan trọng mà hai bên phải xác định rõ vì vậy đây là điều khoản chủ yếu có ảnh hưởng
đến nội dung của các điều khoản khác. Công việc là công việc mà người lao động phải
thực hiện. Địa điểm là phạm vi, địa điểm người lao động làm công việc đã thỏa thuận.
Nếu người lao động làm việc ở nhiều địa điểm khác nhau thì ghi các địa điểm chính
người lao động làm việc.
Thời hạn hợp đồng: các bên lựa chọn loại thời hạn (theo mùa vụ, xác định thời
hạn, không xác định thời hạn) phù hợp với tính chất công việc của hợp đồng và trên cơ
sở mức độ tin cậy về chất lượng công việc mà người lao động đạt được. Thời gian thực
hiện hợp đồng lao động được tính bằng số tháng hoặc số ngày, thời điểm bắt đầu và
thời điểm kết thúc thực hiện hợp đồng lao động (đối với hợp đồng lao động xác định
thời hạn); thời điểm bắt đầu thực hiện hợp đồng lao động (đối với hợp đồng lao động
không xác định thời hạn).
Mức lương theo công việc hoặc chức danh, hình thức trả lương, thời hạn trả
lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Tiền lương chính là tiền công của
việc làm, tiền thù lao mà người sử dụng lao động có trách nhiệm trả cho người lao
động căn cứ vào công việc mà hai bên đã thỏa thuận. Mức lương, hình thức trả
lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác các bên thỏa thuận theo quy định của
pháp luật.
Chế độ nâng bậc, nâng lương: theo nội dung thỏa thuận của hai bên về điều
kiện, thời gian, mức tiền lương sau khi nâng bậc, nâng lương hoặc thỏa thuận thực
hiện theo quy chế của người sử dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể.
Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi: Theo nội dung thỏa thuận của hai bên
hoặc thỏa thuận thực hiện theo nội quy lao động, quy chế của người sử dụng lao động,
thỏa ước lao động tập thể và theo quy định của pháp luật.
Trang bị bảo hộ cho người lao động: là một nội dung của điều kiện lao động,
điều kiện về an toàn, vệ sinh lao động. Những điều kiện này rất quan trọng cho việc
đảm bảo tái sản xuất sức lao động của người lao động đồng thời góp phần cho sự tiến
bộ xã hội trong vấn đề nhân quyền. Trang bị bảo hộ cho người lao động theo nội quy
lao động, quy chế của người sử dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể và theo quy
định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế: thuộc trách nhiệm của
người sử dụng lao động và của người lao động. Thỏa thuận theo quy định của pháp
luật về lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế.
Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề. Quyền, nghĩa vụ của
người sử dụng lao động và người lao động trong việc đảm bảo thời gian, kinh phí đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.
Các nội dung khác liên quan đến thực hiện nội dung mà hai bên thỏa thuận.
Điều khoản tùy nghi: Căn cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên. Pháp luật
khuyến khích các bên thỏa thuận về những điều kiện khác nhằm bảo đảm cho quan hệ
pháp luật lao động được duy trì ổn định và chấm dứt mà không xảy ra tranh chấp.
Ngoài ra, còn có thể phân loại điều khoản dựa trên những căn cứ khác:
- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh các điều khoản ta có: Điều khoản trực tiếp là
điều khoản do các bên tự thương lượng, tự thỏa thuận (công việc, trình độ chuyên
môn, thời hạn hợp đồng v.v...); Điều khoản gián tiếp là những điều khoản do pháp luật
quy định mà các bên đương nhiên phải chấp nhận (an toàn lao động, vệ sinh lao động
v.v...).
- Căn cứ vào tính chất bắt buộc của các điều khoản: Điều khoản bắt buộc (điều
khoản cứng) là các điều khoản các bên không được phép thỏa thuận (đã được quy định
trước trong pháp luật); Điều khoản thỏa thuận (điều khoản mềm) là điều khoản các bên
thương lượng trong khuôn khổ pháp luật.
2.1 Hình thức của hợp đồng lao động
Hình thức của hợp đồng là cách thức chứa đựng các điều khoản mà các bên đã
thỏa thuận. Hợp đồng lao động được thiết lập theo hình thức bằng văn bản hoặc lời nói
(Điều 14 Bộ luật lao động 2019).
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức phổ biến nhất của hợp đồng lao
động. Do tính chất của quan hệ lao động là lâu dài và phức tạp do vậy pháp luật lao
động quy định hình thức của hợp đồng phải làm bằng văn bản. Hợp đồng lao động
được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01
bản.
Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp
đồng lao động bằng văn bản.
Hình thức hợp đồng bằng lời nói là việc giao kết hợp đồng chỉ thông qua quá
trình thỏa thuận, đàm phán bằng lời nói mà không lập thành văn bản. Chỉ trong
trường hợp giao kết hợp đồng đối với công việc có tính chất tạm thời có thời hạn
dưới 01 tháng thì các bên có thể chọn hình thức hợp đồng này tuy nhiên nếu giao kết
theo hình thức lời nói thì các bên vẫn phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Khi giao kết hợp đồng bằng lời nói nếu cần có người thứ ba chứng kiến thì hai bên
có thể thỏa thuận. Pháp luật quy định những trường hợp không được giao kết bằng lời
nói.9
Tại một số nước, hợp đồng lao động còn có thể được tạo lập thông qua hành vi
(Ví dụ: chủ thể của hợp đồng là người tàn tật) - hình thức này khá đặc biệt, ít được
thực hiện và chưa được pháp luật lao động Việt Nam công nhận, nhưng sẽ là chưa đầy
đủ nếu pháp luật không đề cập tới.
Trong các hình thức hợp đồng thì hình thức bằng văn bản là hình thức bảo đảm
nhất cho quyền lợi của người lao động đặc biệt đối với những vấn đề liên quan đến
chức năng quản lý nhà nước hoặc chức năng xét xử của các cơ quan tư pháp.
104
Như vậy, các thời điểm có thể xác định làm căn cứ phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
(a) Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày các bên tiến hành giao kết hợp
đồng.
(b) Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày các bên thỏa thuận
(c) Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày người lao động bắt đầu làm việc.
(d) Hợp đồng lao động có hiệu lực từ thời điểm mà pháp luật quy định.
Thông thường hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày các bên tiến hành giao
kết - trường hợp (a). Tuy nhiên có nhiều trường hợp hợp đồng lao động có hiệu lực
trước hoặc sau khi giao kết - trường hợp (b) và (c). Việc xác định thời điểm có hiệu lực
phụ thuộc vào các bên giao kết. Các bên cần xác định rõ hai thời điểm có thể không
đồng nhất là thời điểm có hiệu lực và thời điểm người lao động bắt đầu làm việc.
Trường hợp người lao động đi làm ngay sau khi ký hợp đồng thì ngày có hiệu lực là
ngày ký kết. Trường hợp người lao động đi làm một thời gian sau đó mới ký hợp đồng
hoặc hợp đồng giao kết bằng lời nói thì ngày có hiệu lực là ngày người lao động bắt
đầu làm việc.
* Thử việc
Khi ký kết hợp đồng lao động hai bên có thể thỏa thuận về việc làm thử (thời
gian thử việc). Thời gian thử việc nhằm mục đích giúp người sử dụng lao động xem
xét khả năng của người lao động để quyết định tuyển dụng chính thức. Đây cũng là dịp
để người lao động tự xét khả năng của mình xem có đáp ứng công việc hay không,
điều kiện lao động, quan hệ đồng nghiệp, cách đối xử của người chủ như thế nào v.v…
Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi
trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử
việc. Hai bên có thể thỏa thuận về thời gian làm thử nhưng vì trong thời gian thử việc,
người lao động được hưởng lương thấp hơn, chế độ cũng không được đầy đủ nên để
ngăn ngừa người sử dụng lao động lợi dụng kéo dài thời gian gây thiệt hại cho người
lao động pháp luật đã quy định thời hạn thử việc (Điều 25 Bộ luật lao động 2019).
- Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo
quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;
- Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ
chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
- Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ
chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;
- Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.
Không áp dụng thử việc đối với người lao động giao kết hợp đồng lao động có
thời hạn dưới 01 tháng và chỉ được thử việc 01 lần đối với một công việc. Tiền lương
trong thời gian thử việc cũng do hai bên thỏa thuận nhưng không thấp hơn 85% mức
105
lương quy định cho công việc đó.
Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả
thử việc cho người lao động. Trường hợp thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao
động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận
thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết hợp đồng lao động đối với trường
hợp giao kết hợp đồng thử việc. Trường hợp thử việc không đạt yêu cầu thì chấm dứt
hợp đồng lao động đã giao kết hoặc hợp đồng thử việc. Trong thời gian thử việc, mỗi
bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không
cần báo trước và không phải bồi thường.
Trong quá trình thử việc, người lao động có thể được tham gia các khóa đào tạo
nghề hoặc chuyên môn từ kinh phí của người sử dụng lao động vì vậy các bên cần có
sự thỏa thuận bằng văn bản về việc hoàn trả những chi phí này nếu như sau thời gian
thử việc, các bên không tiếp tục ký kết hợp đồng lao động chính thức.
3.2 Hợp đồng lao động vô hiệu
Hợp đồng lao động có đối tượng và đặc điểm riêng nên điều kiện xác định hợp
đồng lao động vô hiệu và xử lý hợp đồng lao động vô hiệu được pháp luật lao động
quy định theo những căn cứ đặc trưng của quan hệ lao động (không áp dụng những
căn cứ chung xác định hợp đồng dân sự vô hiệu).
Hợp đồng vô hiệu toàn bộ
Hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ khi thuộc một trong các trường hợp tại khoản
1 Điều 49 Bộ luật lao động 2019:
- Toàn bộ nội dung của hợp đồng lao động vi phạm pháp luật: toàn bộ nội dung
hợp đồng vi phạm những điều cấm của pháp luật hoặc quy định quyền lợi của người
lao động thấp hơn quy định của pháp luật thì thỏa thuận hợp đồng sẽ bị hủy bỏ.
- Người giao kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc vi phạm nguyên tắc
giao kết hợp đồng mà pháp luật quy định 10. Bao gồm vấn đề năng lực chủ thể của các
bên ký kết hợp đồng và vấn đề năng lực và thẩm quyền của chính người ký kết hợp
đồng.
- Công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động là công việc bị pháp luật cấm:
Công việc mà hai bên giao kết là công việc bị pháp luật cấm hoặc là công việc cấm
thực hiện đối với người lao động từ 15 đến 18 tuổi hoặc từ 13 đến dưới 15 tuổi hoặc
dưới 13 tuổi trong trường hợp người lao động đang ở trong độ tuổi này.
Hợp đồng vô hiệu từng phần
10
Điều 15. Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động: 1. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác
và trung thực. 2. Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao
động tập thể và đạo đức xã hội.
106
Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của hợp đồng vi phạm quy
định của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần còn lại của hợp
đồng lao động.
Xử lý hợp đồng vô hiệu
Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu từng phần thì xử lý như sau:
- Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của hai bên được giải quyết theo thỏa ước lao động
tập thể đang áp dụng; trường hợp không có thỏa ước lao động tập thể thì thực hiện
theo quy định của pháp luật;
- Hai bên tiến hành sửa đổi, bổ sung phần của hợp đồng lao động bị tuyên bố vô
hiệu để phù hợp với thỏa ước lao động tập thể hoặc pháp luật về lao động.
Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích
của người lao động được giải quyết theo quy định của pháp luật; trường hợp do ký sai
thẩm quyền thì hai bên ký lại.
Việc kết luận hợp đồng lao động vô hiệu thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là tòa án nhân dân (Điều 50 Bộ luật lao động 2019).
4. CHẾ ĐỘ THỰC HIỆN, THAY ĐỔI, TẠM HOÃN, CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG
4.1 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng lao động
Thực hiện hợp đồng là việc các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã cam kết
trong hợp đồng. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng lao động là:
Thực hiện đầy đủ nghiêm chỉnh, đúng đắn các điều khoản hai bên giao kết.
Người sử dụng lao động không được đòi hỏi người lao động làm những công
việc không có trong hợp đồng lao động hoặc làm việc trong những điều kiện không an
toàn, không đảm bảo các điều kiện vệ sinh.
Người lao động phải chấp hành sự điều hành của người sử dụng lao động.
Công việc thỏa thuận trong hợp đồng lao động phải do chính người lao động
trực tiếp thực hiện (không được chuyển giao cho người khác trừ trường hợp được
người sử dụng lao động đồng ý). Địa điểm làm việc được thực hiện theo hợp đồng lao
động trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Trường hợp thay đổi người sử dụng lao động thì việc giải quyết quyền lợi cho
người lao động phải căn cứ quy định của pháp luật.
4.2 Chế độ pháp lý về thay đổi hợp đồng lao động
4.2.1 Thay đổi chủ thể của hợp đồng
Hợp đồng lao động là hợp đồng được ký kết giữa cá nhân người lao động và
người sử dụng lao động. Trường hợp ký kết qua đại diện của nhóm người lao động với
người sử dụng lao động thì đây vẫn là sự ràng buộc pháp lý giữa cá nhân người lao
107
động với người sử dụng lao động và có liên quan mật thiết tới quyền và lợi ích của
người lao động. Về nguyên tắc, công việc của hợp đồng phải do chính người lao động
thực hiện. Việc thay đổi người lao động ảnh hưởng đến chất lượng công việc, yêu cầu
của người sử dụng lao động vì vậy không được thay đổi người lao động nếu người sử
dụng lao động không đồng ý và khi có sự thay đổi người lao động có nghĩa là giữa hai
bên phải giao kết một hợp đồng lao động mới.
Trường hợp thay đổi người sử dụng lao động đó là khi doanh nghiệp, hợp tác xã
hợp nhất, sáp nhập, chia tách, chuyển quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản thì
doanh nghiệp, hợp tác xã mới phải tiếp tục sử dụng lao động và thực hiện sửa đổi, bổ
sung hợp đồng lao động. Trường hợp người sử dụng lao động mới không sử dụng hết
số lao động hiện có thì phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện phương án sử dụng lao
động (xác định số lao động tiếp tục được sử dụng; số lao động đưa đi đào tạo lại để
tiếp tục sử dụng; số lao động nghỉ hưu; số lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động).
Người sử dụng lao động cũ và người sử dụng lao động kế tiếp phải có trách nhiệm giải
quyết các quyền lợi của người lao động (Điều 43 Bộ luật lao động 2019).
4.2.2 Thay đổi nội dung của hợp đồng lao động
Nội dung của hợp đồng lao động là những điều khoản quy định những quyền và
nghĩa vụ của cả hai bên và hai bên phải cam kết thực hiện vì vậy thay đổi nội dung hợp
đồng là thay đổi quyền và nghĩa vụ của cả hai bên.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu bên nào có yêu cầu sửa đổi, bổ sung nội
dung của hợp đồng thì nêu nội dung cần thay đổi và thông báo cho bên kia biết trước ít
nhất 03 ngày làm việc về những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Khoản 1 Điều 33 Bộ
luật lao động 2019).
Trong trường hợp hai bên thỏa thuận được thì việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao
động lao động được tiến hành bằng việc ký kết phụ lục hợp đồng lao động hoặc giao
kết hợp đồng lao động mới. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được việc sửa đổi,
bổ sung nội dung hợp đồng lao động thì tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao
kết (Khoản 2, 3 Điều 33 Bộ luật lao động 2019).
Người sử dụng lao động có thể chuyển người lao động sang làm công việc khác
theo quy định tại Điều 29 Bộ luật lao động 2019.
4.3 Chế độ pháp lý về tạm hoãn hợp đồng lao động
Tạm hoãn hợp đồng lao động là việc tạm ngừng việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng trong một thời gian nhất định mà
không làm mất hiệu lực của hợp đồng. Các trường hợp tạm hoãn hợp đồng được pháp
luật lao động xác định ở Điều 30 Bộ luật lao động 2019 và chia thành hai loại đó là:
- Tạm hoãn do thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định (Người lao động đi
làm nghĩa vụ quân sự, các nghĩa vụ công dân khác; người lao động bị tạm giữ, tạm
giam, người lao động phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường
108
giáo dưỡng .v.v..)
- Tạm hoãn do thỏa thuận của các bên (Người lao động xin đi học ở trong nước
và nước ngoài; người lao động xin nghỉ vì lý do của bản thân hoặc của gia đình v.v..).
Trong thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động không
được hưởng lương và quyền, lợi ích đã giao kết trong hợp đồng lao động, trừ trường
hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao
động, người lao động phải có mặt tại nơi làm việc và người sử dụng lao động phải
nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng lao động đã giao kết nếu hợp
đồng lao động còn thời hạn, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định khác. (Điều 31 Bộ luật lao động 2019).
4.4 Chế độ pháp lý về chấm dứt hợp đồng lao động
Chấm dứt hợp đồng lao động là việc các bên chấm dứt việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, đồng thời cũng là chấm dứt quan hệ pháp
luật lao động. Chấm dứt hợp đồng lao động là một trong những sự kiện pháp lý làm
chấm dứt quan hệ pháp luật lao động và đây cũng là một vấn đề pháp lý phức tạp có
ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.
Chấm dứt hợp đồng nếu được các bên thỏa thuận và giải quyết đầy đủ các quyền lợi
cho người lao động thì sẽ không gây ra hậu quả xấu, ngược lại nếu việc chấm dứt hợp
đồng mà không giải quyết thỏa đáng những thỏa thuận và trách nhiệm giữa hai bên thì
sẽ tác động tiêu cực không chỉ đối với các bên trực tiếp tham gia quan hệ hợp đồng mà
còn gây ra những tác động tâm lý, xã hội và pháp lý. Việc chấm dứt hợp đồng có thể
do cả hai bên cùng đồng ý chấm dứt hoặc có thể phát sinh do ý chí từ phía một bên.
Chấm dứt hợp đồng lao động cần chú ý tới các căn cứ chấm dứt hợp đồng để giải
quyết quyền lợi cho các bên theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật. Sự chấm
dứt hợp đồng có thể có nhiều lý do và nguyên nhân nhưng cần phải được xác định là
hợp pháp hay không hợp pháp để từ đó xác định vấn đề trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm bồi thường. Các bên khi chấm dứt hợp đồng trong từng trường hợp cũng phải
thực hiện đầy đủ các thủ tục về nghĩa vụ báo trước, trình tự chấm dứt. Mỗi bên đều có
quyền huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết thời hạn báo
trước nhưng phải thông báo bằng văn bản và phải được bên kia đồng ý.
4.4.1 Chấm dứt hợp đồng lao động do sự thỏa thuận của hai bên
Các bên có thể đương nhiên chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường
hợp tại khoản 1,2,3,13 Điều 34 Bộ luật lao động 2019:
Hết hạn hợp đồng: thời hạn chấm dứt hợp đồng đã được các bên thỏa thuận từ
khi giao kết (trường hợp người lao động là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại
diện người lao động tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn hợp đồng lao động thì
được gia hạn hợp đồng lao động đến hết nhiệm kỳ).
109
Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động: người lao động đã hoàn
thành công việc theo hợp đồng mà không còn công việc khác để giao kết hợp đồng
mới hoặc hai bên không thỏa thuận giao kết hợp đồng mới.
Hai bên cùng đồng ý chấm dứt hợp đồng: người lao động và người sử dụng lao
động cùng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng kể cả trong trường hợp thời hạn hợp đồng
chưa chấm dứt.
Trường hợp thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động mà thử
việc không đạt yêu cầu hoặc một bên hủy bỏ thỏa thuận thử việc.
4.4.2 Chấm dứt hợp đồng lao động do ý chí của bên thứ ba hoặc do sự kiện pháp lý
khác.
Chấm dứt hợp đồng lao động do ý chí của bên thứ ba hoặc sự kiện pháp lý khác
là những trường hợp đặc biệt có thể liên quan đến quy định của các ngành luật khác.
Hợp đồng lao động là thỏa thuận riêng giữa người lao động và người sử dụng lao
động, nhưng cũng không được trái với những quy định của pháp luật. Và trong những
trường hợp này, quy định của pháp luật hoặc ý chí của nhà nước sẽ quyết định sự tồn
tại của quan hệ hợp đồng lao động (Khoản 4, 5, 6, 7, 8, 11, 12 Điều 34 Bộ luật lao
động 2019):
- Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không
thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố
tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Người lao động chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích
hoặc đã chết.
- Người sử dụng lao động là cá nhân chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm
dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy
quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.
- Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải.
- Người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc theo quy định tại Điều
42 và Điều 43 của Bộ luật lao động 2019.
- Giấy phép lao động hết hiệu lực đối với người lao động là người nước ngoài
làm việc tại Việt Nam theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật lao động 2019
4.4.3 Chấm dứt hợp đồng lao động do một bên đơn phương chủ động.
110
Việc chấm dứt hợp đồng do một bên đơn phương chủ động được pháp luật lao
động quy định khá đầy đủ. Đây là nội dung pháp lý gắn liền với chế định kỷ luật lao
động, trách nhiệm vật chất, giải quyết tranh chấp lao động. Việc đơn phương thể hiện
ý chí bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích của một bên chủ thể, không xem xét đến quyền
lợi của bên kia vì vậy khó đạt tới sự nhất trí và nếu không được giải quyết hợp tình
hợp lý sẽ rất dễ xảy ra tranh chấp. Chấm dứt hợp đồng lao động do một bên đơn
phương chấm dứt phải đáp ứng điều kiện về căn cứ chấm dứt và điều kiện về thời hạn
báo trước, nếu không sẽ trái pháp luật.
Chấm dứt hợp đồng lao động do người lao động chủ động.
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những
trường hợp theo quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động 2019):
“1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng
phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời
hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời
hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được
thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần
báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được
bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của
Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp
quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục
mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao
động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của
Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại
khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao
động.”
Chấm dứt hợp đồng lao động do người sử dụng lao động chủ động.
111
Việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng thường gây ra
những ảnh hưởng lớn đến đời sống và thu nhập của người lao động vì vậy so với
trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng thì pháp luật quy định
người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động cần phải tuân
thủ những quy định chặt chẽ hơn về căn cứ, trình tự, thủ tục chấm dứt.
Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
theo quy định tại Điều 36 Bộ Luật Lao động 2019:
“a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao
động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế
của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người
sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao
động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người
làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng
liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn
từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm
việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng
lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét
để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản
xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng
lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều
31 của Bộ luật này;
đ) Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
e) Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm
việc liên tục trở lên;
g) Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2
Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển
dụng người lao động.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại
các điểm a, b, c, đ và g khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo trước cho
người lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12
tháng đến 36 tháng;
112
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời
hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được
thực hiện theo quy định của Chính phủ.
3. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại điểm d và điểm e
khoản 1 Điều này thì người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao
động”
Luật lao động Việt Nam mang ý nghĩa nhân đạo vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của
người lao động, pháp luật lao động cũng quy định những trường hợp người sử dụng
lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động kể cả khi có căn cứ
pháp luật (Điều 37 Bộ luật lao động 2019).
4.4.4 Trách nhiệm và quyền lợi của các bên khi chấm dứt hợp đồng lao động
Người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động về việc
chấm dứt hợp đồng lao động khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại Điều
45 Bộ luật lao động 2019.
Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động được trả Trợ cấp thôi việc theo
quy định tại Điều 46 Bộ luật lao động 2019 hoặc Trợ cấp mất việc làm theo quy định
tại Điều 47 Bộ luật lao động 2019.
Trách nhiệm của các bên khi chấm dứt hợp đồng lao động (Điều 48 Bộ luật lao
động 2019):
Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên
có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi
bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày:
- Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;
- Người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;
- Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã;
- Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.
Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi
việc và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể, hợp
đồng lao động được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị
chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác
nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động. Phải cung cấp bản sao các tài
liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu
113
cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả.
114
lao động giữa Doanh nghiệp cho thuê lại lao động và Bên thuê lại lao động. Trong thời
gian làm việc tại Bên thuê lại lao động, người lao động thuê lại chịu sự quản lý, điều
hành của Bên thuê lại lao động, nhưng quan hệ lao động (hợp đồng lao động) vẫn
được duy trì với Doanh nghiệp cho thuê lại lao động. Điều này có nghĩa những quyền
lợi cơ bản của người lao động (tiền lương, bảo hiểm xã hội v.v...) được Doanh nghiệp
cho thuê lao động bảo đảm theo hợp đồng lao động đã giao kết giữa hai bên và theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người lao động vẫn có thể được hưởng các phúc lợi
như những người lao động chính thức của Doanh nghiệp thuê lại lao động do doanh
nghiệp này thực hiện.
5.2 Quy định chung về cho thuê lại lao động
Hoạt động cho thuê lại lao động là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và chỉ
được thực hiện đối với một số công việc nhất định. Theo đó, chỉ những doanh nghiệp
đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định và được Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động thì mới được tiến hành hoạt động
này.
Chính phủ quy định cụ thể điều kiện, thủ tục đối với doanh nghiệp hoạt động cho
thuê lại lao động (Ví dụ: điều kiện ký quỹ, Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động,
v.v...). Danh mục các loại công việc được phép cho thuê lại lao động hiện nay (Ví dụ:
Phiên dịch, Lễ tân, Vệ sỹ v.v...)
* Nguyên tắc hoạt động cho thuê lại lao động (Điều 53 Bộ luật lao động 2019)
- Thời hạn cho thuê lại lao động đối với người lao động tối đa là 12 tháng.
- Bên thuê lại lao động được sử dụng lao động thuê lại trong trường hợp:
a) Đáp ứng tạm thời sự gia tăng đột ngột về nhu cầu sử dụng lao động trong
khoảng thời gian nhất định;
b) Thay thế người lao động trong thời gian nghỉ thai sản, bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ công dân;
c) Có nhu cầu sử dụng lao động trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao.
Bên thuê lại lao động không được sử dụng lao động thuê lại trong trường hợp sau
đây:
a) Để thay thế người lao động đang trong thời gian thực hiện quyền đình công,
giải quyết tranh chấp lao động;
b) Không có thỏa thuận cụ thể về trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp của người lao động thuê lại với doanh nghiệp cho thuê lại lao động;
c) Thay thế người lao động bị cho thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ, vì lý
do kinh tế hoặc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập.
- Bên thuê lại lao động không được chuyển người lao động thuê lại cho người sử
115
dụng lao động khác; không được sử dụng người lao động thuê lại được cung cấp bởi
doanh nghiệp không có Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động.
* Hợp đồng cho thuê lại lao động
Doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động phải ký kết hợp
đồng cho thuê lại lao động bằng văn bản và được làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01
bản.
Các điều khoản chủ yếu của Hợp đồng cho thuê lại lao động (Điều 55 Bộ luật lao
động 2019)
a) Địa điểm làm việc, vị trí việc làm cần sử dụng lao động thuê lại, nội dung cụ
thể của công việc, yêu cầu cụ thể đối với người lao động thuê lại;
b) Thời hạn thuê lại lao động; thời gian bắt đầu làm việc của người lao động thuê
lại;
c) Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, điều kiện an toàn, vệ sinh lao động tại
nơi làm việc;
d) Trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
đ) Nghĩa vụ của mỗi bên đối với người lao động.
Hợp đồng cho thuê lại lao động không được có những thỏa thuận về quyền, lợi
ích của người lao động thấp hơn so với hợp đồng lao động mà doanh nghiệp cho thuê
lại lao động đã ký với người lao động.
* Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thuê lại lao động
- Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp cho thuê lao động (Điều 56 Bộ luật lao
động 2019)
- Quyền và nghĩa vụ của Bên thuê lại lao động (Điều 57 Bộ luật lao động 2019)
- Quyền và nghĩa vụ của Người lao động thuê lại (Điều 58 Bộ luật lao động
2019)
Việc quản lý tốt hoạt động cho thuê lại lao động sẽ đáp ứng được nguyện vọng
và mang lại lợi ích kinh tế cho cả ba bên: Doanh nghiệp cho thuê lại lao động, Bên
thuê lại lao động và Người lao động thuê lại. Doanh nghiệp cho thuê lao động là các
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm, bản thân các doanh nghiệp này cũng muốn
mở rộng phạm vi của hoạt động dịch vụ việc làm, nhất là hoạt động cho thuê lại lao
động - hoạt động phù hợp với sự vận động tất yếu của thị trường lao động, mang lại
nguồn thu không nhỏ cho các doanh nghiệp dịch vụ việc làm. Bên thuê lại lao động có
thể tiết kiệm được khá nhiều chi phí về nhân lực, thời gian và tài chính cho việc tuyển
chọn, quản lý lao động, giải quyết lao động dôi dư.v.v...Đồng thời, Bên thuê lại lao
động cũng giảm được chi phí, tránh rủi ro (Ví dụ: Với những công việc có tính chất
thời vụ thì các doanh nghiệp sẽ không bị rơi vào tình trạng “thừa người, thiếu việc” mà
116
vẫn phải thanh toán lương cho người lao động như sử dụng lao động trong biên chế
chính thức của doanh nghiệp). Bản thân “Người lao động thuê lại” cũng có thể yên
tâm về việc làm và thu nhập trong suốt thời gian có hợp đồng lao động với doanh
nghiệp cho thuê lao động, kể cả trong trường hợp tạm thời không có việc làm do gián
đoạn việc cho thuê lại. Cùng với lợi ích kinh tế - xã hội mà ba chủ thể nêu trên có thể
đạt được, Nhà nước cũng có thêm một nguồn thu từ hoạt động cho thuê lại lao động
của các doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là từ việc chấp nhận hoạt động này, Nhà
nước thể hiện thái độ tích cực đối với nhu cầu của thị trường lao động trong thời gian
gần đây, tôn trọng sự thật khách quan của thị trường lao động, hòa nhập sâu rộng hơn
vào thị trường lao động khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, trong hoạt động cho thuê lại lao động cũng cần chú ý đến việc bảo vệ
người lao động vì trong quan hệ này, người lao động dễ bị lạm dụng (Ví dụ: doanh
nghiệp cho thuê lại lao động buộc người lao động phải trả một khoản phí tương tự phí
giới thiệu việc làm bằng cách khấu trừ vào lương của người lao động trước khi trả
lương cho họ; có thể người lao động không được bảo đảm các quyền lợi về bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi của doanh nghiệp; không được trả lương trong thời gian
bị gián đoạn hoạt động cho thuê lao động). Thuê lại lao động chỉ được tiến hành trên
cơ sở tự nguyện của người lao động, doanh nghiệp cho thuê lao động phải bảo đảm
tiền lương cho người lao động trong suốt thời gian tồn tại hợp đồng lao động giữa hai
bên, kể cả trong thời gian gián đoạn việc cho thuê lao động, trừ trường hợp đặc biệt do
pháp luật quy định. Bên cạnh đó cần có những quy định cụ thể nhằm bảo đảm công
bằng giữa người lao động mà doanh nghiệp thuê lại và người lao động thuộc biên chế
chính thức của doanh nghiệp thuê lại lao động. Cần giải quyết hài hòa ba mối quan hệ:
quan hệ giữa người lao động thuê lại và doanh nghiệp cho thuê lại lao động, quan hệ
giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động với bên thuê lại lao động và quan hệ giữa
người lao động thuê lại với bên thuê lại lao động. Cần quy định trách nhiệm chính và
trách nhiệm đến cùng với người lao động thuộc về doanh nghiệp cho thuê lại lao động
(chủ thể đã ký hợp đồng lao động để tuyển người lao động). Riêng hợp đồng cho thuê
lại lao động giữa Doanh nghiệp cho thuê lại lao động và Bên thuê lại lao động thì
không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động mà còn chịu sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự và pháp luật thương mại của Việt Nam.
117
Đến tháng 6/2022, mặc dù hai bên không ký kết hợp đồng lao động nhưng anh A vẫn
tiếp tục làm việc tại công ty X. Đến tháng 10/2022 Công ty X phải sáp nhập vào Công
ty Cổ phần Y. Do điều kiện sản xuất kinh doanh, Công ty cổ phần Y không thể tiếp tục
sử dụng hết số lao động của công ty cổ phần X nên đã phải ra quyết định chấm dứt hợp
đồng lao động với 50 lao động của công ty Cổ phần X, trong đó có anh Nguyễn Văn
A.
1. Việc giao kết hợp đồng lao động và hợp đồng thử việc giữa anh Nguyễn Văn A và
Công ty cổ phần X có vi phạm pháp luật lao động hay không?
2. Việc Công ty cổ phần Y chấm dứt hợp đồng lao động như vậy có hợp pháp hay
không?
3. Anh Nguyễn Văn A có thể được hưởng quyền lợi và chế độ gì khi chấm dứt hợp
đồng lao động như trong tình huống nêu trên?
Gợi ý trả lời:
1. Việc 2 bên ký hợp đồng thử việc 03 tháng là vi phạm thời hạn thử việc quy định tại
Khoản 2 Điều 25 Bộ luật lao động 2019. Khi hợp đồng kết thúc mà hai bên không ký
kết hợp đồng mới trong vòng 30 ngày thì đương nhiên người lao động được chuyển
sang hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo quy định tại Điểm b Khoản 2
Điều 20 Bộ luật lao động 2019.
2. Trường hợp sáp nhập doanh nghiệp thì người sử dụng lao động kế tiếp phải có trách
nhiệm tiếp tục số lao động hiện có, nếu không sử dụng hết thì phải có phương án sử
dụng lao động. Nếu không thể sử dụng hết lao động thì có thể được chấm dứt hợp
đồng lao động với người lao động theo Điều 43, 44 Bộ luật lao động 2019.
3. Anh Nguyễn Văn A được hưởng chế độ trợ cấp mất việc theo Điều 47 Bộ luật lao
động 2019. Hướng dẫn chi tiết tại Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP.
118
trừ trường hợp được sự đồng ý của người lao động (Khoản 1 Điều 29 Bộ luật lao động
2019)
2. Công ty phải trả lương theo công việc mới nhưng nếu lương theo công việc mới
thấp hơn công việc cũ thì được giữ nguyên mức tiền lương cũ trong thời hạn 30 ngày
làm việc. Tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 85% mức tiền lương của
công việc cũ và không thấp hơn mức lương tối thiểu (Khoản 3 Điều 29 Bộ luật lao
động 2019).
119
4. TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
120
4. AO ĐỘNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
121
122