Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

Bai1

1. Trình bày khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng?

Đại hội XI của Đảng (2011) đã đưa ra một cách cô đọng, khái quát nhưng rất sâu sắc và đầy đủ
về nội hàm và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” 1.

+ Phân tích khái niệm: Khái niệm trên đây của Đảng ta đã bước đầu làm rõ được những vấn đề
cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh:

• Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ tư tưởng của giai
cấp vô sản, mang bản chất cách mạng, khoa học và triệt để; nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.

• Hai là, nguồn gốc tư tưởng, lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là chủ nghĩa Mác – Lênin,
giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.

• Ba là, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là những vấn đề cơ bản có liên quan trực
tiếp đến cách mạng Việt Nam.

• Bốn là, giá trị và sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là tư tưởng Hồ
Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

Bai 2

1. Trình bày điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tác động đến sự
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh?

1
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

- Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền nông nghiệp lạc
hậu, trì trệ. Mâu thuẫn giữa chính quyền phong kiến với nhân dân ngày càng sâu sắc.

Sau khi đánh bại triều Tây Sơn, chính quyền nhà Nguyễn (1802 - 1845) đã thi hành chính sách
đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động “bế quan tỏa cảng”… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội
tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, đã không phát huy được những thế mạnh của
dân tộc và đất nước, không tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm
mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Trong hoàn cảnh đó, mâu thuẫn giữa tập đoàn
phong kiến nhà Nguyễn với nhân dân cả nước – chủ yếu là nông dân sớm trở nên vô cùng gay gắt và bộc
lộ ra ngoài một cách kịch liệt bằng sự bùng nổ của các cuộc khởi nghĩa nông dân, càng về sau càng lan
rộng và nâng cao. Theo “Đại Nam thực lục” (bộ chính sử triều Nguyễn) thì tổng số những phong trào đấu
tranh lớn nhỏ nổ ra trong thời kỳ trị vì của các hoàng đế đầu thời Nguyễn như sau:

+ Thời Gia Long (1802 - 1819) có 73 phong trào

+ Thời Minh Mạng (1820 - 1840) có 254 phong trào

+ Thời Thiệu Trị (1841 - 1847) có 58 phong trào

+ Thời Tự Đức (1848 - 1883) chỉ tính riêng trong khoảng 1848 – 1862 (trước khi ký hòa ước
Nhâm Tuất với Pháp) đã có hơn 40 phong trào. Tiêu biểu là các phong trào của Phan Bá Vành (1821 -
1827) ở Thái Bình với khẩu hiệu “Lấy của nhà giầu chia cho người nghèo” được nhân dân địa phương
tham gia sôi nổi; phong trào của Lê Duy Dương (1833 - 1834), phong trào Nông Văn Vân (1833 - 1835),
phong trào của Cao Bá Quát (1854 - 1855)... 2

- Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1-9-1858), xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và
trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong lòng xã hội thuộc địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên
mâu thuẫn cũ, nó không thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt
Nam càng thêm đen tối.

Trong khi nhân dân ta khắp nơi nổi dậy chống Pháp thì để bảo vệ quyền lợi của mình triều đình
nhà Nguyễn vội vàng ký Hiệp ước Nhâm Tuất còn gọi là Hiệp ước HécMăng (Harmand) (5-6-1862), cắt ba
2
Trần Nam Tiến (chủ biên), Hỏi đáp lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Trẻ, TP HCM, 2009
tỉnh miền Đông Nam Kỳ dâng cho giặc Pháp, kèm theo những điều khoản nặng nề khác, đánh dấu bước
cấu kết đầu tiên giữa phong kiến cầm quyền với thực dân xâm lược. Sau đó, triều đình ngày càng sa lầy
vào vũng bùn nhượng bộ, cầu hòa với bọn xâm lược. Triều đình tiếp tục ký Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-
1874) công khai xác nhận chủ quyền của Pháp trên cả ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Liên tiếp sau đó, triều
đình ký liền hai hiệp ước 25-8-1883 và 6-6-1884 (Hiệp ước Patơnốt) đánh dấu sự đầu hàng của toàn bộ
giai cấp phong kiến Việt Nam trước chủ nghĩa tư bản Pháp, đồng thời cũng đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu
cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam với 3 chế độ khác nhau ở 3 miền: Nam kỳ là thuộc địa của Pháp,
Trung kỳ và Bắc kỳ dưới chế độ bảo hộ.

Trước tình hình đó nhân dân ta ở khắp nơi đã sôi nổi đứng dậy đấu tranh với quyết tâm “phen
này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”3 với nhiều phong trào đấu tranh theo các hệ tư tưỏng khác nhau.

+ Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưỏng phong kiến, tiêu biểu như: Khởi nghĩa của Trương
Công Định (1859 - 1864), Nguyễn Trung Trực (1861 - 1868), Nguyễn Hữu Huân (1862 - 1875)…, trung tâm
phong trào này lại chính là quê hương Nghệ - Tĩnh với cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất do Trần Tấn và Đặng
Như Mai lãnh đạo (1874), được đông đảo văn thân sỹ phu trong tỉnh nhiệt tình hưởng ứng. Nghĩa quân
đã chiếm được tỉnh lỵ Hà Tĩnh cùng nhiều phủ, huyện thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh và đang tìm đường phát
triển ra Bắc, vào Nam. Thực dân Pháp và vua quan phong kiến bối rối kinh hoàng, dồn mọi lực lượng để
bóp chết cuộc khởi nghĩa vào cuối năm 1874.

Riêng ở Hà Nội trong giai đoạn nay có 2 trận đánh lớn của nhân dân chống Pháp đó là: Trận Cầu
Giấy ngày 21-12-1873 của quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đã tiêu diệt được tên thiếu tá Hải quân
Pháp là Francis Ganier cùng một số sỹ quan Pháp; Trận phục kích tại Cầu Giấy ngày 19-5-1883 cũng do
Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đã giết chết viên tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ - Henri Riviere.

Tiếp đó là các cuộc khởi nghĩa vũ trang theo phong trào cần vương do Tôn Thất Thuyết nhân
danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng sau cuộc tấn công tại kinh thành Huế thất bại. Phong trào kéo
dài 10 năm (1885 - 1895) với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như:

Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê, Hà Tĩnh.

Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa.

Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.

3
Vè khởi nghĩa Giáp Tuất, in trong tập: Vè Nghệ - Tĩnh, tập 1, Nxb Văn học, H, 1989
+ Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng nông dân: Song song với các phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp do các văn thân sỹ phu yêu nước theo tư tưởng phong kiến lãnh đạo là các cuộc
đấu tranh tự phát của nông dân. Trong đó nổi bật nhất là phong trào nông dân Yên Thế ở Bắc Giang.
Cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (1884 - 1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Đây là phong trào vũ
trang lớn, kéo dài nhất trong phong trào đấu tranh chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (gần 30
năm), đã gây rất nhiều khó khăn cho Pháp khi chúng bình định Bắc Kỳ…

+ Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưỏng dân chủ tư sản: Đến đầu thế kỷ XX, ngoài các phong
trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, nông dân còn phải kể đến các phong trào theo khuynh
hướng dân chủ tiểu tư sản trong giai đoạn này như: Phong trào Đông du của Phan Bội Châu (1905 -
1908) với chủ trương cầu viện sự giúp đỡ của Nhật, ông đã đưa thanh niên xuất dương sang Nhật học,
nhờ các đảng phái, các hội yêu nước tiến bộ của học sinh và chính khách có mặt ở Nhật ủng hộ cứu
nước. Ngoài ra ông còn lập ra Hội Duy Tân (1904) chủ trương vũ trang bạo động. Tiếp đó, ông thành lập
Việt Nam Quang phục hội (1911) với chủ trương “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành
lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam”. Năm 1924 ông cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam
Quốc dân đảng phỏng theo Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn. Sau này Nhật, Pháp bắt tay với nhau
không cho các nhà hoạt động cách mạng Việt Nam và lưu học sinh ở Nhật nữa, phong trào tan rã.

Phong trào Duy Tân (1906 - 1908) do Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp phát
động. Đây là phong trào cứu nước theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí
và dân quyền. Ông đã viết thư yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước
Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh. Ông đã đi khắp tỉnh
Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Chấn
dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. (Chấn dân khí: Làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường, hiểu
được quyền lợi của mình, dám tố cáo sự hà hiếp bóc lột của quan lại và sự nhũng lạm của cường hào...
Khai dân trí: Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực
dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa... Hậu dân sinh: Khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm
vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng nội hóa…).

Phong trào Đông kinh nghĩa thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyết lãnh đạo (3/1907 –
11/1907). Phong trào thành lập trường Đông kinh Nghĩa thục. Trường có nhiệm vụ truyền bá văn hóa
mới, cổ vũ Duy Tân, đề cao truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Lúc đầu trường hoạt động hợp
pháp nhưng sau đó thực dân Pháp thấy đây là “cái lò phiến loạn” nên đã ra lệnh đóng cửa trường và bắt
các lãnh tụ của Đông kinh Nghĩa thục.
Cuối cùng là cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930) do Quốc dân đảng lãnh đạo mà lãnh tụ là Nguyễn
Tấn Tài và Nguyễn Thái Học.

 Như vậy, suốt từ năm 1858 đến năm 1930 trên khắp cả nước liên tục có các phong trào giải
phóng dân tộc đứng trên 3 lập trường khác nhau: lập trường phong kiến với những người lãnh đạo là
các quan lại yêu nước; lập trường nông dân; lập trường tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Tuy nhiên tất cả
các phong trào đó đều thất bại. Nguyên nhân trực tiếp của sự thất bại đó là chưa có đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, vẫn đi theo lối mòn kinh nghiệm chống ngoại xâm xưa cũ. Do đó, các cuộc
khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh tuy có diễn ra liên tục, quyết liệt nhưng đơn độc, cục bộ địa
phương không liên kết gắn bó với nhau, không đoàn kết được toàn thể dân tộc nên dễ bị kẻ thù tiêu
diệt. Cách mạng giải phóng dân tộc nước ta lúc này bế tắc, đi vào ngõ cụt tưởng chừng như không có
đường ra. Việc tìm ra một con đường cứu nước mới bây giờ là một đòi hỏi tất yếu của lịch sử.

- Thực tiễn đó đã tác động, ảnh hưởng đến Nguyễn Tất Thành, hình thành nên tư tưởng yêu
nước và chí hướng cách mạng ở Người.

Nguyễn Tất Thành sinh ra trong cảnh đất nước lầm than dưới ách nô lệ của thực dân, phong
kiến. Vốn là người có lòng yêu nước, thương dân, trước cảnh đau thương đó của người dân mất nước
làm cho cái chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào trong Nguyễn Tất Thành ngày càng được nung
nấu. Nguyễn Tất Thành khâm phục và kính trọng các nhà cách mạng tiền bối, nhưng “không hoàn toàn
tán thành cách làm của một người nào” 4. Người cho rằng cách làm của cụ Phan Bội Châu chẳng khác gì
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” 5, cách làm của cụ Phan Chu Trinh là “xin giặc rủ lòng thương” 6,
cách làm của cụ Hoàng Hoa Thám “thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp” nhưng “cụ còn nặng
cốt cách phong kiến”7. Câu hỏi “làm thế nào để cứu nước” đã sớm được đặt ra trong trí óc của Người.
Và Người đã tìm cho mình một hướng đi đó là quyết định đi sang phương Tây tìm đường cứu nước. Bối
cảnh lịch sử đó chính là nguồn gốc thực tiễn quan trọng hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.

4
8. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr. 12, 13
5
9,10. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 12, 13
6

7
11. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 12, 13
2. Trình bày những đặc điểm thời đại tác động đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh?

Thực tiễn thế giới

- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

+ Đặc điểm chung trong giai đoạn này là diện tích và dân số các nước thuộc địa lớn gấp nhiều lần
so với diện tích và dân số các nước chính quốc. Theo Lênin, thế giới phân chia đa số (70%) các dân tộc bị
áp bức, số ít (30%) các dân tộc đi áp bức. Hầu hết các dân tộc chậm phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ La Tinh
đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc các nước đế quốc. Tại Đại hội V quốc tế cộng sản (1924) Hồ Chí
Minh đã đưa ra con số đầy thuyết phục về vấn đề này: thuộc địa của Anh lớn gấp 252 lần diện tích nước
Anh, dân số thuộc địa Anh lớn gấp 8,5 lần dân số nước Anh. Đế quốc Anh tự cho rằng mặt trời không
bao giờ lặn trên đất nước Anh. Còn nước Pháp thì chiếm một số đất đai rộng gấp 19 lần nước Pháp và số
dân ở thuộc địa Pháp đông hơn số dân ở nước Pháp 16.600.000 người… Tính tổng lãnh thổ thuộc địa
của 9 nước đế quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Bỉ, Hà Lan, Nhật) đã gấp 5 lần lãnh thổ
các nước chính quốc, còn số dân các nước chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa 8.

+ Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hệ thống trên toàn thế giới.
Chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa vừa vào ùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng
kìm kẹp thuộc địa của chúng. Do đó, thế giới xuất hiện ba mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản với giai cấp vô sản, mâu thuẫn giữa các nước tư bản – đế quốc với nhau, mâu thuẫn giữa thực dân
đế quốc với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Các mâu thuẫn này ngày càng diễn ra gay gắt, đẩy thế giới
vào hai cuộc chiến tranh thảm khốc ( CTTG I: 1914 – 1918 và CTTG II: 1939 - 1945). Đây chính là hậu quả
tất yếu của việc giải quyết mâu thuẫn giữa các nước tư bản – đế quốc với nhau nhằm chia lại thị trường
thế giới và mở rộng xâm lược thuộc địa.

+ Nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc bị bọn tư bản đế quốc bóc lột đến tận xương tủy,
cuộc sống bị nô lệ lầm than, bị tức hết các giá trị văn hóa, tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội…
Mạng sống của họ “không đáng một đồng trinh” 9. Vì vậy, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên phong trào này chưa gặp được
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vì bị chính quyền thực dân bưng bít, ngăn cản; và sự quan

8
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H, 2000, tr 277
9
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 59
tâm chưa đúng mức của Quốc tế Cộng sản. Do đó, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dâng cao
nhưng đều bị thất bại trước sự đàn áp dã man của bọn xâm lược. (Việt Nam cũng rơi vào tình cảnh đó).

- Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời lãnh đạo
cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917), xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới.

Nước Nga Xô Viết dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức trong
đại chiến thế giới thứ II, giải phóng nhiều nước Đông Âu, hình thành phe XHCN. Cách mạng tháng Mười
Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai cấp công nhân, trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc
thành lập Quốc tế Cộng sản.

Trong bài Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc, Hồ Chí
Minh nhận xét: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức
tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách
mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu sắc như thế. Cách mạng tháng mười là thắng lợi đầu tiên của chủ
nghĩa Mác và học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới” 10. Hay là “Cách
mạng tháng Mười đã mở đường giải phóng cho giai cấp lao động và cho các dân tộc bị áp bức khắp thế
giới. Cách mạng tháng Mười đã soi sáng cho họ một tương lai vẻ vang, hoà bình và hạnh phúc, không có
người bóc lột người, không có dân tộc này bóc lột dân tộc khác” 11. Hoặc là “Cách mạng tháng Mười mở
đường cho phong trào cách mạng vô sản toàn thế giới tiến lên và đã khuyến khích giúp đỡ các cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh và thành công to lớn” 12.

- Tháng 3/1919 Lênin thành lập quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), từ đây phong trào đấu tranh của
công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa có tổ chức lãnh đạo thống nhất.

+ Quốc tế I (Liên minh công nhân quốc tế) (1864 - 1876), do Các Mác thành lập. Lịch sử của Quốc
tế I là lịch sử đấu tranh khốc liệt của Mác, Ăngghen và các đồ đệ để bảo vệ chủ nghĩa cộng sản khoa học
chống các thuyết tiểu tư sản của Pơ – Ru Đông, Lát – Xan, Ba – Cu – Nin.

+ Quốc tế II (Liên minh quốc tế của các Đảng xã hội) (1889 - 1895). Từ năm 1985 trở về trước
Quốc tế do Ăngghen chỉ đạo cho nên nó là một tổ chức vô sản phát triển trên cơ sở của chủ nghĩa Mác.

10
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H, 2000, tr 300
11
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2000, tr 375
12
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H, 2000, tr 258
Nó đã góp phần tuyên truyền chủ nghĩa Mác, tập hợp lực lượng của giai cấp công nhân, xây dựng mối
liên hệ giữa các đảng công nhân. Sau năm 1895, khi Ăngnghen mất, cơ quan lãnh đạo của QTII rơi vào
tay các phần tử cơ hội, bọn này đi theo con đường xét lại học thuyết các mạng của Mác, dẫn đến chia rẽ
trong nội bộ. Có 3 trào lưu trong QTII: Cánh hữu gồm những phần tử xã hội sô - vanh trắng trợn (Pở - lê
– kha – nốp, Sây – đe – man, Ren – nê – rơ, Van – đéc – ven – đê…); Phái giữa gồm Cau – ski, Tơ – rốp –
ski, Mác – tốp, Át – le – rơ…; Phái tả là những người theo chủ nghĩa quốc tế gồm Đảng Bôn – sê – vích…
Năm 1919, Lênin và những người Bôn – sê – vích thành lập ra Quốc tế III. Năm 1923 những người theo
phái hữu khôi phục lại QTII. Năm 1924, những người theo phái giữa cũng thành lập ra QTII rưỡi.

+ Quốc tế III (Quốc tế cộng sản) (1919 - 1943). Một tổ chức cách mạng quốc tế, trung tâm lãnh
đạo phong trào công nhân thế giới do Lênin sáng lập. Cương lĩnh của QTCS quy định rằng: Nhiệm vụ lịch
sử của quốc tế là tranh thủ đa số giai cấp công nhân và quần chúng lao động cơ bản về phía chủ nghĩa
cộng sản, thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế động xã hội chủ nghĩa, tiêu diệt chế độ người bóc
lột người.

Lênin chỉ rõ, chỉ có nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản, không có nền dân chủ thứ ba. Dân
chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất. Do vậy, nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập được nền dân chủ vô
sản. Sự thành lập Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Nó góp phần đẩy nhanh sự hình thành các đảng cộng sản ở nhiều nước. Năm 1918, các
Đảng cộng sản Hung-ga-ri, Đức, Ba Lan, Phần Lan, Áo, Hà lan, Hy Lạp được thành lập. Ở một số nước
khác, nhiều nhóm cộng sản xuất hiện và lớn mạnh… ĐH I QTCS (1919) có 8 đảng và nhóm cộng sản thì
đến ĐH VII (1935) QTCS đã có 76 đảng, trong đó có 22 đảng hợp pháp.

Quốc tế III ra đời đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin với chủ nghĩa cơ hội - xét lại.
Tất cả các đảng cách mạng chân chính đã đoàn kết dưới ngon cờ Quốc tế III – trung tâm lãnh đạo phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế là Đảng Bônsêvích Nga và Lênin.

Lênin đã thấy rõ mối quan hệ giữa phong trào cộng sản thế giới và cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa, chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc, thuộc địa và phụ thuộc với khẩu hiệu nổi tiếng “Vô
sản tất cả các nước, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Đây chính là con đường giải phóng dân tộc
thuộc địa đã được Lênin chỉ ra về cơ bản. Vấn đề là ở chỗ các nước thuộc địa và phụ thuộc có nhận ra
được hay không?

- Tình hình các nước châu Á:


Sau cuộc cải cách Thiên Hoàng Minh trị (1866-1869), nước Nhật phát triển theo con đường Tư
bản chủ nghĩa. Các nước châu Á còn lại trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của Pháp.

Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á cũng diễn ra mạnh mẽ, nhưng cũng
rơi vào bế tắc…

 Bối cảnh thế giới trên đây đã được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nghiên cứu, tìm hiểu ngay
khi còn ở Việt Nam và hơn 30 năm bôn ba khắp thế giới. Kinh nghiệm thành công và thất bại của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế; của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
chính là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người sau này.

3. Phân tích vai trò của nhân tố chủ quan đối với quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh?

. Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh

- Tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm hoạt động ý thức, tinh thần của con người, do con người
sáng tạo ra trên cơ sở những yếu tố khách quan. Do đó, tư tưởng của con người không chỉ phụ thuộc
vào những yếu tố khách quan mà còn phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan thuộc về nhân cách, phẩm
chất tinh thần của con người đã sinh ra nó như: tư chất, tính cách, bản lĩnh, tư duy… Tuy nhiên không
phải tư tưởng của cá nhân nào cũng có giá trị lịch sử và không phải cá nhân nào cũng trở thành nhà tư
tưởng của thời đại. Mà trong những thời kỳ có tính bước ngoặt lịch sử, đòi hỏi phải có những nhân vật
khổng lồ, như Ăngghen nói: “Khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và tính cách, khổng lồ về mặt
có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng…Ít nhiều họ đều có cái tinh thần phiêu lưu của thời đại
họ cổ vũ. Trong thời đại ấy khó tìm ra nhân vật nào mà lại không từng đi chu du xa, không biết nói bốn,
năm thứ tiếng và không nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực sáng tạo…” 13. Nhân vật “Khổng lồ” đó ở Việt Nam
chính là Hồ Chí Minh – Người hội tụ đầy đủ các phẩm chất cá nhân của một thiên tài.

- Hồ Chí Minh là một con người đặc biệt thông minh, sắc sảo, nhạy bén với cái mới, có tinh thần
say mê học hỏi, có tư duy độc lập sáng tạo, có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng…

Hồ Chí Minh đã được hưởng từ cha mình một trí thông minh xuất chúng, được bộc lộ từ nhỏ
trong việc ứng xử đối đáp văn thơ. Trí thông minh đó đã tạo nên ở Người một trí tuệ siêu việt, một óc
quan sát, phân tích, phê phán rất tinh tường, một tinh thần hoài nghi để khám phá, một bản lĩnh độc lập
13
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 20, tr. 459 - 460
tự chủ trong tư duy…, những điều này vốn không phải là sản phẩm sắn có của nền giáo dục Nho giáo.
Nhờ đó, ngay từ khi còn ở trong nước Người đã sáng suốt nhận ra những hạn chế bất cập của các phong
trào đấu tranh do các sỹ phu yêu nước lãnh đạo.

Trong những năm hoạt động ở nước ngoài, trí tuệ hơn người của Hồ Chí Minh đã có thêm điều
kiện rèn luyện và phát triển. Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức, vốn kinh nghiệm
đấu tranh của nhân loại. Từ chỗ học chữ Hán, quen tư duy kiểu phương Đông, chuyển sang học chữ
Pháp với tư duy kiểu phương Tây, mà chỉ trong 6 năm, Người đã có thể viết văn, viết kịch, diễn thuyết,
tranh luận… bằng tiếng Pháp thu hút được người đọc, lôi cuốn được người nghe, thuyết phục được cả
một bộ phận đảng viên Đảng xã hội ngả theo Quốc tế III – thực là một điều hiếm có. Đặc biệt, “Người có
thể đọc trực tiếp Shekespeare, Dickens bằng tiếng Anh; V.Huygo, E.Zola bằng tiến Pháp; Lỗ Tấn bằng tiến
Hoa; L.Toistoy bằng tiếng Nga…, đồng thời có thể giao tiếp thông thường bằng nhiều ngoại ngữ khác
nữa”14. Năng lực đó giúp cho Hồ Chí Minh khi ở phương Tây có thể viết văn, làm báo như một người
chuyên nghiệp, khi về phương Đông lại có thể làm thơ bằng chữ Hán, mà giá trị của nó có thể sánh
ngang với thơ Đường, thơ Tống15. Đó là dấu hiệu của một tài năng hiếm có.

- Hồ Chí Minh là một người có vốn sống thực tiễn cực kỳ phong phú, có khả năng tổng kết lịch sử,
tổng kết thực tiễn và dự báo tương lai.

Ngay từ khi còn nhỏ, Bác thường được cha cho đứng bên cạnh trong những lần ông tiếp
khách. Những lúc ấy, Bác được nghe những câu chuyện về thời cuộc của xã hội Việt Nam hồi đó và
những việc làm cứu nước của các ông. Mặt khác, Bác lại được cha thường xuyên cho đi theo, thường
đến những nơi có phong trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi và anh dũng như Nghệ An, Huế, Thái
Bình… Nhờ đó mà Bác biết được thực tiễn đất nước, dân tộc và con người Việt Nam đang được Pháp
“khai hóa” văn minh như thế nào?

Đặc biệt trên hành trình tìm đường cứu nước, Bác đã đi qua hầu hết các châu lục trên thế
giới. Và có lẽ Bác là người hoạt động cách mạng đi nhiều nhất, nên Bác cũng hiểu nhiều, biết rộng về
các nước đế quốc, các nước thuộc địa của chúng. Người từng sống và làm việc ở thủ đô và hải cảng
lớn của các cường quốc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ như là Mỹ, Anh, Pháp, Đức… nên người biết được
mầu sắc chung và bản sắc riêng của từng nước. Người cũng chứng kiến cuộc sống quằn quại, rên siết
của những người da đen dưới sự giết hại tàn bạo của người da trắng. Người đã vào những túp lều

14
Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận Chính trị, H, 2009, tr.34
15
Đánh gia của Quách Mạc Nhược
thấp bé, siêu vẹo, dột nát của những người dân thuộc Á – Phi, chứng kiến cuộc “khai hóa” của bọn
thực dân bỉ ổi đầy thú tính…

Thực tiễn sinh động trên là những chất liệu quan trọng để bộ óc siêu việt của người phân
tích, kết luận và đưa ra những dự báo thiên tài cho tương lai: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” 16; “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc
địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi
thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại
tiếp tục mọc ra”17; “Tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng
chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các
thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung
cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản
cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại khinh thường thuộc địa” 18. Từ đó,
Người đưa ra luận điểm nổi tiếng: Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc; “Công cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của anh em” 19; “Đem sức ta mà giải phóng cho
ta”20.

 Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà
những nhà lý luận mác xít đề cập đến 21; Nhà Sử học Pháp cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc được coi là một
trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa” 22…

- Hồ Chí Minh là một người sống có hoài bão, có lý tưởng yêu nước thương dân sâu sắc, có ý chí
và nghị lực phi thường, kiên quyết đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng mình đã chọn.

Như trên đã nói, mục tiêu ra nước ngoài của Bác là để tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc
với một mong muốn lớn lao: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng

16
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 1, tr. 298
17
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr. 130
18
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 1, tr. 295 - 296
19
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 2, tr. 128
20
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 3, tr. 554
21
Xem Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại, Nxb Lao Động – QĐND, H, 1992
22
Nguyễn Phan Quang, Thêm một số tư liệu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp thời kỳ 1917 – 1924,
Nxb TP Hồ Chí Minh, 1988, tr. 137
được học hành”23, và một khát vọng cháy bỏng: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là
tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu”.

Để thục hiện hoài bão và lý tưởng đó của mình, Bác đã khổ công học tập và rèn luyện chiếm lĩnh
tri thức văn hóa nhân loại, làm giầu vốn trí tuệ của mình. Chính sự khổ công học tập đó, đã làm nên một
biểu tượng của sự hội tụ tinh hoa văn hóa Đông – Tây, Kim – Cổ ở Hồ Chí Minh. Đồng thời, Người luôn
tích cực và kiên trì tham gia các hoạt động đấu tranh cách mạng, nâng cao năng lực hoạt động và tổng
kết thực tiễn, cũng như rèn luyện bản lĩnh và thân thể trước muôn vàn khó khăn, hiểm nguy của bước
đường đấu tranh cách mạng.

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Bác đã trải qua mọi khó khăn, hiểm nguy, luôn bị
bọn mật thám theo dõi, tìm cách ghép tội, bắt bớ, ám sát. Thậm chí, Người còn phải chịu cảnh tù đầy
gian khổ, điển hình như:

Năm 1929 Bác bị tòa án Nam triều (thực chất là Pháp) tuyên án tử hình vắng mặt: “xử tử ngay
khi bắt được”.

Ngày 6/6/1931, Người bị cảnh sát Anh bắt tại Hồng Kông (lúc này Bác có tên là Tống Văn Sơ), sau
đó Bác bị chúng giam ở nhà tù Victoria. Nhà giam Bác có ba tầng, mỗi tầng hai dãy xà lim. Cách xây dựng
xà lim không giống kích thước phổ thông chút nào. Bề cao 3 thước, bề ngang chỉ có 1 thước, bề dọc
không đầy 2 thước… chỉ vừa một người nằm xiên xiên, trên cao chót vót chỉ có một cái cửa sổ nhỏ hình
nửa mặt trăng lờ mờ, bị song sắt bưng bít… Cửa xà lim bằng ván gỗ dầy độ một gang tay và bọc sắt… Khi
Bác bị Anh bắt, Pháp đã hí hửng xây dựng một kế hoạch để bắt Bác ngay khi Anh thả. Toàn quyền Đông
Dương kiến nghị: nếu Anh không nhận giao Nguyễn Ái Quốc cho Pháp, thì Chính phủ Pháp sẽ trả cho
Chính phủ Anh một món tiền lớn để giam giữ Nguyễn Ái Quốc tại một thuộc địa xa xôi nào đó của Anh,
vì: “trả tự do cho một người cực kỳ hăng hái và nguy hiểm này là một việc mạo hiểm cần phải tránh bằng
bất cứ giá nào”24. Mặc dù Anh, Pháp và chính quyền Hồng Kông tìm mọi cách để kết tội Bác, nhưng Bác
đã được ông bà luật sư Loseby – Chủ tịch Công ty Luật gia ở Hồng Công giúp đỡ nên đến tháng 7/1932
Bác đã được thả tự do (từ 1/8/1931 đến tháng 9, tòa đã họp tới 9 lần và cuối cùng chúng phải quyết
định trục xuất Bác về Đông Dương, xem phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông).

Ngày 13/8/1842 Bác lấy tên là Hồ Chí Minh sang Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong
trào Việt Minh và đại diện của phân hội Việt Nam thuộc hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Ngày

23
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 12, tr. 517
24
Song Thành, Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb CTQG, H, 2010, tr253
27/8/1942, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trái phép 13 tháng khổ cực và bị giải tới,
giải lui khắp 13 huyện, qua 30 nhà tù của tỉnh Quảng Tây. Đó là những ngày tháng Người bị đọa đầy
nặng nề.

Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch có kể lại: “Tay bị trói
giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, có sáu người lính mang súng giải đi… Dầm mưa giãi nắng, trèo núi
qua truông… Ăn uống thiếu, không khí thiếu, bẩn thỉu… Nhà tù thường chật ních, người đến sau không
có chỗ nằm. Ban đêm Cụ Hồ thường phải ngồi trên cầu xí ở ngay trong phòng giam. Nhưng vẫn không
được yên ổn. Lâu lâu Cụ phải đứng dậy nhường chỗ cho một người đi ỉa đêm” 25. Bác còn bị ghẻ và rận
“xe tăng”, rệp “chiến xa”, muỗi “tầu bay” cắn ngứa ngáy, lở loét. Vì vậy, trông Bác gầy như que củi, tóc
bạc và rụng nhiều, mắt thì kém… Đến tận 10/9/1943 26 nhờ sự vận động tích cực của Đảng ta, bà con Việt
kiều và sự can thiệp của nhiều nhân vật trong chính giới TQ, Bác mới được thả tự do.

Nhưng tinh thần của Bác không hề nao núng, mà trái lại Người càng hăng hái và lạc quan hơn.
Người đã cho ra đời tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài – một tác phẩm văn học lớn, một bộ sử bằng
thơ kể lại quãng đời của Người trong ngục tù, phản ánh chân thực một phần bộ mặt xã hội TQ, đồng
thời nó cũng thể hiện ý chí kiên cường của nhà cách mạng vĩ đại - Hồ Chí Minh.

Thân thể ở trong lao,

Tinh thần ở ngoài lao,

Muốn lên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao.

***

Ví không có cảnh đông tàn

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân?

Nghĩ mình trong bước gian truân

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

- Hồ Chí Minh là một người mẫu mực về đạo đức cách mạng; tác phong bình dị, khiêm tốn gần
25
Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tr 90 - 91
26
Xem Song Thành (chủ biên), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb CTQG, H, 2010, tr.320 - 323
gũi, hòa mình với quần chúng, có lòng tin mãnh liệt ở nhân dân, có sức cảm hóa lớn đối với mọi người.

Bác Hồ kính yêu của chúng ta không chỉ để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp cách mạng vẻ vang
chưa từng có trong lịch sử, mà qua “cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và
phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ” của mình, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di
sản cao quý - đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức của người cách mạng, tượng trưng cho
những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn, ý chí và nhân cách của dân tộc, của loài người.

+ Nổi bật lên trong tấm gương cao đẹp của Người là những phẩm chất của một nhà lãnh tụ kiểu
mới của nhân dân: có lý tưởng mãnh liệt, ý chí kiên cường, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược; có khả năng
hấp dẫn và thuyết phục quần chúng; có tác phong gần gũi nhân dân, trọng dụng người tài… Có thể nói,
đây chính là yếu tố gốc để làm nên một vĩ nhân – Hồ Chí Minh.

Vấn đề số một trong đạo đức của một vĩ nhân chính là vấn đề lý tưởng, vấn đề lễ sống: sống cho
ai, sống vì cái gì? Ở Hồ Chí Minh vấn đề này là rõ nét nhất. Người quyết chí ra đi, vượt qua muôn trùng
thử thách khó khăn, hiến dâng trọn cả cuộc dời mình cho dân tộc và cách mạng. Người nói một cách
thống thiết rằng: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của
quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, sông pha sự hiểm nghèo – là vì
mục đích đó”27. Cho đến khi phải từ biệt thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người cũng là: “tiếc
rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Hồ Chí Minh là hình ảnh cao đẹp về mối quan hệ thân thiết, gắn bó giữa lãnh tụ với quần chúng,
hết lòng thương yêu nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Người luôn tin vào sức mạnh vô địch của
nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân” 28. Do đó, Người luôn gần gũi, hết lòng phục vụ, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, bởi “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”29.

Mặc dù có sức hấp dẫn lớn, có uy tín rất cao, nhưng không bao giờ người coi mình đứng cao hơn
nhân dân, mà chỉ luôn tâm niệm một điều là một người suốt đời phục vụ trung thành và tận tụy của
nhân dân, “như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận” 30. Do đó, nhân dân ta,
từ các nhân sỹ, trí thức đến những người lao động bình thường, khi nhìn vào tấm gương Hồ Chí Minh

27
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr. 240
28
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 8, tr. 276
29
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr. 56
30
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr. 161
đều thấy tỏa ra ánh sang của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn. Điều này, ngay từ năm 1923, khi tiếp
xúc với Người, nhà thơ XôViết Ôxip Mandextam đã tiên đoán: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn
hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai... Qua cử chỉ cao thượng,
tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên
bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương” 31.

 + Hồ Chí Minh còn là biểu tượng của một tâm gương đạo đức cách mạng chí công vô tư; đời tư
trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Cần, kiệm, liêm, chính, giản dị, khiêm tốn, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc và nhân dân là tư
cách của người cách mạng. Bác đề ra và tự mình gương mẫu thực hiện. Cuộc đời của Người từ một
người đầu bếp, người quét tuyết hay một anh thợ ảnh bình thường cho đến khi làm Chủ tịch nước vẫn
là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã đúng như những gì Người đã từng bộc bạch với các nhà báo
nước ngoài năm 1948: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải
gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác, thì tôi phải gắng sức làm cũng như một người lính vâng mệnh
lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi vui lòng lui. Tôi chỉ có một ham
muốn.... Riêng về phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng rau,
sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăm trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi” 32.

Thực tế ngôi nhà sàn mà Bác ở chỉ có 2 phòng nhỏ, 1 cái giường, 1 cái bàn, 1 cái ghế, 1 cái giá
sách, 1 cái tủ quần áo với 2 bộ kaki bạc mầu, 1 đôi dép lốp cao su, 1 cái quạt giấy, 1 cái máy thu thanh, 1
cái đồng hồ. Đó là tất cả những gì mà một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã có trên trái đất này. Nhiều du
khách nước ngoài vào thăm nơi ở của Bác muốn tìm hiểu về tài sản riêng của Người đều rất xúc động khi
được biết Người không có một chút của riêng nào. Tổng thống nước cộng hòa Chilê Agienđê đã khái
quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức
tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường” 33.

Có thể nói rằng, hầu hết những đức tính cao đẹp đã chung đúc lại trong Hồ Chí Minh, làm cho
tấm gương đạo đức sáng ngời của Người tưởng chừng như siêu việt, vô song, “khó có ai có thể sánh kịp,
khó có ai có thể vượt hơn. Nhưng với sự kết hợp những đức tính đó, Người cũng là tấm gương mà nhiều
người khác có thể noi theo” 34 để làm người cách mạng và làm một người dân tốt hơn. Đảng ta cũng đã

31
Hồ Chí Minh Biên niên Tiểu sử, Nxb CTQG, H, 1993, tập 1, tr.204
32
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 4, tr.161
33
Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí Minh, tr 378
34
Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí Minh, tr 85
nhiều lần khẳng định “Cuộc đời của Hồ Chủ tịch trong như ánh sáng. Đó là tấm gương tuyệt vời về chí
khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân thắm thiết,
đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn giản dị. Tư tưởng và đạo đức cao cả của Người mãi mãi soi
sáng và nâng cao tâm hồn chúng ta”35…

 Trên đây là những phẩm chất cao quý tiêu biểu thuộc về cá nhân Hồ Chí Minh. Những phẩm
chất ấy, đã được phát huy trong suốt cuộc đời của Người và đã trở thành nội lực vô cùng quan trọng
thúc đẩy Người vượt lên tất cả khó khăn, hiểm nguy để giành thắng lợi . Nhờ vậy, giữa vô vàn lý thuyết,
học thuyết khác nhau, đúng và sai, thật và giả đan xen lẫn lộn, trong khi nhiều chiến sỹ cách mạng từ
Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng đến Phan Chu Chinh, Phan Văn Trường… không phát hiện được đâu là
quy luật, đâu là chân lý thì chính Hồ Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu, lý tưởng cách mạng đúng đắn và
con đường để đi tới mục tiêu, lý tưởng ấy. Đây chính là những phẩm chất thiên tài ở Hồ Chí Minh.

4. Phân tích cơ sở tư tưởng – lý luận hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh?

- Về nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, một số quan điểm cho rằng, có hai nhân tố là
học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng yêu nước, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhưng phổ
biến hơn là quan điểm cho rằng, có ba nguồn gốc lý luận chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa, nhân ái Việt Nam; tinh hoa văn hóa phương Đông, phương
Tây; chủ nghĩa Mác - Lênin.

- Về vai trò và vị trí của mỗi yếu tố, có người nhấn mạnh văn hóa dân gian và dân tộc Việt Nam
là nguồn gốc quan trọng nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có người lại khẳng định tầm quan trọng đặc
biệt của các giá trị văn minh nhân loại đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý kiến khác cho
rằng, văn hóa dân tộc là cơ sở, nền tảng tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh. Nhưng phần lớn các quan
điểm đều nhất trí cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu nhất”, “là cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh”. Chính nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ

Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi
35

mới, tr 36
của truyền thống dân tộc cũng như tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của
mình.

1.2.1. Truyền thống văn hóa dân tộc.

- Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữa nước đã tạo lập cho mình
một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đẹp và cao quý. GS Trần Văn
Giàu đã nêu lên bảy giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam là yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo,
lạc quan, thương người, vì nghĩa, qua đó khẳng định: Hồ Chí Minh là kết tinh của các giá trị truyền thống
và đạo đức cách mạng Việt Nam.

- Còn các nhà nghiên cứu khác lại thống nhất quan điểm về bốn truyền thống tốt đẹp của dân
tộc đã góp phần tác động đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái,
cố kết cộng đồng; truyền thống lạc quan yêu đời; truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo,
hạm học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.

1. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước.

- Trong những truyền thống trên, chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước
và giữ nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất đứng
đầu bảng giá trị văn hóa – tinh thần Việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo nước ngoài du nhập vào
Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam là giá trị thiêng liêng nhất, là cơ sở cho ý chí, hành động cứu nước và xây dựng đất nước của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

- Cơ sở hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: Từ công cuộc lao động xây dựng đất nước,
phát triển nghề trồng lúa nước, đoàn kết chống lại thiên tai, bảo vệ mùa màng; từ yêu cầu chống giặc
ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

- Nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam là: Yêu quê hương, yêu đồng
bào; tự hào về lịch sử vẻ vang và nền văn hóa Việt Nam; độc lập dân tộc là mục tiêu và nghĩa vụ của mọi
thế hệ người Việt Nam; ý thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia và kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền
đó; niềm tự tôn tự hào dân tộc được đặc biệt coi trọng.36

36
Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên), Giáo trình Lịch sử Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2001
+ Do có vị trí chiến lược trọng yếu “đầu cầu lục địa và hải cảng giao tiếp” vô cùng quan trọng ở
Đông Dương và Đông Nam Á, lại có nguồn tài nguyên thiên phong phú, đã tạo cho nước ta nhiều lợi thế
trong phát triển, giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhưng cũng chính vị lợi thế đó mà Tổ quốc ta từ trước
đến nay đã trở thành mục tiêu xâm lược của nhiều nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy,
ngay từ buổi đầu dựng nước, nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm đã trở nên ngày càng cấp thiết. Dựng nước
đi đôi với giữ nước trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Thực tế cho thấy, nạn ngoại
xâm là mối đe dọa thường xuyên và nguy hiểm nhất đối với sự sống còn của dân tộc ta. “Không có gì quý
hơn độc lập tự do”, câu nói sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện ở thế kỷ XX, nhưng chủ nghĩa yêu
nước mà cốt lõi là độc lập tự do thì đã có từ lâu. Chính vì thế, mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm thì
nhân dân ta lại đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

+ Nhìn lại lịch sử dân tộc, kể từ cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đền nay, tức là từ cuộc
kháng chiến chống quân Tần xâm lược của Thục Phán – An Dương Vương (214-208 trCN) cho đến cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Trong 22 thế kỷ ấy thì dân tộc ta đã có tới 12 thế kỷ với gần
20 cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh
giải phóng khác. Đặc biệt, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cha ông ta luôn luôn phải
chống lại kẻ thù mạnh hơn nhiều lần về kinh tế và quân sự. Điều đáng lưu ý ở đây là độ dài thời gian và
tần số xuất hiện các cuộc kháng chiến chống giặc giữ nước và chiến tranh giải phóng ở Việt Nam là đại
lượng quá lớn so với nhiều nước khác trên thế giới. Song với tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, mưu
trí, sáng tạo, cha ông ta đã đánh thắng tất cả kẻ thù xâm lược, viết nên những trang sử hào hùng của
dân tộc.

+ Thực tiễn đã chứng minh từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học; từ những nhân vật trong
truyền thuyết như Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh… đến những nhân vật có tên tuổi sáng ngời trong
lịch sử như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang
Trung… đều đã phản ánh một cách hùng hồn và đậm nét chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là động lực
to lớn nhân lên gấp bội sức mạnh dân tộc để chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược hùng mạnh làm nên
biết bao chiến công lẫy lừng.

+ Mặt khác, trong lịch sử Việt Nam, mỗi khi đất nước ở vào thời điểm hiểm nghèo, thì với tinh
thần yêu nước nồng nàn, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam dù là Kinh, Mường hay Dao, Tày
hay Nùng … trăm họ đều đứng lên cố kết một lòng chiến đấu. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng
kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn. Nó
nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước” 37. Thật vậy, ở Việt Nam hầu như không có xung đột
dân tộc, sắc tộc hay tôn giáo, mặc dù chúng ta có 54 dân tộc anh em và nhiều tôn giáo khác nhau. Trong
khi đó trên thế giới đã và đang xẩy ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo đẫm máu như: ở Nam Sudan
hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, Kyrgyzstan, Pakistan, gần chúng ta có Indonexia, Thái Lan.

+ Cũng nhờ truyền thống yêu nước mà dân tộc Việt Nam đã tồn tại và phát triển, sự nghiệp
dựng nước và giữ nước cũng như vấn đề giải phóng dân tộc và vấn đề dân chủ của đất nước được giữ
vững. Bởi kẻ thù từ phương Bắc hay phương Tây trong khi xâm lược và thống trị, bao giờ chúng cũng tìm
cách thôn tính hay đồng hóa dân tộc ta. Thế nhưng trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân
tộc ta luôn có sức sống mãnh liệt và phát triển liên tục. Đúng như Gớt Hôn – một chính khách Mỹ đã
nhận xét: “Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị đánh bại, mà thực tế họ đã đánh bại mọi cuộc xâm lăng” 38.
Trong lịch sử nhân loại, một dân tộc như dân tộc Việt Nam không phải là phổ biến, nhiều quốc gia trên
thế giới đã bị xóa sổ, nhiều dân tộc từ đa số trở thành “thiểu số” hoặc diệt vong. Chẳng hạn như: 2 quốc
gia được nhiều nước thừa nhận, nhưng thực tế không độc lập: Palestine và Tây Sahara; 6 quốc gia thực
tế độc lập nhưng không được cộng đồng quốc tế thừa nhận: Abkhazia, Bắc Kibris (riêng nước này được
duy nhất Thổ Nhĩ Kỳ công nhận), Nagorno-Karabakh, Nam Ossetia, Somaliland, Transnistria.

+ Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã thúc đẩy Nguyễn Sinh Cung sau này là
Nuyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đó cũng là động lực tư tưởng, tình cảm chi phố mọi suy
nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời mình. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc –
tức là yêu nước, để luôn nhắc nhở, cổ vũ bản thân và cổ vũ quốc dân đồng bào. Đó cũng chính là cơ sở
tư tưởng đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.

2. Truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái, cố kết cộng đồng.

Nhân nghĩa chính là sự yêu thương giữa con người với con người “cốt yếu của Nhân là yêu
thương con người”. Người Việt Nam luôn trọng nhân nghĩa, luôn đồng cảm với nỗi đau của người khác,
sẵn sàng nhường cơm xẻ áo cho nhau với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể
thương thân”, “ một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, hay “ bầu ơi thương lấy bí cùng/ tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”, hàng xóm láng giềng yêu thương nhau, tối lửa tắt đèn có nhau để tạo nên sự
gắn bó lâu dài. Sống theo phương châm “mình vì mọi người mọi người vì mình”, tôn trọng những người
có công với dân với nước.

37
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H, 2000, tr 171
38
Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, nxb sự thật, H, 1971, t3, tr. 176.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu
tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự
phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn còn rất bền vững. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy
sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, trong bài thơ “Mười chính sách của Việt Minh” năm 1941, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh bốn chữ “đồng”:

“Khuyên ai xin nhớ chữ đồng,

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”39

3. Truyền thống lạc quan, yêu đời.

Trong muôn nguy, ngàn khó, người dân Việt Nam vẫn luôn động viên, nhắc nhở nhau “chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo”, “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm
tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù trước mắt còn đầy
gian truân, khổ ải phải chịu đựng, vượt qua.

Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó. Trải qua bao đắng cay vất vả, Người
luôn có niềm tin vào tương lai. Trong cuộc đời Hồ Chí Minh, dù trải qua muôn vàn khó khăn nhưng tinh
thần lạc quan, yêu đời vẫn luôn tràn trề: “Hết mưa là nắng hửng lên trời”; “Thân thể ở trong lao/ Tinh
thần ở ngoài lao/ Muốn lên sự nghiệp lớn/ tinh thần càng phải cao”; hay “Ví không có cảnh đông tàn/Thì
đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân”. Người tin vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong Di chúc, Người đã khẳng định: “cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất
định thắng lợi hoàn toàn.Đó là một điều chắc chắn”, “Nay tuy châu chấu đá voi/ Nhưng mai voi sẽ bị lòi
ruột ra”.

4. Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và
không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Do gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước và hoàn cảnh luôn đối phó với
giặc ngoại xâm đã hình thành nên phong cách cần cù và anh dũng kiên cường.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự cần cù, anh dũng bất khuất: từ
nhỏ Người tự thân vận động, nuôi em trai còn nhỏ khi mẹ mất sớm, bố đi xa. Ra đi
39
T3, tr.206
tìm đường cứu nước bằng hai bàn tay trắng, khi ra nước ngoài thì làm nhiều công
việc như vẽ thuê, bưng bê, quét tuyết, đốt lò ở trung tâm sưởi ấm thành phố. Đến
khi về nước thì tham gia sản xuất, nuôi cá làm vườn, là một vị Chủ tịch nước
nhưng Người không cần thư ký riêng mà tự mình viết tay, đánh máy. Suốt cuộc đời
Bác là mẫu mực cho một tinh thần trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư.
+ Từ xa xưa, người Việt Nam đã đề cao tinh thần ham học hỏi: “nửa bụng chữ bằng 1 hũ vàng”,
“không thầy đố mày làm nên”... Vì thế, dân tộc ta luôn mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân
loại, từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng- văn hóa hiện đại phương Tây. Nhờ vị trí thuận
lợi, ở giữa đầu mối của sự giao lưu văn hóa Bắc- Nam và Đông- Tây, Người Việt Nam từ xưa đã rất xa lạ
với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp
thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là
hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó. Trong bài Đông Dương, phần chính sách ngu dân,
Hồ Chí Minh đã khái quát: “Người An Nam rất hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội, người sĩ phu chiếm
địa vị hàng đầu”40. Sau này, trong Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
(3/9/1845), Người xác định nhiệm vụ thứ 2/6 là “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị
mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”41.

 Như vậy, có thể nói truyền thống văn hóa Việt Nam mà nổi bật là chủ nghĩa yêu nước là một
trong những nguồn gốc chủ yếu, là cội nguồn lý luận đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đúng như
Người đã nói: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” 42. Và “Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là người yêu nước vĩ đại đã giải
phóng đồng bào mình, trước đó tôi chưa hề đọc một cuốn sách nào của Lênin viết”.

1.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại

Ngoài truyền thống văn hóa dân tộc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh còn học hỏi, tiếp thu các
tinh hoa văn hóa nhân loại như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo… của phương Đông; tư tưởng dân chủ,
nhân văn của văn hóa Phục hưng, của các cuộc cách mạng tư sản phương Tây.

 Về văn hoá phương Đông


40
Hå ChÝ Minh Toµn tËp, tËp 1, Nxb. CTQG, H.2009, tr. 395.
41
Hå ChÝ Minh Toµn tËp, tËp 4, Nxb. CTQG, H.2009, tr. 8.
42
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H, 2000, tr 128
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và các tư tưởng tiến bộ
khác của văn hoá phương Đông.

- Nho giáo:

Nho giáo còn gọi là Khổng giáo do Khổng Tử (551 – 479 trCN) ở Trung Quốc sáng lập, được các
học trò của ông (Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân Tử, Tăng Tử…) phát triển. Nho giáo không phải là một tôn giáo
mà là một khoa học về kinh nghiệm, về đạo đức, về phép ứng xử trong gia đình và xã hội để xây dựng
một xã hội thịnh trị, an ninh, hòa mục - tức là một xã hội có tôn ti trật tự.

+ Nho giáo vào Việt Nam từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ thứ I trCN, là thời điểm nước ta bắt đầu
chịu sự xâm chiếm của giặc phương Bắc (179trCN - 905), đây chính là thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc. Trong
thời gian này, mặc dù kẻ thù đã dùng mọi cách để đồng hóa dân tộc ta như truyền bá những phong tục,
nghi lễ phong kiến Trung Quốc, mở trường dạy chữ Hán…vv. Song với truyền thống yêu nước nồng nàn
chúng ta không những không bị đồng hóa mà còn  tiếp biến chúng thành văn hóa Việt Nam, trong đó
Nho giáo đã trở thành Nho giáo yêu nước Việt Nam.

+ Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được học chữ Hán
với những nhà nho yêu nước, đã tiếp thu những triết lý đạo đức Khổng – Mạnh qua các tác phẩm kinh
điển của Nho giáo (Tứ thư gồm bốn quyển sách là Đại Học: một chương trong Kinh Lễ; Trung Dung: một
chương khác trong Kinh Lễ; Luận Ngữ: cuốn sách ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và do học trò
của ông ghi chép lại; Mạnh Tử: sách ghi chép lại những cuộc đối thoại của Mạnh Tử và một số vị vua
trong thời kỳ ông sống. Bốn bộ sách này được các học trò của Khổng Tử biên soạn sau khi ông mất. Lục
kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất
lạc nên chỉ còn năm bộ kinh nên thường được gọi là Ngũ kinh). Mặt khác, Người cũng đã từng sống ở
kinh thành Huế, nơi ngự trị của vua chúa nhà Nguyễn vốn sung bái Nho giáo nên Người càng chịu sự ảnh
hưởng sâu sắc của các tư tưởng Nho giáo.

+ Những kiến thức Hán học mà người tiếp thu được từ nhỏ đã ăn sâu vào trí nhớ, để lại những
dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng, tình cảm của Người đến mãi về sau này. Không có gì là lạ trong nhiều bài
nói, bài viết của mình, Người đã sử dụng có cải biến các khái niệm, các mệnh đề tích cực của Nho giáo
để diễn tả tư tưởng của mình như: triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; triết lý
nhân sinh, tu thân, dưỡng tính; đề cao văn hoá, lễ giáo, tinh thần hiếu học… Đây là tư tưởng tiến bộ
hơn hẳn của Nho giáo so với các học thuyết cổ đại.
Ví dụ: “Trung – Hiếu”…; hoặc là Nho giáo đề cập đến con người phải có 5 chữ tức là Ngũ thường
(Nhân - Nghĩa – Lễ - Trí - Tín), Hồ Chí Minh đã phát triển và chỉ ra 5 tiêu chuẩn của người cán bộ đó là
(Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm) hoặc Người chỉ ra 6 yêu cầu của người làm Tướng (Trí - Nhân - Dũng -
Tín - Liêm - Trung); hoặc là các tư tưởng “Tứ hải giai huynh đệ”, “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”, “Cần, kiệm, liêm, chính”... hay quan điểm: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi
lạc” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu để giáo dục cán bộ, đảng viên. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ của Nho
giáo, Người dạy rằng: “Người An Nam chúng ta muốn hoàn thiện mình về mặt tinh thần hãy đọc các tác
phẩm của Khổng Tử, muốn hoàn thiện về phương pháp cách mạng hãy đọc các tác phẩm của Lênin”.

+ Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành được học tập chữ Hán với các thầy vốn là những nhà
nho yêu nước (ông Nguyễn Sinh Sắc, thầy Vương Thúc Quý…). Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình
cảm của Người không phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” (Nho giáo quan niệm danh
phận của mỗi người do các mối quan hệ quy định, mỗi mối quan hệ gọi là một Luân. Nho giáo chọn ra 5
Luân cơ bản là: Vua – Tôi, Cha – Con, Chồng – Vợ, Anh – Em, Bạn – Bè. Trong đó 3 mối quan hệ đầu được
cho là mối quan hệ chính còn gọi là cương. Tam cương là Quân vi thần cương, Phụ vi tử cương, Phu vi
thê cương. Tam tòng là: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Tứ đức: Công, dung, ngôn,
hạnh) nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến mà là tinh thần nhân nghĩa, đạo tu thân, sự ham học hỏi,
đức tính khiêm tốn, ôn hòa, cách xử thế có lý có tình…

+ Trong khi tiếp thu những yếu tố tích cực của nho giáo, Hồ Chí Minh đã phê phán loại bỏ các
yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này như: tư tưởng phân chia đẳng cấp quân tử và tiểu nhân,
trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách coi thường lao động chân tay… Những quan điểm đó
hoàn toàn xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh: đấu tranh cho một xã hội bình đẳng, dân chủ, tôn trọng lao
động, tôn trọng phụ nữ, chủ trương nam nữ bình quyền… Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đạo đức cũ và đạo
đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức
mới như hai chân đứng vững dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Chính Hồ Chí Minh là người đã đảo thế
đứng đó, cũng như Mác – Ăngghen tiếp thu phép biện chứng duy tâm của Hêghen và đặt lại phép biện
chứng đó trên cái nền duy vật.

 Như vậy, một mặt Hồ Chí Minh tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo, một mặt
Người phê phán loại bỏ những yếu tố lạc hậu tiêu cực để phát triển thành những chuẩn mực mới về đạo
đức và phép ứng xử của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thời đại mới. Cũng chính những chuẩn
mực đạo đức này đã là hành trang góp phần quan trọng làm nên nhân cách vĩ đại của Hồ Chí Minh sau
này.

- Phật giáo:

Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới (các tôn giáo lớn khác là Do Thái giáo, Ki
- tô giáo và Hồi giáo, và Ấn Độ giáo). Phật giáo được một nhân vật lịch sử là Tất - đạt - đa (Thích Ca Mâu
Ni 566, 563 – 486, 483trCN) sáng lập khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, và Phật - đà hay Bụt - đà
(người Việt gọi đơn giản là Phật) có nghĩa là “người tỉnh thức”, "người giác ngộ" là danh hiệu mà Ngài có
được sau khi giác ngộ, thành đạo. Giáo lý mà Ngài dạy và sau này để lại cho đời được gọi là Phật pháp.
Cơ sở tư tưởng của Phật giáo là Tứ diệu đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế), đây là cốt lõi giáo pháp
của đạo Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Bốn chân lý này chính là câu trả lời cho
câu hỏi của thời đại lúc đó là: Tại sao con người cứ bị trói buộc trong luân hồi và liệu con người có cơ hội
thoát khỏi nó hay không?

Trả lời câu hỏi này Phật giáo cho rằng: Đời là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển
(Bể khổ gồm có 8 nỗi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử khổ, sở cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ,
ngũ thủ uẩn khổ = Khổ đế; Nguyên nhân của cái khổ là do dục vọng: tham, sân, si mà ra tức là tham lam,
bực tức, thù hằn, oán ghét, mê muội, ngu si = Tập đế; “Giận nên mà phát cơn điên, người khôn hóa dại,
người lành hóa ngu”; Để thoát được cái khổ luân hồi đó thì con người phải diệt nguyên nhân của nỗi khổ
tức là diệt tham, sân, si để đi lên cõi Niếp bàn sống thanh thản, an nhàn = Diệt đế; Đạo đế là con đường
để đi đến Niếp bàn có nhiều đường tùy căn cơ của từng người, nhưng có tám con đường cơ bản gọi là
Bát chính đạo: Chính kiến (nhìn nhận rõ chân tướng sự vật), Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn), Chính
ngữ (lời nói ngay thẳng, không nói dối), Chính nghiệp (tạo dựng sự nghiệp đúng đắn, không sát sinh…),
Chính mệnh (nuôi sống bản thân bằng nghề chính đáng), Chính tinh tiến (cố gắng làm điều thiện), Chính
niệm ( tư tưởng trong sạch), Chính định ( tập trung tư tưởng).

Phật giáo vào Việt Nam từ sớm, ngay từ đầu Công Nguyên (với câu chuyện Chử Đồng Tử học
đạo của một nhà sư Ấn Độ. Do được tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ “Buddha” được phiên
âm là “Bụt”, sau này vào thế kỷ thứ 4-5 do ảnh hưởng của Phật giáo đến từ Trung Quốc nên “Bụt” đổi
thành “Phật” bởi “Buddha” phiên âm theo tiếng Hán là “Phật đà” hay “Phật đồ” sau này rút gọn gọi là
“Phật”). Vì vậy, Phật giáo ăn sâu bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đến tất cả
mọi vấn đề trong cuộc sống của người dân Việt Nam. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu
khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông cây cỏ.
Đồng thời có tư tưởng bình đẳng, dân chủ hơn so với Nho giáo…“Ta là Phật đã thành, chúng sinh là
Phật sẽ thành”. Phật giáo cũng đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện “Ác giả ác
báo xoay vần, hại nhân nhân hại xưa nay lẽ thường”, coi trọng lao động “Một ngày không làm, một
ngày không có ăn” …

Đến thời nhà Lý, Trần Phật giáo trở nên cực thịnh và trở thành quốc đạo của Việt Nam. Đặc biệt
năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu
ở núi Yên Tử, thuộc huyện Uông Bí, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên
Thiền phái Trúc lâm với chủ trương không xa dời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham
gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống giặc ngoại xâm. Có được điều này chính là
sự bắt gặp giữa những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo với chủ nghĩa yêu nước, tinh thần bất khuất chống
ngoại xâm của dân tộc ta.

 Như vậy, có thể nói những mặt tích cực của Phật giáo đã đi vào đời sống tinh thần nhân dân
và để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng, phong tục tập quán
đến lối sống…Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân nên cũng thấm
nhuần tinh thần đó. Nói Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống là đã bao gồm trong đó
có Phật giáo.

- Chủ nghĩa tam dân:

Đây là tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn (1866 - 1925), là nhà cách mạng dân chủ Trung
Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai sinh nước
Trung Hoa dân quốc. Ông được người Trung Hoa gọi yêu mến là "Quốc phụ Trung Hoa". Ông đã nêu ra
chủ thuyết "Tam dân".

Chủ thuyết "Tam dân" của ông với tư tưởng chính là dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh
giành độc lập ở Việt Nam, đặc biệt là tổ chức Quốc Dân Đảng Việt Nam và tầng
lớp trí thức yêu nước Việt Nam trong những năm 1920-1930. Hồ Chí Minh đã tìm
thấy, tiếp thu những điều thích hợp với điều kiện của nước ta ở chủ thuyết này. Sau
này Người đưa vào Quốc hiệu của nước Việt Nam những tinh túy nhất của chủ
thuyết đó là: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
+ Ngoài ra Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tinh hoa văn hóa phương Đông khác từ Lão Tử, Mạc
Tử, Quản Tử, Tôn Tử... Đặc biệt người đã kế thừa, tiếp thu tư tưởng quân sự nổi tiếng của Tôn Tử. Hồ Chí
Minh cho rằng: tư tưởng quân sự của Tôn Tử dùng trong quân sự rất tốt mà trong chính trị cũng rất hay,
cách nói của Tôn Tử rất dễ hiểu, chữ ít mà nghĩa nhiều. Ví dụ Tôn Tử cho rằng: “Đánh mà giữ toàn nước
địch là thứ nhất; thắng mà phá tan nước địch là thứ hai; thắng mà giữ toàn quân đội địch là thứ nhất;
thắng mà phá tan quân đội địch là thứ hai; đánh bằng mưu là thứ nhất; đánh bằng ngoại giao là thứ hai;
đánh bằng binh là thứ ba; vây thành mà đánh là kém nhất”.

 Về văn hoá phương Tây


Ngay từ khi còn học tiểu học ở trong nước Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu về các
nền văn hóa của nhân loại, nhất là văn hóa Pháp. Trong 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã
đi qua 3 đại dương, 4 châu lục và đặt chân đến gần 30 nước trên thế giới, làm hàng chục nghề khác
nhau43. Do vậy, Người có điều kiện trực tiếp tiếp xúc với nhiều nền văn minh của nhân loại. Song chủ yếu
Người sống và làm việc ở châu Âu, nên Người chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và
cách mạng của phương Tây. Cụ thể:

 Tư tưởng tự do bình đẳng, bác ái, qua các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp như: Vônte,
Rutxô, Mông tét ki ơ.

 Những giá trị trong “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của đại cách mạng Pháp 1791.

 Những tư tưởng về dân chủ, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của “Tuyên
ngôn độc lập” ở Mỹ 1776.

 Ngoài ra trong quá trình bôn ba ở các nước phương Tây, Hồ Chí Minh còn tiếp thu được
nhiều giá trị khác như cách nghĩ, cách tư duy, lối sống, phương pháp ứng xử…tất cả được hun đúc để tạo
thành một giá trị bất hủ trong tư tưởng của Người.

+ Nền văn hóa Pháp được Bác làm quen sớm nhất vào năm 1905, khi Người học ở Trường Tiểu
học Pháp – Việt (Vinh). Bác nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự Do, Bình
Đẳng, Bác Ái… Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,
muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy” 44. Sau đó Người thường xuyên tiếp xúc với
những từ đó ở Trường Quốc học Huế. Tại đây vào kỳ nghỉ hè năm 1907, Người được đọc các “Tân thư,

43
Xem Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb CTQG, H, 2009, tr. 34
. Theo Ôxíp Manđenxtam: “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản – Nguyễn Ái Quốc”. Báo Đốm Lửa (Liên
44

Xô) số 39, ngày 23-12-1923


Tân văn” của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu giới thiệu về thân thế, sự nghiệp, tác phẩm của các nhà khai
sáng Pháp như Mông – tet – xki – ơ, Rút – xô, Vôn – te…

* Mông- tet – xki - ơ (1689 - 1755) một nhà luật học nổi tiếng với tác phẩm “Tinh thần pháp luật” ông
đã đưa ra nguyên tắc tách biệt giữa 3 quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ông cho
rằng nhà nước lập hiến ở Anh thời đó là mẫu mực của thể chế chính trị, phù hợp với tình hình chung của xã hội.
Qua Mông – tet – xki – ơ, Người tiếp cận được tư tưởng về “Nhà nước pháp quyền”.

* Vôn - te (1694 - 1778) là một bậc thiên tài với khả năng hiểu biết toàn diện và đã thành công trên
nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: (Triết học, văn học, sử học, vật lý học) ông đã công kích gay gắt chế độ chuyên
chế và nhà thờ Pháp. Chủ trương xoá bỏ chế độ chuyên chế nhưng vẫn giữ thể chế quân chủ với những vị vua
sáng suốt, nếu vua trở nên tàn bạo thì nhân dân có quyền đánh đổ. Qua Vôn – te, tư tưởng chống phong kiến,
phủ nhận vua, vốn đã lớn dần ở Người từ trước được khẳng định lại và phát triển. Người đã đoạn tuyệt với chế
độ phong kiến.

* Rút - xô (1712 - 1778), xuất thân nghèo khổ, phải làm nhiều nghề, đi nhiều nước, thấu hiểu tình cảnh
cùng cực của người dân thường nên tư tưởng của ông là lên án chế độ Phong kiến, phê phán chế độ sở hữu tư
nhân và tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Ông chủ trương thiết lập chế độ cộng hoà, người dân có quyền
chính trị như nhau, được hưởng quyền tự do và bình đẳng. Qua tác phẩm “Khế ước xã hội” của Rút – xô, Hồ Chí
Minh được tiếp cận với “nền cộng hòa dân chủ” mà ở đó nhân dân là người nắm chính quyền.

Ngoài ra, Người còn học lịch sử nước Pháp và các môn khoa học tự nhiên khác ở Trường Quốc
học Huế. Từ đó, Người rất ham học hỏi lịch sử thế giới, nhất là cách mạng Pháp 1789. Hơn hẳn các bặc
tiền bối, Hồ Chí Minh thừa nhận nước Pháp có một nền văn minh thực sự và ra sức tìm hiểu nền văn
minh ấy qua các tác phẩm của các đại biểu tiêu biểu của nó. Từ đó tri thức của Người ngày càng dồi dào,
phong phú và có nhiều điểm mới.

Đặc biệt, năm 1917 người chuyển đến sống và làm việc tại thủ đô nước Pháp, quê hương của lý
tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Đây là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, mở ra một thời kỳ mới trong
cuộc đời của Người. Bởi Pari là thủ đô chính trị của nước Pháp, đồng thời cũng là trung tâm văn hóa –
nghệ thuật của cả Châu Âu, là nơi hợp lưu các dòng văn hóa thế giới. Các trào lưu triết học, các trường
phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây. Ở Pháp, Bác đã tham
gia các hoạt động đấu tranh cách mạng như viết văn, làm báo, tham gia đảng phái (Đảng Xã hội Pháp),
phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm trước dư luận… Chính vì vậy, Người có điều kiện thuận lợi để
nhanh chóng chiến lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của
nước Pháp.

+ Bên cạnh đó, nền văn hóa Mỹ cũng có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Người. Trong thời gian
dừng chân ở Mỹ vào khoảng cuối 1912 đến cuối năm 1913, Người đã ở Brúclin, đến thăm khu da đen Háclem,
chiêm ngưỡng tượng Nữ thần Tự do… Đặc biệt, Người được đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm
1776, trong đó đề cập đến “quyền bình đẳng”, “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của con
người, “quyền nhân dân kiểm soát chính phủ…”. “Hễ chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng
đạp đổ chính phủ ấy đi, và gây nên chính phủ khác” 45. Người khâm phục ý chí giành độc lập, tự do của nhân
dân Mỹ, khâm phục những tư tưởng vĩ đại của Oasinhton, Giépphécxơn, Lincon… Chính vì vậy, sau này trong
Tuyên ngôn độc lập của nước ta, Người đã đưa vào phần tinh túy nhất của Tuyên ngôn độc lập 1776 của
Mỹ. Người khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”46.

 Như vậy, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, kế thừa, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách
mạng tư sản Pháp và Mỹ một cách có chọn lọc. Trong khi khẳng định những giá trị chân chính, những
yếu tố tích cực, tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản, nhất là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, tư
tưởng nhân văn giải phóng con người khỏi thần quyền và sự thống trị của những quan hệ phong kiến,
Người cũng đồng thời đánh giá đúng những hạn chế của nó. Trong cuốn “Đường cách mệnh”, Người viết
về cách mạng Mỹ: “Tuy rằng cách mệnh đã thành công hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẵn cực khổ,
vẵn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản
là chưa phải cách mệnh đến nơi” 47. Về cách mệnh Pháp, Người cũng đánh giá: “Cách mệnh Pháp cũng
như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ,
kỳ thực trong thì tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa” 48. Do vậy, “Cách mệnh An Nam nên
nhớ đến điều ấy”49. Chính vì không thỏa mãn với con đường cách mạng tư sản nên người tìm đến với
chủ nghĩa Mác – Lênin.

+ Ngoài ra Hồ Chí Minh còn kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh và tính nhân văn của Thiên Chúa
giáo – một tôn giáo lớn của phương Tây. Người còn tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nền văn minh
phục hưng, kết tinh của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại…

45
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 270
46
HCM: Toàn tập, Nxb CTQG, H 2000, tập. 4, trang. 1.
47
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 270
48
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 270
49
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 274
 Như vậy, trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của mình, Bác đã kế thừa có chọn
lọc tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây từ cổ điển đến hiện đại. Người loại bỏ những yếu tố lạc
hậu, lỗi thời, giáo điều, cực đoan mà trước hết là những quan điểm nhằm duy trì và bảo vệ chế độ và
trật tự phong kiến, thực dân. Người chỉ tiếp thu những yếu tố tích cực, phù hợp, có ích cho mục đích tìm
đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi tình trạng nô lệ, phụ thuộc. Người chỉ rõ: “Học thuyết Khổng Tử có
ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách
của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm
chung đó sao. Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay
họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất
hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” 50.

Rõ ràng, Người kế thừa các học thuyết, các tư tưởng của nhân loại một cách có phê phán, chon
lọc, không bao giờ sao chép máy móc, cũng không bao giờ phủ định một cách đơn giản, mà có sự phân
tích sâu sắc để tìm ra yếu tố tích cực, làm giầu thêm vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của minh.
Chính điều này đã làm nên nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh – một con người tượng trưng cho sự kết hợp hài
hòa văn hóa Đông và Tây.

1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin

- Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết chính trị do C.Mác, Ph Ăngghen sáng lập, được V.I Lênin
bảo vệ, phát triển và hoàn thiện với ba bộ phận là Triết học Mác – Lênin, Kinh tế Chính trị Mác – Lênin,
Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đây là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân, là vũ khí lý luận sắc bén,
là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp vô sản, bảo đảm cho cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng XHCN giành thắng lợi. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục
tiêu, con đường, lực lượng và phương pháp thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người; là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận khoa học; là một
học thuyết mở, không cứng nhắc, không bất biến và không ngừng đổi mới trong dòng trí tuệ của nhân
loại.

- Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết tiên tiến, mang tính cách mạng, khoa học.

+ Tính khoa học: Học thuyết đã phát hiện ra quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.

50
Võ Nguyên Giáp, Những bài viết và nói chọn lọc thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG – QĐND, H, 2001, tr 46, 47
+ Tính cách mạng: Học thuyết không chỉ giải thích hiện thực mà còn cải tạo hiện thực theo
hướng tích cực, tiến bộ vì hạnh phúc của con người.

- Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước vào tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đó là thời điểm Bác đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc
và thuộc địa” của Lênin. Tác phẩm của Lênin đã chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa sự nghiệp giải phóng
giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ đó mà Người tìm thấy con
đường cứu nước. Từ đó cho đến những năm cuối đời, Người không ngừng nghiên cứu, tiếp thu, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Như vậy, chính Lênin đã giúp Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác. Sau này Người đã nhắc lại cảm tưởng của mình lúc đó: “Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau
khổ! Đây là cái cần thiết của chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” 51. Trong bài “Con
đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh đã giải thích rõ quá trình đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin và hình thành nên tư tưởng của mình: “Lúc bấy giờ tôi ủng hộ cách mạng Tháng Mười chỉ là
theo cảm tính tự nhiên… Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng
đồng bào mình…Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua vì các ông bà ấy (hồi ấy tôi gọi đồng chí
của tôi như thế) đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng
là gì, công đoàn là gì, CNXH và CNCS là gì thì tôi chưa hiểu” 52.

- Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là bước ngoặt cơ bản trong quá trình tìm
đường cứu nước và phát triển tư tưởng của Người: Từ một người yêu nước trở thành người cộng
sản, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến với CNXH; giác ngộ dân tộc đã phát triển và kết hợp
với giác ngộ giai cấp; cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản. Bước ngoặt đó
đánh dấu sự hình thành và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vô sản,
mang bản chất khoa học và cách mạng triệt để.

+ Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố quyết định bản chất giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh
đó là bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, làm cho tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin.

51
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H, 2000, tr 127
52
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H, 2000, tr 126. 128
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung của tư tưởng Hồ Chí
Minh, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong phạm trù cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin.

+ Chủ nghĩa Mác - Lênin còn là nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến tính khoa học, cách mạng
và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng…
chúng ta giành được thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác –
Lênin.

 Điều đó chứng tỏ chủ nghĩa Mác – Lênin có vai trò và ý nghĩa quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước và giá trị truyền thống Việt Nam, từ tinh hoa văn hóa
Đông - Tây, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin không phải theo lối giáo điều, dập khuôn
mà là sự chắt lọc và hòa quyện những tinh hoa của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin theo phương pháp “đắc ý, vong ngôn”, nghĩa
là nắm lấy cái thần, cái cốt lõi, cái bản chất nhất của vấn đề. Trên cơ sở đó, Người vận dụng vào
hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn, để từ đó đề ra được đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn cho cách mạng. Người coi việc học tập chủ nghĩa Mác – Lênin
trước hết phải nắm vững cái cốt lõi, cái linh hồn sống của nó là “phương pháp biện chứng”, “phải
học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin; học tập lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ
nghĩa Mác – Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm, phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những
vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” 53. Người nhấn mạnh, chủ nghĩa Mác – Lênin
là lý trí mà cũng còn là tình cảm nữa. “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì
sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được” 54.

- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận khoa
học trong tư duy và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Người như việc xác định mục tiêu lý tưởng cách
mạng, xác định chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam . Thế giới quan, phương pháp luận
Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh gia, phân tích, tổng kết các học thuyết tư tưởng
đương thời cũng như kinh nghiệm thực tiễn của mình để tìm ra con đường đúng đắn cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc. Người coi chủ nghĩa Mác – Lênin là cái “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ
53
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H, 2000, tr 479
54
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 554
nam, là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và CNCS.
Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 55.

 Như vậy, trong nguồn gốc lý luận thì chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc cơ bản, chủ yếu,
có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa
Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Còn truyền thống dân tộc là nguồn gốc
sâu xa đầu tiên, tinh hoa văn hóa nhân loại có ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành qua mấy giai đoạn? Nêu nội dung tư tưởng chủ yếu của
mỗi giai đoạn?

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm khoa học về cách mạng Việt Nam. Hệ
thống đó không thể hình thành tại một thời điểm mà diễn ra với cả một quá trình tìm tòi, xác lập,
phát triển, hoàn thiện các quan điểm của Người. Chúng ta có thể khái quát quá trình ấy theo 5
giai đoạn sau:
1. Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (1890 - 1911)
Ngay từ buổi thiếu niên, nhờ các bậc sinh thành và những người thân dạy dỗ, Nguyễn Sinh Cung
đã tiếp thu nền văn hoá Quốc học và Hán học; bước đầu tiếp thu nền văn hoá phương Tây tại
trường Quốc học Huế. Người đã chứng kiến nỗi thống khổ của người dân mất nước, cuộc sống
nô lệ dưới sự thống trị của kẻ xâm lược và tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của thế hệ
cha anh. Hoài bão cứu nước, cứu dân trong Người bắt đầu hình thành cùng với quyết định chọn
hướng đi, cách đi, mục đích đi đúng.
2. Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc - con đường cách
mạng vô sản (1911 - 1920)
Đây là giai đoạn Nguyễn Tất Thành bôn ba qua khoảng 30 nước gồm cả các nước tư bản lớn,
nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc để khảo sát thực tiễn xã hội và cuộc sống của nhân dân lao động
các nước đó.
Tháng 7 – 1920, được nghiên cứu Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Tháng 12 - 1920, Người đã tham dự Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán
thành việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế III; Người là một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và là chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đây là sự kiện đánh dấu
bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc.Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin và chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường của
Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản.
3. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam (1921 - 1930)
Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi, phong phú:

55
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 268
Người tham gia và hoạt động tích cực trong Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng các nước thuộc
địa, trong đó có Việt Nam.
- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp,
tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa
Mác – Lênin vào các nước thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào Đoàn chủ tịch
của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tham dự đại hội V Quốc tế Cộng sản và Đại hội
các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ...
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra
Báo thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động cuối
năm 1924.
Tháng 02- 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện:  Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt, chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm Người hoàn thành và xuất bản trước đó là Bản án chế
độc thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927), đã đánh dấu  sự hình thành cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam.
4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã định cho cách mạng Việt Nam (1930 -
1940)
- Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa  ở phương Đông và Việt Nam, lại bị chi
phối bởi quan điểm “tả” khuynh, tại Đại hội VI (năm 1928), Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và
phê phán đường lối của Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị
Trung ương tháng 10 – 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “Án nghị
quyết” thu hồi chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian đó Hồ Chí Minh tiếp tục tham gia các hoạt động
trong Quốc tế Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam,
kiên định quan điểm của mình.
  - Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã có sự tự phê bình về  khuynh hướng “tả”, cô
độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào cộng sản. Để cho các
đảng tư sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy mà chống phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển
hướng về sách lược, chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít.
- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc,
biệt phái trước đây. Trên thực tế, từ đây đảng đã trở lại với Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt của Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939 khẳng định rõ: “đứng trên lập trường giải
phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn
đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”(4).
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và
sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Giai đoạn phát triển và thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 - 1969)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 –
1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời gác khẩu hiệu cách mạng điền địa,
xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc
trên cơ sở công nông liên minh. Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau bốn năm, Đảng lãnh đạo cách
mạng tháng Tám thắng lợi. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng
miền Nam.
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường
kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều
kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về
xây dựng Nhà nước kiểu mới - của dân, do dân, vì dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn kết
nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
- Trước khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng gửi gắm trong đó
những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời
phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh
và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính
cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản tinh thần vô giá mà
Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng
định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi
sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển.
Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn mười năm qua vừa kiểm chứng,
vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính cách mạng, sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa
quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh.

You might also like