Phật giáo tại Thái Lan

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA XÃ HỘI HỌC – CÔNG TÁC XÃ HỘI – ĐÔNG NAM Á HỌC

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN HỌC: TÔN GIÁO CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
ĐỀ TÀI: PHẬT GIÁO THÁI LAN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
ĐỜI SỐNG, VĂN HOÁ THÁI LAN
SINH VIÊN MSSV
NGUYỄN ĐẶNG QUỲNH ANH 2155013002
LÊ KHẮC ĐỊNH 2155013019
NGUYỄN NGUYÊN HẠ 2155013022
NGUYỄN THỊ KIM OANH 2155013062
LỚP: DH21SA01
GVHD: TS. ĐÀNG NĂNG HÒA

HỒ CHÍ MINH, NGÀY 07 THÁNG 08 NĂM 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu...................................................................................................4
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................4
4.1 Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................4
4.2 Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................5
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu............................................................5
5.1 Cơ sở lý luận ......................................................................................................5
5.2 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................5
6. Bố cục của bài tiểu luận ..........................................................................................5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO ................................................................7
1.1 Nguồn gốc của Phật Giáo.....................................................................................7
1.2 Những giáo lý cơ bản của Phật giáo ...................................................................7
1.3 Các hệ phái của Phật giáo....................................................................................8
1.3.1 Nguồn gốc hình thành Hai tông phái Phật Giáo.........................................8
1.3.2 Hai tông phái Phật giáo có trong cả Nam tông và Bắc tông ......................9
1.3.3 Hai tông phái Phật giáo Nam tông ...............................................................9
1.3.4 Sáu tông phái Phật giáo Bắc tông ..............................................................10
1.4 Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở một số nước Đông Nam Á
12
1.4.1 Campuchia ...................................................................................................12
1.4.2 Lào ................................................................................................................13
1.4.3 Việt Nam .......................................................................................................13
1.4.3.1 Lịch sử .......................................................................................................13
1.4.3.2 Đặc điểm....................................................................................................14
CHƯƠNG 2: PHẬT GIÁO THÁI LAN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN ...............................................................................................16
1.1 Tổng quan về đất nước Thái Lan .....................................................................16
1.2 Phật giáo tại Thái Lan .......................................................................................16
1.3 Phật giáo qua 4 thời kỳ ......................................................................................17
1.3.1 Thời Kỳ Sukhothai ......................................................................................17
1.3.2 Thời kỳ Ayutthaya.......................................................................................18
1.3.3 Thời kỳ Thonburi ........................................................................................18
1.3.4 Thời Kỳ Rattanakosin .................................................................................18
1.4 Những ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa - xã hội và tinh thần
của người dân Thái Lan ...............................................................................................19
1.4.1 Kinh tế ..........................................................................................................19
1.4.2 Giáo dục ........................................................................................................20
1.4.3 Chính trị .......................................................................................................20
1.4.4 Văn hóa – Xã hội..........................................................................................21
1.4.5 Kiến trúc chùa, chiền ..................................................................................23
TỔNG KẾT ......................................................................................................................25
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................26
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thái Lan là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á lục địa, từ lâu Thái Lan đã
được biết đến với những tên gọi khác như “Vùng đất tự do", "Quê hương của nụ cười",
"Đất nước của những chiếc áo cà sa". Tên gọi cuối cùng này đã mô tả một cách sâu sắc về
một tôn giáo lớn của quốc gia. Tại Thái Lan, Phật giáo được coi như tôn giáo quốc gia, gắn
chặt đến mọi mặt trong đời sống hàng ngày và ở tất cả các tầng lớp xã hội. Ngoài ra, ở “xứ
sở chùa Vàng”, Phật giáo đóng vai trò đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa xã
hội và hướng con người đến những điều tốt lành, tích công đức về sau và tránh xa những
điều ác để con người có thể được tìm được sự thanh thản trong tâm hồn. Chính vì thế, giáo
lý và giáo luật như là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của nhà nước, các tổ chức Phật giáo
trải qua nhiều thế kỷ, vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống người dân. Tìm
hiểu về nguồn gốc cũng như sự hình thành và phát triển của Phật giáo của Thái Lan là lý
do chính để nhóm chúng em chọn đề tài này. Đồng thời là những ảnh hưởng của nó đến
đời sống văn hóa - xã hội của người dân Thái Lan.
2. Lịch sử nghiên cứu
Lịch sử Thái Lan được chia thành 4 thời kỳ qua các triều đại: Sukhothai, Ayutthaya,
Thonburi và Rattanakosin (Bangkok). Đặc biệt, Phật giáo hình thành và phát triển ở Thái
Lan từ thời kỳ đầu của triều đại Sukhothai (1237-1456). Phật giáo tại đất nước Thái Lan
cũng như những ảnh hưởng của Phật giáo đến những giá trị văn hóa, đời sống tinh thần và
đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực của quốc gia, đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,
tiêu biểu như:
- Cuốn sách “Phật giáo ở Thái Lan” của TS. Nguyễn Thị Quế
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo tại đất nước Thái Lan và
những tác động của nó đối với đời sống xã hội của người dân hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Phật giáo tại Thái Lan mà trong đó, trọng tâm
của bài nghiên cứu là sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở đất nước Thái Lan; đồng
thời là những ảnh hưởng của Phật giáo đối với từng khía cạnh quan trọng trong sự phát
triển của quốc gia.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu đề tài của tiểu luận là Phật giáo ở Thái Lan.
Phạm vi thời gian của đề tài là từ khi Phật giáo được truyền vào Thái Lan từ thế kỉ
XIII cho đến ngày nay.
Phạm vi chủ thể của đề tài chỉ nghiên cứu về Phật giáo tại đất nước Thái Lan.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Theo Nguyễn Thành Trung (2019), những tiếp nhận về Phật giáo chỉ ở mức độ hữu
hình, chỉ là hiện tượng và chưa có nhu cầu đặt ra vấn đề lý luận về tiếp nhận Phật giáo
khiến các nghiên cứu chưa có mối liên kết chỉnh thể và hướng phát triển chung xứng tầm.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đối với đề tài này là phương pháp phân tích và tổng hợp:
Sử dụng và tham khảo các thông tin có trong tài liệu để từ đó tổng hợp những thông tin cần
thiết để phục vụ cho bài nghiên cứu.
Phương pháp tiếp cận liên ngành: Sử dụng tri thức của của ngành liên quan như Sử học;
Chính trị học; Xã hội học.
6. Bố cục của bài tiểu luận
Bài tiểu luận gồm có 2 chương chính, không bao gồm phần mở đầu, mục lục và
nguồn tài liệu tham khảo:
Chương 1: Khái quát về Phật Giáo
Chương 2: Phật Giáo Thái Lan và những ảnh hưởng của nó đến đời sống người dân.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1 Nguồn gốc của Phật Giáo
Phật giáo được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên bởi vị Thái tử
Tất - đạt - đa Cồ - Đàm (Siddhartha Gautama), sau là đức Phật. Là một tôn giáo quan trọng
ở hầu hết các quốc gia châu Á, thời gian mà Phật giáo ra đời là vào khoảng 2.600 năm tại
Ấn Độ. Câu chuyện xuất phát từ một vị thái tử có tên Tất - đạt - đa Cồ - Đàm (Siddhartha
Gautama), cha của Ngài là đức vua Tịnh Phạn (Sodhaddana) của tiểu quốc Thích-ca, ở
vương thành Ca-tỳ-la-vệ và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma-da (Siri Mahamaya). Vào một
đêm trăng khi đang ngủ thì hoàng hậu đã mơ thấy một con voi trắng sáu ngà từ cung trời
Đâu-suất* đến dâng hoa sen trắng, sau giấc mơ đó bà đã thọ thai sau nhiều năm chờ đợi.
Theo phong tục thì hoàng hậu sẽ quay về quê nhà để thọ sinh thái tử, trên đường đi bà đã
dừng chân tại vườn Lâm-tỳ-ni, hoàng hậu đến dưới gốc cây Vô-ưu ngắm nhìn những bông
hoa Sa-la đang nở, đưa tay nắm lấy thì bỗng nhiên bà chuyển dạ và hạ sinh Thái tử, bảy
ngày sau khi hạ sinh Thái tử thì bà qua đời với niềm hạnh phúc vì tâm nguyện đã hoàn
thành. Sau khi hoàng hậu qua đời thì người em gái của bà là hoàng hậu Ma-ha-ba-xà-ba-
đề thay chị mình nuôi dưỡng Thái tử, sống trong cuộc sống được yêu chiều và đầy đủ sung
túc, vàng bạc châu báu, đến tuổi trưởng thành thì Người kết hôn với công chúa Da-du-đà-
la (con gái của Đức vua Thiện Giác), sau đó hạ sinh hoàng tử La-hầu-la. Trong một chuyến
du ngoạn qua bốn cửa thành, Thái tử đã bắt gặp những hoàn cảnh sống khổ sở, nghèo đói
của nhiều người dân, đến khi Người gặp một vị tu sĩ với tướng mạo khoan thai đang bước
trên đường và nghe ông ấy nói: “Xuất gia tu hành là việc cao cả nhất để thoát khỏi vòng
luân hồi sinh-lão-bệnh-tử”. Khi đó Thái tử như đã ngộ ra chân lý của cuộc đời mình và ấp
ủ chí nguyện xuất gia để tìm đường giải thoát. Cho đến năm 29 tuổi, Ngài đã từ bỏ cuộc
sống giàu sang, phú quý, tự mình xuất gia đi tìm con đường cứu khổ cho chúng sinh, khám
phá triết lý sống của cuộc đời. Từ lúc đó, Ngài đã dành tất cả công sức, thời gian của mình
đi trải nghiệm, chu du cảm nhận cuộc sống đau khổ của nhân gian, từ đó trở thành tiền đề
cho sự hình thành và phát triển của Phật giáo đến ngày nay.
1.2 Những giáo lý cơ bản của Phật giáo
Giáo lý cơ bản của Phật giáo mà Ngài đã chứng ngộ lúc đắc đạo là Tứ Diệu Đế. Tứ
Diệu Đế có nghĩa là bốn sự thật chắc chắn, quý báu, nội dung của giáo lý này gồm:
Khổ đế: Khổ đế tiếng phạn là Dukkha, Dukkha có nghĩa là khó chịu đựng, khó kham nhẫn,
là đau khổ. Trung hoa dịch là khổ, nghĩa rộng là những cái gì làm cho mình khó chịu, đau
đớn… .Chân lý này cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính khổ não, không trọn vẹn, đức
Phật cũng chỉ ra 8 điều khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ (xa cách người thân yêu),
cầu bất đắc khổ (mong cầu nhưng không được), oán tắng hội khổ (gặp phải những người
mà bản thân không thích), ngũ ấm thạnh khổ (khổ về thân-tâm, luôn bị thân và tâm ràng
buộc)
Tập đế: là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa
nhóm, tích trữ lâu đời, nguyên nhân của sự khổ thường xuất phát từ lòng tham lam (tham),
sự giận dữ (sân), si mê (si),... . Các loại ham muốn này gốc của luân hồi.
Diệt đế: là sự thật đúng đắn, đức Phật đã thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi
người đều có thể đạt được, sau khi đã diệt trừ hết thảy phiền não, mê mờ. Bởi phiền não,
mê mờ là nguyên nhân của khổ đau.
Đạo đế: là những phương pháp tu hành đúng đắn để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý
chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh giới niết bàn. Nói một cách khác, đó là những
phương pháp tu hành để diệt trừ khổ đau, đạt được sự giải thoát và an lạc. Do tính chất đó
mà trong Tứ diệu đế, đạo đế là quan trọng nhất.
1.3 Các hệ phái của Phật giáo
Trong Phật giáo có hai tông phái lớn là: Phật giáo Nam tông (phái Tiểu Thừa) và :
Phật giáo Bắc tông (phái Đại Thừa). Cả hai bên tuy phân biệt ra như thế nhưng vẫn theo
tôn chỉ của Đức Phật. Phật giáo Bắc tông thì theo tinh thần Phật dạy mà tiến hóa hợp với
thời đại. Phật giáo Nam tông thì một mực bảo vệ và duy trì lời Phật trong các kinh chứ
không thay đổi.
1.3.1 Nguồn gốc hình thành Hai tông phái Phật Giáo
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn một trăm ngày, có 500 vị Thượng toạ trưởng lão
(Sthavira) tổ chức cuộc kết tập lần đầu trong hang Sattapanni rừng nigrodha cử Tôn giả
Ma Ha Ca Diếp làm Thủ tọa, ngài A Nan trùng tuyên những lời Phật dạy làm thành tạnh
kinh, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại các điều răn của Phật để kết tập Luật tạng, tôn giả đại Ca
Diếp đứng đầu coi việc giải thích đạo lý trong Kinh, làm thành bộ Luận tạng. Gọi chung là
Tam Tạng (Tripitaka).
-Một trăm năm sau, trong giáo đoàn có sự tranh luận về cách giữ giới luật và cách
hành đạo. Các vị trưởng lão Thượng tọa triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Xá Vệ,
đề cử Thượng tọa Yaca làm Thủ tọa. Kết quả phái Thượng toạ trưởng lão vẫn giữ phương
thức bảo thủ, phái đại chúng giữ phương thức Tiến Thủ. Nhưng cả hai không rời tôn chỉ
của Đức Phật.
1.3.2 Hai tông phái Phật giáo có trong cả Nam tông và Bắc tông
Luật tông:
• Tông phái Phật giáo này lấy giới luật làm căn bản. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ
luận sư chú giải những bộ luật (Thập tụng luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Tăng
kỷ luật) và đệ tử của Ngài, Đạo Tuyên luận sư nhận thấy có 68 bộ Luật tứ phần hợp
với căn cơ của người Trung Hoa nên đã căn cứ vào bộ luật này mà lập “Luật tông”.
• Luật tông chủ trương lấy tu rồi sẽ hiểu, hãy giữ giới cho nghiêm tịnh thì tâm sẽ định
tĩnh thanh tịnh và trí tuệ sẽ phát sinh, chân tâm sẽ hiển bày, Phật tánh sẽ hiển lộ.
• Chủ trương của Luật tông là giữ giới luật một cách nghiêm ngặt. Những quy luật
này bao gồm 250 quy định cho tăng và 348 cho ni giới.
Thiền Tông:
• Tông phái Phật giáo này nguyên thuỷ thuộc về Không Bộ bên Tiểu Thừa. Thiền
Tông không bàn luận về vũ trụ, căn bản là ngộ đạo mà thôi (giải thoát), là một tông
phái lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
• Thiền Tông chủ trương “bất lập văn tự”, chỉ cốt “tâm truyền tâm”, thực tướng của
vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất cả sa vào hiện tượng
giới, không thể đạt tới thực tướng được. Phi tọa thiền và trực giác thì không sao biết
được thực tướng.
1.3.3 Hai tông phái Phật giáo Nam tông
- Câu Xá Tông:
• Do ngài Thế Thân Bồ Tát lấy ý nghĩa trong kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahavibhasa Castra)
viết thành bộ Câu Xá Luận, được Ngài Trần Châu dịch rồi truyền sang Trung Hoa
rất sớm nhưng sau đó thất truyền. Đến khi Ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du
thỉnh kinh mới đem về dịch lại bộ luật này, rồi đệ tử Ngài là Phổ Quang dựa vào mà
làm nên “Câu Xá thuật ký” và Ngài Pháp Bảo làm bộ “Câu Xá luận sớ” thì Câu xá
mới thành một tông phái là Tông Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ thứ
IX thì suy vong và nhường chỗ cho các tông phái Đại thừa.
• Câu Xá Tông chia vạn vật ra thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Vô Vi Pháp chỉ về
cảnh giới trừu tượng vô thường không sinh không diệt, tức là lý thể. Hữu Vi Pháp
chỉ về vạn vật trong thế giới hiện tượng có sinh có diệt.
- Thành Thực Tông:
• Tông này đồng thời với Câu Xá Tông, do ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) y vào ý
nghĩa Bộ Thành Thật Luận mà lập ra vào khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập
diệt.
• Thành Thực Tông chia thế giới quan ra làm hai môn : Thế giới môn và đệ nhất nghĩa
môn.
1.3.4 Sáu tông phái Phật giáo Bắc tông
- Pháp Tướng tông:
• Tông này lấy Thành Duy Thức Luận làm gốc, tại Ấn độ do Ngài Thế Thân phát
triển và tại Trung Hoa do Ngài Huyền Trang truyền bá sau chuyến Tây du thỉnh
kinh trở về.
• Chủ trương vạn Pháp đều do thức biến ra. (Tam giới duy tâm, vạn Pháp duy thức)
Thức có 8: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt
Na Thức. Trong 8 thức thì A Lại Gia Thức là căn bản, vì chứa hết thảy Chủng Tử
để sinh khởi nhất thiết chư Pháp.
- Tam Luận Tông:
• Về phương diện đạo lý, Tam Luận tông giống như cửa ải muốn tiến bước trên con
đường giải thoát phải buông bỏ “Chấp trước”, nếu không muốn bị phát hiện món
hàng quốc cấm đó khi qua ải.
• Tông phái Phật giáo này khởi phát ở Trung Hoa, do ngài Huệ Văn Thiền Sư đời
Trần và đời Tuỳ (vào khoảng thế kỷ thứ 6) theo ý nghĩa bộ Trí Độ Luận tức là Bát
Nhã Ba La Mật Đa luận và lấy Pháp Hoa Kinh làm gốc, nên còn gọi là Pháp Hoa
Tông.
- Thiên thai: Chủ trương của tông phái Thiên Thai này là xem mọi vật đều bình
đẳng, mọi vật đều liên hệ lẫn nhau. Tất cả mọi pháp đều trống rỗng, hai mặt của Không đó
là tĩnh (lý) và động (sự) đều cùng lúc tồn tại, xuyên suốt vào nhau, không ngăn ngại; mỗi
hiện tượng đều đồng nhất với hiện tượng khác.
- Hoa Nghiêm Tông (hay Hiền Thủ tông):
• Tông phái Phật giáo này cũng phát khởi ở Trung Hoa căn cứ ở Hoa Nghiêm Kinh
do Đỗ Thuận và Trí Nghiêm Hoà Thượng ở đời Tuỳ và Đường lập ra, người có công
kế thừa và xiển dương là là Ngài Pháp tạng còn gọi là Hiền Thủ.
• Tông này theo chủ trương “Pháp giới duyên khởi” Vạn hữu có tam đối lục tướng là
do thập huyền môn, thập huyền diệu, lý duyên khởi và lục tướng viên dung mà phát
sinh lý “Sự sự vô ngại”. Đây là cái đặc sắc của giáo lý Hoa Nghiêm Tông.
• Theo Tông này thì phân biệt chân vọng dứt trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh cùng
thực tại Nhất Như là giải thoát.
- Mật tông (hay Chân Ngôn Tông):
• Mật Tông là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ
giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật
Tông lại chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa
(Vajrayàna).
• Tông phái Mật Tông căn cứ ở Đại Nhật Kinh, lấy bí mật Chân Ngôn làm Tông chỉ,
nên cũng gọi là Mật Tông. Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim
Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương trí, Kim
Cương Trí cùng với Bất Không đem qua trung Hoa vào khoảng đời Đường. Chân
Ngôn Tông chủ trương thuyết Lục đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Cho
lục đại là thực của vũ trụ.
- Tịnh Độ Tông: Tông phái Tịnh Độ lấy việc quy y tịnh độ làm mục đích, chuyên
trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà. Tịnh Độ Tông phát khởi
từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong kinh điển ghi các vị Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, Thế
Thân khuyên mọi người nên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ Tông cho rằng mỗi người ai cũng có
Phật tính, đều có thể thành Phật, vì ở thế gian phiền não nên cầu về cõi Cực Lạc Tây
Phương. Vì tự lực khó đạt nên cầu tha lực Đức Phật A Di Đà. Ngày nay Tịnh độ tông là
tông phái Phật giáo phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
1.4 Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở một số nước Đông Nam Á
1.4.1 Campuchia
Tại Campuchia, Phật giáo đã xuất hiện vào thế kỷ IV, ngày nay có hơn 95% dân số
Campuchia theo Phật giáo (Nam tông). Trong Hiến pháp năm 1953, Phật giáo cũng được
chọn làm quốc giáo cho Campuchia. Phật giáo truyền vào Campuchia thông qua hai con
đường là: các thương nhân theo Ấn Độ giáo truyền vào vương quốc Phù Nam và việc Phật
giáo đồng hoá thông qua văn hóa sống của người Khmer trong đế chế Angkor khi Phật
giáo nguyên thuỷ của người Môn được người Campuchia tiếp thu. Đến thế kỷ VII, vị vua
trước đó của Campuchia là một người ủng hộ Hindu giáo và đàn áp Phật giáo, nhưng sang
đến thế kỷ IX Phật giáo lại bắt đầu nhận được sự ủng hộ từ các vị vua. Vua Jayavarman I
cai trị đất nước từ cuối thế kỷ XII đến những năm đầu thế kỷ XIII, ông là người tôn sùng
và ủng hộ đạo Phật rất nhiều. Dưới thời cai trị của ông, Phật giáo (Bắc tông) trong một thời
gian ngắn đã trở thành tôn giáo có ưu thế vượt trội trong vương quốc, điển hình thông qua
việc ông đã cho xây dựng thành phố Angkor (Angkor Thom) mà trong đó lấy ngôi đền
Bayon làm trung tâm, ngay giữa đền là một ngọn tháp đồ sộ được tạc hết độc đáo, xung
quanh tháp chính là những ngọn tháp nhỏ hơn được tạc với những gương mặt người -
những gương mặt này chính là chân dung của những vị vua được xem là những vị “Vua
Phật”.
Trong những thế kỷ tiếp theo, Phật giáo tiếp tục được người dân Campuchia tin
theo, thậm chí vào giữa thế kỷ XIX khi Campuchia trở thành thuộc địa dưới quyền cai trị
của thực dân Pháp thì Phật giáo vẫn được các vị vua bảo trợ dù ở mức thấp hơn. Trong
triều đại vua Jayavarman I trị vì, những tăng sĩ Miến Điện bắt đầu đến giảng dạy Phật giáo
Theravada (Nam tông) cho cộng đồng người Campuchia, khi người Thái xâm lược
Campuchia vào thế kỷ XIV cũng đã góp phần truyền bá thêm Phật giáo Theravada tại đất
nước này. Đến giữa thế kỷ XIV, Phật giáo (Nam tông) đã được người dân Campuchia đón
nhận một cách rộng rãi.
1.4.2 Lào
Người Lào có nguồn gốc từ biên giới phía Tây Nam của Trung Quốc, từ khi người
Nam Chiếu hưng khởi vào đời Đường đến khi Đại Lý bị Mông Cổ tiêu diệt. Vùng này chịu
ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hoá Trung Quốc, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng văn hoá Đông
Nam Á Ấn Độ hóa. Phật Giáo thịnh hành ở đây trong giai đoạn sơ khởi là loại tín ngưỡng
Phật Giáo hỗn hợp giữa văn hoá Trung Quốc lẫn Ấn Độ, đồng thời mang ảnh hưởng tín
ngưỡng bản địa. Theo tập tục dân gian, người Lào thời cổ thờ phụng thần linh, gia tiên,
thờ vong hồn và thế giới thiên nhiên. Thời đó, Phật Giáo chỉ là tín ngưỡng của thiểu số.
Lịch sử Lào ghi chép Phật Giáo du nhập từ đời vua Phà Ngừm (1349). Lãnh thổ của nước
Lào trong thời bấy giờ bao gồm toàn bộ Bắc Lào và Trung Lào hiện nay, Chiang Mai của
Thái Lan và miền Đông Bắc của Miến Điện, lãnh thổ rộng lớn đã giúp cho Lào trở thành
một quốc gia khá hùng mạnh trong thời bấy giờ. Sau khi vua Phà Ngừm dựng nước, chế
độ chính trị nơi đây phần nhiểu mô phỏng theo vương triều Khmer của Campuchia, đặt ra
quyền trung ương tập quyền. Do đó, Phật Giáo của Campuchia cũng bắt đầu du nhập vào
Lào. Vua Phà Ngừm kết hôn với Kiều Lạc (công chúa Campuchia), công chúa Kiều Lạc là
người theo Phật giáo thuần thành. Khi sang Lào, bà thấy dân chúng thời đó sùng bái quỷ
thần, mê tín dị đoan, thường hay hiến tế bằng phụ nữ, nên bà khuyên nhà vua nên can thiệp
để đưa Phật Giáo vào, để có thể giúp dân chúng thay đổi tín ngưỡng. Vua Phà Ngừm đồng
thuận với điều đó và bắt đầu tạo nhiều cơ hội cho Phật giáo du nhập vào Lào, dưới sự tác
động của vua, Phật giáo Theravada (Nam tông) đã có được vị thế vững vàng tại Lào và
được duy trì cho đến nay.
1.4.3 Việt Nam
1.4.3.1 Lịch sử
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất trước
Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Những vết tích đầu tiên được được ghi nhận
với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ.
Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
o Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và
phát triển rộng khắp;
o Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;
o Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
o Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.
1.4.3.2Đặc điểm
Ngày nay, hơn một nửa dân số Việt Nam tự coi mình là tín đồ của Phật giáo Đại
thừa. Phật giáo Nguyên thủy và Hòa Hảo cũng có mặt với số lượng đáng kể. Ở khu vực
miền Nam, hệ phái Phật giáo Nam tông cũng có ảnh hưởng không nhỏ, nhất là trong cộng
đồng người Khmer Nam bộ.
Thực hành Phật giáo ở Việt Nam khác với thực hành ở các nước châu Á khác, và
không có cùng cấu trúc thể chế, hệ thống cấp bậc hoặc tăng đoàn tồn tại trong các môi
trường Phật giáo truyền thống khác. Phần lớn các học viện Phật giáo tập trung vào các nghi
lễ sùng kính hơn là thiền định.
Tính dung hòa: Phật giáo ở Việt Nam được dung hợp với tín ngưỡng bản địa, tiếp
nhận Đạo giáo, rồi cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba
tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích)
- Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp
sau của con người. Ngoài ra giáo lý Phật giáo còn được hòa trộn với các tôn giáo khác để
hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920. Ngoài ra còn có sự dung hòa giữa các tông
phái Phật giáo với nhau.
Phật giáo tại Việt Nam còn là nguồn ảnh hưởng đến sự ra đời của các hệ phái, tôn
giáo mới như: Đạo phật Khất sĩ Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đạo
Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội,...
Phật giáo ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến đời sống người Việt Nam từ tư tưởng, đạo
lý, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tập quán, các quan hệ chính trị xã hội, trong đời
sống người bình dân và giới trí thức, ngôn ngữ, ca dao, thơ ca, nghệ thuật,... Phật giáo đã
góp phần hình thành ở người Việt Nam lối sống bình dị, chất phác, thật thà, rất đỗi thủy
chung, có nghĩa có tình, có trước có sau, hướng con người vào thực hành cái thiện, tránh
xa cái ác, đem lại sự thanh thản trong tâm hồn mỗi con người. Có thể khẳng định rằng,
Phật giáo là một thành phần tối quan trọng hình thành nên đời sống và xã hội Việt Nam.
CHƯƠNG 2: PHẬT GIÁO THÁI LAN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
1.1 Tổng quan về đất nước Thái Lan
Thái Lan hoặc Vương quốc Thái Lan, hay còn được gọi là “Xứ sở chùa Vàng” là
một quốc gia độc lập có chủ quyền ở khu vực Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và
Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia,
phía tây giáp Myanmar và biển Andaman. Thái Lan có diện tích 508.130 km², dân số vào
khoảng 76 triệu người (ước tính 2023). Khoảng 75% là dân tộc Thái, 21% là người Thái
gốc Hoa và 6% là người Mã Lai, phần còn lại là những nhóm thiểu số và các dân tộc
khác. Về tôn giáo, Phật giáo Nam Tông được coi là ‘quốc giáo’ với tỷ lệ người theo là
90,4% - khiến cho nước này trở thành một trong những quốc gia Phật giáo lớn nhất trên
thế giới theo tỷ lệ dân số. Cũng theo điều tra dân số năm 2023, Islam giáo chiếm 4% và
Kitô giáo chiếm 2,1%.
1.2 Phật giáo tại Thái Lan

(Hình 1.2: Phật giáo tại Thái Lan)


Phật giáo được coi như tôn giáo quốc gia của Thái Lan (chiếm khoảng 95% dân số).
Mặc dù chọn Phật giáo Theravada Srilanka làm dòng chính, nhưng Phật giáo Theravada
Thái Lan hoàn toàn không cứng nhắc theo Srilanka, mà dung hợp tất cả những dòng Phật
giáo có từ trước đó, kể cả tín ngưỡng thờ thần linh của người Thái cổ và lấy học thuyết
Phật giáo để giải thích, củng cố thêm những quan niệm của mình trong tín ngưỡng truyền
thống Có thể thấy, Phật giáo Theravada Thái Lan có phần khác Phật giáo nguyên thủy, khi
luôn bám sát các vấn đề nhân sinh quan của Phật giáo, nhấn mạnh vào thuyết luân hồi và
luật nhân quả để hành động theo các quy phạm đạo đức vốn đã đề cao trong Phật giáo
Theravada Sri Lanka. Tất cả nhằm hướng đến một kiếp sống tốt đẹp hơn, không bận tâm
nhiều vào sự giải thoát, Niết bàn mà Phật giáo nguyên thủy đề cập.
Phật giáo được cho là đã đến Thái Lan ngày nay sớm nhất là 250 TCN, vào thời
Hoàng đế Ấn Độ Ashoka. Có giả thuyết khác lại cho rằng đạo Phật du nhập vào Thái Lan
do các thương gia và di dân Ấn Ðộ trước kia thường lui tới các bờ biển Miến Ðiện, Mã
Lai, Nam Dương, Thái Lan và Campuchia. Những di dân và thương gia đầu tiên này truyền
vào Thái cả Phật giáo lẫn Hindu giáo. Kể từ đó, Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng
trong văn hóa và xã hội Thái Lan.
Các học giả Thái Lan tin rằng vương quốc Dvaravati của người Môn (miền trung
Thái Lan ngày nay) có thể đã tiếp nhận các nhà truyền giáo Phật giáo trong thời đại này,
do nhiều phát hiện khảo cổ học ở các thành phố cổ Dvaravati như Nakhon Pathom chỉ ra
sự hiện diện của Phật giáo sớm.
Vương quốc Môn của Hariphunchai (phía bắc Thái Lan) với thủ đô tại Lamphun
cũng là một vương quốc Phật giáo, với những ngôi chùa nổi tiếng như Wat Haripunchai và
Wat Champa Devi.
1.3 Phật giáo qua 4 thời kỳ
Trong lịch sử đất nước Thái lan đã từng trải qua các triều đại Sukhothai, Ayutthaya,
Thonburi và Rattanakosin (Bangkok). Và ở mỗi thời kỳ đều mang đậm dấu ấn và sự ảnh
hưởng của Phật giáo.
1.3.1 Thời Kỳ Sukhothai
Phật giáo hình thành và phát triển ở Thái Lan từ thời kỳ đầu của triều đại Sukhothai (1237-
1456). Trong thời kỳ này có rất nhiều vị vua tín ngưỡng Phật Pháp, xây dựng chùa chiền,
thậm chí có nhiều vị xuất gia tu học chẳng hạn như Vua Ramkhamheng và Vua Lithai. Đặc
biệt, vua Lithai (Maha Thammarat Ai - trị vì từ năm 1419-1438 đến triều đại Rama - trị vì
từ năm 1782) ông là một vị vua Phật tử anh minh, từ ái, thương dân như con của mình, kể
cả những kẻ đối đầu. Ông đã có công xây chùa và đúc tượng Phật rất nhiều trong thời ông
trị vì. Có thể nói, ở thời kỳ mà ông trị vì được coi là thời hoàng kim của Phật giáo. Mặc dù
Sukhothai chỉ tồn tại gần hai thế kỷ (1238-1436) nhưng hai vị vua sùng đạo của vương
triều là Ramkhamhaeng cùng Lu T’ai đã củng cố và đưa Phật giáo Theravada được truyền
từ Sri Lanka trở thành quốc giáo từ thế kỷ XIII – XIV cho đến tận ngày nay.
1.3.2 Thời kỳ Ayutthaya
Các vương triều sau này của người Thái đã tiếp nối dòng chảy Phật giáo thời
Sukhothai, củng cố sự phát triển Phật giáo Theravada ở Thái Lan và các nước lân cận. Phật
giáo Nguyên thủy đã bén rễ sâu khắp Xiêm trong thời Ayutthaya, bên cạnh Hindu giáo vốn
đã đặc trưng cho nghi lễ cung đình và các thực hành tôn giáo trước đó đã lan tỏa khắp mọi
tầng lớp xã hội. Cơ sở tu viện Phật giáo (sangha) đóng một vai trò quan trọng trong xã hội,
tạo thành tâm điểm cho cuộc sống làng quê, cung cấp cho nam thanh niên một nền giáo
dục và cung cấp cho những người được chọn ở lại tăng đoàn một kênh để di chuyển lên xã
hội. Trong khoảng thời gian 417 năm, vương quốc có rất nhiều tu viện, chùa chiền, tượng
Phật, chùa chiền, cung điện đẹp đẽ.

1.3.3 Thời kỳ Thonburi


Dưới triều đại của vua Thonburi, ông đã cho sửa chữa một số ngôi chùa, thiết lập các
quy tắc tu viện, thu thập các kinh sách tôn giáo và việc nghiên cứu và thực hành Phật giáo
đã được sửa đổi ở một mức độ nào đó. Đối với các bản văn như Tam Tạng Kinh, Chú giải
và Tiểu chú giải bị lửa thiêu hủy, ông đã cho mượn hoặc sao chép chúng từ Campuchia.
Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng Phật giáo Theraveda dưới hình thức của Ayutthaya vẫn
thịnh hành trong thời kỳ Thonburi

1.3.4 Thời Kỳ Rattanakosin


Ở thời kỳ này, Phật giáo đã là một phần không thể thiếu trong đời sống. Các vị vua Thái
Lan thời nay đã xây dựng nhiều chùa chiền. Mặc dù trải qua chiến tranh nhưng các vị vua
vẫn cố gắng khôi phục, xây dựng và thực hành Phật giáo.
1.4 Những ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa - xã hội và tinh thần của
người dân Thái Lan
1.4.1 Kinh tế
Phật giáo cũng đóng một vai trò đáng kể trong môi trường kinh tế của người dân
Thái. Nhiều lời Phật dạy về cách chọn nghề chân chính và thực hiện công việc làm ăn chân
chính, đã được áp dụng rộng rãi trong mọi giai tầng của xã hội Thái, và người dân Thái
biết làm thế nào để duy trì một gia đình hạnh phúc, ổn định về kinh tế qua giáo lý của nhà
Phật.
Khi Thái Lan bước vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, kinh tế có những
bước phát triển vượt bậc từ chỗ là một quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài sang thành một
quốc gia đi đầu tư ra ngoại quốc. Nông nghiệp sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp, này các
sản phẩm nông nghiệp đã trở thành hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài và Thái Lan đã đứng
hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Tuy nhiên vì quá chú trọng đến phát triển mà người
Thái không quan tâm tới việc bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường. Môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội là những vấn đề nhức nhối mà chính phủ Thái Lan đang nỗ lực tìm
cách khắc phục. Trong rất nhiều chương trình và dự án đề ra, ta thấy nổi bật nhất là “chương
trình kinh tế vừa đủ” và sau đó được nâng lên thành “Học thuyết kinh tế vừa đủ” của vua
Bhumibol Adulyadej (1946 – 2016). Đây là một chương trình và học thuyết xuất phát từ
triết lý về “Trung Đạo” và “Biết đủ” của Phật giáo, nhờ áp dụng các biện pháp cụ thể của
học thuyết này mà bộ mặt nông thôn Thái Lan đã được cải thiện. Đối với triết lý này, việc
ưu tiên hàng đầu là lợi ích của con người và môi trường, chứ không phải khai thác tối đa
lợi nhuận.
(Hình 1.4.1: Nền nông nghiệp lúa nước tại Thái Lan)
1.4.2 Giáo dục
Thái Lan – “Vương quốc của những chiếc áo Cà sa” đã minh chứng cho vai trò
quan trọng của Phật giáo đối với nền giáo dục của đất nước này.
Khi đến thăm các trường học, các chuyên gia giáo dục Anh ngạc nhiên về sự hiền
hòa, từ ái, khiêm cung và nhã nhặn; tính tự kỷ luật, nghiêm túc, sự lễ phép với thầy cô giáo,
sự tôn trọng lẫn nhau của các em học sinh; đặc biệt, sự yên tĩnh của những ngôi trường,
mặc dù có mấy ngàn học sinh đang học.
Giáo dục Phật giáo luôn đóng vai trò quan trọng trong nền giáo dục của quốc gia.
Trong lịch sử, đã từ rất lâu nhà chùa là nhà trường, tu sĩ là thầy giáo. Hiện nay, Tăng sĩ
Phật giáo phụ trách một số môn như: Phật pháp và giáo dục công dân… Cuộc sống của
mỗi người dân Thái Lan luôn gắn bó và ảnh hưởng tinh thần Phật giáo. Khi chào đời, cha
mẹ thỉnh chư Tăng đặt tên cho con, đến 18 tuổi phải vào chùa xuất gia ít nhất là ba tháng,
kể cả vua chúa; ngày lập gia đình thì thỉnh chư Tăng đến nhà tụng kinh cầu an và dâng lễ
vật cúng dường; ngày mất cũng thực hiện theo nghi lễ Phật giáo.
1.4.3 Chính trị
Quan điểm nhân sinh và đạo Đức Phật giáo đã tác động không nhỏ đến đường lối
trị quốc an dân của các vị vua Thái, đó là tư tưởng lấy đức để trị. Ngay từ thời kỳ đầu dựng
nước, người Thái đã chọn Phật giáo làm quốc giáo và cho đến nay Phật giáo vẫn đang là
quốc giáo. Các vị vua của Thái Lan đều thấm nhuần và làm theo những quy phạm đạo đức
của Phật giáo, trong đó có những vị vừa là vua vừa là sư.
Vương quyền dựa vào Phật giáo để quản lý đất nước, tôn giáo dựa vào vương quyền
để củng cố Tăng đoàn, nói cách khác là đặt Tăng đoàn dưới sự bảo trợ và quản lý của
vương quyền nhằm nâng cao uy tín cho tập thể này. Chức sắc trong Tăng đoàn được nhà
vua trực tiếp đề cử. Tăng đoàn trở thành một thành phần của guồng máy quốc gia và ngược
lại, quốc gia cũng xem Phật giáo là bản sắc chung của dân tộc cần được bảo vệ, tôn trọng.
Có thể nói, nhân sinh quan Phật giáo đã được những nhà vua và các Chính phủ Thái
Lan thấm nhuần và áp dụng hiệu quả trong việc bảo vệ, quản lý, phát triển đất nước trước
những đổi thay của thời cuộc. Chính trị và Phật giáo Thái Lan có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nhà vua là người bảo trợ cho Phật giáo và Phật giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới
chính sách đối nội và đối ngoại của Thái Lan.
1.4.4 Văn hóa – Xã hội
Trong văn hóa dân gian, Phật giáo đã đóng góp vào hình thành nhân cách đạo đức
của con người, ở nghi lễ cắt chỏm tóc, mang ý nghĩa cho đứa trẻ trưởng thành sẽ gặp nhiều
điều may mắn về sức khỏe và hướng thiện.
Nghi lễ Phật giáo quan trọng ảnh hưởng đến đời sống của bất kỳ người đàn ông nào
cũng đều phải trải qua, đó là lễ Thụ phong “Kan Upsombot hoặc Ordination Ceremony”
(vào chùa tu).
Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến nghi lễ cưới hỏi. Trước khi làm lễ cưới, hầu hết
các gia đình đều mời các nhà sư đến tụng kinh cầu chúc hạnh phúc cho cô dâu chú rể.
Thông thường các nhà sư được mời từ buổi chiều trước ngày cưới. Buổi sáng hôm sau, đôi
tân hôn đem thức ăn cúng dường cho các nhà sư trước khi tiến hành hôn lễ.
Phật giáo gắn chặt với chu kỳ vòng đời cuối cùng của đời người là nghi lễ tang ma, (Phi
thi phẫu sộp, nghĩa là nghi lễ hỏa táng).
Nghi lễ làm phúc (Thăm Bun) liên quan nhiều đến Phật giáo và phổ biến hằng ngày.
Lễ làm phúc bao giờ cũng có các hoạt động làm món ăn, và một số đồ dùng khác… để
dâng cho các nhà sư khi gia đình có công việc, như: cúng nhà mới, xe mới, cưới hỏi, tang
ma... Trong dịp này, chủ nhà chuẩn bị mời và đón các nhà sư vào ngày đã định sẵn.
Đối với người dân Thái Lan, Phật giáo gần như là một phần không thể thiếu trong
đời sống. Các lễ nghi của người Thái hầu như đều chịu ảnh hưởng đậm nét của văn hóa
Phật giáo. Trong đó, phải kể đến những nghi lễ tiêu biểu như: Lễ Đặt Tên; Lễ Thọ Giới;
Lễ Cưới; Lễ Tang.
• Lễ Thọ Giới: Nghi thức này cũng rất quan trọng và bắt buộc đối với mọi thanh niên
Thái, kể cả các bậc vua chúa, khi họ ở vào giai đoạn trưởng thành, mười tám đến
hai mươi tuổi.

(Hình 1.4.4: Một lễ Thọ Giới được tổ chức tại Thái Lan)
• Lễ Cưới: Phật giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong hôn lễ, buổi lễ sẽ giúp cho
hai người có một sự kết hợp thiêng liêng trong lễ cưới. Trước khi làm lễ cưới, hầu
hết các gia đình đều mời các nhà sư đến tụng kinh cầu chúc hạnh phúc cho cô dâu,
chú rể.
• Lễ Tang: Tang lễ được tổ chức tùy theo phong tục của từng địa phương, nhưng phần
lớn vẫn được áp dụng theo nghi thức Phật giáo.
Bên cạnh đó, tại đất nước Thái Lan có những ngày lễ lớn liên quan đến Phật giáo.
Lễ hội loy Krathong là lễ hội truyền thống hàng năm ở Thái Lan được tổ chức để tỏ
lòng thành kính với Nữ thần Nước và Đức Phật. Đây không phải là một ngày lễ chung
nhưng được tổ chức trên toàn quốc khi mọi người tập trung quanh hồ, sông và kênh để thả
đèn lồng nổi hoặc Krathong trên đường thủy. Đây là biểu biểu tượng của một sự khởi đầu
mới, cầu nguyện cho những điều may mắn sẽ đến trong cuộc sống. Được tổ chức vào 12
ngày rằm theo âm lịch Thái. Dù rằng không phải là kỳ nghỉ lễ chính thức theo quy định
của Chính phủ, nó vẫn là một mỹ tục, mà "loy" có nghĩa là "thả trôi" và "krathong" nghĩa
là một cái bè nhỏ, theo truyền thống được làm từ một khúc thân cây chuối, được trang trí
bằng các lá chuối được xếp gấp tỉ mỉ, hoa, nến, hương... Việc thả đèn này là biểu tượng
của việc để cho những hận thù, giận dữ và sự ô uế trôi đi để mà người ta có thể bắt đầu
bước tiếp cuộc đời họ một cách thanh sạch hơn.
Tết Songkran, là ngày lễ mừng năm mới của người Thái. Songkran diễn ra vào ngày
9/4 hàng năm nhưng thời gian nghỉ lễ kéo dài từ 13 đến 15/4. Ngày lễ này rơi vào mùa khô,
thuộc vào mùa nóng trong năm ở Thái Lan nên luôn có tục té nước rất huyên náo. Tục té
nước bắt nguồn từ nghi thức tắm tượng Phật và vẩy nước thơm lên tay người lớn tuổi, đây
cũng là các để bày tỏ lòng tôn kính của người Thái.
Tết té nước Songkran, được chính thức công nhận là vào ngày 13 đến 15 tháng 4
hàng năm. Ngày lễ này rơi vào mùa khô, thuộc vào mùa nóng trong năm ở Thái Lan nên
luôn có tục té nước rất huyên náo. Tục té nước bắt nguồn từ nghi thức tắm tượng Phật và
vẩy nước thơm lên tay người già. Một ít bột thơm cũng được dùng trong nghi thức tắm rửa
hàng năm. Nhưng trong những thập kỷ gần đây, việc sử dụng nước được tăng cường với
đủ loại vòi, xô, súng bắn nước, ống xả nước và một lượng lớn bột.
1.4.5 Kiến trúc chùa, chiền
Wattana Boonjub đã viết: “Để hiểu kiến trúc Thái Lan, người ta cần nghiên cứu các
khía cạnh khác nhau của niềm tin tôn giáo đằng sau những hình thức kiến trúc đó vì nó sẽ
giúp nhìn thấy mặt khác của cái đẹp, điều không kém phần quan trọng. Khi thảo luận về
hệ tư tưởng Phật giáo trong kiến trúc Thái Lan, không thể tránh khỏi việc tập trung vào
Phật giáo Nguyên thủy, đến Vương quốc Thái Lan vào khoảng thế kỷ thứ 12 và vẫn là
trường phái Phật giáo nổi bật nhất ở Thái Lan cho đến tận bây giờ. Tính liên tục lâu dài
của nó sẽ đảm bảo ảnh hưởng của chữ viết và thuyết giảng của Theravada đối với nghệ
thuật và kiến trúc Thái Lan. Trên thực tế, ý tưởng chính của Nguyên thủy về việc loại bỏ
bất thiện, như một cách để chấm dứt mọi đau khổ ở cấp độ lokiya và lokuttara, có liên quan
đến các đặc điểm độc đáo của kiến trúc Thái Lan - hòa bình, nhẹ nhàng và bồng bềnh. Triết
lý Phật giáo thể hiện trong sự đối xứng của các cấu trúc trong các ngôi đền. Điều này có
thể nhìn thấy trong hình vuông và cấu trúc hình chữ nhật cũng như hình tròn. Ta có thể có
loại cảm giác này khi nhìn vào mặt tiền của Đền Benchamabophit và bảo tháp nổi tiếng ở
Đền Bình Minh (Wat Arun).
TỔNG KẾT
Sau khi du nhập vào Thái Lan, Phật giáo được chấp nhận rộng rãi bởi giáo lý Phật
giáo nhấn mạnh lòng khoan dung, từ – bi – hỷ – xả sớm ăn sâu vào tiềm thức và lối sống
của người Thái Lan. Ngày nay theo thống kê, tổng số 95% dân chúng Thái Lan được ghi
nhận là tín đồ Phật giáo, hầu hết là theo truyền thống Phật giáo Theravada. Cùng với sự
hiện diện của Phật giáo trên đất nước Thái Lan là hàng vạn ngôi chùa và số lượng Tăng sĩ
Thái Lan đông đảo. Triết lý nhà Phật đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi sinh hoạt của người
dân đất Thái và là chất keo bảo vệ sự hòa thuận, cố kết cộng đồng trong xã hội Thái Lan.
Một điều không thể thay đổi được đối với người Thái Lan chính là tinh thần Phật giáo trong
con người họ hay nói cách khác Phật giáo là linh hồn dân tộc. Như nhiều học giả Phương
Tây nhận xét: nếu không có Phật giáo, Thái Lan không còn là Thái Lan nữa.
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chí, N. T. (2013). Phật giáo tại Thái Lan.


Hoskins, J. A. (không ngày tháng). What Are Vietnam’s Indigenous Religions?
Nguyen, P.-V. (2018). Journal of Asian Studies .
Nguyen, P.-V. (2018). The Republic of Vietnam and Religious Nationalism, 1946–1963.
Trung, N. T. (2019). NGHIÊN CỨU TIẾP NHẬN PHẬT GIÁO THERAVĀDA THÁI LAN.
wikipedia. (n.d.). Lịch sử Phật giáo Việt Nam.

You might also like