Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 75

CÂU HỎI ÔN THI HỌC PHẦN

LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


Áp dụng với hệ luật học chuẩn, 4 tín chỉ, hình thức thi viết

Table of Contents
PHẦN NHẬP MÔN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI................1
Câu 1. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật, ý nghĩa,
yêu cầu, phong cách nghiên cứu, học tập LSNNPL.......................................................................2
Câu 2. Cơ sở kinh tế – xã hội của sự ra đời, tồn tại và phát triển của các nhà nước Phương
Đông cổ đại (Ai Cập, Lưỡng Hà, ấn Độ, Trung Quốc)..................................................................4
Câu 3. Nội dung cơ bản của Bộ luật Hammurabi (ở Lưỡng Hà cổ đại), và so sánh nó với Bộ
luật Manu (ở ấn Độ cổ đại)..............................................................................................................6
Câu 4. Trình bày khái quát quá trình dân chủ hoá bộ máy nhà nước Aten, tổ chức bộ máy
nhà nước Cộng hoà dân chủ chủ nô Aten và nhận xét tính chất dân chủ của nhà nước này.. .10
Câu 5. So sánh và chỉ ra nét khác biệt cơ bản giữa nhà nước Xpác và nhà nước Aten (Hy Lạp
cổ đại)..............................................................................................................................................15
Câu 6. Trình bày nội dung cơ bản của Luật La Mã và lý giải sự phát triển của pháp luật dân
sự ở La Mã thời kỳ cổ đại..............................................................................................................17
Câu 7. Các giai đoạn phát triển cơ bản của Nhà nước và pháp luật phong kiến Tây Âu? Lí
giải nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi các hình thức nhà nước?................................................20
Câu 8. Trình bày những điều kiện kinh tế – xã hội của sự tồn tại nền quân chủ phân quyền
cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến..............................................................................................23
Câu 9. Phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội dẫn đến sự xuất hiện chế độ tự trị của các
thành thị và cơ quan đại diện đẳng cấp ở Tây Âu trong thời kỳ phong kiến............................24
Câu 10. Nêu và giải thích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh
tranh................................................................................................................................................25
Câu 11. Từ góc độ lịch sử và luật pháp hãy lý giải tình trạng “không có hiến pháp thành văn”
ở nhà nước Anh tư sản và phân tích tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Anh thời kì CNTB tự do
cạnh tranh.......................................................................................................................................27
Câu 12. Nêu cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Mỹ. Xác định hình thức chính thể của
Nhà nước tư sản Mỹ.......................................................................................................................28
Câu 13. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật tư sản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh.......................................................................................................................................30
Câu 14. Những điểm mới cơ bản của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến?..............34
PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM...........................................39
Câu 1. Sự hình thành, tổ chức bộ máy và đặc trưng cơ bản của nhà nước Văn lang- Âu lạc.
(Chương I trang 35).......................................................................................................................39
Câu 2. Đặc điểm cơ bản về nhà nước và pháp luật ở Việt nam thời Bắc thuộc.........................41
Câu 3. Những đặc trưng cơ bản về tổ chức nhà nước, pháp luật của các triều Ngô – Đinh –
Tiền Lê, Lý – Trần – Hồ................................................................................................................44
Câu 4. Những đặc trưng cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê sơ..................................47
Câu 5. Quốc triều hình luật thời Lê..............................................................................................47
Câu 6. Sự thể hiện các quan điểm cơ bản của nho giáo, tính dân tộc trong Quốc triều hình
luật thời Lê......................................................................................................................................49
Câu 7. Nội dung cơ bản của chế định dân sự, hôn nhân và gia đình, các quy định tố tụng
hình sự, thủ tục pháp lý trong Quốc triều hình luật thời Lê.......................................................52
Câu 8. Những nội dung cơ bản, ý nghĩa của Quốc triều khám tụng điều lệ.........................53
Câu 9. Hệ thống chính quyền và pháp luật thời Lê – Trịnh ở Đàng ngoài...........................60
Câu 10. Những đặc điểm cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn............................64
Câu 11. Những đặc điểm cơ bản của Bộ Hoàng Việt Luật Lệ (Luật Gia Long): tính chất,
phạm vi điều chỉnh, kỹ thuật pháp lý, đặc điểm về các chế định dân sự, hôn nhân và gia đình,
tội phạm, hình phạt........................................................................................................................66
Câu 12. Những đặc điểm cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ Pháp thuộc..................68
Câu 13. Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp đến pháp luật Việt nam thời kỳ Pháp
thuộc................................................................................................................................................69
Câu 14. Hiến pháp năm 1946: tính chất, phạm vi điều chỉnh, giá trị kế thừa...........................71
Câu 15. Tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 1946...............................................71
Câu 16. Quyền, nghĩa vụ cá nhân trong Hiến pháp năm 1946, giá trị kế thừa..........................71
Câu 17. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959............................................................72
Câu 18. Những thành tựu và hạn chế của pháp luật Việt Nam thời kỳ 1946 – 1960.................74
Câu 19. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980............................................................75
Câu 20. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992............................................................76
Câu 21. Những điểm mới cơ bản về pháp luật từ thời kỳ đổi mới đến nay................................77
Câu 22. Bình luận về những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013.........................................77

PHẦN NHẬP MÔN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI

Câu 1. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp
luật, ý nghĩa, yêu cầu, phong cách nghiên cứu, học tập LSNNPL
- Đối tượng nghiên cứu: lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước và
pháp luật ở từng thời kỳ và các khu vực khác nhau; các vấn đề cơ bản về tổ chức bộ
máy nhà nước trong các thời kỳ lịch sử , ở các khu vực khác nhau; đặc điểm chung về
chức năng hoạt động của bộ máy nhà nước trong các thời kỳ lịch sử; đặc điểm cơ bản
về hệ thống pháp luật tương ứng với từng thời kỳ; đặc điểm cơ bản về các loại nguồn
của pháp luật, cách thức sử dụng pháp luật; tổ chức bộ máy nhà nước cụ thể (các cơ
quan, cơ chế bổ nhiệm quan lại, chế độ quan lại)
- Phạm vi nghiên cứu: gồm LSNN&PL Việt nam và LSNN&PL thế giới (cùng
nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật nhưng khác nhau về không gian và phạm
vi nghiên cứu). LSNN&PL thế giới nghiên cứu những nét chung nhất về lịch sử hình
thành, tồn tại, phát triển của nhà nước và pháp luật ở những khu vực lớn, điển hình
trên thế giới.
Khoa học lịch sử nói chung và khoa học lịch sử nhà nước và pháp luật nói riêng
được gọi là khoa học có tính chất quan định luận (chỉ nghiên cứu về quá khứ), vì theo
nghĩa rộng nhất lịch sử là tất cả những gì đã diễn ra. 
- Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp luận: Là các nguyên tắc, hệ thống các quan điểm, phương pháp,...
tiếp cận về vấn đề LSNNPL. LSNNPL sử dụng phương pháp luận xem xét NN&PL
trong mối quan hệ tác động qua lại, chia NN&PL thành từng giai đoạn lịch sử để
nghiên cứu, tiếp cận trên quan điểm triết học toàn diện.
 Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp lịch sử cụ thể: Nghiên cứu sự hình thành, phát triển NN&PL cụ thể
trong tiến trình phát triển không gian, thời gian.
+ So sánh: Tìm ra điểm tương đồng, khác biệt của từng thời kỳ, từng khu vực.
+ Chuyên gia: Tiếp thu đánh giá, nghiên cứu khoa học của các chuyên gia trong
lĩnh vực pháp lý.
+ Các phương pháp khác: tư duy trừu tượng, phân tích, tổng hợp, quy nạp, mô
hình hóa, phân loại,...
- Ý nghĩa môn học: 
Ở phương Tây, không ai được coi là một nhà luật học thực thụ, nếu người đó
không có những hiểu biết tốt về lịch sử pháp luật, tức là hiểu được “tầng sâu” nguồn
cội hình thành và phát triển của pháp luật. Đối với mỗi sinh viên luật học, môn học
lịch sử nhà nước và pháp luật nói chung và lịch sử nhà nước và pháp luật nói riêng có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tầm quan trọng của môn học xuất phát từ chính đòi hỏi
khách quan về mục đích, nội dung, phương pháp tiếp cận và giá trị mà nó đem lại cho
một sinh viên luật học. 
Là cơ sở phương pháp luận cho các khoa học pháp lý chuyên ngành giúp nghiên
cứu các môn học chuyên ngành dễ dàng hơn, có phương pháp tư duy lịch sử cụ thể.
Cung cấp hệ thống tri thức lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, giúp nhận thức được
di tồn của lịch sử, rút ra quy luật, những bài học, kinh nghiệm.
Yêu cầu: hiểu được nội dung của môn học được chia thành 4 phần chính: nhà nước
và pháp luật thời cổ đại; nhà nước và pháp luật thời trung đại; nhà nước và pháp luật
thời cận đại; nhà nước và pháp luật thời hiện đại. giữa các nội dung này không phải là
sự ngắt quãng hay biệt lập giữa các thời kỳ mà là một sự phát triển liên tục, có sự kế
thừa. hiểu được những di tồn của lịch sử chính là thấy được những thành tựu và hạn
chế của lịch sử nhà nước và pháp luật ở từng khu vực điển hình trên thế giới qua từng
thời kỳ lịch sử, để từ đó có hiểu biết toàn diện về các vấn đề lịch sử nhà nước và pháp
luật thế giới; nhận thức được quy luật vận động, phát triển của vấn đề nhà nước và
pháp luật thế giới. 
- Phong cách nghiên cứu, học tập: Học luật rất cần có một tư duy phê phán. Phê
phán có cơ sở, có căn cứ không có gì là xấu, ngược lại chính phê phán, phản biện thậm
chí phản biện chính mình, mới là động lực để hiểu vấn đề và là cách để khoa học phát
triển. Học luật, bạn sẽ thấy muôn vàn những vấn đề phát sinh từ cuộc sống có những
nhận được đúng. Có những nhận xét không đúng hoàn toàn và có những ý kiến hoàn
toàn sai lạc. Bạn hãy tập cách phát hiện vấn đề, tập tranh luận, tập phê phán và trình
bày theo cách hiểu của mình.
Câu 2. Cơ sở kinh tế – xã hội của sự ra đời, tồn tại và phát triển của các nhà nước
Phương Đông cổ đại (Ai Cập, Lưỡng Hà, ấn Độ, Trung Quốc)
Nhà nước phương Đông cổ đại ra đời sớm hơn các nhà nước phương Tây cả về
thời gian và không gian, đa phần đều mang tính liên kết mạnh, tính đại diện cao và
tính giai cấp yếu. Liên kết mạnh để giải quyết nhu cầu trị thủy, chống lũ lụt, tưới tiêu
và tự vệ. Nhà nước ban đầu thể hiện với tư cách cơ quan công quyền, đại diện cho
cộng đồng. Tính giai cấp yếu vì chế độ tư hữu về ruộng đất ở phương đông lúc đầu
gần như không có, sở hữu vẫn là sở hữu chung về ruộng đất, công xã nông thôn vẫn là
chủ sở hữu thực tế ruộng đất.
Nhà nước phương Đông cổ đại ra đời trên sự thúc đẩy của việc trị thủy và nhu cầu
tự vệ; tồn tại và phát triển trên nền tảng lấy kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo. Do hình
thành ở lưu vực các con sông lớn nên nông nghiệp phát triển mạnh. Cụ thể:
Ai Cập Lưỡng Hà Ấn Độ Trung Quốc
Cơ - Nằm dọc theo lưu - Nằm trên lưu vực 2 - Địa hình phân cắt - Nằm bên bờ
sở vực sông Nile, nông sông Tigrơ và Ơfơrát, thành 3 khu vực rõ Hoàng Hà và
kinh nghiệp phát triển tạo nên đồng bằng rộng rệt: vùng núi Trường Giang
tế mạnh, thành thị xuất lớn phì nhiêu, tạo điều Himalaya, cao nên kinh tế nông
hiện muộn kiện cho kinh tế nông nguyên Đêcan và nghiệp và tiểu
- Là một nước bị nghiệp và chăn nuôi phát vùng đồng bằng thủ công nghiệp,
đóng kín, cô lập nên triển. Ấn-Hằng với kinh thuỷ lợi phát
ban đầu ít bị xâm - Phía bắc giáp dãy tế nông nghiệp, thủ triển
chiếm, nền văn minh Acmenia, phía tây là sa công nghiệp,
tồn tại lâu bền, có mạc Xiri, phía đông giáp thương nghiệp khá
nhiều thành tựu: chữ Ba Tư. Đây là nơi gặp phát triển.
viết, văn học, tôn giáo nhau của nhiều con
đa thần, kiến trúc và đường Đ-T-N-B, có điều
điêu khắc, khoa học kiện thuận lợi cho việc
tự nhiên… phát triển mọi mặt về
kinh tế, văn hoá, chính
trị, xã hội.
Cơ sở kinh tế của sự ra đời nhà nước là việc tư hữu về tư liệu sản xuất, cơ sở xã hội là sự
phân chia giai cấp, nhưng mâu thuẫn giai cấp ở các nhà nước phương Đông thời kỳ đầu không
thật sự sâu sắc. Tuy vậy, yếu tố chính làm xuất hiện nhà nước là sự phân hóa giai cấp, còn yếu tố
quản lý và vai trò của người thủ lĩnh trong công cuộc trị thủy và chiến tranh là yếu tố thúc đẩy sự
ra đời của nhà nước sớm hơn.
Cơ - Xã hội phân hoá Xã hội có sự phân chia Xã hội phân chia - vào cuối tk
sở thành các giai tầng thành các giai cấp: giai cấp (chủ nô, XXI TCN, xã
xã khác nhau tạo nên + giai cấp thống trị: vua, nô lệ) và 4 đẳng hội có sự phân
hội mâu thuẫn: chủ nô quan lại, chủ nô, tăng lữ cấp rõ ràng: chế độ hoá sâu sắc
(tăng lữ, quý tộc); nô + cư dân tự do: thương Vácna - tầng lớp quý
lệ (tù binh chiến nhân, nông dân công xã - Bàlamon: làm tộc hình thành 1
tranh, những người và nô lệ nghề tôn giáo, giai cấp – quý
phá sản); nông dân hưởng nhiều đặc tộc chủ nô, số
công xã (thuơng nhân quyền, đặc lợi. lượng nô lệ ngày
và thợ thủ công làm - Ksatoria: quý tộc càng nhiều,
nghề chặn nuôi, trồng võ sỹ phong kiến nông dân công
trọt, thủ công) - Vaisia: những xã là lực lượng
- Phong tục tập quán, người trực tiếp làm lao động chủ
tín ngưỡng và tôn ra của cải vật chất. yếu
giáo giữ vai trò quan - Sudora: thấp hèn
trọng, là công cụ điều nhất, phải phục vụ
chỉnh các quan hệ xã đẳng cấp trên.
hội và tạo lập trật tự, công xã nông thôn
ổn định xã hội tồn tại lâu dài

Câu 3. Nội dung cơ bản của Bộ luật Hammurabi (ở Lưỡng Hà cổ đại), và so sánh
nó với Bộ luật Manu (ở ấn Độ cổ đại)
Bộ luật Hammurabi (luật của nhà nước Babylon - Lưỡng Hà cổ đại) ra đời khoảng
tk XVIII TCN, được phát hiện năm 1901, là bộ luật tương đối hoàn chỉnh thời kì cổ
đại, gồm 282 điều (hiện chỉ đọc được 247 điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần
nội dung và phần kết luật.
Về mặt hình thức pháp lý: Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng
luật hình, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế
tài, chủ yếu là điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan tới lợi ích của giai cấp thống trị.
Nguồn luật: xây dựng trên cơ sở pháp điển hoá nhiều văn bản trước đó và trên cơ
sở kế thừa luật lệ của người Xume (Bộ luật Urnammu), Amorit.
Nội dung bộ luật:
- Phần mở đầu: Vua Hammurabi kết hợp giữa thần quyền, vương quyền và pháp
quyền để làm thiêng hoá bộ luật, tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà
vua thống trị để thực hiện công bằng cho xã hội.
- Phần nội dung: là phần chủ yếu của bộ luật. Nói chung, Bộ luật tập trung điều
chỉnh 4 lĩnh vực chủ yếu: dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình, tố tụng và không có sự
tách rời giữa các lĩnh vực.
+ Về dân sự: đặc biệt chú ý quan hệ hợp đồng. Điểm đặc biệt là đã quy định vấn
đề bảo hành trong hợp đồng mua bán, quy định về bảo vệ quyền lợi của người thuê
nhà; các điều khoản lĩnh canh ruộng đất, quy định mức lãi suất đối với vay nợ.
+ Về chế định thừa kế tài sản: phân làm 2 loại thừa kế: thừa kế theo pháp luật và
thừa kế theo di chúc.
 Thừa kế theo pháp luật: nếu người cho thừa kế không để lại di chúc, tài sản
được chuyển đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo luật định.
 Thừa kế theo di chúc: bộ luật hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như
người cha không được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm lỗi
lần đầu và lỗi không nghiêm trọng.
+ Về hôn nhân gia đình: theo xu hướng củng cố địa vị người chồng, người cha nên
trách nhiệm và nghĩa vụ thuộc về vợ và con cái. Tuy nhiên Bộ luật đã có 1 số quy định
bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Chẳng hạn: người chồng không được bỏ rơi vợ khi
biết người vợ mắc bệnh. Người chồng phải có nghĩa vụ nuôi nấng người vợ cho đến
hết đời (Điều 148).
+ Về hình sự: hình sự hoá hầu hết các quan hệ xã hội, thể hiện sự bất bình đằng rõ
nét, sự tiếp thu các tàn dư của cách thức xử sự trong xã hội nguyên thuỷ: nguyên tắc
trả thủ ngang bằng (Điều 196: nếu một người chọc mù mắt một người khác thì mắt của
anh ta cũng sẽ bị chọc mù). Cách quy định rất cụ thể nên thiếu tính khái quát (Điều
205: Nô lệ tát người tự do thì bị chặt một tay). Trong chế định hình sự, luật đã manh
nha phân biệt phạm tội cố ý và phạm tội vô ý (luật ghi trong khi ẩu đả làm chết người,
nếu kẻ làm chết người chứng minh được rằng không cố ý giết người thì sẽ không bị tử
hình, chỉ bị phạt tiền).
-> công lý trong giai đoạn xã hội sơ khai đc thể hiện rõ nét bằng sự trả thủ cá
nhân, bằng sự phạt vạ theo kiểu “công lý báo thù”. Hầu hết các tội đều quy về tội tử
hình, chưa tạo đièu kiện cho người phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm và hoàn lương.
+ Về tố tụng: có nhiều quy định về thủ tục bắt giữ, giam cầm, quy định những
nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, coi trọng chứng cứ, phát quyến phải
được thi hành nghiêm minh. Hai quy định đặc thù về tố tụng của Bộ luật:
 Quy định về trách nhiệm của thẩm phán: Nếu thẩm phán mà xử một vụ kiện mà
ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn bản là lỗi của thẩm
phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường
trong vụ kiện, đời thời sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn.
-> thể hiện tính giai cấp sâu sắc, cho thấy thời kỳ này rất coi trọng công tác xét xử
và trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm phán.
 Về hình thức xét xử: Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến
một dòng sông và nhảu xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuón đi, nguyên đơn sẽ
sở hữu nhà của bị đơn. Ngược lại, nếu dòng sông chứng minh rằng bị đơn là không có
tội, tức là anh ta còn sống sót, nguyên đơn sẽ bị giết chết và bị đơn sẽ sở hữu nhà của
nguyên đơn.
-> tin rằng thần thánh mới là người công minh nhất, cho họ biết thế nào là đúng
sai, công bằng.
- Phần kết luận: khẳng định lại công đức và uy quyền của Hammurabi. Nhà vua
trừng trị thẳng tay những kẻ nào hủy hoại bộ luật.
-> Bộ luật Hammurabi là bộ luật thành văn đề cập rõ nét khát vọng về công lý của
con người thời cổ đại, mang tính xã hội sâu sắc. Mục tiêu của Bộ luật là công lý được
đặt ra là “vì hạnh phúc loài người”, “phát huy tính chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ
gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu”.
*So sánh Bộ Luật Hammurabi và Bộ Luật Manu
Hammurabi Manu
Nguồn luật Tiền lệ pháp của người Luật lệ, tập quán pháp được các
Xume, những quy định của giáo sĩ Bà La Môn tập hợp dưới
tòa án và các phán quyết của dạng trường ca, được trình
tòa án lúc bây giờ, mệnh lệnh bày dưới dạng câu trường ca.
chiếu chỉ của nhà vua.
Phạm vi điều Về pháp luật, bao gồm các nội dung chế định về dân sự, hôn nhân
chỉnh gia đình, hình sự và tố tụng
282 Điều chú trọng tập trung 2685 Điều gồm rất nhiều vấn đề
điều chỉnh các mối quan hệ chính trị, tôn giáo, quan niệm về
trong xã hội, tuy ít điều luật thế giới và vũ trụ.
hơn nhưng tiến bộ hơn rất
nhiều so với Manu
Dân sự Chung 2 Bộ luật đều có phần điều kiện hiệu lực hợp đồng, đều dùng chính
bản thân con người làm vật bảo đảm.
- Chú ý điều chỉnh quan hệ - Chú ý điều chỉnh quan hệ sở hữu,
hợp đồng. đặc biệt là sở hữu ruộng đất
- Cũng có sự phân biệt giai + Bước tiến bộ: khẳng định sở hữu
cấp nhưng đồng thời có tính tư nhân đối với tài sản, ruộng đất
dân chủ nhất định, cũng có sự có thể được đưa ra mua bán trao
bảo vệ với người dân. đổi dưới sự quản lý của nhà nước
- Những quy định cũng như - Mang tính phân biệt đẳng cấp rất
chế tài rõ ràng hơn so với rõ rệt, mọi điều khoản đều ủng hộ
Manu đẳng cấp trên
- Điểm tiến bộ trong chế định - Chế định trong hợp đồng tiến bộ
hợp đồng: quy định vấn đề hơn Hammurabi: quy định các
bảo hành trong hợp đồng mua trường hợp vô hiệu của hợp đồng
bán. (ký với người điên, người say, trẻ
em, người già yếu, khi bị lừa dối…
và phải đảm bảo tính công khai)
Thừa Đều có 2 hình thức thừa kế là: theo luật pháp và theo di chúc, đều
kế thừa kế theo tài sản người cha. Con gái có quyền được nhận hồi
môn khi về nhà chồng.
- Con trai, con gái có quyền - Không cho phép phụ nữ và đàn
được hưởng thừa kế ngang ông ngang quyền trong việc hưởng
nhau. thừa kế
- Có thêm phần Điều kiện
tước quyền thừa kế.
Hôn nhân gia Thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, người chồng có toàn
đình quyền tự quyết mọi việc lớn nhỏ, trong khi người vợ thì không.
Hôn nhân mang tính chất mua bán, người vợ có thể được mua về,
bán đi.
- Có sự bất bình đẳng trong - Đề cao tuyệt đối quyền của đàn
nhưng vẫn có những điều ông, phụ nữ có địa vị thấp kém, đặt
khoản bảo vệ người phụ nữ.  ra 6 điều cấm đối với phụ nữ.
+ Nếu người chồng bỏ nhà đi + Người vợ không có quyền ly dị.
không rõ lý do và khi anh ta + Mọi của hồi môn của vợ thuộc
trở về, người vợ có quyền ly về chồng
dị (Điều 136); nếu bắt được
chồng ngoại tình, vợ có quyền
ly dị (Đ142)
+ Người chồng không có
quyền với của hồi môn của vợ
Hình sự Hình phạt rất dã man, thể hiện sự bất bình đẳng rõ rệt.
- Hình sự hoá hầu hết quan hệ - Mang tính giai cấp sâu sắc, có sự
xã hội, tiếp thu tàn dư của xã phân biệt đẳng cấp rõ ràng: khoan
hội nguyên thuỷ (trả thù dung cho người đẳng cấp trên và
ngang bằng), trừng trị cả trừng trị thẳng tay đối với đẳng cấp
những người không liên quan dưới có hành vi xâm phạm tới đẳng
cấp trên
Tố tụng - coi trọng chứng cứ nhưng - coi trọng chứng cứ nhưng chứng
không phân biệt đẳng cấp và cứ lại phụ thuộc vào giới tính và
điều quan trọng là được xét đẳng cấp, chứng cứ của đẳng cấp
xử công khai rất tiến bộ cao có tính quyết định
- xét xử dựa trên nguyên tắc
thần thánh tài phán (dòng
sông định tội).

Câu 4. Trình bày khái quát quá trình dân chủ hoá bộ máy nhà nước Aten, tổ chức bộ
máy nhà nước Cộng hoà dân chủ chủ nô Aten và nhận xét tính chất dân chủ của nhà
nước này.
Nhà nước Aten được đánh giá là một trong những nhà nước dân chủ nhất thời kỳ
cổ đại, là hình thức dân chủ sơ khai nhất trong lịch sử.
Ra đời vào tk VI TCN từ liên minh 4 bộ lạc người Đôrieng. Những người đứng
đầu 4 bộ lạc là quý tộc chủ nô và nắm toàn bộ quyền lực nhà nước, lập ra hội đồng
quan chấp chính. Tầng lớp chủ nô mới ra đời sớm, lúc đầu không có quyền lực nhưng
khi kinh tế ngày càng phát triển, tầng lớp này ngày càng có thế lực kinh tế. Trong xã
hội xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc chủ nô và quý tộc
mới; mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc chủ nô và bình dân, nô lệ.
1. Về quá trình dân chủ hoá nhà nước Aten
Quá trình dân chủ hoá nhà nước Aten gắn liền với các cuộc cải cách của tầng lớp
quý tộc chủ nô mới. Tầng lớp này đã đề xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại sự
độc quyền của quý tộc chủ nô và được sự ủng hộ của tầng lớp bình dân. Tầng lớp chủ
nô mới thông qua các cuộc cải cách đã dần nắm được quyền lực chính trị và chuyển
hoá chính thể quân chủ chủ nô sang chính thể cộng hòa dân chủ chủ nô.
Quá trình dân chủ hoá nhà nước Aten được tiến hành thông qua 3 cuộc cải cách
lớn:
1.1. Cuộc cải cách thứ nhất của Xôlông (594 TCN)
Xô-lông là một quý tộc chủ nô mới, được bầu vào bộ máy nhà nước. Ông là người
mở đầu cho quá trình dân chủ hoá bằng nhiều biện pháp cải cách:
- Ban hành sắc lệnh xoá bỏ mọi nợ nần trong xã hội, cấm quý tộc chủ nô biến nông
dân phá sản thành nô lệ;
- Ban hành sắc lệnh thừa nhận quyền tư hữu tài sản, quyền chuyển nhượng tài sản,
quy định mức chiếm hữu tối đa của một quý tộc chủ nô.
- Thực hiện cải cách về tiền tệ, và chủ trương phát triển xuất nhập khẩu. Mục đích
là góp phần giải phóng một số lượng đông nông dân, trở thành lực lượng hậu thuẫn
cho cuộc cải cách, góp phần nâng cao địa vị kinh tế của quý tộc chủ nô mới, kích thích
công thương nghiệp phát triển.
Về chính trị - xã hội: tiến hành chia cư dân Aten thành những đẳng cấp có quyền
lợi và nghĩa vụ khác nhau, căn cứ vào mức thu nhập tài sản trong 1 năm.
- Đẳng cấp thứ nhất: bao gồm những người có thu nhập lương thực 500 mêđin
trong 1 năm;
- Đẳng cấp thứ hai: thu nhập từ 300 mêđin, có quyền tham gia hội đồng 400
người;
- Đẳng cấp thứ ba: thu nhập từ 200 mêdin, có quyền tham gia hội đồng 400 người
và phải tham gia quân đội;
- Đẳng cấp thứ tư: thu nhập dưới 200 mêđin, được tham gia vào hội nghị công dân
nhưng có điều kiện và không được giữ chức vụ quan trọng, phải đi lính và đóng thuế.
Xô lông thành lập Hội đồng 400 người, mỗi bộ lạc được bầu 100 người thuộc đẳng
cấp thứ hai và thứ ba. Hội đồng 400 người là cơ quan hành chính đồng thời là cơ quan
tư vấn của nhà nước, đây là cơ quan phải giải quyết những công việc giữa hai phiên
họp của hội nghị công dân; phải chuẩn bị những vấn đề đưa ra thảo luận, bàn bạc tại
Hội nghị công dân. 
Về kinh tế, cải cách của Xô lông đã góp phần giải phóng một số lượng đông những
người nông dân, trở thành một lực lượng hậu thuẫn cho cuộc cải cách của Xô lông;
Những chuyển biến tích cực mà cuộc cải cách của Xô - lông đem lại là: 
+ Góp phần làm nâng cao địa vị kinh tế của quý tộc chủ nô mới;
+ Tạo điều kiện kích thích công thương nghiệp phát triển;
+ Tước bỏ phần nào lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô cũ, bắt đầu đặt nền móng
cho việc xây dựng nền cộng hòa dân chủ chủ nô.
1.2. Cuộc cải cách thứ hai của Clít-xten 
Clít-xten là người thuộc tầng lớp quý tộc chủ nô mới, sau cuộc cải cách của
Xôlông, Clít-xten được bầu vào giữ chức vụ quan trọng. 
Cuộc cải cách của Clít-xten chủ yếu trên lĩnh vực chính trị xã hội:
1. Chia Aten thành 3 phân khu, mỗi phân khu chia thành 10 phân khu nhỏ, cứ 3
phân khu ở 3 đơn vị hành chính khác nhau hợp thành 1 bộ lạc mới (mỗi bộ lạc mới bao
gồm 3 phân khu nhỏ trong 3 phân khu hành chính). Tất cả hợp thành 10 bộ lạc;
2. Mở rộng hội đồng 400 người thành Hội đồng 500 người. (Mỗi bộ lạc mới bầu
50 người thuộc đẳng cấp thứ hai hoặc ba. Điều kiện để được bầu vào Hội đồng là công
dân tự do Aten, phải là nam giới, và từ 18 tuổi trở lên);
3. Thành lập một cơ quan mới có tên là Hội đồng 10 tướng lĩnh, mỗi người đại
diện cho 1 bộ lạc mới với điều kiện: có thu nhập lớn nhất trong bộ lạc, đảm bảo về tài
sản, và có tài năng về quân sự.
4. Đặt ra Luật bỏ phiếu bằng vỏ sò: Trong phiên họp đầu tiên của Hội nghị công
dân họp vào mùa xuân, buộc tất cả công dân Aten có đủ điều kiện tham gia. Trong vỏ
sò ghi tên kẻ chống phá nền dân chủ, nếu có 6000 vỏ sò thì kẻ đó bị kết tội là chống
đối lại nền dân chủ và bị trục xuất khỏi Aten trong thời gian là 10 năm. 
Sau cuộc cải cách này thì chính thể cộng hòa dân chủ chủ nô đã chính thức ra đời.
Trong chính thể này, quý tộc chủ nô mới nắm giữ hầu hết các vị trí quan trọng, công
dân tự do được tham gia chính trị một cách rộng rãi, cuộc cải cách này tạo điều kiện
cho sự lớn mạnh của nhà nước Aten. 
1.3. Cuộc cải cách thứ ba của Pêriclet 
Pêriclét đã có công lao lớn nhằm xây dựng Aten phát triền thành một thành bang
phát triển về nhiều mặt. Cuộc cải cách diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - xã hội:
1. Pêriclét đã có công lao rất lớn trong việc tăng quyền lực cho Hội nghị công dân.
Hội nghị công dân là cơ quan hoạt động thường xuyên, cứ 10 ngày tiến hành họp
một lần. Trong Hội nghị công dân, các thành viên đều có quyền thảo luận và quyết
định những vấn đề quan trọng của nhà nước. Quy định này tạo điều kiện cho mọi công
dân đều có thể tham gia giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước.
2. Ông cũng là là người đầu tiên tiến hành việc cấp lương cho nhân viên cơ quan
nhà nước như sĩ quan, binh lính. Đồng thời thường xuyên tiến hành thực hiện trợ cấp,
phúc lợi cho công dân nghèo gặp khó khăn. 
2. Tổ chức bộ máy nhà nước Aten 
Bộ máy nhà nước theo hình thức chính thể cộng hoà dân chủ chủ nộ:
- Hội nghị công dân: Tính chất cộng hoà của nhà nước này thể hiện rõ nhất ở tổ
chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Hội nghị công dân. 
+ Về tổ chức, thành phần: những công dân được tham gia phải là những công dân
tự do Aten, là nam giới, đủ 18 tuổi trở lên, có cả cha mẹ là người Aten. 
+ Về thẩm quyền, Hội nghị công dân có quyền quyết định những vấn đề lớn của
đất nước như vấn đề chiến tranh, hòa bình; vấn đề xây dựng hay thông qua các đạo
luật; giám sát các cơ quan nhà nước khác. Ngoài ra còn có quyền bầu ra các quan chức
nhà nước, xét duyệt công việc quan trọng của Toà án, có quyền cung cấp lương thực
cho thành phố.
- Hội đồng 500 người:
+ Được thành lập bởi Hội nghị công dân bằng hình thức bỏ phiếu.
+ Giữ chức năng hành chính, tư vấn.
+ Sau cải cách Clixten thì đây còn là cơ quan đại diện cho nhà nước về đối ngoại,
có quyền quản lí về tài chính.
- Hội đồng 10 tướng lĩnh:
+ Cũng được bầu trong hội nghị công dân.
+ Giữ chức năng lãnh đạo quân đội, thực hiện chính sách đối ngoại nhưng chịu sự
kiểm sát của Hội nghị công dân, không được hưởng lương.
- Tòa bồi thẩm: Là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất của nhà nước.
Thành phần tham dự tòa bồi thẩm rất đông. Dưới thời Pêriclét, có tới 6000 thẩm phán,
họ được bầu hàng năm ở Hội nghị công dân bằng hình thức bỏ phiếu. Nhà nước Aten
không có Viện công tố, mọi người dân có thể phát đơn kiện - tức là tự khởi tố hoặc là
tự bào chữa cho mình. Trong phiên tòa sau khi đã nghe hai bên đối chất tòa họp kín để
quyết định bản án. 
3. Nhận xét chung về tính chất dân chủ của nhà nước CHDC chủ nô Aten
Thành quả rõ nét nhất của nhà nước Aten chính là xây dựng được một nhà nước
dân chủ chủ nô đầu tiên trong lịch sử nhân loại, là nhà nước đầu tiên khai sinh ra hình
thức dân chủ trực tiếp, khai sinh ra hình thức chính thể Cộng hoà.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nhà nước Aten có thể phát triển
và đạt đến trình độ văn minh cao ở thời cổ đại là do nhà nước này đã liên tục có các
cuộc cải cách rất toàn diện từ kinh tế, chính trị, đến văn hoá - xã hội.
1. Ngay từ cuộc cải cách của Xô lông, xu hướng chung của các cuộc cải cách là
tước bỏ bớt đặc quyền kinh tế và quyền lợi chính trị của quí tộc. Trong 3 cuộc cải cách
thì cải cách của Xô lông đã đưa ra bước đột phá về kinh tế, đây chính là nền móng cơ
bản nhất để kinh tế công thương nghiệp phát triển, là cơ sở hạ tầng vững chắc, tạo điều
kiện cho các cuộc cải cách về các lĩnh vực chính trị - xã hội của Clít-xten và Pêriclét
sau này.
2. Việc phân chia đẳng cấp đã tạo điều kiện cho tầng lớp nông dân và thợ thủ công
ngày càng đông đảo, không những thế nó còn tạo điều kiện để củng cố, nâng cao địa vị
về kinh tế của quí tộc chủ nô mới, tạo điều kiện kích thích công thương nghiệp phát
triển.
3. Thường dân cũng được tham gia vào sinh hoạt chính trị của nhà nước khi thỏa
mãn 3 điều kiện: là công dân tự do cha và mẹ đều là người Aten, nam giới và đủ 18
tuổi. Đây là một quy định đặc biệt tiến bộ đối với một nhà nước thời kỳ cổ đại.
4. Hội nghị công dân có thực quyền. Đặc biệt hội nghị công dân có nhiều quyền
mà không một thiết chế nào trong bộ máy nhà nước có được đó là:Quyết định vấn đề
chiến tranh, hoà bình;Xây dựng hay thông qua các đạo luật; Có quyền giám sát các cơ
quan nhà nước khác; Bầu các quan chức nhà nước, xét duyệt công việc quan trọng của
Toà án, có quyền cung cấp lương thực cho thành phố.
5. Luật bỏ phiếu bằng vỏ sò để chống lại âm mưu thiết lập nền độc tài là một quy
định khá đặc thù, mặc dù còn có hạn chế song phần nào đã khẳng định khát vọng dân
chủ, không chỉ ở người dân mà ở cả những nhà cải cách, những người thuộc tầng lớp
quý tộc chủ nô mới.
6. Sản phẩm của thể chế dân chủ ở Hy Lạp cổ đại nói chung và nhà nước CHDC
chủ nô Aten nói riêng đã đưa Hy Lạp phát triển rực rỡ trở thành đỉnh cao của nền văn
minh cổ đại trên nhiều phương diện như văn học.
 Tuy nhiên tính chất dân chủ của nhà nước Aten cũng có nhiều hạn chế:
1. Trước hết, những người là lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội không có
quyền công dân: số lượng những người không được tham gia vào đời sống chính trị là
nô lệ và kiều dân chiếm số lượng áp đảo so với số lượng dân tự do. Hơn nữa, trong số
90.000 dân tự do, có không quá 30% thoả mãn đầy đủ cả 3 yêu cầu: nam giới, 18 tuổi,
cha mẹ là người Aten. Vì rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ nhỏ hoặc nam giới 18 tuổi
nhưng cha mẹ là kiều dân thì cũng không được tham gia vào đời sống chính trị.
2. Con số cao nhất của Hội nghị công dân ước tính là khoảng 6000 người, lại tập
trung ở thủ đô của Aten, do vậy không phải tất cả những người đủ điều kiện ở những
nơi khác có thể tham gia.
3. Những vấn đề to nhỏ cũng đều phải cả hội đồng quyết định nên thường dẫn đến
chậm chễ. Hơn nữa, dân chúng quen thói bàn bạc, cãi cọ nhau, mồm mép giỏi mà hành
động dở, dễ chia rẽ vì những lẽ nhỏ nhặt (Nguyễn Hiến Lê, Thiên Giang), vì vậy nền
dân chủ Aten khó có thể tồn tại lâu dài cho đến ngày nay.

Câu 5. So sánh và chỉ ra nét khác biệt cơ bản giữa nhà nước Xpác và nhà
nước Aten (Hy Lạp cổ đại).
a. Giống nhau:
- Cả Aten và Xpac đều là hai quốc gia thành bang thuộc Hy Lạp.
- Nhà nước được xây dựng và thống trị bởi giai cấp chủ nô – giai cấp nắm các đặc
quyền về kinh tế và chính trị; có chung mục đích bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai
cấp chủ nô trong xã hội. 
- Cả hai nhà nước trên đều tồn tại trên cơ sở tư hữu và quan hệ bóc lột nô lệ.
b. Khác biệt
Xpác Aten
Nguồn gốc, thời ra đời khoảng tk VIII -VI TCN ở ra đời vào tk VI TCN ở miền
điểm ra đời miền nam lục địa Hy Lạp, nằm Trung lục địa Hy Lạp
giữa đồng bằng Laconi
Hình thức chính Cộng hoà quý tộc chủ nô Ban đầu là chính thể quân chủ
thể chủ nô, sau 3 cuộc cải cách
chuyển sang chính thể cộng hoà
dân chủ chủ nô.

XPAC ATEN
1. Hội nghị công dân
Cả hai nhà nước Xpac & Aten đều thừa nhận đây là cơ quan quyền lực cao nhất của
nhà nước.
Mang tính hình thức PL thừa nhận là cơ quan quyền lực thực quyền
Thành phần: Nam công dân từ 30 lớn
tuổi trở lên, có bố mẹ là người Xpac Nam công dân từ 18 tuổi, có bố mẹ là người
Hoạt động: Chỉ được triệu tập khi Aten
hai vua đồng ý, không hoạt động 10 ngày họp một lần (1 năm ít nhất 10 lần)
thường xuyên; cơ quan hoạt động thường xuyên có định kì,
Quyền hạn: Không có quyền thảo quyền lực trao cho rất lớn
luận công việc nhà nước Có quyền thảo luận công việc nhà nước
Biểu quyết những quyết định đã Biểu quyết theo hình thức bỏ phiếu kín
rồi; Đây là cơ quan bầu ra những người thma gia
Hình thức biểu quyết la hét (mơ bộ máy NN
hồ), xếp hàng; Giám sát hoạt động do cơ quan NN do mình
Mặc dù được thừa nhận là cơ quan bầu ra
quyền lực của Hội nghị công dân; Cùng tòa án đua ra quyết định cuối cùng của
TATC
Thừa nhận hay tước bỏ quyền công dân
NX: quyền lực nhà nước thuộc về tay công
dân khi tham gia hội nghị công dân theo quy
định của pháp luật
-> Nền dân chủ trực tiếp
2. Hai vua 2. Hội đồng 500 nhưng không có vua
Có quyền ngang nhau.; vừa giữ vai Có vai trò quan trọng trong hội nghị công dân,
trò thủ lĩnh quân sự, vừa giữ vai trò được bầu bằng cách bỏ phiếu
tăng lữ tối cao, vừa là người xử án; đại diện về đối ngoại
Hai vua là thành viên của hội đồng Vai trò thi hành nghị quyết của hội nghị công
trưởng lão; dân giải quyết những việc không quan trọng
Quyền lực hạn chế; giữa hai kì họp của hội nghị công dân
Quản lí tài chính giám sát công việc của các
nhân viên chính quyền, thảo luận sơ bộ các
vấn đề quan trọng trước khi trình hội nghị
công dân
3. Hội đồng trưởng lão 3. Hội đồng 10 tướng lĩnh có nhiệm kì
Lựa chọn trong hàng ngũ quý tộc Bầu bằng cách giơ tay biểu quyết, công nhân
danh vọng, 60 tuổi trở lên; giàu có mới đảm nhận
Quyết định những vấn đề có liên Chỉ huy quân đội thực hiện những chính sách
quan đến quốc gia như chiến tranh đối ngoại
và hòa bình;

4. Hội đồng 5 4. Tòa bồi thẩm


Giám sát bao trùm tất cả các cơ Cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất
quan khác, kể cả hai vua & hội Công dân từ 30 tuổi trở lên có quyền ứng cử
đồng trưởng lão; giải quyết các Đây là hình thức chính thể cộng hòa dân chủ
công việc ngoại giao, tài chính, tư chủ nô hoàn thiện nhất trong thời Peridet.
pháp, kiểm tra tư cách công dân,... Công dân đã có địa vị pháp lí trong xã hội, đặc
Hội đồng này là tập đoàn của tầng biệt là những quyền bầu cử ứng cử, phát đơn
lớp quý tộc bảo thủ. kiện, bào chữa và tự bào chữa,... Từ tên gọi
Từ tên gọi, thành phần, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, thành phần của bộ máy
quyền hạn của cơ quan, quyền lực nhà nước hoàn toàn không có giai cấp quý tộc
nhà nước chỉ thuộc về tầng lớp quý chủ nô. Quyền hạn thuộc về công dân
tộc thị tộc, tầng lớp này thao túng Nền dân chủ điển hình của hình thức cộng hòa
toàn bộ nhà nước. cổ đại
-> Tính dân chủ bị hạn chế tối đa.

Câu 6. Trình bày nội dung cơ bản của Luật La Mã và lý giải sự phát triển của
pháp luật dân sự ở La Mã thời kỳ cổ đại.
a/ Nội dung cơ bản của luật la mã:
Luật La Mã là bộ luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước chiếm hữu nô lệ và được coi
là cội nguồn của pháp luật Châu Âu thời trung đại và cận đại. Luật la mã được chia
làm 2 thời kỳ khác nhau:
* Thời kỳ đầu của nền cộng hòa – luật 12 bảng:
Do phong trào đấu tranh của bình dân và chủ nô công thương chống lại sự vận
dụng tuỳ tiện tập quán pháp trong tư pháp vì lợi ích riêng, năm 450 TCN, một uỷ ban
gồm 5 bình dân và 5 quý tộc được thành lập để soạn thảo một bộ luật thành văn.
Bộ luật được khắc trên 12 bảng đóng đặt tại quảng trường thành phố, được gọi là
“Luật 12 bảng”. Nội dung bộ luật gồm các nguyên tắc thủ tục toà án, các lĩnh vực luật
tư và luật hình sự:
Bảng I-III: Tố tụng dân sự, thi hành án, vay nợ;
Bảng IV-V: Luật gia đình, thừa kế;
Bảng VI-VII: Tài sản, hợp đồng, quyền liên quan đến bất động sản;
Bảng VIII: Vi phạm nghĩa vụ ngoài hợp đồng;
Bảng IX: Luật hình sự và tố tụng hình sự;
Bảng X: Các quy định về tang lễ, hành chính;
Bảng XI: Hôn nhân;
Bảng XII: Tội phạm.
Cụ thể:
Về dân sự: ND chính của luật này nhằm bảo vệ quyền tư hữu tài sản của chủ nô
giàu có. Theo bộ luật, kẻ nào xâm phạm đến tài sản của người khác như: đốt nhà, trộm
cắp, phá hoại hoa màu đều bị xử tử. Nếu như kẻ nào đương đêm vào nhà ăn trộm mà
bị giết ngay tại chỗ thì hành vi giết người đó được coi là hợp pháp
Luật còn quy định người sắp chết được quyền để lại tài sản cho bất cứ người nào
thừa kế. Nếu người chết không có thân thích bên nội thì tài sản đó thuộc về thị tộc
Về hình sự: Bộ luật có những điều kiện cụ thể đối với tội trộm cắp hay gây thương
tích; cách thức thi hành án đối với các vụ việc mang bản chất dân sự cũng đc xử lí
bằng những bp hình sự; quy định những hình phạt tàn khốc với con người. Ví dụ: Luật
quy định con nợ nếu không trả nợ đúng hạn, con nợ sẽ bị chủ bắt giam, gông cùm.
Trong thời gian 60 ngày bị giam giữ, con nợ bị mang tới quảng trường 3 lần vào
những phiên chợ để xét xử. Nếu quá 60 ngày vẫn không trả nợ chủ nợ có thể mang
tùng xẻo cơ thể….
Về hôn nhân gia đình: Cấm kết hôn giữa người bình dân và quý tộc, quyền lực
người đàn ông rất lớn (Tài sản do chồng quản lý, người cha có thể bán con để làm nô
lệ).
Vấn đề bồi thường ngoài vi phạm hợp đồng: Nếu ai gây thương tích làm tàn tật
người khác và không bồi thường thì việc trả thù ngang bằng là hợp pháp.
Về tố tụng dân sự: Nếu ai đó được triệu tập đến tòa, người đó phải đến, nếu không
đến anh ta sẽ bị bắt giữ xét xử cụ thể, thẩm phán sẽ bị tử hình nếu có bằng chứng về
tội nhận hối lộ.
Điểm đặc biệt của luật 12 bảng đã có quy định liên quan đến trách nhiệm của thẩm
phán và quy định cấm xử tử hình khi chưa thông qua xét xử cụ thể - một quy định rất
tiến bộ nếu đặt trong đk xã hội lúc bấy giờ. Ngoài ra còn các có các quy định tiến bộ
khác như: Quy định cụ thể về trình tự tố tụng; Xác định rõ thời hiệu, hiệu lực của thoả
thuận dân sự; Xác định rõ quyền đối với BDS liền kề; Xác định rõ đối tượng được
hưởng thừa kế.
* Luật La mã thời kỳ cuối của nền cộng hòa
Thời kỳ cuối của nền cộng hoà bắt đầu từ thế kỷ III đến khi nền cộng hoà bị diệt
vong.
Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các văn bản luật cũ. Tác phẩm luật mà
sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis bao gồm các quyển sách dạy về
luật, tập san các bài văn của các luật gia La Mã, các đạo luật do hoàng đế ban hành và
các đạo luật đã được sửa đổi bổ sung.
Mức độ hoàn thiện của luật La Mã được đánh giá rất cao, thể hiện ở chỗ nó bảo vệ
tất cả các mặt của chế độ tư hữu, phạm vi điều chỉnh rất sâu rộng, điều chỉnh hầu hết
các quan hệ xã hội đương thời. Kỹ thuật lập pháp rõ ràng, lời văn chuẩn mực, có giá trị
pháp lý cao.
Luật La Mã bao gồm các quy phạm liên quan đến hoạt động của nhà nước và các
quy định liên quan đến cá nhân như sở hữu, hôn nhân và gia đình, hợp đồng, thừa kế.
Trong đó các chế định về dân luật là phát triển nhất và phạm vi điều chỉnh cũng rộng
nhất.
- Chế định về quyền sở hữu, chiếm hữu: thừa nhận 3 hình thức sở hữu: sở hữu nhà
nước, sở hữu công xã và tư hữu. Luật thừa nhận: quyền sở hữu bao gồm quyền sử
dụng và định đoạt các tài sản, không bao gồm quyền chiếm hữu.
- Về chế định hợp đồng: điều kiện hiệu lực của HĐ là phải tự nguyện, không lừa
dối, không dùng bao lực và nội dung phải hợp pháp, người ký kết phải có đủ năng lực
theo quy định của pháp luật.
Về phân loại hợp đồng: phân biệt hợp đồng miệng và hợp đồng thành văn; hợp
đồng thực tại và hợp đồng thoả thuận. Hợp đồng thực tại gồm hợp đồng bảo quản, hợp
đồng cho vay, hợp đồng cho mượn. Luật còn có quy định về cầm cố tài sản, cách quy
định về giải quyết tranh chấp hợp đồng khi gặp phải trường hợp bất khả kháng.
- Chế định thừa kế: có 2 loại: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo luật. Điểm tiến
bộ trong quy định về thừa kế là nhà làm luật đã quy định rõ vấn đề thời điểm mở thừa
kế, di sản, người thừa kế và cả vấn đề người thừa kế không phụ thuộc nội dung di
chúc.
- Chế định hôn nhân gia đình: thừa nhận hôn nhân gia đình 1 vợ, 1 chồng trên cơ
sở tự nguyện. Về tài sản: quy định tài sản của vợ chồng là riêng biệt, người chồng có
nghĩa vụ lo toan mọi chi phí chung, có quyền định đoạt hoa lợi do của hồi môn của vợ
đem lại. Nếu người vợ ly hôn chính đáng sẽ có quyền nhận lại của hồi môn của mình.
Người cha không có quyền bán con của mình.
- Chế định hình sự: khá trì trệ và bảo thủ, cách xét xử mang nặng yếu tố chủ quan
của thẩm phán với mục đích là điều chỉnh các quan hệ chính trị, hình thức chủ yếu sử
dụng hình phạt rất dã man.
- Chế định tố tụng: Các vụ án quan trọng đều được xét xử bằng bỏ phiếu, có sự
tham gia của hàng trăm hoặc hàng nghìn người dân. Luật còn có những quy định rất cụ
thể về việc xét xử bằng hình thức giao đấu, người chién thắng đc tuyên bố là người
đứng về lẽ phải.
b/ Lý giải sự phát triển của pháp luật dân sự ở La mã Thời kỳ cổ
- Luật La Mã dựa trên nền tảng của nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, quan
hệ nô lệ phát triển mạnh và mang tính điển hình, đòi hỏi phải có hệ thống luật chặt chẽ
chi phối mối quan hệ xã hội đó;
- Do mưu đồ bá chủ thế giới của đế quốc La mã cổ đại, đã kết hợp, kế thừa nhiều
hệ thống pháp luật khác của các nước bị La mã xâm lược.

Câu 7. Các giai đoạn phát triển cơ bản của Nhà nước và pháp luật phong kiến Tây
Âu? Lí giải nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi các hình thức nhà nước?
Các giai đoạn phát triển
Lịch sử nhà nước và pháp luật phong kiến Tây Âu cơ bản trùng với thời kỳ Trung
cổ của Tây Âu. Đây là giai đoạn sau thời kỳ cổ đại (sự sụp đổ của Đế chế Tây La mã
cổ đại năm 476) và trước thời kỳ cận đại (cuộc cách mạng tư sản Anh năm 1642).
Quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước và pháp luật phong kiến Tây Âu
có thể chia thành 3 giai đoạn tương ứng với các niên đại lớn như sau:
- Giải đoạn I: từ thế kỷ V đến thế kỷ thứ IX (giai đoạn mở đầu). Đây là thời kỳ
thành lập nhà nước phong kiến Frank sau chiến thắng của người Germania năm 476
kéo dài tới năm 888.
- Giai đoạn II: từ thế kỷ IX tới thế kỷ XV (giai đoạn phát triển). Đây là thời kỳ
phân quyền cát cứ ở Tây Âu. Thời kỳ này bắt đầu bằng sự kiện ký kết Hòa ước Verdun
của 3 người cháu của Charlemagne năm 843 chia vùng đất Tây Âu thành 3 nước Italia,
Đức, Pháp. Trong đó, Đức và Pháp có tính chất phân quyền mạnh nhất do sự lớn mạnh
của thế lực các lãnh chúa.
- Giai đoạn III: từ thế kỷ XIV tới năm 1649 (giai đoạn suy tàn). Đây là thời kỳ
thiết lập và tồn tại nhà nước quân chủ chuyên chế. Bắt đầu từ sự kiện giai cấp tư sản
muốn mở rộng thị trường đã liên kết với nông nô ủng hộ nhà Vua, chống lại lãnh chúa,
(mạnh nhất là ở Anh và Pháp).
Sự thay đổi các hình thức nhà nước
Trong thời kỳ Trung cổ của Phong kiến Tây Âu, ta có thể thấy nổi lên hai hình
thức tổ chức nhà nước cơ bản:
 Hình thức nhà nước phong kiến (giai đoạn đầu) và nhà nước phong kiến tập
quyền (giai đoạn cuối), theo đó quyền lực nhà nước được tập trung vào người đứng
đầu là vua và các thủ lĩnh đứng đầu các vương quốc mới được thành lập sau sự sụp đổ
của đế chế Tây La Mã. Đất nước được chia thành các khu quản hạt, đứng đầu là bá
tước, có quân đội riêng, tài chính riêng, pháp luật riêng...như 1 tiểu vương quốc. Lúc
đầu mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương còn gắn kết qua việc nhà
Vua thu thuế, nghĩa vụ quân sự.
 Hình thức nhà nước phong kiến cát cứ, theo đó quyền lực nhà nước được phân
chia cho các lãnh chúa đứng đầu mỗi vùng, lãnh chúa có quyền lực tối cao trong vùng
đất của mình và ít chịu sự áp đặt quyền lực của Vua. Mối quan hệ giữa chính quyền
trung ương và địa phương ngày càng lỏng lẻo. Thời gian này kéo dài trong suốt quá
trình phát triển của phong kiến Tây Âu.
Qua các sự kiện tiêu biểu đánh dấu sự hình thành và kết thúc của một giai đoạn
lịch sử trong quá trình phát triển của Nhà nước và Pháp luật phong kiến Tây Âu, ta có
thể thấy một số nguyên nhân, động lực dẫn tới sự thay đổi các hình thái tổ chức nhà
nước phong kiến Tây Âu như sau:
- Trong thời kỳ đầu, cùng với sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã, các bộ tộc người
German đã thành lập các vương quốc nhỏ trong lòng lãnh thổ cũ của Đế chế Tây La
Mã. Trong giai đoạn này, Tây Âu bị chia thành nhiều vùng lãnh thổ nhỏ, có sự tranh
giành quyền lực, ảnh hưởng và đất đai giữa các thủ lĩnh người German. Do đó, trong
giai đoạn đầu này, mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế phù hợp với tình hình
chiến sự và có sự đe dọa diễn ra liên tục từ bên ngoài cũng như thuận tiện cho việc tập
trung các nguồn lực để tiến hành chiến tranh xâm lược, mở rộng lãnh thổ. Bên cạnh
đó, tổ chức nhà nước phong kiến trong giai đoạn này còn nhỏ về quy mô và có tính
đơn giản trong tổ chức.
- Trong thời kỳ sau, cùng với sự phân chia quyền lực và lãnh thổ đã tương đối ổn
định, Tây Âu hình thành biên giới lãnh thổ rõ ràng hơn giữa các quốc gia lớn. Cùng
với xu thế hòa bình giữa các quốc gia lớn, sự phát triển của bộ máy nhà nước (về cả
quy mô và tính phức tạp), và để ban thưởng cho các quý tộc, tướng lĩnh đã chiến đấu
cùng với vua trong giai đoạn lập quốc, các Vua châu âu (điển hình là Pháp, Đức, Ý) đã
chia lãnh thổ của mình cho các lãnh chúa, theo đó, quyền lực nhà nước được phân chia
cho các lãnh chúa trên vùng đất của mình. Người dân không trực tiếp chịu sự cai trị
của nhà vua mà là lãnh chúa. Cùng với sự độc lập về kinh tế các vùng lãnh thổ được
phân chia chịu sự cai quản độc lập của lãnh chúa tại vùng đó với hệ thống các cơ quan
nhà nước và hệ thống pháp luật riêng, độc lập với nhau; giao thông cách biệt, không
phát triển; kinh tế không thông thương. Do đó, trong giai đoạn này, các vùng lãnh thổ
trở thành các tiểu quốc gia độc lập, triều đình trung ương chỉ có ý nghĩa hình thức và
không có bộ máy có thể thực thi quyền lực trực tiếp tới người dân. 
- Trong giai đoạn cuối của nhà nước phong kiến, sự phát triển của quy mô sản
xuất, sự hình thành và lớn mạnh của giai cấp tư sản, công nhân thành thị và nông dân
(lực lượng sản xuất) đã làm nảy sinh nhu cầu phát triển, mở rộng thị trường. Trong khi
đó, tình hình cát cứ địa phương trên toàn lãnh thổ Châu Âu là trở ngại chính cùng với
quyền lực quá lớn của lãnh chúa ở địa phương. Chế độ cát cứ kìm hãm sự phát triển
của kinh tế thành thị; thị dân bị lãnh chúa bóc lột nặng nề và sách nhiễu để kiếm tiền
và kìm hãm sự phát triển kinh tế hàng hóa, thị dân đã đấu tranh chống lại lãnh chúa
phong kiến để giải phóng thành thị và giành quyền tự trị với mô hình cơ quan đại diện
đẳng cấp và chính quyền tự trị thành phố. Thành thị được giải phóng mang lại cho dân
quyền tự do bình đẳng, thúc đẩy kinh tế công thương nghiệp phát triển nhanh chóng.
Tầng lớp tư sản, công nhân thành thị, nông dân và các lãnh chúa yếu thế đã liên kết để
nâng cao vai trò và thống nhất quyền lực nhà nước vào vua, do đó dẫn tới sự trở lại của
hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế qua hai giai đoạn, cụ thể:
+) Giai đoạn đầu: Chính thể quân chủ trung ương tập quyền được xác lập lại, xóa
bỏ chế độ phân quyền cát cứ. Khi xuất hiện nghị viện thì chính thể Nhà nước là quân
chủ cộng hòa phong kiến hay cộng hòa thành thị.
+) Giai đoạn sau: xây dựng nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế khi cả
quý tộc phong kiến, tư sản và giáo hội đều có nhu cầu tập quyền.
Như vậy có thể thấy nguyên nhân ban đầu của sự thay đổi các hình thức nhà nước
phong kiến Tây Âu, bên cạnh yếu tố lịch sử là nhà nước Frăng do hoàng đế Clovis
giành được từ một cuộc đảo chính nên liên kế nhà nước lỏng lẻo, có yếu tố kinh tế xã
hội là chính quyền trung ương không có sự chi phối lớn đến chính quyền địa phương;
sự phân phong tước vị và ruộng đất của Vua cho các lãnh chúa, thì giai đoạn sau cơ
bản là do nhu cầu phải thay đổi hình thức tổ chức nhà nước cho phù hợp với lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất mới trong xã hội. Đó là sự ra đời của tầng lớp tư sản và
công nhân thành thị cùng với sự phát triển của thương nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
bên cạnh hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền thống.
Câu 8. Trình bày những điều kiện kinh tế – xã hội của sự tồn tại nền quân chủ
phân quyền cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến.
Năm 843, ba người cháu của Charlemagne ký với nhau Hiệp ước Verdun, chính
thức chia đất nước thành ba khu vực. Từ đây chế độ phong kiến châu Âu bước vào
thời kỳ phân quyền cát cứ về lãnh thổ và phân quyền chính trị suốt gần 5 thế kỷ (từ
tkIX-tkXIV).
Chế độ quân chủ phân quyền cát cứ ở Tây Âu là chế độ do vua cai trị, tuy nhiên
bên trong mỗi quốc gia lại có những lãnh địa tồn tại và phát triển độc lập, đứng đầu là
lãnh chúa. Mỗi lãnh địa có tòa án riêng, được thu thuế riêng, có quân đội riêng. Nhà
vua hầu như không có khả năng tác động gì đối với các lãnh chúa, không có quyền
điều động, thuyên chuyển, hay thay thế các lãnh chúa.
Điều kiện kinh tế - xã hội của sự tồn tại nền quân chủ phân quyền cát cứ ở
Tây Âu thời kì phong kiến:
Trang 132-133
Chính những nguyên nhân trên đã khiến cho chế độ phân quyền cát cứ ở Tây Âu
tồn tại lâu dài, kìm hãm sự phát triển của các quốc gia ở đây cho đến khi kinh tế hàng
hóa và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, nối các quốc gia thành một thị trường
thống nhất, thúc đẩy kinh tế phát triển.

Câu 9. Phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội dẫn đến sự xuất hiện chế độ tự trị
của các thành thị và cơ quan đại diện đẳng cấp ở Tây Âu trong thời kỳ phong kiến.
a/Chế độ tự trị thành thị
* Điều kiện kinh tế: 
1. Sự phát triển của thành thị: Trước khi bước vào thời kỳ phong kiến, các nước
phương Tây đã có một nền tảng tương đối vững chắc cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Việc phân công lại lao động trong xã hội đã làm cho nền kinh tế khôi phục sau khủng
hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ. Đây là điều kiện quan trọng dẫn đến sự ra đời của
thành thị Tây Âu.
Thành thị thúc đẩy kinh tế phát triển. Thành thị ra đời làm thay đổi tình trạng xã
hội và tăng cường đấu tranh giai cấp, góp phần chống phong kiến phân tán, giải
phóng nông nô, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển biến từ chế độ phong kiến phân
quyền sang tập quyền.
2. Sự ra đời và phát triển của tầng lớp thị dân: Trong qúa trình phát triển của chế
độ phong kiến, sự phát triển của các lực lượng sản xuất từ tk IX-XI tuy chậm chạm,
nhưng đã có tác dụng làm cho thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Thợ thủ công
lúc bấy giờ sản xuất không phải để tự túc như trước, mà để trao đổi với thị trường. Dần
dần trong xã hội phong kiến hình thành một lực lượng xã hội mới là thị dân.
*Điều kiện xã hội: Sự đối kháng giai cấp giữa thị dân và dân nghèo đối với lãnh
chúa phong kiến đã dẫn đến chế độ tự trị tại các thành thị Tây Âu thời phong kiến.
Ðể hạn chế sự phụ thuộc vào lãnh chúa, thị dân đã lập nên những hội nghề nghiệp
(Phường hội của thợ thủ công, Hansa của thương nhân) nhưng không đạt hiệu quả cao.
Vì vậy, trên lãnh thổ thành thị, những mâu thuẫn giai cấp của chế độ phong kiến trở
nên gay gắt: thị dân giàu không chịu đựng nổi sự tùy tiện của lãnh chúa, dân nghèo
chống lại nạn lao dịch và sưu thuế, chống cướp đoạt và hạch sách của tòa án. Tất cả
những điều đó dẫn đến việc bùng nổ cuộc đấu tranh giai cấp. Hình thức đấu tranh
chuyển từ ôn hòa (Một số thành thị giàu có đã nộp số tiền lớn cho lãnh chúa để được
hưởng quyền tự trị) sang vũ trang (những thành thị không giàu có lắm, nhưng cư dân
đoàn kết được chặt chẽ với nhau đã tiến hành đấu tranh vũ trang).
b/ Cơ quan đại diện đẳng cấp
* Cơ quan đại diện đẳng cấp Pháp
Vua Pháp Philip IV, nhằm củng cố vương quyền của mình đã tiến hành cuộc đấu
tranh với Giáo hoàng La Mã. Năm 1302, Vua triệu tập hội nghị đại biểu của ba đẳng
cấp có thế lực và giàu có bao gồm tăng lữ, quý tộc phong kiến và thị dân giàu có. Hội
nghị ba đẳng cấp ra đời đã đánh dấu bước chuyển căn bản về mặt kinh tế - chính trị -
xã hội của nước Pháp. Thị dân đã được tham gia vào đời sống chính trị, thậm chí trở
thành một lực lượng chính trị quan trọng.
* Cơ quan đại diện đẳng cấp Anh – Nghị viện Anh
Dưới thời trị vì của vua John, xung đột giữa nhà vua với các tầng lớp trong cư dân
trở nên gay gắt. Năm 1215, vua John phải ký vào bản “Đại Hiến chương tự do” Magna
Charta. Đây là bản giao kèo giữa nhà vua và thần dân (quý tộc, thị dân, nông dân)
nhằm hạn chế sự độc đoán của vua, xác nhận quyền tự trị của các thành phố và quyền
tự do đi lại buôn bán.
Năm 1263, cuộc nội chiến giữa vua Henry III và một số lãnh chúa lớn do Simon
de Montfort cầm đầu liên minh với thị dân giàu có. Sau cuộc nội chiến, nhà vua thừa
nhận nghị viện là cơ quan đại biểu của lãnh chúa, kị sĩ và thị dân.
Tóm lại, sự ra đời của chính quyền tự trị thành thị và cơ quan đại diện đẳng cấp ở
Tây Âu chứng tỏ: tầng lớp thị dân giàu có đã xuất hiện, từng bước trưởng thành và
ngày càng có thế lực về kinh tế, chính trị. Chính quyền tự trị thành phố hay các cơ
quan đại diện đăng cấp về bản chất đều thuộc về các tầng lớp giàu có trong xã hội.
Đánh giá về sự ra đời và phát triển của các đô thị ở phương Tây, Giáo sư Trần
Đình Hựou có nhận định: “Phương Tây đô thị ra đời không ai khống chế nó, nó có cái
tự do tương đối và ở đó đẻ ra những tên cướp biển phiêu lưu, những chủ xưởng thủ
công, những nhà khoa học kỹ thuật, những nhà nghệ sĩ tự do, những nhà triết học,
những những nhà chính trị dân chủ. Chính đô thị ra đời như vậy, chính các tầng lớp
thị dân đó mới là những người vác thuổng đi chôn chế độ phong kiến.”

Câu 10. Nêu và giải thích đặc điểm của nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do
cạnh tranh.
Vào khoảng thế kỷ XV- XVI, một số nước Phong kiến Tây Âu do sự phát triển
của lực lượng sản xuất với nền sản xuất hàng hoá đã làm cho chế độ phong kiến bước
vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Trong các nước này đã xuất hiện hàng loạt công
trường thủ công và nhiều thành thị - là các trung tâm thương mại lớn. Tầng lớp thị dân
ngày càng trở nên đông đúc, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ xuất hiện ngày càng nhiều,
giai cấp tư sản ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội, đây chính là những
nhân tố dẫn đến sự khủng hoảng toàn diện của xã hội phong kiến.
Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất phong kiến tỏ rõ sự
lỗi thời và bất lực trong việc quản lý nền kinh tế, trở thành yếu tố kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự ra đời
của lực lượng xã hội mới: tư sản và vô sản. Giai cấp tư sản sau khi chiếm vị trí chủ đạo
trong kinh tế đã nhanh chóng dành quyền lực trong lĩnh vực chính trị nhằm thủ tiêu
quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, thiết lập phương thức sản xuất mới, tiến bộ, vượt
qua sự khủng hoảng, tạo đà cho lực lượng sản xuất phát triển.
Nhiệm vụ trên đặt ra trước giai cấp tư sản một sứ mạng cao cả là phải tiến hành
cách mạng xã hội, thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình thái kinh tế xã hội
mới, thiết lập hệ thống quan hệ sản xuất mới, tạo đà cho lực lượng sản xuất phát triển.
Qua cuộc cách mạng tư sản, quyền lực chính trị chuyển từ tay giai cấp thống trị cũ
sang giai cấp thống trị mới, tức là chuyển từ tay giai cấp địa chủ, phong kiến sang tay
giai cấp tư sản.
Nhà nước tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh có những
đặc điểm sau:
+ Nhà nước tư sản ra đời là kết quả của cách mạng Tư sản, với sự ra đời của nhà
nước tư sản các đặc quyền, đặc lợi của giai cấp quý tộc phong kiến đã bị loại bỏ, giai
cấp tư sản tuyên bố các quyền bình đẳng, tự do, bác ái, nhân quyền... Nhà nước tư sản
mới tiến bộ hơn rất nhiều so với nhà nước phong kiến trước đó mà nó đã thủ tiêu.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản đã đánh dấu
một bước phát triển mạnh mẽ và tiến bộ, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch
sử nhân loại.
+ Nhà nước tư sản không can thiệp vào quá trình sản xuất và trao đổi tư bản. Nó
gần như đứng ngoài đời sống kinh tế, xã hội và chỉ can thiệp khi có sự lung lay của chế
độ tư hữu. Do đó, nền kinh tế trong giai đoạn này đang tự điều chỉnh bởi quy luật cạnh
tranh tự do và quy luật giá trị, cho nên các cá nhân tư bản hầu như có đầy đủ quyền
trong việc kinh doanh và bóc lột người lao động.
+ Bộ máy nhà nước không lớn, nhiều bộ phận của nó kế thừa từ trong bộ máy nhà
nước phong kiến như quân đội, cảnh sát, nhà tù. Vì mục tiêu của nhà nước không phải
là thủ tiêu sự bóc lột, mang lại quyền bình đẳng cho tất cả công dân mà là đưa một
nhóm bóc lột này thay thế cho một nhóm bóc lột khác nên nó không cần triệt tiêu nhà
nước cũ.
+ Trong thời kỳ này, hình thức nhà nước phổ biến là Quân chủ Nghị viện do trong
quá trình chống phong kiến, giai cấp tư sản nhiều nước còn nhiều mối quan hệ quyền
lợi với giai cấp phong kiến. Chúng tìm cách thỏa hiệp với phong kiến để đi đến thiết
lập nhà nước quân chủ nghị viện. Chỉ một vài quốc gia khi thực hiện cách mạng triệt
để thì xây dựng nhà nước cộng hoà nghị viện (Pháp, Hoa Kỳ, Thụy Sỹ).
+ Về hình thức nhà nước thì có thể khác nhau, nhưng về bản chất của tất cả các
nhà nước tư sản là giống nhau. Đó là nền chuyên chính của giai cấp tư sản. Còn nhân
dân lao động những người đã từng đứng dưới ngọn cờ cách mạng tư sản, là động lực
của cách mạng tư sản lại trở thành nạn nhân, là đối tượng đàn áp, bóc lột của chế độ tư
bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản, về bản chất vẫn là một kiểu nhà nước bóc lột.

Câu 11. Từ góc độ lịch sử và luật pháp hãy lý giải tình trạng “không có hiến pháp
thành văn” ở nhà nước Anh tư sản và phân tích tổ chức bộ máy nhà nước tư sản
Anh thời kì CNTB tự do cạnh tranh.
Hiến pháp bất thành văn là những quy phạm được hình thành theo tập tục, truyền
thống, các đạo luật của nghị viện, án lệ của toà án tối cao về tổ chức quyền lực nhà
nước. Hiến pháp bất thành văn không được Nhà nước tuyên bố hoặc ghi nhận là Luật
cơ bản của Nhà nước.
Nhà nước tư sản Anh không ghi nhận bất cứ một văn bản nào được coi là Hiến
pháp, điều này có căn nguyên từ lịch sử. Ở hầu hết các quốc gia khác, hiến pháp thành
văn ra đời đều có đặc điểm chung là xuất hiện trong bối cảnh đất nước đang có sự
chuyển biến quan trọng và chuyển tiếp sang một giai đoạn lịch sử mới. Ví dụ: Hiến
pháp Mỹ đánh dấu bước chuyển từ chế độ thuộc địa sang chế độ độc lập; Luật Cơ bản
Đức ra đời là kết quả từ sự kiện bại trận trong chiến tranh. Tuy nhiên, lịch sử Anh
thực chất là một tiến trình lâu dài, được đánh dấu bởi sự phát triển liên tục hơn là sự
thay đổi đột biến.

Cụ thể, nhà nước tư sản Anh không có hiến pháp thành văn xuất phát từ một số
nguyên nhân chủ yếu sau đây:

+ Do hoàn cảnh lịch sử: Cuộc cách mạng tư sản Anh (1642-1648) là cuộc cách
mạng không triệt để: không thủ tiêu hoàn toàn chế độ phong kiến. Sự ra đời của nhà
nước quân chủ nghị viện Anh là quá trình của sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và quý
tộc, vì vậy nó không tạo nên một cuộc cách mạng triệt để làm tiền đề xây dựng nên
những đạo luật căn bản (hiến pháp) xóa bỏ những luật lệ cũ, mà đó chỉ là sự chọn lựa
dung hòa lợi ích giai cấp trong xã hội Anh.

Hơn nữa, cách mạng tư sản Anh (1642) là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế
giới, có thể vào thời điểm đó giai cấp thống trị chưa nghĩ ra được hình thức hiến pháp
thành văn phù hợp.

+ Do tổ chức bộ máy Nhà nước: Sau cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản
không duy trì chính thể cộng hòa nghị viện mà thiết lập chính thể quân chủ nghị viện,
trong đó chủ quyền tối cao thuộc về Nghị viện. Nghị viện có toàn quyền trong việc ban
hành các đạo luật mà không bị ràng buộc bởi Hiến pháp như các quốc gia có Hiến
pháp thành văn. Như vậy, do quyền lực của Nghị viện rất lớn nên giai cấp tư sản Anh
cũng không cần phải đưa ra một bản hiến pháp thành văn để tự giới hạn quyền lực của
mình

+ Do văn hóa người Anh: người Anh tự nhận thấy rằng hiến pháp bất thành văn
hay những tập quán chính trị của Anh có rất nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với quan
điểm “thương lượng, thỏa hiệp, bình đẳng” của giai cấp tư sản, và càng linh hoạt, phù
hợp hơn với sự thay đổi nhanh chóng, liên tục của thế giới đương đại. Người Anh cho
rằng những tập quán này có thể thích nghi ngay cả khi thời thế thay đổi, điều mà một
hiến pháp thành văn không thể có được. 

Hơn nữa, trong tư duy của người Anh tồn tại quan niệm cái gì tồn tại lâu dài cũng
ít nhiều chứa đựng tính hợp lý của nó, vì vậy họ tự hào về truyền thống, về những tập
quán chính trị của mình, mặc dù bất thành văn nhưng nó có giá trị lâu dài, thiêng liêng
và không dễ bị vi phạm.

Câu 12. Nêu cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước tư sản Mỹ. Xác định hình thức chính
thể của Nhà nước tư sản Mỹ.
Hình thức chính thể của Nhà nước là một yếu tố quan trọng quyết định đến nguyên
tắc hoạt động của Nhà nước đó. Theo Hiến pháp 1787, Nhà nước tư sản Mỹ là nhà
nước cộng hoà tổng thống. Đây là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện sự áp
dụng nguyên tắc phân quyền một cách đúng đắn, rõ rệt nhất.
Nội dung của thuyết phân quyền là sự phân chia quyền lực nhà nước thành 3
nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba nhánh quyền này phải được giao cho
ba cơ quan nhà nước khác nhau nắm giữ trên một cơ chế kìm chế, đối trọng nhau
nhưng độc lập với nhau, yếu tố chủ đạo của học thuyết là “dùng quyền lực để hạn chế
quyền lực”.
Trên cơ sở của nguyên tắc phân chia quyền lực, về cơ bản bộ máy nhà nước tư sản
Mỹ bao gồm những bộ phận sau:
1. Nguyên thủ quốc gia
Tổng thống Mỹ do dân bầu bằng đại cử tri, vừa là nguyên thủ quốc gia đồng thời
là người đứng đầu hành pháp. Tổng thống có rất nhiều thực quyền:
Trên lĩnh vực lập pháp, Tổng thống có quyền trình dự án luật, dự án ngân sách
trước Nghị viện, đồng thời có quyền phủ quyết các dự thảo luật của Nghị viện.
Trên lĩnh vực hành pháp, Tổng thống có quyền bổ nhiệm các thành viên của
Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Tổng thống.
Trên lĩnh vực đối ngoại, Tổng thống có quyền ký các hiệp ước, điều ước quốc tế
và bổ nhiệm đại diện ngoại giao, tuyên bố tình trạng chiến tranh, hòa bình, bỏ qua sự
đồng ý trước của Nghị viện.
Trong Quân đội, Tổng thống là người tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang.
Trong Tư pháp, Tổng thống có quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm các thẩm phán của
hệ thống tòa án, có quyền ân xá, giảm hình phạt…
Trong trường hợp khẩn cấp, Tổng thống được tuyên bố tình trạng khẩn cấp, có thể
sử dụng mọi biện pháp kể cả vi phạm hiến pháp trong một thời gian ngắn để khôi phục
tình trạng bình thường.
2. Nghị viện Mỹ
Sự ra đời Hạ nghị viện và Thượng nghị viện của Mỹ theo tỷ lệ số dân hay đại diện
của các bang xuất phát từ thực tế lịch sử. 
- Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu do dân ở các tiểu bang bầu lên. Hạ nghị viện có
nhiệm kỳ 2 năm. Thành viên Hạ nghị viện ít nhất phải đủ 25 tuổi, là công dân Hợp
chúng Hoa kỳ ít nhất 7 năm, và là người cư trú tại bang đã tiến cử họ vào quốc hội.
- Thượng nghị viện: là cơ quan đại diện của các bang, mỗi bang có hai thượng sĩ.
Thượng nghị viện có nhiệm kỳ 6 năm, nhưng hai năm bầu lại 1/3. Thượng nghị sĩ phải
có tuổi đời ít nhất 30 tuổi, có ít nhất 9 năm là công dân Mỹ, và là người cư trú tại bang
đã bầu ra họ. 
Với mục đích dung hòa lợi ích giữa hai đảng, Phó tổng thống sẽ là chủ tịch
Thượng nghị viện. Chủ tịch Hạ nghị viện và Thượng nghị viện bao giờ cũng là thành
viên của chính đảng có số đại diện lớn nhất ở mỗi viện. Để bảo đảm hoạt động hành
pháp tuân thủ luật pháp, Hạ nghị viện có quyền luận tội và Thượng nghị viện có quyền
xét xử (kết tội) những hành vi của Tổng thống. 
3. Pháp viện tối cao
Pháp viện tối cao có 9 thẩm phán do Tổng thống bổ nhiệm và có sự phê chuẩn
Thượng nghị viện. Thẩm phán có nhiệm kỳ suốt đời. Thẩm phán có quyền làm vô hiệu
hoá những quyết định của Nghị viện hay Tổng thống nếu như chúng trái với Hiến
pháp.
Quyền hạn của Pháp viện tối cao bao gồm phán xét tính hợp hiến của các đạo luật,
quyền giải thích hiến pháp và các đạo luật. Bên cạnh đó, Toà án tối cao còn thực hiện
việc điều hoà mâu thuẫn giữa các toà án và lãnh đạo toà án ở Liên bang và tiểu bang.
Như vậy, nhìn tổng thể ba ngành quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có
sự kiềm chế - đối trọng, giám sát và chế ước lẫn nhau. Nghị viện có quyền thông qua
luật, nhưng Tổng thống lại có quyền phủ quyết. Ngược lại, Nghị viện lại có quyền
quyết định ngân sách, có quyền tiến hành thủ tục luận tội tổng thống. Trong quan hệ
với tư pháp, Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán của Pháp viện tối cao nhưng tư
pháp lại có quyền xét xử những hành vi của hành pháp. Trong quan hệ giữa tư pháp
và lập pháp, Thượng nghị viện có quyền phê chuẩn quyết định bổ nhiệm thẩm phán,
quyết định ngân sách của tòa án, nhưng tòa án có quyền giải thích các đạo luật của
Nghị viện, có quyền tuyên bố không áp dụng một đạo luật nếu đạo luật đó đi ngược lại
với hiến pháp.
Ngoài chính quyền liên bang, ở Mỹ còn có chính quyền của các tiểu bang. Trong
mỗi tiểu bang đều có các cấp chính quyền thành phố, chính quyền hạt, chính quyền thị
trấn.

Câu 13. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật tư sản trong thời kỳ chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh.
1. Luật Hiến pháp tư sản
Cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13 khi giai cấp tư sản lớn mạnh và có thế lực lớn trong
kinh tế nên muốn vươn lên giành quyền thống trị vô hạn của nhà vua – người đại diện
của giai cấp phong kiến. Giai cấp tư sản đề xướng một văn bản có hiệu lực pháp lý cao
hơn hẳn các quyết định của nhà vua và văn bản khác, được gọi là Hiến pháp. Như vậy,
kể từ cách mạng tư sản, khái niệm Hiến pháp với nghĩa là luật cơ bản của nhà nước
mới xuất hiện. Nó là một ngành luật mới, được xác lập từ chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hiến pháp tư sản có 3 nhóm chế định cơ bản quy định về tổ chức bộ máy nhà
nước, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
- Về chế định bầu cử, Hiến pháp xác định một loạt các biện pháp để hạn chế
quyền bầu cử của nhân dân lao động, chẳng hạn:
+ Điều kiện về tài sản: cử tri phải là người có số tài sản nhất định, họ phải có thế
lực kinh tế mạnh vì pháp luật tư sản quy định người ứng cử ký quỹ và gánh chịu mọi
chi phí vận động bầu cử.
+ Điều kiện về trình độ văn hoá: cử tri phải là người có trình độ văn hoá nhất định.
+ Điều kiện về tuổi: cử tri phải từ 21 tuổi trở lên.
+ Điều kiện về giới tính: phụ nữ không có quyền bầu cử.
+ Về chủng tộc: người da đen, người da đỏ không có quyền bầu cử. 
+ Điều kiện cư trú: công dân muốn được bầu cử hay ứng cử phải sống cố định tại
một nơi trong một khoảng thời gian nhất định.
- Về chế định quyền và nghĩa vụ của công dân, hầu hết các Hiến pháp tư sản
đều ghi nhận quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Trong thời gian đầu
quyền công dân bị hạn chế rất nhiều, nhưng do phong trào đấu tranh của nhân dân lao
động, dần dần nhà nước tư sản phải ghi nhận thêm một số quyền công dân vào Hiến
pháp. Tuy vậy, quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn còn phiến diện, nghĩa vụ thường
không đi đôi với quyền lợi.
- Về chế định tổ chức bộ máy nhà nước, chế định này nhằm củng cố và tăng
cường quyền lực của giai cấp tư sản, đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Hiến pháp
tư sản thường tập trung quy định về nguyên tắc tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của
bốn cơ quan nhà nước trung ương: Tổng thống, Nghị viện, Chính phủ và Toà án.
2. Những chế định của dân luật tư sản
Nguyên tắc cơ bản của dân luật tư sản là quyền bình đẳng giữa các công dân trong
quan hệ pháp luật dân sự. Nội dung chủ yếu của dân luật tư sản là bảo vệ quyền tư hữu
tư sản, điều chỉnh các văn bản hợp đồng hôn nhân, thừa kế,…
- Chế định quyền tư hữu tư sản: Quyền tư hữu được coi là quyền tự nhiên của
con người, nó gồm có 3 quyền: quyền định đoạt, quyền chiếm hữu và quyền sử dụng.
Luật dân sự chia vật sở hữu gồm 2 loại: động sản và bất động sản
- Chế định hợp đồng và trái vụ tư sản: Dân luật tư sản xác định quyền bình đẳng
và tự biểu lộ ý chí của các bên. Các bộ dân luật tư sản điều ghi rõ những điều kiện bảo
đảm hợp đồng:
+ Hợp đồng phải được nghiêm chỉnh trong bất kỳ hoàn cảnh nào. 
+ Pháp luật chỉ cho phép huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp có sự đồng ý của các
bên tham gia. Các biện pháp để thực hiện hợp đồng cũng được quy định như: cầm cố,
đặt cọc, phạt tiền, bảo lãnh…
Trái vụ là một quan hệ pháp luật, trong đó một người hoặc một số người phải thực
hiện một hành vi nào đó đối với chủ thể khác
- Chế định pháp nhân và công ty cổ phần tư sản: Chế định này nhằm củng cố
địa vị kinh doanh của nhà tư sản, đồng thời không ngừng tập trung vốn, mở rộng kinh
doanh để dẫn tới độc quyền. Ban đầu việc thành lập công ty cổ phần phải được Chính
phủ cho phép, về sau nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh thì việc thành lập công ty
chỉ cần đăng ký với Chính phủ. Quyền quản lý công ty thuộc về các nhà tư bản lớn.
- Chế định về hôn nhân gia đình: Chế định này củng cố quan hệ không bình
đẳng trong gia đình. Người vợ bị hạn chế năng lực pháp lý, đồng thời xác định người
chồng là người đứng đầu trong gia đình, bảo hộ người vợ, do đó người vợ phải phục
tùng. Hôn nhân được xem là 1 loại hợp đồng. Việc kết hôn phải có đủ 2 điều kiện sau:
Người kết hôn phải có năng lực pháp lý; Hai bên tự nguyện kết hôn với nhau. Về hình
thức kết hôn, có nước quy định hình thức kết hôn dân sự (do chính quyền chứng nhận),
có nước theo hình thức tôn giáo, có nước coi 2 hình thức trên điều có giá trị pháp lý. 

- Chế định thừa kế: Theo luật dân sự tư sản thừa kế có 2 hình thức:
+ Thừa kế theo di chúc: xác định nguyên tắc tự do di chúc. Tuy nhiên, để bảo đảm
quyền lợi cho những người trong gia đình, một số nước hạn chế sự độc đoán của người
lập di chúc. 
+ Thừa kế theo pháp luật xảy ra khi người chết không để lại di chúc hoặc di chúc
được xem là vô hiệu hoặc không giải quyết hết tất cả tài sản.
Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật thuộc địa, tài sản thừa kế được chuyển thẳng
cho những người thừa kế. Còn ở hệ thống pháp luật Anh -Mỹ, tài sản được chuyển cho
người trung gian (được chỉ định trong di chúc hoặc do toà án chỉ định). Sau khi người
trung gian thực hiện những thủ tục luật định thì tài sản được chuyển hết cho người
thừa kế.
3. Những chế định của luật hình tư sản
- So với pháp luật phong kiến, luật hình tư sản có những tiến bộ lớn: chống lại sự
độc đoán xét xử của vua chúa; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; không quy
định về tội chống tôn giáo….
- Nhưng về bản chất, luật hình tư sản là cơ sở pháp lý để đàn áp nhân dân lao động
và các thế lực chống đối khác. Án tử hình được áp dụng với nhiều tội danh với các
biện pháp dã man (cho xe cán, chặt tứ chi và đầu, mổ bụng, moi lục phủ ngũ tạng…).
Ngoài ra, nó còn bảo lưu nhiều hình phạt nhục hình như đóng dấu, chặt tay… Về sau,
các hình phạt man rợ này bị bãi bỏ và giảm nhẹ hình phạt cho những tội không nghiêm
trọng.
- Về hình phạt tù, các nước thường có 3 hình thức: biệt giam, khổ sai và đưa đi đày
ở các thuộc địa.
- Từ thế kỷ 19, hình thức án treo bắt đầu được áp dụng ở một số nước.
4. Tổ chức tư pháp và tố tụng tư sản
- So với pháp luật phong kiến, tiến bộ lớn của pháp luật tư pháp là quyền tư pháp
được tách ra khỏi quyền hành pháp. Cơ quan hành pháp không được quyền xét xử,
quyền này được trao cho một cơ quan chuyên trách là toà án. 
- Tố tụng được tách thành tố tụng hình sự và tố tụng dân sự.
- Trong luật tố tụng tư sản, những nguyên tắc cơ bản dần dần được hình thành:
· Nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà: người buộc tội là Viện công tố, người gỡ tội
là bị cáo và luật sư bào chữa.
· Nguyên tắc suy đoán vô tội: khi chưa có đủ chứng cứ buộc tội, thì bị can vẫn
được xem là người vô tội. Từ nguyên tắc suy đoán vô tội, bị can có quyền được bào
chữa, còn trách nhiệm buộc tội thuộc về Ủy viên công tố.
· Bản án được quyết định bởi đa số Hội đồng xét xử 
· Không ai có quyền kháng cáo đối với việc trắng án.
· Nguyên tắc không thay đổi thẩm phán.
Nhận xét
- Pháp luật tư sản ra đời là một tiến bộ lớn lao trong lịch sử nhà nước và pháp luật:
+ Lần đầu tiên Hiến pháp và một loạt nguyên tắc mới của pháp luật xuất hiện. 
+ Kỹ thuật lập pháp với việc phân chia pháp luật thành các ngành luật, với việc
nêu ra các chế định pháp lý, với việc pháp điển hoá,… đã có sự tiến bộ nhảy vọt. Có
thể nói, về phương diện hình thức pháp lý và kỹ thuật lập pháp, sự ra đời của pháp luật
tư sản là một cuộc cách mạng trong luật pháp. 
+ Trong những thế kỷ XVII-XIX, pháp luật tư sản đã đóng vai trò tích cực trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Đây cũng là thời kỳ
từng bước hình thành và phát triển nền dân chủ tư sản và nó được thể chế hoá bằng
pháp luật. Pháp luật thành một phương tiện quan trọng nhất của nhà nước tư sản để
quản lý xã hội.
- Hệ thống pháp luật tư sản tuy đã ra đời nhưng chưa đầy đủ và hoàn thiện. Thời
kỳ này, khối lượng các văn bản pháp luật chưa nhiều. Và cũng khác với thời kỳ tư bản
chủ nghĩa độc quyền, pháp luật tư sản ở thời kỳ này bảo vệ tự do cạnh tranh trong sản
xuất và trao đổi tư bản của các nhà tư sản.
- Tuy nhiên, trong giai đoạn nào thì nhà nước và pháp luật tư sản đều thể hiện đầy
đủ bản chất giai cấp của nó, đó là bảo vệ lợi ích trước hết của giai cấp tư sản.

Câu 14. Những điểm mới cơ bản của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến?
Trong thế giới luôn luôn vận động và phát triển, mọi sự vật hiện tượng không
ngừng được sinh ra, phát triển, rồi bị thay thế bằng các sự vật, hiện tượng khác. Và có
thể nói rằng, mọi quá trình vận động và phát triển trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống đều diễn ra thông qua quy luật phủ định của phủ định, cái mới ra đời kế thừa và
tiến bộ hơn cái cũ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ cho quy luật đó. Thực tế
khi mà kiểu nhà nước phong kiến không còn đủ sức chống lại các cuộc cách mạng xã
hội nữa, buộc nó phải mất đi, nhường quyền thống trị cho kiểu nhà nước tư sản. Cũng
giống như nhà nước tư sản, pháp luật tư sản là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng,
là công cụ trực tiếp, quan trọng nhất để thực hiện chuyên chính tư sản. So với kiểu
pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản tiến bộ hơn rất nhiều và được coi là một trong
những thành tựu đánh dấu sự phát triển của lịch sử nhân loại. 
1. Xét về mặt nội dung:
Pháp luật tư sản có những điểm tiến bộ hơn pháp luật phong kiến. 
Thứ nhất: Pháp luật tư sản công khai tuyên bố nguyên tắc phân chia quyền lực
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Cùng với sự hình thành chế độ tư
bản, nguyên tắc "phân chia quyền lực" đã trở thành một trong những nguyên tắc chính
của chủ nghĩa lập hiến tư sản. Học thuyết pháp luật - chính trị (thuyết "phân quyền")
với quyền lực nhà nước được hiểu không phải là một thể thống nhất, mà là sự phân
chia thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp do nghị
viện thực hiện; quyền hành pháp do chính phủ thực hiện; quyền tư pháp do tòa án tối
cao thực hiện. Các cơ quan này hoạt động độc lập với nhau, kiểm tra và giám sát lẫn
nhau theo cơ chế “kiềm chế và đối trọng” để không có cá nhân nào nắm hết mọi quyền
lực, tạo sự cân bằng giữa các quyền, đảm bảo cho những mối liên hệ cần thiết giữa các
quyền lực bị chia tách để những cơ quan độc lập tách biệt có thể cộng tác với nhau
phục vụ cho lợi ích chung của đất nước. Chẳng hạn: Hiến pháp của Hợp chủng quốc
Hoa Kì đã quy định tại khoản 1 điều 1 là: “Mọi quyền hành lập pháp sẽ được trao cho
một Quốc hội của Hợp chủng quốc gồm một thượng nghị viện và một hạ nghị viện”.
Trong khoản 1 điều 2 quy định: “Quyền hành pháp được trao cho một tổng thống
nhiệm kì bốn năm”. Còn tại khoản 1 điều 3 viết: “quyền tư pháp được trao cho một tối
cao pháp viện và cho những viện hạ cấp nào mà Quốc hội sẽ có thể đôi khi, quyết định
hoặc triệu tập”. Trong khi đó ở nhà nước phong kiến tất cả các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp đều nằm trong tay nhà vua - người có quyền lực tối cao. Vì tất cả
quyền lực đều do nhà vua nắm giữ nên dễ dẫn tới tình trạng độc đoán, chuyên quyền,
lạm quyền cho nên không có dân chủ trong nhà nước do đó cũng không thể có dân chủ
ngoài xã hội. Vua là “thiên tử” và không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì trước pháp
luật, thậm chí có quyền đứng trên pháp luật. Vua có thể bắt mọi thần dân của mình
phải tuân theo ý chí của mình, gây nên sự thiếu dân chủ.
Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật thế giới, pháp luật tư sản công khai
ghi nhận và đảm bảo thực hiện quyền công dân của các cá nhân trong xã hội tư bản
chủ nghĩa. Ở pháp luật phong kiến quyền con người không được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật, cũng không có các khái niệm, quy định nào nói về quyền cơ bản
của con người. Trong xã hội phong kiến người dân được gọi là thần dân, quan hệ giữa
nhà nước phong kiến với thần dân có những đặc điểm nhất định, là người tự do, được
giải phóng về thân thể khỏi địa chủ nhưng vẫn bị lệ thuộc về nhiều mặt: chính trị, tư
tưởng và đặc biệt là kinh tế. Đó là mối quan hệ giữa bộ máy chuyên chính của giai cấp
địa chủ với nhân dân lao động đã bị phân chia thành đẳng cấp, thứ bậc mà mỗi đẳng
cấp có vị thế và những đặc quyền khác nhau. Vì thế nên không có sự bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ giữa thần dân với nhà nước phong kiến, và đó cũng là
lí do để giải thích 3 cho câu hỏi: “Tại sao pháp luật phong kiến không ghi nhận những
quyền cơ bản của con người và đảm bảo để họ có thể thực hiện những quyền đó?”. Đối
với pháp luật tư sản, khái niệm “công dân” được nhà nước tư sản đưa vào trong đạo
luật cơ bản của mình, có thể khẳng định rằng đây là điểm tiến bộ hơn và thể hiện tính
nhân đạo hơn so với pháp luật phong kiến. Người dân trong xã hội được chuyển từ
thần dân thành công dân, bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực đồng thời cũng được
pháp luật quy định trong các văn bản pháp luật, các bản hiến pháp đầu tiên như nước
Mĩ, Pháp… Tại Luật công pháp Đức, chế định về các quyền cơ bản của công dân được
bảo vệ rất chặt chẽ. Trong đó danh mục các quyền cơ bản của công dân được lập theo
một nguyên tắc cơ bản, đó là yêu cầu phải bảo vệ phẩm tước của con người, mọi
quyền cơ bản đều được quy định trên cơ sở nguyên tắc này. Do đó trong pháp luật tư
sản, xây dựng xã hội công dân mà ở đó con người bình đẳng, ngang quyền về mặt
pháp lí, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật ghi nhận và đảm
bảo thực hiện. Nhưng cũng nhấn mạnh rằng sự tự do, bình đẳng ở đây là về mặt pháp
lí tức là còn mang nặng tính hình thức, không dân chủ, bình đẳng thật sự và triệt để.
Tuy nhiên nó vẫn được ghi nhận và bởi thế nó thể hiện sự tiến bộ hơn so với pháp luật
phong kiến. Khi quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong pháp luật tư
sản thì mỗi cá nhân có mối quan hệ pháp lí ràng buộc với một nhà nước tư sản nhất
định (tức là mang quốc tịch của nước đó) thì được nhà nước thừa nhận là công dân của
nước mình được hưởng quyền công dân đồng thời thực hiện nghĩa vụ công dân với đất
nước. Nhà nước yêu cầu công dân nước mình thực hiện những quyền đúng đắn và thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đồng thời nhà nước đảm bảo các quyền lợi cơ bản của công dân.
Trên cơ sở đó nhà nước tư sản lập ra các chế định “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân” trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, dân sự,… dù nhiều trường
hợp vẫn mang tính hình thức nhưng nó cũng đã thể hiện được sự tiến bộ so với pháp
luật phong kiến.
Thứ ba, pháp luật tư sản công khai tuyên bố nguyên tắc tự do hợp đồng trong các
lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. Chế định hợp đồng đã trở
thành một trong những chế định cơ bản của pháp luật tư sản. Pháp luật tư sản không
những giải phóng sức lao động con người mà còn giải phóng chính thân phận con
người thoát khỏi sự lệ thuộc tồn tại. Từ đây mọi cá nhân đều có quyền tự do ý chí, tự
do thỏa thuận theo nguyên tắc bình đẳng giữa hai bên trong các quan hệ giao dịch.Còn
trong xã hội phong kiến, phần nào đã coi nông dân là con người nhưng nó công khai
thừa nhận và bảo vệ sự bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội, trong mọi lĩnh
vực. Ví dụ: ở xã hội phong kiến người có địa vị càng cao thì nắm trong tay địa vị và
ruộng đất. Nông dân không có ruộng đất vì vậy họ bị trói buộc vào ruộng đất mà địa
chủ giao cho, và bị bắt giao cho địa chủ gần hết sản phẩm làm ra, người dân phải chịu
sự bóc lột đó nếu không họ sẽ chết đói. Còn đối với nhà nước tư sản thì pháp luật tư
sản đã thừa nhận nguyên tắc tự do hợp đồng: đó là sự thỏa thuận, theo đó một hay
nhiều bên có nghĩa vụ với một hay 4 nhiều bên khác chuyển giao một vật, thực hiện
hay không thực hiện một việc nào đó, nguyên tắc đó dựa trên sự bình đẳng giữa các
chủ thể và đảm bảo lợi ích của từng bên, như bộ luật hiện hành của Pháp: hợp đồng
song vụ điều 1102, hợp đồng ngang giá điều 1104, hợp đồng có đền bù điều 1106. 
Thứ tư của pháp luật tư sản so với pháp luật phong kiến là đã ghi nhận, bảo đảm
thực hiện các nguyên tắc pháp chế trong hoạt động của nhà nước tư sản, của các tổ
chức chính trị xã hội và trong hoạt động của công dân. Có nhiều định nghĩa khác nhau
về khái niệm pháp chế nhưng chúng ta có thể hiểu pháp chế là một chế độ và trật tự
pháp luật trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân
đều phải tông trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, tự giác, triệt để và
chính xác. Pháp chế tư sản được pháp luật tư sản ghi nhận là một nguyên tắc pháp lý,
với những nội dung cơ bản:- Triệt để tôn trọng hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến
pháp tư sản.- Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và
pháp luật; quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền lực độc lập với nhau
nhưng có thể kiềm chế và đối trọng lẫn nhau.- Các đảng phái chính trị và các tổ chức
xã hội khác đều thành lập và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.-
Mọi cá nhân trong xã hội đều tôn trọng và thực hiện hiến pháp một cách tự giác, đầy
đủ, nghiêm chỉnh, chính xác.Với những nội dung trên, chúng ta có thể khẳng định
rằng: Pháp luật phong kiến không ghi nhận và đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế
trong tổ chức, hoạt động của nhà nước phong kiến và đời sống xã hội. Thật vậy, trong
nhà nước phong kiến cực quyền pháp luật chỉ dành cho nhà vua, người có quyền hành
tuyệt đối và trong xã hội chỉ tồn tại một nền chính trị hà khắc tùy tiện bất chấp cả pháp
luật. Với bản chất như vậy pháp luật không thể ghi nhận nguyên tắc pháp chế - một
nguyên tắc đòi hỏi sự bình đẳng, tự do, dân chủ. Pháp chế tư sản được ghi nhận và bảo
đảm thực hiện đã góp phần đấu tranh chống lại chế độ đặc quyền, đặc lợi. Hơn nữa,
việc thực hiện nguyên tắc này còn thể hiện sự bình đẳng, dân chủ của mọi tầng lớp
nhân dân trong xã hội. Với những ý nghĩa này, có thể khẳng định rằng việc ghi nhận
và đảm bảo nguyên tắc pháp lí là điểm tiến bộ của pháp luật tư sản so với pháp luật
phong kiến. 
Thứ năm, đặc điểm nổi bật nhất của pháp luật tư sản cho thấy sự tiến bộ vượt trội
so với pháp luât phong kiến là sự ra đời của hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản,
có hiệu lực pháp lí cao nhất, là cơ sở để xây dựng hệ thống pháp luật. Dựa vào hiến
pháp, hệ thống pháp luật tư sản trở nên thống nhất, hoàn thiện hơn thể hiện đầy đủ ý
chí của giai cấp tư sản. Ngược lại, pháp luật phong kiến không có hiến pháp làm nền
tảng nêntản mạn, thiếu thống nhất, chủ yếu dựa vào chiếu chỉ do vua ban, mang tính
chung chung, không có sự tách biệt giữa các ngành luật. Do đó, hệ thống pháp luật
thiếu phong phú, đa dạng, chuyên quyền, độc đoán. Rõ ràng việc ra đời của Hiến pháp
đánh dấu bước ngoặt lớn trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật.
Xét về mặt hình thức biểu hiện: Pháp luật tư sản biểu hiện chủ yếu dưới luật thành
văn, được ghi trong các văn bản pháp luật một cách rõ ràng. Các loại văn bản pháp luật
tư sản cũng hết sức phong phú, điển hình nhất cần phải kể đến là hiến pháp, luật, các
sắc lệnh và nghị định trong khi đó hình thức phổ biến của pháp luật phong kiến là tập
quán pháp và được ban hành dưới dạng lệnh, chiếu chỉ, khẩu lệnh… của nhà vua. Nếu
như luật pháp phong kiến là sự kết hợp của Lễ và Hình, sự kết hợp giữa Đức trị với
Pháp trị và hoà đồng giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức thì pháp luật tư
sản chủ yếu là các đạo luật và luật. Giai cấp tư sản không cho rằng việc dùng đạo đức
để răn đe, giáo huấn là có hiệu quả hơn pháp trị.
2. Nguyên nhân:
Thứ nhất, pháp luật tư sản là kiểu pháp luật ra đời sau, nó loại bỏ những hạn chế
và kế thừa phát huy những đặc điểm tiến bộ của những kiểu pháp luật trước để có thể
thích ứng và tồn tại trong xã hội mới.
Thứ hai, ở nhà nước phong kiến quyền lực tập trung trong tay một người, pháp
luật thể hiện ý chí của nhà vua nên mang tính chuyên quyền, độc đoán. Trong khi đó, ở
nhà nước tư sản quyền lực được phân chia theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Vì thế
pháp luật tư sản thể hiện tính dân chủ hơn so với pháp luật phong kiến.
=>Có thể nói sự ra đời của pháp luật tư sản đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong
lịch sử lập pháp. Kể từ đây loài người được biết đến một bản hiến pháp, trong đó quy
định quyền tự do của công dân, mà trước đây trong xã hội phong kiến chưa bao giờ
giám nghĩ đến.Pháp luật tư sản vẫn không tránh khỏi những hạn chế, những không thể
phủ nhận những gì mà pháp luật tư sản mang đến cho loài người chúng ta. Vì vậy,
trong xã hội hiện đại và phát triển như ngày nay, chúng ta sẽ tiếp tục phát huy những
mặt tích cực, loại trừ những mặt yếu, góp phần làm nên một thế giới hòa bình, tốt đẹp
hơn.

PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Câu 1. Sự hình thành, tổ chức bộ máy và đặc trưng cơ bản của nhà nước Văn lang-
Âu lạc. (Chương I trang 35)
1. Nhà nước Văn Lang
* Sự hình thành nhà nước:
Đến nay với những cứ liệu khoa học, có thể giả định rằng nhà nước đầu tiên ở VN
(nhà nước Văn Lang) đã xuất hiện ở thế kỷ thứ VII TCN, nhưng việc hình thành nhà
nước này không phải là ở một năm nào đó mà là một “quá trình” để hình thành nên các
yếu tố tạo nên nhà nước:
- Điều kiện cần:
+ yêu cầu trị thuỷ, chống thiên tai: thời Hùng Vương là lúc con người mở rộng
công cuộc chinh phục thiên nhiên, chiếm lĩnh vùng đồng bằng châu thổ, phát triển
nông nghiệp trồng lúa nước, khai thác những thuận lợi của tự nhiên; cũng là cuộc đấu
tranh khắc phục những trở ngại của thiên nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm,
chống mưa nguồn nước lũ, chống hạn hán ngập lụt… -> Chính điều này đã đặt ra nhu
cầu gắn kết cộng đồng lại bởi một người hay một nhóm người không thể làm được
công việc đó.
+ yêu cầu tự vệ, chống giặc ngoại xâm: Vị trí địa lý nước ta nằm trên những luồng
giao thông tự nhiên nên yếu tố tự vệ chống lại các nối đe dọa từ bên ngoài ngày càng
trở nên cấp thiết. Chiến tranh thời đó bao gồm cả những cuộc xung đột bên trong và
những cuộc xung đột bên ngoài.
-> nhà nước Văn Lang ra đời có phần sớm hơn điều kiện chín muồi của sự phân
hoá thành giai cấp. Nhân tố thuỷ lợi và tự vệ về cơ bản k thể sản sinh ra nhà nước,
nhưng có thể thúc đẩy quá trình hình thành nhà nước và quy định thêm tính chất, chức
năng của nhà nước. Để duy trì trật tự và quản lý một xã hội đã có những thay đổi rất
căn bản đòi hỏi phải có một tổ chức và một quyền lực mới khác về chất. Tổ chức đó do
bộ phận chiếm ưu thế về kinh tế tổ chức ra để thực hiện sự thống trị xã hội.
- Điều kiện đủ: trong sự ra đời của nhà nước Văn Lang, Âu lạc thì tiền đề kinh tế
– xã hội cần thiết cho nhà nước ra đời đã xuất hiện nhưng chưa thực sự chín muồi. Một
biến chuyển quan trọng của thời Hùng Vương là sự tan rã của quân hệ cộng động
nguyên thuỷ và sự phân hoá xã hội.
+ Về cơ sở xã hội: Những gia đình nhỏ trở thành những đơn vị kinh tế độc lập.
Chế độ mẫu hệ dần dần chuyển sang chế độ phụ hệ. Công xã thị tộc dần dần tan rã và
nhường chỗ cho công xã nông thôn, kết hợp cả 3 quan hệ láng giềng, địa lý và huyết
thống. Xã hội có sự phân hóa rõ nét ở cả sự phân hóa giàu nghèo và sự phân hóa về địa
vị xã hội nhưng chưa sâu sắc, chưa mang tính đối kháng.
+ Về cơ sở kinh tế: Tiền đề vật chất (kinh tế) có ý nghĩa quyết định của sự phân
hoá xã hội là sự phát triển sức sản xuất đến mức độ tạo ra sản phẩm dư thừa của xã
hội. Sự phát triển của công cụ sản xuất cùng với ba lần phân công lao động xã hội đã
làm cho kinh tế đạt được những bước tiến dài, sản phẩm làm ra ngày một nhiều hơn,
tạo cơ sở cho việc chiếm đoạt của cải dư thừa của công xã làm tài sản riêng của một số
người.
-> mức độ phân hoá xã hội thời kỳ HV mặc dù chưa cao nhưng đã tạo ra một cơ
sở xã hội cần thiết cho quá trình hình thành nhà nước phôi thai, trước khi xã hội diễn
ra sự phân hoá giai cấp rõ rệt.
* Tổ chức bộ máy nhà nước:
Liên minh các Bộ lạc được hình thành vào khoảng tk VII TCN, đứng đầu là Hùng
Vương, đóng đô ở Văn Lang, truyền được 18 đời đều lấy tên là Hùng Vương.
Nước Văn Lang chia làm 15 Bộ, dưới bộ là các Công xã nông thôn (kẻ, chạ,
chiềng), mỗi Công xã gồm 1 số gia đình sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất
định. Cơ cấu tổ chức gồm:
- Hùng Vương đứng đầu nhà nước về mặt chính trị
- Giúp việc cho vua gồm các Lạc Hầu
- Lạc tướng đứng đầu mỗi Bộ lạc
- Bồ chính (già làng) đứng đầu các Công xã nông thôn.
Mối quan hệ giữa nhà nước và công xã là một thứ quan hệ mang tính chất lưỡng
hợp: nhà nước vừa đại diện cho các công xã vừa bóc lột công xã, công xã được tự trị
nhưng phải thuần phục tuyệt đối nhà nước. Thời kỳ này, quân đội thường trực cũng
như các công cụ chuyên chế của nhà nước chưa phát triển. Lực lượng vũ trang của
công xã giữ vai trò chủ yếu khi có chiến tranh. Chế độ già làng được bảo tồn lâu dài,
bên cạnh đó còn có một Hội đồng công xã gồm những thành viên công xã cử ra để giải
quyết mọi hoạt động của công xã.
-> Nhà nước này là một hình thái nhà nước phôi thai còn mang đậm dấu ấn của
chế độ Bộ lạc – Công xã. Tuy chưa có một nhà nước hoàn chỉnh nhưng đã có một cơ
cấu mới với một số đặc tính của một nhà nước trong tương lai.
2. Nhà nước Âu Lạc
* Sự ra đời nhà nước: Cư dân Văn Lang đời Hùng Vương chủ yếu là người Lạc
Việt. Lạc Việt và Âu Việt là hai nhóm Nam Bách Việt, có quan hệ đồng chủng, láng
giềng. Cuối đời Hùng Vương, giữa Hùng và Thục xảy ra xung đột kéo dài. Trước mối
đe doạ của nhà Tần, cuộc xung đột kết thúc bằng việc nhường ngôi Hùng Vương cho
Thục Phán, thành lập nhà nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc tồn tại khoảng 30 năm (208-179
TCN), đây là một giai đoạn phát triển tiếp tục của nước Văn Lang nằm trong thời đại
dựng nước Hùng Vương và An Dương Vương.
* Tổ chức bộ máy nhà nước: nhìn chung vẫn kế thừa tổ chức bộ máy nhà nước
của Văn Lang nhưng có sự phát triển cao hơn. Đứng đầu nhà nước là Vua – An Dương
Vương, dưới Vua là các Lạc Hầu, đứng đầu các Bộ vẫn là các Lạc tướng và dưới các
Bộ vẫn là các công xã nông thôn do Bồ chính đứng đầu. Ngoài bộ phận thống trị thì
phần đông vẫn là các nông dân công xã tự do và những nô lệ mang tính chất gia đình.
Đây là thời kỳ có kỹ thuật quân sự tiến bộ vượt bậc, sáng chế ra nỏ bắn một lần nhiều
phát tên.
3. Pháp luật nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
Nhà nước Văn Lang đã có pháp luật nhưng pháp luật thời đó còn rất sơ khai. Điều
chỉnh các quan hệ xã hội thời kỳ này chủ yếu vẫn là pháp luật tập quán, đó có thể là
nhưng tập quán chính trị (truyền ngôi vua, tập quán cống nạp, phân chia ruộng đất…),
tập quán xã hội , Lệ của Công xã nông thôn.
Bên cạnh đó còn có một hình thức khác là pháp luật khẩu truyền. Lời nói của
người đứng đầu nhà nước trong nhiều trường hợp là mệnh lệnh mang tính bắt buộc,
thậm chí không cần ghi lại thành văn.
Nội dung của pháp luật cũng chỉ được phản ánh qua các truyền thuyết dân gian và
thư tịch cổ rất ít ỏi, cho thấy pháp luật đã điều chỉnh một số lĩnh vực như hôn nhân gia
đình, tài sản, sở hữu, hình phạt và một số tập quán chính trị khác. Chưa thể kết luận
rằng thời kỳ này đã có chữ viết và pháp luật thành văn.

Câu 2. Đặc điểm cơ bản về nhà nước và pháp luật ở Việt nam thời Bắc thuộc.
Năm 179 tr. CN, Triệu Đà vua nước Nam Việt (một chính quyền cát cứ ở nam
Trung Quốc) đánh bại triều An Dương Vương, thống trị Âu Lạc. Từ đó, các triều đại
phong kiến Trung Hoa kế tiếp nhau thống trị nước ta. Thời kỳ này thường được gọi là
thời Bắc thuộc. Đến năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm lược, xác lập
nền độc lập dân tộc một cách vững chắc, chấm dứt 1117 năm đô hộ của các triều đại
phong kiến Trung Hoa.
Trong hơn 10 thế kỷ đó, không chỉ có Bắc thuộc mà còn có cả chống Bắc thuộc;
phong kiến phương Bắc dùng mọi biện pháp để đàn áp dân ta về quân sự, đồng hoá về
xã hội, biến nước ta thành quận huyện của TQ. Tuy nhiên sự đô hộ của TH không liên
tục và thực chất thời kỳ này làng của ta, nước của địch.
1. Đặc điểm nhà nước ta thời Bắc thuộc:
Đặc điểm nổi bật của nhà nước thời kỳ này là có hai hệ thống chính quyền hoặc
đan xen tồn tại, hoặc song song tồn tại trong các thời gian lịch sự khác nhau, đó là
chính quyền đô hộ của người Hán và chính quyền độc lập tự chủ của người Việt.
a) Hệ thống chủ đạo là hệ thống chính quyền đô hộ của phong kiến TQ.
- Thời kỳ này người Hán đã biến lãnh thổ Âu Lạc cũ thành một bộ phận lãnh thổ
của Trung Quốc, thành những đơn vị hành chính địa phương châu, quận, huyện… của
triều đình phong kiến Trung Quốc, chứ không phải là một hệ thống chính quyền có cơ
cấu hoàn chỉnh chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương.
- Chính quyền người Hán vừa mang tính chất hành chính, vừa mang tính chất
quân sự. Bên cạnh việc cử những quan văn đứng đầu các châu, quận, triều đình nhà
Hán còn cử các võ tướng với quân đội đồn trú để sẵn sàng đối phó với những cuộc nổi
dậy của người Việt.
- Hiệu quả cai trị, quản lí của chính quyền đô hộ còn hạn chế. Mặc dù người Hán
luôn kiện toàn chính quyền nhưng cao nhất cũng chỉ quản lí được đến cấp huyện, còn
các xã, làng mạc vẫn luôn luôn chịu sự quản lí trực tiếp của người Việt. Bởi lẽ, từ
trước tới nay, cấp cơ sở (làng, xã) của người Việt luôn mang tính chất khép kín cao,
khi người Hán thực hiện chính sách đồng hóa, nhân dân càng co cụm lại củng cố được
khối sực mạnh. Điều này làm cho hiệu quả cai trị không cao.
- Mô hình tổ chức chính quyền địa phương của nhà nước pk TQ được du nhập vào
VN và tồn tại trong hơn 10 thế kỷ nhưng nó được thiết lập trên một nền tảng kinh tế -
xã hội kém phát triển, chính điều này làm cho tổ chức bộ máy nhà nước VN thời kỳ
này có tính vượt trước so với hạ tầng kinh tế xã hội.
b) Hệ thống chính quyền độc lập tự chủ của người Việt
- Là kết quả của cuộc đấu tranh giành độc lập trong hơn 10 thế kỷ của dân ta, từ
chính quyền Hai Bà Trung, chính quyền của nhà nước Vạn Xuận, chính quyền họ
Khúc, chính quyền Dương Đình Nghệ.
- Vì hệ thống chính quyền độc lập tự chủ của người Việt dưới các triều đại chỉ có
thể tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định do gắn liền với công cuộc gìn giữ và
bảo vệ đất nước nên chưa có nhiều thay đổi trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
- Cha ông chúng ta đã thâu hóa kỹ thuật, cách thức tổ chức chính quyền theo đơn
vị hành chính lãnh thổ nhiều cấp của người Trung Quốc để vận dụng xây dựng bộ máy
chính quyền nhà nước thời kì này.
Hệ thống chính quyền cấp cơ sở của người Việt mang tính chất khép kín, ưu tiên
điều chỉnh nội bộ bằng các phong tục tập quán và bảo lưu, duy trì tính chất làng Việt
truyền thống. Xét theo chiều dọc thời gian, tuy kéo dài hàng ngàn năm, nhưng nền đô
hộ do chính quyền đô hộ thiết lập là không liên tục. Xét theo chiều ngang và chiều sâu
của không gian, chính quyền đô hộ không thể với tay tới và làm thay đổi được cơ cấu
làng xã cổ truyền của người Việt, nhiều vùng rộng lớn xa xôi vẫn nằm ngoài phạm vi
cai trị của chúng. -> các triều đại phong kiến Trung Hoa chỉ cướp được nước Âu Lạc
chứ không trực trị được các làng Việt.
2. Đặc điểm pháp luật nước ta thời kỳ Bắc thuộc
Đặc điểm lớn nhất là có hai hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại (Luật Hán
và Luật tục của người Việt), vì điều kiện hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ nên người Hán
vẫn duy trì tối đa luật tục của người Việt để cai trị, giảm bớt sự chống đối của người
Việt.
- Thời kỳ này, pháp luật được thi hành là pháp luật của Trung Hoa, trong đó có
hai bộ luật chủ yếu là Bộ luật nhà Hán và Bộ luật nhà Đường, pháp luật đôi khi được
đồng nhất với hình phạt.
- Hệ thống pháp luật đô hộ pk TQ chủ yếu điều chỉnh các lĩnh vực: hành chính, tài
chính, hình sự, thuế khoá. Phạm vi không gian tác động rất hạn chế: chỉ những nơi
trung tâm, nơi đóng đồn trú và vùng phụ cận, còn những nơi vùng sâu vùng xa hải đảo
thì hầu như không tác động. Luật Hán được áp dụng chủ yếu để điều chỉnh quan hệ
hành chính giữa quận – bộ (thời Triệu), quận – huyện (Tây Hán), chỉ tác động được
đến người Hán ở Âu Lạc và những quý tộc người Việt. Còn luật tục của người Việt
(chủ yếu là lệ làng) điều chỉnh đại đa số dân cư người Việt ở làng xã, trong lĩnh vực
hôn nhân gia đình, dân sự, quan hệ ruộng đất.
Một số nội dung của pháp luật:
- Luật Hình sự: Nhóm tội phạm xâm phạm đến lợi ích của chính quyền đô hộ bị
điều chỉnh bởi Luật Hình sự, hình phạt nặng nhất là tử hình, đi đày hoặc thích chữ vào
mặt, cụ thể: tội phản loạn, phản nghịch; nhóm tội chức vụ như tham ô, hối lộ…; nhóm
tội mua bán nô tì; nhóm tội phạm kinh tế như mua bán muối, sắt.
- Luật Dân sự: tồn tại hai hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân (chỉ
liên quan đến một số thành phần quan lại và địa chủ người Hán). Mục đích là bảo hộ
chủ yếu cho việc bảo vệ quyền sở hữu đất đai và chính quyền đô hộ.
3. Hệ quả của thời kỳ Bắc thuộc
- Chính tổ chức bộ máy nhà nước trở thành khuôn mẫu để các triều đại pk VN tổ
chức bộ máy nhà nước của mình sau này.
- Hệ thống PL pk TQ cũng trở thành khuôn mẫu cho việc xây dựng và hoàn thiện
PL pk VN sau này.
- Tư tưởng chính trị pháp lý Nho giáo của nhà nước pk TQ truyền bá vào Âu Lạc
và đã thâm nhập vào các tầng lớp dân cư người Việt ở mức độ nhất định (đây chính là
cơ sở lịch sử để đặt nền tảng cho Nho giáo trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong
thời kỳ này.)
- Thời kỳ Bắc thuộc là thời kỳ lịch sử lâu dài để hình thành một tâm lý pháp luật
truyền thống là tư tưởng trọng lệ hơn trọng luật.

Câu 3. Những đặc trưng cơ bản về tổ chức nhà nước, pháp luật của các triều Ngô
– Đinh – Tiền Lê, Lý – Trần – Hồ
1. Ngô – Đinh - Tiền Lê
* Đặc trưng về tổ chức nhà nước:
Năm 938, nhà Ngô chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt
thời kỳ Bắc thuộc. Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa. Từ năm 945 đến 967
là thời kỳ loạn 12 sứ quân, sau này Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, thiết lập triều
đại nhà Đinh. Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi, nhà Tiền Lê (980-1009) được thiết lập.
Thời kỳ Ngô – Đinh - Tiền Lê là giai đoạn đất nước có nhiều khó khăn sau thời
gian dài chịu sự cai trị hà khắc của phong kiến phương Bắc, vì vậy phải tập trung vào
xây dựng quân đội để bảo vệ nền độc lập tự chủ. Các vua thời kỳ này nắm giữ vương
quyền nhưng thực chất lại là những tướng quân khi cần thiết có thể rời ngai vàng, đích
thân cầm quân ra trận, điều này chi phối đến việc tổ chức chính quyền và pháp luật.
- Chính quyền nhà Ngô: khi Ngô Quyền lên ngôi, ông tập trung tổ chức chính
quyền tập trung chuyên chế, đặt ra các chức quan văn – võ, thiết lập lễ nghi triều chính
và quy định màu sắc trang phục trong triều. Sử sách ghi chép rất ít về chính quyền họ
Ngô, nhưng theo các sử gia nhận định, bộ máy nhà nước thời này còn giản đơn, hoạt
động chưa được thể chế hoá.
Về chính quyền địa phương triều Ngô: vẫn phỏng theo bộ máy của chính quyền
Trung Hoa trước đây. Đứng đầu các Châu là Thứ sử. Các đơn vị bên dưới kế thừa từ
thời tự chủ gồm có Giáp, Xã. Đứng đầu Giáp là Quản giáp và Phó tư giáp, đứng đầu
Xã là hai lệnh trưởng: Chính và Tá. (Châu – Giáp – Xã)
- Chính quyền nhà Đinh: Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, đặt
tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Tuy tổ chức bộ máy nhà nước triều nhà Đinh chỉ được phân tích sơ lược, không
đầy đủ nhưng qua đó cũng thấy rõ: vua là người nắm giữ quyền lực tối cao, giúp việc
cho vua có các quan chia làm 2 nghạch: quan văn võ và có sự phân công rõ ràng ở các
lĩnh vực: chính trị, quân sự, luật pháp, tôn giáo. Nhà nước lấy đạo Phật làm quốc giáo,
định phẩm tướng cho sư tăng, sư làm quan được gọi là Tăng quan.
Về quân sự: quân đội được chia làm 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi
lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ có 10 người. Đứng đầu quân đội là Thập đạo
tướng quân.
Về chính quyền địa phương triều nhà Đinh: vua chia nước thành 10 đạo. Dưới đạo
là cấp giáp và xã. Cấp đạo do Tiết độ sứ cai quản, cấp giáp thuộc quyền cai quản của
Giáp trưởng, cấp xã do Chánh lệnh trưởng cai quản. (Đạo – Giáp – Xã)
- Chính quyền Tiền Lê: Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn vị ám sát, Lê
Hoàn lên ngôi vua và bắt đầu xây dựng chính quyền Tiền Lê. Lê Hoàn cho xây dựng
lại cung thất, tổ chức lại các đơn vị hành chính. Phân chia thành các lộ, phủ, châu. Bộ
máy chính quyền trung ương về đại thể mô phỏng theo quan chế nhà Đường - Tống.
So với triều Đinh, Tiền Lê có thêm nhiều chức quan mới và bắt đầu tiến hành việc
phong tước, coi trọng hơn trật tự và lễ nghi.
Lê Hoàn cho kiểm kê dân số để tuyển binh, định quân ngũ, phân tướng hiệu làm
hai ban văn, võ, tổ chức quân cấm vệ. Tổ chức quân sự thời kỳ này được thiết kế gắn
liền với tổ chức hành chính nhà nước, vì vậy quân đội cũng được chia làm 5 cấp tuơng
đối giống với tổ chức quân đội nhà Đinh.
Về chính quyền địa phương nhà Tiền Lê: có xu hướng trở lại hệ thống tổ chức
hành chính thời Khúc Hạo. Sử sách không ghi chép một cách cụ thể, nhưng nhìn
chung tồn tại các cấp: Lộ, Phủ, Châu, Giáp (hương) và Xã. An phủ sứ cai trị các Lộ,
Tri phủ và Tri châu cai quản các phủ, châu. Các quan lại địa phương có cả quyền
hành chính và tư pháp.
Như vậy, nhìn chung tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng được xây dựng và củng
cố, nhưng vẫn còn đơn giản, các hoạt động của nhà nước chưa được thể chế hoá, việc
lựa chọn quan lại chưa có chế độ rõ ràng. Bộ máy và tổ chức quyền lực đều mang tính
chất quân sự, tư duy tổ chức quyền lực mang tính quân sự. Quyền lực nhà vua lớn
nhưng chưa tập quyền triệt để, vẫn còn tình trạng cát cứ, quan địa phương có binh
quyền làm cho trung ương không vững. Hơn nữa cũng chưa có sự quản lý nhà nước tốt
về mặt lãnh thổ.
* Đặc trưng về pháp luật:
Nhìn chung, pháp luật thời kỳ này được phản ánh rất ít trong Đại Việt sử kí toàn
thư và các tài liệu khác. Nội dung pháp luật tương đối sơ khai, đơn giản, sơ sài và
phiến diện. Việc xây dựng và phát triển pháp luật chưa được chú trọng bởi giai đoạn
này còn tập trung vào nhiệm vụ bình định cát cứ và chống ngoại xâm.
Pháp luật thời kỳ này tổn tại chủ yếu dưới những hình thức sau:
- Luật thành văn: theo ĐVSKTT, năm 1002 Lê Đại Hành đã “định luật lệnh”,
trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng chép “vua đặt luật lệ pháp
lệnh”, vì vậy có thể cho rằng thời kỳ này đã có pháp luật thành văn.
- Tập quán chính trị: thời kỳ này đã phát triển nhiều tập quán như: phong nhiều
Hoàng Hậu (Đinh - Tiền Lê), phong vương cho các con trai của vua và cắt cử một số
hoàng tử đi trấn giữ các vùng trọng yếu…
- Luật tục: ngoài các quy định pháp luật của triều đình thì ở các đơn vị làng xã
vẫn duy trì các lệ làng để điều chỉnh các mối quan hệ nội bộ (về đất đai, hôn nhân gia
đình…) Những lệ làng cổ truyền có hiệu lực không gian rộng khắp.
Về nội dung, pháp luật thành văn và tập quán chính trị chủ yếu xác lập và điều
chỉnh một số lĩnh vực về quan chế quân sự, trấn áp những kẻ chống đối. Pháp luật thời
kỳ này rất hà khắc và tuỳ tiện đặt ra theo ý muốn của nhà vua, áp dụng các hình phạt,
trừng trị dã man, hình sự hoá mọi quan hệ, không có hoặc chưa tìm thấy minh chứng
về pháp luật thủ tục.
- Đối với nhà Đinh, pháp luật mang tính mệnh lệnh, hà khắc làm cho thần dân sợ
mà tuân theo, hình phạt khốc liệt và dã man. Việc quy định trang phục trong triều
nhằm phân biệt địa vị, đẳng cấp.
- Đối với nhà Tiền Lê, pháp luật cũng mang nặng tính chất mệnh lệnh quân sự,
cũng như nhà Đinh, luật pháp Tiền Lê sinh ra để bảo vệ vương quyền, ổn định đát
nước, chống cát cứ và ngoại xâm.
Việc ban hành pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự không làm được nhiều
dưới thời nhà Ngô, Đinh do tình hình chiến tranh và cơ sở của quyền lực tập trung yếu.
2. Thời Lý - Trần - Hồ

Câu 4. Những đặc trưng cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê sơ

Câu 5. Quốc triều hình luật thời Lê


Pháp luật triều Hậu Lê được xây dựng trên cơ sở tư tưởng đạo đức – chính trị Nho
gíao, truyền thống văn hoá đạo đức của dân tộc Việt, kế thừa pháp luật của Trung Hoa
và của các triều đại Lý, Trần, đồng thời thể hiện rõ nét quan điểm chính trị, pháp lý
nhân văn, tiến bộ của các nhà lập pháp bấy giờ.
Các vị vua của thời đại Lê sơ đã có tư tưởng quan tâm xây dựng và đảm bảo thực
thi pháp luật. Hệ thống pháp luật triều Hậu Lê đã được hoàn thiện dưới triều vua Lê
Thánh Tông, đặc biệt là Bộ Quốc triều hình luật với nhiều quy định nhân văn, tiến bộ
cả về nội dung và kỹ thuật pháp lý, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nước Đại Việt
thế kỷ XV.
QTHL đc ban hành lần đầu vào triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức,
chia thành 6 quyển. Bộ luật là kết quả của quá trình tập hợp, kế thừa có hệ thống các
luật lệ từ thời vua Lê Thái Tổ, được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện trong triều vua
Lê Thánh Tông và các đời vua tiếp theo.
a. Tính chất
- Bản chất của QTHL thể hiện ở tính giai cấp và tính xã hội: Là bộ luật bảo vệ chế
độ phong kiến, là công cụ quan trọng để xây dựng và củng cố nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền; bảo vệ quyền lợi của giai cấp nông dân và người lao động, đặc biệt là
đối với các nhóm xã hội yếu thế.
- Mang đậm tính chất nhân đạo: quan tâm đến lợi ích của con người trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội
- Thể hiện “tính phản ánh” sâu sắc và tinh tế, tiêu biểu là ở sự kết hợp chặt chẽ
giữa Nho giáo và phong tục tập quán, giữa luật và tục lệ: vừa tiếp thu có chọn lọc tư
tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình.
- Tính chất tổng luật được thể hiện ở nhiều phương diện, đặc biệt là về nguồn của
pháp luật bởi nó chứa đựng cả luật của nước, luật của xã hội; nội dung bộ luật bao gồm
cả luật nội dung - luật vật chất và luật thủ tục - luật hình thức.
b. Phạm vi điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh rộng lớn, bao quát hết tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống
xã hội đương thời như: hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng…
- Dân sự: các điều khoản liên quan đến chế độ ruộng đất, những điều về mua bán
cầm cố, thừa kế ruộng đất. Trong đó,  các quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là
các lĩnh vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất.
- Hình sự: Hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo bao trùm toàn
bộ nội dung của bộ luật, gồm: những nguyên tắc chung áp dụng khi trừng phạt, Dấu
hiệu của tội phạm, Phân loại tội phạm, đồng phạm, các giai đoạn phạm tội và phòng vệ
chính đáng, Hình phạt.
- Hôn nhân gia đình: điều chỉnh các quan hệ như kết hôn, chấm dứt hôn nhân(do
chết hoặc ly hôn), quan hệ gia đình.
- Tố tụng: những quy định chặt chẽ về thủ tục khi giải quyết kiện tụng như việc thụ
lý khiếu kiện, thẩm vấn, tra khảo, phân xử.
c. Cơ sở tư tưởng
Cơ sở tư tưởng đạo đức – chính trị Nho gíao, truyền thống văn hoá đạo đức của
dân tộc Việt, kế thừa pháp luật của Trung Hoa và của các triều đại Lý, Trần, đồng thời
thể hiện rõ nét quan điểm chính trị, pháp lý nhân văn, tiến bộ của các nhà lập pháp bấy
giờ, đặc biệt là Vua Lê Thánh Tông.
d. Các nguyên tắc cơ bản
(1) Bảo vệ chế độ quân chủ phong kiến, lợi ích của nhà nước, nhà vua và hoàng
tộc: những hành vi xâm phạm đến lợi ích của nhà vua và hoàng tộc, xâm phạm chế độ
đương thời được liệt vào tội “thập ác” với những hình phạt nghiêm khắc nhất. Nguyên
tắc này là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ Bộ luật.
(2) Bảo vệ chế độ tư hữu về ruộng đất, qui định sự lệ thuộc của giai cấp nông dân
vào giai cấp địa chủ phong kiến.
(3) Bảo vệ hệ tư tưởng thống trị đương thời mà hạt nhân là Nho giáo. Cùng với
các tội chống lại nhà nước, những hành vi trái với các chuẩn mực đạo đức Nho giáo
cũng được liệt vào tội “thập ác” và phải chịu “ngũ hình”.
(4) “Không có tội, không có hình phạt”, nếu không được quy định trong Bộ luật:
một hành vi chỉ bị coi là có tội và bị trừng phạt khi nào hành vi đó được quy định
trong các điều luật tương ứng.
(5) Trách nhiệm hình sự tập thể, phổ biến đối với một số trọng tội, cho phép áp
dụng trách nhiệm hình sự đối với tất cả những người thuộc phạm vi 3 họ của người
phạm tội.
(6) Nguyên tắc nhân đạo thể hiện ở chính sách xử lý đối với một số người phạm
tội nhất định, như phụ nữ, người già, người tàn tật, trẻ em.
(7) Nguyên tắc có lỗi – không có tội nếu không có lỗi: với việc phân biệt các tội
phạm cố ý hay lầm lỡ, nhà làm luật cũng thể hiện thái độ phân biệt cụ thể theo hướng
giảm nhẹ đối với các tội vô ý hay tăng nặng đối với các tội cố ý.
(8) Nguyên tắc áp dụng tập quán trong những trường hợp pháp lý nhất định được
quy định trong nhiều điều luật: thể hiện rõ nét tính dân tộc, truyền thống văn hoá đạo
đức, trong đó có các yếu tố phong tục, tập quán bản địa.
(9) Tất cả những gì không được phép làm, đều bị cấm: quy định này thể hiện trình
độ kỹ thuật pháp lý rất cao, nhà làm luật đã dự liệu trước cách giải quyết những vụ
việc trong thực tế khi thiếu những điều luật cụ thể, phải vận dụng tinh thần chung của
pháp luật.
e. Kỹ thuật pháp lý
- Tương đối hoàn thiện so với các bộ luật thời phong kiến và đặc biệt có nhiều
điểm gần gũi so với kỹ thuật pháp lý hiện đại: ý chí phạm tội, tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ.
- Về mặt cơ cấu: có sự thống nhất giữa các điều, chương: sắp xếp những điều luật
liên quan vào 1 quyển, 1 chương, qua đó xác định những “chế định pháp lý” một cách
tương đối. Khả năng dự liệu trước những tình huống pháp lý của các nhà làm luật có
thể nói là rất cao.
-…

Câu 6. Sự thể hiện các quan điểm cơ bản của nho giáo, tính dân tộc trong Quốc triều
hình luật thời Lê..
Các vị vua của thời đại Lê sơ đã có tư tưởng quan tâm xây dựng và đảm bảo thực
thi pháp luật. Hệ thống pháp luật triều Hậu Lê đã được hoàn thiện dưới triều vua Lê
Thánh Tông, đặc biệt là Bộ Quốc triều hình luật với nhiều quy định nhân văn, tiến bộ
cả về nội dung và kỹ thuật pháp lý, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nước Đại Việt
thế kỷ XV.
QTHL đc ban hành lần đầu vào triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức,
chia thành 6 quyển. Bộ luật là kết quả của quá trình tập hợp, kế thừa có hệ thống các
luật lệ từ thời vua Lê Thái Tổ, được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện trong triều vua
Lê Thánh Tông và các đời vua tiếp theo.
QTHL được xây dựng trên cơ sở tư tưởng đạo đức – chính trị Nho gíao, truyền
thống văn hoá đạo đức của dân tộc Việt, kế thừa pháp luật của Trung Hoa và của các
triều đại Lý, Trần, đồng thời thể hiện rõ nét quan điểm chính trị, pháp lý nhân văn, tiến
bộ của các nhà lập pháp bấy giờ.
a. Sự thể hiện các quan điểm cơ bản của Nho giáo trong QTHL
Được xây dựng trên cơ sở tư tưởng đạo đức - chính trị Nho giáo, QTHL có nhiệm
vụ bảo vệ các chuẩn mực, giá trị đạo đức Nho giáo trong các mối quan hệ xã hội, từ
gia đình, đến cộng đồng, nhà nước và xã hội.
Một trong các nguyên tắc cơ bản của QTHL là bảo vệ hệ tư tưởng thống trị đương
thời mà hạt nhân là Nho giáo. Bộ luật đã dành một số lượng lớn các điều quy định
những chuẩn mực đạo đức Nho giáo, đặc biệt là những điều liên quan đến các chữ
“hiếu, trung, tiết, hạnh”. Cùng với các tội chống lại nhà nước, những hành vi đi ngược
lại với những chuẩn mực đạo đức nói trên đều được liệt vào tội “thập ác” và phải chịu
“ngũ hình”.
Các quy phạm nội dung đạo đức được thể hiện ở tất cả các chương, điều, hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp, nhưng rõ nét nhất là ở các chương Danh lệ, Hộ hôn, Điền sản.
- Về chế định thừa kế: nội dung các điều luật về thừa kế được xây dựng trên cơ sở
tư tưởng đạo đức Nho giáo về gia đình. Về hình thức có 2 loại là thừa kế theo di chúc
và thừa kế theo pháp luật. Bộ luật còn quy định các trường hợp truất quyền thừa kế.
- Hôn nhân gia đình: Theo Nho giáo, gia đình có vị trí quan trọng cho nền chính trị
quốc gia, vì vậy các nhà làm luật rất chú trọng đến nội dung này. Các quy định trong
phần này thể hiện sự bất bình bình đẳng giữa nam và nữ, vợ và chồng. Cụ thể:
+ Về kết hôn và ly hôn: Kết hôn cần phải có sự đồng ý của cha mẹ, hình thức kết
hôn là sự đặt và nhận sính lễ của hai bên. Bộ luật cũng quy định các trường hợp cấm
kết hôn trên cơ sở quan điểm đạo đức Nho giáo. Về ly hôn, người chồng bắt buộc phải
bỏ vợ nếu vợ phạm vào thất xuất.
+ Về quan hệ nhân thân, tài sản vợ chồng: QTHL hình sự hoá các vấn đề hôn nhân
và chỉ đặt ra nghĩa vụ chung thuỷ đối với vợ. Người vợ phải gánh vác rất nhiều các
nghĩa vụ pháp lý- đạo đức so với chồng và bị đặt vào một địa vị thấp kém trong gia
đình. Trong quan hệ tài sản, nhìn chung người phụ nữ cũng không được hưởng bình
đẳng với chồng.
- Tư tưởng đức trị của Nho giáo, bảo vệ nền tảng đạo đức Nho giáo trong gia đình
và xã hội còn được thể hiện trong việc xác định những hành vi phạm tội nghiêm trọng
xâm phạm trật tự, quan niệm, chuẩn mực đạo đức nhà giáo, phải chịu các hình phạt
nghiêm khắc “thập ác, ngũ hình”. Cũng xuất phát từ đạo lý gia đình theo quan điểm
Nho giáo, QTHL có nhiều quy định cụ thể về việc con cháu được phép chịu áp dụng
hình phạt thay cho ông bà,…
Ngoài ra, Bộ luật còn đưa ra một công thức pháp lý giải quyết xung đột giữa
Trung và Hiếu, chữ Hiếu phải nhường chỗ cho chữ Trung. (Điều 504 quy định…).
Trong Bộ luật còn có nhiều điểm quy định trừng trị tội gian dối, khuyến khích tính
trung thực, vị tha, chung thuỷ, ăn ở có trước có sau.
b. Tính dân tộc trong QTHL
Mặc dù là một bộ luật hướng Nho, song tinh thần dân tộc, tính chất văn hoá truyền
thống của dân tộc Việt vẫn được thể hiện sâu sắc trong QTHL.
QTHL – tinh hoa của luật pháp thời Lê sơ đã tiếp thu tư tưởng truyền thống dân
tộc, ý thức tự tôn dân tộc về một nền văn hoá phát triển không thua kém Trung hoa.
Chính vì thế, tính dân tộc được thể hiện rất rõ trong QTHL.
 QTHL có sự biến đổi linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. QTHL đã
áp dụng nhiều phong tục tập quán của dân tộc. Sở dĩ như vậy là do triều đình đã nhận
thức rõ sức mạnh của quần chúng nhân dân đối với sự vững mạnh của xã tắc, sự thịnh
suy của triều đình. Việc áp dụng các phong tục tập quán trong nhiều trường hợp là có
lợi cho sự vững mạnh của triều đình, làm cho các điều khoản của bộ luật phù hợp, sát
với thực tế đời sống, dễ hiểu, dễ thực hiện do đó có tính khả thi cao.
 Các quy định về bảo vệ quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế của QTHL đã
vượt lên trên những hạn chế của học thuyết Nho giáo và cả chế độ phong kiến đương
thời. Việc quan tâm, bảo vệ quyền lợi cho nhóm xã hội yếu thế được quy định trực tiếp
hay gián tiếp thông qua chế độ trách nhiệm pháp lý của quan lại và biện pháp xử phạt
nghiêm khắc mọi hành vi xâm phạm quyền lợi của người dân nói chung, các nhóm xã
hội yếu thế nói riêng.
 Ngoài ra QTHL còn tiếp thu truyền thống tôn trọng người phụ nữ của dân tộc
ta. QTHL thừa nhận quyền ly hôn của người vợ trong một số trường hợp nhất định,
thừa nhận quyền có tài sản riêng của người phụ nữ, còn có quy định về tam bất khứ…
Điều này thể hiện tính nhân đạo, bác ái, xuất phát từ truyền thống tình nghĩa vợ chồng
của dân tộc, nhằm bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người vợ phù hợp với đạo lý người
Việt.
 Do sự kết hợp các phong tục tập quán lâu đời của VN với đạo đức Nho giáo,
hoà nhập chúng vào hệ thống pháp luật của triều đình mà mối quan hệ cha mẹ và con
cái trong QTHL không có tính chất tuyệt đối phục tùng, tuyệt đối định đoạt như Nho
Giáo. QTHL còn tiếp thu truyền thống con cháu được quyền ra ở riêng khi cha mẹ còn
sống. Theo PL TQ đây là tội đại bất hiếu. Tuy nhiên, PL triều Lê chấp nhận điều đó.
(Điều 347 quy định con cái đủ 15 tuổi được cấp ruộng đất để tự nuôi sống bản thân…)
Như vậy, tính dân tộc độc đáo và đặc sắc đã làm cho QTHL không chỉ là công cụ
thống trị của riêng giai cấp thống trị mà thực sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân
dân thông qua các phong tục tập quán truyền thống. Đó là điểm tiến bộ và độc đáo của
nhà Lê. Nó thể hiện tính độc lập, sáng tạo của những nhà lập pháp triều Lê, đồng thời
là sự thể hiện của quốc gia có chủ quyền.

Câu 7.Nội dung cơ bản của chế định dân sự, hôn nhân và gia đình, các quy định tố
tụng hình sự, thủ tục pháp lý trong Quốc triều hình luật thời Lê.
- Trong lĩnh vực dân sự: các quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là các lĩnh
vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất. 
+ Phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là: sở hữu nhà
nước (ruộng công/ công điền/công thổ) và sở hữu tư nhân (ruộng tư/tư điền/tư thổ).
Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn diện về
vấn đề ruộng đất công, nên trong bộ luật này, quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất chỉ
được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng
ruộng đất công. Bên cạnh đó việc bảo hộ quyền sở hữu tư nhân/ hợp đồng về ruộng đất
tư cũng được quy định rõ ràng. 
+ Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi với
các quan điểm hiện đại về thừa kế. Cụ thể: Khi cha mẹ còn sống, không phát sinh các
quan hệ về thừa kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của gia đình, dòng họ. Thứ
hai là các quan hệ thừa kế theo di chúc (các điều 354, 388) và thừa kế theo luật (các
điều 374-377, 380, 388). Điểm đáng chú ý trong bộ luật Hồng Đức, người con gái có
quyền thừa kế ngang bằng với người con trai. Đây là một điểm tiến bộ không thể thấy
ở các bộ luật phong kiến khác. Thứ ba, bộ luật đã phân định về nguồn gốc tài sản của
vợ chồng, gồm có: tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung của cả hai vợ chồng.
Việc phân định này góp phần xác định việc phân chia thừa kế cho các con khi cha mẹ
đã chết hoặc chia tài sản cho bên còn sống nếu một trong hai vợ hoặc chồng chết
trước. Thừa kế chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.
_ Luật hôn nhân và gia đình: là một ngành luật quan trọng trong Bộ luật Hồng đức
nói riêng cũng như luật pháp phong kiến nói chung vì theo Nho giáo, đạo tề gia là cơ
sở cho chỉ đạo trị quốc; các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em là 3 trong 5 mối quan
hệ cơ bản của xã hội; luật hôn nhân và gia đình trong luật Hồng Đức được xây dựng
trên nguyên tắc hôn nhân không tự do, nhiều vợ, nam nữ bất bình đẳng, đề cao quyền
của người cha, người chồng, người vợ cả và con trưởng trong gia đình; củng cố và bảo
vệ chế độ gia đình phong kiến - gia trưởng.
_ Các quy định tố tụng hình sự, thủ tục pháp lý: Quốc triều hình luật là bộ luật đầu
tiên có những quy định tương đối chặt chẽ về thủ tục tố tụng. Luật tố tụng chủ yếu
được quy định trong Quyển 6, gồm 2 chương, 78 điều: các vụ việc được chia thành 4
loại: Rất nhỏ, nhỏ, trung bình, lớn. Tương ứng với 4 loại vụ việc đó mà cấp xét xử
được quy định là xã quan, huyện quan, phủ quan, triều đình. Trình tự xét xử nhiều cấp
được quy định trong điều 672. Nếu xã quan không xử được thì đưa lên huyện quan,
huyện quan không xử được thì đưa lên phủ quan, phủ quan không xử được thì đưa lên
đạo (lộ), quan đạo không xử được thì mới đưa lên kinh. Thời hạn xét xử cũng được
luật quy định cụ thể. Ngoài ra trình tự, và thủ tục bắt người, điều tra, xét hỏi, chế độ
giam giữ, thi hành án... cũng được quy định tương đối chặt chẽ.

Câu 8. Những nội dung cơ bản, ý nghĩa của Quốc triều khám tụng điều lệ.
1. Thông lệ xét xử tội giết người
Được quy định rất cụ thể, kín kẽ và luôn thể hiện được tính nhân đạo, sự tôn trọng
các quyền và lợi ích hợp pháp của con người bất kể họ ở trong hoàn cảnh, địa vị nào.
- Trong quy định về khởi kiện, BL quy định rõ chủ thể khởi kiện về nhân mạng
phải là vợ, con, cha, mẹ, chồng, anh, em, người trong họ hàng. Người khởi kiện phải
có đơn kiện, tố cáo. Điều kiện khởi kiện là phải có xác chết.
- Thời hạn giải quyết vụ việc là 4 tháng kể từ khi nguyên đơn gửi đơn, bị đơn được
trình bày sự việc trong khoảng 2 tháng.
- Quy định về các chủ thể có thẩm quyết giải quyết và lấy lời khai:quan trấn, quan
phủ, quan thừa ty, quan ngự sử tuỳ vào tính chất vụ việc.
- Quy định rõ chứng cứ, hiện trường vụ việc phải được bảo vệ nghiêm ngặt.
- Chi phí cho việc khám nghiệm, thu thập chứng cứ được lấy từ tiền của người gây
án mạng -> quy định độc đáo k những làm giảm ngân sách nhà nước mà còn có tác
dụng răn đe.
- Bản án sau khi được tuyên phải được niêm yết công khai.
2. Thông lệ xử lí tội trộm cướp
- Tiến hành tróc bắt các đối tượng trộm cướp phải có căn cứ cộng với việc thẩm
xét cẩn thận, không được kéo dài và cũng k được phép bắt bớ bừa bãi.
- Trừng trị nghiêm đối với việc tổ chức, dung túng, cấu kết, thực hiện trộm cướp
- Quy định về khen thưởng đối với người có công tố giác, bắt tội phạm.
- Quy định trách nhiệm đối với quan chức giải quyết việc trộm cướp.
3. Thông lệ xử lí tội đánh bạc
- Việc tố cáo và trách nhiệm tố cáo tội đánh bạc rất được đề cao. Nơi nhận là:
“trong kinh thì cáo tại đề lĩnh, ngoài các trấn thì cáo tại trấn ty”. Việc xử lí tang vật:
phải thu hết rồi lập văn tự thiêu huỷ, còn tiền của thu được thì xung công.
- Đặt ra trách nghiệm của chủ thể mang thẩm quyền nhà nước và quy định về trách
nhiệm đối với quan lại nếu liên quan đến tội đánh bạc.
4. Thông lệ xử lí việc cố ý gây thương tích
- Phải được xử lí kịp thời, việc tiến hành bắt và khám xét người gây thương tích
phải theo quy định.
- Khuyến khích giải quyết bằng con đường hoà giải đối với những trường hợp
thương tích không nghiêm trọng, phân cấp vụ việc dựa vào mức độ thương tích, tôn
trọng sự thực khách quan, đề cao trách nhiệm của người giải quyết vụ việc; nghiêm trị
những trường hợp vu khống, cậy thế áp bức người khác, lợi dụng tố cáo để trả thù
riêng.
5. Thông lệ xét xử các tội liên quan đến kiện tụng về vay nợ
- Kiện tụng phải có căn cứ, không thể nói suông, căn cứ để giải quyết vụ việc vay
nợ là văn khế và lời biên với nội dung tuân thủ quy định của các văn bản luật nội dung.
- Quy định rõ về nơi nộp đơn kiện. Kiện vượt cấp là hành vi bị cấm. Cấp sơ thẩm
được quy định ở đâu thì ngưởi khởi kiện phải mang đơn đến đó mà kiện.
- Liên quan đến những quy định về phí tổn khi xử lí vụ kiện, BL quy định rõ ràng
và tương tự với pháp luật hiện đại, khi tạm thu thì thu bên khởi kiện còn xét xong thì
lấy của bên trái trả cho bên phải.

Câu 9.Hệ thống chính quyền và pháp luật thời Lê – Trịnh ở Đàng ngoài.
Hệ thống chính quyền “Lưỡng đầu” Lê – Trịnh
Vua Lê Chúa Trịnh
Cơ quan ở triều Ngũ phủ Ở trung ương, cơ quan hành
đình và phủ Phủ liêu chính cao nhất là Ngũ phủ và
chúa (chính Phủ liêu (phủ chúa).
quyền trung - Phủ liêu là chức quan tham
ương) tụng, bồi tụng, là chức quan
văn cao cấp nhất. Phủ liêu chia
làm 3 phiên (quân sự, thu
thuế), sau đổi thành 6 phiên
Sơ đồ bộ
(chi phối mọi hoạt động của
máy trung ương
nn quân chủ).
- Về quan võ có các chức quan
Vua Chúa
đứng đầu 5 phủ (5 cơ quan cai
Lê Trịnh
quản ở kinh thành), gồm
Chưởng phủ sự, Quyền phủ
Ngũ
Các sự, Thự phủ sự. Các chức này
phủ
đại cùng với tham tụng, bồi tụng
Phủ
thần (quan phủ liêu) hợp thành Ngũ
liêu
phủ.
Cơ quan - Hoàng môn tỉnh: phụ trách
Lục Lục
có chức ấn tín của vua
bộ phiên
năng văn - Thông chính ti: phụ trách
phòng vận chuyển công văn, chỉ dụ
- Bí thư giám: lưu trữ công
văn, giấy tờ
Lục bộ và - Lục bộ dưới vua, chỉ là hư - Lục phiên dưới chúa, nắm
lục phiên danh, có vai trò phụ tá cho toàn bộ quyền hành
Lục phiên. - Lục phiên gồm Lại, Bộ, Lễ,
- Giữ nguyên hệ thống quan Binh, Hình, Công. Mỗi phiên
lại cũ với các chức Tam có 1 tri phiên và 1 phó tri
thái, Tam thiếu và Thượng phiên.
thư của 6 Bộ.
- Ngự sử đài do các ngự sử
phụ trách, Ngự sử đài có
nhiệm vụ giám sát và thanh
tra quan lại các cấp để tâu
lên phủ chúa, quyết định
việc tăng thưởng, đề bạt, kỷ
luật; đồng thời là cơ quan
cao nhất xét xử các án kiện
về tư pháp.

Tổ chức chính quyền địa Chính quyền địa phương hầu


phương như là của chúa
Cơ bản vẫn như thời Lê Thánh Tông, trong nước chia thành
các đơn vị hành chính: trấn, phủ, huyện, châu, xã
Đứng đầu các trấn là các cơ quan Trấn ty, Thừa ty và Hiến ty:
- Trấn ty nắm giữ về binh quyền và phụ trách tuần phòng địa
phương. Đứng đầu Trấn ty là các chức quan Trấn thủ, Đốc
trấn và Lưu thủ, nhiệm vụ giống nhau, sau này lấy tên gọi
chung thống nhất là Đốc phủ.
- Thừa ty trông coi công việc hành chính như: hộ tịch, ruộng
thóc, kiện tụng…
- Hiến ty trông coi việc tư pháp: tuần hành, khảo khoá, khám
xét, xét hỏi, hội đồng kiểm soát.
Tổ chức quân đội Gồm 2 loại
- Quân bảo vệ kinh đô hay còn gọi là kiêu binh
- Quân đội địa phương
Đầu thế kỷ XVIII có thêm 1 loại quân nữa là hương binh
Hệ thống pháp luật thời Lê – Trịnh
 Không sử dụng bộ luật của thời Lê sơ, luật Hồng đức
 Quyền lập pháp: do cả vua Lê và chúa Trịnh cùng nắm, nhưng vua Lê chỉ ban
hành những văn bản Luật pháp có tính nguyên tắc pháp lý chung, còn chúa Trịnh thì
ban hành những văn bản luật đưa những nguyên tắc này thành hiện thực. Vừa thể hiện
đế quyền, và thực quyền của chúa.
 Quyền hành pháp: vua Lê chỉ có quyền quản lý với các chức quan từ tam phẩm
trở xuống, còn từ tứ phẩm trở lên và các quan ngoại nhiệm là thuộc quyền quản lý của
chúa. Các quyết định hành chính chủ yếu xuất phát từ phủ chúa. Chúa nắm thực quyền
và gần như mọi quyền hành trong hành pháp
 Quyền tư pháp: Vua chỉ quản lý toà án cấp sơ thẩm, ban bố các lệnh đặc xá, đại
xá, chúa quản lý tòa án cấp phúc thẩm, nắm quyền tài phán cao nhất.
 Quân sự: chúa Trịnh giữ chức đại nguyên soái, đứng đầu quân đội trong cả
nước, quản lý mọi việc liên quan đến quốc phòng.
 Tài chính thuế khóa: chúa Trịnh nắm trọn quyền thu thuế, ấn định mọi việc chi
tiêu và chính sách tài chính của quốc gia, kiểm soát chi tiêu của triều đình
 Ngoại giao: chúa định đoạt chính sách ngoại giao, cắt cử sứ giả đi nước ngoài,
vua chỉ đóng vai trò người đại diện.
 Thần quyền là lĩnh vực duy nhất thuộc quyền quản lý của Vua
-> Hệ thống pháp luật nằm trong tay chúa, mọi cơ quan có thẩm quyền, thực quyền
đều nằm dưới quyền của chúa.
Một điểm tiến bộ của pháp luật triều Lê là có “một bộ luật tố tụng riêng biệt” - Bộ
Quốc triều khám tụng điều lệ.
QTKTĐL chỉ chứa đựng các điều lệ về kiện tụng, cụ thể có tất cả 31 điều lệ kiện
tụng, thể hiện việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người trong quá trình tố tụng.

Câu 10. Những đặc điểm cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn.
Triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam thời trung đại là nhà Nguyễn. Đây là thời kỳ
chính quyền đã thi hành nhiều biện pháp để tập trung quyền lực trong tay vua. Nhà Nguyễn đã
xây dựng được chính quyền quân chủ mạnh mẽ, quy củ, chặt chẽ trên cơ sở tiếp thu cách thức
tổ chức chính quyền của nhà Thanh của TH.
Chính quyền trung ương
Vua Có quyền lực tối cao, nắm mọi quyền binh, đứng đầu triều đình cả về
vương quyền và thần quyền.
Quan đại  Tứ trụ đại thần: giữ chức vụ then chốt trong triều
thần  Cửu khanh: 9 viên quan đứng đầu triều đình dưới sự kiểm soát
trực tiếp của vua
Nội các Là cơ quan văn phòng trung ương của vua
 Là trung tâm điều hành chính sự của vua, trình lên vua những
công việc thiết yếu, phụ trách công việc văn thư lưu trữ giấy tờ
 Gồm 4 tào thực hiện các chức năng cụ thể khác nhau
Cơ mật  Bàn bạc với vua những công việc cơ mật của quốc gia (quân sự
viện và an ninh quốc phòng)
 Gồm 2 ban: Nam chương kinh, Bắc chương kinh, quản lý 2 vị
trí địa lý khác nhau phân cách bởi Đèo Ngang
Lục bộ  Là cơ quan hành pháp chủ yếu
 Gồm 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Hình, Công, Binh do Thượng thư đứng
đầu, có các Tham tri, Thị lang giúp việc.
 Dưới Bộ có 6 Khoa do cấp sự trung đứng đầu và 6 Tự do tự
khanh đứng đầu chuyên trách từng việc, chịu trách nhiệm trước vua.
Khoa có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm soát công việc của các Bộ và
các cơ quan nhà nước khác ở trung ương. 
Các cơ Gọi là các Viện, Gíam, Ty, Phủ
quan  Hàn lâm viện: coi việc biên soạn, thảo văn từ, sắc, mệnh của
chuyên vua, thảo luận kinh điển
môn  Quốc Tử giám: coi việc giảng dạy kinh sách, đào tạo nhân tài…
 Khâm Thiên Giám: trông coi việc quan sát tinh tú, khí tượng,
làm lịch
 Thái Y Viện: nghiên cứu việc điều trị bệnh tật, thuốc thang
 Từ tế ty coi việc giữ gìn các dụng cụ, vật phẩm tế tự.
Cơ quan Cơ quan giám sát (đô sát viện)
giám sát  Là cơ quan ngang bộ
 Giám sát bộ máy nhà nước, giám sát hành chính, tư pháp, kiểm
xét phẩm cách của quan lại trong điều hành chính sự
Chính quyền địa phương
Thời buổi đầu vua Gia Long chia nước làm 3 khu vực:

Hoàng đế

Bắc thành Trung ương Gia Định thành


(11 trấn) (2 doanh, 4 trấn) (5 trấn)
Sang thời vua Minh Mạng, tổ chức thành bãi bỏ ở miền B và N, cả
nước chia làm 29 tỉnh trực thuộc triều đình, do Tổng đốc đứng đầu.

Phủ (Chi phủ đứng đầu)

Huyện (Chi huyện đứng đầu)

Tổng (do nhiều xã gần nhau hợp


thành)


Tổ chức 5 quân – doanh - vệ (ở kinh đô), cơ (ở tỉnh) - đội, thập, ngũ
quân đội
Cơ cấu Gồm 2 lực lượng
quân đội  Quân trung ương tập trung tại kinh thành (thân binh, cấm binh,
tinh binh)
 Quân địa phương
Hệ thống  Gồm 5 quân: Trung quân phủ, tiền quân phủ, hậu quân phủ, tả
quân đội quân phủ, hữu quân phủ
 Gồm 5 binh chủng: bộ binh, kỵ binh, tượng binh, pháp binh,
thủy binh

Câu 11. Những đặc điểm cơ bản của Bộ Hoàng Việt Luật Lệ (Luật Gia Long): tính
chất, phạm vi điều chỉnh, kỹ thuật pháp lý, đặc điểm về các chế định dân sự, hôn
nhân và gia đình, tội phạm, hình phạt.
BLGL gồm 398 điều, chia làm 22 quyển, các điều khoản lại được chia làm 6 loại
tương đương với việc phân chia công việc do 6 Bộ phụ trách.
Nguồn pháp luật:
+ Bộ Luật nhà Thanh
+ Bộ luật Hồng Đức nhà Lê
+ Phong tục, tập quán của người Việt
Tính chất:
HVLL được coi là bộ luật mẫu được áp dụng trong thời vua Gia Long và các đời
vua sau đó.
- Mang tính giai cấp cao: Bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền lợi của giai cấp
thống trị
- Các biện pháp trừng phạt hà khắc những người chống đối
-> Thể hiện tính chuyên chế cực đoan
Phạm vi điều chỉnh, kỹ thuật pháp lý
 Phạm vi điều chỉnh rộng, trong đó có các quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau như hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình và tố tụng.
 Về cơ bản HVLL mô phỏng gần như hoàn toàn pháp luật nhà Thanh, do đó kĩ
thuật pháp lý khá cao. Tuy nhiên các điều khoản thường khá chi tiết, dài dòng, thiếu
tính khái quát, tổng hợp.
 1. Đặc điểm về các chế định dân sự
Số lượng các điều khoản về lĩnh vực này rất ít so với BLHĐ.
- Về sở hữu: hầu hết các quy định đều tập trung bảo vệ chế độ sở hữu của nhà
nước phong kiến và của thần dân. Bao gồm 2 hình thức sở hữu chính là Sở hữu
công (thuộc nhà nước, lãng xã) và Sở hữu tư.
- Về khế ước (hợp đồng): Chủ thể chính: gia trưởng; Chủ thể bị hạn chế quyền: vợ,
con, cháu. Quy định về điều kiện có khế ước: Thỏa thuận giữa các bên; Thống
nhất ý chí của những người tham gia.
- Thừa kế: thừa nhận 2 hình thức thừa kế theo di chúc và theo luật, tuy nhiên
quyền thừa kế chỉ có các con trai, cháu và họ hàng thân tộc.
2. Hôn nhân và gia đình
- Hôn nhân
+ Điều kiện kết lập hôn nhân
+ Hình thức diễn ra kết lập hôn nhân: Lễ đính hôn; Lễ cưới
+ Các trường hợp cấm kết hôn
- Gia đình
+ Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
+ Mối quan hệ giữa cha mẹ và các con
+ Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ
+ Quyền và nghĩa vụ của các con
3. Tội phạm
 Quan niệm về tội phạm
 Vấn đề lỗi (vô ý, cố ý, chủ mưu, tòng phạm, các giai đoạn phạm tội có sự khác
biệt)
 Các giai đoạn thực hiện tội phạm
4. Hình phạt
 Ngũ hình: Xuy hình; Trượng hình; Đồ hình; Lưu hình; Tử hình
 Ngoài ngũ hình: Phạt tiền; Xăm chữ; Mang gông, xiềng; Tịch thu tài sản; Sung
vợ con làm nô tì; Giáng phẩm cấp, bãi chức, thuyên chuyển công tác (đối với tội phạm
là quan chức).
Nhận xét: các chế định dân sự, hôn nhân và gia đình, tội phạm đã có những điểm
mới, gần giống với Pháp luật Hiện đại về đối tượng điều chỉnh, nhìn vấn đề luật pháp
dưới các mặt, các khía cạnh khác nhau

Câu 12. Những đặc điểm cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ Pháp thuộc.
Về bản chất Nhà nước, CQTD Pháp và CQ NN nói chung đều mang bản chất thực
dân, phong kiến sâu đậm. Thực hiện triệt để chính sách chia để trị, chia theo hệ thống
cơ quan quản lý cũng như chia theo lãnh thổ. Thực hiện triệt để NT tập trung quyền
lực vào tay TQĐD. 
Chính quyền Nhà Nguyễn thời kỳ này chi là công cụ để TD Pháp thực hiện mục
đích cai trị . Nhà vua đặt dưới quyền của khâm sứ. Vua và hệ thống quan lại đều do
thực dân Pháp trả lương. Triều đình nhà Nguyễn mất hoàn toàn quyền thu thuế và
quản lý về mặt dân sự.
 Đứng đầu chính quyền Đông Dương thời kì này là toàn quyền Đông Dương do
tổng thống P trực tiếp bổ nhiệm và chiu sự giám sát của Bộ trưởng Bộ thuộc địa
 Toàn quyền Đông Dương có quyền ban hành nghị dịnh mang tính lập pháp, có
quyền cai trị tối cao ở Đông Dương
 Bên cạnh thiết chế toàn quyền ĐD ,có các hội đồng như HĐ tối cao Đông
Dương ,hội đồng phòng thủ Đông Dương,hội đồng khai thác thuộc địa tối cao Đông
dương,hđ tư vấn học chính và các cơ quan khác🡪 chức năng tư vấn cho toàn quyền
Đông Dương
 Bên cạnh hệ  thống cơ quan của người Pháp, Pháp tiếp tục chia VN thành 3 kỳ :
Bắc Kỳ - Nam Kỳ - Trung Kỳ. Đứng đầu Bắc kỳ là Thống sứ, Nam kỳ là thống đốc,
Trung Kỳ là khâm sứ. Pháp tuyên bố thay mặt An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại
 Trong 40 năm (1904-1944) Pháp đã có 4 lần cải lương hương chính – tổ chức
lại bộ máy hành chính cấp xã. Thực dân P  chọn và bổ nhiệm lý trưởng ,duyệt hương
ước, duyệt chế độ thu chi của xã. Tuy nhiên 7 lần CLHC của P thất bại do sự “cấu kết”
dòng họ,đặc trưng VH tồn tại từ rất lâu đời.

Câu 13. Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp đến pháp luật Việt nam thời
kỳ Pháp thuộc.

Câu 14. Hiến pháp năm 1946: tính chất, phạm vi điều chỉnh, giá trị kế thừa

Câu 15. Tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 1946

Câu 16. Quyền, nghĩa vụ cá nhân trong Hiến pháp năm 1946, giá trị kế thừa.

Câu 17. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959.
1. Hoàn cảnh ra đời bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp
1959.
Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 ra đời sau khi giành chính quyền nhà nước
trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngày 08/9/1945, Sắc lệnh số 14 quy định
về thể lệ tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội được ban hành. Tháng 3/1946, Quốc hội
họp kì đầu tiên và bầu ra ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước,
Thủ tướng chính phủ và các thành viên của chính phủ. Tháng 11/1946, tại kỳ họp thứ
hai, Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta đồng
nghĩa với việc thông qua bộ máy nhà nước mà Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý. Tuy
nhiên, do chưa có kinh nghiệm cũng như điều kiện của nước ta sau cách mạng tháng
Tám 1945 nên bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn. Đến năm 1959, bộ máy nhà nước mới ra đời trên cơ sở Hiến pháp 1959. Sau
thắng lợi Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được ký kết trên cơ sở công
nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta, bước sang giai
đoạn mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; đấu tranh thống nhất đất nước. ra đời bộ máy
nhà nước mới theo Hiến pháp 1959. Như vậy, cả hai bộ máy nhà nước theo Hiến pháp
1946 và 1959 đều ra đời sau những chiến thắng lớn. Đây đều là những bộ máy nhà
nước hoạt động trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc, vận hành với mục
tiêu đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành những chiến thắng quyết định đem
lại hòa bình, độc lập cho dân tộc.
2. Các cấp hành chính của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến
pháp 1959:
Theo Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước được phân thành 5 cấp quản lý hành 
chính: cấp trung ương, cấp bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ), cấp tỉnh và thành phố
trực thuộc trung ương, cấp huyện, cấp xã và cấp tương đương. 
Đến Hiến pháp 1959, bộ máy nhà nước được củng cố và sửa đổi. Các cấp hành
chính chỉ còn lại 4 cấp: Trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và khu
tự trị; cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, thị trấn và tương đương; cấp bộ bị
bãi bỏ.
3. Hệ thống các cơ quan thành lập của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946
và Hiến pháp 1959:
Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 có 3 hệ thống: Hệ thống các cơ quan 
đại diện, hệ thống các cơ quan chấp hành và hệ thống các cơ quan tư pháp. 
Hiến pháp năm 1959, bộ máy nhà nước ta gồm có 4 hệ thống, vẫn bao gồm: Hệ
thống các cơ quan đại diện, hệ thống các cơ quan chấp hành, hệ thống các cơ quan xét
xử và có thêm hệ thống cơ quan kiểm sát.  
3.1. Hệ thống các cơ quan đại diện: 
3.1.1. Của BMNN theo Hiến pháp 1946 bao gồm: Nghị viện nhân dân (tức Quốc
hội khóa I) và Hội đồng nhân dân ở hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã). Nghị viện nhân dân
do nhân dân cả nước bầu ra còn hội đồng nhân dân của địa phương nào là do nhân dân
địa phương ấy bầu ra theo bốn nguyên tắc: phổ thông tự do, trực tiếp và kín. Nghị viện
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất còn hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương.
3.1.2. Hệ thống cơ quan đại diện của BMNN theo Hiến pháp 1959 được thành lập
ở cả 4 cấp. Nghị viện nhân dân được đổi tên thành Quốc hội. Ban thường vụ Quốc hội
được đổi tên thành Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong tổ chức của quốc hội được
thành lập một số cơ quan chuyên môn như Ủy ban kinh tế kế hoạch và ngân sách, Ủy
ban dự án pháp luật... Hội đồng nhân dân được thành lập ở các địa phương (tỉnh,
huyện, xã và tương đương). Lần đầu tiên trong Hiến pháp đã xác định “Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương” (Điều 80) và “Ủy ban hành chính
các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương” (Điều 87). 
3.2. Hệ thống các cơ quan chấp hành: 
3.2.1. theo Hiến pháp 1946 bao gồm: Chính phủ (trong đó có Chủ tịch nước là
người đứng đầu Chính phủ, Phó chủ tịch nước và nội các), ủy ban hành chính các cấp.
Chính phủ do nghị viện bầu ra chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính phủ là cơ quan
hành chính cao nhất. Ủy ban hành chính địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra, Ủy ban hành chính bộ do hội đồng nhân dân các tỉnh trong bộ bầu ra. Còn với
ủy ban hành chính huyện do hội đồng nhân dân các xã trong huyện đó bầu ra. Ủy ban
hành chính phải chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân cùng cấp và ủy ban hành
chính cấp trên. Ủy ban hành chính huyện chịu trách nhiệm trước ủy ban hành chính
tỉnh. 
3.2.2. theo Hiến pháp 1959:
Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ mà chỉ đứng đầu NN, là
nguyên thủ QG thay mặt NN về vd đối nội và đối ngoại.
Hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước bao gồm Hội đồng chính phủ, các bộ,
các Ủy ban Nhà nước và tương đương,Ủy ban hành chính các cấp (cấp Tỉnh, cấp
huyện, cấp xã). Hội đồng Chính phủ do Quốc hội bầu ra bao gồm thủ tướng chính phủ
(đứng đầu Chính phủ ) các phó chức thủ tướng, các bộ trưởng và các chức vụ tương
đương. Ủy ban hành chính các cấp Hội đồng.
Hệ thống các cơ quan xét xử bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự các cấp. Thẩm phán tòa án do
nhân dân bầu ra, các tòa án nhân dân đều đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quyền
lực Nhà nước cùng cấp.
Hệ thống cơ quan kiểm sát là một hệ thống mới trong bộ máy nhà nước bao gồm
Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện , Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân
tối cao do Quốc hội bầu ra. Phó viện trưởng và các kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội cử. Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân các cấp do viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm.
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và và thực
hành quyền công tố.
Câu 18. Những thành tựu và hạn chế của pháp luật Việt Nam thời kỳ 1946 – 1960.
 Giai đoạn 1946-1954: 
 Thành tựu: 
1. 9.11.1946: bản Hiến Pháp dân chủ đầu tiên
2. - 12/1946 – 7/1954: Pháp luật trong thời kì kháng chiến
2. Nhà nước  đã ban hành các văn bản pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy
nhiên, tập trung và 1 số vấn đề có ý nghĩa cấp thiết đối với công cuộc kháng chiến. 
3. Về kinh tế, chiếm số lượng lớn là những văn bản về sản xuất nông nghiệp và
thuế nông nghiệp. 
4. Vấn đề giáo dục, trong điều kiện kháng chiến vẫn tiếp tục được nhà nước quan
tâm – 60 văn bản, đặc biệt là gd phổ thông và đẩy mạnh phong trào bổ túc văn hóa ở
những vùng tự do.
 Hạn chế: Do tình hình lịch sử cụ thể, thời kì này vẫn chưa có hoặc rất ít văn bản
đề cập đến vd: công nghiệp.
 Giai đoạn 1954-1960: Thời kì kháng chiến chống Mỹ
 Thành tựu
1. nhiều lĩnh vực trước đấy chưa có VB PL quy định hoặc rất ít, sang giai đoạn
này do yêu cầu của tình hình mới lại được điều chỉnh bằng 1 khối lượng lớn các văn
bản PL của nhà nước. 
2. Nhiều lĩnh vực sang kỳ này vẫn được chú trọng
3. 1 số vấn đề đc tiến hành trong cuộc kchiến trong giai đoạn này mới hoàn thành.
Vì vậy có những VBPL mang tính chất đặc biệt. 
4. Nhà nước ban hành 1 số luật – hình thức văn bản có giá trị cao hơn so với sắc
lệnh và nghị định. VD Luật quy định về chế độ báo chí
5. ban hành HP 59 
 Hạn chế: Do điều kiện chiến tranh và những khó khăn về đào tạo cán bộ,
thời gian để soạn thảo các văn bản rất hạn chế nên các văn bản trong giai đoạn này
chưa phong phú và nhiều lĩnh vực còn tản mạn chưa đầy đủ.

Câu 19. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980.
Hiến pháp 80 quy định cơ cấu tổ chức của nhà nước và khẳng định: tất cả các cơ
quan quyền lực nhà nước do nhân dân bầu ra, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đồng cấp và cơ quan hành chính cấp trên.
-Quốc hội: là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước CHXHCNVN.
-Hội đồng nhà nước: là cơ quan hoạt động thường xuyên của quốc hội là chủ tịch
tập thể của nước CHXHCNVN. Thời kỳ này ko còn chức danh chủ tịch nước và ủy
ban thường vụ quốc hội nữa. chức năng nguyên thủ quốc gia do hội đồng nhà nước
đảm nhiệm là chế độ nguyên thủ tập thể.
-Hội đồng bộ trưởng: là chính phủ của nhà nước CHXHCNVN là cơ quan chấp
hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao  nhất.
-Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân:
  +Hội đông nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương , nhân dân sử
dụng quyền làm chủ tập thể thông qua quốc hội và hội đồng nhân dân ở địa phương
mình. Hội đồng nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động ở địa phương mình.
HĐND chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương đồng thời chịu trách nhiệm
trước chính quyền nàh nước cấp trên.
   +Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, do hội đồng nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước hội đồng nhân dân, chịu sự lãnh đạo của chính quyền cấp trên và sự
lãnh đạo thống nhất của hội đồng bộ trưởng.
-Tòa án nhân dân: gồm tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân tỉnh, tòa án nhân
dân huyện, các tòa án quân sự. TAND tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước quốc hội hoặc trước hội đồng nhà nước. tòa án nhân dân địa phương chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp.
-Viện kiểm sát nhân dân gồm viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân
dân tỉnh, viện kiểm sát nhân dan huyện. VKS nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước quốc hội hoặc trước hội đồng nhà nước giữa 2 kỳ của quốc hội.

Câu 20. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992.
- QH: cao nhất, LP, gồm UBTVQH, HĐ Dân tộc, UBQH, ĐBQH
- CTN: đối nội đối ngoại, rộng đời sống chính trị, xã hội
- CP: quyền HP, gồm Bộ/ các cơ quan ngang bộ, UBND các cấp
- TAND: xét xử
- VKSND: quyền công tố, kiểm sát
So sánh: 
- 1946: chưa đổi tên NVND = QH và không có VKSND, CTN trong CP, chưa có
cấp huyện cho các bộ máy. 
- 1959: cơ bản giống với 1992
- 1980: bỏ CTN, CP thay bằng Hội Đồng Bộ trưởng

Câu 21. Những điểm mới cơ bản về pháp luật từ thời kỳ đổi mới đến nay.
http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210462/He-thong-phap-luat-Viet-Nam-
trong-tien-trinh-doi-moi-va-phat-trien-dat-nuoc.html 

Câu 22. Bình luận về những điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013. 
1. Về chế độ chính trị
Chương I của Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể
của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp
1992, bên cạnh đó, đã làm rõ hơn một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp bổ sung thêm một điểm quan trọng là “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ” (Khoản 2, Điều 2) cùng với việc tiếp tục
thể hiện nhất quán, xuyên suốt quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức”.
Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được
ghi nhận trong Hiến pháp bằng quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Nguyên tắc này được thể hiện
xuyên suốt trong các chương quy định về tổ chức bộ máy nhà nước tại Hiến pháp
2013. Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền, việc
ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân Nhân dân, vì Nhân
dân.
Thứ ba, quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp”
(Điều 6) được ghi nhận thành nguyên tắc trong Hiến pháp, đây là điểm mới quan trọng
của Hiến pháp 2013 so với các bản Hiến pháp trước đây. Theo đó, nhân dân được thực
hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước mà không chỉ thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như theo Hiến pháp năm 1992.
Thứ tư, Hiến pháp 2013 làm sâu sắc hơn tính tiên phong, bản chất giai cấp công
nhân và nhân dân của Đảng, đồng thời bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm
chính trị - pháp lý của Đảng đối với Nhân dân, theo đó, Đảng phải “gắn bó mật thiết
với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân về những quyết định của mình” (Khoản 2, Điều 4).
2. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
sửa đổi, bổ sung, bố cục lại từ Chương V của Hiến pháp 1992 và được đặt tại Chương
II, ngay sau Chương I về Chế độ chính trị, khẳng định vai trò quan trọng của chế định
này, thể hiện sự chuyển biến tích cực về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận
quyền con người trong Hiến pháp. Hiến pháp 2013 đã thể hiện nhất quán đường lối
của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp các điều ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam là thành viên với những điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, việc Hiến pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” là
một bước tiến bộ vì Hiến pháp năm 1992 chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân. Các chương về
Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đều có quy định Chính phủ, Tòa
án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Đồng thời, Hiến pháp 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền con người,
quyền công dân phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
là thành viên. Theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14).
Thứ hai, Hiến pháp 2013 ghi nhận một số quyền con người chưa được đề cập
trong Hiến pháp năm 1992 như quyền sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận cơ thể
người và hiến xác (Khoản 3, Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân và bí mật gia đình (Khoản 1, Điều 21); quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa (Điều 41); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43);…
Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 cũng bổ sung quy định về một số quyền công dân như:
quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền xác định dân tộc (Điều 42);…
Những bổ sung này thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm
thực hiện quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp 2013 cũng quy định trách
nhiệm của Nhà nước là phải ban hành luật hoặc pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi
cho mọi người và công dân thực hiện tốt các quyền của mình.
3. Về chế độ kinh tế
Hiến pháp 2013 đã làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế, vai trò quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc quản lý và sử dụng đất
đai, đồng thời thể chế hóa quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa
với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về tính chất và mô hình của nền kinh tế, Hiến pháp 2013 quy định
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” (Điều 50). Ngoài việc tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp
1992, quy định tại Điều 50 Hiến pháp 2013 đã thể hiện được bản chất cũng như động
lực và mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo
đảm sự gắn kết hài hòa và chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội.
Thứ hai, về các thành phần kinh tế, kế thừa tinh thần của Hiến pháp 1992, Hiến
pháp 2013 quy định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo”. Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 không nêu cụ thể các thành phần kinh
tế như Hiến pháp năm 1992; tên gọi, đặc điểm và vai trò của từng thành phần kinh tế
sẽ được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Hiến pháp 2013
chỉ quy định những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc đó là “Các thành phần kinh tế
đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Thứ ba, về quản lý và sử dụng đất đai, là tài nguyên đặc biệt của quốc gia và
nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng
và Nhà nước đã được xác định từ bản Hiến pháp 1980. Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy
định “quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (Khoản 2, Điều 54), thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền sử dụng đất của công dân, là cơ sở hiến
định để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong
thực hiện pháp luật về đất đai. Hiến pháp 2013 cũng quy định Nhà nước thu hồi đất do
tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng,
an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Để tránh việc thu hồi
đất tùy tiện, Hiến pháp 2013 quy định chỉ thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển
kinh tế - xã hội gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng; bên cạnh
đó, việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của
pháp luật. Hiến pháp 2013 cũng bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất
phù hợp với Điều 32, đồng thời là cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng
dụng đất trong Luật Đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan.
Thứ tư, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một điều khoản quy định về tài chính công:
“Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính
công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng,
công khai, minh bạch, đúng pháp luật…” (Khoản 1, Điều 55). Hiến pháp 2013 cũng bổ
sung quy định “Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” nhằm tạo cơ sở
hiến định cho luật chuyên ngành quy định cụ thể các công cụ, giải pháp để Nhà nước
điều hành chính sách tiền tệ.
4. Về Quốc hội
Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 83 Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 tiếp tục
khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp 2013 đã sửa đổi quy định về nhiệm vụ
và quyền hạn của Quốc hội, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội quyết định “mục tiêu, chỉ tiêu, chính
sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (Khoản 3, Điều 70).
Quy định như vậy rõ ràng, khả thi, phù hợp hơn với điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN của đất nước và xác định rõ hơn quyền quyết định của
Quốc hội với quyền quản lý, điều hành của Chính phủ.
Thứ hai, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội “quyết định chính sách cơ bản về tài
chính, tiền tệ quốc gia”, đồng thời bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc “quyết
định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ” (Khoản 4, Điều 70).
Thứ ba, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7, Điều 70).
Thứ tư, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và
hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước
và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, 6, 7, 9, Điều 70).
Thứ năm, bổ sung quy định về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ
do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Khoản 8, Điều 70).
Thứ sáu, sửa đổi quy định về thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế,
theo đó, Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu
lực của các điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia,
tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và
khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội
(Khoản 14, Điều 70).
Thứ bảy, quy định trong Hiến pháp thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập
Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất
định (Điều 78) được quy định tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật Tổ
chức Quốc hội.
Ngoài ra, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một số thẩm quyền của Ủy ban thường vụ
Quốc hội với vị trí là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội như
thẩm quyền trong việc quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Khoản 8, Điều 74); thẩm quyền đề nghị Quốc
hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy bản của Quốc hội,
Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (Khoản 6, Điều 74);
thầm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Khoản 12, Điều 74).
5. Về Chính phủ
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, khẳng định vị trí của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước, bảo đảm tính
độc lập tương đối của Chính phủ, tạo cơ sở phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo
của Chính phủ trong hoạch định, điều hành chính sách quốc gia và tổ chức thực thi
pháp luật. Có thể nêu một số điểm mới cơ bản trong các quy định về Chính phủ như
sau:
Một là, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung và sắp xếp lại nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ trên cơ sở kế thừa các
quy định tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 đã bổ sung thẩm quyền của Chính phủ
trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Điều 96 (Khoản 2, Điều 96). Ngoài ra, Hiến pháp 2013 cũng phân định rõ
thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân
danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê
duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước
quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại Khoản 14 Điều 70 (Khoản 7, Điều 96).
Thứ hai, Hiến pháp 2013 đã điều chỉnh và cơ cấu lại quy định về nhiệm vụ và
quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ để làm rõ hơn thẩm quyền định hướng, điều hành
hoạt động của Chính phủ; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo việc đàm phán,
chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ,
tổ chức thực hiện điều ước quốc tế và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên (Khoản 5, Điều 98).
Thứ ba, để làm rõ trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hiến
pháp 2013 quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “chịu trách nhiệm cá
nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành và lĩnh vực được
phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể
về hoạt động của Chính phủ” (Khoản 4, Điều 95). Ngoài ra, nhằm tăng cường trách
nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hiến pháp bổ sung quy định Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm
quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ” (Khoản 2, Điều 99). 6. Về
Tòa án nhân dân
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp
(Khoản 1, Điều 102), đồng thời sửa đổi quy định về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân,
theo đó, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Khoản 3, Điều 102). Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013
không xác định cụ thể các cấp Tòa án như Hiến pháp 1992 mà để Luật quy định.
Về nguyên tắc hoạt động của Tòa án, theo yêu cầu cải cách tư pháp, Hiến pháp
2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Khoản 5, 6, Điều 103).
7. Về chính quyền địa phương
Nhằm đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp 2013 đã quy định một cách khái quát và
nguyên tắc về mô hình chính quyền địa phương làm cơ sở Hiến định để Luật Tổ chức
chính quyền địa phương sau này cụ thể hóa. Hiến pháp 2013 quy định những vấn đề có
tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương và giữa các
cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương, đồng
thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, cụ thể
như sau:
Một là, về đơn vị hành chính, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định về đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt và đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã
thuộc thành phố trực thuộc trung ương, theo đó, “nước chia thành tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã;
quận chia thành phường. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”
(Khoản 1, Điều 110). Ngoài ra, Hiến pháp bổ sung quy định “Việc thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo
trình tự, thủ tục do luật định” (Khoản 2, Điều 110). 
Hai là, về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy định khái quát
theo hướng việc tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị
hành chính sẽ được quy định tại văn bản Luật; việc tổ chức chính quyền địa phương
cần phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc
biệt (Khoản 2, Điều 111).
Ba là, về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy
định “chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật
tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra,
giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên”, và “nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước
ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 1, 2,
Điều 112).
8. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước
Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên được thể chế hóa
trong Hiến pháp với tư cách là các thiết chế hiến định và được quy định trong một
chương riêng của Hiến pháp, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước, hoàn thiện bộ máy nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu
cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử dại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp (Khoản 1, Điều 117). Kiểm toán Nhà nước hoạt động độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công
(Khoản 1, Điều 118). Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 chỉ quy định khái quát về vị trí, chức
năng còn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của các cơ quan này sẽ do luật
định.
9. Về việc sửa đổi Hiến pháp
Hiến pháp 2013 đã cụ thể hóa quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp,
thủ tục soạn thảo Hiến pháp và quy trình thông qua Hiến pháp. Theo Điều 120, Chủ
tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số
đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết
định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, Ủy ban
dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo
Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.
Với những điểm mới được xác định, Bản Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội
thông qua là một bước tiến quan trọng trong lịch sử lập hiến của đất nước. Không chỉ
hướng tới mục tiêu đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập của đất nước, việc sửa đổi bổ
sung bản Hiến pháp năm 1992 - được xây dựng trong thời kỳ đầu đổi mới đất nước,
còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân cả nước, khắc phục được những hạn chế,
bất cập của Hiến pháp 1992.
Hiến pháp 2013 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014. Để có căn cứ pháp lý triển
khai thi hành Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày
28/11/2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 718/NQ-
UBTVQH13 ngày 02/1/2014 ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó xác định trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp nhằm bảo đảm các quy
định của Hiến pháp thực sự đi vào đời sống, được tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp
hành, tạo động lực thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

You might also like