Professional Documents
Culture Documents
(123doc) - Lich-Su-My-Thuat-Viet-Nam
(123doc) - Lich-Su-My-Thuat-Viet-Nam
Ngày nay nói đến mỹ thuật mọi người thường chỉ nghĩ đến hội họa và điêu khắc. Song với
mỹ thuật cổ Việt Nam thì hội họa là tranh nói chung mà cơ bản là mảng đồ hoạ, còn điêu khắc
thì gồm cả tượng tròn và chạm khắc trang trí các loại, ngoài ra còn phải kể đến một số công
trình kiến trúc mang tính điêu khắc hoành tráng và trong cấu trúc phủ đầy những hình chạm
trang trí. Chỉ từ giai đoạn cận - hiện đại, trong quá trình tiếp xúc văn hoá với phương Tây và sự
phát triển chuyên sâu của khoa học, kiến trúc mới tách ra để mỹ thuật tập trung vào tranh và
tượng.
Với quan niệm mở rộng, lịch sử mỹ thuật Việt Nam được khởi nguyên từ thời tiền sử và sơ
sử, luôn bám sát tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với vị trí địa lý tựa lưng
vào lục địa, nhìn ra biển Đông, là cái cầu nối giữa Đông Nam Á đại lục và hải đảo, kẹp, giữa
hai nền văn hoá - văn minh lớn . Ấn Độ và Trung Hoa, nằm trên đường hàng hải quốc tế Việt
Nam có được sự giao lưu rộng rãi để tiếp nhận tinh hoa thế giới mà hoàn thiện mình và toả
sáng.
Ngoài ra nạn ngoại xâm luôn thường trực, dân tộc ta giữa những thời gian dựng nước ngắn
ngủi, luôn phải tiến hành chiến tranh giải phóng và kháng chiến trường kỳ, vinh quang nhiều
nhưng phải hy sinh lớn về cả xương máu và của cải. Trong tình hình ấy, dân tộc ta phải bám lấy
thực tại và vượt lên để rồi biểu hiện lại cuộc sống của mình bằng nghệ thuật - mà rõ nhất là ở
mỹ thuật với sự cao đẹp của tâm hồn hướng thiện.
Trên cả lộ trình của lịch sử mỹ thuật Việt Nam, dựa vào tính chất và phong cách của các
loại hình nghệ thuật, chúng ta có thể chia trục dọc tiến trình phát triển theo năm giai đoạn kế
tiếp nhau :
- Mỹ thuật thời tiền sử và sơ sử
- Mỹ thuật thời Quân chủ Phật giáo
- Mỹ thuật thời Quân chủ Nho giáo
- Mỹ thuật thời cận đại và sự tiếp xúc với nghệ thuật phương Tây
- Mỹ thuật thời hiện đại
Trong mỗi giai đoạn, bên cái chung còn có nhiều cái riêng do điều kiện cụ thể của xã hội
quy định, do đó lại cần được tách ra thành những mảng có tính độc lập tương đôi - ở đây là các
chương. Cùng là các Nhà nước quân chủ tự chủ, nhưng mỗi vương triều lại có một cách quản lý
đất nước khác và do đó cũng tạo nên diện mạo mỹ thuật khác cần được xem xét trong một
chương riêng. Ở đây nước có chủ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", chúng tôi lấy tên triều đại
làm phù hiệu để gắn vào các chương. Ngoài ra, có vấn đề gắn với nhiều thời kỳ lịch sử - như
tranh dân gian, chúng tôi xếp thành một chương riêng, mang tính cách chuyên đề.
Với tính chất giáo trình lịch sử chuyên ngành, lịch sử mỹ thuật Việt Nam được đề cập như
một tiến trình chính thống quốc gia, vì thế chúng tôi không đi vào mỹ thuật của các dân tộc ít
người, song mỹ thuật Chăm lại là một vấn đề lịch sử hiện tồn của Việt Nam và của thế giới.
1
Chương I
MỸ THUẬT THỜI TIỀN SỬ
Thời tiền sử về mặt hình thái xã hội được gọi là thời nguyên thủy, khảo cổ học gọi là thời
đồ đá, chúng tôi dùng thuật ngữ "Thời Tiền sử" để nhấn mạnh bình diện văn hóa.
3. Thời đồ đá mới với văn hóa Bắc Sơn miền núi đến văn hóa Quỳnh Văn miền biển
Khoảng 5.000 đến 6.000 năm trước, văn hóa Hòa Bình phát triển lên giai đoạn mới, phân
thành những văn hóa đồ đá mới nhỏ hẹp, mà tiêu biểu là văn hóa Bắc Sơn ở miền núi và văn
hóa Quỳnh Văn ở miền biển, rồi văn hóa Hạ Long ở ven biển Quảng Ninh và Hải Phòng, văn
hóa Bàu Tró ở ven biển và đồng bằng bắc Trung Bộ, lại còn nhiều hang động ở miền núi. Nét
chung là tiến sang thời đồ đá mới với các kỹ nghệ mài công cụ đá ngày càng hoàn thiện và chế
tác đồ gốm, tiến tới nền nông - nghiệp lúa nước.
Từ việc chế các công cụ đá nhỏ rồi mài rộng ra toàn thân, con người lại qua trồng trọt đã
nhận ra nhịp điệu cuộc sống và cái đẹp cái ích của tỷ lệ và sự cân đối, công cụ được chuyên
môn hóa, để thích ứng với từng chức năng. Đồ gốm lúc đầu xuất hiện tình cờ do đồ đan trát đất
2
vào trong bị cháy để lại hoa văn dấu nan đan. Sau đó đồ gốm nặn tay cũng cần tạo hoa văn cho
đẹp và tiện bưng bê, bằng khắc rạch hay chấm đầu que, rồi dùng bàn rập, con lăn hay in dây
thừng. Hoa văn lúc đầu đơn giản, chỉ là các vạch răng lược sóng nước, chéo ô trám... tiến đến
đoạn thằng dọc, đường sóng song song, đường cong nửa vòng tròn, sóng chéo số 8, xoáy ốc,
chữ S, gân lá ...
Người đương thời còn dùng thổ hoàng tức phiến thạch có sắt bị đốt cho màu dỏ, tán thành
bột rồi tô lên công cụ đá, đỗ gốm, đỗ trang sức và cả xương người để tạo ra cả vẻ đẹp và sự
thiêng liêng. Ở Đa Bút (Thanh Hóa) có vỏ ốc nhuộm đỏ có cả rìu chôn theo người chết cũng
được nhuộm đỏ. Ở Minh Cầm và Bàu Tró (Quảng Bình) có bình gốm tô dải đỏ rộng l cm đến
2,5cm hay những đường song song. Một số nơi ngay cả xương người cũng nhuộm đỏ, có thể
mang ý nghĩa tái sinh.
Đặc biệt tìm được một số hiện vật mang rõ tính trang trí và dấu ấn tạo hình : Nghinh Tắc
(Thái Nguyên) có miếng đất sét cứng vàng mịn dài 10 cm rộng 4cm dày 0,7cm, ở vòng quanh
rìa có nhiều nét vạch vuông góc hoặc xiên với cạnh, tạo thành 15 nhóm (mỗi nhóm thường 15
vạch), bên trong khắc những vạch nhỏ chữ V chồng nhau theo 8 hàng dọc song song. Điều đáng
chú ý là hai mặt có số nhóm đều nhau và đối xứng. Nội dung chưa rõ là sự đánh dấu hay mô tả
hình gì (vườn rau chẳng hạn?) nhưng đã có ý thức về sự trang trí và cân đối. Ở Na Ca (Thái
Nguyên) có viên cuội dài 6,4cm rộng 3,1 cm dày 2,5cm được đẽo thành phác tượng đầu người
trán nhẵn, cằm rộng, mũi dài, mắt nheo, miệng cười chữ V đều biểu hiện tình cảm vui tươi. Ở
động Ky (Thái Nguyên) có viên cuội dài 10cm khắc cả hai mặt : một mặt là hình mặt người rõ
các chi tiết mắt, mũi, miệng hiện thực và tinh tế, mặt bên kia khắc các nhóm hình kỷ hà gồm 4 ô
vuông nhỏ ở hàng trên, 2 ô vuông vừa ở hàng giữa, tiếp đến hình 6 cạnh (thiếu 1 cạnh) liền với
hình vuông to ở phía dưới như một cái nhà.
Nghệ thuật tiền sử ở Việt Nam là nghệ thuật nguyên thủy thuộc thời đại đồ đá, tiến triển
trên chặng đường dài cả nửa đầu vạn niên kỷ thứ nhất trước CN, là hiệu quả sự tiến bộ của con
người với cặp mắt tinh tế, óc sáng tạo, bàn tay khéo léo để từ quan sát rút ra đặc trưng và bản
chất của đối tượng, rồi diễn đạt lại bằng thẩm mỹ đơn sơ. Phẩm chất của nghệ thuật ấy là tinh
khiết và chân thật, được thôi thúc từ bên trong của những người chưa có ý thức làm nghệ thuật.
3
Chương II
MỸ THUẬT THỜI SƠ SỬ
4
thời kỳ Hùng Vương dựng nước, đi từ tình trạng sơ khai đến hoàn bị của các nhà nước Văn
Lang và Âu Lạc.
5
cuối thời Đông Sơn do trong lòng xã hội có sự khủng hoảng mà các hình ngày càng trừu tượng
và rối.
7
Chương III
MỸ THUẬT CHĂM
Chăm (Chăm Pa, Chàm, Chiêm Thành...) ngày nay là một dân tộc thiểu số có chừng
100.000 người, chung sống trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhưng trước khi hội nhập
chính thức vào quốc gia Việt Nam ở thế kỷ XV, đã xây dựng một Nhà nước độc lập với một
nền văn hóa nghệ thuật riêng rất độc đáo. Từ đầu thế kỷ XX, thế giới đã biết đến nền nghệ thuật
này và xem là một kỳ tích của lịch sử.
Nhưng rồi Pháp và đế quốc Mỹ đã phá hủy kiến trúc - điêu khắc Chăm có nơi hoàn toàn
(như ở khu đền tháp Đồng Dương) , có nơi rất nghiêm trọng (như ở khu thánh địa Mỹ Sơn) .
Những năm thuộc thập niên 80 của thế kỷ XX, với sự giúp đỡ của chính phủ Ba Lan, chúng ta
đã kịp thời cứu vãn những công trình hiên còn và đăng ký vào di sản văn hoá thế giới. Trong
khi người Việt cổ có văn hoá Đông Sơn thì ở miền Trung có văn hóa Sa Huỳnh đồng đại và
cũng rất rực rỡ, được nhiều nhà khoa học xem là văn hóa Tiền Chăm. Từ thế kỷ II người Chăm
đã giành được độc lập, thống nhất hai bộ tộc phía Bắc và phía Nam đều thuộc nhóm Mã Lai -
Đa Đảo (Malayo - Polynesia), lập nước Lâm ấp - về sau đổi là Chăm Pa, từ phía nam Hoành
Sơn xuống tận Bình Thuận. Do những biến thiên của lịch sử, kinh đô Chăm Pa nhiều lần di
chuyển khi ở phía bắc lúc ở phía nam, gắn với trung tâm chính trị luôn là trung tâm văn hóa. Từ
những trung tâm ấy lan tỏa ra xung quanh, trừ những khu di tích bị phá hủy hoàn toàn, ngày
nay chúng ta vẫn còn một hệ thống tháp Chăm : Mỹ Sơn, Bằng An, Chiên Đàng, Khương Mỹ
(Quảng Nam), Cánh Tiên, An Chánh, Thủ Thiện, Bánh ít, Bình Lâm, Hưng Thạnh (Bình Định),
tháp Nhạn (Phú Yên), Pô Nagar (Khánh Hoà), Hòa 'Lai, Pô Klaung Garai (Ninh Thuận), Pô Ro
me, Pô Hài và Phú Hài (Bình Thuận). Phía bắc Hải Vân và sườn đông cao nguyên Tây Nguyên
cũng tìm thấy nhiều dấu tích tháp Chăm, thậm chí có cả cây tháp còn nguyên ở trong rừng
xanh.
Tháp Chăm là một loại hình kiến trúc tôn giáo, được xây dựng thành từng cụm trên những
đồi núi không cao (chừng 50m), hướng Đông đón ánh mặt trời và như gợi về nguồn xa biển cả,
xây dựng cả một cảnh quan hoành tráng. Mỗi cụm di tích có một tháp chính ở giữa và một số
tháp phụ quây quanh, trong đó luôn có tháp Cổng ở phía đông và tháp Hỏa ở phía nam. Các
tháp thờ bình diện vuông, ba mặt làm cửa giả chỉ nhô ra một chút, còn mặt trước có cửa ra vào
được kéo dài tạo thành một gian tiền sảnh chạy dọc.
Thông thường tháp có 3 hoặc 4 tầng, độ cao phổ biến ở mức trên dưới 20m phù hợp với bề
rộng mặt đồi khi quan sát tại chỗ có thể di chuyển lùi xa 2-3 lần độ cao. Chiều cao tháp thường
gấp 2 đến 2,5 lần cạnh chân tháp (không kể gian sảnh cửa trước nhô ra) làm cho nó vươn lên
mà vẫn bề thế, cùng cả quần thể dàn trải chắc chắn. Các tầng trên là sự lặp lại của tầng 1, chỉ có
cửa giả, thu nhỏ dần, đặt chồng lên nhau theo khối tháp. Các tầng ngăn cách nhau bởi diềm mái
nhô ra, góc mái có hoa đao như ngọn lửa. Đỉnh tháp và đỉnh các cột góc của các tầng đều làm
thành một chiếc linga và bản thân cả cây tháp thờ cũng được xem là chiếc linga khổng lồ dựng
trên mặt đồi tròn bè là chiếc yorú tương ứng. Hình tượng kiến trúc hoảnh tráng trên hoàn toàn
thống nhất với điêu khắc thờ trong lòng tháp. Lòng tháp là một phòng vuông hẹp, nóc nhọn vút
cao tạo không gian vời vợi gắn với thần linh. Giữa lòng tháp là bệ thờ, trên có cặp tượng linga -
yom mang hình tượng sinh thực khí nam nữ, là sự hoà hợp âm dương theo tư tưởng phồn thực.
Yoni như thớt dưới của cối xay bột, luôn có vòi chĩa về hướng bắc - âm. Trong khi đó nhiều
linga có mặt trước được tạo thành tượng thần hay gắn với phù điêu chân dung bán thân Vua,
luôn nhìn ra cửa chính hướng đông - dương. Quanh cặp tượng linga - yoni không gian rất hẹp,
dường như chỉ đủ cho tín đồ xếp hàng dọc đi quanh một vòng rồi lại ra cửa vừa vào.
Tháp Chăm có tường dầy từ lm1 đến lm6, thậm chí có cái gần 2m, xây đặc bằng những
viên gạch chín đều như nhau, đã qua nhiều trăm năm- thậm chí hơn nghìn năm thử thách mà
gạch không bị thối mủn ; ở mặt tháp, từng viên gạch gắn với nhau rất xít, không thấy có hồ vữa.
Đã nhiều người tìm cách lý giải, song tắt cả các giả thuyết đều còn ke hở, vì thế kĩ thuật xây
tháp Chăm cho đến nay vẫn còn là điều bí mật. Gần đây hé mở kỹ thuật xây mài chập với nước
có nhựa-cây ô đuốc.
Mặt ngoài tháp là hệ thống cột gạch ốp vào tường song hành vươn lên cao, lại có nhiều
mảng lồi lõm đan xen, khắc rạch trực tiếp lên gạch những tượng vả dải hồi văn trang trí, đường
8
nét sắc sảo và liền mạch mà không bị sứt mẻ. Đây là điểm độc đáo hiểm gặp ở các nền điêu
khắc khác. Ngoài ra mặt tháp còn được gắn một số tượng đá sa thạch với đề tài được tôn giáo
gợi hứng (chủ yếu là đạo Bà La Môn), cả những sinh hoạt ca múa trong đời sống thường nhật
Phổ biến là tượng thần Si va chủ về ca múa, đang dang những cặp tay ra múa uyển chuyển,
trong nghệ thuật không gian phần nào thể hiện dược cả nghệ thuật thời gian. Vũ nữ cũng được
thể hiện nhiều, chạm nổi cao thành đoàn người phối hợp nhau, hoặc tượng tròn độc lập. Tiếp
đến là tượng các tiên nữ, các chiến binh, chim thần Garuda và bò thần Nanđin.. Tượng đá Chăm
phong phú về đề tài, tập trung phô diễn vẻ đẹp thân thể con người, có cả sức sống nội tâm sôi
nổi và sự kiều diễm thân mình, sự mơn man da thịt, luôn toát ra thẩm mỹ thanh cao. Điêu khắc
Chăm luôn hướng theo hiện thực nhưng không sa vào tự nhiên vụn rối. Kỹ thuật đục chạm có
lúc tinh như đồ kim hoàn, có lúc mạch lạc đến cứng cỏi, không bao giờ lỗi sót.
Quốc gia Chăm tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ XV, sau đó một thời gian dài như có sự tự trị
cộng đồng. Nhưng những thế kỷ đầu nghệ thuật Chăm còn phải mò mẫm, phải đến thế kỷ VII
mới định hình với sự hoàn mỹ cổ điển, sau đó trong quá trình phát triển luôn mang theo dấu ấn
thời gian, nhờ đó có thể phân kỳ ra từng giai đoạn. Dưới góc độ mỹ thuật, nhiều nhà nghiên cứu
đồng tình với học giả Pháp Ph.Stee (Ph.Stern) năm 1942 chia mỹ thuật Chăm ra 7 phong cách
nối tiếp nhau :
1. Phong cách Mỹ Sơn E1 (hay phong cách cổ) : đầu thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ IX
2- Phong cách Hoà Lai : múa đầu thế kỷ IX
3- Phong cách Đồng Dương : giữa thế kỷ IX đến đầu thể
4 - Phong cách Mỹ Sơn Al : thế kỷ X
5- Phong cách chuyển tiếp (hay phong cách Pô Nagar) : thế kỷ XI
6 - Phong cách Bình Định : thế kỷ XII đến hết thế kỷ XIV
7- Phong cách muộn : thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVII.
Sự phát triển phong cách trên đây là theo đơn tuyến thời gian. Nếu kết hợp với không gian
theo vùng địa lý, thì ở đây vừa có tính địa phương vừa có sự hội nhập : xu hướng thanh tú,
đường bệ của Mỹ Sơn E1 ở phía bắc, xu hướng uốn éo, rậm rạp của Hoà Lai ở phía nam, khi
kết hợp lại đã tạo ra phong cách Đồng Dương chung cho cả nước. Sau đó từng vùng lại kết hợp
Đồng Dương với truyện thống cũ tạo ra phong cách Mỹ Sơn Al ở bắc và phong cách Pô Nagar
ở nam. Sau đấy do tính lịch lịch sử, nghệ thuật Chăm chỉ còn phát triển ở phía nam, được phân
đoạn theo mốc cuộc hội nhập vào quốc gia Việt Nam, chung sống đoàn kết trong đại gia đình
các dân tộc Việt Nam.
9
Chương IV
MỸ THUẬT THỜI LÝ (1009 - 1225)
10
thực tế và pháp lý với mọi quốc gia và mọi dân tộc khác. Đó là chân lý không thay đổi, cũng là
cơ sở để xây dựng đất nước cường thịnh.
12
Kinh thành Thăng Long khi xây dựng đã bám theo thuyết phong thuỷ, coi sông Tô Lịch là
con rồng vươn mình từ sông Nhuệ, ngoi lên sông Hồng đón ánh dương và nhận nước, cái rốn
là núi Nùng tập trung khí thiêng, có chân đạp vào hồ Trúc Bạch và hồ Gia Ngư.
Trong Hoàng thành các cung điện đều hướng tâm vào nơi vua coi chầu, phân bố cân đối hai
bên. Ngoài Hoàng thành, mỗi hạng dân (sĩ - nông - công - thương) có một khu vực hoạt động
riêng, khu nào cũng đan xen nhiều thắng cảnh và di tích, nhiều sinh hoạt văn hóa của triều đình.
a) Tháp Phật
Tháp thời Lý là đền thờ Phật giáo, trong lòng có pho tượng Phật như tháp Phật Tích, tháp
Chương Sơn, tháp Tường Long... Riêng tháp chùa Báo Thiên với tên Đại thắng Tư Thiên lại
mang tư cách đài chiến thắng báo công với trời.
Tháp vốn từ kiến trúc trải rộng diễn biến thành kiến trúc cao tầng bình diện vuông, tầng
dưới các cửa có tượng Kim Cương đứng trấn giữ. Các tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần, theo
những hình tháp in trên gạch và tháp thời Trần thì chiều cao tháp thường bằng chu vi chân tháp.
Một số tháp đã khai quật có cạnh chân dài tử âm đến hơn 19m, như thế tháp có thể cao từ hơn
30m đến hơn 70m, phù hợp với tháp chùa Báo Thiên được sử cũ ghi là cao vài mười trrợng và
văn học xây dựng thành hình tượng cột trụ chống trời.
Nền móng tháp phải vững, xây tường dầy và dật cấp, trong nền trộn đất sét với sỏi đá. Các
tháp thờ Phật thường có tầng lẻ biểu thị sự phát triển, dấu tích hiện vật và thư tịch cho biết
thường là 5- 7- 9 thậm chí 13 tầng ; riêng tháp dài Chiến thắng có số tầng chẵn (12 hay 30
tầng ?) lại biểu thị sự ổn định. Vật liệu xây tháp rất phong phú, tùy tháp mà thuần gạch, thuần
đá hoặc xen kẽ gạch với đá, cả đồng nứa. có cả tháp gốm men. Mặt ngoài tháp được khắc rạch,
những hình rồng, vòng sáng Đức Phật. Những bộ phận nhô ra được gắn tượng người chim, và
kết thúc đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc. Những cây tháp này hoà vào thiên
nhiên mà vẫn nổi trội, là điểm tựa tâm linh của mọi người.
b) Chùa
Thờ -Lý dựng nhiều chùa nhưng không ngôi nào còn đến nay, một số ít chỉ để lại nền móng
(như các chùa Phật Tích, Vĩnh phúc, chùa Dạm ở Bắc Ninh, chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa
Hương Lãng ở Hưng Y án, chùa Long Đọi ở Hà Nam...), số khác chỉ sót ít di vật (như chùa
Chèo ở Bắc Giang, chùa Kim Hoàng và chùa Thầy ở Hà Tây, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở
Thanh Hóa), chùa Một Cột (Hà Nội) đến thời Nguyễn đã làm lại thu nhỏ rất nhiều, chỉ có thể
biết qua thư tịch và ý đồ kiểu thức kiến trúc. Nhà Lý chia các chùa trong nước làm ba loại là
Đại - Trung và Tiểu danh lam, dựa trên cơ sơ số lượng và số người giúp việc nhà chùa ; song
dưới góc độ nghệ thuật có thể chia làm bốn loại :
- Chùa dựng trên một cột : sử cũ cho hay Thăng Long có "Lầu chuông một cột, sáu cạnh,
hình hoa sen, trong điện Linh Quang ; chùa Linh Xứng (Thanh Hóa) có tòa sen trồi lên mặt
nước, trong có "Tượng Ngũ Trí Như Lai sắc vàng rực rỡ". Đặc biệt chùa Một Cột tức Diên Hựu
tự được bia và sử cũ miêu tả: chùa được dựng giữa hai lần hồ, có hành lang bao quanh và cầu
cong đi vào, riêng cây cột đã cao tới mười trượng chạm đủ ngàn cánh sen. Đỉnh cột dựng ngôi
chùa mang hình bông sen là "y theo mưu mới, lại dựa vào dấu tích xưa". Dấu tích xưa là kiểu
nhà mái tròn khắc trên trống đồng Đông Sơn, là cây hương dựng trên đầu trụ, là cái chòi trên
cành cây...Trên cơ sở đó đã sáng tạo theo mưu mới là giấc mơ của vua Lý Thái Tông được
Quan âm dắt lên đài sen. Truyền rằng riêng cây cột đá đã cao hơn 30m, vậy ngôi chùa trên đó
phải lớn và toàn cảnh rất rộng.
- Chùa kiêm hành cung : loại chùa này gắn với hoàng gia, thường được nhà vua ghé thăm,
để lên chùa, tổ chức cùng quần thần đối cảnh làm thơ. Được xây ở nơi thắng cảnh, gắn với núi
sông ngoạn mục, chiếm cả vạt núi, đồng thời cũng hay có tháp Phật để trải rộng lại vươn cao.
Hình điêu khắc ở những chùa này phổ biến là rồng để vừa gợi nguồn nước vừa tượng trưng cho
vua. Tiêu biểu là các chùa Phật Tích, Tường Long, Long Đọi, Chương Sơn.
13
-Chùa gắn với cả quý tộc và dân làng : Các bà Hoàng thường tham gia đóng góp, có thể
dựng ở sườn núi (như chùa Vĩnh Phúc, chùa Tĩnh Lự ở Bắc Ninh) nhưng phổ biến là ở cánh bãi
đầu làng (như chùa Bà Tấm ở Hà Nội, chùa Hương Lãng ở Hưng Yên), mặt bằng khá rộng,
điêu khắc không có hình rồng, thường có tượng con sấu trên thành bậc cửa và sư tử đội tòa sen
mà dân gian gọi là "ông Sấm" gần với việc cầu đảo cần cho nông nghiệp lúa nước.
- Chùa làng : dựng ở vùng quê hẻo xóm núi ít người qua lại (như chùa Chèo ở Bắc Giang,
chùa Kim Hoàng ở Hà Tây) quy mô nhỏ, dấu vết còn lại hiếm hoi, không được thư tịch đề cập.
Có thể lúc đầu chỉ là thảo am hay mái đá. Đôi khi có sự tham gia của quý tộc nhưng ở miền núi
khuất nẻo.
Kiến trúc chùa thời Lý tuy không còn, song thư tịch đương thời đôi khi có miêu tả, chẳng
hạn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh cho biết : cầu nhà cong cong như cầu vồng nhô la sau
cơn mưa tạnh, mái đắp uyên ương xập xoè múa lượn trong gió, nóc nhà uốn như chim trĩ xòe
cánh, hình phạm trên đầu như phượng múa lại chầu, mái cong lấp lánh dưới nắng và hiên quanh
co trước gió, hành lang bao quanh tường vách sạch bụi... Lại sắm chiếu giường cho khách lỡ
dường nghỉ trọ, còn xây bếp núc giúp người phương tiện. Thực là cảnh chùa ngăn nắp, tượng
Phật trang nghiêm. Kết hợp dấu tích còn lại với thư tịch, ta thấy chùa tháp thời Lý có quy mô
lớn, được xây dựng ở nơi cảnh trí đẹp, kết hợp thắng cảnh với danh lam tạo ra một tổng thể kiến
trúc sơn thuỷ hữu tình bố cục cân đối, hòa nhập với môi trường để hài hòa với tự nhiên và nâng
quy mô lên nhiều lần. Những công trình này gắn với quý tộc cũng gắn với toàn dân, cầu chúc
hoàng đồ củng cố và nhân dân an lạc.
1. Tượng tròn
Tượng tròn thời Lý hiện còn có tượng Phật, Kim Cương, người chim và tượng thú. Mỗi loại
còn được vài pho.
d) Tượng thú
Nếu ở bệ tượng Phật thường có tượng sư tử đội tòa sen mà dân gian gọi là “ông Sấm”, thì ở
thềm tầng bậc thứ 2 chùa Phật Tích có 5 cặp tượng thú dàn thành một hàng ngang hai bên cửa
đối nhau.
Ông Sấm ở chùa Bà Tấm chi có phần đầu, hai con đội chung một tòa sen, ở thế nằm cao
1m, rộng lm36, còn ở chùa Hương Lãng ( Hưng Yên) chỉ có một con chạm cả phần đuôi, dài
2m30 còn phần đầu như ở chùa Bà Tấm. Hình dáng là con sư tử phu phục đội tòa sen, trán có
chữ Vương là chúa rừng xanh.
Ngoài những lông xù cuộn xoáy, dọc chân và quanh mép còn có hàng hoa văn dấu hỏi tựa
nhau, quanh miệng có những bông hoa nhiều cánh, phần đuôi được chạm trang trí rất kỹ, có lẽ
do sư tử gầm như tiếng sấm, lại cũng do ước vọng cầu mưa nên dân địa phương gọi sư tử là
"ông Sấm”.
Còn 5 cặp tượng thú chùa Phật Tích, từ giữa toà ra là sư tử - voi - trâu - tê giác - ngựa, tất
cả đều to bằng trâu ngựa thực và đều nằm trên toà sen, là những con vật thiêng của thế giới nhà
Phật.
Tượng và bệ liền khối đá. Trang trí phần bệ đáng chú ý hơn cả là con vật thần thoại gần
giống như người nhưng đuôi lại uốn lượn như mình rồng, chạm tinh tế, thống nhất phong cách
nghệ thuật Lý. Song phần tượng, cả 5 loại thú đều là những con vật thực, từ con vật rất thân
thuộc (trâu) đến con vật hầu như không có ở Việt Nam (sư tử) nhưng đều được chạm rất thực,
khối hình to mập, dáng khoẻ chắc, có phần xa với phong cách. Lý mà đến thời Trần mới phát
triển.
15
2. Chạm khắc trang trí
Trong điêu khắc Lý đặc biệt phải kể đến mảng chạm nổi trên đá với sự tinh khéo như chạm
đàng, bạc. Ở đây nổi lên một số đề tài là rồng, nhạc công, vũ nữ và hoa lá.
b) Nhạc công và vũ nữ
Chùa Phật Tích có một số chân tảng dá kê cột của thời Lý được dùng lại, mặt trên chạm
thành bông sen nở xoè nhiều cánh, còn bốn mặt bên là bốn dàn nhạc giống nhau.
Mỗi mặt chân cột là một băng ngang dài 73cm cao 13cm người xưa tạo ra một khung hình
cách mép gần 1cm, trong đó viền hai bên và phía trên là dải dấu móc tựa lưng nhau như cánh
hoa, còn viền phía dưới là dải sóng hài loại chồng chất như ở bệ tượng Phật, giành ra khoang
giữa dài 70cm cao 9,5 cm để chạm dàn nhạc : chính giữa là một vòng sáng lá đề bên trong có
vài bông hoa như hoa cúc, tất cả được đặt trên một bông sen, hẳn là hình tượng trưng cho đức
Phật.
Hai bên có mười nhạc công chia đôi, dàn thành hàng ngang múa tiến vào vòng sáng, động
tác múa thống nhất nhưng tay lại biểu diễn những nhạc cụ khác nhau, từng cặp từ hai đầu vào
giữa là trống cơm và trống da, đàn nguyệt và nhị, tiêu và sáo, đàn tranh và đàn thập lục, cặp
phách mở và chập. Từng người đều chân thấp chân cao, mình uốn vạn ba khúc , từ búi tóc cao
và cổ chân còn tóat ra những dải lụa bay lượn nhịp nhàng, phục trang đẹp gọn làm nổi các
đường lượn của thân thể tròn lẳn.
Bức chạm đông người mà không che khuất nhau, ai cũng ở chính diện với độ lớn bằng
nhau, ở đây như có cả tính dân chủ cộng đồng làng xã.
Đề tài vũ nữ còn được thể hiện ở tay vịn thành bậc cửa tháp Chương Sơn, cả 2 mặt giống
nhau : lớp trên chạm bảy vũ nữ, lớp dưới chạm băng hoa. Băng hoa mặt trong chia ra các ô tam
giác vuông cân để ứng với các đầu bậc thì để trơn, và do đó bức chạm phải để dốc 450 hình
người mới đứng. Băng hình vũ nữ cao 0m27 và dài 2m15, từng hình đều to rõ và dáng chung
như các nhạc công Phật Tích nhưng hai tay đưa lên cao dâng hiến, tay trước cầm cả hoa và lá
sen còn cuộn.
c) Hình hoa lá
16
Trên nhiều mặt phẳng của kiến trúc và của bệ tượng, người xưa thường chạm hoa lá theo
từng băng dài, phần lớn là cúc và sen đan xen nhau. Dây hoa với những lá nhỏ tỏa về hai bên là
chung cho cả hai thứ hoa, uốn lượn bao lấy từng bông hoa tròn. Hoa được cách điệu nhưng có
thể nhận ra sen và cúc, có khi chì là cúc nhưng nhìn ở góc độ khác nhau, đều lớn như nhau, Hai
loại hoa này thường được gán cho hai tính chất thanh cao (sen) và ẩn sĩ (cúc), song trong văn
hóa tâm linh nó còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn.
Nhà thơ Trần Nguyên Đán ở thời Trần đã nhận ra ở hoa cúc có khí mạnh và tài năng của
trời đất, nó coi thường cả uy của sương và sự lấn của tuyết.
Cúc còn tượng trưng cho mặt trời để đôi rồng chầu vào, là biểu hiện của khí dương. Còn
sen ở nước, cả trong Phật thoại và triết lý dân gian đều xem là dấu hiệu yếu tố âm, gợi hình mặt
trăng. Hình chạm hai thử hoa này đan xen nhau còn là sự hòa hợp âm dương để tạo phúc cho
cuộc sống cả xã hội, và do đó gắn với cuống hoa thường có hình người bé tí leo trèo sống động.
17
Chương V
MỸ THUẬT THỜI TRẦN (1226 - 1400)
b) Chùa làng
Vào cuối thời Trần, xã hội có nhiều biến động - nhất là chiến tranh với Chiêm Thành và
khởi nghĩa nông dân, đã nảy sunh trong nhân dân tâm lý dựa vào Thần quyền và do đó chùa
làng dược xây dựng nhiều. Những chùa Thái Lạc (Hưng Yên), Bối Khê (Hà Tây), Dâu (Bắc
Ninh)... mặc đù được xây dựng bổ sung nhiều vào thời Lê trung hưng và thời Nguyễn, song vẫn
nhận ra tòa Thượng điện với bộ khung gỗ là thuộc phong cách nghệ thuật thời Trần. Những
chùa này hoặc nằm trong hệ thống chùa Tứ Pháp (Dâu, Thái Lạc...) hoặc kết hợp thờ Phật với
thờ Thần của địa phương mà dân tôn lảm đức Thánh (Bối Khê). Các tòa Thượng điện nảy đều
xây trên nền cao vượt hẳn trên mật sân chừng 1m, bình diện gần như vuông, gồm 1 gian chính
và 2 gian đốc, do đó ngoài mái trước và mái sau còn 2 mái phụ ở hai bên, bốn góc mái có các
hoa đao vút cong tạo cho toàn cảnh như bông sen nở xoè. Nền cao nhưng mái lại lan xuống
thấp nên chắc chắn mà vẫn nhẹ nhàng. Bốn xung quanh nay bưng ván nhưng vốn xưa thông
thoáng, từ ngoài nhìn thấy thức kiến trúc dân tộc là bộ khung gỗ ăn mộng nhau chắc chắn rồi
cùng dồn sức nặng qua các cột xuống nền.
Trong bộ khung nhà, quan trọng là hai vì nóc gian giữa, cấu tạo gồm câu đầu đè lên đầu hai
cột cái, thông qua cái đấu vuông thót đáy, phía trên đỡ hai trụ chống nâng một con giường cong
vồng lên gọi là con cung (hay con lợn vì dáng béo mập), lưng con cung đỡ xà nóc thông qua
đấu và dép hoành. Khoang giữa hai trụ ở dưới con cưng được lắp ván hình lá đề. Do các bộ
phận gỗ đều lực lưỡng, to khỏe, toàn bộ vì nóc đặc, nên để xóa đi cảm giác nậng nể, ngoài việc
tạo dáng con cung và đấu, người xưa còn viện cầu đến nghệ thuật chạm khắc trang trí : tạo cho
trụ chống có hình phỗng quỳ trên những đợt sóng, đội tòa sen nâng trụ đỡ hòanh hay ít ra cũng
là một trụ hoa ; còn tấm ván lá đề dược chạm thành vòng sáng nhọn đầu, bên trong là hai tiên
nữ dâng hoa hay đôi phượng ngậm hoa hoặc đôi rồng chầu hào quang đức Phật. Nhiều bộ phận
khác trong kiến trúc, từ những cổn ở trong nhà đến đầu bẩy ngoài hiên cũng được chạm nhạc
công, vũ nữ, hoa dây, rồng, chim... Nhờ đó kiến trúc mang đậm tính điêu khắc, gợi một thế giới
trang nhã.
22
thành kính dâng chung một bình hoa. Nền của bức chạm là những dây hoa và tua lụa quấn quít
nhau, nó hòa cùng khói hương cứ dẫn ác nhân vật bay lên cào dần.
- Vẫn đề tài trên còn được thể hiện ở những bức cốn trên xà nách, trong vùng ánh sáng thật
đơn giản và cũng gần đời, gần người xem hơn. Ở đồ án chữ nhật nằm chạm cặp đôi còn ở đồ
án chữ nhật đứng chạm một người, họ đứng trong mây hoặc giữa mây vẫn có cả bông sen,
khung hình được giới hạn bằng diềm lá sồi ở trên và băng móc duỗi ở dưới, được mở về hai
phía, gây hiệu quả chuyển động ngang.
- Về đề tài nhạc công có ba bức, đều chạm từng đôi đang cưỡi chim, biểu diễn các nhạc cụ
đàn tì bà và đàn nguyệt, đàn thập lục và sáo, nhị và phách, bố cục tương tự những bức người
chim đôi. Ở đây hình chim nhìn nghiêng còn hình người nhìn chính diện, mặt đăm chiêu như
lắng đọng âm thanh nhạc khúc.
Một số bức to chạm rồng đôi và bức nhỏ chạm rồng đơn theo bố cục một nửa của bức to.
Những con rồng này uốn khúc mềm dẻo như rồng thời Lý, song thân mập tròn, các chi tiết mào,
tai, sừng, mũi... tùy con mà có sự chú ý khác nhau, đều đưa tay đỡ vòng sáng nhọn gồm cặp
sừng và ngọn lửa trên bông sen.
- Hình phỗng được chạm ở mặt, trụ đỡ tạo hình hài hước với dáng quỳ trên sóng nước, đưa
tay lên dỡ tòa sen, mình mặc váy nhưng đeo vòng tua, mảng khối căng bụ, toàn thể khuôn trong
mặt trụ cao 0m47 rộng 0m35.
24
Chương VI
MỸ THUẬT THỜl LÊ SƠ (1427 - l527)
Rút kinh nghiệm Hồ Quý Ly in tiền giấy thất bại, trong tình hình đồng khan hiếm, vua Lê
Thái Tổ cũng định in tiền giấy đã hỏi ý kiến nhân dân nhưng không được đồng tình nên thôi,
còn khuyên các con không nên tu tạo tổn kém. Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền còn
phong kiến hóa cơ cấu làng xã, xây dựng hệ thống chính quyền xuống tận cơ sở, lập ra một tiểu
triều đình ở nông thôn.
Nhưng chính quyền nhà nước Lê sơ tổ chức theo mô hình phong kiến Trung Hoa, đã đề cao
Nho giáo lên địa vị độc tôn, trở thành khuôn mẫu về mọi mật, đào tạo Nho sĩ hàng loạt Riêng
đời Hồng Đức đào tạo được số trạng nguyên nước lại hạn chế phật giáo, giảm sư tăng, cấm
dựng chùa mới, hạn chế sửa chùa cũ; còn coi một số hoạt động hồn nhiên của trai gái như hát,
múa Lý liên (rí ren) dắt tay nhau hoặc ngoắc chân chéo cổ là dâm bôn và cấm. Tình hình trên
làm cho văn hóa dân gian đã có cơ sở ở cuối thời Trần bị cản trở không phát triển được, mà chỉ
văn hóa chính thống vẫn mang đậm chất dân gian. Nhà vua được đề cao là bậc chí tôn, song
ngay sau dinh cao Hồng Đức đã rơi nhanh vào khủng hoảng, các vua Lê Uy Mục và Lê Tương
Dực bị dân coi là "vua Quỷ" và "vua Lợn". Điều đó đã báo hiệu việc chuyển quyền lực sang
một vương triều thân dân, gắn với dân hơn.
Với niên đại trên có thể nhận ra hai nhóm tượng : nhóm thuộc thập kỷ 30 (gồm cả đầu 40)
và nhóm chuyển tiếp thế kỷ XV sang thế kỷ XVI. Trong tất cả các lăng đều có 5 loại tượng,
trong đó 4 loại thống nhất là người, lân, ngựa và tê, còn hổ ở nhóm tượng đầu sang nhóm tượng
sau thay bằng voi đều tượng trưng cho sức mạnh. Trừ lân là con vật tượng trưng nhưng đã có
trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam thời trước, còn lại các con vật khác đều là con vật thực mà
nghệ sĩ có điều kiện quan sát và thể hiện. Tượng và bố trí tượng ở các lăng về sau là theo mẫu -
kể cả kích thước ở lăng đầu của vua Lê Thái Tổ, vì thế so với các lăng mộ thời sau thì đều là
tượng nhỏ : tượng người cao chỉ hơn 1m, tượng thú đứng cũng chỉ cao hơn 0m5, đặt đăng đối
nghiêm chỉnh, tư thế tĩnh lặng đến lạnh lùng. Tượng ở lăng mộ vua và Hoàng thái hậu hẳn phải
do triều đình trực tiếp chỉ đạo và thuộc dòng chảy nghệ thuật chính thống, song nó đã từ bỏ vẻ
đẹp cổ điển của tượng thời Lý và vẻ đẹp khỏe thực cửa tượng thời Trần, chuyển sang một sự
miêu tả khái quát với dáng hình ngộ nghĩnh. Ở nhóm tượng trước tạo hình sơ sài và đơn giản,
đường nét thô, ngựa cổ to mà chân ngắn cũn chậm chạp, hổ ngồi chồm chỗm như cóc. Sang
nhóm tượng sau, đường nét đã trau chuốt hơn và chú ý đến trang trí : con voi đã mập khoẻ và
thực, ngựa được thắng yên cương và chân cao dần, lân nhún mình như muốn nhảy, tê giác cũng
có vải phủ lưng... Tuy có bước tiến rõ ràng từ nhóm trước sang nhóm sau, song vẫn gần với
nghệ thuật dân gian.
28
c) Tượng Quan âm Nam Hải chùa Hưng Phúc
Chùa Hưng Phúc thuộc thôn Cung Kiệm xã Nhân Hòa huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh có pho
tượng đá ngồi thiền trên toà sen do hai con rồng đội qua biển cả. Tượng và bệ là hai khối đá
riêng, nhưng lưng tượng và sườn bệ khắc những dòng chữ Hán có cùng nội dung : năm Kỷ Tỵ
niên hiệu Thái Hoà 7 (1449) vua thứ 3 triều Lê, các tín chủ (kể tên 6 người) ở xã Kiệm huyện
Vũ Ninh trung lộ Bắc Giang (cung tiến). Tượng cao 0m51 được đặt trên bệ cao m37, giữa hai
bộ phận có gờ cong trùng khít nhau. Tượng bị gãy đầu đã được chắp lại , cũng bị gãy mất cánh
tay phải từ khuỷu trở xuống. Tượng có đầu đội mũ thiên quan trang trí hoa sen, hoa cúc và tia
mây, mặt bầu phúc hậu, tai dài, mặc hai lớp áo, ngực đeo dây anh lạc, tay trái cầm chén nước,
bàn chân trần để ngửa. Bệ tượng phần trên là tòa sen, giữa
thót lại với hai đầu rồng như đầu rắn nha cao nâng đỡ tòa sen, còn đuôi quấn quýt rồi tỏa về
hai phía, dưới là những lớp sóng to nhấp nhô. Với lối cấu tạo trên, đây là tượng Quan âm Nam
Hải sớm nhất hiện còn, đến thế kỷ XVI đề tài này khá phát triển. Tượng được tạo hình đơn
giản, đường nét phóng túng, ít chú ý trang trí.
Ngoài ra có ít tượng được nghi là thuộc thời Lê sơ như Đệ nhất Tổ phái Trúc Lâm Trần
Nhân Tông ở tháp chùa Hoa yên trong dãy núi Yên Tử.
29
Nếu đặt bia chùa Đại Bi (1445) và bia chùa Phúc Thắng (1470) vào giữa hai nhóm bia ở
Lam Kinh, chúng ta nhận rõ sự diễn biến của hình rồng trong thời Lê sơ. Trên bia các vua Lê
Thái Tổ (1433) và Lê Thái Tông (1443) mới thực nghiệm đưa một con rồng kiểu rồng Minh
(Trung Quốc) vào giữa trán, mặt nhìn thẳng hay nhìn nghiêng cũng đều dữ dội, mắt trợn tròn,
sừng nhọn chĩa lên, thân vặn vẹo, bàn chân gân guốc xoè ra 5 móng muốn cấu xé... Những con
rồng khác vẫn theo kiểu rồng truyền thống, thậm chí còn hồi tưởng lại nhiều nét của rồng rắn
thời Ly. Những con rồng ở bia chùa Đại Bi mới chỉ đổi mới ở khúc uốn tự do, đuôi vắt vẻo ;
đến bia chùa Phúc Thắng thì rồng đã từ bỏ những chi tiết điển hình Lý - Trần để chuyển sang
mũi thú bờm thô, sừng chạc rất dài... nhưng vẫn gần gũi, hồn hậu mà các thế kỷ sau sẽ phổ cập.
Trong khi đó rồng Trung Quốc đến các bia ở Lam Kinh cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI đã là
duy nhất và phổ cập, chằng những ở trần mà ở cả sườn bia nữa.
Trên trang trí bia, gắn với rồng là mây giống như ở thành bậc cửa. Còn sóng nước cũng dần
chuyển sang sóng bạc đầu của Trung Quốc. Hình dây hoa uốn sóng cơ bản đã có từ cuối thời
Trần, giờ càng khẳng định, ngoài loại gắn vớt các hoa sen, cúc, phù dung... có thêm loại hoa
guột cuộn như dây tay mướp leo mà ở thế kỷ XVI và đầu XVII rất phổ biến. Đặc biệt trên mặt
sườn bia vua Lê Thánh Tông và hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao phía dưới hình rồng còn có
cảnh Tam sơn với ba ngọn núi nhô lên từ biển cả, gợi ra tiên cảnh bồng lai; và trên xế bia Tiến
sĩ dựng năm 1513 có đồ án hai chiếc sừng vắt chéo giữa hai vạt tròn. Đồ án này nhưng doãng
ra, còn thấy trên bệ gỗ chùa Thầy (Hà Tây) , để rồi sang thế kỷ XVI gặp trên rất nhiều mảng
chạm trang trí bệ tượng bằng gỗ.
Như vậy về chạm khắc trang trí thời Lê sơ được xem là cái bản lề gắn giữa mỹ thuật Phật
giáo Lý Trần ở phía trước với mảng mỹ thuật giàu chất dân gian ở thế kỷ XVI - XVII nó cũng
bộc lộ xu hướng chính trị Nho giáo muốn tiếp nhận một số mẫu hình trang trí phương Bạc, còn
thể nghiệm ở phạm vi công trình chính thống của triều đình, chưa đi vào nhân dân, và do đó
sang các thế kỷ tiếp theo đều không tiếp tục nữa.
31
Chương II
MỸ THUẬT THỜl MẠC (1527 - 1592)
a) Chùa
Chùa Phật ở thời Lê sơ bị thu hẹp thì sang thời Mạc được bung ra và gắn với các làng quê.
Trong số 116 ngôi chùa - biết rõ niên đại sửa hoặc xây dựng thì 42 năm đầu (1527 - 1569) chỉ
có 36 chùa, còn 22 năm cuối (1570 - 1592) tăng vọt lên 80 chùa, có nghĩa chiến tranh càng ác
liệt thì người ta càng tìm đến Thần quyền và không tiếc tiền của để dựng chùa cầu Phật. Dựa
theo không gian phân bố của 142 ngôi chùa thì riêng xứ Đông (Hải Phòng, Hài Dương, Hưng
Yên) đã có 63 ngôi tức chiếm non nửa, chứng tỏ quý tộc Mạc gắn bó nhiều với quê mình, và
tuy là chùa làng song rất cần sự đóng góp của tầng lớp trên.
Thời Mạc dựng nhiều chùa nhưng không có ngôi chùa nào còn nguyên vẹn đến nay, dù chỉ
là một đơn Nguyên. 42 ngôi chùa được biết của thời Mạc cũng chi qua vài dấu tích, nếu tổng
hợp để nhìn toàn cảnh thì khu Tam Bảo đã có các nhà Thượng điện - Thiêu hương - Tiền
đường, và có thể còn thêm hành lang ở hai bên, như thể đã gợi mẫu cho những chùa kiểu "nội
Công ngoại Quốc" khá phổ biến ở thế kỷ XVII, gắn với Phật điện đông đúc.
Riêng Chùa Cói (Vĩnh Phúc) tuy không còn nhưng trước 1945 đã được đạc họa tòa Thượng
điện, cho biết nó rất gần với các thượng điện thời Trần : gồm một gian 2 chái, mặt nền gần
vuông, nền khá cao, mỗi vì vốn có bốn hàng cột khá lực lưỡng (về sau người ta thêm cột hiên
đỡ mút ngoài đầu bẩy), vì nóc có trụ đấu đỡ con cung và lắp cồn vòng sáng, hai bên ra cột quân
co các giường cánh trên xà nách, dưới cùng là bẩy đỡ mái lên, mỗi mái trước và sau có 9 hoành
ứng với điểm Sinh. Cấu trúc như vậy tạo nhiều diện rộng cho các nghệ sĩ chạm khắc trang trí
hoạt động.
b) Đình làng
Kiến trúc đình vốn có từ các thời Lý - Trần, nhưng thuộc về nhà nước với tính chất trạm
trung chuyển công văn (đình trạm), nghỉ lại khi đi đâu bị lỡ đường (dịch đình), nơi ngắm cảnh
(đình thưởng hoa) hoặc công bố các pháp lệnh (đình quảng văn). Còn đình làng thuộc sở hữu
33
cộng đồng làng xã là nơi thờ Thành hoàng, nơi giải quyết các việc làng và mở hội riêng của
làng thì đến thời Mạc mới để Lại di tích đến ngày nay.
Những ngồi đình hiện còn hoặc chỉ được biết qua thư tịch, nếu có niên đại tuyệt đối chủ
yếu nửa sau thế kỷ XVI : đình Nghênh Phúc (Hải Dương) đời Cảnh Lịch (1548 - 1553), đình
Thụy Phiêu (Hà Tây) 1531, đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) 1576, đình Đại Đoan (Bắc Ninh) 1583,
đình Trừng Hoài (Thái Bình) 1585, đình Cẩm Viên (Vĩnh Phúc) 1590.
Một số đình có niên đại tương đối cũng vậy, riêng đình Tây Đằng (Hà Tây) có thể sớm hơn
một chút, vào nửa đầu thế kỷ XVI. Tất cả những đình này đều rất hoàn chỉnh và ổn định vậy nó
phải có một quá trình tiến dần đến định hình, mà sự khởi đầu có thể vào cuối thế kỷ XV khi bộ
máy chính quyền cùng với sự phong kiến hóa lan xuống tận cơ sơ làng xã và ở đó không gian
hội lễ vốn ở chùa nhưng đang bị ức chế. Đình Tây Đằng và đình Trà Cổ (Quảng Ninh) đều
tương truyền, lần sửa đình đầu thế kỷ XX có tìm được mảnh ván ghi "Hồng Đức niên tạo" (làm
đời Hồng Đức 1470 - 1497) nhưng đã bị thất lạc. Có thể lúc đầu, đình được nâng từ những đền
miếu nhỏ, bằng tranh tre hoặc gỗ tạp dễ hư nát.
Điển hình cho những đình hiện còn dấu tích thời Mạc, và cũng khá hoàn hảo là đình Tây
Đằng và đình Lỗ Hạnh, đều ở trong vùng lũy tre, rìa làng cân đối hai bên, trực tiếp nhìn ra đồng
làng thông thoáng, ngay sát cửa đình có dòng chảy uốn lượn là nơi tụ phúc cho dân làng. Đình
Tây Đằng đến thời Nguyên đã làm thêm hai dãy Tả - Hữu vu và xây tường bao, xây trụ hoa
biểu... song vẫn giữ được tòa Đại đình hầu như nguyên vẹn của thời Mạc.
Đình dàn ngang 3 gian 2 chái, dài tới 22m và rộng 11m5, xung quanh thông thoáng, khu
vực cung cấm là phía trong của gian giữa từ hai cột cái sau trở vào, tuy được đóng khám trên
gác lửng song không cách bức dân làng, tất cả mặt bằng chỉ khuôn trong hình chữ nhật có một
nét ngang nên thường gọi là kiểu đình chữ Nhất. Mái đình xòe rộng ra bốn phía và lan xuống
thấp chiếm hơn 2/3 chiều cao tính từ nền, nhưng nhờ những đường cong nhẹ theo mép mái và
hệ thống hoa đào ở các góc làm cho nó mềm đi và quên cảm giác nặng nề. Cấu tạo bộ khung
dình cơ bản như bộ khung thượng điện chùa Cói. Vì chia gian vốn chỉ có bốn cột, nhưng do mái
hiên rộng với ba khoảng hoành nên về sau gá thêm cột hiên chống cho bẩy khỏi gãy. Mái trước
và sau ở gần sát xà nóc có thêm một hoành nưa, vừa làm cứng bờ nóc, vừa đưa số hoành ở mỗi
mái lên con số 11 ứng với điềm Lão chúc thọ cho cả làng. Ngoài đầu dư "đỡ câu đầu đặt trên
đỉnh cột", còn có hệ thống tai cột (cánh gà) "đơ" xà thượng. Các cấu kiện gỗ rất nhiều, dể giảm
đi vẻ nặng nề, nghệ sĩ trang trí đã chạm rất nhiều hoạt cảnh dân gian. Có tài liệu ghi trên một
đầu khung cột có khắc dòng chữ "Quý Mùi niên tạo", có thể ứng với năm 1528 hay 1583 ?
Đình Lồ Hạnh đã tu sửa nhiều lần, cuối thời Nguyễn còn xây thêm Hậu cung nối vào phía
sau gian giữa, song tòa Đại đình được cấu tạo về cơ bản như ở đình Tây Đằng. Nền có dài rộng
hơn một chút (23m5 x 12m5). Đáng chú ý là trên hai bức cổn ở hai bên đình đối nhau có hai
dòng chữ được đục như hình trang trí cho biết đình làm vào năm Bính Tý niên hiệu Sùng
Khoang 11 tức 1576.
Ngoài ra các đình Thanh Lũng, Tường Phiêu và Yên Sở (Hà Tây), Thổ Hà (Bắc Giang) và
Phù Lưu (Bắc Ninh) cũng có một số mảng chạm khằc thời Mạc, cho thêm nhận thức bổ sung về
đình thời Mạc.
c) Quán đạo
Hoạt động mang tính Đạo giáo vốn có trong xã hội Việt Nam từ xa xưa, về sau lại du nhập
đạo Lão và nhiều nơi gắn kết với đạo Phật, nên quán Đạo đã có trong thời Lý - Trần. Thời Lê
sơ, đạo giáo cũng bị ngăn cản song ông vua nặng chất Nho nhất là Lê Thánh Tông cũng thích
gặp Tiên. Thời Mạc, Đạo giáo Việt Nam có cơ phát triển, đã sáng tạo nhân vật Liễu Hạnh (1557
- 1578) đầy huyền thoại, trở thành một Mẫu thiêng trong hàng "Tứ bất". Ngoài một số quán
Đạo được nói tới trong bia, ngày nay vẵn có thể tiếp cận một số di tích mà tên chữ ghi rõ quán
Đạo song dân địa phương lại gọi là chùa, trong đó được nhắc nhiều là quán Hưng Thánh tức
chùa Mui, quán Hội Linh tức chùa Sổ, quán Linh Tiên hay chùa Linh Tiên đều thuộc Hà Tây.
Quán Hội Linh còn bia dựng năm 1590 và quán Linh Tiên còn bia dựng năm 1586, ở đấy
thờ hỗn hợp cả Tam Thanh và Phật, kiến trúc cơ bản như chùa, đều có gác chuông tận cùng
phía sau. Quán Hưng Thánh còn nhiều vết tích kiến trúc thời Mạc, nhất là bộ mái lợp ngói mui
hài to dày với mui ngói hớt cao, từ dưới nhìn lẽn như sóng xô, hai đầu bờ nóc là con kìm mang
34
hình đầu rồng đất nung có bờm tóc to, miệng há rộng ngậm tấm hình lá đề chạm cặp sưng vắt
chéo, bờ nóc gắn gạch hộp rong chắc chắn mà mềm mại như dải đăng ten.
Từ Quán Đạo gắn với chùa Phật, ở thời Mạc sự kết hợp này còn mở rộng đưa đến hiện
tượng chùa Cao Dương (Thái Bình) có bia dựng năm 1578 cho biết có bộ tượng thờ Thích Ca -
Khổng Khâu - Lão Đam, hoặc có chùa mang hẳn tên là chùa Tam Giáo (Hà Tây) còn bia dựng
năm 1591.
b) Tượng Thích Ca
Đức giáo chủ Thích Ca đi vào điêu khắc thời Mạc còn để lại tượng ở hai giai đoạn : Sơ sinh
và Thành Đạo.
Tượng Thích Ca sơ sinh ở chùa Đông Dương (Hải Dương) thể hiện theo giai thoại ngài vừa
sinh ra đã đi 7 bước trên 7 bông hoa sen, tay phải chỉ đất tay trái chí trời, tuyên bố : " Thiên
thượng, địa hạ; duy ngã độc tôn". Tượng thể hiện chú bé lẫm chẫm đi, dáng nhô về trước, thân
mập, mình trần mặc váy ngắn (gợi sự quấn tã) đứng trên đài sen có các cánh mập và bệ bát giác
với các họa tiết trang trí Mạc, tất cả liền khối gỗ.
Tượng Thích Ca thành Đạo ở chùa La Khê (Hà Tây) bằng đá, thường được gọi là đức Thế
Tôn, được làm bằng tượng phật chùa Phật Tích thời Lý, có thêm dãy anh lạc ở ngực và tám áo
khoác bên vai phải chỉ phủ hờ, các nếp áo không cân đối, do đó gần đời hơn.
c) Tượng Quan âm
Thư tịch nói đến chuyện Quan âm từ thời Lý, tượng Quan âm sớm nhất đã thấy ở chùa
Hưng Phúc (Bắc Ninh) thời Lê sơ, nhưng phải đến thời Mạc mới phổ biến và còn thấy ở nhiều
chùa: chùa Cập Nhất (Hải Dương), chùa Hội Hạ (Vĩnh Phúc), chùa Thượng Trưng (Phú Thọ),
chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đại Trà (Hải
Phòng), chùa Đào Xuyên (Hà Nội)... gồm đủ các loại Quan âm Thiên Thủ Thiên Nhãn (từ hàng
chục đến hàng trăm tay, thường cũng là Quan âm Nam Hải), Quan âm Tọa Sơn...
- Chùa Cập Nhất còn gọi là Động Ngọ tự hay chùa Phẩm (Hải Dương) có pho tượng Quan
âm Nam Hải ngồi tĩnh tọa trên tòa sen đặt trên bệ khối hộp chém góc gợi biển cả (vốn xưa còn
thêm đầu rồng hay quỷ nhô lên) đội. Tượng có 6 đôi tay (nhưng đã rơi rụng mất 3 tay), trong
đó đôi tay chính kết ấn hên hoa trước ngực (về sau phần lớn kết ấn chuẩn đề nên còn gọi là
Quan âm chuẩn đề), còn 5 đôi tay tỏa sang hai bên như múa, đội mũ thiên quan, tai đeo hoa, cổ
tay đeo vòng, mặc áo dài nuột, hai nửa đăng đối. Dáng tượng đã thon thả, đường nét mượt. Toà
sen có các cánh nổi mập đầy chất điêu khắc, được trang trí cánh sen cách điệu. Mặt bệ được
chia nhiều ở chạm cây vũ trụ và cặp sừng tiêu biểu của thời Mạc. Điều đặc biệt là sau bệ khắc
rõ tên 14 người góp tiền làm tượng vào tháng chạp năm Nhâm Ngọ niên hiệu Diên Thành 5 tức
1582, tượng cao 0m78, kể cả bệ là 1m30.
35
Tượng Quan âm Nam Hải lớn và hoàn chinh nhất của thời Mạc còn lại là ở chùa Hội Hạ.
Tượng ở thế ngồi tĩnh tọa còn cao 1m8, nếu kể cả bệ cao 3m7. Ngoài đôi tay chính kết ấn liên
hoa, từ hai bên sườn còn mọc ra 20 đôi nữa, từng cặp tay cân đối, cầm báu vật hoặc kết ấn các
kiểu. Đây là số tay to nhiều nhất trong loại tượng này. Trong phần bệ tượng vẫn còn đầu quỷ
mang dáng đầu người với sự trợ lực của hai đầu rồng ở hai bên cùng nhô từ mặt biển lên đỡ tòa
sen. Bệ lục giác, phần giữa thót lại có chim thần ở các góc. Hai bên tòa sen của Quan âm có cặp
tượng nhỏ Kim Đồng - Ngọc Nữ cũng đứng hầu trên đài sen nhỏ từ biển nhô lên, tạo thành
nhóm tượng là mẫu cho đề tài này ở thời sau.
Các tượng trên cũng là Quan âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, song sát với nghĩa đen hơn cả, ở
thời Mạc là pho ở chùa Thánh ân xã Đa Tốn (Hà Nội) ngoài 42 tay lớn mọc từ thân tượng còn
có 610 cánh tay nhỏ ở phía sau lưng xếp thành 5 lớp như những đôi cánh nâng tượng lên, đồng
thời từ thân tượng còn có 610 cánh tay nhỏ ở phía sau lưng xếp thành 5 lớp như những đôi cánh
nâng tượng lên, đồng thời cũng gợi ra vòng hào quang mà đến thế kỷ XVII sẽ hoàn chỉnh.
Về tượng Quan âm Tọa Sơn đích thực và sớm nhất còn lại đến nay, có lẽ là ở chùa Đại
Linh thôn Đại Trà (Hải Phòng). Tượng cao 0m72, kể cả bệ là lm05, ở tư thế ngồi trên đỉnh núi,
một chân chống và một chán gấp ngang, hai tay để trên đầu gối, các vạt áo chảy lan xuống vách
núi. Bệ tượng là vạt núi, trên có chạm hình chim, khỉ, cá sấu và cả mặt quỷ vừa gợi thiên nhiên
hùng vĩ còn hoang sơ, vừa tạo vẻ hoành tráng với không gian mênh mông. Tượng bằng đá,
cùng chất liệu và phong cách với tượng "đức vua Mạc" khắc rõ làm năm 1578. Đây là mẫu cho
loại đề tài này được tạc Phật và Quan âm vốn có nguồn gốc nam, song sang Việt Nam do đạo
Phật kết hợp với tín ngưỡng Mẫu nên đã dần nữ hóa. Điều này đã thấy rõ ở tượng Phật Thế Tôn
chùa Phật Tích thuộc thời Lý, qua một thời gian dài vắng bóng, đến thời Mạc phát triển nở rộ
và còn khá nhiều, thì việc nữ hóa được khẳng định hoàn toàn, và do đó từ cấu tạo cơ thể đến
phục sức dễ tổng hợp những nét đẹp điển hình.
d) Tượng Tứ Pháp
Tứ Pháp gồm Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện là bốn vị nữ thần chủ về các
hiện tượng Mây - Mưa Sấm - Chớp, vốn thuộc tín ngưỡng dân gian, tương truyền từ đầu công
nguyên do kết hợp với đạo Phật đã được Phật hóa để trở thành Tứ Pháp và được tạc tượng thờ.
Trung tâm là vùng nông nghiệp phát triển phía nam sông Đuống - quanh vùng Dâu (Bắc Ninh),
sau mở rộng sang vùng Văn Lâm (Hưng Yên), một bộ phận vượt sông Đuống (điều chỉnh từ
sông Thiên Đức) sang vùng Nành, bộ phận khác vượt sông Hồng sang vùng Thường Tín (Hà
Tây) và Thanh Trì (Hà Nội) . Thời Lý và cả Lê sơ vẫn có hiện tượng rước tượng Pháp Vân về
Thăng Long để cầu đảo.
Các chùa trong hệ thống Tứ Pháp hầu hết đều còn tượng tại chỗ, hoặc nếu chùa hỏng thì
chuyển tượng sang chùa khác cùng hệ thống. Tượng Tứ Pháp hiện còn tử thời Mạc, về sau theo
mẫu ấy làm thêm nhiều. Sớm nhất là tượng Pháp Lôi chùa Nhạc Miếu, nhưng có một thời
chuyển về chùa Thái Lạc (tức Pháp Vân - Hưng Yên). Tượng cao 1m13, ngồi kiết già trên tòa
sen, tay phải gấp lại rồi đưa lên để ngửa lòng trong thế thuyết pháp, tay trái co lại để ngửa bàn
trên đùi trong thể cứu độ. Pháp Lôi là Thần Sấm nhưng được tạo dáng theo mẫu tượng Phật:
nhục kháo to, tóc xoăn, tai dài, ngồi kiết già trên toà sen (nhưng nay đài sen đã mất, tượng đặt
trong ngai) . . . Ở đây, pháp Lôi kế thừa nhiều nét của tượng Phật thời Lý ở chùa Phật Tích :
thân hình thon thả, mình mỏng, cặp lông mày cong thanh giao nhau trên sống mũi, mũi dọc dừa
cao sang, mắt đăm chiêu, miệng hẹp khép hờ như mỉm cười, cánh tay tròn lẳn, ngón tay thon
dài... tất cả được tạo bằng những mảng khối óng ả đường nét nuột nà. Điều đặc biệt là tượng
mặc váy nhưng chỉ khoác mảnh vải nhỏ phủ qua hai bả vai, ngực lại đeo dây anh lạc, là tiền đề
để tượng Tứ Pháp các thời sau thường mình trần. Tượng có tóc màu đen, còn toàn thân mầu gụ
là sự phối hợp của mầu mây mưa vần vũ với màu máu thắm, biểu trưng cho sinh khí và phồn
thực, riêng những hạt ngọc ở trong lòng bàn tay và giữa trán thếp vàng biểu trưng cho sự cao
quý và sang trọng.
37
khuôn mật sáng láng với mắt mở rộng nhìn thẳng, mặc áo dài ngoài nở ra để hờ áo trong với
trang trí ở ngực như chuỗi dây hình lạc và bụng thắt dây bao. Toàn bộ toát lên vẻ phúc hậu.
Đây chính là tượng Hậu Phật đã được tôn vinh lên hàng quan âm. Cùng dạng Quan âm trên
là "tượng" Bà Hậu chùa Bối Khê, được đặt trong am thờ ở đầu hành lang của Tiền đường, chạm
nổi cao như tượng nhưng phía sau gắn với khối đá như tấm bia mà từ đỉnh rủ xuống hai màn
cánh gà với những nụ sen và lá sen. Bà Hậu là người già mặt tròn phúchậu, tư thế hai chân
ngược với "Quan âm" trên và đđược ngồi trên dài sen. Tượng cao 0m66, cả bệ là 0m98.
Loại tượng Hậu Phật được chạm nổi rất cao trong vòm sâu lòng bia như trên còn gặp ở các
chùa Thiên Phúc thôn Trà Phương, chùa Thiên Phúc thôn Hoa Niễu và chùa Minh Phúc thôn
Minh Thị đều thuộc Hải Phòng và có kèm một ít tư liệu văn tự.
Bà Hậu chùa Thiên Phúc - Trà Phương ngồi trong vòm động, trên vòm có hoa sen nở giữa
hai chữ "Động - Chủ" tương truyền là bà Thái hoàng thái hậu Vũ Thị 'Ngọc Toàn - vợ Mạc
Đăng Dung. Bà ngồi tọa thiền, tay phải để ngửa trong lòng, tay trái để úp trên đùi, còn dáng
toàn thể tương tự hai pho tượng trên, vẻ mặt đứng tuổi, cao 76cm. Phía sau tượng ghi rõ làm
năm Tân Hợi (1551) , do vị tăng Phúc Huyền (Diễn?) vâng lệnh làm. "Tượng" Bà Hậu chùa
Minh Phúc ngồi trong vòm động gọi là "Vân Thuỷ am" có bài văn mặt sau bia cho biết đó là
Hoàng thái hậu họ Vũ, tạc năm 1572, cao 0m52. Còn "tượng" Bà Hậu chùa Thiên Phúc - Hoa
Niễu thực ra là ở trong đền thờ Thái hoàng hậu Vũ Thị Ngọc Toàn ngay sát cạnh, cao 0m59, ở
trong vòm "Vân Tiên động", có bia dựng năm 1562 nói về sự đóng góp của bà với chùa. Như
vậy cả ba tượng Hậu Phật trên tạc cách nhau mười năm một tượng (1551, 1562, 1572). Sử
không ghi về bà, song Mạc Đăng Dung từ 1530 đã về Cổ Trai làm Thái thượng hoàng, năm
1541 mất, thọ 59 tuổi. Như vậy sau khi góa bụa, bà đã tập trung vui cảnh chùa, và với vị trí của
mình, bà đã giúp nhiều tiền của cho nhà chùa, được dân kính trọng tạc tượng thờ. Cùng với
tượng Hậu các chùa khác, rõ ràng Hậu Phật thời Mạc là nhằm vào hoàng gia, biểu hiện sự gắn
bó của Vương quyền với Thần quyền.
Đây là những tượng Hậu Phật sớm nhất hiện còn, là mẫu của loại tượng này ở các thời sau.
Tượng "Đức Vua" và tượng Hậu Phật thời Mạc cũng chính là loại tượng chân dung dầu tiên của
Việt Nam. Dù chưa chắc đã giống hắn nhân dạng, song rõ ràng đã có nét riêng, và quan trọng là
trong mỗi pho tượng đã có cá tính, có cuộc sống riêng.
38
và hoa lá còn tập trưng nhiều hoạt cảnh của con người như : bổ củi, đi cày, gánh con, trai gái
tình tự có tiên đến chào mừng hoặc có người chơi quanh.
Rồi trên những tai cột cái, những cổn trên xà đình và cổn ở giữa vì nóc cao tít còn thêm
nhưng cảnh chèo thuyền, sinh hoạt nhà quan, săn bắt hổ và rồng uốn sinh động.
Đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) ngoài các hình rồng, nghê, phượng, các hình tiên đuôi cá, tiên
xoè cánh... còn có cảnh cô gái đánh đàn bên hươu, người bình dăn cưỡi rồng... Tiếp theo, đình
Phù Lưu (Bắc Ninh) lại có những cảnh người cưỡi rồng, đấu vật, vinh quy bằng thuyền... Xu
hướng trên còn ùa vào chùa, như chùa Cói (Vĩnh Phúc) ngoài hình thú cũng có cả cảnh cầu
hiền, đi san bằng thuyền... Những hình trên đôi khi mang theo tích truyện, đôi khi đội lốt tiên
cảnh, song nội dung thực của nó chính là cuộc sống ở nơi thôn dã, biểu hiện xu hướng nghệ
thuật hiện thực, mở đầu cho sự hứng khởi của nghệ thuật tạo hình dân gian. Ở đấy nghệ sĩ
không bị gò vào các công thức tạc tượng, được tự do sáng tạo, đường nét và mảng khối đều rõ
ràng, góc nhìn luôn thay đổi để mọi nhân vật đều biểu hiện, không che khuất nhau, chân chất,
hồn hậu.
41
Chương VIII
MỸ THUẬT THỜI LÊ TRUNG HƯNG (1593 - 1788)
43
a) Những thập niên hòa bình đầu thế kỷ XVII
Sau ít năm cuối chót thế kỷ XVI chuyển chính quyền từ nhà Mạc trở lại nhà Lê - mà thật ra
vai trò điều hành chính là thuộc về các chúa Trịnh-xã hội đi dần vào ổn định. Ngay từ những
năm đầu của thế kỷ XVII với đời Hoằng Định (1601 - 1619) công việc xây dựng chùa đã đi vào
nền nếp mới. Rất tiếc, về giai đoạn xây dựng này hầu như ngày nay đã bị hư hỏng hết, các giai
đoạn sau đã làm lại hoàn toàn, chúng ta chỉ có thể biết qua văn bia hiện còn lưu ở di tích.
Chẳng hạn bia ở chùa Côn Sơn (Hải Dương) dựng vào các năm 1604, 1607, 1614, 1615 ; ở
chùa Keo Thái Bình dựng năm 1608 ; ở chùa Keo Nam Định dựng năm 1612 ; ở chùa Ngọc
Khám (Bắc Ninh) dựng năm 1612 ; ở chùa Thái Lạc(Hưng Yên) dựng năm 1612 ... Phần lớn
những bia này đều ghi ngay ở tên bia : "Trùng tu..." có nghĩa là nói về việc sửa chữa, nâng cấp
các kiến trúc cũ ở đây đã bị hư hại nặng.
+ Điển hình cho việc tu sửa trên là ở chùa Côn Sơn có tên chữ là Tư Phúc tự hoặc Thiên Tư
Phúc tự. Tổng hợp loạt bia từ 1604 đến 1615 chúng ta biết: chùa Côn Sơn vốn có từ thời Trần,
Tổ Trúc Lâm thứ 3 là Huyền Quang từng trụ trì ở đây nhưng đến nay chùa cũ đã hư hỏng. Vị sư
đang trụ trì là Mai Trí Bản tự Huệ pháp, hiệu Pháp Nhẫn đã cùng các vị tăng chánh họ Nguyễn
tự Huệ Hưng hiệu Pháp Đăng, các vị hội chủ ở các phủ Khoái Châu (Hưng yên), Từ Sơn (Bắc
Ninh), Thường Tín (Hà Tây), Thiên Trung ... và cung tần Lê Thị Ngọc Chu, quận chúa Trịnh
Thị Ngọc Liễu, thái uý Trịnh Đô Thương đã cung tiến của, cùng nhân dân xã Chi Ngại, hưng
công xây dựng lại Tam quan, phòng Oản, tu sửa hành lang hai bên, Thượng điện, Thiêu hương ;
làm Tiền đường, cây tháp quay Cửu phẩm liên hoa và Phật điện ... tất cả gồm 83 gian, 385 pho
tượng. Làm thêm các tượng Hộ pháp Khuyến thiện - Trừng ác, bộ tượng Tam Thế, 3 pho Cô
hồn, 1 pho sơn thần và trùng tu 18 pho tượng Phật ao ở nhiều nơi ghi ~an ling trăm ngưu công
đức, ghi cả Lệnh chỉ của Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An Vương (tức Trịnh Tưng) sắc
cho quan viên ~ã Chi Ngại được làm dăn tạo lệ miễn trừ phu thuế để trông nom chùa và phụng
thờ như cũ. Như vậy trong cao trào chắn hưng Phật giáo, chùa Côn Sơn được cả quý tộc và
nhân dân xa gần hưởng ứng tu sửa, mở rộng quy mô chùa thành một đại danh lam. Ngày nay
trên xà nóc toà Tiền đường còn dòng chữ cho biết rõ tuy được làm lại ở đời Khải Định, nhưng
nguồn gốc của nó là "Hậu Lê Vĩnh Tộ tiền nhân sáng tạo". Sự khang trang ở đời Vĩnh Tộ (1619
- 1628) chính là kết quả của những đợt tu sửa nối tiếp nhau trong dời Hoằng Định ngay trước
đấy.
+ Theo truyền thuyết và bia ký, hai bên sông Hồng gần như đối nhau, và tính theo đường
chim bay thì chỉ cách nhau chừng 2 km. Ở tả ngạn có chùa Keo Thái Bình và hữu ngạn có chùa
Keo Nam Định, vốn xưa chỉ là một, cùng ở bên hữu ngạn, đã ừng tồn tại suốt từ thời Lý đến
thời Mạc, nhưng rồi vào khoảng chuyển tiếp giữa hai thế kỷ XVI - XVII
(1588 ?) đê vỡ, đất sụt lờ, làng phải chia đôi. Một bộ phận lùi sâu vào làng Hành Thiện
ngày nay. Một bộ phận vượt sang tả ngạn đến làng Hành Nghĩa ngày nay. Hai bên cùng dựng
chùa gọi theo tên đất là Keo (mà tên chữ là Giao Thủy sau thành tên huyện) và đều lẩy tên chữ
là Thần Quang tự. Chùa lúc ấy chắc còn đơn giản, tấm bia Trùng tu Thần Quang tự đại pháp sư
bi dựng năm 1608 ở chùa Keo Thái Bình có kích thước rất lớn (cao 193cm, rộng 120cm) chứng
tỏ lúc này chùa được sửa chưa khang trang. Còn ở chùa Keo Nam Định, tẩm bia Tu tạo Thần
Quang tự bi ký dựng năm 1612 dù kích thước thuộc loại nhỏ (cao 80cm, rộng 57cm) cho biết
chùa được sửa chữa như làm lại với các toà Thiêu hương, Bảo điện và Tiền đường để chùa to
đẹp tráng lệ hơn xưa. Rất tiếc ở cả hai chùa Keo này không còn giữ được dấu tích ở đầu thế kỷ
XVII nữa, quy mô hiện tại đầu thuộc những lần dựng lại về sau.
+ Chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh) tên chữ là Linh ứng tự đã bị phá hủy song còn giữ được
tấm bia dựng trên lưng rùa vào năm 1612, tất cả cao trên 2m, bài văn bia mang tên cho biết :
chùa được xây dựng từ thời Trần, nay làm gác chuông và trùng tu Tiền đường, Hậu đường gồm
28 gian và 3 gian Tam quan, lại sửa 37 pho tượng, phía trước có ruộng 1 sào 3 thước để trồng
cây che cho chùa.
b) Tượng thờ
Do quy mô chùa lớn, nhiều toà nhà với không gian nội thất khác nhau, nên tượng thờ trong
chùa đã nhiều về số lượng cũng nhiều về chủng loại. Về chất liệu, đến năm 1728 phủ chúa
Trịnh mới ra lệnh cho phép quan và dân được làm các tượng Phật ở các chùa để cầu phúc,
nhưng phải làm bằng gỗ hoặc đá, cấm không được làm bằng đất nếu dừng đồng để đúc thì phải
xin phép bề trên. Nhưng trên thực tể cả trước đó , các tượng thờ ở chùa còn lại thường bằng
những chất liệu bền vững đích thực của điêu khắc, phải đến thời Nguyễn mới nhiều tượng đất
đắp. Do lượng chùa làm mới hoàn toàn ở thời Lê Trung Hưng đã lớn lại rất nhiều trong đó riêng
chùa Bút Tháp đã tập rung nhiều tượng nổi tiếng:
- Bộ Tam Thế, nói đầy đủ là Tam thiên tam thế gồm các Phật Quá khứ, phật Hiện tại, Phật
Vị lai tượng trưng cho ba nghìn thế giới nhà Phật: trong các chùa bộ tượng này bao giờ cũng
được đặt ở vị trí cao xa nhất của Phật điện, ngồi thiền trên toà sen, toàn thân kể cả da thịt và y
phục đều thếp vàng ròng, trừ tóc nâu đen xoắn, kích thước thường, lớn hơn người thực một
chút. Bộ Tam thế chùa Bút pháp trong bố cục quy định ấy vẫn có vẻ đẹp riêng: dáng mình có vẻ
bụ bẫm, vẻ mặt đăm chiêu nhìn xuống, toàn thân cân đối trong bố cục đóng kín, đầu nở với
nhục kháo to, tai dài đeo hoa, ngực đeo dây anh lạc, các nếp áo quần đều nuột nà. Cái riêng là
hai pho ngồi bán kiết, một pho ngồi kiết già tư thế tay thì mỗi pho một khác, đang kết những ấn
quyết khác nhau. Dây anh lạc ở ngực và dải dây buộc trước bụng là những hình trang trí tỉ mỉ,
trau chuốt. Toà sen có các cánh khá mập, mỗi cánh lại là một đồ hình trang trí. Điều đặc biệt là
phía sau tượng đều có vòng hào quang như một cánh hoa sen có viền hoa dây, ở giữa là quầng
sáng.
Quan âm thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp được đặt ở gian bên trái Thượng điện, quan
trọng nhưng gần đời để chúng sinh dễ tiếp cận. Toàn bộ tượng và bệ cao tới 3m70, được bố cục
Quan âm ngồi trên đài sen do con rồng đội qua bể . So với Tam Thế, Quan âm có phần thon thả
hơn, các nếp áo hòa với 42 cánh tay to và 789 cánh tay nhỏ làm thành vòng hào quang phía sau,
tất cả cử như nhấp nháy và trôi chảy vào không gian, nhân quy mô lên với vẻ hoành tráng.
Trong 42 cánh tay to, trừ đôi tay từ vai đang kết ấn liên hoa trước ngực và đôi tay phụ kết ẩn
Tam muội trong lòng bụng, còn 19 đôi tay khác dang ra hai bên cân đối, nhịp nhàng như một
đôi tay đang dịch chuyển trong các động tác khác nhau, như vậy biểu hiện được cả không gian
và thời gian, áo tượng toả xuống gắn kết với toà sen, tất cả đặt vững trên đầu con rồng nhưng lại
cứ như chao đảo. Bệ tượng ghi rõ được làm vào mùa thu năm Bính Thân (1656 ?) và do vị tiên
sinh họ Trương có tước Giao Thọ nam ở Nam Đồng đã vâng lệnh khắc. Đây là trường hợp rất
hiểm trong điêu khắc cổ Việt Nam. Loại tượng này đã rất phổ biến ở thời Mạc, nhưng Quan âm
thiên thủ thiên nhãn chùa Bút Tháp là hoàn chỉnh hơn cả, sau đó vào khoảng chuyển tiếp giữa
hai thế kỷ XVII - XVIII còn có ở chùa Tam Sơn (Bắc Ninh) và chùa Mễ Sở (Hưng Yên).
- Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền là hai hiệp sĩ ở hai bên đức Phật Thế Tôn hợp thành bộ
Hoa Nghiêm tam thánh. Theo quy định chung thì Văn Thù cưỡi sư tử xanh ở bên trái, còn Phổ
Hiền cưỡi voi trắng ở bên phải. Bộ tượng này ở chùa Bút Tháp đặt đúng phương vị, nhưng mỗi
pho ở một gian bên nhìn nhau qua gian giữa. Tư thế ngồi và bố cục hai pho dường như đăng đối
nhau, đều trong khối đóng kín, tĩnh tại mà cũng như sẵn sàng di động. Dáng cân đối với khối to
và nét chảy rõ ràng, trên thân ít trang trí mà tập trung cho chiếc mũ trên đầu. Có thể xem hai
pho này là mẫu cho những tượng cùng đề tài thuộc các thời sau thường thấy trong nhiều chùa.
49
- Tuyết Sơn tức thái tử Thích Ca đang tu khổ hạnh trên núi cao có tuyết phủ, chưa giác ngộ
thành Phật, vì thể còn đầy chất người. Tuyết Sơn chùa Bút Tháp là pho tượng sớm nhất về đề
tài này hiện còn, do đó đã lấy mẫu từ tượng Phật với tư thể ngồi thiền bán kiết, tay kết ấn Tam
muội, đỉnh đấu có nhục kháo tóc xoăn... Nhưng ngoài công thức chung ấy, nghệ sĩ đã thể hiện
sáng tạo : lấy mẫu từ một ông già Việt Nam, cả thể lực và tinh thần đều mạnh mẽ, vầng trán
cao, chân tay rắn chắc, chỉ có bộ xương vè ở ngực là lộ rõ, biểu hiện tuổi tác chứ không phải
gầy yếu, áo khoác phía bên phải chỉ vắt một mảnh trên vai để cân đối mã khác hẳn bên trái. Các
tà áo lại còn qua dùi chảy xuống toà sen, do đó bệ và tượng được gắn với nhau thành một chỉnh
thể. Từ mẫu tượng này, về sau đã gợi ý cho nhiều tượng Tổ chùa.
- Chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc được một số chùa tạc tượng để thờ, vì bà đã
tham gia xáy dựng khá nhiều chùa lớn ở chùa Mật (Thanh Hóa), chân dung bà được đặt cùng
khu với các bà phi khác ở xung quanh chồng là vua Lê Thần Tông. Các tượng này đều biểu
hiện vị thế quý tộc cao nhất trang trí diêm dúa. Trái lại, tượng bà Ngọc Trúc ở chùa Bút Tháp
thân hình thanh tao quý phái, song lại trong dáng dấp nhà sư ăn vận nâu sồng, và ao đó rất đời.
- Chân dung công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ được đặt
trong khám riêng ở hai bên hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, là những phụ nữ quý tộc trẻ vẻ mặt
sáng sủa, ngồi thiền nhưng ăn mặc sang trọng. Hai tượng này khá giống nhau, chỉ khác là nẹp
áo quận chúa để trơn, còn nẹp áo công chúa thì thêu hoa khá tỉ mỉ. Có thể coi đây là những
tượng Hậu Phật.
- Chân dung thiền sư Chuyết Chuyết và thiền sư Minh Hành ở chùa Bút Tháp là những
tượng Tổ chùa sớm nhất hiện còn, mặc dù hai thiền sư đều là người Trung Quốc song đã được
Việt Nam hoá, mang nét bình thản của kẻ tu hành, cơ bắp và da thịt được nghiên cứu giải phẫu
khá kỹ, luôn mang nét riêng. Những tượng chân dung này được chú ý thể hiện trên cả hai yêu
cầu sống và giống, có cá tính, có thần thái là mẫu cho các tượng Tổ chùa ở thời sau.
- Bộ tượng La Hán ở chùa Bút Tháp cũng là bộ tượng sớm nhất về đề tài này hiện còn, có
18 pho chia thành hai dãy ở hai hồi của Thượng điện. Môi pho ngồi trên một bệ bục riêng theo
những tư thể khác nhau, phần nào có thể liên tưởng đến các vị Tổ đầu của Phật giáo Ấn Độ, có
tinh thần nhập thế tích cực chứ không thoát tục như các tượng Tổ chùa, đều bằng gô, rất đời
thường, do đó khác hẳn hệ tượng La Hán thời Nguyễn bằng đất rất ít cá tính.
2. Điêu khắc
Điêu khắc đình làng không có những tượng thờ như ở chùa (trừ trường hợp cá biệt có tượng
thờ nhưng được đưa vào rất muộn ở thế kỷ XX), cũng rất hiếm tượng độc lập có thể di chuyển
mà một số đình thường gắn ở đầu xà nhô ra khỏi cột, mà cơ bản là chạm khắc trang trí nội thất :
có thể ở tai cột, ở mặt bên của một số xà và bẩy, nhưng phần nhiều là ở những bức cồn có diện
rộng, ở những ván nong dọc theo xà.
Lấy gian giữa làm tâm điểm quan sát ra xung quanh, những diện phầng rộng dễ đập vào
mắt người xem thường được nghệ sĩ dựng đình khoác lên bộ cánh điêu khắc với các kỹ thuật
chạm khác nhau, trong đó cơ bản là chạm bong kênh tạo độ nổi cao vênh và nhất là chạm lộng
luồn lách với nhiều lớp hình trong ngoài ánh sáng tự nhiên phản quang hắt lên hay ánh sáng đèn
nền đều thuộc loại ánh sáng nhẹ khi tác động đến mảng chạm đọng lại chỗ đậm chỗ nhạt làm
cho cả hình đặc và hình rỗng như âm - dương đối đãi tôn nhau lên. Những hình chạm ở cuối thế
kỷ XVII ít khi gọt rũa, thường để nguyên những nhát chạm phạt còn thô nhám với mảng miếng
rõ ràng, gân guốc, vừa dứt khoát vừa khoẻ chắc. Các đường hướng chuyển động của hình - nhất
là những tia mây lửa song hành, càng làm cho nó trôi chảy, và khi có các đường hướng phụ họa
thường vuông góc, tạo cảm giác chắc chắn.
Về đề tài điêu khắc trang trí đình làng cuối thế kỷ XVII được tập trung vào hoạt cảnh con
người, đôi khi có đan xen các con thú bình dị, còn rồng phượng chỉ làm nền – thậm chí làm
phương tiện cho con người hoạt động. Những hình khác nhau được dàn ra trên cùng một bức
cồn, một chiếc kê, một đoạn ván... chúng không che khuất nhau, cùng xuất hiện theo bố cục gọi
là "đồng hiện”, có tỷ lệ xấp xỉ nhau không phụ thuộc vào khoảng cách xa gần, phần nào nói lên
tinh thần dân chủ làng xã.
Trong nhịp sống đời thường có lao động, có vui chơi. Lao động thì bao giờ cũng vất vả,
cuộc sống thực đã thế, cuộc sống nghệ thuật phải hướng vào sự thoải mái, do đó rất hãn hữu
mới gặp cảnh lao động vất vả. Nếu ở đình làng Tây Đằng thời Mạc đã có cảnh bổ củi, cày voi,
gánh con... thì loạt đình cuối thế kỷ XVII dường như chỉ có cảnh đi cày ở đình Thổ Tang (Vĩnh
Phúc) . Cảnh săn bắt, săn bắn hổ có thể gọi là cảnh lao động của giới thợ săn, nhưng cũng có
thể coi là một hoạt động thể thao với tinh thần thượng võ, như câu ca ở vùng xứ Thanh : "Trai
Thổ Sơn ăn cơm với củ, mà lên rừng bắt hổ về chơi”. Hoạt cảnh theo chủ đề này gặp ở nhiều
đình dưới các dạng : săn bắt hổ, đấu hổ, cưỡi hổ, bắn hổ. Tất cả trước hết nhằm ca ngợi sức
mạnh và trí khôn con người, nhờ đó thắng cả mãnh thú.
Hoạt động thể thao mang tinh thần thượng võ thực sự là các cảnh đấu vật đấu võ múa
khiên, đua ngựa đấu giáo . . . được thể hiện ở rất nhiều đình khác nhau, cảnh nào cũng quyết liệt
võ sĩ luôn đấu hết mình, không hề cay cú ăn thua.
51
Hoạt động đấu vật được thể hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau của trận đấu, cả khi "túc lìa
địa” hay "lấm lưng trắng bụng” vẫn cười. Nhẹ nhàng là cảnh thi đá cấu nhưng "trọng tài" lại là
con hổ (đình Thổ Tang) . Cảnh chọi gà có khi chỉ cần một vế chủ ôm gà, nhưng con gà cứ muốn
nhoài ra lao vào đấu thủ. Thể thao tập thể là cảnh đua thuyền, có cả
chèo đứng và chèo ngồi, trong đó bức đua thuyền ở đình Cam Đà (Hà Tây) dùng kỹ thuật
các khối nhám nổi trên nền thủng để nhờ kỹ xảo ánh sáng tạo các mảng đen trắng gây ấn tượng
có sự chuyển động vun vút.
Cung nhiều cảnh vui như chuốc rượu, xem chèo, đặc biệt là múa hát có ở nhiều nơi. Các cô
gái múa có khi cưỡi rồng, cưỡi phượng như bay trên không trung, cánh tay thon tròn với bàn
tay uốn cong hết độ, rất gần với nghệ thuật múa chèo.
Một mảng đề tài có phần đối đầu với lễ giáo phong kiến là quan hệ trai gái. Đơn giản là
cảnh ngồi tình tự như ở đình Hương Lộc (Nam Định), vui nhộn hơn là các chàng trai trêu ghẹo
các cô gái tắm truồng như ở đình Đông Viên (Hà Tây), và cả cảnh ân ái vụng trộm (đình Nội -
Bắc Ninh) hay công khai với nhiều cặp (đình Phù Lão - Bắc Giang), mà càng ở đất Kinh Bắc
nho nhã càng được đẩy lên đỉnh cao.
IV - MẤY DẠNG CÔNG TRÌNH KHÁC CỦA NHÀ NƯỚC VÀ QUÝ TỘC
Ngoài hai mảng nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật đình làng, trong thời Lê Trung hưng
còn nổi lên một số công trình kiến trúc - điêu khắc khác, và có cả tranh cổ nữa, tất cả nói lên sự
phong phú của một giai đoạn phát triển sôi động.
1. Dinh thự
Nếu thế kỷ XVII nổi lên các kiến trúc chùa rồi đình thuộc về tập thể ở nhiều vùng quê, thì
sang thế kỷ XVIII do sự ăn chơi xa xỉ của tầng lớp quý tộc thống trị mà tiêu biểu là các chúa
Trịnh Công, Trịnh Giang, đã cho xây dựng một số phủ đệ, dinh thự ở các địa phương để phục
vụ cho các cuộc du ngoạn.
Năm 1727 Trịnh Cương cho dựng phủ đệ ở Cổ Bi (Hà Nội) có ý sánh và vượt cung điện
của vua Lê ở Thăng Long, xem như một kinh đô mới. Thế rồi năm 1729 đê sông Hồng ở Cự
Linh vỡ tràn vào Cổ Bi, làm đổ và cuốn trôi nhiều nhà cửa, Trịnh Cương đã sai hoạn quan đốc
suất quân dân sửa chữa. Nhưng Cổ Bi làm chưa xong thì Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên
thay liền bỏ Cổ Bi mà xây cung điện mới ở núi Nhu Sơn (Bắc Giang). Ngày nay trên khu vực
nền cũ Cổ Bi vẫn còn những cặp tượng hổ và lân bằng đá rất lớn.
Trịnh Cương còn xây dựng dinh thự cho bên ngoại thích gồm từ vũ Ngọc Quỳnh năm 1726
và dinh bà chúa Như Quỳnh (Hưng Yên) năm 1728. Tiếp theo, Trịnh Giang lại cho xây dinh
thự ở quê ngoại mình tại Tử Dương - Mi Thử (Hải Dương), xây cả dinh thự cho hoạn quan
Hoàng Công Phụ ở quê tại Quế Dương (Bắc Ninh) . Nhân đấy, nhiều quan lại cung xây dinh khi
sống và xây lăng mộ khi chết.
2. Lăng mộ
Lăng mộ các thời trước thường chỉ dành cho vua. Trường hợp lăng mộ Trần Thủ Độ (Thái
Bình) dựng năm 1264 là trường hợp cá biệt dành cho quan lại cấp cao. Nhưng đến thời Lê trưng
hưng, rất nhiều quan lại - đặc biệt là các quan hoạn (thái giám) - đã dựng lăng mộ to lớn, kéo
dài suốt hai thế kỷ XVII - XVIII : lăng quận Đăng (Thanh Hoá) - 1617 - 1626, lăng Nguyễn
Văn Nghi (Thanh Hoá) - 1628, lăng Vũ Hồng Lượng (Hưng Y án) - 1660, lăng Nguyễn Công
Triều (Hà Tây) - 1687, lăng họ Ngọ (Bắc Giang) – 1697 sửa 1714, lăng Huệ Linh (Hà Tây) -
1713, lăng quận Thạc (Thanh Hóa) - 1716, lăng Dinh Hương (Bắc Giang) - 1729, lăng họ Đỗ
(Bắc Ninh) - 1734, lăng Hiển Linh (Hà Tây) - 1734 sửa 1754, lăng Phú Đa (Vĩnh Phúc) - 1767,
lăng Nguyễn Diễn - 1769, lăng Phạm Huy Đĩnh (Thái Bình) - Các lăng này đều xây bằng đã, ở
giữa cánh đồng hay trên gò đồi, chiếm không gian rộng thoáng, dù một số lăng có tường vây
quanh cũng thắp, do đó luôn hòa đồng gắn bó với toàn cảnh để trải ra như vô hạn. Ngay chỉ
trong phạm vi có giới hạn thì cũng lớn vượt lên so với các lăng từ vua Lê chúa Trịnh về trước.
Nhiều lăng có cả nhà thờ. Bố cục rất tôn nghiêm, thường đăng đối hai nửa, lại có lớp trước lớp
sau. Điều quan trọng về mỹ thuật là các lăng đều có một số tượng đá, đều ở ngoài trời, phần lớn
to bằng thực để gợi lên cảnh phục dịch khi còn. sống, nhưng cá biệt có tượng nhỏ vui (lăng Vũ
52
Hồng Lường), lại có tượng rất lớn (lãng quận Đăng). Các tượng người và thú (voi, ngựa, chó)
thường ở dáng tĩnh lặng, một số nơi bố trí thành nhóm như người dắt ngựa,phá đi thế cân bằng
đến cứng nhắc lại vui.
3. Đền thần
Đền thờ các anh hùng là biểu hiện tâm lý “uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Trong thời
Lê trung hưng, nhiều đền thờ có tính quốc gia được xây dựng lại, quy mô khá lớn, đến nay vẫn
còn dấu tích rõ ràng: đền Lý Bát Đế (Bắc Ninh) - 1604, đền Vua Đinh (Ninh Bình) dựng năm
1607 nhưng đến 1696 làm lại quy mô lớn ổn định, đền Vua Lê (Ninh Bình) cũng được dựng ở
đầu thể kỷ XVI đến năm 1676 dựng lại cùng với đền Vua Đinh là trọng tâm của cố đô Hoa Lư.
Đền Gióng (Hà Nội) được làm nhiều đợt kế tiếp cơ bản là những năm 60 của thế kỷ XVII rồi
hoàn chỉnh vào năm 1705, đình Cổ Loa (Hà Nội) là nơi "Ngự triều di quy” cũng mang tính cách
đền thờ vua Thục An Dương Vương dựng năm 1687, còn đền Cổ Loa được làm lại khoảng
1708 - 1717. Văn Miếu Hà Nội là đền thờ Khổng Tử ở giữa thế kỷ XVII cũng được sửa chữa,
năm 1653 dựng cả một loạt bia đá.
Mỗi đền một vẻ đẹp phù hợp không gian môi trường, đều có quy mô lớn, trong đó mô hình
đền thờ ở cấp quốc gia mang dấu ấn thế kỷ XVII rõ nhất và cũng đẹp nhất là đền thờ vua Đinh
và đền thờ vua Lê ở Hoa Lư, song hành hướng Đông trong thung lũng giữa những dãy nhú đá
vôi điệp trùng có một tổng thể hoành tráng. Hai đền này cũng là hai tẩm thờ, cách lăng mộ
không đáng kể, khác chùa và đình có hoa đao, ở đây xây tường hồi bít dốc chỉ có hai mái lại
gần với nhà dân, còn chạm trang trí cùng dòng chảy điêu khắc đình làng. Đền vua Đinh có một
số bức chạm đá cuối thế kỷ XVII rất đặc sắc, không lặp lại ở đâu : chiếc sặp long sàng với cặp
tượng rồng ở hai bên, đôi tượng rồng trong cung cắm hai bên khu thờ tượng vua Đinh Tiên
Hoàng, bia và đế bia chạm thú năm 1696. . . một lần nữa khẳng định tài nghệ của các nhà điêu
khắc xưa rất thành thạo trên cả các chất liệu đá và gỗ . Nếu mở rộng ra quán Trấn Vũ mà dân
quen gọi là đền Quán Thánh (Hà Nội) thờ Huyền Thiên trấn giừ phương Bắc thủ đô, trong đền
có pho tượng Huyền Thiên bằng đồng đúc từ đời Lê Vĩnh Trị (1676 - 1680), cao 3m96 nặng
4.000 kg liền một khối, là cả một kỳ công về điêu khắc đồng thế kỷ XVII.
Thời Lê trung hưng thường được coi là giai đoạn trì trệ của xã hội Việt Nam do sự khủng
hoảng toàn diện, trầm trọng của chế độ phong kiến. Nhưng do những nghịch lý văn hoá, các
công trình kiến trúc - điêu khắc tiêu biểu thuộc các loại hình chùa - đình - đền - lăng mộ với các
chất liệu gỗ - đá đồng đều phát triển đến đỉnh cao, và do đó xuất hiện nhiều nghệ sĩ điêu khắc
nổi tiếng mà cuộc đời sáng tạo hoặc được vào bia đá, hoặc trở thành huyền thoại để sống mãi
với dân tộc. Đây cũng là giai đoạn cả kiến trúc và điêu khắc đều đạt tới đỉnh cao còn lại đến tận
ngày nay.
53
Chương IX
MỸ THUẬT THỜI TÂY SƠN (1788- 1802)
54
quyền vua Lê ở Thăng Long rồi trở lại Phú Xuân. Từ đây Phú Xuân đã trở thành trung tâm
chính trị của Tây Sơn – Nguyễn Huệ, rồi thành kinh đô của vương triều Tây Sơn.
Trước đó, Phú Xuân có hơn mười năm bị quân Trịnh chiếm, nhưng cơ bản vẫn là Phú Xuân
– thủ phủ Đàng Trong của chúa Nguyễn được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII. Vì thế về quy
hoạch và quy mô của kinh thành Phú Xuân là trên cơ sở dinh trấn Phú Xuân mà Lê Quý Đôn đã
xác nhận trong Phủ biên tạp lục: nơi đây thu nước bốn đầm lớn mà nắm bốn cửa biển, có năm
lần hồ thủy (nước ở bên hữu) ôm đằng trước, có ba lần long sa (cát ở bên tả) ngăn bên trái, đất
bằng rộng hơn 10 dặm, ở trong là Chính dinh đất cao, bốn bề đều thấp, ngôi vị càn (tây bắc)
trông hướng tốn (đông nam), dựa ngang sống đất, trông xuống bên sông, đằng trước là quân sơn
chầu về la liệt, toàn thu nước ở bên hữu, vật lực thịnh giàu.
Cơ sở địa – văn hóa ấy của Phú Xuân dễ gợi sự xác định vị trí địa linh của thành Đại La để
vua Lý Thái Tông xây dựng kinh đô Thăng Long. Ở đó, các chúa Nguyễn đã xây nhiều phủ,
điện có “mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ, … chạm khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực … Vườn
sau thì núi giả đá quý, ao vuông quanh hồ, cầu vồng thủy tạ, tường trong tường ngoài được gắn
sành sứ thành các hình rồng – phượng – lân – hổ và cỏ hoa”. Mở rộng ra khu dân cư, hai bên
sông Phú Xuân và sông Phú Cam là các nhà vườn phố chợ liền nhau, đường đi ở giữa, cây to
bóng mát thành hàng, thuyền đồ như mắc cửi. Đan xen có nhiều chùa công là những đại danh
lam.
Khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân có thu phá những đồ đồng, loại vừa và nhỏ, vẫn giữ
nguyên những đồ đồng lớn và các công trình kiến trúc cũ. Thành tựu trên cũng là bộ mặt của
kinh thành Phú Xuân thời Tây Sơn, hẳn có xây dựng thêm một số nữa. Những di tích và di vật
thời các chùa Nguyễn còn đến nay ở Huế như chùa Thiên Mụ, như 11 chiếc vạc đồng, chứng tỏ
đã được triều Tây Sơn tôn trọng và giữ gìn.
Nguyễn Thế Lịch trong khi ra vào cung điện ở Phú Xuân để triều kiến vua Quang Trung,
ông thấy có bộ tranh 8 bức liên hoàn vẽ 100 em bé để trang hoàng cung điện, đã vâng mệnh làm
8 bài thơ Nôn để đề vào 8 bức tranh:
- Bức 1: vẽ bầy trẻ vui hát múa điệu rồng bay
- Bức 2: vẽ bầy trẻ vui hát múa điệu kỳ lân
- Bức 3: vẽ bầy trẻ múa hát và hai em xem sách
- Bức 4: vẽ cảnh đào đất đắp tường và lội ao hái sen
- Bức 5: vẽ mai, chim, trúc, đá, đánh cờ và xem cá lội
- Bức 6: vẽ dưới thông gảy đàn, bên mai đốt pháo
- Bức 7: vẽ trên nhà xem sách, dưới sân cưỡi ngựa bắn cung
- Bức 8: vẽ cảnh ngâm thơ đề vách, chọi gà bắn côn
Như vậy, những bức tranh này đều hướng đến cuộc sống hiện thực trong xã hội, là những
em bé – chủ nhân tương lai của đất nước, là phong cảnh xứ sở, là những hoạt động thi thư và
thượng võ.
Mở rộng ra vùng ngoại vi Huế, chùa làng La Chữ (Hương Trà) còn giữ được quả
chuông do vợ chồng Đại Tư đồ Vũ Văn Dũng cùng bố mẹ vợ công đức, đúc năm Tân Hợi –
1791, cao 126cm, dáng giống chuông truyền thống ở ngoài Bắc, song có một số sáng tạo mới.
Tên chuông là 4 chữ Xuân – Hạ – Thu – Đông chỉ 4 mùa trong năm, mỗi chữ lại kẹp giữa hai
hình trong bộ Bát bảo, quanh bụng chuông đúc nổi các hình hợp thành bát bộ Kim Cương mang
vũ khí phần thân gần miệng đúc nổi các con vật trong bộ Tứ Linh văn chuông là bài kệ 4 câu 6
chữ và câu thần chú niệm ba lần.
Rất tiếc khi nhà Nguyễn xây dựng kinh đô Huế đã phá thành Phú Xuân để cải tạo địa thế
theo quy hoạch mới, nên ngày nay biết rất ít về kinh đô của triều Tây Sơn. Di vật nghệ thuật của
Tây Sơn sáng tạp ở quanh Huế cũng thật hãn hữu.
2. Kiến trúc tôn giáo
Trên đất Bắc hà, cho tới cuối thời Lê Trung Hưng, bộ mặt văn hóa làng quê đã ổn định.
Sang thời Tây Sơn chịu sự bổ sung, sửa chữa, nếu cần thì làm mới lại. Nhưng thời gian ổn định
để làm văn hóa ở thời Tây Sơn quá ngắn, những năm đầu của thời Quang Trung thì hậu quả của
sự suy thoái chưa được khắc phục ngay, những năm cuối của đời Quang Toản thì nhà Tây Sơn
55
không còn sinh khí, do đó di tích nhân dân ta sáng tạo được trong thời Tây Sơn không nhiều,
những thăng trầm xã hội sau đó lại nặng nề nên còn lại không là bao.
Tuy thế, một số di tích có niên đại tuyệt đối Tây Sơn đã được phát hiện cũng cho ta
nhận dạng được kiến trúc đương thời: chùa Kim Liên (Hà Nội) – 1792, chùa Tây Phương (Hà
Tây) – 1794, đền Vua Bà (Nghệ An) – 1798, đình Niền Xá (Bắc Ninh) – 1800, đình Phong Cốc
(Quảng Ninh) – 1800 …
- Điều lý thú là chùa Kim Liên và chùa Tây Phương vốn đã có từ trước, nhưng qua
chiến tranh bị hư hỏng nặng, đầu thập niên 90 của thế kỷ XVIII phải dựng lại hoàn toàn, trước
sau nhau 2 năm, ở hai nơi cách nhau chừng 40 km nhưng lại rất giống nhau (trừ những sửa
chữa, bổ sung và thay đổi ở các thời sau).
Chùa Kim Liên dựng trên một gò nổi ven hồ Tây, chùa Tây Phương lại dựng trên đỉnh
núi đất Tây Phương cao chừng 50m, đều không xây tường bao quanh khuôn viên mà dùng vườn
cây, vườn cảnh để hòa nhập vào môi trường mà trải ra vô hạn, khác với kiểu chùa “trăm gian”
nội Công ngoại Quốc ở giai đoạn trước có sự vây bọc đóng kín.
Chùa Kim Liên còn giữ được Tam quan dựng cùng thời với các tòa chùa của khu Tam bảo, là
kiểu kiến trúc độc đáo duy nhất ở Việt Nam: dàn ra ba cửa, cửa giữa cao rộng hơn hai cửa bên,
tất cả đều chỉ có một hàng cột, toàn bộ sức nặng truyền xuống đất chỉ thông qua có 4 cột dựng
trên một đường thẳng, thế mà ngang nhiên đứng vững trong nhiều cuộc đối đầu với gió bão.
Các vì đỡ nóc là những con đường chồng đè xuyên qua cột được trang trí rồng mây, cả tầng trên
của cổng giữa và tầng dưới của hai cổng bên đều có bốn mái tỏa về bốn phía, và do đó có tám
hoa đai uốn cong bốc lên xum xuê, bay bổng. Đây là một thành công lớn cả trong tính toán kỹ
thuật và trong sáng tạo nghệ thuật.
Khu Tam bảo hai chùa đều rất giống nhau, đều gồm ba tòa nhà song hành theo kiểu chữ
Tam ( ) là sáng tạo của thời Tây Sơn, nhưng xung quanh xây tường và lắp cảnh cửa bao lại
theo chữ Công (I) là kiểu truyền thống vốn đã phổ biến từ thế kỷ XV, do đó cả khi những cánh
cửa khép lại, tổng thể đóng kín theo chiều ngang nhưng vẫn mở theo chiều dọc, luôn đón được
nắng gió làm cho nội thất được chiếu sáng và thông thoáng. Khoảng sân chùa Kim Liên hẹp,
còn ở chùa tây Phương đủ rộng để xây bể nước vừa làm gương hắt sáng, vừa đảm bảo trong
chùa luôn có ôn độ cần thiết.
Cả ba tòa chùa đều dựng theo lối chồng diêm với hai tầng mái xòe ra bốn xung quanh,
tất cả có 24 lá mái và 24 hoa đao, cứ trùng điệp nhấp nhô, lặp lại mà như đổi mới. Phần cổ diêm
lắp ván nên cơ động, nhìn bên ngoài như nhà hai tầng (kiểu gác chuông), song nội thất thống
nhất một khối từ nền đến nóc tạo không gian thuận lợi cho việc bày tượng. Phần thân chùa, trừ
phía trước ba gian lắp cánh cửa, phần còn lại xây tường gạch Bát Tràng nung già, mạch dày, để
mộc như mảng kẻ ngang trang trí, trong đó giữa mỗi mảng tường lại trổ cửa tròn “sắc – không”
gồm nhiều vòng tròn đồng tâm nửa đặc nửa rỗng đan xen, tạo mối quan hệ vuông – tròn đối đãi
và cũng là cách lưu thông không khí trong ngoài.
Vào bên trong, bộ khung chùa gồm những thành phần vừa phải ưa nhìn, gắn bó nhau
bằng mộng mẹo xít xao, chủ yếu bào trơn đóng bén, xoi gờ chạy chỉ, nhưng vẫn dành tỷ lệ cần
thiết để trang trí ở các mặt bẩy, đầu giường và nhất là ván nong xà hạ. Hai tòa chùa trước và sau
giống nhau về đề tài trang trí chủ yếu là loại lá nhiều thuỳ như lá ngô đồng, đu đủ hay thầu dầu;
còn tòa chùa giữa ngắn hơn (1 gian 2 dĩ) nhưng lại rộng hơn và cao hơn thì trang trí cũng khác
gồm hổ phù, rồng, phượng. Các đấu kê cột và đội giường đều làm thành đóa sen nở rộ, các dép
đỡ hoành đều làm như con thuyền.
Kỹ thuật chạm nổi vừa phải, đường nét uốn lượng tươi mát, hình rõ ràng, nền thoáng …
tất cả tạo cảm giác thanh thản, trang nhã khác với sự cứng cỏi trước nó và sự vụn rối ở giai
đoạn sau nó.
Bên cạnh chùa còn có đền và đình. Rất tiếc đền vua Bà đã bị bom Mỹ phá sập. Đình Niềm
Xá và đình Phong Cốc không phải dựng mới mà sửa ở thời Tây Sơn. Đình Phong Cốc vốn có từ
thế kỷ XVII, thời Tây Sơn sửa và kéo dài phần thờ Thành hoàng ở gian giữa thành chuôi vồ làm
Hậu cung. Phần Đại đình này ở thời Lê Trung Hưng và thời Tây Sơn còn thông thoáng, nhìn
thẳng xuống bãi rộng. Nhưng năm 1806 nhân dân mua thêm ngôi đình to lớn từ nơi khác về,
dựng ở phía trước làm Tiền tế đã che chắn mất công trình của thời trước.
56
III. ĐIÊU KHẮC
Nổi trội lên trong điêu khắc thời Tây Sơn là tượng tròn, tuy không ghi niên đại trực tiếp lên
tượng hay bệ, bia cũng không nói thẳng đến việc làm tượng, song về phong cách nó khác hẳn
tượng các thời khác có niên đại rõ ràng, phù hợp với đường nét hoa văn trang trí kiến trúc kể
trên, và đặc biệt phù hợp với tinh thần xã hội rạng rỡ của thời Tây Sơn.
Bằng các phương pháp so sánh và loại trừ, các nhà nghiên cứu đã xác định được phần lớn
các tượng thờ ở chùa tây Phương là thuộc về thời tây Sơn: 18 vị Tổ kế đăng, 8 vị Kim Cương,
thái tử Vi Đà, bộ tượng Di Đà tam tôn (A Di Đà và hai Bồ tát Quan Thế Am, Đại thế Chí), Di
Lặc tam tôn (Di Lặc và hai Bồ tát Pháp Hoa Lâm, Đại Diệu Tường), Tuyết Sơn. Lấy những
tượng trên làm chuẩn, có thể tin bộ tượng 8 vị Kim Cương chùa Ninh Hiệp (Hà Nội), bộ tượng
Hộ Pháp và hai Tổ đầu Ca Diệp và A Nan Đà chùa Phúc Khánh (Hà Nội), tượng chân dung đô
đốc Đặng Tiến Đông và bốn người nhà của ông ở chùa Trăm gian (Hà Tây), tượng Trấn Vũ ở
đền Cự Linh (Hà Nội) … cũng thuộc thời Tây Sơn. Như vậy tượng thờ thời Tây Sơn không quá
ít, có đủ các loại tượng Phật, tượng Bồ tát, tượng Tổ kế đăng, tượng Kim Cương, tượng Thánh,
tượng chân dung. Về phẩm chất nghệ thuật, nổi trội lên là tượng chùa Tây Phương.
- Tuyết Sơn là thái tử Thích Ca Mầu Ni rời bỏ kinh thành lên núi cao có tuyết phủ để tu
hành khổ hạnh, chỉ ăn uống cầm hơi, quên thân mình, tập trung suy tư. Với lối tu ép xác, ngài
quên mình, xả thân vì nhân quần xã hội, song không thành đạt. Đến thế kỷ XVII đã có tượng
Tuyết Sơn chùa Bút Tháp, nhưng đến chùa Tây Phương, Tuyết Sơn được diễn tả theo lối khác,
bình dị hơn. Đây là một ông già Việt Nam ở các làng quê, mình gầy đét, bộ xương lộ rõ dưới
làn da, trên thân mình nhiều hốc lõm với đường nét quằn quại … tâtr cả đều biểu thị cái chết vật
chất. Khối đầu cũng nhiều hốc lõm trên gương mặt nhưng hộp sọ tròn căng tập trung suy tư,
chứa chất cái sống tinh thần dồi dào. Tượng ngồi lặng yên, trầm tư mà có sự vận động nội tâm
rất lớn.
- Di Lặc là Phật trong tương lai theo lời tiên tri “Di Lặc xuất thế, thiên hạ thái bình”, nên
được dân chúng chờ đợi với hy vọng lớn. Lúc đó, cuộc sống cả vật chất và tinh thần đều được
thỏa mãn ở mức tối đa. Di Lặc chùa Tây Phương là tượng sớm nhất về đề tài này hiện còn,
được tạc trong một khối đóng kín căng mẩy, ngồi hơi ngả về sau rất thoải mái, gương mặt rạng
rỡ toàn thân như đang cười, các khối cứ như rung lên.
- A Di Đà Phật là Phật ở cõi Cực lạc, sẵn sàng tiếp dẫn đón nhận chúng sinh vào thế giới
thanh tao, trong sạch, vui mừng, đầy đủ. Cứ niệm đến tên Người là Người hiện đến cứu giúp.
Nên tên Người đã trở thành tiếng chào nhau của các Phật tử. Thông thường tượng A Di Đà ở
các thời trước được thể hiện ở thế ngồi thiền kết ấn Tam muội, song ở chùa Tây Phương lại
được thể hiện ở thế đứng với những quý tướng của Phật, như nhìn khắp chúng sinh để thấy hiểu
và giải thoát cho họ. Các nếp áo trôi chảy xao động làm cho tượng sinh động hẳn lên.
- Hai Bồ tát Quan Thế Am và Đại Thế Chí xem như vệ sĩ của A Di Đà, biểu hiện cho từ
bi và trí tuệ, hợp thành chính giác của đức Phật. Trong cùng bộ với A Di Đà đứng, hai tượng
này cũng thể hiện ở thế đứng với vẻ đẹp nữ giới lộng lẫy mà thuần hậu. Hai tượng giống nhau ở
vị thế đăng đối, mặc áo dài nhưng ống tay ngắn để lộ da thịt nõn nà. Mũ và yếm được chạm
khắc trang trí tỉ mẩn, còn áo chỉ dùng nếp gấp và đường chảy để điểm tô.
- Hai Bồ tát Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường cùng bộ với tượng Di Lặc ngồi nhưng lại ở
thế đứng, được tạc trong khối các tượng tổ hoạt động rất sôi nổi, song là Bồ tát lại rất nghiêm
túc, đang kết các ấn Liên hoa và Mật phùng, các nếp áo chảy xuôi càng làm tăng vẻ trang nhã,
mực thước.
- Hệ thống Tổ kế đăng là những người nối tiếp nhau thắp sáng ngọn đuốc tuệ Phật giáo từ
sau khi đức Phật Thế Tôn nhập niết bàn. Theo lịch sử Phật giáo có 28 vị Tổ Tây thiên và tiếp
theo là 6 vị Tổ Đông độ, nhưng ở chùa Tây Phương chỉ có 18 vị Tổ Tây thiên từ 1 đến 20, trong
đó vắng hai vị Tổ 11 và 15 – có thể vì một lý do phê phán mà nghệ sĩ không thích nên không
tạc. Các vị Tổ này từng được vẽ hình trong các sách của Trung Quốc Ngũ Đăng Hội Nguyên
thời Tổng, Tam Tài Đồ Hội thời Minh và sách của Việt Nam Thiền Uyển Kế Đăng Lục thời Lê
Trung Hưng, nhưng tượng ở chùa Tây Phương từ sự gợi ý của hình vẽ, đã sáng tạo qua hình
khối của điêu khắc thành những tác phẩm được những người sành nghệ thuật đánh giá rất cao.
Mỗi vị Tổ đều có tên tuổi cụ thể, có cá tính sắc nét, có hoạt động với những mốc nút. Dựa vào
tiểu sử đó, các nghệ sĩ thời Tây Sơn đã từ hiện thực cuộc đời của từng vị Tổ, mà thể hiện mỗi
57
nhân vật ở một tư thế, có một động thái riêng, tập hợp được cuộc đời cụ thể cùng tâm trạng ở
nhiều người vào một cá thể, do đó pho nào cũng được điển hình hóa cao độ. Tổ 1 Ca Diếp thì
thông minh, quả quyết; Tổ 2 A Nam Đà thì hể hả, uyên bá; Tổ 3 Thương Ná Hòa Tu thì đăm
chiêu chín chắn; Tổ 4 Ưu Ba Cúc Đa thì tháo vát, thấu đáo; Tổ 5 Đề Đa Ca thì trong sáng, đĩnh
đạc; Tổ 6 Di Giá Ca thì ham học hỏi, thích tìm tòi; Tổ 7 Bà Tu Mật thì lịch thiệp, đôn hậu; Tổ 8
Phật Đà Nan Đề thì sáng khoái, thanh nhàn; Tổ 9 Phục Đà Mật Đa thì băn khoăn, day dứt; Tổ
10 Hiệp tôn giả thì kiệm lời, nhìn chú mục; Tổ 12 Mã Minh thfi hay tranh biện, quyết thắng; Tổ
13 Ca Tỳ Ma La thì gan góc, tự tại; Tổ 14 Long Thụ Tôn giả thì uyên bác, đĩnh đạc; Tổ 16 La
Hầu La Đa thì day dứt, bệ vệ; Tổ 17 Tăng Già Nan Đề thì trầm tư, kín đáo; Tổ 18 Già Da Xá
Đa thì hay đi, thích quan sát; Tổ 19 Cưu Ma La Đa thì tình tứ, thoải mái; Tổ 20 Xà Dạ Đa thì
nghèo túng, đau khổ … Rõ ràng mỗi con người một thân phận, hình hài được nghiên cứu giải
phẫu gắn với tâm lý rất kỹ, lại được bày theo nhịp điệu mà không theo thứ tự nên thoáng hoạt.
- Các vị Kim Cương và thái tử Vi Đà là những thiên tướng có nhiệm vụ bảo vệ Phật pháp,
do đó mang tư cách Hộ pháp đềy là những trang thanh niên tráng kiện, mỗi người trang bị một
loại vũ khí khác nhau, đều trong thế võ, ai cũng hùng dũng, quả quyết nhưng có người đằng
đằng sát khí, có người lại đôn hậu, nhân ái. Y phục võ quan nhưng mềm mại, các dải và mép áo
bay lượn, trang trí nhiều mà không rối, các mảng chảy sóng mượt.
- Các tượng ở chùa Tây Phương đã mang tính tượng chân dung, nhưng vẫn là những con
người dù có tiểu sử rõ ràng mà nghệ sĩ vẫn phải tưởng tượng. Tượng chân dung đích thực, điển
hình là Đô đốc Đặng Tiến Đông ở chùa Trăm gian mà dân quen gọi thân mật là “Quan Đô”.
Ông là một võ tướng, đã lập công lớn trong chiến dịch Xuân Kỷ Dậu 1789 đại phá quân Thanh,
nhưng sau đó về làng đóng góp nhiều cho việc mở mang chùa Trăm gian, được xem như Hậu
Phật tạc tượng thờ ở chùa. Tượng có phong độ của người từng trải, điềm tĩnh, trầm tư, đôn hậu,
thanh thản. Ông được thể hiện ăn mặc giản dị, những nét riêng trên gương mặt được nhấn mạnh
như gò má cao, mắt nhỏ và sáng, mũi nở, môi dày, râu quai nón ngắn. Trong vòng tranh tối
tranh sáng, với đèn nến và khói hương, tượng như người thực nhúc nhích hoạt động.
- Tượng thánh Trấn Vũ đền Cự Linh là một tác phẩm điêu khắc khổng lồ, ở thế ngồi còn
cao tới 3m8, chỗ rộng nhất giữa hai đùi tới 5m9, nặng chừng 4000 kg, dù được tham khảo
tượng cùng tên ở đền Quán Thánh (Hà Nội) đúc ở nửa sau thế kỷ XVII thì vẫn là một kỳ công
của điêu khắc và của kỹ thuật đúc đồng. Tượng thể hiện một đạo sĩ, tay bắt quyết, lại được phù
trợ bởi con rắn quấn quanh lưỡi kiếm chống trên lưng rùa, tạo sự huyền bí, linh thiêng.
- Gần gũi, có thể xem như cùng loại với điêu khắc là chuông đồng. Do ở cuối thời Lê Trung
Hưng, vào các năm 1740 và 1787 nhà nước tổ chức thu vét đồ đồng để đúc tiền, nên rất nhiều
chùa đã bị mất chuông. Mà chuông đồng là một pháp khí gắn với sự tu trì của đạo Phậtm, chùa
không thể thiếu chuông. Trong đời Quang Toản, suốt niên hiệu Cảnh Thịnh, hầu hết các chàu
đã tổ chức đúc lại chuông. Chỉ quanh Hà Nội và vùng ven, đã tìm được hàng trăm chuông đồng
có niên đại Tây Sơn, đều là chuông loại lớn và rất lớn, có dáng cân đối, là cầu nối của chuông
thời Trần đến Lê Trung Hưng bụ bẫm với chuông thời Nguyễn thon dài, nhiều chuông có quai
có hình một con rồng hoàn chỉnh vui mắt, chữ khắc sắc gọn.
Thời Tây Sơn tuy chỉ rất ngắn, chặt chẽ thì chỉ có 14 năm (1788 – 1802), bình thường thì
thật khó tạo được một nền nghệ thuật riêng, trên thực tế dù giai đoạn đầu và cuối rất khó khăn,
nhưng đã để lại cho dân tộc một thành tựu mỹ thuật độc đáo.
Sở dĩ có được thành tựu lớn là do có sự chuẩn bị kỹ: nghệ sĩ được đào tạo có tay nghề cao
từ thời Lê Trung Hưng (như Tô Phú Vượng, Hoàng Đình Uc về tạc tượng. Đào Thúc Kiên về
vẽ tranh … nhưng do những cấm đoán của nhà nước Lê – Trịnh và đời sống khó khăn của nhân
dân nên không có dịp trổ tài), đời sống nhân dân nâng cao, xã hội ổn định, văn hóa dân tộc
được coi trọng, tất cả đã tạo không khí xã hội cởi mở khiến cho nghệ sĩ có được mảnh đất tốt
như cá gặp nước để trổ tài sáng tạo. Sự giao lưu văn hóa với phương Bắc được mở rộng cũng
giúp cho nghệ sĩ có thêm tài liệu để làm giàu cho nghệ thuật dân tộc.
Thời gian ngắn nhưng thành tựu nghệ thuật lớn, hoàn toàn xứng đáng một giai đoạn riêng.
58
59
Chương X
MỸ THUẬT THỜI NGUYỄN (1802- 1885)
2. Tượng thờ
Nếu các giai đoạn trước, tượng thừ thường chỉ ở các chùa quán, hãn hữu mới có ở đền, thì
sang Nguyễn tượng thờ ở các chùa được bổ sung, ở đền được tăng cường và đôi khi có cả ở
đình nữa.
Trong chùa thờ Nguyễn, Phật, điện đông đúc hẳn lên. Các đề tài vốnddax ổn định từ trước,
nay càng được khẳng định, như các bộ Tam Thế, Di Đà tam tôn, Hoa Nghiêm tam thánh … Hai
tượng Tuyết Sơn và Di Lặc thời trước còn rất hiếm thì nay đã trở nên phổ biến và thường được
bày thành một hàng ngang (chứ không như ở chùa Tây Phương thời Tây Sơn bày theo hàng
dọc). Tượng Thích Ca sơ sinh bây giờ không chỉ làm pho tượng chính, còn làm thêm 9 con rồng
chầu quanh để có tên mới là tượng Cửu Long, trên đó lại có rất nhiều tượng nhỏ bày thành một
Phật điện hoàn chỉnh nhất nhưng lại cũng mang đậm tính mỹ nghệ hơn là mỹ thuật. Gắn với
Thích Ca sơ sinh, ở hai bên có thêm hai tượng lớn Phạm Thiên và Đế Thích là những vị vua
64
Trời theo sát cuộc đời đức Phật để hoan hỷ và bảo trợ. Tượng Ngọc Hoàng còn thấy đã có từ
thời Mạc, nhưng cũng thật hiếm hoi, thì đến thời Nguyễn được làm rất nhiều và có Nam Tào –
Bắc Đẩu thành cả bộ đầy đủ. Tượng Quan Am tọa sơn giờ vẫn được làm thêm nhiều, song cải
biến một chút thành tượng Quan Am tống tứ (tức Quan Âm Thị Kính) hầu như có ở mọi chùa.
Từ bộ tượng Kim Cương các thời trước, thời Nguyễn một vài nơi vẫn tiếp tục , song từ đó gợi
ý để các bộ Tứ Trấn và nhất là bộ Hộ Pháp Khuyến thiện – Trừng ác đứng hay ngồi đều rất lớn
gần chạm mái nhà. Các tượng Đức Ông và Thánh Tăng cũng ở thời Nguyễn mới phổ biến và rất
được coi trọng. Về chất liệu nhiều tượng vẫn làm bằng gỗ, nhưng có một số làm bằng đồng, đặc
biệt những tượng lớn thường làm bằng đất (mà ở thời Lê trung hưng bị cấm). Nhiều tượng thời
Nguyễn thường có khóa áo ở vai bên trái. Trong các đền xưa, các anh hùng thường chỉ được thờ
bằng bài vị, thì nay nhiều nơi đã tạc tượng để thờ. Một loạt tượng ở đền Gióng (gồm đức thánh
Gióng, các vũ nữ và các tướng lĩnh), đền Hai Bà Trưng, đền vua Đinh, đền vua Lê, đền đức
Thánh Trần … đều được làm thêm ở thời Nguyễn. Với xu hướng hiện thực, các nghệ sĩ thời
Nguyễn làm tượng thường lớn bằng người thực, còn gắn mắt kính và cắm râu làm bằng cước
hoặc sợi đồng trông như thực. Thêm vào đó là những hình trang trí vụn vặt, những họa tiết rậm
rối, những đường nét ẻo lả.
Trong các Phủ và điện Mẫu trong nhiều chùa, đến thời Nguyễn đặc biệt phát triển, có thể
trong hoàn cảnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải đề cao tín ngưỡng dân tộc để làm đối
trọng với Thiên chúa giáo đang có nguy cơ bành trước, thì các bộ tượng Tam tòa Thánh Mẫu,
Tứ Phủ, rồi cả các bộ tượng Ông Hoàng, bà Chúa, các tượng Cậu, tượng Cô đều không thể
thiếu, nhưng thường làm theo công thức, ít sáng tạo.
Tất cả các tượng thờ trên đây, do một lối quan niệm hiện thực là hiện trạng tự nhiên nên
tượng ở thời Nguyễn thường “giống như thật”, làm cho tượng cứng theo công thức, rối như tự
nhiên. Có chăng chỉ tượng các Tổ chùa ở thời Nguyễn rất phổ biến, xuất phát từ mẫu người
thực nên yêu cầu “giống” làm cho tượng mang chất chân dung, có đặc điểm nhân dạng và cá
tính nữa, lại khiến cho nhiều tượng rất sinh động.
3. Tranh cổ
Tranh thờ và tranh dân gian đã có từ nhiều thế kỷ trước, nhưng do bị thời gian hủy hoại nên
ít có bản cổ còn lại. Tranh thờ sớm nhất hiện còn có thể thuộc cuối thế kỷ XVIII, nhưng chắc
chắn hơn là ở thế kỷ XIX. Nếu ở đền Độc Lôi (Nghệ An), có 14 bức, trong đó được nhắc nhiều
là “Ngoại quốc đồ”, “Học hiệu đồ”m “Văn quan vinh quy đồ”, “Võ quan vinh quy đồ” … là
những tranh truyện có nội dung, được diễn tả theo sách vở, gắn nhiều hơn với thời Lê trung
hưng, thì các bộ tranh Thập điện Diêm Vương có ở một số chùa, vẽ riêng mỗi điện thành một
bức trên giấy, vải, hay vẽ gốp 5 điện vào một bức trên ván gỗ lại có nhiều khả năng thuộc thời
Nguyễn, được vẽ theo lối đồng hiện vừa cảnh Diêm Vương cùng phán quan xét công luận tội ở
phía trên, vừa cảnh các tội nhân bị quỷ sứ tra tấn dã man ở dưới. Các nhân vật được diễn tả theo
quan hệ xã hội chứ không theo khoảng cách xa gần, người có vai vế dược vẽ to và ở chính giữa,
ở phía trên, sau đó nhỏ dần, chuyển sang hai bên, các tội nhân ở dưới cùng và bé tí. Một số
tranh Phật, tranh Bồ tát cũng được vẽ, có lẽ dùng để thờ thay tượng ở các điện hoặc chùa nhỏ
hẹp mang tính tư nhân.
Được vẽ trên ván cũng còn ở đôi nơi, trong đó thường nhắc đến bộ Bát tiên ở đình Lỗ Hạnh
(Bắc Giang) gồm 2 bức, mỗi bức 8 cô đang đứng trên mây biểu diễn các nhạc cụ khác nhau,
dàn ra hàng ngang, song hành, không che khuất nhau, có thể liên tưởng đến tranh Tố nữ của
Hàng Trống.
Mỹ thuật thời Nguyễn là mỹ thuật của giai đoạn cuối mùa quân chủ, từng có lúc bị bỏ qua
và bỏ quên. Nhưng nghệ thuật cung đình Việt Nam chỉ đến thời Nguyễn, và chỉ ở Huế mới còn,
là tinh hoa sáng tạo của trí tuệ một thời. Là cung đình nhưng không xã dân, có ảnh hưởng
phương Bắc nhưng đã dân tộc hóa, lại đi lên từ vốn truyền thống dân gian, để mang vẽ đẹp Việt
Nam đích thực. Trong khi đó, ở các làng quê, dòng dân gian đã có sức sống vẫn cứ tồn tại và
phát triển, tiếp tục xây dựng diện mạo văn hóa truyền thống, không sắc sảo như giai đoạn trước,
nhưng bình dị và do đó càng bình dân.
65
Chương XI
MỸ THUẬT THỜI PHÁP THUỘC (1885- 1945)
66
II. BƯỚC TIẾN MỚI VỀ MỸ NGHỆ – MỸ THUẬT Ở BUỔI GIAO THỜI
1. Đào tạo mới về mỹ nghệ
67
Đến khi Nhật đổ bộ vào Đông Dương, chính quyền thực dân tách trường làm hai là trường
Mỹ thuật và trường Mỹ nghệ. Cuối năm 1943, Mỹ ném bom Hà Nội, Trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương chia ra làm 3 bộ phận sơ tán về ba nơi xa nhau :
Khoa hội họa và một bộ phận nhỏ khoa điêu khắc lên Sơn Tây do Anhghembecty và các
họa sĩ Nam Sơn, Tô Ngọc Vân phụ trách.
- Khoa kiến trúc và một phần lớn khoa điêu khắc vào Đà Lạt do Giông se phụ trách - các
lớp mỹ nghệ về Phủ Lý do Gioócgiơ Khánh phụ trách.
Do điều kiện phân tán, cương trình học tập trung vào những môn chính, việc học gắn với
thiên nhiên và thực tế hơn. Năm 1945 Nhật đảo chính Pháp, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương đóng cửa.
Như vậy, trước kia với mỹ thuật truyền thống các phường thợ đào tạo nghệ nhân theo kiểu
“cha truyền con nối", trưởng thành bằng kinh nghiêm thông qua lao động thực mà không có bài
bản toàn diện, tạo nên tình trạng mỹ thuật hầu hết là khuyết danh. Phương thức này trong dân
gian vẫn còn, nhưng trên bình diện chính thức quốc gia, với sự Ta đời và hoạt động của Trường
Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương, Việt Nam đã có một trung tâm đào tạo các nghệ sĩ tạo hình
(bao gồm cả kiến trúc) chính quy ở cấp cao. Ở đấy, bên cạnh chương trình và phương thức học
mang tính hàn lâm của phương Tây, còn tìm hiểu truyền thống của dân tộc, của Trung Quốc và
Nhật Bản, do đó đã tạo mối giao lưu nghệ thuật Đông - Tây. Các họa sĩ và nhà điêu khắc Việt
Nam từ đây đã hướng cho mỹ thuật Việt Nam phát triển theo con đường mới - dân tộc hiện đại
để hòa nhập vào mỹ thuật thể giới đương đại.
70
Chương XII
MỸ THUẬT VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẬI (TỪ CM 1945 ĐẾN NAY)
I. MỸ THUẬT VIỆT NAM TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
VÀ CHỐNG MỸ
1- Ngày đầu cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đưa đất nước vào kỷ nguyên Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc, đồng thời cũng mở ra một trang sử mới cho mỹ thuật Việt Nam . Từ những hạt
nhân là một số họa sĩ hoạt động bí mật trong tổ chức Văn hóa cứu quốc thời tiền khởi nghĩa, giờ
đây cả giới mỹ thuật cuốn hút vào cuộc vẽ tranh cổ động biểu thị ý chí toàn dân quyết tâm bảo
vệ nền Độc lập của Tổ quốc và tham gia vào cuộc triền lãm chung về văn hóa cuối năm 1945
với nhiều tranh, tượng trên những chất liệu khác nhau.
Những tác phẩm này đã hướng mỹ thuật Việt Nam vào con đường mới với nhân sinh quan
cách mạng. Một số họa sĩ còn phân vân với những níu kéo của thẩm mỹ cũ, thì Hồ Chủ tịch sau
khi xem triển lãm đã góp ý chân tình : "Các chú vẽ nhiều thiếu nữ khỏa thân, vẽ nhiều hoa, cái
ấy cũng đẹp, nhưng đẹp trên cao ; sao các chú không vẽ cái đẹp ở dưới đất chung quanh ta".
Đồng thời, ngay từ tháng 10- 1945, Chính phủ đã ký Nghị định mở lại Trường Cao đắng
Mỹ thuật. Và nhà trường đã tuyển sinh được một khóa, nhưng sau đó không học được vì chiến
tranh.
Được cách mạng cổ vũ và lãnh tụ quan tâm, các họa sĩ và nhà điêu khắc đã tích cực chuẩn
bị cho cuộc Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc đầu tiên trong chế độ mới để chào mừng quốc khánh
lần thứ nhất. Như cá gặp nước, trong không khí hừng hực của cuộc đấu tranh chính trị trên cả
nước và đấu tranh vũ trang nổ ra ở Nam Bộ, các họa sĩ đã dành cả tâm huyết để chiến đấu bằng
vũ khí nghệ thuật của mình, tập trung vào những đề tài mới miêu tả quần chúng vùng lên cướp
và giữ chính quyền, tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, ca ngợi lãnh tụ và các anh
hùng của thời đại. Những tranh tượng về Bác Hồ của Tô Ngọc Vân, của Nguyễn Đỗ Cung và
Nguyễn Thị Kim vẽ, nặn trực tiếp Bác Hồ làm việc ở Phủ Chủ tịch ; các tranh Chiếm Bắc Bộ
Phủ của Phạm Văn Đôn, Tự vệ chiến đấu của Văn Bình, Lửa của Lương Xuân Nhị, Đói (ghi
chép) của Trần Đình Thọ ... đã báo hiệu sự ra đời của nền nghệ thuật cách mạng.
Để thiết thực ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ, một số họa sĩ đã tham gia
đoàn quân Nam tiến. Ở Nam Trung Bộ, họa sĩ Văn Giáo và họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung thực sự là
những chiến sĩ văn hóa, đã tập trung ghi lại cảnh kháng chiến ở các mặt trận và tổ chức triển
lãm lưu động để phục vụ nhân dân kịp thời. Đồng thời một đội ngũ họa sĩ trẻ được họa sĩ
Nguyễn Đỗ Cung đào tạo cấp tốc theo phương pháp mới hết sức cô đọng, trực tiếp đưa học viên
vào thực tế để ký họa và vẽ tranh, rút kinh nghiệm tại chỗ .
Chiến tranh lan dần từ miền Nam ra cả nước, cho đến cuối 1946 cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ. Đi liền với sự nghiệp kháng chiến toàn dân toàn diện là sự chuyển mình của các
họa sĩ. Từ ái đẹp nghệ thuật thuần túy, giờ đây theo nhân sinh quan mới, anh chị em họa sĩ đã
đưa vào mảng màu, đường nét những nội dung phục vụ cuộc sống mới của dân tộc. Họa sĩ Tô
Ngọc Vân vẫn lấy hình ảnh người phụ nữ đẹp tượng trưng cho Thủ đô, song trong tranh "Hà
nội vùng đứng lên" nhân vật đã vung kiếm vươn lên trong cảnh khói lửa. Phần lớn họa sĩ nghe
theo tiếng gọi cứu nước, đã lăn vào cuộc chiến tranh, vừa cầm súng vừa cầm bút vẽ, giữa
những cuộc hành quân vẫn vẽ tranh để tuyên truyền cho kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó
khăn ở chiến khu, họa phẩm thiếu thốn, các sáng tác mỹ thuật thường tập trung ở ký họa, tranh
khắc gỗ, bột màu, thuốc nước, chì và đôi khi có cả tranh sơn mài.Tranh vẽ ra được đưa ngay
vào cuộc sống kiểm nghiệm, ngoài việc dùng để dân vận và địch vận, nhiều tác phẩm đạt giá trị
cao cả ở nội dung và nghệ thuật, được giới thiệu ở các triển lãm mỹ thuật chào mừng các sự
kiện lớn, tổ chức ở từng vùng trong cả nước.
Ở Việt Bắc, năm 1948 nhân dịp Đại hội Văn hóa toàn quốc, cuộc Triển lãm Hội họa Kháng
chiến đã hội tụ được nhiều tác phẩm phản ánh cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh với niềm
lạc quan tất thắng, trong đó có các bức Dân quân Phù Lưu của Nguyễn Tư Nghiêm, Gặl lúa của
Mai Văn Hiến, Lạy Chúa ! con tôi đâu của Nguyễn Khang, Dưới bóng của Nguyễn Thị Kim,
Người du kích già của Phạm Văn Đôn và những ký họa về Nhà thờ Bắc Ninh của Trần Văn
Cẩn, Bắc Giang – Bắc Ninh tiêu thổ kháng chiến của Tạ Thúc Bình ... Năm 195l, sau chiến
71
thắng biên giới, Việt Nam mở thông cửa ngõ với hậu phương lớn là phe XHCN, ở Việt Bắc lại
tổ chức cuộc Triển lãm Mỹ thuật lớn. Nhân dịp này Hồ Chủ tịch đã gửi thư cho các họa sĩ và
cũng là cho tất cả văn nghệ sĩ, Người khẳng định : "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trân,
anh chị em là chiến sĩ trên mặt trân ấy”, và nêu rõ nhiệm vụ của chiến sĩ nghệ thuật là phụng sự
kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân trước hết là công nông binh" . Đó là văn
kiện vạch hướng đi phục vụ cho văn nghệ kháng chiến.
Với tầm quan trọng đặc biệt của vũ khí văn hóa, năm 1952 tại Việt Bắc, Trường Trung cấp
Mỹ thuật được thành lập, do họa sĩ Tô Ngọc Vân làm hiệu trưởng, tổ chức tuyển sinh được hai
đợt, học lý thuyết tinh giản nhưng lại giàu vốn sống thực tế, đã đào tạo thế hệ họa sĩ đầu tiên
cho kháng chiến. Đồng thời ở các vùng kháng chiến thuộc Nam Bộ, khu V , khu III . . . các họa
sĩ cũng được đưa vào các tổ chức văn hóa để hoạt động, miêu tả trực tiếp những cảnh nơi mình
chiến đấu, sinh động với hơi thở cuộc sống, để rồi tập hợp lại, tổ chức những cuộc triển lãm
lớn, có nhiều tác phẩm nghệ thuật giá trị như : Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Trung – Nam -
Bắc (vẽ bằng máu tự trích tay) của họa sĩ Diệp Minh Châu, Du kích La Hai tập bắn của Nguyễn
Đỗ Cung, Trận Tầm Vu của Nguyễn Hiêm, Du kích Bến Tre của Diệp Minh Châu, Hành quân
qua đèo của Nguyễn Như Huân, Cảnh giặc tàn phá ở Sa Huỳnll của Song Văn, Trận Vĩnh
Thạch của Văn Giáo ... Những tác phẩm này đã cổ vũ lớn lao, động viên kịp thời quân dân xông
lên diệt giặc, bên cạnh giá trị nghệ thuật còn lưu đọng giá trị lịch sử không gì thay thế được.
Vào giai đoạn cuối của kháng chiến chống Pháp, nổi lên là cuộc vận động cách mạng lớn ở
nông thôn, tiến hành cải cách ruộng đất và các chiến trường cả nước phối hợp với chiến dịch
Điện Biên Phủ. Các họa sĩ tích cực thâm nhập vào cả hai trận địa phản phong và phản đế, có
người đã đổi cả chính cuộc đời nghệ thuật của mình như họa sĩ - liệt sĩ Tô Ngọc Vân. Từ thực
tế sôi động, nhiều họa sĩ đã sáng tác được những tác phẩm nổi tiếng. Đó là các ký họa Đốt đuốc
đi học, Chị cột cán, Con nghé quả thực … của Tô Ngọc Vân, Gặp gỡ của Mai Văn Hiến, Cái
bát của Sĩ Ngọc, Bể của Nguyễn Văn Tỵ, Vệ quốc quân canh đêm của Nguyễn Tư Nghiêm,
Mở đường thắng lợi của Nguyễn Bích, Đóng thuế nông nghiệp của Tạ Thúc Bình. . .
Với hiện thúc rộng lớn của cuộc kháng chiến, hội họa đã vượt ra ngoài những phòng khách
sang trọng với nhân vật chủ yếu là các thiếu nữ khuê các, giờ đây bước vào xã hội mới tưng
bừng hừng hực khí thế với các nhân vật mới, trong đó trung tâm là những người lính cụ Hồ
chân đất áo vải mà chí khí thật hiên ngang khi xung trận nhưng cũng thật hồn hậu khi sinh hoạt
với nhân dân, là người nông dân khôngcòn lầm lì chịu đựng nữa mà đã vùng lên làm chủ cuộc
sống, đi tìm ánh sáng văn hóa, là tình cá nước thân thương của quân và dân trên mọi nẻo đường
đất nước. Để thích hợp với hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn đủ thứ và di chuyển luôn, phần lớn
tác phẩm là đồ họa, song cũng có cả hội họa, và ngay trong gian khó cũng tổ chức tranh luận,
thể nghiệm, nâng sơn mài lên chất liệu nghệ thuật hoàn chỉnh mà tiêu biểu là bức Cái bát của Sĩ
Ngọc, nó dung dị như đề tài song huyền diệu đến kỳ lạ về một không gian mới.
2. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ (l954 - 1975)
Giữa năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại trong cả nước,
toàn dân chuyển sang nhiệm vu chiến lược mới xây dựng CNXH ở nền Bắc và đấu tranh thống
nhất “đất nước", giới mỹ thuật có điều kiện tập trung về thủ đô Hà Nội. Họ đã tổ chức ngay
trong năm 1954 một cuộc triển lãm thực sự mang tính toàn quốc, là sự tổng kết của mỹ thuật
kháng chiến, tuyển chọn những sáng tác đã giới thiệu trong các triển lãm ở Việt Bắc, ở Nam
Bộ, ở khu V trước đây, và thêm một số sáng tác mới.
Trong điều kiện hòa bình, công việc đi dần vào chính quy. Năm 1957, Hội Mỹ thuật Việt
Nam được thành lập. Trường Trung cấp Mỹ thuật được Chính phủ ra Nghị định nâng cấp thành
trường Cao đảng Mỹ thuật Việt Nam ; rồi năm 1962 Viện Mỹ thuật - Mỹ nghệ được thành lập,
năm 1966 Bảo tàng Mỹ thuật được khánh thành. Hội Mỹ thuật bên cạnh lực lương sáng tác có
thêm đội ngũ nghiên cứu - lý luận - phê bình, tất cả nói lên tiềm năng phát triển của nền mỹ
thuật cách mạng thật dồi dào mà thành tựu đã được khẳng định trong các cuộc Triển lãm Mỹ
thuật toàn quốc.
Báo cáo chính thức ở Đại hội lần thứ 2 Hội Mỹ thuật Việt Nam ( 1983) nhận định : "Triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958 - một năm sau đại hội (thành lập hội) – là một thành tựu rực
rỡ , một đóng góp xuất xắc của ngành ta trong việc giới thiệu nền nghệ thuật tạo hình cách
72
mạng Việt Nam ra thế giới. Những tác phẩm sơn mài Nhớ một chiều Tây Bắc của Phan Kế An,
Tổ đổi công miền núi của Hoàng Tích Chù, Bình minh trên nông trang của Nguyễn Đức Nùng,
Tát nước đồng chiêm của Trần Văn Cần, Hành quân đêm của Nguyễn Hiêm, Qua bản cũ của
Lê Quốc Lộc, Thôn Vĩnh Mốc của Huỳnh Văn Thuận, Du kích Bắc Sơn của Nguyễn Văn Tỵ,
Con nghé của Nguyễn Tư Nghiêm, Tre của Trần Đình Thọ, hoặc tượng Hương sen của Diệp
Minh Châu, Cắm thẻ nhận ruộng của Trần Văn Lắm v.v... đã gây xúc động biệt bao. Những
năm sau đó, chúng ta lại liên tiếp "được mùa" bằng Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1960 -
chào mừng Đại hội lần thứ III của Đảng, và Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1962. Người ta
nhớ mãi những tác phẩm đẹp ở hai cuộc triển lãm này, như Đấu tranh chống thuế của Nguyễn
Tư Nghiêm, Giờ học tập của Nguyễn Sáng, Hành quân trong rừng của Nguyễn Khang, Nam
Kỳ khởi nghĩa của Huỳnh Văn Gấm, Mùa đông sắp đến của Trần Văn Cẩn, Công nhân cơ khí
của Nguyễn Đỗ Cung, Đổi ca của Sĩ Ngọc hoặc tượng Đảng là mẹ hiền của Phạm Xuân Thi
v.v... Bác Hồ kính yêu đã xem và khen ngợi : "Các tranh tượng đã nói lên được tình người, tả
chân thật những người lao động bình thường. Anh chị em đã cố gắng đi sâu vào đời sống thế là
tốt”. Một lần nữa Người lại khẳng định hướng đi cho nghệ thuật của chúng ta.
Năm 1964 đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Các họa sĩ và nhà điêu
khắc lại thích ứng hoàn cảnh mới, một mặt lên đường đến những nơi nóng bỏng nhất để ghi
chép, sáng tác và phục vụ, không ít nghệ sĩ đã thành liệt sĩ, mặt khác đã khai thác vốn nghệ
thuật cổ truyền để biểu hiện cảm xúc thầm mỹ của mình. Hiện thực chiến đấu sản xuất của quân
dân đã đi vào tranh tượng, vừa động viên mọi người vượt lên mọi thử thách của chiến tranh,
vừa tranh thủ sự đồng tình của thế giới. Bên cạnh các thể loại hội họa như sơn mài, sơn dầu, lụa
có thêm bước phát triển mới, thì đồ họa đặc biệt phát triển. Các tranh khắc gỗ "Cồn Cỏ anh
hùng ' của Quang Thụ, "Thanh niên xung phong chuyển tải đêm" của Giáng Hương, "Nữ dân
quân Quảng Bình" của Nguyễn Thụ ... và những tranh cổ động "Thừa thắng xông lên" của
Huỳnh Văn Gấm, "Bài ca chiến thắng” của Vũ Huyên, "Giữ lấy quê hương, giữ lấy tuổi trẻ" của
Đường Ngọc Cảnh, "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Phan Thông ... đã gây xúc động
lòng người. Nghệ thuật đồ họa từng được tổ chức những cuộc triển lãm riêng. Trên nhiều tuyển
đường ra trận, tranh cổ động được phóng to đã góp phần cổ vũ khí thế chiến đấu và sản xuất
của quân dân trong nhưng ngày ác hệt nhất.
Nghệ thuật điêu khắc cũng được khởi sắc, thành tựu được ghi nhận ở Triển lãm mười năm
điêu khắc hiện đại Việt Nam ( 1963 - 1973). Nhiều tượng tròn và chạm nổi, đắp nổi lấy đề tài từ
trong sản xuất và hai cuộc kháng chiến đã được người xem ca ngợi. Điều lý thú là chính trong
chiến tranh tượng đài lại phát triển ngay ở những nơi rực lửa. Điền hình là nhóm tượng "Nam
Ngạn chiến thắng” (Thanh Hóa - 1967), "Du kích làng Nguyễn” (Thái Bình - 1967), "Hà Bắc
chiến thắng” (1968) và tượng các anh hùng liệt sĩ "Lý Tự Trọng”, “Kim Đồng”, "Võ Thị Sáu”,
"Nguyễn Văn Trỗi" dựng ở thủ đô đã khích lệ tuổi trẻ cùng nhân dân cả nước kiên cường quyết
chiến, quyết thắng. Cũng chính trong chiến tranh, phong trào mỹ thuật không chuyên lại phát
triển rộng rãi, nhất là trong quân đội và công nhân. Ngoài các triển lãm đều đặn của các nữ tác
giả còn có nhiều Triển lãm Mỹ thuật của các binh chủng, nhất là Triến lãm Mỹ thuật toàn quân
năm 1974 thật sôi động. Phong trào sáng tác mỹ thuật của công nhân vùng mỏ Quảng Ninh
được phát triển liên tục. Sáng tác tranh của thiếu nhi ngày càng nhiều và khi tuyển dự những
cuộc trưng bày tranh thiếu nhi ở nước ngoài đã giành không ít giải thưởng.
Thành tựu của mỹ thuật cách mạng Việt Nam còn được triển lãm lớn ở nước ngoài. Năm
1956 tại ba nước XHCN châu A (Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ) và năm 1959 tại 8 nước
XHCN châu Âu (Ba Lan, Tiệp Khắc, Đức, Rumani, Hunggari, Bungari, Liên Xô và Anbani),
triển lãm mỹ thuật Việt Nam luôn giành được cảm tình của nhân dân thế giới Trong sự phát
triển của mỹ thuật trên đây có cả chiều rộng và chiều sâu, chưa bao giờ có một đội ngũ tạo hình
đông đảo đi vào mọi mặt của cuộc sồng sôi động, từ đó lại dấy lên phong trào mỹ thuật không
chuyên ở khắp các mặt trận sản xuất và chiến đấu. Các hình tượng nghệ thuật đã được khẳng
định và đi vào lịch sử.
Trước hết vẫn là người chiến sĩ. Họa sĩ Nguyễn Sáng xây dựng anh bộ đội trong tranh
"Giặc đốt làng tôi" nghe chị phụ nữ Thái tố cáo tội ác của địch vừa mới gây ra ở một làng quê
mà gợi ra cả cảnh khói lửa, chết chóc khắp nơi, từ đấy sôi sục căm thù trên cả nét mặt và bàn
tay cầm vũ khí Đến tranh "Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” thì sự căm thù trên đã thành sức
73
mạnh quyết chiến, quyết thắng, càng hy sinh càng kiên định lập trường, cả một tập thể gắn bó
theo Đảng. Ở đấy Nguyễn Sáng dựng hình đơn giản cả về nét và màu, bố cục thoáng và rất
khỏe. Người chiến sĩ xuất hiện trên rất nhiều tranh, song rất ít cảnh đổ máu giữa trận địa, mà tập
trung vào sự rèn luyện và chuẩn bị, đặc biệt vào tình quân dân. Anh hành quân đêm, hành quân
mưa ... gian khổ nhưng cũng thật rộn ràng, phơi phới. Và khi gặp dân công, gặp người thân,
thậm chí gặp một bà mẹ chưa hề quen biết thì anh mới thật hiền sao, quyến luyến trong tình gia
đình rộng lớn. Khi lịch sử đã qua trang thì Nhớ một chiều Tây Bắc của Phan Kế An là hồi ức về
một dĩ vãng đầy tình yêu người, yêu thiên nhiên, để rồi trong hòa bình, anh bộ đội đi gặt giúp
dân, dạy các em trong Tiếng đàn bầu (Sĩ Tốt) mới hiền hậu làm sao. Anh bộ đội còn làm kinh tế
trong tranh Bình minh trên nông trang của Nguyễn Đức Nùng, anh với cánh tay săn chắc, càng
nhớ về quê Nam càng xây vững hậu phương trên đất Bắc, hoành tráng trước một thiên nhiên
rộng lớn, lấp lánh ban mai.
Hình ảnh người nông dân vào tranh cũng thật xôn xao. Không những họ cũng mặc áo lính
làm anh bộ đội cụ Hồ, tham gia dân công giải quyết hậu cần, mà còn chiến đấu ngay tại quê
mình. Nguyễn Tư Nghiêm với tranh Con nghé là chiến lợi phẩm của mặt trận phản phong, hạnh
phúc đơn sơ và hồ hởi sâu lắng, màu sắc cũng thật tươi vui như gợi tranh Tết hiển vinh thủa
nào. Làm chủ vận mệnh rồi, Tát nước đồng chiêm của Trần Văn Cẩn là cả một điệu múa ngay
trong lao động, hân hoan rộn rã như có cả tiếng cười trong trẻo. Không chỉ đồng bằng, Tổ đổi
công miền núi của Hoàng Tích Chù đưa ta lên rẻo cao với những cô gái thuộc dân tộc ít người
đang cấy mà như múa trên ruộng nước, hình bóng lung linh, vòm trời lộng sáng, sắc núi cảnh
làng đằng xa là cả thiên nhiên hùng vĩ. Xã hội mới gắn dần với công nghiệp, và hình ảnh người
công nhân cũng chiếm chỗ trong tranh một cách đĩnh đạc.
Ta gặp ở đây những Mỏ Đèo Nai của Nguyễn Tiến Chung, những Đổi ca của Sĩ Ngọc và
nhất là trên một loạt tranh của Nguyễn Đỗ Cung : Công nhân cơ khí, Học hỏi lẫn nhau, Tan ca,
mời chị em ra họp để thi thợ giỏi đã nêu bật những gương sáng lao động, gian khổ nhưng chủ
động, chững chạc.
Trong những thành phần trên, người phụ nữ chiếm tỷ lệkhá lớn. Đấy là điều hiển nhiên của
nghệ thuật, song giờ đây họ không còn là những tiểu thư đài các, cũng không chỉ là những lao
động vặt vãnh nữa, mà đã thực sự làm chủ gia đình làm chủ xã hội. Họ tham gia tích cực trong
sản xuất cả nông và công nghiệp, còn ung dung thư thái trong chiến đấu với Nữ dân quân vùng
biển của Trần Văn Cẩn, với Sau giờ trực chiến của Nguyễn Phan Chánh, hồn hậu, tự tin.
Tập trung hơn cả là hình tượng Bác Hồ hầu như đã cuốn hút tất cả các nghệ sĩ tạo hình.
Hình tượng Bác đã đi vào tranh, vào tượng với rất nhiều chất liệu khác nhau. Khi Bác làm việc,
lúc tiếp xúc với các tầng lớp khác nhau, tất cả đã in đậm trong tâm trí mọi người dăn những
dáng vẻ kỳ diệu, cao thượng mà dung dị, thân thương. Mỗi họa sĩ, mỗi nhà điêu khắc tự tìm ra
những góc độ riêng để thể hiện về Người, không lặp lại, mỗi lần vào tranh lên tượng là một lần
hóa thân để thăng hoa theo những cảm nhận khác nhau của người xem. Đây là lao động sáng
tạo đầy khó khăn của nghệ sĩ, vì phải mang đến cho công chúng một hình ảnh rất quen thuộc
mà lại rất riêng, rất mới.
76
II. MỸ THUẬT VIỆT NAM SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT
Từ năm 1975, mỹ thuật Việt Nam hội tụ thành một dòng chảy lớn, mà thành tựu được ghi
nhận bằng vô số những cuộc triển lãm cá nhân, nhóm, giới tính, lứa tuổi, địa phương, chuyên đề
... và nhất là Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc mở đều đặn 5 năm một lần.
Như đánh giá của Đại hội lần thứ hai Hội Mỹ thuật Việt Nam (1983) : "Triển lãm Mỹ thuật
toàn quốc năm 1976 chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ 4 của Đảng, là triển lãm đầu tiên
thực hiện Bắc – nam một nước, văn nghệ một nhà. Ở đây đã hé mở những dấu hiệu chuyển
mình của một nền nghệ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hòa
bình xây dựng, qua những tác phẩm có sự tìm tòi về ngôn ngữ mới của nghệ thuật như tranh
"Tan ca, mời chị em ra họp để thi chọn thợ giỏi" của Nguyễn Đỗ Cung, "Mỏ Đèo Nai” của
Nguyễn Tiến Chung, “Hàm Rồng” của Huy Oánh, “Ngày vui có Bác” của Xu Man, "Bộ đội về
bản Mèo" của Trần Lưu Hậu, “Điện về bản” của Hà Cắm Dì, "Xuân rừng đước Cà Mau” của
Thái Hà v.v... hoặc như tượng “Bác Hồ" của Lê Công Thành, "Anh bộ đội của chúng em” cu a
Hứa Tử Hoài, “Tuổi 20” của Vương Học Báo, "Mùa xuân" của Nguyễn Hải , "Ra trận" của
Ninh Thị Đền, “Trên tuyến mới” của Nguyễn Trung v.v... Ở triển lãm này còn có không ít tác
phẩm của những anh chị em sáng tác mỹ thuật ở vùng tạm chiếm miền Nam trước đây, lần đầu
tiên tham dự Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc, đã được nhiều người chú ý.
Nếu triển lãm trên được tổ chức trong niềm hân hoan phấn khởi tột cùng của toàn dân toàn
giới vừa qua chiến công hào hùng nhất trong lịch sử của dân tộc và mở ra định hướng mới cho
sự phát triển của cả nước, thì, “sau 5 năm đất nước bước vào kỷ nguyên mới, Triển lãm Mỹ
thuật toàn quốc năm 1980 thực sự là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình cả nước, là
một bước tiến nhảy vọt, bộc lộ tiềm năng sáng tạo mới hứa hẹn bước phát triển mạnh trong
những năm tới - nhất là về mặt ngôn ngữ nghệ thuật. Trong vườn hoa nhiều hương sắc của
Triển lãm năm 1980, đã có không ít đóa hoa thu hút mọi người như tượng "Bác Hồ bên suối
Lênin" của Diệp Minh Châu, "Đảo tiền tiêu” của Tạ Quang Bạo, tranh "Giặc My” của Đặng Thị
Khuê, "Mẹ chiến sĩ” của Hoàng Trầm, "Trước ngày 30 - 4 - 1975" của Nguyễn Thanh Châu, "
Xây trụ cầu Thăng Long” của Lò An Quang, "Niềm tin" của Dương Viên, "Đảo Phú Quốc" của
Đỗ Sơn, "Lòng đất" của Phạm Việt v.v… đều có nét mới trong sáng tạo nghệ thuật" như nhận
định của Đại hội lần thứ 2 Hội Mỹ thuật Việt Nam nărn 1983.
Với sự hòa nhập thực sự của nghệ sĩ hai miền Nam - Bắc, với sự có mặt của các họa sĩ lão
thành Trần Văn Cần, Nguyễn Văn Ty, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích
Liên, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng ... với sự khẳng định mình của các họ a sĩ thế hệ đàn anh
Văn Đa, Dương Viên, Nguyễn Thụ, Giáng Hương, Hoàng Trầm, Trần Lưu Hậu... với sự trưởng
thành muốn được thử thách tự chịu trách nhiệm xã hội để dần khẳng định của lớp họa trẻ Đỗ
Thị Ninh, Đặng Thị Khuê, Kim Thái, Mai Khanh, Lê Anh Vân . . . và các nhà điêu khắc trẻ Tạ
Quang Bạo, Trần Tuy, Hứa Từ Hoài , Lê Đình Quỳ ... mỹ thuật Việt Nam phát triển đa dạng
hắn lên, có sự tìm tòi là dấu hiệu có sự đổi mới nghệ thuật báo hiệu trước cho sự đổi mới của xã
hội.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 - ( 1986) khẳng định sự đổi mới chiến lược cách mạng, mở
cửa đất nước, làm bạn với các nước, chuyển dần sang kinh tế thị trường, mọi ngành mọi người
phải “tự cởi trói" thì mỹ thuật cũng cuốn vào dòng chảy ấy với sự nỗ lực của cả giới, của từng
người. Đại hội lần thứ 3 của Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam (1989, tức Hội Mỹ thuật đổi tên)
khẳng định : "Đã có một thời kỳ rất sôi nổi nhờ sự tham gia tự nguyện sáng tác của hội viên",
"để chủ động tạo” ra một không khí sôi nổi trong cả nước và xác định mạnh mẽ vai trò văn hóa
xã hội của nghệ thuật tạo hình... có thể coi đây là giai đoạn tổng kiểm kê các tiềm năng mỹ
thuật". Năm năm ( 1984 - 1989) với 118 triển lãm của 3778 lượt tác giả trưng bày 8.879 tác
phẩm là cả một sự “bung ra" mà chính Ban chấp hành Hội cũng thấy khó thống nhất kể tên
những tác phẩm hay tác giả tiêu biểu, mà chỉ có sự nhìn nhận khái quát : sự phát triển mạnh mẽ
của các đề tài “đời thường", các thể loại tranh hoành tráng, tượng đài, đi- dai, khỏa thân, tĩnh
vật, phong cảnh ... bên cạnh những tác phẩm đi vào các chủ đề lớn cũng là điều đáng kể và đặt
nghệ thuật tạo hình trước nhiều yêu cầu mới về chất lượng và số lượng. Trong sự sôi nổi của
các hoạt động mỹ thuật, nổi lên là nhu cầu tự do sáng tác và triển lãm tác phẩm với sự tự chịu
trách nhiệm của nghệ sĩ. Tiêu biểu năm 1989 ở Hà Nội có cuộc triển lãm của 16 họa sĩ tập hợp
tự nguyện không phân biệt bút pháp và tuổi tác, muốn qua đó để lập một "Trường phái Hà
77
Nội”, còn ở thành phố Hồ Chí Minh, 10 họa sĩ khác lập phòng tranh "Tác phẩm mới" để thường
xuyên ra mắt công chúng.
Bước sang thập kỷ 90, công cuộc đổi mới đã có kết quả rõ rệt, đất nước khởi sắc hẳn lên,
mỹ thuật cũng đạt được những thành tựu rực rỡ. Đại hội lần thứ 4 của Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt
Nam ( 1994 - sau đó đổi lại tên cũ là Hội Mỹ thuật) nhìn lại mình thấy sự sáng tác được đảm
bảo bằng bầu không khí chính trị - xã hội cởi mở, các họa sĩ và nhà điêu khắc đã tự tin và tự
khẳng định mạnh mê, tất cả các ngành đều có hoạt động sôi nổi : "Hội họa có những ưu thế
thuận lợi về cách hoạt động và thu hút được nhiều người hoạt động với diện rộng hơn các
ngành khác. Điêu khắc cũng mở được nhiều hướng đi vào đời sống, sáng tác nhiều tượng đài,
đài tưởng niệm, đã xuất hiện một số công trình có quy mô lớn, bằng chất liệu bền vững. Trang
trí và mỹ thuật ứng dụng đã bám sát vào thực tế đời sống và kinh tế như thiết kế nội ngoại thất
cho các công trình, tìm tòi và thể nghiệm trong các mẫu mã hàng hóa, đã đẩy chất lượng mỹ
thuật lên nhiều so với trước. Một cố gắng lớn của đồ họa là có nhiều biểu trưng đẹp, trình bày
minh họa sách báo, có nhiều tiến bộ, nhãn hàng hóa, biển của các cửa hàng đẹp đã góp phần cải
thiện bộ mặt thẩm mỹ môi trường.
Thành tựu nổi rõ là ở các triển lãm mỹ thuật, những năm của thập niên 90 được gia tăng
mạnh mẽ, đã trở thành sinh hoạt cập nhật của xã hội, ở các thành phố lớn - nhất là Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh cứ mỗi tháng có hàng chục cuộc triển lãm, thậm chí trong một ngày có
nhiều cuộc triển lãm cùng khai mạc : "Những phòng tranh đa dạng về hình thức, phong phú về
đề tài, về chất liệu, về kỹ thuật và cách biểu hiện đã góp những sắc thái mới và đa dạng vào đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân".
Bên cạnh đấy là nhưng cuộc triển lãm của một nhóm hoặc một cá nhân được tổ chức ở
nước ngoài, riêng hoặc chung với sinh hoạt mỹ thuật của nước chủ nhà : Bùi Xuân Phái,
Nguyễn Trung, Bửu Chi, Hoàng Đăng Nhuận ở Pháp năm 1988, 1989 ; Nguyễn Tư Nghiêm,
Nguyễn Quân, Việt Hải, Đặng Xuân Hòa, Lê Công Thành ở Hồng Kông và Singapore năm
1991 ; Đinh Cường ở Pháp, Mỹ và Canađa năm 1990, 1991 ; Tạ Quang Bạo, Phạm Viết Hồng
Lam ở Singapore năm 1992, Đặng Thị Khuê, Vũ Dân Tân và Mai Anh Dũng ở Uc v.v. . .
Một khi các nghệ sĩ không còn câu nệ về đề tài và phương pháp sáng tác thì bên cạnh
những xu hướng đã quen thuộc với công chúng Việt Nam , một sồ họa sĩ và nhà điêu khắc đã
tung dần vào xã hội như một sự thăm dò các tác phẩm mang theo xu hướng trừu tượng, lập thể
đã có lâu ở phương Tây nhưng còn rất mới lạ với công chúng Việt Nam . Điều này còn chờ thời
gian thử thách. Nhưng khi kinh tế thị trường chi phối thì không tránh khỏi một số họa sĩ đã chạy
theo xu hướng thương mại văn hóa làm tầm thường "tác phẩm” của mình mà dư luận đã cảnh
tỉnh và trách nhiệm nghệ sĩ sẽ ngăn chặn. Nhìn chung, điều vui mừng là Đại hội lần thứ 4 Hội
Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam (1994) đã khẳng định là : “Nghệ thuật tạo hình đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa của đất nước trong thời kỳ phát triển" .
Tiến trình mỹ thuật Việt Nam , nếu kể từ Văn hóa Hòa Bình đã có vạn năm phát triển. Trên
lịch trình ấy, có lúc chậm, lúc nhanh, thậm chí có giai đoạn mà tư liệu hiện nay còn thiếu vắng
nhưng sự phát triển là rõ ràng, với đỉnh cao là trống đồng trong văn hóa Đông Sơn, là chùa tháp
trong thời quân chủ phật giáo, là. dình làng trong thời quân chủ Nho giáo . Và từ đầu thế kỷ XX
đến nay đã có sự chuyển hướng hòa nhập với nhiều giá trị tạo hình của nhân loại nhưng mang
diện mạo riêng. Mỹ thuật Việt Nam đã làm đẹp cho xã hội , là biểu hiện cho trình độ văn hóa –
văn minh Việt Nam , là vũ khí đấu tranh cho tiến bộ xã hội, và ngày nay đang gắn chặt với sự
nghiệp phát triển của đất nước theo hướng giàu sang.
78
Chương XIII
TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
I. DẪN LUẬN
Vài mươi năm gần đây chúng ta quen dùng thuật ngữ Folklore nguyên gốc ở phương Tây
đã được quốc tế hóa; để chỉ những sáng tác văn hóa được xem là trí tuệ (lore) của dân gian
(folk) , thì những tranh Tết và tranh thờ mà một thời xưa nhân dân ta quen gọi chung là tranh
gà, tranh lợn hay gọi cụ thể theo tên từng tờ tranh, thì nay được gọi là “Tranh dân gian V iệt
Nam".
Tranh dân gian Việt Nam từ rất xa xưa đã tồn tại thực sự trong đời sống của nhân dân trong
nhiều năm chúng ta quen đo nó bằng hai chuẩn là : sáng tác của quần chúng nhân dân và sáng
tác tập thể , để rồi từ đó phải có đặc trưng là mang tính dị bản. Điều đó không sai, nhất là ở lĩnh
vực văn học nhưng trong nghệ thuật tạo hình lại tập trung ở một số trung tâm và gắn với những
người :”ó hoa tay", và tờ tranh được phần nào "định hình” ở ván khắc, thì những chuẩn định
tính và định lượng trên cũng cần được mở rộng hơn. Ở Việt Nam cũng như ở một số nước,
chúng ta có thể tìm biết tác giả của một số tờ tranh dân gian, chúng được người bình dân và cả
tầng lớp trên ưa chuộng, là vốn nghệ thuật cổ truyền và cũng là nghệ thuật đương đại.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, việc chơi tranh trong ngày Tết và dùng tranh vào việc
thờ cúng đã trở thành một phong tục rất mực được tôn trọng. Ngày Tết Nguyên đán, mọi người
dù khó khăn mấy cũng mua vài tờ tranh về, trước là để trang hoàng nhà cửa, sau và quan trọng
hơn là để trừ tà, tôn kính tổ tiên, cầu mong những điều tốt đẹp, để giới thiệu cho nhau về những
giá trị văn học và lịch sử dân tộc.
Bên cạnh tranh Tết ở mỗi gia đình, theo tín ngưỡng bản địa còn có tranh thờ ở các điện, các
phủ và nhà dân khi có vận hạn. Những tờ tranh ấy đã làm bừng sáng những căn nhà tối, thấp, đã
mang theo tiếng cười vui đến với mọi nhà, và nhất là giúp mọi người như cảm giao được với
thần linh, yên tâm có cuộc sống bình an và thịnh vượng.
Trong những năm nhân dân ta làm cách mạng dân tộc và dân chủ, một phần do hoàn cảnh
chiến tranh khó khăn, một phần do quan niệm không đầy đủ về vốn cổ, xem nó như là tàn tích
của chế độ cũ và gắn với mê tín dị đoan, đã hạn chế việc bảo quản ván và in ấn tranh. Tiếp đó
với xây dựng trong hòa bình, nhà dân dần được "ngói hóa" và "bê tông hóa", không gian nội
thất ấy gần như không phù hợp với phần lớn những tờ tranh cổ truyền, lại do tranh nước ngoài
(tranh Thượng Hải, tranh Thái Lan) thay nhau tràn ngập thị trường và tranh Tết mới in ấn công
nghiệp được các nhà xuất bản tung vào xã hội, tranh Tết cổ truyền hầu như mất chỗ đứng trong
dân, mà chỉ được mọi người chiêm ngắm ở trong bảo tàng, ở sưu tập của một số cá nhân, nhưng
lại là mặt hàng văn hóa xuất khẩu giá trị. Thời bao cấp, việc xuất khẩu tranh Tết do một cơ quan
nhà nước độc quyền, còn việc sản xuất nằm trong tay Hợp tác xã nông nghiệp, nghệ nhân làm
tranh ăn công điểm. Ván in tranh không còn là của gia bảo, bị hư hỏng và khi giao thời sang
kinh tế thị trường một lần nữa bị mất mát. Ngày nay chỉ có vài người có ván in và theo nghề,
đối tượng chính vẫn là khách dư lịch. Trong khi đó tranh thờ một thời gian phải nấu mình, được
in vẽ nhỏ giọt nhưng ở các tỉnh phía Nam vẫn được bán rộng rãi ở các chợ.
Rõ ràng tranh dân gian đã từng là nhu cầu không thể thiếu của nhân dân, là một giá trị văn
hóa của dân tộc, như thế cần dược tôn trọng và bảo vệ. Tuy thế, ngoài một số tranh thờ cổ, hầu
hết tranh dân gian mới được in vẽ và đang còn được in vẽ, nó mang giá trị nghệ thuật hơn là giá
trị cổ vật. Và như thế nếu ván in tranh cần được giữ gìn ở trong nước để không làm thất thoát
gia bảo, không làm mai một nghề làm tranh, không làm mất bí quyết nghề nghiệp ...., thì tranh
dân gian nên coi là thứ hàng hóa, là một thứ văn hóa phục vụ kinh tế, có nghĩa được xem là thứ
mặt hàng xuất khẩu cần khuyến khích, và đưa vào thẩm mỹ hôm nay.
1. Tranh Đông Hồ
79
Tranh Đông Hồ được sản xuất lẻ tẻ ở một số tỉnh như Hà Nội , Hà Tây, Vĩnh phúc, Phú
Thọ, Thái Nguyên, Nghệ An... nhưng truy về gốc đều do người Đông Hồ di cư mang theo nghề
đến nơi mới. Nơi sản xuất tập trung là làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh). Đây là một làng nhỏ nằm ven sông đóng và trên đường giao thông nối xứ Bắc (Bắc
Ninh) với xứ Đông (Hải Dương), chỉ cách Hà Nội chừng 40 km. Vùng đất này trù phú, nông
nghiệp phát triển, có nhiều nghề thủ công, đời sống văn hóa cao, văn nhân đông, hội lễ nhiều và
đặc sắc... tất cả đã tạo nên cái nôi, là "bà đỡ" cho một dòng tranh chân quê đậm đà chất dân tộc.
Gắn với sinh hoạt Tết có tranh - pháo - mã, người làng Đông Hồ làm cả. Hàng mã Đông Hồ
từ nhiều thế kỷ trước đã đi vào sử sách, và mươi năm qua tưởng chừng đã mai một thì giờ đây
đang phục hồi và phát triển đáp ứng nhu cầu tâm linh của đông đảo nhân dân, và cũng là một
thứ nghệ thuật tạo hình dân gian, bổ sung và làm hoàn chỉnh thêm cho mảng tranh Tết.
Tranh Tết cổ truyền của Đông Hồ là tranh Điệp, từ giấy đến màu đều nhuần chất dân tộc.
Giấy để in tranh là giấy dó được sản xuất ở Đống Cao (Bắc Ninh) và vùng Bưởi (Hà Nội ), nó
mỏng mịn và có vân óng ả như lụa, lại dai và co dãn khi ẩm ướt. Để phát huy mặt tốt và khắc
phục mặt yếu của giấy dó, nghệ nhân quét lên nó một lớp điệp làm cho tờ giấy dầy nuột, sáng
trắng với những thớ sáng tối đan xen song hành và lấp lánh ánh bạc ; có khi còn được lướt thêm
nước hoa hòe vàng chanh hay nước gỗ vang đỏ cam, từ nền giấy đã tóat ra vẻ vinh hiển. Trên
nền giấy ấy, nghệ nhân lần lượt in ván gỗ các mảng màu cạnh nhau và chồng nhau, những hình
quen thuộc nhưng luôn mới. Bảng màu ở đây cũng là những màu nền trắng điệp - vảng hòe -
đỏ vang, lại thêm màu xanh chàm - sỏi son - than lá tre, toàn những thứ sẵn có trong thiên
nhiên, bền trước ánh sáng và thân thuộc với mọi người. Bảng màu ấy khá đơn giản nhưng do kỹ
thuật pha chế "trăm hay không bằng tay quen" và nghệ thuật phối màu, đã tạo ra những hòa sắc
phong phú và hài hòa.
Từ dăm chục năm nay, Đông Hồ có thêm tranh hàng in trên giấy báo, chủ yếu in trên nét
đen rồi dựa vào nét mà tô phẩm màu hóa học, lúc mới rực rỡ nhưng để ra nắng gió dễ phai.
Tranh Đông Hồ là tranh Tết, do đó được sản xuất tập trung vào mấy tháng cuối năm, bán
buôn tại nhà và chợ tranh - đình làng, rồi sau đó theo các lái buôn tranh đến khắp các chợ quê ở
nhiều tỉnh gần xa, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của nông dân. Tranh Đông Hồ phổ biến nhất, cũng
đặc sắc nhất và do đó đậm sắc dân gian - dân tộc nhất, được nhân dân nhiều nước ưa thích và
tuyển vào những bộ sưu tập tranh quý của nhân loại.
80
Tranh Kim Hoàng chuyên in và vẽ trên giấy hồng điều hoặc giấy Tàu vang nhập của nước
ngoài, vì thế nên gọi là tranh đỏ (để phân biệt với các dòng tranh khác gọi là tranh trắng). Tranh
Kim Hoàng chỉ có nét và mảng màu đen được in ván gỗ, sau đó dựa vào mảng phân hình mà tô
vẽ các màu khác nhau, nếu cần thì sau cùng in lại nét đen cho hình hiện rõ. Trên nền giấy đỏ,
các hình trong tranh còn được tô trong số các màu : đen, trắng, xanh lơ, xanh lá cây, chàm, cánh
sen, đỏ, vàng thư. Các màu trên trừ chàm phải chế biến lấy còn đều có bán sẵn, trong đó màu
trắng là phấn viết bảng, màu đen là mực Tàu.
Tranh Kim Hoàng vẽ tay nên tốn công và số lượng không nhiều , là tranh Tết, đề tài tương
tự như oet Đông Hồ, tập trung phục vụ tín ngưỡng và thỏa mãn những ước vọng dầu xuân.
Tranh Kim Hoàng được bôi màu thành từng nhát mộc mạc nhưng hoạt bát, chấm phá rất động.
1. Tranh thờ:
Các trung tâm làm tranh dân gian, nếu không phải toàn bộ thì cũng phải dành một tỷ lệ lớn
cho tranh thờ. Ở nhiều chùa, đền, điện, Phủ cũng có những ván in bùa nhằm trừ tà, yếm quỷ.
Phổ biến nhất là những tranh ông tướng canh cửa vẽ hai vị võ quan uy nghiêm, được ghi kèm
tên là "Vũ Đinh” và “Thiên At” song nhiều người còn gọi là Thân Thư và Uất Luật hay Chung
Quỳ đều có tài bắt ma, nuốt quỷ ; cũng có khi lịch sử hóa, người ta gắn với hai vị võ tướng
Trung Hoa là Tần Thúc Bảo và Kính Đức đa canh gác cho vua Đường Thái Tông khỏi bị ma
quỷ ám. Tranh này được dán ngay ở cổng nhà. Còn cửa nhà thường dán bộ tranh “Tiến Tài -
Tiến Lộc" vận triều phục quan văn, hy vọng sẽ mang cho chủ nhà sự thịnh vượng. Khái quát
hơn là bộ tranh gà “Đại Cát - Nghinh Xuân" cũng nhằm xua đuổi ma tà và cầu may. Vào trong
nhà có bộ tranh "Tử Vi trấn trạch - Huyền Đàn trấn môn" để giữ yên lành cho gia chủ. Rồi bộ
tranh “Táo quân – Thổ công” và cả “Tiên sư vị” cũng được mọi nhà cung kính thờ.
Trong khi đó nhiều chùa có bộ tranh cổ Thập điện Diêm Vương khuyên mọi người ăn ở
hiền lành, tránh điều bạc ác. Các điện Mẫu luôn có các bộ tranh Tam Thánh, Tam Tòa, Tứ Phủ
hay tách ra vẽ các Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, rồi thêm các quan Tuần
Tranh, ông Hoàng, cậu Quận. Dưới bàn thờ Mẫu là hạ ban thường có các tranh Ngũ hổ, hay Hổ
xám trấn giữ các phương. Còn các tranh Sình và Đồ Thế Nam Bộ thì tất cả đều là tranh thờ thế
mạng cho người sống.
84