Professional Documents
Culture Documents
bài tập về quyền LHP
bài tập về quyền LHP
bài tập về quyền LHP
Bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử trong đời sống,
được quy định trong Hiến pháp
Điều 42 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Ngoài ra, mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn việc làm, nghề
nghiệp mà không bị phân biệt đối xử
Đây được cụ thể hóa trong điều 49 BLDS năm 2005, Quy định ở điều 55
Hiến pháp.
Theo đó “mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm,
nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”
Đồng thời, trong điều 5 Hiến pháp, đã quy định rõ về việc công bằng,
bình đẳng trong các dân tộc
Theo đó: “Các dân tộc bình đằng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chi rẽ dân tộc.”
Về giới tính, Điều 26 hiến pháp 2013 quy định rõ việc phân biệt đối
xử với nữ giới, đồng thời tạo điều kiện để phụ nữ phát triển về mọi
mặt.
Điều 26.
1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo
đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn
diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Hiến pháp quy định rõ về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng
tư, cá nhân của công dân.
Điều 21 Hiến pháp quy định:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được
pháp luật bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức
trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.
3. Trách nhiệm bảo đảm:
Bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa:
Có thể hiểu là việc thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, xã hội nhằm tạo
ra các tiền đề, điều kiện cần thiết để mọi người thực hiện được
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của mình đã được pháp luật ghi nhận
trên thực tế.
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hoá ở Việt Nam được
cụ thể trong các quyền tiêu biểu nhất như:
Bảo đảm quyền làm việc: Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý,
từ khi đổi mới đến nay, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện hàng loạt
chính sách, chương trình kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm
quyền làm việc, tập trung vào việc mở mang, phát triển các ngành nghề
tại các địa phương, hỗ trợ các doanh nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về
đào tạo nghề và xuất khẩu lao động.
Điều 55 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người
lao động.”
Điều 57 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.”
Cụ thể tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 như sau:
“1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi
làm việc.
2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công
bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công
dưới độ tuổi lao động tối thiểu.”
Bảo đảm quyền được tiếp cận giáo dục: Ngay từ khi mới giành được
độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận với
giáo dục của nhân dân.
Cụ thể tại điều 31 Hiến pháp nắm 1992 như sau:
“Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý
thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn
thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh
thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân
chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới.”
Quan điểm này được thể chế hoá trong Điều 35 Hiến pháp năm 1992 như
sau:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài.”
Bên cạnh quy định kể trên, Hiến pháp năm 1992 cũng xác định nghĩa vụ
của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này (Điều 36).
“Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau đại học,
phổ cập giáo dục tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát triển các hình thức
trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư
khác.” - (Điều 36 Hiến pháp năm 1992)
- Trên cơ sở đó, một loạt các văn bản pháp luật khác được ban hành nhằm
cụ thể hoá việc bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục, trong đó quan
trọng nhất là Luật Giáo dục (1998).
Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng
giống như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng
tiếp cận việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn
toàn của Nhà nước sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ y tế, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế
(BHYT), tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe.
Quan điểm này được thể chế hoá trong Điều 39 Hiến pháp năm 1992 như
sau:
“Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức
khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng
và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng
bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y
dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân;
thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc
sức khoẻ.
Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng
bào miền núi và dân tộc thiểu số.
Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, buôn bán thuốc
chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khoẻ của nhân dân.”
Điều 61 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.
Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ
sinh công cộng.
Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép
thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc
cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.”
Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ
trương đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao
động và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng
góp BHXH, tách quỹ BHXH với công nhân, viên chức nhà nước và
những người làm công ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng xã hội hoá
công tác BHXH.
Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định:
“Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ
ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm
công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với
người lao động.”
Ban hành Luật BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với
BHXH bắt buộc, từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ ngày
1/1/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp.