1.2.1. Khái niệm lừa dối: 1.2. Quy định của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật dân sự

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

1.2.

Quy định của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp
luật dân sự
1.2.1. Khái niệm lừa dối
Theo góc độ từ điển Tiếng Việt, “Lừa dối là một hành động hoặc tuyên bố đánh lừa,
che giấu sự thật hoặc thúc đẩy một niềm tin, khái niệm hoặc ý tưởng không đúng sự thật. Nó
thường được thực hiện để có được lợi ích hoặc lợi thế cho cá nhân”. Theo điều 127, Bộ luật
dân sự năm 2015 quy định, “lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của bên hoặc của
người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch dân sự đó”.
Như vậy, lừa dối là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia nhầm lẫn về đối tượng,
nội dung của giao dịch mà họ tham gia giao dịch đó, được thể hiện thông qua từ những lời lẽ
gian dối hoặc những mánh khóe, xảo trá, để khiến đối tượng tham gia vào giao dịch mà lẽ ra
bình thường họ không tham gia.
1.2.2. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối

Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối được phân thành hai nhóm chính: Vô hiệu tuyệt
đối, vô hiệu tương đối.
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối:
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123
Bộ luật dân sự 2015):
Nếu trong quá trình giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm những điều cấm
của luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu. Điều cấm của luật
được hiểu là các quy định mà luật không cho phép bất kỳ chủ thể nào thực hiện hành vi
nhất định. Tuy nhiên, phạm vi của điều cấm trong BLDS 2015 đã được thu hẹp so với
BLDS 2005, chỉ áp dụng cho các quy định của luật. Trong khi đó, đạo đức xã hội là các
chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng tôn trọng và thừa
nhận.
Nếu có giao dịch vi phạm quy định này, thì nó sẽ bị coi là vô hiệu, không phụ thuộc vào
ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản và lợi tức thu được từ giao dịch đó có thể
bị tịch thu hoặc đưa vào quỹ nhà nước.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 Bộ luật dân sự 2015): Nếu các bên tham
gia giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo sẽ
không có hiệu lực, trong khi giao dịch bị che giấu vẫn có giá trị, trừ khi nó cũng vô hiệu
theo quy định của luật Bộ hoặc luật liên quan khác. Ví dụ, việc ký kết hợp đồng tặng tài
sản như một cách để che giấu hợp đồng gửi giữ.
Nếu các bên tham gia giao dịch dân sự giả tạo nhằm tránh nghĩa vụ với bên thứ ba, thì
giao dịch đó sẽ không có hiệu lực. Ví dụ, nếu các bên thoả thuận ký kết một hợp đồng
tặng nhưng không tạo ra bất kỳ quyền sở hữu nào đối với người được tặng, chỉ nhằm
tránh trả nợ cho bên cho vay trước đó, thì hợp đồng tặng đó sẽ bị vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129 Bộ luật
dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối:
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 Bộ luật dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn ( Điều 126 Bộ luật dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 Bộ luật dân sự
2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình (Điều 128 Bộ luật dân sự 2015)
Như vậy, giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối được xác định là vô hiệu do không đảm
bảo được yêu cầu về tính tự nguyện của các bên chủ thể khi tham gia xác lập giao dịch. Mục
đích của việc lừa dối là nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của giao dịch, dẫn đến những quyết định không đúng, có lợi cho người lừa dối
để đạt được mục đích theo ý muốn của mình.
Đồng thời, chúng ta cần phải phân biệt giữa giao dịch dân vô hiệu do nhầm lẫn và giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối.
1.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo pháp luật dân sự
Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức
đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân
do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
+ Khôi phục lại tình trạng ban đầu
Điều 137, khoản 2 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định rằng "Trong trường hợp
giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận. Nếu không thể hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền."
Bên cạnh đó, khoản 5 của Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung: "Việc giải quyết
hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác
có liên quan quy định".
Có những trường hợp, đối tượng của hợp đồng là tài sản hoặc công việc (dịch vụ) đã
được thực hiện không còn giữ được tình trạng như ban đầu, do đó việc khôi phục lại tình
trạng ban đầu không phải luôn thực hiện được. Vì vậy, quy định các bên phải hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận không phải là một vấn đề đơn giản.

+ Bồi thường thiệt hại


Theo khoản 4 điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định vấn đề bồi thường thiệt hại
khi hợp đồng dân sự vô hiệu tương tự như Bộ luật Dân sự 2005 “ bên nào có lỗi gây thiệt hại
thì phải bồi thường”. Theo nguyên tắc, người có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường. Có thể
tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của hai bên.
Vấn đề xác định lỗi trong thực tế là việc rất khó, gây nhiều tranh cãi và không thuyết
phục được các bên tranh chấp hợp đồng. Đặc biệt là trường hợp hợp đồng vô hiệu do bên bán
không có lỗi khi tại thời điểm giao kết hợp đồng không biết hoặc không thể biết đối tượng
hợp đồng không thực hiện được do quyết định của cơ quan nhà nước.
+ Tài sản giao dịch, hoa lợi lợi tức
Vấn đề liên quan đến hoa lợi và lợi tức phát sinh trong giao dịch dân sự từ khi giao
dịch được thực hiện cho đến khi phải hoàn trả do giao dịch vô hiệu được giải quyết bằng cách
tách riêng vấn đề này ra khỏi quy định "khôi phục lại tình trạng ban đầu" trong Điều 137 của
Bộ luật dân sự 2005. Quy định này cho rằng vấn đề hoa lợi và lợi tức sẽ không được hoàn trả
lại nếu bên nhận tài sản đã ngay tình trong việc thu hoa lợi và lợi tức này, tương tự như quy
định về hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Với sự điều chỉnh này, Bộ
luật Dân sự 2015 đã khắc phục được sự bất hợp lý trong quy định của Bộ luật Dân sự 2005
khi xử lý vấn đề hoa lợi và lợi tức phát sinh trong giao dịch dân sự.

You might also like