Professional Documents
Culture Documents
Bài 1
Bài 1
1.2 Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện theo pháp
luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Việc ông H1 đại diện cho ngân hàng là đại diện theo pháp luật vì căn cứ theo điểm
b khoản 1 Điều 137 BLDS 2015: “Người có thẩm quyền đại diện theo quy định
của pháp luật.”
*Hoàn cảnh của người được đại diện:
1.3 Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý trường hợp đại diện
không hợp lệ, nhất là việc khai thác lý thuyết “đại diện bề ngoài/apparent agent”? Nêu ít
nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
- Theo luật công ty Úc, thì người thứ 3 ngay tình có quyền suy đoán (statutory
asumptions) về “thầm quyền đương nhiên” (apparent authority) hoặc thẩm quyền
mặc định (implied actual authority) của một đại diện công ty khi thực hiện các
giao dịch với người đại diện. Nghĩa là về nguyên tắc, hợp đồng do người đại diện
ký kết vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện (defective contracts) thì vẫn được
xem là có hiệu lực, trừ khi công ty (người được đại diện) có thể chứng minh rằng
người thứ ba không ngay tình. Và câu chuyện vượt quá thẩm quyền đại diện chỉ là
câu chuyện của hai bên là bên đại diện và bên được đại diện – chứ không phải là
gánh nặng của bên thứ ba – người có giao dịch với công ty thông qua người đại
diện. Nước Úc đã đưa những quy định này vào trong Luật công ty Úc tại Điều 128
và 129 Luật công ty 2001.
1.4 Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng phải chịu trách
nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở các quy định về đại diện
hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu của Hội đồng thẩm phán có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán là hoàn toàn thuyết phục. Ngân hàng A
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện vì cho rằng thư bảo lãnh vô hiệu và ông H1
không có quyền đại diện cho Ngân hàng A ký phát hành bảo lãnh vay vốn trong
nước. Tuy nhiên, quy định trên là quy định nội bộ của Ngân hàng A, ông H1 phải
biết và thực hiện, còn đối với bà T không thể biết và không buộc phải biết và bà
cũng không phải là đối tượng điều chỉnh của các quy định đó. Ngân hàng A cho
rằng Thư bảo lãnh vi phạm các quy định của Ngân hàng A trong quá trình phát
hành Thư bảo lãnh, nhưng đây là trách nhiệm giữa cá nhân ông H1 với pháp nhân
là ngân hàng A. Do đó trong trường hợp này Ngân hàng A phỉa có trách nhiệm
thực hiện cam kết bảo lãnh tại Thư bảo lãnh do Ngân hàng A phát hành theo khoản
1 Điều 87 BLDS 2015 quy định về trách nhiệm của dân sự của pháp nhân: “1.
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.” Vậy nên Ngân hàng A
phải chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập là hợp lý.
* Hoàn cảnh của người đại diện:
1.5 Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với giao
dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
- Trong pháp luật hiện hành người đại diện phải chịu trách nhiệm đối với giao dịch
dân sự do mình xác lập với tư cách là người đại diện theo khoàn 2 và 4 Điều 143
BLDS 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện vượt quá phạm vi đại diện:
“2. Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá
phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối
với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại
diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao
dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải
biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
4. Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người
được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồ thường thiệt hại.”
1.6 Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1 vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, việc đưa ông H1 vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không
cần thiết. Được thể hiện trong nhận định của tòa án qua đoạn: “…Do đó, Tòa án
cấp phúc thẩm nhận định việc giải quyết yêu cầu khời kiện của bà T có liên quan
đến trách nhiệm của ông H1 trong việc ký Thư bảo lãnh nên cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án là không phù hợp với các quy định của pháp luật.”
1.7 - Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng
thẩm phán (về vai trò của người đại diện).
- Hướng giải quyết của Tòa án theo hướng ngân hàng phải chịu trách nhiệm đối với
bảo lãnh do ông H1 xác lập. Mặc dù Thư bảo lãnh do ông H1 ký với tư cách là
Giám đốc Ngân hàng A – Chi nhánh T.H nhưng theo những nhận định mà tòa án
đưa ra lại theo hướng bảo vệ người đại diện là do ông H1 do những nguyên nhân
dẫn đến không phù hợp với tình huống khách quan của vụ án. Thứ nhất đối với
những quy định về người đại diện của ngân hàng A chi có ông H1 cần biết bà T
hoàn toàn không cần và bắt buộc phải biết. Việc ký bảo lãnh vượt quá phạm vi ủy
quyền của ông H1 là lỗi của ngân hàng A nên không thuộc trường hợp Ngân hàng
A được miễn trách nhiệm hoặc chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh. Thứ hai, thực tế để có
cơ sở tin tưởng nên khi nhận được Thư bảo lãnh bà T đã kiểm tra bằng cách yêu
cầu ngân hàng A – Chi nhánh T.H xác nhận thư bảo lãnh mà Chi nhánh Ngân hàng
A đã phát hành. Vậy nên việc giờ đây Ngân hàng A ali cho rằng Thư bảo lãnh
không có giá trị pháp lý là vô lý. Thứ ba, Thư bảo lãnh do ông H1 ký với tư cách
là Giám đốc Ngân hàng A – Chi nhánh T.H, có đóng dấu của Ngân hàng A, trong
đó ông H1 chỉ ký với tư cách là người đại diện của Ngân hàng A. Do đó, việc giải
quyết yêu cầu có liên quan đến trách nhiệm ký Thư bảo lãnh nếu đưa H1 vào tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không phù hợp
với quy định của pháp luật. Vậy nên hướng giải quyết của Tòa bảo vệ người đại
diện là ông H1 là hợp lý.
- Về vai trò của người đại, Tòa án đã cho ta thấy rằng là người đại diện ta cần hiểu
rõ quy định của công ty cũng như suy xét kỹ càng trong mọi công việc.