Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

KHOA:
BỘ MÔN:

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM KẾT THÚC MÔN


HỌC PHẦN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TÌNH HÌNH PHẠM TỘI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP
DANH MỤC VIẾT TẮT
1. BLHS : Bộ luật hình sự
2. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
3. CTN : Chưa thành niên
4. Đ : Điều
5. NCTNPT : Người chưa thành niên phạm tội
6. TANDTC : Toà án nhân dân tối cao
7. THTP : Tình hình tội phạm
8. TNHS : Trách nhiệm hình sự
9. VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài....................................................................2

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài..........................................................................................3

4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................3

5. Bố cục nghiên cứu.....................................................................................................3

CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC
HIỆN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2015 – 2022................................................................4

1.1. Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện................................................................................................................................ 4

1.2. Cơ cấu và tình chất của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện....7

1.3. Nguyên nhân phạm tội của người chưa thành niên...............................................10

CHƯƠNG 2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH PHÒNG NGỪA, NGĂN
CHẶN.......................................................................................................................... 14

2.1. Những giải pháp hạn chế tình trạng người chưa thành niên phạm tội...................14

2.2. Thực tiễn hoạt động đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên
phạm tội....................................................................................................................... 16

KẾT LUẬN.................................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................19


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam nằm ở vĩ độ từ 8027’ Bắc đến 23027’ Bắc, trên kinh độ từ 10208’ Đông
đến 109o27’ Đông. Với diện tích tự nhiên là 330.991km2, vùng biển rộng lớn trên 1
triệu km2, với các đảo và quần đảo, vùng trời thuộc lãnh thổ nước ta. Việt Nam phía
Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào, Campuchia, phía Đông giáp biển Đông, với
đường biển dài 3260km, đường biên giới trên bộ dài 450km.
Tính đến hết năm 2015, dân số của Việt Nam đạt 84.155.800 người. Dân cư đô
thị chiếm 27,2% dân số, dân cư nông thôn chiếm 72,8% dân số. Tỷ lệ giới tính được
duy trì ổn định: Nam khoảng 49,1%, nữ khoảng 50,9%. Dân số Việt Nam là loại dân
số trẻ, 27,3% từ 0 đến 14 tuổi, 20,5% từ 14 đến dưới 18 tuổi, 45,2% từ 18 đến dưới 65
tuổi, chỉ khoảng 7,0% dân số có độ tuổi từ 65 trở lên [12].
Lịch sử của dân tộc Việt Nam cho thấy chính lực lượng trẻ là thiếu niên đã có
công lao to lớn góp phần làm nên những chiến công vẻ vang cho non sông Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang sánh vai
các cường quốc năm châu hay không đấy là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu”.
Ngày nay, bên cạnh những thiếu niên chăm ngoan học giỏi thì vẫn còn một bộ
phận thiếu niên hư hỏng, suy thoái về đạo đức, sống theo lối sống thực dụng, vi phạm
pháp luật và phạm tội. Họ đã thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm tổn
hại đến lợi ích của Nhà nước, tính mạng, tài sản của nhân dân, gây mối lo lắng và nhức
nhối đối với từng gia đình và đối với toàn xã hội. Nguy hiểm hơn là tình trạng ấy đang
có xu hướng gia tăng, trở thành hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội, đe doạ sự
tồn vong hưng thịnh của quốc gia, của dân tộc vì không ai khác, họ chính là những chủ
nhân tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tình trạng ấy đang gây nên mối quan ngại cho toàn xã hội.
Do vậy, để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của thế hệ trẻ, sự phát triển bền
vững của xã hội tương lai thì điều không thể khác là phải kịp thời có các giải pháp
ngăn chặn sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi và loại bỏ những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực nêu
trên ra khỏi đời sống cộng đồng.

1
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với việc bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục thế hệ trẻ với phương châm: “Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.
Thế hệ trẻ chính là thế hệ tương lai của đất nước, là chủ nhân của xã hội mai sau. Vì
vậy đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện là một bộ
phận cấu thành của sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thế hệ trẻ, là sự nghiệp của
tất cả các cấp, các ngành các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể quần chúng và của mọi
gia đình.
Vì thế hệ tương lai của đất nước nhằm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần
thiết”. Cụ thể hoá di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương và biện pháp thích hợp. Và riêng đối với thế hệ trẻ, với người chưa thành
niên là đối tượng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Vì lẽ đó mà nhiệm vụ
“Đấu tranh phòng chống tội phạm lứa tuổi chưa thành niên” được xác định là một đề
án của chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm mà Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt từ năm 1998 [20].
Nhưng trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trước xu hướng
hội nhập và mở cửa, toàn cầu hoá, song song với những cơ hội, chúng ta còn phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức tiềm ẩn nhiều những nguyên nhân, điều kiện làm
phát sinh tình hình tội phạm. Việc đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa
thành niên thực hiện hiện nay không chỉ là vấn đề của Quốc gia mà đã trở thành vấn đề
được hầu hết các Quốc gia trên thế giới dành sự quan tâm đặc biệt.
Vì những lý do trên đây, việc nghiên cứu đề tài “Tình hình phạm tội do người
chưa thành niên thực hiện trong giai đoạn hiện nay ở nước ta – thực trạng và giải
pháp” trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn nhằm đề ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả cho hoạt động đấu tranh phòng chống tình hình tội phạm
do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đề ra những giải pháp đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm do người chưa
thành niên thực hiện ở Việt Nam từ năm 2015 - 2022, góp phần thực hiện nhiệm vụ
đấu tranh phòng chống tình hình tội phạm trên toàn quốc.

2
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Nhân thân
của người phạm tội chưa thành niên;
Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện ở Việt Nam từ năm 2015 – 2022;
Dự báo tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam;
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh phòng, chống
tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Chỉ tập trung vào nghiên cứu tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện ở Việt Nam từ năm 2015 – 2022, những nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm do người chưa thành niên thực hiện dưới góc độ tội phạm và những biện
pháp đấu tranh phòng chống tội phạm của người chưa thành niên đang được thực hiện,
trên cơ sở đó đề xuất để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các biện pháp phòng ngừa trên
phạm vi cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thanh niên; về đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng chống tình hình phạm tội
do người chưa thành niên thực hiện nói riêng. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác
giả sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp mô tả, giải thích, toán học...
5. Bố cục nghiên cứu
Kết cấu của bài luận gồm: Lời nói đầu, Nội dung, Kết luận.
Nội dung của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1. Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam từ
năm 2015 – 2022.
Chương 2. Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam.

3
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2015 – 2022
1.1. Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện
Một người vi phạm pháp luật hình sự thì không có nghĩa là người đó khi được
sinh ra vốn là một tên tội phạm. Bởi vì như chúng ta đã biết nhân cách con người được
hình thành chịu sự ảnh hưởng rất lớn của giáo dục và hoàn cảnh môi trường xung
quanh, rồi cũng chính những yếu tố đó quyết định hành vi xử sự của mỗi con người.
Có những đứa trẻ đang là con ngoan trò giỏi, bỗng một ngày lại vi phạm pháp
luật hình sự, gây những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ngược lại cũng có những đứa
trẻ sau khi phạm tội được giáo dục, cảm hoá, nhận ra lỗi lầm của mình lại trở thành
những công dân tốt của xã hội.
Theo Pháp luật quốc tế, cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới, căn cứ
để phân biệt NCTN là ở độ tuổi của họ. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì độ tuổi của
NCTN lại được qui định khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào truyền thống văn hoá, điều
kiện kinh tế – xã hội, lịch sử lập pháp, tập quán và các yếu tố tâm sinh lý của con
người trong mỗi quốc gia đó.
Pháp luật Việt Nam qui định NCTN là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18
tuổi [8], [9], [13], [15], [17]. Cụ thể, theo Điều 12, Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam
năm 1999 qui định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
(TNHS) về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”
[17]. Hay nói một cách khác đi thì: NCTNPT là người có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi, đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Luật hình sự qui định là
tội phạm [7, tr.176], [10, tr.340], [17].
Đánh giá thực trạng và diễn biến của THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam là
xem xét tổng số các tội phạm cụ thể, số lượng NCTN thực hiện các tội phạm đó và sự
thay đổi của THTP trong khoảng thời gian từ năm 2015 – 2022.
Theo thống kê hình sự của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), từ năm 2015 đến
Tháng 2022 TANDTC đã đưa ra xét xử sơ thẩm và kết tội 596.969 bị cáo, trong đó có

4
34.831 bị cáo là NCTN, trung bình chiếm trên 5,8%/năm. Điều đó có nghĩa là cứ 100
bị cáo bị đưa ra xét xử thì có tới hơn 5 bị cáo là
NCTN. Nếu tính số tuyệt đối thì trung bình mỗi năm có trên 4354 bị cáo là
NCTN trên phạm vi cả nước. Xem bảng số 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1. Tổng số bị cáo và số bị cáo là NCTNPT bị xét xử ở Việt Nam từ năm 2015
– 2022
Tỉ lệ % (so với
STT Năm Tổng số bị cáo Số bị cáo là NCTN
tổng số bị cáo)
1 2015 61.309 3605 5,88%
2 2016 61.636 3427 5,56%
3 2017 60.389 3104 5,14%
4 2018 68.390 3994 5,84%
5 2019 75.370 2540 3,37%
6 2020 79.297 5305 6,69%
7 2021 93.641 6274 6,70%
8 2022 96.937 6582 6,79%
Tổng số 596.969 34.831 5,83%
Nguồn: Tòa án Nhân Dân Tối Cao
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, từ năm 2015 – 2022, số NCTNPT có chiều
hướng gia tăng khá đều đặn. THTP do NCTN thực hiện có diễn biến phức tạp, trong
cơ cấu THTP thì NCTNPT nói chung vẫn chiếm tỉ trọng tương đối ổn định, gần 6%.
Qua nghiên cứu số liệu thống kê của TANDTC còn cho thấy, các loại tội do
NCTN thực hiện tập trung chủ yếu ở 04 nhóm tội, tương ứng với các chương trong
BLHS 1999. Trong từng nhóm tội ấy, NCTN chỉ phạm vào một hoặc một số tội danh
cụ thể được qui định tại các Điều (Đ) của BLHS 1999.
 Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con
người (Chương XII), các bị cáo là NCTN chỉ phạm vào 04 tội: Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Đ104);
Tội giết người (Đ93), Tội hiếp dâm (Đ111); Tội hiếm dâm trẻ em (Đ112).

5
 Nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV), các bị cáo là NCTN chỉ
phạm vào 07 tội: Tội cướp tài sản (Đ133); Tội cưỡng đoạt tài sản (Đ135);
Tội cướp giật tài sản (Điều 136); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138); Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Đ139); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
(Đ140); Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Đ143).
 Nhóm các tội về ma tuý (Chương XVIII), các bị cáo là NCTN chỉ phạm
vào 01 tội: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma tuý (Đ194).
 Nhóm các tội phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XIX),
các bị cáo là NCTN chỉ phạm vào 04 tội: Tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ (Đ202); Tội phá hủy công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh Quốc gia (Đ231); Tội gây rối trật tự
công cộng (Đ245); Tội đánh bạc (Đ248); Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá
bạc (Đ249).
Thực trạng của THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam từ năm 2015 – 2022 cho
ta thấy:
 Số NCTNPT so với tổng số tội phạm xảy ra có xu hướng gia tăng và
chiếm tỷ lệ khá cao;
 Các bị cáo là NCTN chỉ thực hiện hành vi phạm tội chủ yếu ở 04 nhóm tội
phạm tương ứng với các chương trong phần các tội phạm cụ thể của
BLHS Việt Nam 1999;
 Trong mỗi nhóm các tội phạm, bị cáo là NCTN chỉ phạm vào một hoặc
một số tội cụ thể được qui định tại các điều của BLHS Việt Nam 1999.
Song song với quá trình vận động và phát triển thì cái cũ mất đi, cái mới ra đời
nhưng chưa hoàn thiện lại chịu sự tác động của nền kinh tế thị trường đã tạo ra những
môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển những hiện tượng tiêu cực trong xã
hội, đặc biệt là các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm với tính chất, mức độ ngày
càng nghiêm trọng.
Qua nghiên cứu về diễn biến của THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam từ năm
2015 – 2022 cho thấy: THTP do NCTN thực hiện giai đoạn hiện nay có chiều hướng

6
gia tăng. Điều này là do ảnh hưởng khá rõ nét của cơ chế tác động vào NCTN trong
giai đoạn đầu của hội nhập, mở cửa, toàn cầu hoá. Xem bảng 1.2:
Bảng 1.2. Diễn biến của THPT do NCTN thực hiện trên địa bàn cả nước từ năm 2015
– 2022
Tỉ lệ % so với năm Tỷ lệ gia tăng so
STT Năm Số bị cáo là NCTN
2000 với năm 2000
1 2015 3605 100%
2 2016 3427 95% 5%
3 2017 3104 86,1% 13,9%
4 2018 3994 110,7% 10,7%
5 2019 2540 70,4% 29,6%
6 2020 5309 147,1% 47,1%
7 2021 6274 174% 74%
8 2022 6582 182,5% 82,5%
Nguồn: Tòa án Nhân Dân Tối Cao
Tình hình tội phạm tăng cũng phần nào đặt chúng ta trước vấn đề là cần làm rõ
thực trạng này, đi đôi với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do NCTN thực
hiện, tìm ra những giải pháp kịp thời nhằm ngăn chặn sự gia tăng đã tiến tới đẩy lùi,
loại bỏ THTP do NCTN thực hiện ra khỏi đời sống xã hội.
1.2. Cơ cấu và tình chất của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện
Qua việc nghiên cứu và phân tích 34.831 NCTNPT bị truy tố ở Việt Nam từ năm
2015 – 2022 cho thấy họ phạm hầu hết các tội danh đã được qui định trong BLHS
1999. Tuy nhiên, cơ cấu tội phạm do NCTN được thực hiện có những nét đặc thù về
lứa tuổi, vị trí, vai trò xã hội của NCTN, và do cấu thành tội phạm của một số tội đòi
hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu đặc biệt. Nên về mặt thực tế thì NCTN thực hiện
chủ yếu là các tội phạm xâm phạm sở hữu và các tội phạm có sử dụng bạo lực. Riêng
các tội xâm phạm an ninh quốc gia, được qui định tại Chương XI BLHS Việt Nam
1999 đòi hỏi người phạm tội phải có ý thức chính trị rõ ràng. Có trường hợp người
thực hiện tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, đủ 14 tuổi trở lên

7
nhưng chưa đủ 16 tuổi, chưa có ý thức chính trị rõ ràng nên không bị xử lý về hình sự.
Có trường hợp người thực hiện tội phạm khác xâm phạm an ninh Quốc gia đủ 16 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi không bị xử lý về hình sự.
Để minh chứng cho nhận xét trên, ta xem bảng 1.3 sau:
Bảng 1.3. Cơ cấu của THTP do NCTN thực hiện theo nhóm tội danh
Số bị cáo
Tỉ lệ % so với tổng
STT Nhóm tội là
số bị cáo CTNPT
NCTN
Xâm phạm tính mạng, sức
1 7196 20,66
khoẻ, con người
2 Xâm phạm sở hữu 22243 63,86
3 Về ma túy 2947 8,46
4 Về an toàn công cộng, trật tự công cộng 1867 5,36
5 Các tội phạm khác 578 1,36
Tổng số 34831 100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao
Trong cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện phổ biến và điển hình nhất là nhóm
các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV) với 22.243 bị cáo, chiếm tới 63,86% tổng số
bị cáo là NCTNPT; Nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm của con người (Chương XII) với 7196 bị cáo, chiếm 20,66% tổng số bị cáo là
NCTNPT; Nhóm các tội về ma tuý (Chương XVIII) với 2947, chiếm 8,46% tổng số bị
cáo là NCTNPT; Nhóm các tội xâm phạm về ATCC, TTCC (Chương XIX) với 1867
bị cáo chiếm 5,36%; Nhóm “Các tội khác” trong bảng thống kê có 578 bị cáo nhưng
được phân tán ở các nhóm tội khác nhau, chiếm 1,66% tổng số bị cáo là NCTNPT.
Một nét đặc thù có thể thấy ở tội phạm do NCTN thực hiện, đó là trong mỗi
nhóm các tội phạm nêu trên, NCTN chỉ phạm vào một hoặc một số tội nhất định được
qui định trong BLHS Việt Nam năm 1999. Xem bảng 1.4 minh hoạ sau đây:
Bảng 1.4. Cơ cấu của THTP do NCTN thực hiện theo tội danh cụ thể quy định các
điều của BLHS 1999
STT Tội danh Số bị cáo là Tỉ lệ %

8
NCTN
1 Tội trộm cắp tài sản 9140 26,24
2 Tội cướp tài sản 8718 25,03
3 Tội cố ý gây thương tích 3793 10,89
4 Tội cướp giật tài sản 2174 6,24
5 Tội giết người 1668 4,79
6 Tội tàng trữ, vận chuyển... ma tuý 1623 4,66
7 Tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em 1484 4,26
8 Tội vi phạm ATGT đường bộ 902 2,59
9 Các tội phạm khác 5329 15,3
Tổng số bị cáo là NCTNPT 34,831 100%
Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao
Các tội phạm cụ thể từ năm 2015 – 2022 do NCTN thực hiện ở Việt Nam chủ
yếu gồm 16 loại tội tương ứng với 16 tội danh được qui định trong BLHS 1999. Sau
đây chúng ta cùng đi vào các tội danh cụ thể đó:
Tội trộm cắp tài sản (Đ138): qua nghiên cứu 34831 NCTN bị truy tố từ năm
2015 – 2022 cho thấy: Tội trộm cắp tài sản là tội được NCTN thực hiện nhiều nhất với
9140 bị cáo, chiếm tới 26,24%. Những thiệt hại gây ra thường là không đáng kể,
những tài sản bị chiếm đoạt cũng chủ yếu là những đồ dùng trong sinh hoạt gia đình
hoặc cá nhân bởi những tài sản đó vừa dễ lấy trộm lại vừa dễ dàng mang đi tiêu thụ.
Tội cướp tài sản (Đ133): Tội cướp tài sản là loại tội chỉ đứng thứ 2 sau tội trộm
cắp tài sản do NCTN thực hiện, với 8718 bị cáo chiếm 25,03%. NCTN thực hiện hành
vi cướp cũng chỉ nhằm chiếm đoạt những tài sản có giá trị trung bình với mục đích để
tiêu xài, chơi game, chat... Nhưng cá biệt có những nhóm cướp nhí rất liều lĩnh, gây
các vụ cướp táo tợn khiến dư luận nhân dân hết sức hoang mang.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Đ104)
là tội chiếm tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện. Từ năm 2015 –
2022, theo số liệu thống kê của TANDTC thì đã truy tố 3793 NCTNPT cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, chiếm 10,89%. NCTNPT
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác chủ yếu là do va

9
chạm với nhau trong lúc làm việc, trong lúc vui chơi, hoặc do máu “yêng hùng”, muốn
trở thành tâm điểm chú ý của bạn bè, hoặc do động cơ trả thù cho người thân, hoặc
cũng có thể do muốn trở thành những tay hảo hán trong phim xã hội đen. Vũ khí để
gây án thường đa dạng, dễ sử dụng và thường là những vật thô sơ như gạch, dao, đá,
vỏ chai, thậm chí là những tuýp nước. Nạn nhân của loại tội phạm này thường là
những người có thể yếu hơn người phạm tội như trẻ em, kém tuổi, phụ nữ. Song điều
nguy hiểm là ở loại hành vi phạm tội này cho thấy sự coi thường tính mạng, sức khoẻ
của người khác, mang tính côn đồ, có trường hợp dẫn đến chết người hoặc gây cố tật
suốt đời cho nạn nhân. Đặc biệt trong thời gian gần đây, NCTN đã tham gia hoặc thực
hiện những hành vi cố ý gây thương tích nhưng ở mức độ rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng như: có tổ chức, sử dụng hung khí kiếm, côn, súng, tính chất phạm
tội côn đồ, hung hãn, hậu quả để lại là rất nghiêm trọng, để lại thương tích, cố tật nặng
cho nạn nhân, gây mất an toàn cho xã hội.
Tội giết người (Đ93): Trong cơ cấu các tội do NCTN thực hiện thuộc nhóm tội
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác phải kể đến tội
giết người do NCTN thực hiện. Tội giết người là tội đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm
do NCTN thực hiện những năm gần đây đã có diễn biến khá phức tạp và việc NCTN
tham gia thực hiện tội giết người từ năm 2015 – 2022 chiếm tới 4,79% với 1663 bị cáo
trong tổng số 34.831 bị cáo là NCTNPT đã bị truy tố.
Khách thể của tội phạm này là đặc biệt quan trọng, đó là quyền sống – một trong
những quyền tối cao của mỗi con người. Mặt khác, tuy chỉ mới ở độ tuổi CTN mà các
bị cáo đã phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng này, phần nào cho thấy sự mất nhân cách
của một bộ phận thế hệ trẻ, sự coi thường tính mạng của những người khác là hồi
chuông cảnh tỉnh đối với mỗi chúng ta.
1.3. Nguyên nhân phạm tội của người chưa thành niên

NCTN phạm tội bao giờ cũng là kết quả của sự tác động tương hỗ biện chứng
giữa các đặc điểm tâm lý, xã hội của NCTN và các tình huống, hoàn cảnh ở môi
trường bên ngoài. Qua những kiến thức tổng hợp từ các môn Luật hình sự, Tội phạm
học, Xã hội học… và đặc biệt là qua quá trình nhiên cứu hồ sơ tại TAND, em nhận
thấy NCTN phạm tội ở Việt Nam chủ yếu là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nguyên nhân thuộc về môi trường gia đình

10
Ở tuổi vị thành niên, các em thường thiếu kinh nghiệm sống, chưa thể đánh giá
vấn đề xảy ra với mình một cách đúng đắn, toàn diện, cho nên dễ chịu ảnh hưởng của
những ý kiến, dư luận từ môi trường xung quanh. Mà môi trường gần gũi nhất bao bọc
các em từ khi còn nhỏ là môi trường gia đình. Chính vì vậy, nctn phạm tội trước hết do
sự ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực trong chính môi trường gia đình, mà trực tiếp là
ông, bà, bố, mẹ, anh, chị cùng chung sống. Do phương pháp giáo dục không hợp lý,
thiếu khoa học và lối sống không lành mạnh, đạo đức tiêu cực của chính những thành
viên trong gia đình đã kích thích đến quá trình hình thành nhân cách lệch lạc của nctn,
đẩy các em vào con đường phạm tội.
Thứ hai, nguyên nhân thuộc về môi trường nhà trường
Trẻ em không thể phát triển một cách toàn diện về thể chất và tinh thần cũng như
các năng khiếu thiên bẩm chỉ trong phạm vi gia đình, dù rằng đó là gia đình hạnh
phúc, bền vững. Mà bên cạnh môi trường sống gần gũi nhất là gia đình thì môi trường
thứ hai các em tiếp xúc nhiều chính là trường học, lớp học. Nhà trường không chỉ
trang bị cho học sinh các kiến thức của nhân loại đã tích luỹ thông qua các môn học
mà cùng với nó, nhiệm vụ quan trọng khác của nhà trường là giáo dục, bồi dưỡng nhân
cách cho học sinh. Tuy nhiên, chính trong môi trường sư phạm này lại tồn tại những
khiếm khuyết là yếu tố trực tiếp tác động đến quá trình hình thành tâm lý phạm tội ở
NCTN hiện nay.
Nguyên nhân dẫn đến các học sinh bỏ học, trốn học, lang thang, tham gia vào các
ổ nhóm tội phạm là do một số giáo viên có trình độ hạn chế, phương pháp giảng dạy
kém, thái độ dạy học thiếu trách nhiệm dẫn đến việc học sinh không hiểu bài, từ đó
dẫn đến không có hứng thú trong học tập, thậm chí chán học và có hành vi nghịch
ngợm trong lớp. Những em lười học, bỏ học có nhiều thời gian rảnh rỗi, chơi bời, lêu
lổng, nghịch ngợm sớm muộn cũng dẫn đến việc phạm pháp, phạm tội.
Nguyên nhân thứ hai thuộc về môi trường nhà trường là việc tổ chức quản lý học
sinh ở một số trường chưa tốt, thiếu sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, chưa rèn
luyện, giáo dục cho học sinh học tập và làm việc theo nội quy, quy chế của nhà trường
và cũng không hề đan cài công tác tuyên truyền pháp luật trong các giờ học Giáo dục
công dân, đặc biệt là một số quy định về hình sự thường xảy ra trên địa bàn. Chính bởi

11
những lý do trên, đã dẫn đến một thực tế rất đáng lo ngại là số lượng lớn các em ở độ
tuổi vị thành niên bị “mù pháp luật”.
Thứ ba, nguyên nhân do các tổ chức đoàn, đội chưa phát huy được vai trò của
mình
Các tổ chức đoàn, đội là các tổ chức luôn giữ vai trò tiên phong trong công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các em ở lứa tuổi vị thành niên, công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, cũng như đoàn kết các thành viên trong
tổ chức mình. Tuy nhiên, chính bệnh “hình thức” và bệnh “thành tích” của các tổ chức
đoàn đội đôi khi đã làm xa rời các thành viên của tổ chức mình. Thêm vào đó, với sự
kém hấp dẫn và thiếu tính thực tế trong những hoạt động của các tổ chức đoàn đội đã
không mang lại hiệu quả, đôi khi còn có tác dụng theo chiều ngược lại.
Thứ tư, nguyên nhân do bị ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị
trường, đó chính là sự phân hoá xã hội
Sự phát triển kinh tế xã hội đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét.
Một số gia đình trở nên giàu có, cha mẹ mải kiếm tiền nên không có thời gian để quan
tâm, chăm sóc con cái, tuy nhiên họ lại có nhiều tiền và do vậy đã bù đắp cho con trẻ
bằng việc đáp ứng mọi đòi hỏi của chúng. Từ đó dẫn tới thói quen hoang phí, sự ăn
không ngồi rồi, quan niệm về giá trị lao động lệch lạc, khả năng tự kiềm chế kém nên
khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, các em dễ đi vào con đường phạm tội. Ngược lại, ở
một thái cực khác là có một số gia đình, chủ yếu là ở khu vực ngoại thành có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, đời sống sinh hoạt thấp hơn mức bình thường. Các em sống
trong những gia đình này, có em phải nghỉ học để đi làm, cũng rất dễ bị lao vào con
đường phạm tội, từ trộm cắp vặt rồi trộm cắp những tài sản lớn hơn, rồi đến cướp giật,
cướp tài sản…
Sự phát triển của xã hội còn làm các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và trao đổi
tăng nhanh. Trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, đặc biệt là quá trình hội
nhập không tránh khỏi việc xuất hiện những tệ nạn xã hội và trên địa bàn Thành phố
Hà Nội cũng không phải là một ngoại lệ. Ngày càng xuất hiện nhiều hơn các tụ điểm
chơi cờ bạc dưới nhiều hình thức và các dịch vụ mại dâm khác. Những tụ điểm này
chính là những “điểm xoáy” dễ cuốn các em ở tuổi vị thành niên lao vào con đường
phạm tội. Tuy vậy, chúng ta cũng cần cẩn trọng hơn tới việc trôi nổi trên thị trường

12
các loại băng đĩa hình có nội dung đồi trụy, kích động bạo lực, bởi đây chính là những
thứ dễ tác động tới các em trong thời kỳ phát triển về tâm sinh lý và dễ dẫn tới hiện
tượng phạm tội.
Những nguyên nhân khách quan rõ ràng có tác động rất mạnh tới NCTN phạm
tội vì ở lứa tuổi này các em dễ thích nghi, dễ bị lôi kéo, tác động từ môi trường bên
ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cũng không vì thế mà bỏ qua một nguyên nhân rất quan
trọng nữa, bởi đó chính là nguyên nhân chủ quan dẫn tới việc NCTN phạm tội.
Thứ năm, nguyên nhân do chính bản thân NCTN.
Phần lớn những trẻ em ở tuổi vị thành niên phạm tội đều là những đối tượng
không chịu tu dưỡng, rèn luyện, không chịu học hành mà chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ,
đua đòi, a dua theo bạn bè, bị kẻ xấu xúi giục rồi lao vào con đường phạm tội. Các em
thừa biết được hậu quả nhưng vẫn cố tình thực hiện đến cùng hành vi phạm tội để có
tiền thoả mãn cho việc ăn chơi của mình.

13
CHƯƠNG 2. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH PHÒNG
NGỪA, NGĂN CHẶN
2.1. Những giải pháp hạn chế tình trạng người chưa thành niên phạm tội
Công tác phòng ngừa NCTN phạm tội là hệ thống đồng bộ các biện pháp nhằm
xoá bỏ các nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội của NCTN và cải thiện môi trường
sống giúp cho NCTN phát triển toàn diện nhân cách, có đầy đủ phẩm chất của con
người mới Việt Nam, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước, biết giữ gìn và
phát huy truyền thống lẫn bản sắc tốt đẹp của dân tộc ta. Phòng ngừa NCTN phạm tội
là phương hướng chủ đạo của công cuộc đấu tranh với tội phạm.
Việc đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng NCTN phạm tội đang
được Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền hết sức quan tâm bởi đây là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm do NCTN thực
hiện.
Việc hạn chế tình trạng NCTN phạm tội là công việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi
sự nỗ lực của từng cá nhân và tổ chức trong xã hội. Chính vì vậy, trong công tác này,
việc phối kết hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội là vô cùng quan
trọng.
Về phía gia đình: Luôn phải là chỗ dựa vững chắc nhất cho các em ở độ tuổi vị
thành niên. Vì vậy, các thành viên trong gia đình cần phải giữ mối quan hệ hoà thuận,
ông bà, cha mẹ phải luôn thể hiện mình là một tấm gương tốt cho con cháu noi theo.
Cha mẹ cần thường xuyên quan tâm, chăm sóc, quản lý tốt con cái, học và thực hiện
các biện pháp giáo dục con một cách khoa học, tránh cả hai khuynh hướng quá thô
bạo, cứng rắn hoặc quá nuông chiều con cái. Gia đình cần giữ mối liên lạc thường
xuyên với nhà trường và các tổ chức xã hội khác mà con em mình sinh hoạt để có sự
quản lý và giáo dục kịp thời. Không chỉ có vậy, mỗi gia đình cần phải có sự sáng tạo
trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo công ăn việc làm phù hợp với thành viên
gia đình mình là NCTN không còn đi học, tránh để các em rơi vào tình trạng ăn không
ngồi rồi dễ gây ra tâm lý chán trường và dễ bị kẻ xấu lợi dụng, rủ rê. Thực tế hiện nay,
khi các em sống trong môi trường gia đình không thuận lợi cho viêc hình thành nhân

14
cách thì rất khó trong việc lựa chọn giải pháp nào để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của trẻ
em, tạo thuận lợi cho trẻ phát triển bình thường.
Đối với nhà trường: Đây là môi trường tập trung nhiều em ở lứa tuổi vị thành
niên nhất. Vì thế nên việc thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật, đảm bảo tốt
công tác nề nếp cũng như sáng tạo trong công tác giảng dạy và các hoạt động văn hoá,
thể thao sẽ tạo ra môi trường lành mạnh, hạn chế tối đa việc những em học sinh lao
vào con đường phạm tội.
Nhà trường cần có sự phối hợp của những giáo viên chủ nhiệm và các em học
sinh trong mỗi đơn vị lớp để kịp thời phát hiện các em có biểu hiện khác thường và có
xu hướng vi phạm pháp luật để kịp thời uốn nắn. Phải có sự phối hợp thường xuyên,
chặt chẽ với gia đình bằng nhiều hình thức để một mặt góp phần nâng cao nhận thức
của phụ huynh về phương pháp giáo dục con cái ở gia đình, sắp xếp hợp lý cho các em
thời gian làm các công việc phụ giúp gia đình với thời gian học ở nhà. Mặt khác, đối
với những trẻ em gặp phải hoàn cảnh khó khăn hoặc có những biểu hiện sai trái về đạo
đức, nhà trường và phụ huynh cần bàn bạc kịp thời để giúp các em có điều kiện học
tập tốt hơn hoặc sửa chữa kịp thời.
Ngoài ra, nhà trường cần quan tâm đến việc giáo dục học sinh về đạo đức, về
pháp luật, đồng thời nhà trường cần chú ý đến việc nâng cao chất lượng của đội ngũ
giáo viên về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Tổ chức đoàn hoạt động
trong nhà trường nên phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của mình, luôn phải đi đầu
trong công tác tuyên truyền pháp luật, đặc biệt trong các hoạt động văn hoá, thể thao,
nên tổ chức các cuộc thi, phần thi tìm hiểu pháp luật nói chung và pháp luật hình sự
nói riêng. Theo ý kiến của em, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên đưa môn Pháp luật đại
cương vào chương trình học chính khoá tại các trường Trung học phổ thông. Nếu làm
được việc đó sẽ vừa đảm bảo trang bị cho các cho các em học sinh một lượng kiến
thức pháp lý nhất định lại vừa hạn chế được tình hình NCTN phạm tội, đặc biệt là nạn
“ma tuý học đường” đang là điểm nhức nhối nhất trong công tác giáo dục.
Không chỉ các tổ chức đoàn trong nhà trường mà ngay cả các tổ chức đoàn cơ sở
ở địa phương cũng cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình đối với các đoàn viên
trong tổ chức mình, tránh để các em ở độ tuổi vị thành niên bị sa ngã vào con đường
phạm tội. Bên cạnh hoạt động tuyên truyền pháp luật qua các tổ chức đoàn, đội cũng

15
cần phải tiến hành hoạt động tuyên truyền pháp luật ở quy mô rộng hơn. Đó là các
phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài những giải pháp từ phía gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn đội thì
các cấp chính quyền địa phương cũng cần phải thông qua các cơ quan chức năng để
xiết chặt hơn nữa tới việc hoạt động của các cửa hàng kinh doanh dịch vụ trò chơi điện
tử, bi a, karaoke…
Đồng thời cũng cần đưa ra những chiến lược cụ thể để phát triển kinh tế, văn hoá,
nâng cao đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần, nhất là cho các em ở độ tuổi
vị thành niên, để các em có nhiều điều kiện hơn trong quá trình học tập và rèn luyện,
tránh xa các tệ nạn xã hội.
Không chỉ từ phía các cấp chính quyền địa phương mà ngay cả Nhà nước và các
cơ quan chức năng ở Trung ương cũng cần phải có hệ thống văn bản hướng dẫn, chỉ
đạo việc áp dụng nghiêm túc, triệt để các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trong
các giai đoạn tố tụng nhằm bảo đảm cho các các quy định của pháp luật, nhất là những
quy định đối với NCTN được thực hiên nghiêm minh, đúng trình tự, thủ tục ngay từ
đầu.Cần quan tâm hơn nữa tới công tác tư pháp hình sự đối với NCTN. Trong quá
trình cải cách tư pháp của nước ta đã có những ý kiến đóng góp của các chuyên gia
pháp lý về việc thành lập các Cục, Phòng, Ban và Toà án tương ứng dành cho NCTN
từ cấp huyện đến cấp Trung ương. Theo em, ý kiến trên cần được ghi nhận và sớm
được cụ thể hoá bởi có làm được như vậy thì quá trình tiến hành tố tụng đối với NCTN
mới đạt hiệu quả, đồng thời công tác tuyên truyền, tư vấn pháp lý sẽ được cụ thể hoá
hơn và chắc chắn tình hình NCTN phạm tội sẽ được hạn chế đi rất nhiều.
Với những giải pháp đã đề xuất, em rất hi vọng sẽ góp một phần nhỏ trong công
việc hạn chế tình hình NCTN phạm tội trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong thời gian
tới, đồng thời em cũng mong các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội cũng như mọi cá
nhân tại Hà Nội sẽ phát huy hơn nữa tinh thần “vì lợi ích trăm năm trồng người” để có
những hành động thiết thực hơn nữa trong công tác đấu tranh phòng chống tình hình
NCTN phạm tội ở Thành phố trong thời gian tới.

16
2.2. Thực tiễn hoạt động đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên
phạm tội
Với tình hình NCTN phạm tội ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, các cơ quan
chức năng trên địa bàn Thành phố đã thực hiên tốt những chủ trương, chính sách của
Đảng ủy và chính quyền địa phương trong công tác đấu tranh, phòng chống tình trạng
NCTN phạm tội trên địa bàn.
Trong quá trình tiến hành tố tụng đối với NCTN phạm tội, Cơ quan Công an,
Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án đã tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của
BLHS và Bộ luật Tố tụng hình sự về những thủ tục pháp lý đặc biệt đối với NCTN.
Không chỉ có vậy, trong quá trình thực thi vai trò của mình, các cơ quan tiến hành tố
tụng còn làm tốt cả công tác tuyên truyền pháp luật, nhất là với những đối tượng
NCTN.
Tuy nhiên vẫn còn tồn đọng những hạn chế cần sớm được khắc phục, đặc biệt là
từ phía gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn, đội. Các bậc cha mẹ cần hạn chế tình
trạng mải lo lam ăn mà ít quan tâm tới con cái. Đối với các trường Trung học phổ
thông trên địa bàn Thành phố cả năm chỉ tổ chức được từ một đến hai buổi ngoại khoá
tuyên truyền Luật Giao thông đường bộ. Còn các tổ chức đoàn đội thì có rất nhiều các
hoạt động văn hoá, văn nghệ nhưng không thấy kết hợp tuyên truyền các kiến thức
pháp luật. Chính vì vậy, các tổ chức đoàn, đội và nhà trường cần phải tăng cường hơn
nữa công tác tuyên truền pháp luật, cụ thể là pháp luật hình sự giúp các em ở lứa tuổi
vị thành niên có những nhận thức đúng đắn về pháp luật cũng như việc lụa chọn các
hành vi, xử sự trong xã hội sao cho phù hợp với những quy định của pháp luật.

17
KẾT LUẬN
Ai cũng từng có một tuổi thơ, cũng từng có những ngày “đuổi bướm cạnh cầu ao.
Mẹ chưa đánh roi nào đã khóc”. Tuổi thơ in đậm trong mỗi con người như dấu ấn
không bao giờ mờ phai theo ta suốt cuộc đời. Ở lứa tuổi này là sự phát triển hoàn thiện
về cấu tạo và chức năng sinh học của các bộ phận trong cơ thể, kéo theo những thay
đổi lớn về tâm tư, tình cảm, về cách xử sự của các em. Các em ở giai đoạn này thường
có tâm lý tò mò, ưa phiêu lưu, thích tìm hiểu, khám phá những hiện tượng mới lạ của
thế giới xung quanh, muốn được thoả mãn, giải đáp các câu hỏi. Là giai đoạn các em
phát triển nhân cách, hình thành kỹ năng xử sự độc lập, kỹ năng giao tiếp, thiết lập mối
quan hệ với các thành viên khác trong xã hội, bắt đầu định hình về thế giới quan.
Nhưng ở giai đoạn này các em lại chưa có được kiến thức đầy đủ, kinh nghiệm cuộc
sống để sàng lọc, chọn lọc những gì là tốt, là xấu. Do đó, trong giai đoạn này các em
cần được trang bị những kỹ năng sống, những vốn kiến thức cần thiết để các em bước
vững chắc vào cuộc đời. Những kỹ năng sống, những vốn kiến thức cần thiết cho các
em không ở đâu xa mà ở ngay chính môi trường xung quanh các em, đó là môi trường
gia đình, nhà trường và môi trường xã hội, nơi cuộc sống hàng ngày các em đang sinh
hoạt. Môi trường sống của các em lành mạnh, không có “tạp chất”, ở đó có sự yêu
thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, hoà thuận, đoàn kết thì đó sẽ là môi trường
thuận lợi cho các em phát triển toàn diện. Và ngược lại, môi trường sống của các em
có nhiều“ô nhiễm”, “khuyết tật” thì điều khó tránh khỏi là các em bị phát triển méo
mó, lệch lạc về nhân cách về hành vi xử sự, dẫn đến những hậu quả không mong muốn
của những người có lương tri, gây đau xót cho xã hội và cho chính các em.
Xã hội ngày càng phát triển những công dân tương lai, công dân thời 8X,
9X,10X công dân thời đại luôn mang trong mình nhiệt huyết xây dựng một Việt Nam
giàu mạnh và phồn thịnh luôn cố gắng phấn đấu cho Việt Nam không chỉ là con rồng
Châu á mà còn hơn thế nữa. Hãy chung tay xây dựng đất nước và hãy chung sức,
chung lòng để tạo môi trường trong lành hơn nữa đón nhận những thế hệ, đó là những
điều kiện tốt đẹp nhất mà gia đình, nhà trường và xã hội mang lại cho thế hệ trẻ. Để
thế hệ trẻ ngày nay tiếp bước cha anh, tiếp lửa truyền thống làm rạng danh dân tộc
Việt Nam.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mác và Anghen – Bàn về Thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, (1976), Tr.145.
2. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, (1996), Tr.63 – 65.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
(2016).
4. Văn kiện hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, (1996), Tr.83.
5. Macrenco – Giáo dục trong thực tiễn, Nxb Thanh niên, Hà Nội, (1976), Tr.256.
6. Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, (2011).
7. Nguyễn Ngọc Hoà, Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, (2016), Tr.176.
8. Từ điển Luật học, Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội, (1999).
9. Từ điển Luật học, Nxb từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội, (2016).
10. Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học,
Hà Nội - Đà Nẵng, (2012), Tr.340.
11. Thống kê Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội, (2017).
12. Tổng cục Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội, (2017).
13. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, (2017).
14. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, (2017).
15. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
(2017).
16. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo dục năm 1998,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2017).
17. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật hình sự năm
1999, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2017).

19
18. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2017).
19. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2020, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2017).
20. Nghị quyết số 09/1998/NQ – CP ngày 31.7.1998 của Chính phủ về tăng cường
công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
21. Báo Công an nhân dân số 958, ngày 11.3.2018.
22. Báo Pháp luật và đời sống số 827, ngày 21.3.2018.
23. Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương (2007), Bản án số: 32/2007/HSST ngày
03.5.2017, Hải Dương.

20

You might also like