Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 23

Câu 1. Quan điểm về giai cấp công nhân trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Liên hệ
giai cấp công nhân ở Việt Nam.
*MỞ BÀI : Phát hiện ra giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một
trong những thành công nhất, công lao to lớn nhất của Mác-Ăng ghen và Lê-nin. Các ông
cũng đã luận giải sâu sắc trong thực tiễn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là
người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở mỗi
quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Vậy giai cấp công nhân là gì, tại sao giai cấp công nhân
lại có những sứ mệnh đó?
*Khái niệm giai cấp công nhân:
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ
khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: Giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp
công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,...
Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống
nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện
đại.
*Hai phương diện
Dù diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, song khái niệm giai cấp công nhân được các
nhà kinh điển xác định trên 2 phương diện là:
Trên phương diện kinh tế - xã hội:
Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp có hai
đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình
độ xã hội hóa cao.
Theo sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp". "Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống
như máy móc vậy... Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại".
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân không sở
hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để
kiếm sống và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.
C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là đặc trưng khiến
cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp
tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Trên phương diện chính trị - xã hội:
Còn trên phương diện chính trị - xã hội, trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử, sự
thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt của bộ phận tư sản đại công nghiệp là điều kiện ban
đầu cho sự phát triển của giai cấp công nhân.
Xem xét giai cấp công nhân trên phương diện này, các nhà sáng lập xã hội khoa học không
những làm sáng tỏ quan điểm về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm
của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới.
*Ba đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp, quá trình lao động mang tính chất xã
hội hóa cao, đây là đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân.
Thứ hai, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá trình sản xuất
vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, phương thức sản xuất tiên tiến mang tính chất xã hội hóa cao, quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội hiện đại.
Thứ ba, nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất xã hội hóa cao đã rèn luyện
cho giai cấp công nhân những phẩm chất về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp
tác và tâm lý lao động công nghiệp.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và có
vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng
sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao. Là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực
tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các
quan hệ xã hội. Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản
không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó
có lợi ích chính đáng của bản thân họ
*Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ mà giai cấp công
nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong là lực lượng đi đầu trong cuộc
cách mạng xác lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về nội dung kinh tế là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao,
là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiên tiến nhất dựa trên chế độ sở hữu xã hội công hữu
về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát
triển của lịch sử xã hội, vai trò chủ thể của giai cấp công nhân trước hết là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất, sau đó là tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Thứ hai, về nội dung chính trị xã hội giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của
giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột áp bức của chủ nghĩa tư bản giành quyền lực về ta
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập nhà nước kiểu mới mang bản chất giai
cấp công nhân cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới phát triển kinh tế và văn
hóa xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền thực hiện dân chủ công bằng bình đẳng và
tiến bộ xã hội.
Thứ ba, về nội dung văn hóa tư tưởng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp công
nhân trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn
hóa tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới lao động công bằng dân chủ, bình
đẳng và tự do. Xét về thực chất giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa tư
tưởng bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ trong lĩnh vực ý thức
tư tưởng.
*Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Một là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ tiền đề kinh tế - xã hội của sản
xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
Xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất thúc đẩy sự phát triển của xã hội
khi thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Quá trình sản xuất này đã sinh ra giai cấp công nhân và rèn luyện nó thành chủ thể thực
hiện sứ mệnh lịch sử.
Hai là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của quần chúng và
mang lại lợi ích cho đa số.
Ba là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư nhân
này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về tư liệu sản xuất.
Bốn là, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo toàn diện
sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với mục tiêu cao nhất là
giải phóng con người.
*Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại vì thế giai cấp
công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại tại.
Thứ hai, do địa vị chính trị xã hội của giai cấp công nhân quy định.
Đây là giai cấp tiên tiến giai cấp cách mạng, có tính tổ chức và kỷ luật, tự giác và đoàn kết,...
*Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử:
Chủ nghĩa Mác Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan để giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đó là:
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của giai cấp công
nhân ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng, là dấu hiệu về sự trưởng thành
vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Thứ ba, ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan liêu trên chủ nghĩa Mác Lênin còn chỉ
rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới thắng lợi,
phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp
lao động khác.
*Giai cấp công nhân và việc thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân hiện nay:
Giai cấp công nhân hiện nay: Là những tập đoàn người sản xuất và dịch vụ bằng phương
thức công nghiệp tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế giới hiện nay.
Thứ nhất, về điểm tương đồng:
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại, là chủ
thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao.
Một bộ phận lớn công nhân hiện đại vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản hiện nay bóc
lột giá trị thặng dư.
Thứ hai, những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại:
Gắn liền với cách mạng mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự phát triển nền kinh tế
tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa.
Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là hai mặt của cùng một quá trình của xu hướng trí
tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp công nhân. Tính chất xã hội hóa của lao động hiện
đại ngày càng được mở rộng và nâng cao lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm
vi quốc gia dân tộc và mang tính chất quốc tế. Đó là những biểu biến đổi mới của giai cấp
công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân thế giới thế kỷ XIX.
*Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay:
Về nội dung kinh tế - xã hội: trong quá trình sản xuất với công nghệ hiện đại năng suất
chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, là nhân tố kinh tế xã hội thúc đẩy trứng mùi các tiền đề của chủ nghĩa xã hội trong
lòng chủ nghĩa tư bản nhìn. Mặt khác mâu thuẫn lợi ích cơ bản bản giữa giai cấp công nhân
với giai cấp tư sản cũng ngày càng sâu sắc ở từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu.
Về nội dung chính trị - xã hội: ở các nước tư bản mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp
công nhân và lao động là chống bất công và bất bình đẳng xã hội, mục tiêu lâu dài là giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đối với các nước xã hội chủ
nghĩa nghĩa là tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, giải quyết thành công các
nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Về nội dung tư tưởng, là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hệ giá trị của giai cấp công nhân
với hệ giá trị của giai cấp tư sản.Đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với nền tảng lý
luận là chủ nghĩa Mác- Lênin với chủ nghĩa cá nhân thuộc ý thức hệ giai cấp tư sản.
*Sứ mệnh lịch sử và những đặc điểm cơ bản nổi bật của giai cấp công nhân Việt nam:
Khái niệm: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khoá X của Đảng đã định nghĩa: Giai cấp
công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người
lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh
và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam:
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân
đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở
thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ
hai (1924 - 1929).
Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành
bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp
công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có truyền thống
yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp công nhân Việt Nam
đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương,
lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị
tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý
tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa
nên giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực
và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
*Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước ta:
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất tiên tiến. Giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể:
Về kinh tế, giai cấp công nhân Việt Nam là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy học công
nghệ làm động lực, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước.
Về chính trị - xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ Đảng viên cần phải
nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính trị xã
hội quan trọng của Đảng, đồng thời giai cấp công nhân chủ động tích cực tham gia xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ nhân dân đó là trọng trách lịch sử thuộc về sứ mệnh của
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Về văn hóa - tư tưởng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa giáo dục đạo
đức cách mạng rèn luyện lối sống tác phong công nghiệp và văn minh hiện đại tham gia
vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
*Định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới cần thực hiện
những nội dung cơ bản sau:
Một là, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng phát huy
sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn kết chặt chẽ với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Bốn là, đào tạo bồi dưỡng nâng cấp trình độ mọi mặt cho công nhân không ngừng trí thức
hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược.
Năm là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
của toàn xã hội vẫn nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân.
*Về kết bài:
Khẳng định phát hiện đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. (xóa bỏ, giải phóng, xây dựng).
Khẳng định tính đúng đắn của giai cấp công nhân hiện nay trong việc đi đầu, tiên phong
lãnh đạo đất nước - thông qua Đảng cộng sản Việt Nam vượt qua biết bao thử thách của
lịch sử, đồng thời trong thời bình vẫn tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước.
Thách thức của giai cấp công nhân hiện nay trong bối cảnh, tình hình mới
Thách thức đối với Đảng Cộng sản trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thách thức trước
âm mưu chống phá của các thế lực thù địch,...
Câu 2. Quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản, nhất là thời kỳ quá độ
và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với thời kỳ quá độ và những đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
*MỞ BÀI: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng nhất
của chủ nghĩa duy vật về lịch sử. Trong đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra
những quy luật vận động chung nhất của xã hội loài người. Trong đó, có đề cập đến hình
thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản là một xu thế tất yếu, phù hợp với quy luật phát
triển tự nhiên của lịch sử loài người.
Vậy hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là gì?...
*Quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản:
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Là một chế độ xã hội phát triển cao nhất hiện nay, là chế độ có quan hệ sản xuất dựa trên
sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển,
tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản. Trên
cơ sở hạ tầng đó có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân.
Các giai đoạn:
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
phát triển từ thấp lên cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn
này, con người thực hiện nguyên tắc phân phối "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
C.Mác còn khẳng định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có một
thời kỳ quá độ từ xã hội nọ sang xã hội kia, là thời kỳ cải biến cách mạng một cách toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sau này, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, trên cơ sở diễn đạt tư tưởng
của C.Mác, V.I.Lênin đã phân tích quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa qua các giai đoạn:
1. "Những cơn đau đẻ kéo dài" (thời kỳ quá độ).
2. Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
3. Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa là hợp quy luật. Sự thay thế đó có nguồn gốc kinh tế- xã hội sâu xa, đó là
miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Thứ nhất, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, dựa trên sự phát triển của
khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cho lực lượng sản xuất phát triển không
ngừng với trình độ xã hội hóa ngày càng cao, vượt khỏi giới hạn chật hẹp của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa là mâu thuẫn kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn
này dẫn đến mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được giữa giai cấp
công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản.
Thứ hai, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất, đối lập nhau về
lợi ích cơ bản, đó là giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa
ngày càng cao và giai cấp tư sản thống trị xã hội đại biểu cho quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Hai giai cấp này mâu thuẫn với nhau ngày càng rõ rệt, sâu sắc và gay gắt. Các cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản áp bức, bóc lột phát triển
từ thấp đến cao.
Thứ ba, trong xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện những tai họa cho cả giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và cho cả nhân loại cũng như môi trường thiên nhiên,...
Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội phải được tạo ra bởi một nền sản xuất công
nghiệp hiện đại
Hai là, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đồng thời tiền hành thiết lập chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
Ba là, tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao
Bốn là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc cơ bản
nhất
Năm là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản
chất của giai cấp công nhân vừa mang tính nhân dân rộng rãi
Sáu là, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng và phát triển con người toàn
diện.
*Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội
chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Quá độ
trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các nước tư bản trung bình lên chủ
nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được
xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Dựa trên chế độ áp
bức bóc lột. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu, không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng, áp bức, bóc lột.
Hai là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ
nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền
đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời
gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Ba là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, phải cần
có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tễ - xã hội khác
nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau.
Những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế:
Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội. Cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của
nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Trong lĩnh vực chính trị:
Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội của nhân dân lao động. Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong
sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân trong toàn xã hội. Khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với
tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu
giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội:
Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại. Từng bước khắc phục
sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu bình đẳng xã hội. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo
mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại
những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối
quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế
- xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất, trong đó thành phần kinh tế nhà nước và hình thức phân
phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu
giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường
bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng
lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tùy theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các
giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác
nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu
nông,...
Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn
so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố
văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Liên hệ với Việt Nam
*Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Cơ sở lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và năm 1975 trên
phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu “đặc biệt của đặc
biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước nghèo nàn lạc
hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không
phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển của cách
mạng Việt Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản trước hết là
sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm
1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động nước ta khi
theo Đảng làm cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế, chủ
nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh
hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh
động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản
xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát
triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện
mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng
trong nước và quốc tế đã có những biến đổi.
Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh
nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất
phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó nhiệm vụ
trọng tâm là:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây
dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
*Chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam:
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
1. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh
2. Do nhân dân làm chủ
3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
4. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
phát triển toàn diện
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng
tiến bộ
7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đai hoá đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
Bốn là, xây dựng phát triển văn hóa, con người. Quản lý và phát triển xã hội. Thực hiện tiến
bộ công bằng xã hội.
Năm là, đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Sáu là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Bảy là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tám là, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tiếp tục cải cách sâu rộng thủ tục hành chính. Đẩy mạnh đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Chín là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
Về kết bài:
Khẳng định tính đúng đắn, tính tất yếu, khách quan của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
Khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn đi lên con đường xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam. Biểu hiện qua thành quả: Giành thắng lợi trong 2 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, chiến
tranh bảo vệ biên giới,...
Liên hệ bản thân: Xem xét bản thân mình cần phải làm gì để bảo vệ thành quả đó hay xã
hội đó sẽ được cái gì mà chúng ta phải kiên trì theo đuổi,…
Câu 3. Quan niệm về dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ Việt Nam.
MỞ BÀI: Dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản trong lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội
chủ nghĩa là thiết lập một xã hội mới tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản, thiết lập một nền
dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc
con người.
*Quan niệm về dân chủ:
Trong nền dân chủ sơ khai của Aten, Hy lạp, thuật ngữ dân chủ được ghép từ chữ nhân dân
và quyền lực, với nghĩa là quyền lực của nhân dân.
Lịch sử phát triển của dân chủ:
Nhưng trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ không còn giữ
nguyên nghĩa ban đầu của nó là quyền lực thuộc về nhân dân, mà bị chi phối bởi quan điểm
lập trường, thái độ chính trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội.
Bằng chứng là trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước, lấy tên là nhà
nước dân chủ, tức nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp
nô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng danh từ “dân chủ”, tiếng Hy Lạp còn
gọi là “demos”, là “dân” của “Kratos”, là “quyền lực” hoặc “sức mạnh”. Có nghĩa là nhà nước
dân chủ chủ nô có quyền lực của dân. Nhưng “dân” lúc này theo quy định của pháp luật
gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn đại đa số nhân
dân trở thành nô lệ thì không được coi là dân.
Đến chế độ phong kiến, mặc dù khát vọng về dân chủ của người dân vẫn cháy bỏng nhưng
chế độ phong kiến không được thừa nhận là một chế độ dân chủ mà đó là một chế độ quân
chủ.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn, có mang tên chế
độ dân chủ, nhà nước dân chủ thì về thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền
lực thực sự của nhân dân mà chỉ là nhà nước của giai cấp tư sản.
Chỉ đến khi chủ nghĩa xã hội ra đời, nhân dân lao động giành lại chính quyền và tư liệu sản
xuất thì quyền lực thực sự của dân mới trở lại với nhân dân. Tức là nhà nước xã hội chủ nghĩa
đã thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân. Vì vậy dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao nhất, đầy đủ nhất.
Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có quan niệm về dân chủ và quan niệm đó là việc thực thi
quyền lực của nhân dân.
*Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ:
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ thể hiện ở những quan điểm sau:
Thứ nhất, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình
thái hay hình thức nhà nước, là chỉnh thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
Thứ hai, về phương diện quyền lực, dân chủ là thuộc về quyền lực của nhân dân, nhân dân
là chủ của nhà nước.
Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lí xã hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc
dân chủ.
Thứ tư, trên phương diện tư tưởng, dân chủ là một quan niệm - quan niệm về dân chủ, về
tinh thần dân chủ. Do nó là một quan niệm, chính vì thế nó chịu sự quy định của điều kiện
lịch sử cụ thể, điều kiện kinh tế - xã hội hay bối cảnh lịch sử của xã hội.
Thứ năm, dân chủ với những tư cách đó, phải được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là
phương tiện để vươn tới tự do, giải phóng con người, giải phóng giai cấp và xã hội.
Như vậy, dân chủ gắn với tư cách là một hình thức tổ chức chính trị, một hình thức hay hình
thái nhà nước, nó sẽ làm một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn với nhà nước đó và
sẽ mất đi khi nhà nước tiêu vong. Còn dân chủ nếu xét với tư cách là một giá trị xã hội thì nó
sẽ là một phạm trù vĩnh viễn bởi vì nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển
của con người, của xã hội loài người.
Quan niệm về dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Khái niệm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư
sản, là nền dân chủ mà ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ,
dân chủ và pháp luật nằm trong mối quan hệ biện chứng, được thực hiện bằng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Về chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về dân nhân, là
nền dân chủ có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh
đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng
không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là
để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: Trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân,
bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân…chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa…Do đó, về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng
tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản
chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Về kinh tế, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Thực hiện dân chủ trong kinh tế là tiền đề, cơ sở để
thực hiện dân chủ về chính trị và văn hóa – tư tưởng.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế của các chế
độ tư hữu, áp bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nó cũng là
sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất
tư hữu, áp bức, bóc lột…
Về văn hóa - tư tưởng, các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi hoạt
động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân
được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật, thành hệ thống chính trị, thành nguyên tắc,
mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Về xã hội, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá nhân,
tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích
cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, đồng thời
kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa, tư tưởng của nhân loại. Do đó, đời sống tư tưởng
– văn hóa của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày
càng trở thành một nhân tố hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Bởi nó phát huy cao độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của con người
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa:
*Bản chất:
Về chính trị, Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, giai cấp có
lợi ích phù hợp với lợi ích chung của nhân dân lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai
cấp vô sản giữ địa vị thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản khác
về chất so với sự thống trị của giai cấp bóc lột trước đây, bởi vì đây là sự thống trị của đại
đa số với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm tự giải phóng mình và các tầng lớp nhân dân lao
động.
Về kinh tế, chịu sự quy định của cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Do đó quan hệ này không tồn tại hình thức bóc lột.
Về văn hóa - xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh thần là lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại,
đồng thời mang bản sắc riêng của dân tộc.
*Chức năng:
Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các
chức năng khác nhau:
Nếu căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, nó được chia thành chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động, có chức năng chính trị, chức năng kinh tế, văn hóa, xã
hội,...
Nếu căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, có chức năng giai cấp (trấn áp) và chức
năng xã hội (tổ chức và xây dựng).
*Khái niệm:
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai
cấp vô sản cách mạng - giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sinh ra và có
sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao - xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt động của nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chỉ trong nhà nước này thì:
Một là, người dân mới có đủ điều kiện cho việc thực hiện ý chí thông qua việc lựa chọn công
bằng, bình đẳng những người đại diện của mình vào bộ máy nhà nước
Hai là, kiểm soát một cách có hiệu quả quyền lực của nhà nước, ngăn chặn sự tha hóa của
quyền lực nhà nước,...
Ra đời trên cơ sở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công
cụ quan trọng cho việc thực thi quyền làm chủ của người dân. Điều này thể hiện bằng việc,
thể chế hóa ý chí của nhân dân thành các hành lang pháp lí, phân định một cách rõ ràng
quyền và trách nhiệm của mỗi công dân; đồng thời là công cụ bạo lực để ngăn chặn có
hiệu quả các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; và bảo vệ
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ.
LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
*Quan niệm về dân chủ:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung và khi coi dân
chủ là một giá trị xã hội mang tính toàn nhân loại, Người khẳng định: dân chủ là dân là chủ
và dân làm chủ. Và khi coi dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội. Người khẳng
định: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ, nước ta là nước dân chủ thì dân
chủ là “dân làm chủ”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã xác định: Dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội mà ở đó “đảm bảo quyền
lực thuộc về nhân dân”, “Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân” và “dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước”, “của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn
bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”.
*Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Bản chất dân chủ ở Việt Nam là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ, giúp đỡ
của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong XH với tư cách công
nhân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ.
*Các hình thức thể hiện dân chủ:
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do nhân dân “ủy
quyền”, giao quyền lực của mình cho các tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra. Ví dụ, Đại
biểu quốc hội sẽ thay nhân dân nói lên tiếng nói của mình về các vấn đề bức thiết mà nhân
dân quan tâm.
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân bằng hành động trực tiếp
của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Ví dụ, tại các buổi họp khu phố bàn
về vấn đề làm đường, nhân dân cùng bàn bạc để tìm ra phương án tối ưu.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
*Quan niệm về nhà nước pháp quyền:
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật, nhà nước
hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do,
bình đẳng, phát huy hết năng lực của chính mình.
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa của
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra mấy nội dung về nhà nước pháp quyền như sau: Đề
cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật, đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công
dân. Tổ chức bộ máy nhà nước đảm bảo tập trung, thống nhất. Nhà nước có mối quan hệ
thường xuyên chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Tổ chức
và quản lí bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
*Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
Thứ hai, Nhà nước tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp và luật pháp.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế phối hợp nhịp
nhàng của các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, do Đảng cộng sản lãnh đạo, hoạt động của Nhà nước thì được giám sát bởi nhân
dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng quyền con người, coi
con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân
cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau nhưng đảm bảo quyền lực thống nhất và sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương.
*Phát huy dân chủ ở Việt Nam và tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam:
Đối với việc phát huy dân chủ:
Một là, xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh với tư cách điều kiện
tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với tư cách để thực thi
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Bốn là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện xã hội để phát
huy quyền làm chủ của dân nhân.
Đối với việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:
Một là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Hai là cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Ba là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Bốn là đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
*Về kết bài:
Khẳng định lại tầm quan trọng của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định lại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Liên hệ bản thân: Xem xét bản thân mình đã thực hiện được dân chủ chưa, cần làm gì để
tiếp tục phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Câu 4. Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Liên hệ Việt Nam.
*MỞ BÀI: Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc luôn là một vấn đề có vị trí chiến lược quan
trọng đối với một quốc gia. Những năm gần đây, với những biến động lớn trong đời sống
chính trị - xã hội trên thế giới, hàng loạt vấn đề dân tộc đã và đang đặt ra ở nhiều quốc gia,
khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam hết sức đa dạng và phức tạp.
*Khái niệm dân tộc:
Theo nghĩa rộng, dân tộc là chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa
và truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân
tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc. Ví dụ, dân tộc Việt Nam, dân
tộc Thái Lan,...
Theo nghĩa hẹp, dân tộc chỉ các cộng đồng người của một quốc gia, có chung sinh hoạt
kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có văn hóa đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này,
dân tộc là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân tộc. Ví dụ: Dân tộc Tày, Nùng,
Mông, Ê đê, Bana…
*Đặc trưng chung nhất của dân tộc :
Thứ nhất, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, cơ
bản nhất, là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Thứ hai, có chung một vùng lãnh thổ nhất định, trên lãnh thổ đó các thành viên gắn bó với
nhau, cùng nhau lao động để tồn tại và phát triển.
Thứ ba, có tiếng nói chung làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong các lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, tình cảm …
Thứ tư, có tâm lý riêng tạo nên bản sắc của nền văn hóa dân tộc.
*Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc:
Khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa tư bản,
Lênin đã phát hiện ra xu hướng khách quan:
Thứ nhất, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn
tách ra để lập các cộng đồng dân tộc độc lập.
Thứ hai, là liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau do sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của khoa học và công nghệ. Tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành
trên những cơ sở lợi ích nhất định và nhằm tập trung vào việc giải quyết những vấn đề
chung của nhân loại như: Chống ô nhiễm môi trường, sinh thái, dịch bệnh… có nguy cơ lan
rộng trên toàn thế giới.
*Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin:
Trong chủ nghĩa tư bản do mục tiêu của mọi chính sách trước hết là phục vụ cho lợi ích của
giai cấp tư sản, do vậy mà hai xu hướng khách quan trên không được giải quyết. Vì vậy,
Lênin cho rằng một cương lĩnh dân tộc đúng đắn phải phù hợp với mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Đồng thời tạo ra môi trường cho sự vận động của
hai xu hướng khách quan trong một tiến trình thống nhất. Đặc biệt Lênin đã nêu ra Cương
lĩnh về vấn đề dân tộc gồm có ba nội dung chính:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ không phân biệt trình độ cao hay
thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền
đặc lợi và đi áp bức dân tộc khác.
Trong một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật
bảo vệ ngang nhau. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa
các dân tộc lịch sử để lại.
Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn liền với cuộc đấu tranh
xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát
triển với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc
mình: Quyền quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của
các dân tộc. Quyền tự nguyện hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi
để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia, dân tộc.
Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn
của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước.
Thứ ba, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc.
Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản án bản chất quốc tế
của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng
lợi.
Nó quy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết
quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm
bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc để
đấu tranh chống chũ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung
liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội dung cương lĩnh thành một
chỉnh thể.
Tóm lại “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sach dân tộc của
Đảng Cộng Sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không được xem nhẹ vấn
đề nào. Thực tiễn cách mạng trên thế giới trong thời gian qua đã chứng minh được tính
đúng đắn, khoa học, cách mạng của Cương lĩnh. Những nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào
vận dụng đúng đem lại thành quả hết sức to lớn, ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp méo
lý luận dẫn đến thất bại, trì trệ thậm chí bị tan rã, sụp đổ…
LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
Khái quát đôi nét về đặc điểm dân tộc Việt Nam:
Nước ta là một nước có bề dày lịch sử, trên dải đất Việt Nam có 54 các thành phần dân tộc,
trong đó tộc người Kinh chiếm 86% dân số và 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, phân bố
rải rác trên địa bàn cả nước.
Đặc trưng nổi bật của dân tộc Việt Nam:
Tính cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền
thống của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ Quốc
và xây dựng đất nước.
Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu xã hội nông thôn bền
chặt nên dân tộc Việt Nam xuất hiện rấ sớm, gắn liền với cuộc đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, đấu tranh chống thiên tai.
Vì vậy đoàn kết là xu hướng khách quan trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch
sử, có chung tương lai, tiền đồ.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng, tuy nhiên trong
từng khu vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung nhưng không thành địa
bàn riêng biệt. Chính vì thế các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng.
Và sự thống nhất giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng
được củng cố.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc còn chênh lệch, khác biệt. Đây là một
đặc trưng cần hết sức quan tâm nhằm thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 14% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, giao lưu quốc tế đó là vùng
biên giới, vùng núi cao, hải đảo.
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam có
đời sồng văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú thêm nên văn hóa của
cộng đồng.
*Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:
Dựa trên quan điểm Chủ nghĩa Mác Leenin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu tranh
cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN cũng như dựa vào tình hình thế giới hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết có tầm
quan trọng đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
là một, đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt là con cháu một nhà, thương yêu
đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc.
Trong mỗi kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là
nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của
từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Tựu trung lại, quan điểm của Đảng về dân tộc có mấy ý cơ bản sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời
cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển,...
Thứ ba, phát triển toàn diện chính sách, kinh tế, văn hóa và an ninh - quốc phòng trên địa
bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết vấn đề dân tộc và thực
hiện tốt các chính sách dân tộc,...
Thứ tư, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,...
Thứ năm, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, và cả hệ thống chính trị.
Những chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:
Nguyên tắc cơ bản trong thực hiện các chính sách này là: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm
từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của
địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các
dân tộc, từng bước nâng cao dân trí đồng bào dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số vùng
cao, hải đảo.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm
các hành vi miệt thị dân tộc và chia rẽ dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết
dân tộc là động lực chủ yếu, là sức mạnh vĩ đại quyết định sự thành công của cách mạng”.
Người khẳng định : “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành
công”
Tăng cường, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ ít người để phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội miền núi; đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác cho cán bộ dân tộc.
Có thể kết luận rằng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính toàn diện,
tổng hợp tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính cách
mạng và tiến bộ, đồng thời mang tính nhân đạo, bởi vì nó không bỏ sót một dân tộc nào, nó
tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác,
nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các
dân tộc anh em trong cả nước.
Kết bài:
Khẳng định tính đúng đắn của nội dung dân tộc
Khẳng định quan điểm, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc.
Liên hệ bản thân là sinh viên cần quyết tâm gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa.
Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên phải tự đặt
ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước, mình đã, đang và sẽ
làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc?

Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi
cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân.
Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những
hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.

Câu 5. Quan điểm về nguồn gốc, bản chất, tính chất tôn giáo. Các nguyên tắc ứng xử
của Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo.

*Mở bài: Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất
của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét
nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Vậy tôn giáo là gì?...
*Khái niệm tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo - vào
đầu óc của con người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng của họ, tôn
giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua sự phản ánh
đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên, thần bí,...
*Bản chất của tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng là một loại hình thái ý thức xã hội phản
ánh hư ảo hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực và tích cực nhất định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo
ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của
họ. Nhưng sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng
tôn giáo vô điều kiện.
Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự
khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ xem
thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mà luôn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân.
*Nguồn gốc của tôn giáo:
Nguồn gốc kinh tế xã hội:
Do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, xã hội để giải quyết các yêu
cầu, các mục đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc sống của bản thân họ. Sự bần cùng về
kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những bất công xã hội cùng với những thất
vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa
của tôn giáo.
Trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người
có điều kiện hơn trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín
ngưỡng, tâm linh. Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín
ngưỡng và xuất hiện những loại hình tôn giáo mới.
Nguồn gốc nhận thức:
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính
bản thân mình là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi
những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua
lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do
trình độ dân trí thấp, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và
phát triển.
Nguồn gốc tâm lý:
Từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát triển của thiên nhiên và xã hội đã dẫn con người đến
nhờ cậy đến thần linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính
trọng,… trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi
cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.
*Tính chất của tôn giáo:
Tính lịch sử của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, bởi vì nó có sự hình thành, tồn tại và phát
triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có khả năng biến đổi để thích nghi với
nhiều chế độ chính trị - xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học
và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện
tượng trong tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã
hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn
là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.
Tính quần chúng của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu luc, không
một quốc gia nào, dân tộc nào không có một hay nhiều tôn giáo.
Tính quần chúng biểu hiện của số lượng tín đồ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh
thần của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Tính chính trị của tôn giáo:
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự
đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị.
*Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội:
Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân:
Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Tôn
trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng. Quần chúng là nguồn gốc của mọi
sức mạnh, là động lực phát triển của lịch sử. Đoàn kết các lực lượng quần chúng có tín
ngưỡng và không có tín ngưỡng tôn giáo là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu
cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới:
Chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng lao
động.
Phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,…
cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng
tôn giáo trong vấn đề tôn giáo:
Là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn
giáo và trong vấn đề tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh
hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo, đến một bộ phận quần chúng trong xã hội (những người theo tôn giáo).
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng:
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và
biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội
không giống nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng
xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
*Quan điểm, chính sách Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo:
Khái quát đôi nét về tôn giáo ở Việt Nam:
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Nước ta hiện nay có 13 tôn giáo đã được công
nhận.
Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hoà bình, không có xung đột, chiến
tranh tôn giáo
Các tôn giáo ở Việt Nam nói chung luôn đồng hành cùng dân tộc, có nhiều đóng góp quan
trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là do nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần
dân tộc
Đảng và Nhà nước ta đã xác định cho mình những quan điểm và chính sách như:
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Thứ năm, về vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại
gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Kết bài, liên hệ cho bản thân:
Vì vậy, học tập, nghiên cứu vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩ xã hội, sinh
viên chúng ta cần chú ý một số vấn đề có phương pháp luận sau:
Một là, luôn đứng trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh để nghiên cứu, xem xét tổng thể vấn đề tôn giáo, cũng như từng khía cạnh của
nó.
Hai là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải gắn với thực tiễn tồn tại, vận động của chính vấn đề
tôn giáo. Ba là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải kết hợp với việc phê phán các quan điểm
không đúng về vấn đề tôn giáo.
Bốn là, kết hợp, kế thừa các phương pháp, thành quả nghiên cứu về tôn giáo của các ngành
khoa học khác.

You might also like