MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 42

Câu 13 : Trình bày kiến trúc truyền thống của đình làng trong văn hóa Việt Nam

. Nêu hướng bảo tồn


những giá trị mỹ thuật , văn hóa , tính cộng đồng trong qua đình làng Việt Nam . Minh họa hình ảnh
trong bài viết hoặc phụ lục .

Đôi nét về kiến trúc đình làng:


Đình Làng - văn hóa Việt Nam Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân
quen, gắn bó với tâm hồn mỗi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt,
lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao
thế kỷ. Kiến trúc đình làng vì thế mang đậm dấu ấn văn hóa, độc đáo và tiêu
biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống. Thế kỷ XVIII, Việt Nam có
khoảng 11.800 làng xã. Mỗi làng có một cụm kiến trúc nghệ thuật tôn giáo
đình thờ với hàng trăm pho tượng và nhiều đồ trang trí thờ cúng khác nhau.
Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung đình chùa,
nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hóa. Chùa là nơi
thờ Phật, ít có ảnh hưởng văn hóa Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hòa. Còn lại
đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người
Việt Nam, nơi “cân bằng” phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn
những nét tài năng, tư duy của dân làng, nhất là về tín ngưỡng, nơi thờ thần
Thành Hoàng Làng, người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân
nghề nghiệp sinh sống. Nhìn quan làng làng, ta sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa,
trọng tài, ''uống nước nhớ nguồn'' của người Việt Nam.
Tuy đình là của dân làng, nhưng thần không nhất định là người của làng.
Hơn nữa, người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thủy,
nên thờ và Tôn kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần biển, thần nước (thần
Tản Viên)... ở Phù Ninh (Phú Thọ) ) thờ thần Đá Trắng, vùng đồng bằng thờ
thần cá, thần rắn... Tất cả những tín ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp
nối nhau tạo thành một nền vǎn hóa đình, một nền vǎn hóa hỗn hợp, đa dạng,
có mặt nhiều thành phần Tôn giáo khiến đình trở thành tập thể siêu thần, thành
sức mạnh vô hình, tạo niềm tin, niềm hy vọng, sức mạnh vô hình của làng xã
cộng đồng Việt Nam. Có thể, những ngôi đình cổ nhất nước ta vẫn là những
ngôi đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như: đình Tây Đằng, đình Lỗ
Hạnh. Riêng đình Lỗ Hạnh xưa là chữ nhất mà qua các đời sau tu bổ đã thêm
hậu cung nên đình thành chữ Đinh.
Theo khái niệm kiến trúc, đình là một kiến trúc công cộng, mở rộng để
chờ đón bất cứ con người nào của đất Việt. Với nghĩa như thế, đình làng Việt
Nam chính là nơi không phân biệt nghèo sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ
nhất vǎn hóa hiện thực của đời sống nhân dân. Mái cong của đình không giống
với bất kỳ mái cong nào của vùng Đông Nam Á, kể cả Nhật Bản, Trung Hoa và
Page | 1
Thái Lan, vì góc cua của đình Cảm công và vút cao làm một hệ thống kiến trúc
đặc biệt có tên gọi riêng là tâu đao lá mái, không làm thoáng đắp thành. Nhìn
lại các đình Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Cao Thương (Hà Bắc), Phù Lão, Chu
Nguyên, đình Hương Lộc, Phùng Thượng, đình Thổ Tang, Ngọc Canh để thấy
rằng, đình là một khối điêu khắc trong không gian, đầy đủ chi tiết tinh tế,
nhưng cũng đầy đủ tính khoa học kiến trúc.
Nói về đường nét, đình là nơi hội tụ những mô típ trang trí tuyệt vời, bao
gồm nhiều xu hướng: hiện thực, cách điệu và đồ họa. Ví dụ: ở đình Phù Lão
(Bắc Giang) có điêu khắc phụ nữ khỏa thân đùa với rồng, gối đầu lên mình
rồng; một hình trang trí đầy đủ sáng tạo nữa là mây bay. Để đưa mây vào trang
trí sáng cho gia đình, người Việt Nam đã cố gắng diễn đạt được cái nhẹ nhàng
phù vân của mây vào những bụi cổn và mây đã thành hình khối di động, uyển
chuyển, chỗ dày, chỗ rộng như có lay động gì.
Hội làng thường được tổ chức ở sân đình, trong hội làng, dân làng thường
diễn Hèm. Theo tự điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Hèm có nghĩa là trò
diễn lại sinh hoạt sự tích của vị thần thờ ở làng, những điều kiêng kỵ của thần...
Việc Việt hóa, dân dã hóa vị ''Thành Hoàng ''bằng cách đình triều đình ''tấn
phong'' cho các thần linh của thôn xã tổ chức Thành Hoàng Làng đã góp phần
thúc đẩy đình làng chiếm địa vị trung tâm sinh hoạt trong xã hội nông thôn
Việt Nam để tiến tới đình này được coi là biểu tượng quê hương. Nhìn chung,
văn hóa đình Việt Nam rõ ràng có tính hoàn toàn độc lập của một cộng đồng xã
hội biết tổng hợp dung hòa mọi nền văn hóa khác nhau thành một nét văn hóa
riêng Mục đích phục vụ an ninh cho dân tộc mình, trong đó , yếu tố chủ yếu
vẫn là thờ cúng những người có công với xã, những người anh hùng dựng
nước, giữ nước.
Đình làng thường cổ kính, trang nghiêm và là công trình kiến trúc văn
hóa mang tính dân tộc. Kiến trúc đình làng vì vậy cũng mang đậm dấu ấn văn
hóa độc đáo và tiêu biểu cho điêu khắc truyền thống. Thường được xây dựng ở
nơi cao ráo, thoáng mát, nóc nhà có đôi rồng lượn tranh lấy quả châu, trên
những thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối. Điện thờ là nơi linh
thiêng nhất để thờ thần, thành hoàng làng hoặc những người có công đóng góp,
xây dựng giúp dân làng vượt qua khó khăn.

Page | 2
(Đình Làng 150 tuổi ở Hoa Lư, Ninh Bình )
Là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử.
Điêu khắc cũng phát triển mạnh ở nhiều kiến trúc tôn giáo khác nhau, nhưng
không ở đâu biểu hiện hết mình như ở đình làng. Điêu khắc ở đình làng không
những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam, mà còn là
nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của
người nông dân đất Việt.
Đình Làng ở Việt Nam được xây dựng dựa trên hệ thống kiến trúc
truyền thống của Châu Á, được xây dựng bằng những cột lim tròn, to và thẳng
tắp đặt trên những tảng đá lớn. Kèo, xà ngang, xà dọc được làm bằng gỗ lim,
tường xây bằng gạch nhưng cũng có khi không xây tường. Mái đình lợp ngói
lợp hài hòa 4 góc có 4 đầu đao cong vút lên như đuôi chim phượng cong. Sân
đình lát gạch, trước đình có hai cột đồng trụ vút cao, trên đình có con nghê lúc
nào cũng nhe răng cười. Gian giữa có hương thờ vị thần của làng. Chiếc trống
cái được đặt trong đình kết thúc người dân về đình tập hợp để bàn tính công
việc của làng, của nước.
Có thể nói thế kỷ 16 – 18 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đình
làng với những cái tên đình nổi tiếng như: đình Thổ Hà (Bắc Giang), đình Tây
Đằng và Chu Quyến (Ba Vì, Hà Nội), đình Hoành Sơn (Nam Đàn, Nghệ An),
đình Thổ Tang (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc)… Có thể, những ngôi đình cổ kính
nhất nước ta vẫn là những ngôi đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như
Page | 3
đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh. Riêng đình Lỗ Hạnh xưa là chữ nhất mà qua các
đời sau tu bổ đã thêm hậu cung nên đình thành chữ Đinh.
Theo khái niệm kiến trúc, đình là một kiến trúc công cộng, mở rộng để
chờ đón bất cứ con người nào của đất Việt. Với nghĩa như thế, đình làng Việt
Nam chính là nơi không phân biệt nghèo sang nghèo hèn, là nơi thể hiện rõ
nhất văn hóa hiện thực của đời sống nhân dân.

Khi nói đến văn hóa làng quê – Nét văn hóa của nông thôn Việt Nam,
người ta liên tưởng ngay đến những hình ảnh rất đặc trưng “Cây đa, bến nước,
sân đình” làm nên biểu tượng của làng quê. Trong sâu thẳm tâm thức người
Việt, hình ảnh mái đình cây đa luôn ở trong cung bậc cảm hóa nhất và có sức
gợi nhớ truy sát. Đình Làng – một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng
Việt Nam, từ lâu đã đi vào tâm khảm mỗi con người và tỏa sáng trong bài ca
dao mà ai cũng biết đến:
“Hôm nay qua chuyện nước đầu đình
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen”
Hình ảnh đình làng hiện lên thân thuộc và gần gũi, gắn bó với cuộc đời
đời thường của từng người dân quê. Tuy nhiên, trong câu ca dao trên, đình làng
chỉ là cái trách, chỉ là hư ảo. Đình làng thường được xây dựng và tôn tạo tại vị
trí trung tâm nhất của làng. Xung quanh đình thường có những cây cổ thụ bóng
mát, có hồ sen và khoảng sân rộng. Cây cổ thụ như biểu tượng linh thiêng của
Page | 4
sức sống bền vững, che chở cho dân làng. Bởi vậy thì gần đình làng đâu phải
cánh đồng để trai kia đi tát nước. Chắc chắn rồi, chàng trai vác gầu ra đấy
không phải để uống nước. Chàng đang đợi người thương nên phải giả say vác
gầu đi tát nước. Một tình cảm đẹp và lãng mạn nhưng luôn giấu kín trong lòng.
Đó là sự kín đáo, thấm nhuần trong cách thể hiện tình cảm của những đôi trai
gái ngày xưa:
“Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bao nhiêu”.
Thực vậy, trong cộng đồng cư dân Việt Nam có thể không có cái gì gắn bó,
thân thiết hơn là mái đình làng. Đình Làng không chỉ là nơi thờ phụng thành
hoàng làng, những người có công với dân làng mà còn là nơi diễn ra những
sinh hoạt cộng đồng của người dân. Vào những ngày có công việc quan trọng,
đình làng là nơi hội họp, diễn ra các lễ nghi truyền thống. Mỗi năm lại có
những ngày lễ lớn, có lễ hội diễn ra tại đình làng. Vào ngày thường nhật, đình
làng là nơi trò chuyện của các cụ già, nơi vui chơi của các cháu nhỏ, chí còn là
nơi hò hẹn của các cặp nam thanh nữ tú. Mái đình luôn là nơi bắt đầu của
những mối tình thơ mộng:
“Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.”
Ngay cả công việc miêu tả nhan sắc của một cô gái đẹp, người ta cũng
liên tưởng tới hình ảnh cây trúc và mái đình làng quê. Một sự so sánh tưởng
chừng như phi lý nhưng rất hợp lý, cái hợp lý của thế giới yêu, và ngẫu nhiên
tác tạo nên một bức tranh đầy thi vị: cây trúc – mái đình – người đẹp. Nghĩa là
khi bước vào bức tranh ấy, người đẹp càng đẹp càng xinh hơn:
“Trăng thanh nguyệt rạng mái đình
Chén trai chưa chết sao tình đã quên?”
Ca dao tục ngữ diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội, bao gồm các đề
tài hài hước, châm biếm, gia đình và trữ tình. Nhưng nhất là về trữ tình, đã là
những thanh niên nam nữ thuở nào, dùng để tỏ tình, thổ lộ tình yêu thầm kín
của mình với người mình yêu. Thông qua ca dao, mái đình cứ ẩn hiện giống
như một ẩn dụ của văn hóa làng:
“Toét mắt là ở hướng đình
Cả làng toét mắt, riêng mình em đâu”.

Page | 5
Đình Làng thường quay mặt về hướng Nam. Chỉ có những trường hợp đặc biệt
vì lý do phong thủy, đình mới quay mặt theo hướng khác. Thông qua cách bố
trí mỗi ngôi đình, ta có thể thấy được các quy tắc địa lý – tín ngưỡng của người
Việt xưa, thường được gọi là phép phong thủy. Người Việt xưa cho rằng, thế
đất và hướng thiện, tốt xấu có thể tác động đến sự thịnh suy, lành dữ của cả
làng. Vì thế, khi xây dựng đình, bao giờ người ta cũng rất quan tâm đến sự hài
hòa của hai yếu tố Âm và Dương. Tuy nhiên, ở câu ca dao này còn có nghĩa
chính để nói về cái tốt, nhưng là tốt riêng rẽ thì trở thành xấu và ngược, cái
xấu, nhưng là xấu tập thể thì trở nên bình thường.
Hình ảnh đình làng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam rất đa dạng, là biểu tượng
rất đặc trưng trong văn học dân gian về làng quê. Cái nôi đưa ta đi đến những
chân trời mới và chào đón ta ngày trở về với quê hương bản quán, đó chính là
mái đình làng thân thuộc!
Niên đại của đình làng, Lịch sử
Đình làng với chức năng là nơi thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân
chúng. Đình làng đã xuất hiện từ thời Lê sơ, thế kỷ XV, tuy nhiên đình với đầy
đủ các chức năng tín ngưỡng – văn hóa – xã hội, cùng với những yếu tố tạo
hình mỹ thuật hoàn chỉnh thì phải từ thế kỷ XVI, thời Mạc. Tuy nhiên, theo
giới nghiên cứu lịch sử mỹ thuật, thì thế kỷ XVII mới là giai đoạn phát triển
phong phú của kiến trúc và điêu khắc đình làng, đặc biệt là giai đoạn nửa sau
của thế kỷ XVIII.
Trước đây đình chỉ có 3 gian và 2 chái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ
Thành hoàng. Cuối thế kỷ 17 từ giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho
làng mang phong cách chữ Đinh.

Khởi đầu giai đoạn manh nha của đình làng là từ thời Lê sơ. Đây là giai đoạn
chuyển đổi của chế độ xã hội (từ quân chủ chuyên chế Phật giáo sang quân chủ
chuyên chế Nho giáo) với sự “lên ngôi” của tầng lớp Nho sĩ. Tuy nhiên, cũng
phải có một thời gian dài nhiều chục năm mới có một loại kiến trúc thích hợp
tương đối to lớn được hình thành dưới thời Lê Thánh Tông. Có lẽ, ở dưới thời
Lê sơ, loại kiến trúc trên vẫn chưa có yếu tố đầy đủ của một ngôi đình làng như
chúng ta đã từng hiểu, mà chủ yếu chỉ để mang chức năng cơ bản liên quan đến
“bàn tay chính trị” của triều đình, ở nơi đó ban bố chính lệnh của nhà vua.
Trong một giới hạn nào đó, đây là trụ sở của chính quyền, nơi mà những người
đại diện cho triều đình tiếp cận với dân chúng. Điều còn chưa rõ là kiến trúc này
đã thực sự có mặt rộng rãi ở các làng xã chưa, hay mới chỉ dừng lại ở những
trung tâm lỵ sở (?). Vì thế chúng tôi mới chỉ dừng lại ở mức độ coi những kiến
trúc dạng trên là sự manh nha của đình làng.

Page | 6
Ngôi đình làng sớm nhất, mà ta biết được hiện nay, là đình Thụy Phiêu ở Ba
Vì – Hà Nội, có ghi rõ một niên đại ở đầu cột vào thế kỷ XVI (Đại Chính nhị
niên, 1531), và chỉ là niên đại trùng tu, vì vậy có thể nghĩ rằng, đình Thụy Phiêu
đã được khởi dựng vào một thời điểm trước đó. Trong buổi khởi đầu này, khi
đình trở thành một thực thể văn hóa của làng xã, người dân đã hội nhập vào
đình làng những sinh hoạt của thôn dã, trong đó bao gồm cả sinh hoạt trần gian
và sinh hoạt tâm linh, có thể coi đây là tiền đề cho sự xuất hiện của các vị thần
linh dân dã hoặc được dân dã hóa tại chốn thâm nghiêm của đình làng.

Tính dung hòa đã khiến cho cả tầng lớp trên và bình dân lớp dưới đều được
thỏa mãn với dạng thần linh này. Không rõ các vị thần này được gọi là Thành
hoàng làng từ khi nào, chỉ biết rằng, trong quá trình phát triển của kiến trúc tôn
giáo ở nông thôn Việt thì Thành hoàng làng thường được thờ tại đình (nhiều khi
cũng được thờ tại những ngôi đền, nghè, miếu có liên quan trực tiếp tới ngôi
đình). Trong nhiều lễ hội, người ta rước Thành hoàng làng từ miếu – nghè về
đình để làm lễ tế và thực hiện các sinh hoạt tâm linh liên quan. Hiện tượng này
cũng ít nhiều tương đồng với những lễ hội của các hệ kiến trúc đền thờ nằm
trong một hệ thống tín ngưỡng khác, như trong hệ thống thờ Tứ Pháp ở chùa
Dâu. Vào ngày hội người dân các làng thường rước tượng của các bà Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện ở các chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Giàn về chùa Dâu rồi
rước về chùa Mãn Xá; hay như ở Nghi Lộc, Thanh Oai, nhiều làng kết chạ cũng
rước bài vị Thành hoàng làng của thôn mình về đình làng Nghi Lộc. Nhiều nhà
nghiên cứu nghĩ rằng, hiện tượng kể trên xuất phát từ nhiều nguồn gốc: Một là,
các vị thần này, một sản phẩm của tư duy dân dã, theo sự tích có mối liên quan
trực tiếp với cuộc sống của con người (như mây, mưa, sấm, chớp gắn với nguồn
nước no đủ) hay như ở đình Nghi Lộc là gắn với hệ “Tam Sơn” trong tín
ngưỡng cổ truyền. Hai là, các làng này có một mối quan hệ thân thiết, chẳng
hạn như kết chạ (liên kết anh em), để hỗ trợ nhau trong sản xuất cũng như trong
quá trình khai canh, mở đất, hoặc do dân đông làng lớn, với nhu cầu phát triển
mà phải chia tách làng, theo đó phải chia tách thần linh thành nơi thờ chính và
nơi thờ phụ…

Page | 7
Đình Thụy Phiêu, Ba Vì, Hà Nội
Địa điểm
Gắn liền với khu ở của dân làng, thuận đường nối với các ngõ, thôn, chấp hành
theo nguyên tắc địa lý phong thủy, phía trước thoáng nhìn ra sông nước, có hồ
nước tự nhiên hoặc nhân tạo theo nguyên tắc “Tụ thủy ”.
Bố cục
Đình làng có thể là công trình độc lập, cũng có thể là quần thể kiến trúc, cũng
có thể là khi kết hợp với đền thờ Phật, chùa, miếu tạo thành quần thể lớn v.v…
Phát triển qua nhiều thời kỳ, thời sơ khai ban đầu chỉ có đại đình hình chữ nhật
và hồ bán nguyệt, sau đó phát triển quy mô hơn, có nhiều thành phần hơn.

Các đại đình quy mô đầy đủ bao gồm: đại đình, hậu cung, tiền tế, tả hữu vu,
ngoài ra có thể thêm các nhà phụ. Bên cạnh đó còn có cổng và phía trước đình
Page | 8
làng thường có sân rộng, hồ nước, cây xanh… để có thể tập hợp đông người
những ngày lễ hội…
Đại đình – hậu cung tạo thành 1 phần chính, 2 bên có thêm nhà hữu, tả vu đối
xứng 2 bên. Phía trước cửa đại đình thường có 2 trụ phía trước.

Đại đình là nơi hành lễ, sinh hoạt công cộng, hành chính cần không gian và
diện tích lớn, trang trọng, bề thế. Các đại đình thường có 5,7 gian. Mái đình đại
có 2 dạng: Mái 4 mái và dạng 2 mái, tường xây bịt 2 chái (loại này niên đại
hơn).
Những đình niên đại sớm thường không có tường hay vách gỗ bao quanh. Đại
đình bản đầu tiên có dạng chữ nhất, về sau hậu cung phát triển ngược về phía
sau tạo thành hình chữ Đinh, Công. Có những ngôi đình có sàn gỗ, thường
cách mặt đất khoảng 50-60 cm. Gian chính giữa thường không có sàn còn gọi
là gian lòng thuyền. Gian này được coi là lối của Thánh hay Thành hoàng làng
được thờ trong đình và nó cũng là nơi để thực hiện các nghi lễ thờ cúng. Sàn ở
các gian đối xứng 2 bên, sàn có các mức cốt, cốt thấp nhất là dành cho các bô
lão và chức sắc trong làng. Họ sẽ ngồi đối diện qua gian lòng thuyền. Đây điều
rất bất ngờ theo cách nghĩ thông thường thì các cụ chức sắc và bô lão thường
ngồi chiếu trên trong các bữa tiệc nhưng ở đây họ lại ở cốt sàn thấp nhất,
những người khác sẽ ở phía sau. Điều này cho thấy rõ công năng hội họp của
đình.
Sàn thường có 3 mức cốt lõi có thể hiện sự phân cấp thứ hạng về quê hương
hay tuổi tác của làng thôn Việt Nam khi tế lễ hay hội hè… Cốt thấp nhất cách
mặt đất khoảng 40-60 cm, có thể do lí do cách ẩm .

Page | 9
Đình Chu quyến rũ dạng 4 cổng

Hậu cung là nơi thờ Thành hoàng làng, giữ các vật thiêng, không gian không
lớn nhưng kín đáo, trang trọng, thường không cho mọi người vào. Ban đầu
thường là khoảng trống chính giữa, phía sau cột cái và cột quân của đình; sau
này phát triển thành dạng chuôi vồ, lùi ra sau đại đình tạo thành chữ đinh hoặc
kết nối với đại đình bằng 1 nhà cầu gọi là ống muốn tạo thành hình chữ công.
Thành hoàng thường là nhân thần có công với làng hay địa phương như Lí Bí,
Triệu Quang Phục, Trần Hưng Đạo hay nhân vật theo truyền thuyết Thánh Tản
viên, hoặc có khi là ông tổ dòng họ, nghề thủ công truyền thống
Phương đình (Tiền tế): Thường có kích thước và quy mô nhỏ hơn đại đình, mặt
bằng chữ nhật hay hình vuông và đa số không có cửa bao quanh. Phải đến cuối
thế kỷ 17 nhà Tiền tế mới xuất hiện và có nhiều vào thế kỷ 19. Cùng với sân
đình, các hành lang Tả Vu, Hữu Vu,.. nhà Tiền tế là bộ phận nối tiế giữa kiến
trcus Đình và ngoại cảnh tổng quan, khoáng đạt rộng mở để dễ dàng tập hợp
quần chúng đông đảo tiến hành rước lễ hoặc giải trí vui chơi.

Page | 10
Tả vu, hữu vu (Nhà hành lang bên trái và bên phải): Là không gian có mái che,
không có tường bao xung quanh, nếu cũng chỉ có bao xung quanh, mặt chính
để hở.

Đình có mặt bằng chữ nhật (hình trái), Đình có mặt bằng chữ công (hình phải)
Kiến trúc, bộ khung kết cấu, tỉ lệ
Kiến trúc & tên gọi các bộ phận

Page | 11
Nhìn từ phía ngoài mái đình có tỉ lệ đồ sộ, chiếm 2/3 chiều cao CT, 4 góc xòe
rộng, uốn lượn nhẹ nhàng, đặt trên hệ cột to khỏe, vững chắc.
Bờ nóc hơi võng, có khi 2 đầu nhô cao vút ra ngoài như hình con thuyền lớn.
Trên 2 đầu bờ nóc được đắp hình con Kim Lạc long thủy quái, ở giữa bờ nóc
hình lưỡng long chầu nguyệt ( hình thức này sang thời Nguyễn mới thịnh hành)
bờ chảy đắp các con xô Lân, phượng…
Bốn góc mái nhô cao với các đầu cao cong vút nhờ các tàu mái réo cong đan
cài ở 4 góc tạo nên những nét duyên dáng nhưng không kém phần khở khoắn
cho ngôi Đình.
Các cột đình thường để mộc, bào nhẵn, cũng có những đình làng cột Cái được
sơn son thiếp vàng, trang trí rồng mây.
KẾN TRÚC, BỘ KHUNG KẾT CẤU
Trong kiến trúc đình làng, các cột có tiêu chuẩn to, mập và chắc chắn, “đầu cán
cân, chân quân cờ”. Mái đình lớn, nặng, xà thấp, có xu hướng che chân công
trình( vừa tránh mưa, vừa tránh nắng trực xa), chiếm 2/3 chiều cao của đình,
mặt mái dốc và phẳng. Cấu tạo mái theo kiểu “ tàu đao, lá mái”. Phố biến loại
một tầng bốn mái. Mái lợp ngói mũi hài, lợp 2 lớp ( ngói chiếu và ngói phủ), để
tránh cuống phong làm tốc mái, đồng thời làm cho ngôi đình ấm về mùa đông,
mát về mùa hè. Đình làng Việt Nam có màu tự nhiên, mộc mạc, rêu phong cổ

Page | 12
kính của mái ngói, nguyên sơ của gỗ. Công trình kiến trúc có xu hướng trầm,
mộc mạc, hướng nội như bị hút xuống đát và lẫn vào không gian cảnh
quan.Kiến trúc Trung Hoa có màu rực rỡ của sơn ở cấu kiện gỗ, màu men
vàng, xanh của ngói ống. Công trình duyên dáng, uyển nhã, có xu hướng nổi
bật, hướng ngoại, cầu kì. Do có sàn đình, cho nên thềm và nền đình làng Việt
Nam thường ít được chú trọng chăm chút và thường thấp hơn thềm và nền của
kiến trúc Trung Hoa. Nền đình gian giữa thường không lát gạch, các gian còn
lại đều lát ván sàn. Kiến trúc đình làng là kiến trúc mở, để thoáng xung quanh.
Do vậy, ngôi kiến trúc gần gũi với con người, toát lên tính dân chủ. Chạm khắc
của đình làng cũng nhiều và phong phú hơn kiến trúc của đền Trung Hoa. Điêu
khắc đình làng làm cho các kết cấu gỗ trở nên mềm mại, uyển chuyển, không
gian kiến trúc trở nên sinh động hơn. Đặc biệt, chạm khắc đình làng không chỉ
trang trí kiến trúc, mà chứa đựng giá trị về văn hóa, lịch sử, dân tộc học, nghệ
thuật học…
Kiến trúc cổ Trung Hoa, sản phẩm của vùng bình nguyên khô ráo, các cột có
xu hướng thanh nhã và thon mảnh, cột có nhiều loại: tròn, vuông hoặc bát giác.
Mái Trung Hoa nhẹ, đầu mái thẳng, thường chiếm ½ độ cao kiến trúc, để lộ
thân công trình. Mặt mái không dốc lắm và hơi cong lõm. Mái kiến Trúc cổ
Trung Hoa khá Phổ biến kiểu “mái hạ, mái thượng”, chồng diêm tám mái. Mái
có cấu tạo dựa trên kết cấu “ tầu hộp “ và hệ “ đấu củng “ nhiều tầng lớp và chi
tiết. Mái được lợp bằng ngói ống, hoặc ngói âm dương và chỉ lợp một lớp.
Thềm và nền của kiến trúc cổ Trung Hoa được chú trọng hơn. Nền thường
được xây lát bằng gạch, thềm được bó lát bằng đá, gạch. Cách chùa đền Trung
Hoa có tình khép kín bằng hệ thống tường vách bao quanh. Điêu khắc trang trí
kiến trúc cũng hạn chế hơn
Sự khác biệt giữa kiến trúc đình làng với kiến trúc cổ Trung Hoa được thể hiện
qua bảng sau:

Page | 13
BỘ KHUNG KẾT CẤU
Bộ khung kết cấu gỗ khớp nối bằng mộng cực kỳ linh hoạt, có thể tháo dỡ lắp
ở vị trí mới. Tính đơn giản, thống nhất, tính điển hình và tình tiêu chuẩn thấy
rõ trong bộ khung gỗ chịu lực của công trình.
Hệ kết cấu gỗ, liên kết bằng mộng: Cột,, xà, kẻ, bảy, bộ vì kèo Chồng Giường
hay giá chiêng, hoặc giá chiêng kết hợp chồng giường.
Là loại hình kiến trúc công cộng nên cần không gian lớn, Bộ Vì gồm 6 hàng
cột lớn đứng thẳng trên các bệ đá bằng sức nặng của mái và các mối liên kết.
Khoảng cách các cột xác định theo số lượng khoảng hoành. Kiểu Thượng tam-
hạ tứ( vì nóc trên cùng mỗi bên có 3 khoảng hoành, vì nách mỗi bên có 4
khoảng hoành), Thượng tứ - hạ ngũ ( vì nóc mỗi vên có 4 khoảng hoàng, nách
mỗi bên có 5 khoảng hoành), Thượng ngũ – hạ ngũ ( vì nóc mỗi bên có 5
khoảng hoành). Vì nóc có hình tam giác cân đặt trên 2 cột cái, vì nách có hình
tam giác vuông đặt trên cột cái và cột quân. Khoảng cách các hoành qui ước là

Page | 14
a, thì chiều cao b= 2/3 , đường xiên hay còn gọi là khoảng chảy.

Page | 15
ĐỀ TÀI TRANG TRÍ
Trang trí khéo léo và tinh tế, trang trí để làm đẹp các bộ phận cấu kiện chứu
không trang trí thừa thãi, khéo léo lồng ghép yếu tố văn hóa, thiên nhiên, ước
nguyện và đề tài trang trí. Nơi tập trung các tác phẩm điêu khắc độc đáo, văn
hóa dân gian. Đề tài thông thường là long, ly( lân ), quy, phượng ( tứ linh) hay
thông, mai, cúc, trúc ( tứ quý ), đặc biệt là hình ảnh về hoạt cảnh dân gian,
những hình ảnh thân thuộc ở làng quê. Các chủ đề dân gian, sinh hoạt làng quê
được thể hiện theo quan niệm tạo hình dân gian giàu tính tượng trưng và ước lệ.
Không gian tâm đến tỉ lệ cơ thể cân đối, miễn sao truyền được cái “ thần” của
nhân vật. Nhưng tổng thể tác phẩm lại là sự hài hòa cân đối hợp lí về mặt bố
cục, hình khối, đường nét.

Page | 16
“ Uống rượu” ở đình Ngọc Canh ( Vĩnh Phúc) ( bên trái ) “Đánh Cờ” ở đình
Ngọc Canh( hình phải)\
“ Uống rượu “: thể hiện một cuộc đối tửu với một tinh thần nho nhã. Đường nét
mềm mại, hình khối nhẹ nhàng.
“ Đánh cờ”: khéo tạo ra sự thay đổi giữa mảng nổi, mảng chìm giữa hình nền,
giữa đặc và rỗng một cách hợp lí tạo nên một bố cục thoáng nhưng rất chặt chẽ,
rõ ràng. ( Chiếu theo cuốn “ Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam” của Phạm Thị
Chỉnh).
Trong Đình làng Tây Đằng: các bức chạm khắc mô tả sống động một quy trình
khép kín cuộc sống của người Việt cổ, từ thuở sơ khai với hoạt động hái lượm,
thuần hóa động vật hoang dã ( hình tượng con voi đi cày) đến cảnh đấu trang
chống giặc ngoại xâm, sau đó đất nước thanh bình ( hình ảnh người chồng ngồi
chải tóc cho vợ dưới gốc cau), trai tráng luyện tập võ nghệ, nhân dân nô nức
trong lễ hội đua thuyền đến cảnh gia đình xum vầy, thầy đồ dạy học biểu tượng
cho sự chăm lo tới thế hệ sau…

Cánh gà chạm Rồng, đuôi cá ở Đình Tây Đằng( hình trái), Chạm khắc ở vì nóc
ở Đình Tây Đằng ( hình phải)

Page | 17
Ý NGHĨA VÀ BIỂU TƯỢNG CỦA MỘT SỐ MÔ TÍP TRANG TRÍ TIÊU
BIỂU TRONG ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÀNG

Trang trí là một loại hình của nghệ thuật tạo hình, có khả năng biểu hiện tư
tưởng, tình cảm, thẩm mỹ của cả một cộng đồng, dân tộc. Bằng nghệ thuật cách
điệu, tượng trưng hóa các đối tượng như tự nhiên, cây cỏ, động vật… đã tạo
thành các mô típ (motif ) trang trí. Trong điêu khắc đình làng có nhiều chạm
khắc trang trí. Người nghệ nhân xưa đã sáng tạo, tiếp thu và sử dụng nhiều mô
típ trang trí. Các mô típ trang trí có ý nghĩa và biểu tượng với rất nhiều lớp
nghĩa phong phú. Việc tìm hiểu và giải mã chúng cho phép chúng ta tìm hiểu về
tư duy, quan niệm và thẩm mỹ của người xưa.
Trong điêu khắc trang trí đình làng, các mô típ trang trí có ý nghĩa và biểu
tượng gồm 3 chủ đề chính
1/ Thiên nhiên- vũ trụ
2/ Cây cỏ
3/ Linh thú, động vật
1/ Các mô típ thiên nhiên – vũ trụ
THÁI CỰC
Thái cực được quan niệm là khởi nguyên của vũ trụ. Thái cực được diễn tả
bằng một biểu tượng dưới dạng một hình tròn, ở giữa có đường lượn hình chữ
S. Một nửa màu trắng (biểu tượng cho dương) có chấm đen (âm), nửa bên kia
màu đen (biểu tượng cho âm) có chấm trắng (dương). Thái cực là nguồn gốc, là
sự bắt đầu của sự sống. Sự chuyển động của Thái cực sản sinh ra âm – dương.
Âm dương vận động sản sinh ra vạn vật. Biểu tượng Thái cực mang ý nghĩa về
sự khởi đầu, hoàn hảo, toàn vẹn, mang lại điềm lành, hạnh phúc, đồng thời có
thể trấn quỷ, trừ tà. Trong mỹ thuật đình làng, người ta thường vẽ vòng Thái
cực trên Thiên tỉnh (trần gian giữa của đình làng). Cũng có khi chúng ta bắt gặp
vòng Thái cực trong vầng mặt trời trên nóc đình, trong đồ án lưỡng long chầu
nhật, ở những ngôi đình muộn thời Nguyễn. Ở ngôi đình sớm nhất Việt Nam,
đình Thụy Phiêu (Hà Tây), niên đại 1531, có vòng Thái cực được chạm vào gác
thờ. Tuy nhiên, niên đại của gác thờ có thể muộn, vào thời Nguyễn. Biểu tượng
Thái cực thường đi với Tứ tượng hoặc Bát quái. Nhưng trong trang trí đình
làng, mô típ này hầu như không được sử dụng.
Page | 18
MẶT TRỜI- MẶT TRĂNG
Hình tượng mặt trời biểu tượng cho sự chủ động và sự thống lĩnh. Mặt trời là
thái dương hay đại diện cho nguyên lý thuần dương, biểu hiện của dương tính
mạnh mẽ. Trong truyền thuyết Trung Hoa, mặt trời (vầng thái dương) cũng có
khi là biểu tượng của hoàng đế. Môtíp mặt trời thường được sử dụng với hình
tượng “lưỡng long chầu nhật”, được đắp nổi bằng vữa có gắn mảnh sành trên
nóc đình, hoặc trong các đồ án trang trí ở cửa võng. Mặt trăng là hình ảnh mang
nguyên lý đối lập với mặt trời. Xét theo nguyên lý âm dương, mặt trăng mang
tính thuần âm, liên quan đến phụ nữ. Mặt trăng mang lại điềm lành, hạnh phúc.
Đạo giáo cho rằng, mặt trăng là nơi cư trú của chú thỏ ngọc, đang nghiền thuốc
trường sinh ở gốc đa. Trong cách hiểu như vậy, mặt trăng là nơi chứa đựng
nguồn sống bất tử. Trong chạm khắc trang trí đình làng mô típ mặt trời và mặt
trăng có mặt trong đồ án trang trí như: lưỡng long chầu nhật, lưỡng long chầu
nguyệt. Môtíp này thường được bố trí ở vị trí trung tâm, trang trọng, như cửa
võng, bàn thờ, ở trên nóc đình, trên trán bia đá.
MÂY
Mây mang đến những dấu hiệu tốt lành, hạnh phúc. Đối với cư dân nông
nghiệp, mây dấu hiệu báo hiệu cơn mưa. Đối với cộng đồng, cá nhân, mây
mang đến điềm báo cát tường, như mây ngũ sắc cũng có nghĩa là ngũ phúc. Khi
đức Phật ra đời, có mây ngũ sắc toả ánh hào quang. Trong những lễ tế thần,
người xưa quan niệm có ứng nghiệm là khi có những đám mây trắng hoặc mây
ngũ sắc hiện ra. Với ý nghĩa trên, hình tượng mây được những người nghệ nhân
dân gian xưa bố trí trong những đồ án trang trí cùng với Tứ linh như long vân
khánh hội, long ẩn vân, phượng mây, mây nâng vòng Thái cực…
NƯỚC
Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước, nước là nguồn sống của con người và
vạn vật. Nhưng nước cũng đứng đầu trong các mối hiểm họa đối với con người
– “thuỷ hỏa đạo tặc”. Nước có mối quan hệ với lửa trong thế tương khắc (thủy
khắc hỏa) và tương tác (thủy hỏa ký tế). Hình tượng sóng nước thường là những
môtíp được bố trí ở phía dưới của bố cục, gồm những đường lượn cong đều.
Thời Lý – Trần, trong mỹ thuật Phật giáo có môtíp sóng hình nấm, ở bệ tượng
Phật, ở trụ đá… Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật nhận thấy ở môtíp này có hình
tượng lưỡng nguyên: vừa là hình tượng cây, vừa mang hình tượng núi. Trong
chạm khắc đình làng, mô típ nước thường được sử dụng trong đồ án trang trí,
như rồng phun nước, cá chép hoá rồng… Nước luôn ở thế động và được cách
điệu thành sóng nước như vẩy cá.
TIA CHỚP

Page | 19
Hệ quả của mối quan hệ lửa và nước, dấu hiệu báo trước cơn mưa là tia chớp,
sét. Hình tượng của tia chớp có ý nghĩa giao hòa để tạo ra mưa thuận, gió hòa.
Tia chớp còn là biểu tượng của thanh gươm, tia sáng mặt trời. “Mũi tên bắn từ
nỏ thần vua Thục: “Chỉ sông, sông cạn; chỉ núi, núi tan; chỉ ngàn, ngàn cháy”…
Thanh gươm của thủ lĩnh Hoả Xá (Tây Nguyên) là tượng trưng của sấm sét.
Gươm thiêng của các vua Căm-pu-chia thuở trước, nếu rút ra khỏi vỏ mà không
trải qua nghi lễ, người ta tin rằng cả vương quốc sẽ bị lửa thiêu tàn. Nhúng
gươm xuống nước là biểu thị hoà hợp (lưỡng hợp) nước lửa, một nghi lễ phồn
thực. Nhưng nhúng gươm xuống nước cũng là biểu thị thế lưỡng phân Nước –
Lửa: lửa trị nước, nước rút, nghi lễ chống lụt”.3
Trong điêu khắc đình làng, tia chớp được hiện thực hóa dưới hình thức đao
rồng (còn gọi là đao lửa). Tia chớp – đao rồng làm cho con rồng như tăng thêm
uy lực. Nó còn biểu tượng của tinh thần dũng mãnh, thượng võ và biểu tượng
của quyền lực. Tia chớp được thể hiện bằng vân xoáy mập ở gốc, duỗi dần ra
ngọn, rồi thẳng ra đến đầu như mũi đao trong đồ án mặt trời hoặc rồng. Đây là
những môtíp trang trí tuyệt đẹp của chạm khắc trang trí đình làng.
2/ CÁC MÔ TÍP TRANG TRÍ CÂY CỎ
Sống trong môi trường của hệ sinh thái nhiệt đới, cây cỏ có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống vật chất và tâm linh của con người. Sống, tồn tại trong cây cỏ,
nhờ cây cỏ. Chết, hoá thân trong cây cỏ. Cho nên từ xa xưa đã có tín ngưỡng
thờ cây. Trong ý nghĩa sâu xa về tâm linh, cây được xem như là cái trung gian
nối trời với đất. Trong đình làng, mô típ cây cỏ được sử dụng rất nhiều trong
những chạm khắc trang trí. Chủ đề cây cỏ được quán xuyến trong chạm khắc
trang trí từ những ngôi đình cổ nhất thế kỷ XVI cho đến những ngôi đình cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
CÂY HOA SEN
Là loại cây cao quý, gắn với Phật giáo, có biểu tượng của sự cao quý, trong
sạch của tâm hồn. Do mọc từ bùn nhơ, ngâm mình trong nước, vươn lên trời
cao, hoa sen còn biểu tượng cho sự chân tu, thoát khỏi những hệ lụy của cuộc
đời mà có phẩm hạnh. Trong nghệ thuật tạo hình Phật giáo, chúng ta thường bắt
gặp hình ảnh Đức Phật ngồi tọa thiền hoặc đứng thuyết giảng trên toà sen. “Một
trong nhiều ý nghĩa bông sen được nghĩ tới là: nơi để sinh ra. Đó là một ý nghĩa
bắt nguồn từ thời nguyên thuỷ. Chúng ta đã gặp những hiện vật của thời đó về
người đàn bà, mà bộ phận để sinh ra và bộ phận nuôi dưỡng được cường điệu
khá lớn, trong ý nghĩa cầu phồn thực – một mặt của hạnh phúc… Từ ý kiến
trên, có thể rút ra: hoa sen mang yếu tố âm. Vì thế trong kiến trúc người ta nhìn
thấy đá chân tảng chạm đài sen (âm) làm chỗ kê của chiếc cột (mang hình Linga
– dương) như một sự kết hợp của âm dương trong sự cầu mong vững bền và
sinh sôi nảy nở”. Hoa sen được dùng làm mô típ trang trí chủ đạo trong chùa.
Trong trang trí đình làng, hoa sen được sử dụng nhiều trong những ngôi đình
Page | 20
muộn. Tuy nhiên, chúng ta bắt gặp hình hoa sen cách điệu, cây sen (hoa, lá,
thân) tả thực trong hoạt cảnh tắm đầm sen trên gạch trang trí vách tường đình
Yên Sở (Hoài Đức, Hà Tây), hoa sen và rồng trên cốn đình Ngọc Canh…
CÂY MAI
Là cây trong Tứ quý, như: mai, liên (sen), cúc, trúc hay mai, lan, cúc,
trúc hoặc tùng, cúc, trúc, mai. Cây mai với thân rắn rỏi, phong sương, vững bền
với thời gian (dương tính) thì hoa mai trắng muốt lại biểu tượng cho sự trắng
trong, tinh khiết (âm tính), nhưng yếu đuối. Hoa mai mang lại điềm lành, hạnh
phúc, mùa xuân, nhưng cũng nhắc nhở con người về sự mong manh của vẻ đẹp,
hạnh phúc trước thời gian “như bóng câu qua cửa”. Người Trung Quốc đặc biệt
yêu thích hoa mai. Ngay từ thời Thương Chu, hoa mai đã được trồng rộng rãi
với mục đích lấy quả làm gia vị chua. Đến thời Bắc Tống, thông qua kỹ thuật
chiết cây đã gây trồng nên giống “Tương Mai”, sắc nhị màu vàng nhạt, một
bông có đến 20 cánh, có tên là “thiên diệp hoàng hương mai”, có hương thơm
và vẻ đẹp thầm kín, trở thành một kỳ quan.5 Trong mô típ Tứ quý, cây mai
thường đứng bên cạnh đá và thường xuất hiện trong chạm khắc trang trí ở
những ngôi đình muộn thời Nguyễn.
CÂY TRÚC
Cây trúc là loại cây phổ biến trong trang trí ở nhiều nước như Trung Quốc, Nhật
Bản, Triều Tiên. Ở Việt Nam cây trúc được ưa thích vì vẻ đẹp và ý nghĩa của
nó. Trong nghệ thuật tạo hình, cây trúc là biểu tượng của người quân tử. Sống
ngay thẳng không khuất phục trước cường quyền và danh lợi. Đốt trúc rỗng (vô
tâm) thể hiện sự trong sáng, ngay thẳng, khiêm tốn, không vụ lợi. Có sức sống
bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt, nên cây trúc còn là biểu tượng của sự
trường thọ. Trong chạm khắc trang trí đình làng, cây trúc trong bộ Tứ quý biểu
tượng cho mùa hạ. Cây trúc nhiều khi đứng một mình trong bố cục “trúc hoá
rồng” như ở đình Thắng Núi (Bắc Giang). Đây là mô-típ trang trí có tính biểu
tượng cao, vừa là cây, vừa là vật, có tính lưỡng nguyên.
CÂY TÙNG
Biểu tượng của cây tùng là sự trường thọ, một ước vọng muôn đời của con
người. Cây tùng (hoặc bách, thông) luôn xanh tốt trong bốn mùa, có khả năng
sống bền bỉ trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, cho nên tùng còn biểu
tượng cho khí phách kiên cường, không sợ hiểm nguy trước những thử thách
của thiên nhiên và cuộc đời. Do sống trên núi cao, nên cây tùng còn biểu tượng
cho lối sống ẩn dật, lánh đời, nhưng kiêu hãnh để giữ cho tâm hồn trong sạch.
Trong Tứ quý, cây tùng biểu tượng của mùa đông. Tùng thường đi với hạc, để
tạo nên môtíp tùng – hạc có tính biểu tượng cao về sự trường thọ, ngay thẳng và

Page | 21
trong sạch. Mô típ Tứ quý này thường được trang trí ở những ngôi đình thời
Nguyễn.
CÂY ĐÀO
Cây đào là một trong những loại cây có vị trí quan trọng trong nhiều loại hình
nghệ thuật và tập quán, phong tục của nhiều nước ở phương Đông. Các nhà
thực vật học cho rằng cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc. Loại cây này được
biết như loài cây cho trái quý của chốn thần tiên, mọc ở khu vườn Tây Vương
Mẫu, 3000 năm mới kết quả một lần, ăn vào sẽ “trường sinh bất lão”. Cây đào
có biểu tượng phổ biến là mùa xuân, mùa bắt đầu của năm, mùa của sự phồn
sinh, đem lại sinh lực và hạnh phúc mới.Hình tượng cây đào cổ thụ mang biểu
tượng của sự trường sinh. Trên cốn của đình Dư Hàng (Hải Phòng) cây đào
được bố cục uốn lượn trong hình chữ nhật dài, bên cạnh cây tre. Trong chạm
khắc trang trí đình làng, đào được cách điệu với môtíp “đào hoá lân” hoặc “đào
hoá rồng” ở những ngôi đình muộn. Đây là loại môtíp có tính lưỡng nguyên:
vừa là cây, vừa là vật.
HOA CÚC
Hoa cúc với màu vàng rực rỡ, thuộc hành thổ, biểu tượng cho sự giàu sang, phú
quý, vương giả. Hoa cúc còn là biểu tượng của mùa thu, người xưa gọi tháng
chín là “cúc nguyệt”. Chữ cúc và chữ lưu (giữ lại) đều có cách phát âm giống
nhau là Ju. Tháng chín là “cửu” ( Jiu) cũng đồng âm với từ “cửu” với nghĩa vĩnh
cửu. Do đó, “cúc nguyệt” (cúc tháng chín) có biểu tượng là lời chúc cho sự
trường thọ, an khang, nhiều may mắn. Hoa cúc còn biểu tượng cho sự an lạc,
viên mãn, niềm vui. Hoa cúc là đề tài được sử dụng nhiều trong chạm khắc đình
làng, dưới nhiều kiểu thức như: cúc hoa, cúc dây, cúc leo… Ở ngôi đình sớm
nhất, đình Thụy Phiêu (1531), trên cột trốn vì nóc người thợ đã tạc một bông
hoa cúc mãn khai khá lớn.
2.3 CÁC MÔ TÍP TRANG TRÍ ĐỘNG VẬT
Người xưa quan niệm loài động vật trong thiên nhiên được chia ra 5 loại gồm:
lông vũ (phượng hoàng), lông phủ (kỳ lân), lông trần (con người), loài có vẩy
(con rồng) và loài có mai (con rùa). Lục súc gồm: trâu (ngựa), bò, lợn, chó, dê,
gà. Ngũ tính gồm 5 loại thú, trừ con chó. Đó là các loại thú dùng để hiến sinh
trong tế lễ thần linh. Trong điêu khắc trang trí đình làng có 2 loại chủ yếu
là linh thú (những con thú thiêng có tính biểu tượng cao) và những loại thú
khác mà việc sử dụng chúng trong các đồ án trang trí đã thể hiện thông điệp có
tính tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của người xưa.
CON RỒNG

Page | 22
Ở phương Đông, con rồng là con vật vũ trụ, linh thiêng, có sức mạnh. Nhưng
nó không khác thường, đáng sợ, có sức mạnh phi thường như con rồng phương
Tây. Con rồng phương Đông là con vật tổng hợp của nhiều con vật khác : thân
rồng là loài bò sát, gần với rắn, có vẩy như cá. Đầu rồng được hợp thành từ
nhiều bộ phận của những con thú khác nhau như: miệng lang, tai thú, trán lạc
đà, mũi sư tử, móng chim ưng... Con rồng thể hiện tư duy lưỡng phân lưỡng hợp
của cư dân nông nghiệp: sống ở dưới nước như cá, nhưng bay trên trời như
chim, khạc ra lửa, sấm chớp để làm ra mưa bão. Là con vật đứng đầu trong Tứ
linh, con rồng là con vật huyền thoại, linh thiêng, đầy quyền uy, thường được
gắn với trời, vua. Từ đời Hán Cao tổ, con rồng 5 móng là biểu tượng cho uy
quyền cho vua – thiên tử. Hình tượng rồng có ở trên áo bào, ngai vàng và các
vật dụng khác. Hoàng tử, con trai trưởng kế vị ngai vàng cũng được sử dụng
hình tượng rồng 5 móng, nhưng từ con trai thứ 2, 3, 4 thì chỉ được dùng hình
tượng rồng có 4 móng. Từ hoàng tử thứ 5 trở đi và các đại quan thì chỉ được
dùng các biểu tượng gần gũi với rồng, như con giao hay con ly. Gần đây, giới
khoa học có ý kiến khẳng định hình tượng rồng vốn xuất phát từ vùng Đông
Nam Á. D.V. Deopic (1993) cho biết: “rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả
dân tộc Việt và chính từ đây nó đã đi vào văn hoá Trung Hoa”.
J. V. Chesnov (1976) thì cho biết: “hình tượng rồng phát sinh từ Đông Nam Á
đã thâm nhập đến những vùng xa xôi nhất của châu Âu”. Ở Việt Nam hình con
cá sấu mang dáng dấp con rồng đã là môtíp trang trí khá phổ biến trên các đồ
đồng Đông Sơn. Cá sấu – rồng là chúa tể vùng sông nước với cái tên Long
Quân, Long Vương của người Việt, Bua Khú (vua Sấu) ở người Mường. Chữ
“rồng” (Việt) gần với từ cơn dông, dòng sông, hình ảnh tượng trưng cho mây –
mưa – sấm chớp. Chữ “long” (Hán Việt) bắt nguồn từ krong, krông, klong trong
tiếng Đông Nam Á cổ có nghĩa là “sông nước”. Rồng còn là biểu tượng cội
nguồn dân tộc. Người dân đất Việt nào cũng cho mình là con rồng, cháu tiên,
con của bố rồng Lạc và mẹ tiên Âu. “Rồng, cũng như nước, có đặc trưng nổi bật
là khả năng ứng biến , như người Việt Nam vậy. Nó có nhiều trạng thái, hay
đúng hơn, thích nghi với nhiều trạng thái: ở dưới nước (tiềm long vu thuỷ), nó
giữ bầu nước của thiên hạ (Long vương). Nó có thể xuất hiện ở trên đất, trên
đầm lầy (hiện long vu điền, vu đại trạch) như một “điềm báo” mà Lý Thái Tổ
khi dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, coi là điềm rồng vàng báo điều tốt đẹp. Nó có
thể bay cao trên trời (phi long tại thiên) vùng vẫy trong mây (long vân khánh
hội) gây mưa tưới nhuần đồng ruộng”. Trong điêu khắc trang trí đình làng, hình
tượng rồng là mô típ trang trí chủ đạo trong những ngôi đình từ thế kỷ XVI đến
ngôi đình được dựng đầu thế kỷ XX. Con rồng có mặt trong các đồ án trang trí
từ bên ngoài, đến bên trong ngôi đình làng và thường ở vị trí trung tâm. Ý nghĩa

Page | 23
và biểu tượng rồng hoàn toàn ở ngôi đình làng là hoàn toàn khác biệt với rồng
Trung Hoa, biểu tượng của hoàng đế, thiên tử.
KỲ LÂN
Kỳ lân là một vật linh thiêng trong bộ Tứ linh. Lân là con vật báo hiệu điều tốt
lành, là biểu tượng cho sự trường thọ, sang quý, niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân
khi xuất hiện là báo hiệu sự ra đời của minh chúa, hay bậc hiền nhân quân tử.
Sử sách Trung Hoa đã chép rằng kỳ lân xuất hiện dưới thời vua Nghiêu, Thuấn,
khi Khổng Tử ra đời. Kỳ lân xuất hiện ở sông Hoàng Hà dưới thời vua Phục Hy
và mang trên mình cuốn thư Hà Đồ. Con đực được gọi là kỳ, con cái là lân.
Giữa con lân, con nghê hay con xô không có sự phân biệt rõ ràng. Trong điêu
khắc trang trí đình làng, con lân không ở những vị trí trung tâm, trang trọng như
con rồng. Nó có mặt ở trên gác thờ, trên nóc đình, trên cửa nghi môn… để tô
điểm và canh chừng các thế lực tà ám.
RÙA
Rùa có chiếc mai dạng mái vòm, là biểu tượng của bầu trời; bụng rùa phẳng
được biểu tượng cho mặt đất. Rùa là loài đứng đầu của loài vật có mai và vỏ.
Nó có tuổi thọ tưởng chừng như bất diệt, cho nên rùa là con vật thiêng, biểu
tượng cho sự trường sinh, bất lão, cho sinh lực và sự trường tồn vĩnh cửu.
“Ở Trung Quốc rùa cũng là biểu tượng của phương Bắc và mùa Đông, mà
người ta gắn với các tuần trăng… Sự trường thọ nổi tiếng gắn con rùa với ý
tưởng bất tử, vốn đi đôi với tính phì nhiêu của các nguồn nước khởi nguyên, do
mặt trăng chi phối, khiến người ta gắn những nét của rùa, căn cứ vào chức năng
cõng vũ trụ của nó, cho nhiều vị thần sáng thế, anh hùng khai hoá và tổ tiên
huyền thoại”.8Con rùa linh thiêng được mô tả có chiếc đầu rắn, cổ rồng, vai
rộng. Ở đình làng, hình tượng rùa có mặt trong các bố cục trang trí rùa – hạc
(hạc đứng trên lưng rùa) – biểu tượng của sự trường tồn, vĩnh cửu, đồng thời
còn thể hiện sự chịu đựng, nhẫnnhịn bền bỉ .Dân gian có câu ca thật hồn nhiên
và hóm hỉnh:
Thương thay thân phận con rùa
Lên đình hạc cưỡi, xuống chùa đội bia.

PHƯỢNG HOÀNG
Phượng hoàng là con vật thiêng, lông của nó có 5 màu, tiếng hót như nhạc và có
5 biến điệu diệu kỳ. Phượng là con đực; hoàng là con cái, ít khi chúng xuất hiện
cả cặp. Chim phượng là biểu tượng cho phúc lộc và sự sang quý. Chim hoàng là
biểu tượng cho hoàng hậu, xuất hiện bên cạnh hình tượng rồng của vua. Phượng
hoàng là con vật hiền đức, báo hiệu điềm lành. Theo truyền thuyết, phượng
hoàng chỉ xuất hiện vào thời thịnh trị. Cư trú ở phía Nam, do đó nó là biểu
Page | 24
tượng của mặt trời, hơi ấm của mùa hạ và sự thu hoạch mùa màng. Trong mối
tương quan với con rồng, phượng biểu thị yếu tố âm về mặt giới tính. Trong
điêu khắc đình làng, con phượng thường đi với mây trong mô típ phượng
mây (đình Lỗ Hạnh, Bắc Giang) như tiên cưỡi phượng (đình Thổ Hà, đình Phù
Lão, Bắc Giang… ), hoặc dưới dạng tượng tròn như phượng đàn trên đầu dư
(đình Chu Quyến, Hà Tây), hình tượng “phượng hàm thư” như ở đình Ngọc
Canh (Vĩnh Phúc ), đình Quảng Bá (Hà Nội, thế kỷ XX)…
CON CÁ
Ở phương Đông quan niệm con cá là con vật báo điềm lành. Người ta cũng cho
rằng, nhiều giống cá sống lâu và điều này con cá còn được gắn với biểu tượng
của sự trường thọ. Trong tiếng Hán, chữ “ngư” là cá với chữ “dư” là thừa thãi,
có cách phát âm là “Yu” rất giống nhau, cho nên con cá được xem như biểu
tượng của sự dư thừa, sung túc, giàu có. Từ thời đại Hùng Vương, con cá là
nguồn thức ăn giàu đạm, có mặt trong bữa ăn hàng ngày, được khảo cổ học
minh xác qua những vết tích xương cá ở nơi cư trú.
“Hình ảnh cá được khắc vẽ trên đồ gốm Gò Chiền. Cũng vậy hình ảnh con
cá, con ốc đã được khắc vẽ, đúc tạc trên trống đồng, thố đồng, muôi đồng… Và
hình ảnh con cá sau này đã thấm sâu vào sinh hoạt của nhân dân, có mặt khắp
nơi, cái mõ hình con cá ở điếm làng Vân Nội, con cá chép thờ sơn son thếp
vàng trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ Trạch (Hải Hưng), ở hội làng Me (Hà
Tây) người ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nướng. Rồi hình ảnh con cá và người
đi câu xuất hiện ở vị trí thứ hai chỉ sau những người rước bông lúa, đi cày, đi
cấy, trong trình diễn trò Trám ở Tứ Xã (Vĩnh Phú)”. 9Trong những ngôi đình cổ
thế kỷ XVI, như đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh… hình tượng cá chép hoá rồng
đã được thể hiện khá phong phú, sinh động. Một con vật mang tính lưỡng
nguyên, đuôi là cá mà đầu đã thành rồng, trở thành gạch nối giữa cái thiêng và
cái tục. Cá chép còn có mặt trong các bố cục với hoa sen, sóng nước…

CON HẠC
Con hạc gắn liền với nhiều biểu tượng và truyền thuyết khác nhau. Người xưa
quan niệm có 4 loài hạc nổi tiếng, được phân biệt qua màu lông: đen, vàng,
trắng, xanh. Trong đó loài hạc đen là loài sống lâu nhất. Tuy nhiên, trong nghệ
thuật tạo hình, con hạc thường được thể hiện với bộ lông trắng muốt, biểu tượng
cho sự cao quý, thanh khiết. Đầu hạc màu đỏ, hành hoả, nơi tập trung khí
dương, tạo nên sự bền bỉ và sức sống dẻo dai. Hình tượng con hạc với với đôi
cánh dang rộng bay trên trời xanh, thể hiện cảm hứng thi ca và những ước vọng
cao quý. Con hạc với đôi cánh dang rộng và một chân hơi co lên, lại liên hệ với
nghi lễ với người đã khuất. Con hạc thường xuất hiện trong điêu khắc trang trí
đình làng với mô típ hạc – rùa (tượng tròn, đặt hai ban thờ Thành Hoàng làng),

Page | 25
biểu tượng của sự trường tồn, vĩnh cửu, có ý nghĩa về thời gian và trục vũ trụ.
Trong những chạm khắc, hạc thường xuất hiện với môtíp hạc tùng, hoặc hạc –
thạch – tùng, cũng có ý nghĩa và biểu tượng của sự trường thọ, bền vững, cao
sang và an lạc.

CON HỔ

Hổ là mãnh thú thuộc loại lớn nhất trong họ mèo Felidae và đứng hàng thứ 3
trong Thập nhị địa chi. Hổ đứng vào hàng ngũ chúa sơn lâm của các loại mãnh
thú. Hình tượng hổ chứa đựng nhiều sự ẩn dụ. Với người phương Bắc, hổ biểu
tượng cho quyền uy, sự dũng mãnh nơi chiến địa. Hổ trắng là hình ảnh của đấng
minh quân, khác với biểu tượng của phương Nam là con voi trắng (bạch tượng).
Trong điện thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu có khu vực riêng để thờ Ngũ hổ (5 con
hổ), còn được gọi là ông Năm Dinh. Hổ được quan niệm là một mãnh lực siêu
phàm có thể chống lại những thế lực ma quỷ. Ngũ hổ trấn giữ ở 5 khu vực:
Hoàng hổ trấn ở Trung khu (địa khu); Hắc hổ trấn ở Bắc khu (thuỷ khu); Bạch
hổ trấn ở Tây khu (kim khu); Xích hổ trấn ở Nam khu (hoả khu); Thanh hổ trấn
ở Đông khu (mộc khu) Trong đạo Phật, con hổ biểu tượng cho sức mạnh của
niềm tin, sự chiến thắng mọi trở ngại trên con đường tu chứng. Cho nên chúng
ta thường thấy hình tượng Bồ Tát, Văn Thù cưỡi trên lưng hổ, sư tử. Hình ảnh
đó tượng trưng cho sự diệt trừ được tham, sân, si và ác nghiệp, tu thành quả
Phật. Trong ngôi đình Lỗ Hạnh (thế kỷ XVI) có bức chạm con hổ với bộ mặt
khá dữ tợn. Đình Tây Đằng (thế kỷ XVI) có hình chạm người đánh hổ. Đặc biệt,
bức chạm tiêu biểu cho chủ đề này là cảnh đấu hổ ở đình Chẩy, xã Liêm Thuận,
Thanh Liêm, Hà Nam (thế kỷ XVII). Cảnh tượng rất hào hùng, con hổ với tư
thế chồm lên rất dữ tợn, nhưng tuyệt vọng. Hình tượng hổ thường được đắp nổi
bằng vữa trên nghi môn, nhằm trấn trừ ma quỷ vào đình quấy nhiễu.

Lời kết: Đình Làng Việt thực sự là nơi lưu giữ tâm hồn và trí tuệ của người
Việt, của ông cha ta từ ngàn xưa . Đình làng là một sự chuyển háo và tái hiện lại
trung thực thế giới quan của người nông dân Việt nam qua từng thế hệ. Đó
chính là biểu trưng cho mối quan hệ khăng khít giữa người với người, của tình
làng nghĩa xóm, giữa con người với cấu trúc xã hội làng xã Việt cổ đến cách
ứng xử với môi trường tự nhiên, tất cả những khái niệm tưởng chừng như “ vô
hình” ấy lại được “phiên dịch“ và “tái hiện” thành những chi tiết “hữu hình” ẩn
trong bộ khung gỗ chắn chấn mà lại có nét linh hoạt, trong cấu trúc không gian
thoáng mở mà tầng bậc, cách trang trí tuy mộc mạc nhưng lại không kém phần
Page | 26
tinh tế , tiêu sái. Đình làng là một di sản phi vật thể và vô giá mà mỗi con người
Việt chúng ta cần có ý thức và trách nhiệm trong việc gìn giữ, bảo tồn, và lan
tỏa những nét đẹp này đến đến bạn hữu ngoài nước.

TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG CỦA ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM
Giống như Táo công và Thổ công, Thành Hoàng cai quản đình làng và cả một
khu vực làng xã, hoặc thành lũy có đường biên, tức là quyền lực lớn hơn thần
Đất, quyết định họa phúc của một làng và thường được thờ ở đình làng. Do
vậy hầu hết ở mỗi làng quê hay phố nghề (nơi thị thành) đều lập đình (hoặc
đền, miếu) thờ vị Thành Hoàng của làng hay phường hội.

Thành Hoàng làng có nhiều nguồn gốc, có thể là nhân thần, có thể là nhiên
thần, nhưng tựu trung lại là các vị thần đã được lịch sử hóa hay huyền thoại
hóa. Tuy nhiên các Thành Hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu
thần…) luôn luôn tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của
lịch sử, của đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng.
Thành Hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho
làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ.

Thành Hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng
lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Mỗi làng, mỗi thành đều chọn thờ một
Thần Thành Hoàng để thần bảo vệ và ban phúc lành cho dân, có làng thờ hai
ba vị, có làng thờ năm bảy vị. Tôn thờ Thành Hoàng làng chính là một nhu cầu
tâm lý, người dân thờ Thành Hoàng làng để phục vụ cho hiện thực cuộc sống,
là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được, là phương tiện, là động lực thúc
đẩy sản xuất và ổn định cuộc sống.

Page | 27
Xét theo công trạng mà các thần đã phò giúp nhà vua đánh giặc, giúp dân trừ
thiên tai địch họa, bệnh dịch, tai ách và giúp dân lập ấp, mở nghề mà triều đình
ta sắc phong cho các thần Thành Hoàng theo các cấp độ như sau:
Thượng đẳng thần: Bao gồm các vị thần có công lớn với dân, với nước, được
nhà vua sắc phong và lập đền thờ như Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Lý
Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão,… và các thiên thần được lưu truyền rộng rãi
trong nhân gian như Tản Viên Sơn Thần, Thánh Gióng, Liễu Hạnh công chúa,
Chử Đồng Tử… Tất cả các vị thần này đều có công trạng hiển hách và được
vua sắc phong làm Thượng đẳng thần. Ví dụ cụ thể như thành Thăng Long (Hà
Nội) thờ Thành Hoàng là thần Long Đỗ tại đền Bạch Mã.

Trung đẳng thần: Là các vị thần hoặc các quan địa phương có công khai điền
lập ấp, có ơn với dân, có khi là các vị thần mà dân làng thờ đã lâu, có tên họ
mà không rõ công trạng, hoặc có quan tước mà không rõ tên họ, hoặc những
vị thần có chút linh dị, cho tới khi vua cầu đảo, có ứng nghiệm thì triều đình
phong làm Trung đẳng thần.

Hạ đẳng thần: Là những vị thần được dân làng thờ cúng tuy không rõ thần

Page | 28
tích, nhưng cũng thuộc bậc chính thần. Triều đình theo dân làng mà sắc
phong làm hạ đẳng thần.

Ngoài ba vị phúc thần trên, nhiều làng còn thờ cúng cả những vị thần kỳ dị
như: thần ăn mày ở làng Thư Lan – Nam Hà; thần ăn trộm ở làng Lông Khê –
Thái Bình; thần gắp phân ở làng Cổ Nhuế – Hà Nội; thần trẻ con, thần tà
dâm… Theo cách giải thích của dân gian thì những vị thần này ngoài những
khả năng khác thường, họ còn được thờ cúng bởi chết vào các giờ thiêng. Lúc
đầu do sợ hãi mà dân làng thờ cúng sau lâu dần họ được thờ phụng rộng rãi
hơn nhằm giúp dân làng xua đi rủi ro, bảo trợ cho sự tồn tại và phát triển của
cộng đồng làng. Đại đa số sự tích về Thành Hoàng làng đều là những truyền
thuyết, sau này những truyền thuyết ấy được các địa phương chú trọng và trở
thành văn bản chính thức được Nhà nước công nhận, từ đó đã ra đời các Thần
tích, Thần phả, Sắc phong.

LỄ HỘI THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG

Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng thường được thể hiện trong các lễ hội xuân
hoặc Tết cổ truyền. Vào mùa xuân, mùa bắt đầu của một năm mới, khi mưa
bụi dát lên những nụ đào, nụ mận lớp áo mỏng manh óng ánh màu xanh bạc
cũng là lúc mùa lễ hội diễn ra. Lễ hội, nhất là lễ hội thờ Thành Hoàng làng
thực chất là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là sự giao lưu văn hoá giữa
các làng xóm với nhau, là nét văn hoá đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng,
là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể thờ
Thành Hoàng làng trong tâm thức dân gian, tâm thức truyền thống của người
dân.

Page | 29
Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nở rộ ở khắp nơi. Tục thờ
cúng Thành Hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được phục hồi, vì
có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với làng.

Hàng năm, ngày giỗ Thành Hoàng là ngày hội đông vui nhất của làng, của
phố. Trong những ngày hội, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn rất nhiều nghi lễ
như diễn lại sự tích về Thành Hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu võ,
chọi gà, thổi cơm thi, bơi chải, đánh đu, đánh cờ người, hát chèo, diễn tuồng…
Không khí vui vẻ cả ngày lẫn đêm (có nơi hai, ba ngày), từ các lão ông, lão bà
đến mỗi cháu bé, và chờ đợi nhất, vui nhất là những trai gái đương lứa, đây là
dịp để gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình.

Ý NGHĨA CỦA THÀNH HOÀNG

Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết,
nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các
hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ
chức việc gì đều phải có lễ cúng Thành Hoàng để xin phép trước. Dường như
sự ngưỡng mộ Thành Hoàng của người dân không kém gì sự ngưỡng mộ đối
với tổ tiên của họ.
Page | 30
Đình làng là nơi thờ phụng Thành Hoàng và trở thành một biểu tượng văn
hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi
thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ Thành Hoàng nhưng đồng thời cũng
trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng
đồng làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của
Thành Hoàng. Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức Thành Hoàng là vị
thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo
vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp
tục sinh sôi nhưng Thành Hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không
thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi. Có thể cho rằng,
Thành Hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh
thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho
nên sự thờ phụng Thành Hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã,
lề thói gia phong của làng.

Đình làng Miền Bắc – Hà Nội


Đầu tiên, đất dựng đình được chọn theo quan niệm “phong thủy” trong tín
ngưỡng truyền thống. Ở vùng Bắc Bộ cũng như ở Hà Nội, vị trí của đình được
lựa chọn cẩn thận với thế đất “tụ thủy”, trước mặt đình phải có nước. Vì vậy,
nhiều vùng đất không có con sông phía trước hay những ao, hồ thì để tạo thế đất
tốt, người ta phải đào ao hay giếng lớn trước mặt đình. Vì vậy, hình ảnh “cây đa
– giếng nước – sân đình” luôn gắn kết trong đời sống mỗi làng xã ở Hà Nội và
cả vùng Châu thổ Bắc Bộ.
Tổng thể kiến trúc đình làng ở Hà Nội được bố cục đối xứng qua trục chính
chạy dài. Từ thời sơ khai, chỉ có tòa đại đình hình chữ nhật và hồ bán nguyệt,
sau đó phát triển quy mô hơn, có nhiều thành phần hơn, gồm: đại đình, hậu
cung, nhà tiền tế, nhà tả vu – hữu vu đối xứng hai bên, ngoài ra có thêm các nhà
phụ trợ khác (Hình 1). Ngoài ra, phía trước còn có cổng hai trụ hoặc tam quan
phía trước, sân đình, hồ nước, cây xanh… Diện mạo của một ngôi đình hoàn
chỉnh ở Hà Nội xuất hiện từ thế kỷ XVI. Lấy kiến trúc Đình Thụy Phiêu, Đình
Thanh Lũng, Đình Chu Quyến ở huyện Ba Vì và Đình Là ở huyện Thường Tín
như các ví dụ điển hình cụ thể cho kiến trúc đình làng ở Hà Nội. Mặt bằng có
dạng hình chữ nhật ngang, theo kiểu chữ nhất (一), nghĩa là chỉ có một khối nhà
(tòa đại đình).

Page | 31
Quy mô kiến trúc thường là ba gian hai chái, gồm bốn hàng cột theo chiều
ngang: hai hàng cột cái lớn ở giữa và hai hàng cột quân ở trước và sau. Hình
dáng các cột có dạng trụ tròn, được làm theo kiểu “thượng thu hạ thách”. Nền
của đình được đắp cao hơn xung quanh và lát bằng đá (về sau được lát bằng
gạch). Bên trong đình, tất cả các gian đều có sàn, trừ gian giữa; điều này cho
thấy về mặt kiến trúc thì sàn của đình đã khiến cho bộ khung gỗ của đình trở
nên vững chắc hơn (hiện nay Đình Tây Đằng không còn sàn nữa). Ngay vị trí
gian giữa có một khám lửng (phần hậu cung) dùng để làm nơi thờ tự. Kết cấu
đình làm bằng gỗ, chắc chắn, liên kết bằng bộ vì theo lối giá chiêng (Hình 2).
Ngoài ra, bộ mái của ngôi đình được tính từ bờ nóc, tức là gờ nối của hai mái
chính. Còn bờ dải, tức là gờ nối giữa hai mái chính và mái phụ và ít trang trí. Bờ
dải chạy từ nóc xuống các góc đình gọi là đao. Các góc đao của đình được uốn
cong vút lên. Và đặc biệt là tỉ lệ của mái đình từ bờ nóc xuống hết phần mái là
khoảng 2/3 so với chiều cao của đình. Ngoài ra, giá trị nghệ thuật nổi bật bởi
“tính đồng hiện” trong chạm khắc nổi phù điêu, chạm lộng trên các cấu kiện, bộ
vì của ngôi đình.
Sang các thế kỷ XVII–XIX, không gian bên trong các đình ở Hà Nội cũng như
các đình ở vùng Châu thổ Bắc Bộ đã được mở rộng hơn. Nhiều ngôi đình có
hậu cung dựng liền sau đại đình, làm cho mặt bằng có hình chuôi vồ dạng chữ
đinh (丁), “ở nhiều đình, trước nhà tiền tế, còn có thêm hai ngôi nhà dọc đối
diện nhau gọi là tả vu và hữu vu để soạn sửa cỗ bàn” [3. Tr. 30]. Mặt bằng đình
làng ở Hà Nội được phát triển hơn và theo các kiểu chữ nhất (一), nhị (二), tam
(三), đinh (丁), công (工). Điển hình có: Đình Tây Đằng (có thêm 2 nhà tả –
hữu vu); Đình Hạ Hiệp, Đình Kim Liên, Đình Triều Khúc, Đình Cự Chính (hình
chữ đinh); Đình Thị Cấm, Đình Quảng Bá (hình chữ nhị); Đình Thanh Hà (hình
chữ công)…

Kết cấu khung gỗ của Đình Tây Đằng, Thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội

Page | 32
Kiến trúc đình làng ở Huế
Cũng như đình làng ở Hà Nội, yếu tố “phong thủy” ở đình làng Huế cũng được đặt lên
hàng đầu trong việc chọn đất, chọn hướng, ngày, giờ để xây dựng hay khôi phục,
trùng tu đình làng. Vị trí vùng đất được định hình xây dựng đình làng phải có yếu tố
mặt nước ở phía trước hay cánh đồng ruộng mênh mông của làng, nhánh sông tự
nhiên hoặc sông đào, ao, xây hồ có dạng hình bán nguyệt, hình chữ nhật. Về mặt bằng
kiến trúc tổng thể của ngôi đình ở Huế, toàn bộ được bố trí theo một trục dọc từ ngoài
vào là sông, ao, hồ… hợp với phong thủy. Tiếp theo là cổng bốn trụ biểu, bình phong,
sân đình và ngôi đình. Ngoài ra, có một số đình ở hai bên tả và hữu có các am thờ,
ngài khai canh, ngài khai khẩn. Đình làng ở Huế ra đời muộn hơn so với các đình ở
Hà Nội, vào khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ XVI. Lúc ban đầu, đình làng mới được
dựng lên với vật liệu tranh, tre, nứa, lá đơn giản. Trải qua nhiều biến động của nội
chiến, thiên tai và hỏa hoạn, đình làng ở Huế mới bắt đầu được lợp ngói và có kết cấu
gỗ vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Hầu như kiểu mặt bằng của đình làng ở Huế khá
đơn giản và nghiêm tốn hơn so với đình làng ở Hà Nội. Kiến trúc chủ yếu chỉ một
khối nhà theo kiểu chữ nhất (一), một ít đình theo kiểu chữ đinh (丁) hoặc hai nếp nhà
song song sát nhau theo kiểu “trùng thềm điệp ốc” gồm nhà tiền đình và chính đình.
Quy mô kiến trúc của đình làng ở Huế thường là ba gian hao chái đơn hoặc ba gian
hai chái kép. Riêng đình làng Thủ Lễ (Hình 3) có cấu trúc năm gian hai chái đơn; năm
gian là quy mô số gian lớn nhất trong kiến trúc đình làng ở Huế [1, Tr. 103]. Không
gian của đình làng ở Huế hầu như là không gian mở. Ở trước, người ta để giá lan can
để giới hạn bên trong và bên ngoài ngôi đình. Phần sau của ngôi đình còn gọi là hậu
tẩm (ở Hà Nội và miền Bắc gọi là khám thờ), các gian thờ, tủ thờ được khép kín lại
với hệ thống cửa gỗ vì nơi đó là người ta thờ các vị thần và Thành hoàng của làng. Bộ
kết cấu khung gỗ của đình làng Huế thon thả theo kiểu nhà rường. Vài kèo là hệ kết
cấu gỗ đặc trưng nhất trong đình làng ở Huế. Hệ vài kèo gồm kèo 1, kèo 2, kèo 3 và
kèo hiên. Ngoài ra, các cấu kiện kiến trúc “cột, kèo, xuyên, trến”, bốn yếu tố này đã
tạo nên sự đặc trưng nhất trong hệ kết cấu gỗ của đình làng ở Huế (Hình 4) cũng như
trong hệ kiến trúc nhà rường dân gian truyền thống của Huế. Về kiến trúc của mái
đình làng ở Huế, các góc mái không lượn cong cao vút như mái của đình làng Hà Nội,
mái đình ngang, thẳng, có lượn nhẹ ở đuôi và nhờ hệ cột của đình thanh mảnh làm cho
kiến trúc mặt đứng ngôi đình hài hòa và dân giã. Do ảnh hưởng lối kiến trúc cung
đình, nên mái đình làng Huế hầu hết được trang trí với các hình tượng tứ linh: long –
lân – quy – phụng, được trang trí, chạm khắc và được dán các mảnh gốm, sành, sứ...
tạo nên nét đặc trưng trong kiến trúc đình làng ở Huế

Page | 33
Đình làng Thủ Lễ, thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Kết cấu khung gỗ của Đình làng Xuân Hòa, thành phố Huế
Đình làng ở Huế là sự tiếp nối, lưu truyền qua các thời kỳ, trải qua nhiều lần trùng tu
và xây dựng lại của cha ông từ ngày xưa. Hình ảnh, đặc điểm kiến trúc của đình làng
ở Huế ngày hôm nay, chính là hệ thống rường cột truyền thống trong dân gian, qua
các cuộc trùng tu, đại trùng tu, xây dựng lại và đều mang dấu ấn kiến trúc của triều
Nguyễn thế kỷ XIX.

ĐẶC điểm kiến trúc đình làng ở Sài Gòn


Như hầu hết các ngôi đình được xây dựng ở miền Bắc và miền Trung, ở Hà Nội và
Huế, việc chọn lựa nơi để xây dựng ngôi đình ở Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh)
cũng được xem xét cẩn thận, sao cho có một vị trí và không gian vừa đẹp, lại vừa hợp
với chức năng của một ngôi đình. Vị trí của đình được dựng lên cũng được lựa chọn
và dựa vào thuật phong thủy, nghĩa là phải tìm kiếm những mảnh đất được xem là đắc
địa, hội tự tất cả những điều may mắn như “tiền án hậu chẩm”, “sơn triều thủy tụ”…
Vì vậy, đình làng ở Sài Gòn buổi đầu thường được đặt ở điểm cao ráo, nơi gần sông
rạch, nơi thuận tiện cho ghe thuyền đậu bến, đặc biệt nhất là ở vị trí những ngã ba, ngã
tư sông.

Page | 34
So với kiến trúc đình ở Hà Nội – Huế thì đình ở Sài Gòn, miền Nam lại có những đặc
điểm riêng biệt. Từ thế kỷ XVII, các lưu dân phần lớn là từ miền Trung vào lập
nghiệp ổn định trên vùng đất Sài Gòn – Gia Định. Họ đã chung sống với các dân tộc
khác như: Nam đảo, Khmer, Hoa, Chăm… trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt cùng
với nhiều nguồn văn hóa, tín ngưỡng, kiến trúc khác nhau. Cho nên rất khó để nhận
dạng được kiến trúc ngôi đình ban đầu ở Sài Gòn vào thời ấy. Tuy nhiên, vào thế kỷ
XIX, “phần lớn các ngôi đình ở Nam Bộ đều mang dấu ấn kiến trúc nhà Nguyễn do có
phong trào xây dựng và trùng tu mạnh mẽ,mà đỉnh cao là giai đoạn thời Minh Mạng –
Thiệu Trị” [6, Tr. 38]. Cho nên, đình làng ở Sài Gòn cũng nằm trong điều kiện đó nên
mặt bằng tổng thể của hầu hết các ngôi đình cũng có những đặc điểm thống nhất.
Tổng thể của đình ở Sài Gòn bao gồm nhiều đơn nguyên lớn và nhỏ, được bố cục theo
một trục chủ đạo rõ rệt, xuyên suốt từ cổng đến điện thờ. Các đơn nguyên kiến trúc
được xếp đối xứng với nhau và có trình tự từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao. Bước qua
cổng, vào trong khuôn viên ngôi đình là tấm bình phong, được đắp vẽ trang trí hình
dáng con hổ, gọi là bia ông hổ. Cũng có khi một mặt bình phong có hình hổ, mặt kia
là hình rồng. Ở hai bên thường có hai hay bốn ngôi miếu nhỏ được xây đối diện nhau,
đó là “miếu thờ Bạch Hổ (Hổ trắng) và miếu thờ Ngũ Hành nương nương (cũng có
nơi thờ Nhị vị Công tử)” [3, Tr. 33]. Qua bình phong là nhà võ ca. Nhà võ ca là một
kiến trúc đặc biệt riêng có, chỉ tồn tại ở các đình làng Sài Gòn cũng như đình Nam bộ.
Đây là nơi tập kết người và nghi trượng phục vụ cúng tế, đồng thời là nơi diễn tuồng
vào các dịp lễ của đình. Tiếp đến là tiền điện – một nếp nhà hẹp nối liền với nhà võ ca,
gọi là nhà chầu hay nhà võ quy (ngôi nhà này dành riêng cho người cầm chầu khi có
diễn xướng, tuồng hội hè), điển hình có ở Đình Thông Tây Hội ở phường 11, quận Gò
Vấp... và sau đó là chánh điện (chánh tẩm), đây là khu vực chính của đình, nơi thờ
cúng. Ngoài ra, có một số đình được xây thêm khuôn viên đình hay nhiều công trình
phụ khác nhau như: nhà tiền vãng, nhà túc, nhà trù (nhà bếp), nhà cối (nhà kho), nhà
đông lang và tây lang.
Quy mô kiến trúc của đình làng ở Sài Gòn có nhiều thay đổi và có nhiều hình dạng
phong phú và phức tạp hơn so với đình làng ở Hà Nội – Huế. Bởi lẽ, từ sự thay đổi
hình dạng bố cục của ngôi đình ở miền Bắc, theo dòng thời gian từ thế kỷ XVI có mặt
bằng dạng chữ nhất (一), sang thế kỷ XVII hình thành gian thờ dạng chuôi vồ theo
kiểu chữ đinh (丁). Đến thế kỷ XVIII, mặt bằng đình lại có thêm chữ nhị (二), tam
(三), công (工). Đến thế kỷ XIX, một số ngôi đình hình thành bốn ngôi nhà nối vuông
góc nhau thành chữ khẩu (口). Theo đó, quy mô kiến trúc mặt bằng đình làng ở Sài
Gòn cũng có nhiều sự biến chuyển với nhiều hình dạng phong phú, phức tạp khác.
Trong đó, đình có dạng chữ công (工) (xếp đọi từ hai đến bốn ngôi nhà) có hay không
có sân Thiên Tỉnh. Dạng nội công ngoại quốc (国) hai bên có dãy nhà song hành kèm
theo (có khi áp sát) chạy suốt từ tiền đình cho đến chính đình (Đình Tân Thời Nhì,
quận Hóc Môn). Ngoài ra, có ngôi đình dạng chữ (L) (Đình Bình Đông, quận 8; Đình
Linh Đông, quận Thủ Đức) và dạng kiểu chữ môn (門) (Đình Nam Chơn, Đình Sơn
Trà, quận 1) .

Page | 35
Như vậy, kiến trúc đình làng ở Hà Nội – Huế – Sài Gòn bao hàm những giá trị đặc
trưng cho loại công trình của các cộng đồng làng Việt nói chung. Trong đó, các đình
làng ở Hà Nội phát triển rực rỡ nhất và mang phong cách kiến trúc đình làng của thế
kỷ XVI–XVII của thời Lê – Mạc. Đình làng ở Huế đã được định hình lại phong cách,
đã trải qua nhiều lần trùng tu, xây dựng lại với dấu ấn kiến trúc nhà Nguyễn thế kỷ
XIX. Còn đình làng ở Sài Gòn được dựng lên từ thế kỷ XVII–XVIII bởi chủ yếu là
những người lưu dân từ xứ Thuận – Quảng di cư vào và được trùng tu mạnh mẽ, xây
dựng phát triển vào thời vua Minh Mạng – Thiệu Trị của nhà Nguyễn. Vì thế, đình
làng ở Hà Nội – Huế – Sài Gòn biểu hiện nhiều đặc điểm tương đồng và cũng không ít
tính dị biệt.

Đình Nam Chơn( dạng kiểu chữ Môn), Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

Page | 36
CHƯƠNG 3: Giải pháp để bảo tồn những giá trị của đình làng

Biến đổi

Ngày nay nhiều ngôi đình làng đã và đang được trùng tu lại. Bên cạnh những ngôi
đình cổ được khôi phục lại khá nguyên dạng kiến trúc và hình dạng ban đầu, không ít
nơi vì nhiều lí do khác nhau đã khiến cho những ngôi đình bị biến dạng về màu sắc và
những đường nét quá mới mẻ.

Quá trình đô thị hóa cũng làm mất đi không gian, công năng và những giá trị cộng
đồng của những ngôi đình làng xưa trong lòng phố thị. Ngày càng xa cách hơn bởi
những nhà văn hóa được xây dựng thay vì sử dụng đình làng.

Nguyên nhân

Về tính chất, mặc dù nhận được rất nhiều sự quan tâm của chính quyền, người dân
(thông qua khảo sát) nhưng thực tiễn cho thấy các hoạt động ở đình làng chỉ diễn ra
vài ngày trong năm vào ngày lễ, tết, hội…. Có thể phân tích và nhìn ra một số lý do
như sau: (1) Đời sống xã hội có nhiều thay đổi, nhiều hình thức giải trí kết nối thật sự
hữu hiệu hơn không gian đình làng, điều này đã thu hút người dân với các hoạt động
giải trí phù hợp nhu cầu cá nhân. Thêm vào đó, không gian đình làng chủ yếu tổ chức
các hoạt động mang tính tâm linh, diễn ra theo thời điểm và tính chất hoạt động yêu
cầu sự trang nghiêm nên ít thu hút được đối tượng là thanh niên, trẻ em trong đô thị;
(2) vị trí trung tâm của đình làng đối với khu ở đã không được phát huy đúng mức,
nhiều hạng mục của công trình đình làng chưa chú ý bố trí không gian cây xanh, cảnh

Page | 37
quan; (3) chưa tổ chức được nhiều hoạt động kết nối để người dân nhận thức về một
không gian cộng đồng – đình làng, mà ở đó không chỉ diễn ra các hoạt động lễ tế, mà
còn là những hoạt động đời thường, gần gũi với người dân. Duy trì hiệu quả các hoạt
động của người dân, đây mới là mấu chốt để các giá trị đình làng được phát huy, nghệ
thuật kiến trúc, văn hóa đình làng được bảo tồn và gìn giữ, không gian cộng đồng gắn
chặt với Đình làng được “hồi sinh”.

Nêu hướng bảo tồn những giá trị mỹ thuật , văn hóa , tính cộng
đồng trong qua đình làng Việt Nam
Trước hết, về quan điểm cần coi việc bảo tồn, phát triển các giá trị của đình làng
là một trong những nội dung quan trọng của việc bảo tồn, phát huy các giá trị
của văn hóa làng. Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới đang được tiến
hành rầm rộ hiện nay, cần phải chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy giá trị
các không gian văn hóa làng, như cây đa, bến nước, sân đình, giếng làng, điếm
canh… Dù có một số không gian văn hóa làng không còn được sử dụng thường
xuyên trong cuộc sống mới, nhưng chúng cũng cần được bảo tồn như những
biểu tượng, mang giá trị văn hóa làng, đặc biệt là giá trị cố kết cộng đồng. Đình
làng cũng như vậy, cần phải được bảo tồn và phát huy giá trị, mà trước hết là
giá trị biểu tượng, sau đó là giá trị hữu dụng trong sinh hoạt văn hóa, giáo dục
của làng.
Theo tôi, phải tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
1/ Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục cho nhân dân về việc bảo tồn
phát huy giá trị của đình làng
Truyền thông về lịch sử, văn hóa làng, trong đó có đình làng trước hết phải
hướng đến cộng đồng dân cư trong làng, xã đó, kể cả những người đang ở làng
và những người xa quê. Đó là những người thực sự có nhu cầu hiểu về lịch sử
làng mình, hiểu về các di tích của quê hương mình. Và cũng chính họ đã, đang
và sẽ trực tiếp tham gia vào việc duy trì sinh hoạt, bảo tồn và phát huy giá trị
của đình làng, cũng như các di sản văn hóa khác. Cần phải đa dạng hóa các hình
thức truyền thông. Phát huy hình thức giới thiệu về di tích gắn với sự kiện lịch
sử, bằng việc lồng ghép các sự kiện lịch sử vào bài học ngoại khóa của học sinh,
sinh viên. Mặt khác, cần tăng cường hình thức giáo dục trong nhà trường bằng
những chương trình dạy và học của học sinh, sinh viên bởi hệ thống di sản luôn
gắn chặt chẽ với các giai đoạn lịch sử.

Page | 38
Mặt khác, trong các hình thức phát huy giá trị di sản thì thu hút khách tham
quan là hình thức cực kỳ quan trọng, vì vậy, cần phối hợp với các trung tâm lữ
hành, công ty du lịch để đưa đình làng vào các tour du lịch.
Đặc biệt, gần đây khi mạng xã hội phát triển, nhiều làng đã lập trang riêng
cho làng mình, kết nối dân làng khắp nơi trên thế giới. Đây là kênh thông tin vô
cùng đắc dụng, đặc biệt rất hiệu quả trong việc truyền thông và kết nối đối với
lớp trẻ.
2/ Đưa đình làng hòa nhập vào đời sống văn hóa thời hiện đại
Một công trình kiến trúc truyền thống không thể chỉ tồn tại trong sự bảo lưu thụ
động. Nếu di sản văn hóa nào đó không được người đương thời quan tâm đến,
mặc dù là sự quan tâm dưới góc độ bảo lưu thuần túy “như một di sản văn hóa
của quá khứ”, nếu không có một sự liên hệ với đời sống thực tại, thì di sản đó
thực sự đã bị “đóng băng”.
Trong thời đại ngày nay, khả năng đình làng bị “đóng băng” là rất lớn. Bởi
nhiều hình thức sinh hoạt cũ không còn như thu sưu, thuế, phạt vạ… và nhiều
hình thức sinh hoạt văn hóa mới xuất hiện, cộng thêm việc xuất hiện nhiều công
trình mới như nhà văn hóa, nhà truyền thống… làm cho vai trò của đình làng
ngày càng mờ nhạt. Bởi công năng của các công trình ấy vốn là một trong
những công năng của đình làng xưa.
Vì vậy, để đình làng “sống” được và hòa nhập vào thời đại mới là cả một bài
toán khó, cần có thời gian và kế hoạch lâu dài.
– Trước hết, phải lấy lại những công năng vốn thuộc về đình. Tức là đưa các
sinh hoạt văn hóa của làng, xóm về tổ chức tại đình.
– Hai là bổ sung những chức năng mới cho đình làng để phù hợp với hoàn cảnh
hiện tại, để đình không chỉ tồn tại, hòa nhập với thời cuộc mà còn trở thành cầu
nối, sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại.
Ngoài ra, có thể xem xét, sử dụng đình làng như một nhà truyền thống, một thư
viện mi ni của làng, của xã. Đình làng thường có không gian rộng và thoáng, rất
dễ để trưng bày các hiện vật. Ngoài các hiện vật, hình ảnh gắn với lịch sử làng
xã, cần và nên sưu tầm, trưng bày những nông cụ, hay các vật dụng hàng ngày
gắn bó với đời sống làng xã mà nay đang có nguy cơ không còn nữa, như cày,
bừa, trục lúa, cối xay, cối giã, áo tơi…
Điều quan trọng là không được để đình làng không có hoạt động, không có
người trông nom, chăm sóc, dẫn đến tình trạng hoang vu, lạnh lẽo, rêu mốc.
Phải thường xuyên kết nối, gắn trách nhiệm với các trường học, các tổ chức
đoàn thể như thanh niên, hội người cao tuổi, hội phụ nữ trên địa bàn nơi có đình
làng để có người chăm sóc và bảo vệ.
Page | 39
Gắn hệ thống các đình làng với việc phát triển kinh tế du lịch
Hiện nay, những làng quê yên ả, những nếp nhà xưa với mái đình truyền thống
đang trở thành điểm đến hấp dẫn của giới trẻ và nhiều người yêu thích khám
phá. Nắm bắt được xu thế ấy, nhiều công ty du lịch đã biến nhiều ngôi làng cổ
thành các điểm đến du lịch hấp dẫn.
Tu bổ, tôn tạo di tích đình làng

– Tôn trọng tuyệt đối tính nguyên gốc của di tích


Tính nguyên gốc là tiêu chí cơ bản để đánh giá giá trị của di tích nói chung
và đình làng nói riêng. Tính nguyên gốc của di tích biểu hiện ở các mặt: nguyên
gốc về kiểu dáng, phong cách, nguyên gốc về vật liệu xây dựng, về kỹ thuật, độ
tinh xảo trong chế tác hoặc thi công… Tính nguyên gốc còn liên quan đến tính
liên tục trong lịch sử hình thành và phát triển của di tích.
– Nhận biết sự khác biệt giữa xây dựng mới với công tác tu bổ và bảo
quản di tích
Về bản chất, công tác tu bổ di tích là một quá trình sản xuất sáng tạo, tuy
không phải là một bộ môn khoa học độc lập, nhưng trong quá trình sản xuất nó
vẫn cần có những tiền đề và cơ sở khoa học, mục tiêu bao trùm là phải xác định
chính xác giá trị của di tích về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học…, tìm biện pháp
bảo tồn nguyên trạng di tích.
Trong xây dựng mới, người ta chỉ tập trung mọi nỗ lực để vận dụng các
thành tựu về kỹ thuật và vật liệu hiện đại nhằm sáng tạo ra một công trình vừa
đẹp, vừa bền vững và tiện ích nhất cho người sử dụng, tức là thỏa mãn các công
năng kiến trúc.
– Tuân thủ các nguyên tắc khoa học về tu bổ, tôn tạo
Chủ đầu tư và các đơn vị liên quan phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc
về tu bổ, tôn tạo di tích được quy định chi tiết trong Nghị định 70/2012/NĐ-CP
ngày 18/9/2012 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch,
dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hoá – danh lam Thắng cảnh;
Thông tư 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di
tích. Ở Nghệ An còn có thêm Quyết định 27/2014/QĐ-UBND ngày 3/4/2014
của UBND tỉnh Nghệ An ban hành quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị
di tích lịch sử – văn hóa và danh lam, thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Ngoài ra, cần phải nghiên cứu thêm về Luật Xây dựng và một số văn bản mang
tính quy phạm có liên quan.
– Xã hội hóa tu bổ di tích đình làng

Page | 40
Hiện nay, nguồn đầu tư cho tu bổ, tôn tạo di tích rất hạn hẹp lại đầu tư lại
dàn trải dẫn đến hiệu quả tu bổ không cao. Nhiều di tích vừa tu bổ năm trước,
năm sau đã xuống cấp như đình Hoành Sơn, đình Võ Liệt… Vì vậy, việc kêu
gọi xã hội hóa trong công tác tu bổ di tích được xem là giải pháp hữu hiệu, vừa
góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa kêu gọi được sự chung
tay của cộng đồng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
Thực tế hiện nay, đã có nhiều ngôi đình được phục dựng, tu bổ nhờ nguồn xã
hội hóa như đình làng Dinh Chu (Thanh Chương), đình Đông, đình Bích Thị
(Yên Thành), đình Dương Liễu (Nam Đàn)… Thực hiện tốt nguồn xã hội hóa sẽ
là minh chứng cụ thể, thuyết phục tác động trở lại đến việc huy động nguồn xã
hội hóa.
Cần quan tâm đến lực lượng cán bộ chuyên trách cấp xã và Ban quản lí các ngôi
đình làng. Đây là bộ phận gần nhất trực tiếp gắn liền với di tích nhất. Vì vậy,
phải thường xuyên mở các lớp tập huấn, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản
và cách thức xử lí những tình huống có khả năng xảy ra đối với đình làng

Tài liệu tham khảo


1. Viện bảo tồn di tích, Kiến trúc Đình làng Việt qua tư liệu Viện Bảo tồn di
tích ( tập 1) NXB Văn Hóa Dân tộc,, 2017.
2. Nguyễn Đình Toàn, Kiến trúc Việt Nam qua các triều đại, NXB Xây dựng,
2002
3. Phạm Thị Chỉnh, Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, 2013
4. PGS.TS Trịnh Cao Tưởng, Bài viết Bộ khung kết cấu gỗ kiến trúc cổ Việt
Nam, Tập san Khảo Cổ Học số 2/ 1985
5. Trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam- PGS. TS Trần Lâm Biên, Đình làng
Việt ( Châu thổ Băc Bộ), Nhà xuất bản Thế Giới, 2014
6. https://vanhoatamlinh.com/thanh-hoang-lang-la-ai-co-vai-tro-gi-trong-
van-hoa-tam-linh-nguoi-viet/
7. Hayashi Hideaki, Phạm Đăng Nhật Thái (2018), Kiến trúc Đình làng tỉnh Thừa
Thiên Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
8. Trần Lâm Biền (2017), Đình làng Việt (Châu thổ Bắc Bộ), Nxb. Hồng Đức, Hà
Nội.
9. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (2014), Đình Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.

Page | 41
Page | 42

You might also like