Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 71

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

BÙI MINH LOAN


MSSV: 1155040090

VẤN ĐỀ TRƯNG CẦU Ý DÂN


Ở VIỆT NAM HIỆN NAY-THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật


Niên khóa: 2011 - 2015

Người hướng dẫn:


Th.S Nguyễn Thanh Minh

TP.HCM – Năm 2015


MỤC LỤC

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TRƢNG CẦU Ý DÂN Ở


VIỆT NAM .................................................................................................................... 1
1.1 Khái quát chế định trƣng cầu ý dân ...................................................................... 1
1.1.1 Định nghĩa trưng cầu ý dân .................................................................................... 1
1.1.2 Đặc điểm của trưng cầu ý dân ................................................................................ 3
1.1.3 Ý nghĩa trưng cầu ý dân ......................................................................................... 6
1.1.4 Hạn chế của trưng cầu ý dân .................................................................................. 7
1.1.5 Phân biệt trưng cầu ý dân với một số chế định khác ............................................. 9
1.2 Quy định về trƣng cầu ý dân theo pháp luật Việt Nam giai đoạn từ Hiến
pháp 1946 đến trƣớc Hiến pháp 2013 ....................................................................... 12
1.2.1 Giai đoạn Hiến pháp 1946.................................................................................... 12
1.2.2 Giai đoạn Hiến pháp 1959.................................................................................... 14
1.2.3 Giai đoạn Hiến pháp 1980.................................................................................... 15
1.2.4 Giai đoạn Hiến pháp 1992.................................................................................... 16
1.3. Trƣng cầu ý dân trong pháp luật Việt Nam hiện nay....................................... 18
1.3.1 Hiến pháp 2013 .................................................................................................... 18
1.3.2 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 .............................................................................. 19
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG DỰ THẢO LUẬT TRƢNG CẦU Ý
DÂN Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................... 21
2.1 Mục tiêu và yêu cầu của Luật Trƣng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay ............ 21
2.1.1 Mục tiêu của Luật Trưng cầu ý dân ..................................................................... 21
2.1.2 Yêu cầu khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân ....................................................... 23
2.2 Kiến nghị một số vấn đề trong dự thảo Luật Trƣng cầu ý dân lần năm ......... 25
2.2.1 Phạm vi trưng cầu ý dân ....................................................................................... 25
2.2.2 Vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân .................................................................... 31
2.2.3 Thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân ................................................................... 39
2.2.4 Thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân .............................................................. 45
2.2.5 Cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân ........................................................ 46
2.2.6 Lập danh sách cử tri ............................................................................................. 48
2.2.7 Thông tin, tuyên truyền ........................................................................................ 50
2.2.8 Kết quả trưng cầu ý dân ....................................................................................... 53
2.2.9 Giám sát trưng cầu ý dân ..................................................................................... 58
LỜI NÓI ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài


Hiến pháp 2013 quy định rõ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương phát huy dân
chủ và quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp. Vấn
đề này được xác định trong nhiều văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước. Văn
kiện Đại hội XI của Đảng có nêu “Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của
nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng,
cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức” và nhấn mạnh “có cơ
chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp”, “khắc phục
dân chủ hình thức”. Cùng với chủ trương đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội, kế
thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định và
thể hiện rõ hơn bản chất của nhà nước ta. Điều 6 Hiến pháp 2013 quy định “Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán trong toàn bộ Hiến pháp, từ lời nói
đầu đến chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân,… So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 thể hiện rõ hơn quyền dân chủ
trực tiếp của nhân dân và nhất là quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân (Điều 29 và Điều 120). Tuy nhiên, trên thực tế từ năm 1946 đến nay quyền dân
chủ trực tiếp quan trọng này của công dân chưa được thực hiện trên thực tiễn vì
nhiều lý do nhưng trong đó lý do quan trọng nhất là chưa có văn bản quy định chi
tiết, cụ thể về trưng cầu ý dân. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 có nêu: “mở rộng các hình thức dân chủ trực
tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về Trưng
cầu ý dân”. Thực hiện nghị quyết số 70/2014/QH13 của Quốc hội và chương trình
xây dựng luật pháp lệnh năm 2015 để triển khai thực hiện thì Hội luật gia Việt Nam
được giao chủ trì soạn thảo và theo kế hoạch dự án Luật Trưng cầu ý dân dự kiến
trình Quốc hội thông qua Luật tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế và chính trị
với các nước trong khu vực và trên thế giới, việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân là
rất cấp bách tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia sâu hơn với tư cách chủ thể
vào những vấn đề quan trọng của đất nước, xây dựng đất nước công bằng, dân chủ,
văn minh, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế.
Để góp phần tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề trưng cầu ý dân ở Việt Nam nên
tác giả đã chọn đề tài “Vấn đề trưng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và
kiến nghị” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, chưa có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu sâu rộng về trưng cầu
ý dân. Các bài viết, công trình này được viết rất chi tiết về phần lý thuyết, chưa đi
sâu vào phần thực tiễn ở Việt Nam hoặc chỉ là nghiên cứu rời rạc một số vấn đề
trong chế định trưng cầu ý dân như phạm vi, trình tự, vấn đề,… Có thể nêu ra một
số bài viết, công trình nghiên cứu điển hình như: “Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và
Liên Bang Nga” (2005) trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8, “Chế định trưng cầu
ý dân trong pháp luật Việt Nam” (2006) trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01
của PGS.TS Đinh Ngọc Vượng. “Thủ tục trưng cầu ý dân ở một số nước” (2006)
trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 của Th.S Trương Thị Hồng Hà. “Hình thức
lấy ý kiến có tính chất quyết định của nhân dân và những vấn đề thuộc đối tượng
trưng cầu ý dân” (2006) trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01 của tác giả
Nguyễn Thị Việt Hương. “Phạm vi và đối tượng trưng cầu ý dân” (2006) trên tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 2 của TS. Trần Minh Hương. “Kinh nghiệm của Thụy
Sỹ về dân chủ trực tiếp” (2015) trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp của TS. Lương
Minh Tuân,…. Và một số luận văn như “Khái quát chung về trưng cầu ý dân và vấn
đề trưng cầu ý dân ở Việt Nam” (2006) của tác giả Võ Sỹ Chung. “Trưng cầu ý dân.
Lý luận và thực tiễn” (2008) của tác giả Phạm Thị Minh Hiếu. “Trưng cầu ý dân -
Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” (2011) của tác giả Hồ Thị Ngạn,…. Vì vậy, tác giả
lựa chọn đề tài này nhằm nghiên cứu những vấn đề quan trọng nhất của chế định
trưng cầu ý dân từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng Luật Trưng cầu ý dân
phù hợp với nước ta.
Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Về mặt không gian: đề tài không chỉ nghiên cứu chế định trưng cầu ý dân ở
pháp luật Việt Nam mà còn nghiên cứu tham khảo một số quy định của các quốc gia
khác về chế định trưng cầu ý dân.
Về mặt thời gian: Ngoài việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành về
trưng cầu ý dân, đề tài còn nghiên cứu đến những quy định về trưng cầu ý dân ở các
giai đoạn trước để có cái nhìn tổng quát về sự phát triển trưng cầu ý dân ở nước ta.
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng của
chế định trưng cầu ý dân tại Việt Nam ở các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992,
2013 và một số văn bản pháp luật khác, quy định của một số quốc gia về trưng cầu
ý dân như Liên Bang Nga, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Philipines,… và dự thảo mới nhất
mà tác giả cập nhật được là dự thảo lần năm Luật Trưng cầu ý dân của Hội luật gia
soạn thảo.
Mục đích nghiên cứu đề tài: nhằm hiểu rõ hơn những vấn đề cơ bản của
trưng cầu ý dân và đặc biệt là trưng cầu ý dân ở nước ta. Từ đó đưa ra những ý kiến
đóng góp cho dự thảo lần thứ năm của Hội luật gia.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử về những vấn đề
mang tính lý luận, ngoài ra còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, kết hợp
với liên hệ thực tiễn để lý giải các vấn đề đặt ra trong khóa luận.
Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về Nhà nước và pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của nhà nước ta về
dân chủ và trưng cầu ý dân.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thông qua nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn đóng góp ý kiến của mình
cho dự thảo Luật Trưng cầu ý dân, cung cấp thêm một số thông tin về chế định
trưng cầu ý dân. Thông qua nguồn thông tin và ý kiến riêng của mình các độc giả và
những người quan tâm đến đề tài có thể có những phản biện, gợi mở, đóng góp
nhiều ý kiến hơn nữa cho dự thảo luật để có thể xây dựng một văn bản luật phù hợp
với tình hình nước ta, dễ dàng thực thi và được sự ủng hộ của người dân.
Bố cục
Ngoài phần mục lục và tài liệu tham khảo thì nội dung luận văn bao gồm 4
phần:
Lời nói đầu
Chương 1: Khái quát chung về vấn đề trưng cầu ý dân ở Việt Nam.
Chương 2: Một số vấn đề trong dự thảo Luật Trưng cầu ý dân ở Việt Nam và
kiến nghị.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
1

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TRƢNG CẦU Ý DÂN


Ở VIỆT NAM

1.1 Khái quát chế định trƣng cầu ý dân


Dân chủ là một phạm trù chính trị xuất hiện từ khi xã hội loài người phân chia
thành giai cấp và xuất hiện nhà nước. Ta có thể hiểu đơn giản dân chủ là dân làm
chủ, dân là gốc của quyền lực nhà nước, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải
xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Có
hai hình thức biểu hiện của dân chủ đó là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân
chủ đại diện (representative democracy) là hình thức nhân dân gián tiếp thông qua
các cơ quan nhà nước, các cá nhân được nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của
mình. Dân chủ trực tiếp (direct democracy) có thể hiểu là nhân dân thể hiện một
cách trực tiếp ý chí của mình với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước về một vấn
đề nào đó mà không cần thông qua các chủ thể đại diện và ý chí đó có ý nghĩa bắt
buộc phải thi hành, Nhà nước chỉ là người tổ chức và đảm bảo các điều kiện để thực
hiện ý chí đó. Hình thức biểu hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp trên một số quốc gia
như: ứng cử, bầu cử thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, bãi miễn đại biểu, sáng kiến
của công dân,…và trưng cầu ý dân.
Trưng cầu ý dân là một chế định đặc biệt thuộc hình thức dân chủ trực tiếp, có
thể nói đây là hình thức trực tiếp nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân có thể tự mình tham gia, quyết định các vấn
đề hệ trọng của đất nước, nói cách khác làm chủ một cách trực tiếp mà không bị tác
động bởi ý chí của các chủ thể khác và ngăn ngừa được sự độc tài, chuyên chế của
cơ quan đại diện.
1.1.1 Khái niệm trưng cầu ý dân
Cội nguồn lịch sử ra đời của thuật ngữ “trưng cầu ý dân” (referendum) “có
nguồn gốc từ tiếng Latinh và được hiểu là sự bỏ phiếu của cử tri nhằm mục đích
thông qua các quyết định có tính chất quốc gia hay địa phương”1. Thuật ngữ trưng
cầu ý dân trong tiếng Anh là referendum (số nhiều referendums hoặc referenda)
nghĩa là việc tất cả người dân bỏ phiếu về một vấn đề quan trọng nào đó của một
quốc gia mình. Hiện nay thuật ngữ “referendum” cũng có thể sử dụng như thuật ngữ
“plebiscite” có nghĩa là bỏ phiếu toàn dân. Tuy nhiên, ở một số nước trên thế giới

1
Ngô Trung Thành(2006), “Trưng cầu ý dân, đặc điểm bản chất ý nghĩa” , Nghiên cứu lập pháp, (3), tr13,14.
2

thì hai thuật ngữ này được sử dụng khác nhau, khi đối chiếu sang tiếng Pháp ta có
thể phân biệt khá dễ dàng giữa Plébiscite và Referendum .
Theo cuốn“ Từ điển thuật ngữ chính trị” (Lexique de Politique) của
Charles Debbash, Jacques Bourdon, Jean Marie Pontier, Jean Claude
Ricci thì Plébiscite (bỏ phiếu toàn dân) là phương thức cho phép một
chính trị gia đang nắm quyền yêu cầu toàn thể các công dân biểu lộ cho
người đó thấy lòng tin của họ bằng lá phiếu. Đây là kỹ thuật được sử
dụng lần đầu tiên ở Pháp dưới chế độ độc tài (Điều 95 Hiến pháp của
nền cộng hoà năm thứ VIII), là phương thức cầm quyền của một số chế
độ độc tài (chủ nghĩa César dân chủ, chủ nghĩa phát xít). Vì thế thuật
ngữ “Plébiscite” thường dùng để nói về nghĩa tiêu cực, thông thường
nói về một thủ đoạn chính trị để hợp pháp hoá chính quyền. Trong khi đó
thuật ngữ “Referendum” thường dùng để nói về nghĩa tích cực khi chính
quyền hỏi nhân dân, để nhân dân quyết định một vấn đề quan trọng nào
đó của đất nước2.
Trên thế giới trưng cầu ý dân đã được thừa nhận rộng rãi như một trong những
giá trị của dân chủ trực tiếp trong xã hội hiện đại, rất nhiều nước đã ban hành luật.
Cho đến nay đã có “167/214 (khoảng 78%) quốc gia và vùng lãnh thổ có luật hoặc
các quy định pháp lý về trưng cầu ý dân”3. Ở nước ta vấn đề trưng cầu ý dân đã
được ghi nhận ngay từ Hiến pháp 1946 nhưng từ thời điểm đó đến nay nước ta chưa
tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân nào. Vì lý do chưa được diễn ra trên thực tế nên
chế định này vẫn còn xa lạ với nhân dân nước ta hiện nay và còn nhiều cách hiểu
khác nhau.
Theo cuốn từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì trưng cầu có nghĩa là
“hỏi ý kiến của số đông người một cách có tổ chức”, ý dân là “ý kiến của nhân dân
về một vấn đề chính trị nào đó”, trưng cầu ý dân là “hỏi ý kiến nhân dân bằng tổ
chức bỏ phiếu, để nhân dân trực tiếp quyết định về một vấn đề quan trọng của đất
nước”4.
Theo từ điển Pháp -Việt về pháp luật hành chính:

2
Trần Ngọc Đường (2010), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát
quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hà Nội, tr.82.
3

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1040&TabI
ndex=2&TaiLieuID=1819, (truy cập 26/05/2015).
4
Hoàng Phê(1994), Từ điển tiếng việt, NXB Giáo dục, Hà nội, tr.239,1019.
3

Trưng cầu ý dân là một hình thức tổ chức và hoạt động của nền dân chủ
bán trực tiếp, qua đó nhân dân tham gia quyết định vào những vấn đề hệ
trọng của đất nước. Trưng cầu ý dân là tổ chức cho nhân dân bỏ phiếu
trực tiếp quyết định về một vấn đề quan trọng, một chính sách hoặc yêu
cầu Quốc hội biểu quyết một dự luật do nhân dân sáng kiến đề nghị5.
Từ điển luật học cũng đưa ra định nghĩa “trưng cầu ý dân là việc lấy ý kiến
của nhân dân về vấn đề nào đó có liên quan đến lợi ích của nhân dân và lợi ích của
đất nước”6.
GS.TSKH Đào Trí Úc (ĐH Quốc gia Hà Nội) cho rằng:
Trưng cầu ý dân là một chế định xã hội có tính chất như một phương
pháp khảo sát xã hội học nhằm thu thập thông tin phản ánh quan điểm, ý
chí nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân về những vấn đề có tính cơ
bản, phổ biến phức tạp, được xã hội quan tâm, để phân tích, đánh giá và
làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quyết định, chủ trương, biện
pháp cụ thể. Tuy nhiên, mức độ thực hiện chế định dân chủ trực tiếp
trong việc trưng cầu ý dân cao hơn nhiều7.
Với những định nghĩa nêu trên ta có thể hiểu một cách cơ bản, khái quát nhất
trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước
và công dân, theo đó nhà nước sẽ đưa ra một vấn đề quan trọng nào đó của đất nước
để nhân dân trực tiếp quyết định bằng cách bỏ phiếu.
1.1.2 Đặc điểm của trưng cầu ý dân
Thông qua các khái niệm về trưng cầu ý dân nêu trên, ta có thể rút ra những
đặc điểm cơ bản nhất của trưng cầu ý dân như sau:
Thứ nhất, trưng cầu ý dân là một chế định đặc biệt, là một hình thức trong các
hình thức dân chủ trực tiếp. Vì vậy, nó sẽ mang đầy đủ những đặc điểm của hình
thức dân chủ trực tiếp và trong đó có mục đích là đảm bảo được nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thông qua việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân,
các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương sẽ phản ánh được ý chí, nguyện
vọng của nhân dân.

5
Nhà pháp luật Việt - Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà
Nội, tr.755.
6
Bộ tư pháp - Viện khoa học pháp luật (2006), Từ điển luật học, NXB tư pháp, Hà Nội, tr.821.
7
http://dantri.com.vn/xa-hoi/trung-cau-y-dan-la-phieu-cua-dan-la-quyet-dinh-cuoi-cung-739354.htm, (truy
cập ngày 23/06/2015).
4

Ngoài mục đích chính là nâng cao dân chủ trong xã hội, đảm bảo quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân thì một số quốc gia họ có cách sử dụng trưng cầu ý dân
với những mục đích khác nhau như: củng cố vị thế của một chủ thể nào đó như tổng
thống hay chính phủ, ví dụ tổng thống Charles de Gaulle, tổng thống Liên Bang
Nga Boris Yeltsin sử dụng trưng cầu ý dân để thể hiện sự tin tưởng của nhân dân
với mình; giải quyết bất đồng của các nhánh quyền lực nhà nước (Hiến pháp Thụy
Sĩ Điều 1408 quy định trưng cầu ý dân sẽ được tổ chức khi có sự bất đồng giữa hai
Nghị viện về việc có nên sửa đổi toàn diện Hiến pháp liên bang hay không); hoặc là
“bảo vệ thiểu số trong cơ quan lập pháp theo đó nhóm thiểu số có thể yêu cầu một
cuộc trưng cầu dân ý đối với một quyết định của phe đa số trong cơ quan lập
pháp”9,… những mục đích khác nhau này sẽ tùy thuộc vào từng tình hình của từng
quốc gia ở từng thời điểm khác nhau. Do đó, không phải quốc gia nào cũng sử dụng
trưng cầu ý dân với những mục đích khác như trên.
Thứ hai, trưng cầu ý dân là một quyền cơ bản của công dân và nhà nước có
trách nhiệm tổ chức trưng cầu ý dân trên thực tế. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân có nghĩa là quyền lực nhà nước do bất kì chủ thể nào nắm
giữ đều là sản phẩm của việc trao quyền từ nhân dân, đều có nguồn gốc từ sự ủy
quyền của nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Vì vậy,
nhân dân hoàn toàn có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Trưng cầu ý dân là một hình thức mà nhân dân có thể trực tiếp quyết định các vấn
đề của đất nước theo ý chí, nguyện vọng của mình nên đây là một quyền cơ bản của
công dân mà không một nhà nước nào chối bỏ. Đối với nước ta hiện nay Hiến pháp
2013 đã quy định rõ ràng trưng cầu ý dân là một quyền cơ bản của công dân Việt
Nam tại điều 29: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu ý dân”.
Thứ ba, trưng cầu ý dân thực chất là một cuộc bỏ phiếu toàn dân. Mọi công
dân tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân phải đáp ứng các điều kiện giống như của
một cử tri trong một cuộc bầu cử thông thường như về tuổi, quốc tịch, năng lực
trách nhiệm,…. và thường các nguyên tắc thực hiện trưng cầu ý dân cũng giống như
bầu cử. Trưng cầu ý dân đa số được tiến hành độc lập, riêng rẽ với các hoạt động
khác vì bản chất của trưng cầu ý dân với các vấn đề khác như bầu cử là không giống

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_TAILIEU/Attachments/1218/Hien_phap_Thuy_Si2.0.pdf,
(truy cập 02/06/2015).
9
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.54.
5

nhau. Nhưng ở một số quốc gia khác “tầm quan trọng và ý nghĩa chính trị của vấn
đề luôn gắn với một thể chế chính trị, một chính phủ của một đảng phái chính trị
nhất định nên ở các nước trong một số trường hợp trưng cầu ý dân được kết hợp
cùng với cuộc bầu cử quốc hội hoặc bầu cử tổng thống”10,….
Thứ tƣ, trưng cầu ý dân nhằm để thông qua một vấn đề cụ thể và đây là các
vấn đề mang tính chất quan trọng của một quốc gia, địa phương hay một cộng đồng
dân cư. Vấn đề được đa số các quốc gia đưa ra trưng cầu ý dân, thừa nhận rộng rãi
và phổ biến nhất đó là những vấn đề về Hiến pháp như sửa đổi (toàn bộ hoặc một
phần), bổ sung,... Ngoài ra, tùy theo từng quốc gia khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ
quy định thêm một số vấn đề quan trọng khác nếu quốc gia đó cảm thấy cần thiết.
Ví dụ như Hiến pháp Thụy Sĩ quy định ngoài trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp
thì còn trưng cầu ý dân những vấn đề bắt buộc như: việc gia nhập cộng đồng siêu
quốc gia; các đạo luật liên bang được tuyên bố khẩn cấp nhưng chưa có cơ sở hiến
định. Điều 6 Luật Trưng cầu ý dân Liên bang Nga quy định ngoài Hiến pháp thì dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật theo Điều ước quốc tế mà Liên Bang Nga đã kí
kết thì bắt buộc phải đưa ra trưng cầu ý dân,….
Thứ năm, trưng cầu ý dân thường dẫn đến câu hỏi liên quan vấn đề quan
trọng nào đó được in trên lá phiếu một cách rõ ràng, dễ hiểu nhất để nhân dân có thể
hiểu đúng câu hỏi và lựa chọn theo ý chí của mình. Khác với bầu cử, trong trưng
cầu ý dân cử tri chỉ được lựa chọn một trong hai phương án là đồng ý hoặc không
đồng ý. Nhưng trong một số trường hợp trong lịch sử thì trưng cầu ý dân lại có ba
phương án đưa ra để cử tri lựa chọn. Ví dụ cuộc trưng cầu ý dân ở Thụy Điển năm
1980 về vấn đề điện hạt nhân hoặc cuộc trưng cầu ý dân về chế độ hưu trí mới ở
Thụy Điển 1957. Với quy định từ ba phương án trở lên có thể sẽ gây khó khăn cho
nhân dân trong việc quyết định lựa chọn các phương án và các phương án được áp
dụng thực hiện đôi khi không là phương án được đa số nhân dân lựa chọn.
Thứ sáu, giống như bầu cử thì đa số các cuộc trưng cầu ý dân cũng phải trải
qua một trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ trong pháp luật. Trưng cầu ý dân là
một hoạt động quan trọng đối với một quốc gia, dân tộc. Thủ tục không chặt chẽ,
khách quan có thể phản ánh sai lệch sự lựa chọn của nhân dân gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Vì vậy, các quốc
gia có chế định trưng cầu ý dân đều quan tâm đặc biệt đến trình tự, thủ tục nhằm thu
thập một cách chính xác nhất ý nguyện của nhân dân. Ở một số quốc gia như Thụy

10
Ngô Trung Thành (2006), “Trưng cầu ý dân, đặc điểm bản chất ý nghĩa”, Nghiên cứu lập pháp, (3), tr17.
6

Sĩ, Brazil,…trình tự này được quy định thẳng trong Hiến pháp, một số nước thì
được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, cũng có một số
trường hợp chế định này sẽ không được quy định trong hai loại văn bản này mà chỉ
xảy ra trong những trường hợp nhất thời, trong từng hoàn cảnh cụ thể phát sinh. Ví
dụ như tại Singapore năm 1963 đã thực hiện trưng cầu ý dân vấn đề tách Singapore
ra khỏi Malaysia. Tại Indonexia cũng tổ chức trưng cầu ý dân một lần khi quyết
định vấn đề độc lập của Đông Timor.
1.1.3 Ý nghĩa trưng cầu ý dân
Đối với nhân dân: Dù các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau nhưng đều
đề cao “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Ở các nhà nước, nhân dân ủy
quyền, trao quyền lực của mình cho các chủ thể đại diện thực hiện nhưng nhân dân
vẫn giữ lại cho mình những quyền cơ bản nhất như các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp. Trong các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp như ứng cử, bãi miễn đại
biểu, sáng kiến công dân,….thì trưng cầu ý dân có thể coi là trực tiếp nhất. Trưng
cầu ý dân có ý nghĩa thiết thực trong việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Nhân dân thông qua trưng cầu ý dân thực hiện quyền tối cao của mình bằng cách bỏ
phiếu để quyết định lựa chọn của mình thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của
mình một cách trực tiếp (không phải thông qua bất kì chủ thể nào như hình thức dân
chủ đại diện) những vấn đề hệ trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia hay địa
phương.
Trưng cầu ý dân thể hiện sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe
ý kiến nhân dân. Đa số các cuộc trưng cầu ý dân trên thế giới hiện nay thường có
giá trị bắt buộc là kết quả cuối cùng. Nhưng cũng có một số cuộc trưng cầu ý dân
chỉ mang tính chất tham khảo, thăm dò lòng dân và ta có thể thấy cho dù kết quả
không bắt buộc áp dụng nhưng xu hướng chung là nhà nước cũng sẽ xem xét và
quyết định sao cho phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Thông qua hình thức dân chủ đại diện nhân dân lập ra và trao quyền cho các
cơ quan nhà nước để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của mình thì trưng cầu
ý dân sẽ tạo ra cơ chế giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước, giúp cho nhà
nước xem xét các chủ trương chính sách của mình phù hợp với thực tế hơn, tránh
lạm quyền, quan liêu, xa rời thực tế.
Trưng cầu ý dân còn có ý nghĩa giúp cho nhân dân hiểu được vị trí, vai trò của
bản thân mình trong xã hội. Thông qua tìm hiểu để lựa chọn bỏ phiếu quyết định
vấn đề trưng cầu, nhân dân còn có thể nâng cao kiến thức, ý thức trách nhiệm của
7

mình về chính trị và một số vấn đề liên quan. Đây cũng là bước chuẩn bị tạo sự sẵn
sàng cho người dân trong việc thực hiện các quy định pháp luật, góp phần đóng góp
xây dựng đất nước theo hướng tốt nhất, phù hợp nhất.
Đối với nhà nƣớc: Ngoài việc có ý nghĩa quan trọng đối với nhân dân, trưng
cầu ý dân cũng có ý nghĩa quan trọng đối với cơ quan nhà nước. Trưng cầu ý dân
góp phần mở rộng dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lý xã hội,
thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Việc nâng cao dân
chủ đảm bảo cho nhân dân quyền làm chủ của mình sẽ nâng cao được vị thế, uy tín
của nhà nước trên thế giới, bởi vì dân chủ là thước đo sự văn minh của một quốc
gia. Ngoài ra, khi thực hiện chế định trưng cầu ý dân nhà nước sẽ có thêm những
kinh nghiệm tạo cơ sở để nhà nước có thể mở rộng hơn nữa hình thức dân chủ trên
thực tế.
Khi áp dụng kết quả lựa chọn của nhân dân trong trưng cầu ý dân sẽ tạo ra sự
đồng thuận cao trong xã hội, tạo nên niềm tin của nhân dân đối với nhà nước. Vì
như ý nghĩa phần trên, trong trưng cầu ý dân nhà nước thường áp dụng kết quả theo
tâm tư, nguyện vọng của đa số nhân dân cả nước. Nhân dân từ đó sẽ thấy được tầm
quan trọng của mình trong xã hội, từ đó tạo nên sự ủng hộ các quyết định của nhà
nước và đẩy mạnh được tính tích cực của nhân dân trong việc đóng góp xây dựng
đất nước.
1.1.4 Hạn chế của trưng cầu ý dân
Trưng cầu ý dân có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức dân chủ đại diện,
nhưng về mặt thực tiễn việc thực hiện có khá nhiều phức tạp. Ngoài những ưu điểm
của thì chế định này cũng có một số khuyết điểm:
Thứ nhất, trưng cầu ý dân là một thủ tục khá giống bầu cử, mỗi lần chuẩn bị
phải trải qua đầy đủ, tuân thủ nghiêm chỉnh các bước được quy định để đảm bảo
việc trưng cầu phản ánh đúng đắn nhất ý chí nguyện vọng nhân dân. Vì vậy, sẽ kéo
dài thời gian nhà nước ban hành quyết định, trong những trường hợp khẩn cấp thì
trưng cầu ý dân sẽ bộc lộ rõ khuyết điểm này (ta có thể thấy một số nước quy định
không tổ chức trưng cầu ý dân trong trường hợp khẩn cấp).
Thứ hai, trưng cầu ý dân thường liên quan đến các vấn đề quan trọng của địa
phương hay quốc gia, các vấn đề thường mang tính chất quan trọng, vĩ mô. Do đó,
khi tham gia trưng cầu đòi hỏi nhân dân phải có kiến thức tương đối về các vấn đề.
Không phải cử tri nào cũng có khả năng để đưa ra quyết định về vấn đề phức tạp
nên có thể lựa chọn phương án không phù hợp với tình hình của đất nước. Tuy
8

nhiên, trong một số trường hợp cho dù trình độ cử tri có cao và đồng đều thì không
phải mọi lựa chọn là tốt nhất, phù hợp nhất. Một số kết quả trưng cầu ý dân lại có
thể gây bất lợi cho tình hình của quốc gia. Ví dụ:
Ngày 9-2-2014, chính phủ Thụy Sĩ cho tiến hành trưng cầu dân ý nhằm
thông qua Dự luật “Ngăn chặn sự nhập cư ồ ạt”. Kết quả cho thấy có
50,3% người dân ủng hộ việc kiểm soát chặt hơn người nhập cư. Tuy
nhiên, nếu dự luật được thông qua, trước hết sẽ gây chia rẽ sâu sắc
trong xã hội Thụy Sĩ, một đất nước có tới hơn 23% là người nhập cư
trong tổng số tám triệu dân. Đạo luật cũng sẽ khiến quan hệ của Thụy Sĩ
với các nước trong khối EU trở nên căng thẳng. Ngay sau cuộc trưng
cầu dân ý, Ủy ban châu Âu (EC) tuyên bố sẽ xem xét lại quan hệ giữa
EU và Thụy Sĩ một cách toàn diện, thậm chí EU sẽ thông qua một số
biện pháp trả đũa, ví dụ như hạn chế thương mại11.
Thứ ba, trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp hiệu quả nhất phản ánh
được ý chí của đa số nhân dân. Nhưng có thể trong một số trường hợp kết quả trưng
cầu ý dân lại không phản ánh đúng thực trạng xã hội và nguyện vọng, nhu cầu của
đa số nhân dân của một đất nước ví dụ như:
Tại Ai Cập, tuy có tới 98% người dân ủng hộ Hiến pháp mới nhưng đó
chỉ là trong số gần 39% người đi bầu. Tại Thụy Sĩ, cũng chỉ có khoảng
60% người dân đi bỏ phiếu, còn tại Crưm, tỷ lệ người đi bầu đông nhất
khoảng 83%. Đấy là chưa kể ngay chính nhiều người đi bầu cũng chỉ là
theo cảm tính hoặc theo “hiệu ứng đám đông”12.
Thứ tƣ, trưng cầu ý dân cần một trình tự, thủ tục chặt chẽ, khách quan nên
việc tổ chức trưng cầu ngoài tốn nhiều thời gian còn phải tốn khoản kinh phí khá
lớn. Đối với các quốc gia phát triển thì vấn đề này có thể không là điểm hạn chế
nhưng ví dụ như ở nước ta là nước đang phát triển vấn đề kinh tế còn rất khó khăn,
đất nước còn tập trung vào phát triển kinh tế, nên việc tổ chức trưng cầu rất khó tổ
chức.
Một vấn đề lúc nào cũng có những khuyết điểm riêng không tránh khỏi và dù
là hạn chế nhưng nhân dân khi tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của
quốc gia thì họ có những nhìn nhận theo tiêu chí, nhận thức riêng của họ. Vì vậy,

11
http://nhandan.com.vn/thegioi/goc-nhin-thu-hai/item/22920802-%E2%80%9Chien-tuong%E2%80%9D-
trung-cau-dan-y.html (truy cập 02/05/2015).
12
http://nhandan.com.vn/thegioi/goc-nhin-thu-hai/item/22920802-%E2%80%9Chien-tuong%E2%80%9D-
trung-cau-dan-y.html(truy cập ngày 02/05/2015).
9

“khó có thể nói rằng việc lựa chọn phương án nào (trong số các phương án đưa ra
trong một cuộc trưng cầu ý dân) là khôn ngoan nhất”13 và đôi khi người dân đưa ra
những phương án gọi là “khôn ngoan” thì không hẳn là vấn đề sẽ giải quyết theo
chiều hướng tốt (như những ví dụ trên). Khi áp dụng chế định trưng cầu ý dân ta
nên nhìn vào những ý nghĩa mà trưng cầu ý dân mang lại đó là đảm bảo quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, góp phần phát huy trí tuệ của nhân dân để quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước mà phát huy.
1.1.5 Phân biệt trưng cầu ý dân với một số chế định khác
1.1.4.1 Trưng cầu ý dân và lấy ý kiến nhân dân
Lấy ý kiến nhân dân là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp, có bản
chất là hỏi ý kiến nhân dân và do nhà nước tiến hành tổ chức như trưng cầu ý dân.
Hiện nay, thuật ngữ lấy ý kiến nhân dân xuất hiện khá nhiều trong các văn bản quy
phạm pháp luật, ví dụ như khoản 2 Điều 110 Hiến pháp 2013: “Việc thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa
phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”, khoản 2 Điều 120 Hiến pháp 2013:
“Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc
hội dự thảo Hiến pháp” hoặc Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 Điều
35 quy định: “Trong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết,
cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù
hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng
tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan,
tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan,
tổ chức, cá nhân góp ý kiến”. Qua những quy định như trên ta có thể hiểu lấy ý kiến
nhân dân là kêu gọi, tạo điều kiện (mở các diễn đàn, tổ chức hội thảo, họp báo…)
để nhân dân trực tiếp đóng góp ý kiến của mình về vấn đề đưa ra lấy ý kiến, có thể
cho ý kiến về các vấn đề ưu điểm, hạn chế, bất cập, tính khả thi của vấn đề,… Chế
định này dễ gây nhầm lẫn với trưng cầu ý dân nhất, “khi được hỏi về trưng cầu ý
dân và lấy ý kiến nhân dân nên được hiểu như thế nào, vì nhiều nguyên nhân khác
nhau nhưng chủ yếu là do nhận thức và chưa được tiếp cận với trưng cầu ý dân nên
vẫn có tới 27% luật gia và 57,3% số người dân được hỏi cho rằng trưng cầu ý dân
và lấy ý kiến nhân dân là một”14. Tuy nhiên, lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu ý dân

13
Trương Hồng Quang (2013), “Quyền tham gia trưng cầu ý dân trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi”, Nhà
nước và pháp luât, (2), tr.12.
14
Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo khảo sát về trưng cầu ý dân, Hà Nội, tr.15.
10

cũng có nhiều điểm khác nhau. Ta có thể phân biệt trưng cầu ý dân và lấy ý kiến
nhân dân thông qua bảng sau:

Tiêu chí Trưng cầu ý dân Lấy ý kiến nhân dân

Vấn đề Là những vấn đề quy định trong Có thể những vấn đề do luật định
Hiến pháp, văn bản quy phạm hoặc do đề nghị của các cơ quan,
pháp luật hoặc cơ quan có thẩm tổ chức xã hội,…
quyền quyết định (thường là
Nghị viện), mang tính chất quan
trọng.

Đối tượng Thông thường đối tượng tham Phạm vi đối tượng lấy ý kiến
gia trưng cầu được quy định thường rộng hơn là những người
giống như trong pháp luật bầu cử có mong muốn đóng góp ý kiến
đó là cử tri là những người đáp cho một vấn đề nào đó luật cũng
ứng đủ điều kiện luật định như: không quy định tiêu chuẩn nào
tuổi, năng lực trách nhiệm, quốc cho đối tượng này.
tịch,….

Hình thức Bỏ phiếu. Không thực hiện bằng hình thức


bỏ phiếu mà có thể góp ý bằng lời
nói, văn bản,…

Sự lựa chọn Đồng ý hay không đồng ý. Đồng ý, không đồng ý và ý kiến
khác.

Giá trị Đa số có giá trị bắt buộc với cơ Không có giá trị bắt buộc với cơ
quan nhà nước. quan nhà nước (ngoại trừ lấy ý
kiến nhân dân có tính chất bắt
buộc).

Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Công dân được quy định quyền cơ bản là thảo luận
và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước
theo quy định tại Điều 28 Hiến pháp 2013. Việc lấy ý kiến nhân dân nhằm tập hợp
trí tuệ trong toàn dân, góp phần làm cho các vấn đề được phản ánh một cách đầy đủ
ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu: “Dễ trăm lần
11

không dân cũng chịu - Khó vạn lần dân liệu cũng xong”, hình thức lấy ý kiến nhân
dân càng được chú trọng hơn, những vấn đề luật quy định phải lấy ý kiến nhân dân
càng xuất hiện nhiều “lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, dự án pháp lệnh là công
việc tiến hành khá thường xuyên và thông qua đó, nhân dân và các tổ chức của
nhân dân đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật”15 và nhà nước ta cũng đang xây dựng cơ sở tạo
điều kiện lấy ý kiến nhân dân để có hiệu quả tốt nhất. Đây cũng là một bước tiến để
xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân và góp phần quan trọng để làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
1.1.4.2 Trưng cầu ý dân với bầu cử
Bầu cử là một chế định thông dụng và phổ biến ở mọi quốc gia trong đó có
Việt Nam, “là một loại hoạt động xã hội mang tính lựa chọn của con người, nó phát
triển cùng với quá trình phát triển của con người và bầu cử ngày càng mang tính
chính trị - pháp lý sâu sắc"16.
Bầu cử và trưng cầu ý dân có một số nét tương đồng với nhau. Hai chế định
này đều là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hiện các
ý chí, nguyện vọng của nhân dân và nhân dân là người trực tiếp quyết định. Chủ thể
tiến hành trưng cầu ý dân và bầu cử ở các nước trên thế giới đa số đều quy định
những tiêu chuẩn giống nhau, một người có thể bầu cử thì cũng có quyền trưng cầu
ý dân. Cách thức thực hiện giữa hai chế định này cũng giống nhau đó là hình thức
bỏ phiếu. Tuy có điểm tương đồng nhưng hai chế định này có những sự khác biệt rõ
rệt:

Tiêu chí Trưng cầu ý dân Bầu cử

Nội dung Lựa chọn một phương án để giải Lựa chọn những người đại diện
quyết vấn đề quan trọng của đất tham gia vào bộ máy nhà nước.
nước.

Thời gian Không theo một thời gian nhất Bầu cử được tiến hành đều đặn
định, khi gặp vấn đề quan trọng của theo nhiệm kì.
quốc gia được quy định đưa ra

15
Trần Minh Hương (2006), “Phạm vi và đối tượng trưng cầu ý dân”, Dân chủ và pháp luật,( 2), tr.7.
16
Vũ Văn Nhiêm (2011), Giáo trình Bầu cử trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh,tr.19.
12

trưng cầu ý dân thì sẽ được tổ chức


trưng cầu.

Tổ chức Không chia thành các đơn vị trưng Chia thành các đơn vị bầu cử, mỗi
cầu ý dân, vấn đề sẽ được đưa ra đơn vị bầu ra những người khác
toàn quốc bỏ phiếu. nhau.

Hình thức Đa số trường hợp chỉ đưa ra hai Đưa ra một danh sách ứng cử viên
lá phiếu phương án để cử tri trả lời có hoặc để cử tri lựa chọn.
không.

Cách tính Thường thì các quốc gia đưa ra tỉ lệ Có nhiều cách tính như đa số
kết quả quá bán. tương đối, đa số tuyệt đối,…

Trưng cầu ý dân và bầu cử trên thực tế chỉ tương đồng nhau về chủ thể bỏ
phiếu, quy trình tổ chức và hình thức bỏ phiếu nên hai chế định này ít có sự nhầm
lẫn hơn là trưng cầu ý dân với lấy ý kiến nhân dân.
1.2 Quy định về trƣng cầu ý dân theo pháp luật Việt Nam giai đoạn từ
Hiến pháp 1946 đến trƣớc Hiến pháp 2013
1.2.1 Giai đoạn Hiến pháp 1946
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 03/9/1945 phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp thiết, trong
đó có nhiệm vụ là phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Hiến pháp của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ hai thông qua ngày
9/11/1946.
Hiến pháp 1946 là một di sản về tư tưởng và văn hóa lập hiến, được tiếp thu,
kế thừa cho các bản Hiến pháp sau này của nước ta. Tại Điều 1 của Hiến pháp 1946
đã khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nguyên tắc cơ bản, là tư
tưởng xuyên suốt trong toàn bộ nội dung Hiến pháp. Bên cạnh đó Hiến pháp 1946
còn quy định cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân.
Điều 25 Hiến pháp 1946 quy định công dân được thực hiện các quyền của
mình thông qua Nghị viện “Nghị Viện không phải chỉ thay mặt cho địa phương
mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân”. Ngoài ra, công dân còn thực hiện
quyền dân chủ của mình một cách trực tiếp là phúc quyết theo quy định tại Điều
13

21:“Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia theo quy định theo Điều thứ 32 và 70”.
Phúc quyết là từ Hán - Việt, “phúc” có nghĩa là lật lại, xét kĩ, “quyết” là quyết
định. Phúc quyết là việc xem xét lại một quyết định nào đó của chủ thể có thẩm
quyền và có thể hiểu là việc đưa vấn đề ra biểu quyết lại. Theo Hiến pháp 1946 thì
“Phúc quyết có thể coi như trưng cầu ý dân nhưng trưng cầu ý dân lại không hoàn
toàn đồng nhất với phúc quyết”17. Phúc quyết mang tính bắt buộc, mang tính chất
quyết định cuối cùng nhưng trưng cầu ý dân có nhiều loại: trưng cầu ý dân có tính
bắt buộc và trưng cầu ý dân có tính chất tham khảo. Ngoài Hiến pháp quy định về
“phúc quyết” thì tại sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 63 - SL ngày
22/11/1945 quy định về cách thức tổ chức chính quyền nhân dân ở các địa phương
có quy định về cách thức phúc quyết ủy ban hành chính các cấp Điều 18: “Nếu một
phần ba (1/3) số hội viên Hội đồng nhân dân xã yêu cầu phúc quyết Uỷ ban hành
chính xã thì Uỷ ban hành chính xã phải triệu tập ngay Hội đồng nhân dân xã để bỏ
phiếu tín nhiệm”. Vì vậy, thuật ngữ phúc quyết theo sắc lệnh này lại hiểu theo cách
giống như bỏ phiếu tín nhiệm chức danh nào đó trong tổ chức chính quyền ở địa
phương.
Điều 32 Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viện đồng ý, cách
thức phúc quyết sẽ do luật định”. Điều 70: “Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức
sau đây:a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; b) Nghị viện bầu ra một ban
dự thảo những điều thay đổi; c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng
chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Có thể thấy Hiến pháp 1946 đã quy
định được bốn vấn đề sau:
Một là, Hiến pháp 1946 có quy định những vấn đề được đưa ra nhân dân phúc
quyết đó là về Hiến pháp và những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia (những
vấn đề quan trọng, liên quan đế lợi ích quốc gia, …)
Hai là, đối với vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia thì hai phần ba
(2/3) nghị sĩ đồng ý phúc quyết thì vấn đề sẽ được đưa ra cho nhân dân phúc quyết.
Còn đối với việc sửa đổi Hiến pháp thì những vấn đề sửa đổi đã được nghị viện ưng
chuẩn thì không cần thiết có sự đồng ý của nghị sĩ hay không đều phải được đưa ra
cho nhân dân phúc quyết.

17
Đinh Ngọc Vượng (2006), “Chế định trưng cầu ý dân trong pháp luật Việt Nam”, Nhà nước& pháp
luật,(01), tr.4.
14

Ba là, khi một vấn đề đã được nhân dân phúc quyết thì quyết định đó là quyết
định cuối cùng, quyết định có giá trị cao nhất.
Bốn là, trình tự thủ tục phúc quyết theo luật định (trên thực tế không có điều
kiện xây dựng luật).
Có thể khẳng định Hiến pháp 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo
là một nền tảng về quyền của công dân trong tư duy lập hiến ở nước ta rất cần được
học tập và kế thừa. Tuy nhiên, vào thời gian này thực dân Pháp lại một lần nữa quay
lại xâm chiếm nước ta, nước ta tập trung mọi nguồn lực để bảo vệ đất nước nên
không có thời gian ban hành luật chi tiết hóa các vấn đề trưng cầu ý dân quy định
trong Hiến pháp và cũng chưa tổ chức được cuộc trưng cầu dân ý nào trên thực tế.
1.2.2 Giai đoạn Hiến pháp 1959
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ thực dân Pháp phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ.
Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam đã không thi hành Hiệp định Giơ-
ne-vơ, đất nước tạm thời chia thành hai miền. Với sự thay đổi của tình hình chính trị
nói trên Hiến pháp 1946 không còn phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ. Vì
vậy, việc yêu cầu sửa đổi Hiến pháp 1946 đã được đặt ra, ngày 01/01/1960 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố bản Hiến pháp năm 1959.
Hiến pháp 1959 vẫn quy định về chế định trưng cầu ý dân nhưng không dùng
từ “phúc quyết” mà thay vào đó là “trưng cầu ý kiến nhân dân”. Theo ý kiến của
một số nhà nghiên cứu thì “ý kiến nhân dân” theo Hiến pháp 1959 chỉ là những lời
nói, ý kiến đóng góp của nhân dân không có giá trị bắt buộc áp dụng. “Việc trưng
cầu ý kiến nhân dân trong giai đoạn 1959 - 1991 về cơ bản vẫn chỉ là việc tổ chức
lấy ý kiến nhân dân góp ý cho dự thảo Hiến pháp, dự án luật được xây dựng theo
trình tự luật định và trước khi Quốc hội thông qua”18. Vì vậy, trưng cầu ý kiến nhân
dân không đồng nghĩa với phúc quyết của Hiến pháp 1946.
Theo Hiến pháp 1959 vấn đề trưng cầu ý dân chỉ quy định tại duy nhất Điều
53: “Ủy ban thường vụ Quốc hội có những quyền hạn: Quyết định việc trưng cầu ý
kiến nhân dân”. Nhìn chung quy định của Hiến pháp 1959 đã không phát triển nội
dung tiến bộ về quyền phúc quyết và quy định có phần hạn hẹp hơn (không quy
định về vấn đề được trưng cầu, giá trị trưng cầu) so với Hiến pháp 1946. Theo quy
định tại điều 53 Hiến pháp 1959 thì rút ra được một số vấn đề sau:

18
Đinh Ngọc Vượng (2006), “Chế định trưng cầu ý dân trong pháp luật Việt Nam”, Nhà nước& pháp
luật,(01),tr.5.
15

Một là, Ủy ban thường vụ Quốc hội được quyết định vấn đề trưng cầu ý kiến
nhân dân mà không là Quốc hội.
Hai là, Hiến pháp vì không quy định vấn đề nào sẽ được Ủy ban thường vụ
Quốc hội quyết định trưng cầu ý kiến nhân dân nên có thể hiểu là mọi vấn đề nếu
Ủy ban thường vụ Quốc hội xét thấy cần thiết thì sẽ quyết định đưa ra trưng cầu ý
kiến nhân dân.
Có thể thấy nguyên nhân tại sao Hiến pháp 1959 lại quy định hạn chế hơn vì
trong giai đoạn này cả đất nước phải đương đầu với chiến tranh, tập trung toàn lực
để giải phóng, thống nhất đất nước. Quốc hội làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh
đạo thì khi có vấn đề xảy ra việc phải hội họp giải quyết sẽ tốn nhiều thời gian nên
Hiến pháp này giao quyền quyết định trưng cầu cho Ủy ban thường vụ Quốc hội
(làm việc thường trực nên sẽ đưa ra quyết định nhanh chóng hơn phải tổ chức họp
Quốc hội). Và cũng xuất phát từ lý do chiến tranh nên các nhà lập hiến không chú
trọng vấn đề trưng cầu ý kiến nhân dân quy định trong Hiến pháp và cũng không
được luật hóa quy định chi tiết thi hành vì vậy từ khi Hiến pháp 1959 có hiệu lực thì
cũng chưa có cuộc trưng cầu ý kiến nhân dân nào được thực hiện.
1.2.3 Giai đoạn Hiến pháp 1980
Ngày 30/4/1975 là dấu mốc trong lịch sử Việt Nam đất nước hoàn toàn thống
nhất. Tại kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa VI, Quốc hội đã thông qua một số nghị
quyết quan trọng trong đó có nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959. Sau hơn
một năm bản Dự thảo Hiến pháp mới được đưa ra lấy ý kiến nhân dân cả nước.
Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã thông qua Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cũng như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 cũng không kế thừa được quy
định nhân dân có quyền trực tiếp quyết định các vấn đề của đất nước thông qua
trưng cầu ý dân. Điều 100 Hiến pháp 1980 quy định “Hội đồng Nhà nước có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:6 - Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân”, trên
cơ sở Hiến pháp 1980 Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng dân tộc năm 1981 quy
định Điều 54: “Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội có thể đề nghị Hội
đồng Nhà nước đưa một dự án luật, dự án pháp lệnh hay là một vấn đề quan trọng
ra trưng cầu ý kiến nhân dân”. Ta có thể rút ra được những vấn đề trưng cầu ý dân
tại giai đoạn này:
Một là, Hiến pháp 1980 không có chế định Ủy ban thường vụ Quốc Hội nên
Hội đồng Nhà nước quyết định trưng cầu ý kiến nhân dân, theo quy định của Hiến
16

pháp thì Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc
hội, Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, do chỉ quy định Hội đồng Nhà nước quyết định việc trưng cầu ý kiến
nhân dân nên cũng như Hiến pháp 1959 nên ta cũng có thể hiểu Hội đồng Nhà nước
có quyền quyết định đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân mọi vấn đề.
Ba là, Hiến pháp 1980 có quy định thêm quyền đề nghị đó là Hội đồng dân tộc
và các Ủy ban của Quốc hội có quyền đề nghị trưng cầu ý kiến nhân dân những vấn
đề dự án luật, dự án pháp lệnh hay là một số vấn đề quan trọng khác ra Hội đồng
Nhà nước.
Trong giai đoạn xây dựng Hiến pháp 1980 đất nước ta vừa mới độc lập, thống
nhất nên công cuộc xây dựng đất nước về kinh tế, chính trị, xã hội được đặt ra hàng
đầu. Ngoài ra, đất nước thời điểm này còn non trẻ, thù trong giặc ngoài luôn đe dọa,
phá rối nên việc trưng cầu ý dân có thể sai lệch đi ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
gây nguy hiểm cho tình hình kinh tế, chính trị nước ta. Thêm nữa, các nhà lập pháp
giai đoạn này chú trọng thực hiện hình thức dân chủ đại diện theo điều 6 Hiến pháp
1980: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Vì những lý do trên nên vấn đề trưng cầu ý dân theo Hiến pháp 1980 cũng như
Hiến pháp 1959 không có luật chi tiết thi hành và không có cuộc trưng cầu nào
được thực hiện.
1.2.4 Giai đoạn Hiến pháp 1992
Sau mười một năm thực hiện, Hiến pháp 1980 không còn phù hợp với tình
hình kinh tế, xã hội của đất nước đang chuyển biến nhanh chóng. Đại hội VI của
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới với nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng để giữ
vững ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội và đặt ra yêu cầu là xây dựng nên một bản
Hiến pháp mới. Ngày 15/4/1992, trên cơ sở tổng hợp ý kiến của nhân dân cả nước,
bản dự thảo Hiến pháp mới lần này đã được Quốc hội khóa VIII thông qua (tại kỳ
họp thứ 11). Hiến pháp năm 1992 được gọi là Hiến pháp của Việt Nam trong thời
kỳ đầu của tiến trình đổi mới. Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X
đã thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Đến ngày
25/12/2001 Hiến pháp này được Quốc hội sửa đổi, bổ sung tại kì họp thứ 10, Quốc
hội khóa X (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992).
17

Hiến pháp 1992 ra đời phản ánh sự đòi hỏi cấp thiết của lịch sử, trong đó có
nhiều chế định, có sự thay đổi lớn so với Hiến pháp 1980. Cùng với các chế định
khác, chế định trưng cầu ý dân cũng được sửa đổi theo hướng tích cực hơn. Hiến
pháp đã dành 3 điều quy định về vấn đề trưng cầu ý dân:
Một là, Điều 53 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân”. Có thể thấy sự khác biệt đó là Hiến pháp đã dành một điều luật
quy định rõ là công dân có quyền vừa tham gia đóng góp ý kiến các vấn đề chung
của đất nước, vừa có thể tham gia trưng cầu ý dân. Ngoài ra, thuật ngữ “trưng cầu ý
kiến nhân dân” được đổi lại là “trưng cầu ý dân” sự thay đổi này cho ta thấy nhận
thức đúng đắn của nhà nước về bản chất của trưng cầu ý dân.
Hai là, tái xác lập Quốc hội có quyền quyết định trưng cầu ý dân như Hiến
pháp 1946 quy định: “Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Quyết
định việc trưng cầu ý dân”. Nhưng Hiến pháp này vẫn không giới hạn vấn đề nào
được Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân, đề nghị trưng cầu thuộc cơ quan nào,
phạm vi, giới hạn,…
Ba là, quy định thêm Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và
quyền hạn: “Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội”.
Trong giai đoạn này vấn đề trưng cầu ý dân cũng đã được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật:
Luật Tổ chức Quốc hội 2001 (sửa đổi, bổ sung 2007) lần nữa nhắc lại quyền
quyết định trưng cầu ý dân của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức
trưng cầu ý dân theo quy định của Quốc hội.
Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành kèm theo nghị
quyết về việc ban hành quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội số
26/2004/NQ - QH11 năm 2004 Điều 37 quy định: “Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ
chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc hội; quy định việc phát hành phiếu
trưng cầu, thể thức bỏ phiếu và kiểm phiếu; tổ chức việc bỏ phiếu, tổng hợp, công
bố kết quả trưng cầu và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất”.
Tuy nhiên, với những quy định như trên thì chúng ta vẫn chưa thể thực hiện
được trưng cầu ý dân trên thực tế vì quy định còn quá chung chung chưa có văn bản
hướng dẫn chi tiết. Trưng cầu ý dân không là vấn đề đơn giản, tùy ý thực hiện nên
trong giai đoạn này nhà nước ta cũng mong muốn soạn thảo Luật Trưng cầu ý dân
18

để trưng cầu ý dân được hiện thực hóa trên thực tế. Nghị quyết số 49/2005/QH11
của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006 đã quy định việc
trình Quốc hội cho ý kiến Luật Trưng cầu ý dân tại kì họp thứ 10. Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số: 987/2006/NQ - UBTVQH11 nhằm thực
hiện Nghị quyết Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2006, giao
cho Hội Luật gia nghiên cứu và soạn thảo Luật Trưng cầu ý dân. Nhưng giai đoạn
này Luật Trưng cầu ý dân vẫn chưa được thông qua vì còn rất nhiều khó khăn,
vướng mắc.
1.3. Trƣng cầu ý dân trong pháp luật Việt Nam hiện nay
1.3.1 Hiến pháp 2013
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng và với kết quả tổng kết
thực tiễn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước để đáp ứng yêu
cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới,
ngày 06/8/2011 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII, đã thông qua Nghị quyết
thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Sau thời gian triển khai lấy
ý kiến góp ý của nhân dân cả nước, ngày 28/11/2013 Quốc hội đã chính thức thông
qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định về trưng cầu ý dân về cơ bản cũng khá
giống với những quy định trong Hiến pháp 1992. Điều 29 khẳng định: “Công dân
đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Hiến
pháp 2013 quy định về trưng cầu ý dân thể hiện thành điều riêng, thể hiện tư duy
của nhà nước về quyền công dân. Khoản 15 Điều 70 quy định một trong những
quyền hạn của Quốc hội là: “Quyết định việc trưng cầu ý dân”, khoản 15 Điều 70
quy định nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội: “Tổ chức trưng cầu
ý dân theo quyết định của Quốc hội”. Điều 120 quy định: “Hiến pháp được thông
qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc
trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.
Từ những quy định của Hiến pháp 2013 về trưng cầu ý dân, ta cũng rút ra
được một số vấn đề như sau:
Một là, quyền trưng cầu ý dân là quyền của công dân Việt Nam. Có thể thấy
quyền tham gia trưng cầu ý dân là sự bổ sung cho hình thức dân chủ trực tiếp (quy
định tại Điều 6 Hiến pháp 2013) từ đó tạo điều kiện cho công dân tham gia tích cực,
hiệu quả hơn trong vấn đề xây dựng, bảo vệ đất nước.
19

Hai là, Hiến pháp 2013 cũng không quy định rõ những vấn đề nào được đưa
ra trưng cầu ý dân, riêng việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp ở cấp độ toàn quốc do
Quốc hội quyết định.
Ba là, Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định nhiệm vụ giống như Hiến
pháp 1992 là tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.

1.3.2 Luật Tổ chức Quốc hội 2014


Luật Tổ chức quốc hội 2014 đã được ban hành 20/11/2014, có hiệu lực ngày
01/06/2016 quy định rõ ràng hơn một số vấn đề so với Hiến pháp 2013:
Thứ nhất, luật khẳng định lại Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền trưng cầu ý
dân, Điều 19 quy định: “Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc về
những vấn đề quan trọng khác theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội”. Theo
luật này thì cũng không giới hạn vấn đề nào trưng cầu ý dân, Quốc hội có quyền
quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp và theo đề nghị của một số chủ thể có
thẩm quyền về những vấn đề nào có thể coi là quan trọng.
Thứ hai, Luật Tổ chức Quốc hội 2014 quy định thêm một quyền mới đó là
quyền kiến nghị. Theo Điều 33 thì Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị Quốc hội
quyết định trưng cầu ý dân. Kiến nghị của đại biểu Quốc hội được gửi bằng văn bản
đến Ủy ban thường vụ Quốc hội trong đó nêu rõ lý do, nội dung kiến nghị. Khi nhận
được kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm tổng hợp, xử lý các kiến
nghị của đại biểu Quốc hội theo thẩm quyền. Nếu có trường hợp có từ một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội trở lên kiến nghị Quốc hội trưng cầu ý dân thì Ủy ban
thường vụ Quốc hội báo cáo để Quốc hội xem xét, quyết định.
Vậy ta có thể hiểu theo quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội 2014 quyền đề
nghị khác so với quyền kiến nghị. Quyền đề nghị dành một số chủ thể nhất định tại
Điều 19 và khi các chủ thể này đề nghị thì bắt buộc Quốc hội phải xem xét đưa ra
quyết định nên trưng cầu ý dân hay không. Còn đối với kiến nghị thì chỉ thuộc về
đại biểu Quốc hội và khi có kiến nghị trưng cầu ý dân thì Ủy ban thường vụ Quốc
hội sẽ xử lý, xem xét các kiến nghị, chỉ khi có từ một phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội kiến nghị thì Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Thứ ba, vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định khá giống với Quy
chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành năm 2004, Ủy ban thường
vụ Quốc hội tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội; Ủy ban thường
20

vụ Quốc hội quy định về hình thức phiếu trưng cầu, trình tự bỏ phiếu và kiểm
phiếu; quyết định thời gian cụ thể trưng cầu ý dân, nội dung ghi trên phiếu trưng
cầu ý dân căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về việc trưng cầu ý dân; kiểm tra,
giám sát việc trưng cầu ý dân; Ủy ban thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm công
bố kết quả trưng cầu ý dân với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Thứ tƣ, Luật Tổ chức Quốc hội 2014 còn quy định về giá trị của kết quả trưng
cầu ý dân mang tính chất bắt buộc “Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định
đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân”.
Pháp luật trưng cầu ý dân giai đoạn hiện nay tuy đã có quy định khá rõ ràng
hơn so với pháp luật giai đoạn trước nhưng vẫn còn rất khó khăn, thậm chí là không
thực hiện được nếu chỉ dựa vào những quy định trên để tổ chức các cuộc trưng cầu
ý dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
21

CHƢƠNG 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG DỰ THẢO LUẬT TRƢNG CẦU Ý DÂN Ở VIỆT


NAM VÀ KIẾN NGHỊ

2.1 Mục tiêu và yêu cầu của Luật Trƣng cầu ý dân ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện Cương lĩnh
của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển toàn diện về các mặt kinh
tế, văn hóa, xã hội nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc đất nước. Để thực hiện
được những mục tiêu đó thì phát huy dân chủ là một trong những vấn đề cốt lõi.
Trong những giai đoạn vừa qua, vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và
đẩy mạnh thực hiện qua các công tác lấy ý kiến nhân dân, thực hiện quy chế dân
chủ ở từng loại cơ sở như xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, cơ
quan hành chính,…. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp dân chủ còn chưa tốt
và còn mang tính hình thức. Điều này dẫn đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền
triển khai thực hiện công việc gặp nhiều khó khăn, vấp phải sự phản đối của nhân
dân. Vì vậy, để khắc phục được những hạn chế này thì việc tổ chức, thực hiện các
cuộc trưng cầu ý dân là một trong những phương án phù hợp. Bởi vì, cơ chế này
vừa thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở mức cao nhất vừa tạo ra được
cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ, sát sao đối với cơ quan nhà nước.
2.1.1 Mục tiêu của Luật Trưng cầu ý dân
Từ tình hình nói trên, ta có thể rút ra được những mục tiêu của Luật Trưng cầu
ý dân như sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh, phát huy dân chủ trong đời sống xã hội nước ta. Một
trong những mục tiêu của nước ta là “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”19. Việc
phát huy dân chủ có nhiều cách thức để thực hiện như nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, lấy ý kiến nhân dân, chống tập trung quan liêu, dân chủ hình
thức,…. Chế định trưng cầu ý dân là một trong những hình thức dân chủ có thể nói
là trực tiếp nhất trong các hình thức dân chủ trực tiếp và mang tính dân chủ cao hơn
hình thức dân chủ đại diện, thể hiện quyền bày tỏ ý kiến, trực tiếp quyết định các
vấn đề của đất nước của nhân dân. Vì vậy, khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân sẽ là
một bước tiến trong quá trình hoàn thiện nền dân chủ mà nước ta xây dựng, góp

19
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
22

phần quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và chi tiết hóa các quy
định của Hiến pháp và pháp luật có liên quan. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn
mạnh: có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp.
Nghị quyết số 48 - NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 cũng nêu
rõ: mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc
của nhà nước; ban hành luật về trưng cầu ý dân. Trong bốn bản Hiến pháp trước đây
ở nước ta đều có quy định về chế định trưng cầu ý dân nhưng chưa cuộc trưng cầu
nào diễn ra trên thực tế, gây ảnh hưởng đến quyền làm chủ của nhân dân. Đất nước
ta đã thống nhất và đang trong giai đoạn phát triển các trở ngại khiến không thể tiến
hành trưng cầu ý dân như trước kia không còn và dù còn một số khó khăn nhất định
nhưng hoàn toàn có đủ khả năng tổ chức trưng cầu ý dân. Hiến pháp 2013 và một số
văn bản pháp luật khác cũng đã có quy định về trưng cầu ý dân nhưng chưa rõ ràng,
không thể căn cứ vào một số điều luật này để thi hành trên thực tế. Vì vậy, để tránh
được sự việc như trong giai đoạn trước là có quy định nhưng không thể thực hiện
thì Luật Trưng cầu ý dân phải thể chế hóa được chủ trương, đường lối của Đảng,
hướng dẫn một cách chi tiết, cụ thể về trưng cầu ý dân trên nền tảng Hiến pháp và
văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Tổ chức Quốc hội 2014.
Thứ ba, đảm bảo cho nhân dân tham gia đầy đủ, rộng rãi, thể hiện ý chí,
quyền quyết định của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước. Đối với các
hình thức dân chủ đại diện nhân dân không có quyền trực tiếp quyết định những vấn
đề mang tính chất quan trọng liên quan đến quốc gia, địa phương. Trưng cầu ý dân
là chế định mà nhà nước đề cao quyền quyết định của nhân dân, nhân dân hoàn toàn
có quyền trực tiếp quyết định các vấn đề theo ý chí mình mong muốn. Vì vậy, khi
xây dựng Luật Trưng cầu ý dân sẽ tạo cơ sở cho quyền này được thực hiện trên thực
tế. Nhân dân có thể thấy rõ được vai trò của mình trong việc xây dựng bảo vệ đất
nước từ đó thúc đẩy nhân dân tham gia tích cực, thực hiện quyền dân chủ của mình.
Thứ tƣ, tạo cơ chế giám sát đối với các văn bản, các quyết định của cơ quan
nhà nước. Như đã nêu thì hình thức dân chủ đại diện là hình thức nhân dân trao
quyền của mình cho các cơ quan đại diện thực hiện. Đây là hình thức không thể
thiếu trong bất kì nhà nước nào. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động hình thức này
có khuyết điểm là ý chí, nguyện vọng của nhân dân phải qua trung gian của người
đại diện, có thể bị sai lệch bởi nhiều lý do như trình độ nhận thức, quan điểm, lợi
23

ích, dẫn đến hậu quả là có những quyết định trái với nguyện vọng nhân dân. Vì vậy,
cần thiết có một thiết chế giúp nhân dân tạo sự kiểm tra, phản biện đối với các
đường lối, chính sách, vấn đề quan trọng của quốc gia do Đảng và Nhà nước đưa ra.
Và chế định trưng cầu ý dân là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp tạo ra
một cơ chế giám sát tốt nhất, đảm bảo nhân dân trực tiếp quyết định theo đúng ý chí
của mình, giúp Đảng, Nhà nước xem xét lại các đường lối, chính sách, quyết định
của mình khắc phục quan liêu, xa rời thực tế, tham nhũng, lãng phí,…
2.1.2 Yêu cầu khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân
Với mục tiêu của Luật Trưng cầu ý dân như trên, để đạt được hiệu quả tích
cực khi thực thi trên thực tế thì khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân phải đạt được
các yêu cầu sau:
Thứ nhất, khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân đòi hỏi trước phải nghiên cứu
các văn kiện, nghị quyết, đặc biệt là Hiến pháp văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất
để đưa ra những quy định phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, nếu Hiến pháp chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa để có thể đưa ra
những điều luật hợp lý nhằm để thực thi Luật Trưng cầu ý dân trên thực tế thì vẫn
có thể sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Đồng thời nghiên cứu pháp luật về trưng cầu ý
dân các giai đoạn trước, đặc biệt là pháp luật giai đoạn 1946 để chọn lọc và học hỏi.
Ngoài ra, khi xây dựng luật cần tìm hiểu pháp luật về trưng cầu ý dân các nước trên
thế giới, tiếp thu những ưu điểm nhưng không rập khuôn, máy móc để xây dựng ra
những phương án phù hợp với nước ta và cũng phù hợp với xu thế chung của thế
giới.
Thứ hai, trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ khi tổ chức thực hiện sẽ rất
khó khăn và tốn nhiều thời gian, công sức, tiền của. Do đó, Luật Trưng cầu ý dân
cần phải được xây dựng sao cho chặt chẽ, hợp lý, đảm bảo tính khoa học và thực
tiễn. Khi nghiên cứu cần phải dự tính được khoản kinh phí của cuộc trưng cầu ý dân
sao cho hợp lý, bố trí các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ sao cho phù hợp
tránh giao cho quá nhiều cơ quan phụ trách mà không cần thiết, dự tính khoảng thời
gian tổ chức trưng cầu ý dân không quá ngắn và quá dài để nhân dân vẫn có thể tiếp
cận được vấn đề và đảm bảo trưng cầu ý dân được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả,
tiết kiệm.
Thứ ba, trong các giai đoạn trước vì không có luật cụ thể hóa Hiến pháp nên
không thể tổ chức được một cuộc trưng cầu ý dân nào trên thực tế. Ta có thể thấy
nếu chỉ dựa vào một vài điều như trước đây thì không thể thực hiện được. Vì vậy,
24

khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân phải quy định rõ ràng, chi tiết từng vấn đề để có
thể căn cứ mà thực hiện trên thực tế, ta cần phải làm rõ được một số vấn đề chính
như sau:
Một là, để cuộc trưng cầu ý dân diễn ra đạt chất lượng thì cần phải quy định
các nguyên tắc tổ chức trưng cầu ý dân, có thể tương tự như bầu cử: bình đẳng, phổ
thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Trên cơ sở các nguyên tắc nhà nước phải triển khai
thực hiện sao cho việc trưng cầu phải tự nguyện, khách quan tránh bất kì đối tượng
nào ngăn cản, ép buộc,… như vậy mới khẳng định được tính chất nhân dân quyết
định, mới là dân chủ.
Hai là, về phạm vi trưng cầu và vấn đề trưng cầu ý dân phải xác định rõ việc
tổ chức trưng cầu ý dân có thể được thực hiện ở đâu toàn quốc hay địa phương và
toàn quốc việc xác định rõ phạm vi dẫn đến việc xác định vấn đề được trưng cầu ý
dân một cách rõ ràng chính xác, ví dụ như phạm vi ở toàn quốc thì vấn đề được đưa
ra trưng cầu là gì? Địa phương vấn đề gì? ,….
Ba là, chủ thể có thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân, chủ thể tổ chức
trưng cầu ý dân, các chủ thể có quyền đề nghị, kiến nghị và sáng kiến cần quy định
rõ ràng và quy trình, trình tự tổ chức ra cuộc trưng cầu ý dân của chủ thể tổ chức?
Đối với các chủ thể đề nghị, kiến nghị hoặc sáng kiến thì cách thức, thủ tục đề xuất
là như thế nào?
Bốn là, thủ tục trình tự khi nhân dân bỏ phiếu phải quy định rõ ràng, cụ thể,
đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch trong suốt quá trình trưng cầu ý dân từ bắt đầu đến
kết thúc
Năm là, giá trị của cuộc trưng cầu ý kiến nhân dân chỉ là tham khảo hay là
quyết định cuối cùng.
Sáu là, các chủ thể có quyền giám sát trưng cầu ý dân, cách thức xử lý khi có
vi phạm xảy ra.
Thứ tƣ, cũng như các luật khác khi xây dựng Luật Trưng cầu ý dân đòi hỏi
phải mang tính chính xác, có nghĩa là bất cứ ai khi đọc vào bất kì điều luật nào thì
phải hiểu theo một nghĩa duy nhất; đảm bảo tính dể hiểu có nghĩa là phải quy định
rõ ràng, chi tiết từng điều mà không cần phải ban hành văn bản để giải thích thêm;
tính khách quan phải thể hiện được ý chí của nhà nước, của nhân dân, phản ánh nhu
cầu của xã hội, không được đưa lợi ích của một nhóm người hay một cá nhân nào
vào luật.
25

2.2 Kiến nghị một số vấn đề trong dự thảo Luật Trƣng cầu ý dân lần năm
2.2.1 Phạm vi trưng cầu ý dân
Phạm vi được hiểu là khuôn khổ, giới hạn nào đó. Phạm vi trưng cầu ý dân
được hiểu là quy mô của một cuộc trưng cầu ý dân. Hiến pháp 2013 có quy định về
trưng cầu ý dân nhưng không quy định rõ ràng đầy đủ về quy mô của cuộc trưng
cầu ý dân nên có thể dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau trong phạm vi trưng cầu.
Cách hiểu thứ nhất, Hiến pháp quy định Quốc hội có quyền quyết định và Ủy ban
thường vụ quốc hội có quyền tổ chức trưng cầu ý dân vì Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất nếu quyết định vấn đề ở địa phương thì không hợp lý nên
hàm ý phạm vi trưng cầu ý dân chỉ ở phạm vi toàn quốc. Cách hiểu thứ hai, cũng có
thể Quốc hội sẽ quyết định những vấn đề trưng cầu ý dân trong phạm vi vùng lãnh
thổ (liên tỉnh) hoặc ở địa phương.
Trưng cầu ý dân là hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp cao nhất để người
dân có thể thực hiện quyền làm chủ của mình. Hiện nay, ở một số quốc gia trên thế
giới thì phạm vi trưng cầu cũng khác nhau, tùy thuộc vào những đặc điểm tình hình
kinh tế, chính trị,... của mỗi quốc gia. Ví dụ: Những quốc gia chỉ quy định trưng cầu
ý dân ở cấp toàn quốc như: Myanmar, Thái Lan, Áo,…. Có những quốc gia chỉ quy
định trưng cầu ý dân ở cấp độ địa phương (bang, tỉnh, vùng) như Hoa Kỳ, Đức,…
Các quốc gia quy định trưng cầu ý dân ở cả hai phạm vi toàn quốc và địa phương
như Philippines, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Italia,….
Theo quy định tại dự thảo Luật Trưng cầu ý dân lần thứ năm thì “Các cuộc
trưng cầu ý dân được thực hiện trên phạm vi cả nước” tức có nghĩa là trưng cầu ý
dân chỉ thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Hiện nay, cũng có khá nhiều luồng quan
điểm vấn đề này, theo kết quả báo cáo khảo sát của Hội luật gia Việt Nam thì “đại
đa số đối tượng được hỏi cho rằng cần phải có trưng cầu ý dân cả ở hai cấp toàn
quốc và địa phương (71,4% luật gia và 85,4% người dân được hỏi)”20.
Quan điểm đồng tình với dự thảo chỉ nên tổ chức trưng cầu ý dân ở phạm vi
toàn quốc. Thứ nhất, điều này phù hợp với thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân
và tổ chức việc trưng cầu ý dân của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã được
quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội. Thứ hai, đối với các vấn đề ở
địa phương và vùng lãnh thổ nhất định thì hiện tại pháp luật đang tiếp tục bổ sung
thực hiện các quy định để bảo đảm mở rộng các hình thức cho nhân dân tham gia

20
Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo khảo sát về trưng cầu ý dân, Hà Nội, tr.17.
26

trình bày, đóng góp ý kiến, ví dụ như hình thức lấy ý kiến nhân dân các vấn đề của
địa phương.
Quan điểm khác cho rằng những vấn đề hệ trọng của quốc gia do Quốc Hội
quyết định là hợp lý nhưng nếu vụ việc ảnh hưởng đến lợi ích vùng lãnh thổ nhất
định (một số địa phương) hoặc những vấn đề quan trọng chỉ xảy ra ở một địa
phương thì cần thiết trao thẩm quyền trưng cầu ý dân cho chính quyền địa phương ở
khu vực đó quyết định. Khi cho phép trưng cầu ý dân ở địa phương thì sẽ có những
ưu điểm như: Thứ nhất, trưng cầu ý dân ở phạm vi toàn quốc mang tính chất quan
trọng, vĩ mô, trong khi đó trưng cầu ý dân ở phạm vi địa phương lại là những sự
việc gắn liền với đời sống của người dân nên sẽ dễ dàng thu hút được sự chú ý và
việc thực hiện tham gia bỏ phiếu nhiều hơn. Thứ hai, việc trưng cầu ở địa phương
vì chỉ trong một phạm vi nhỏ nên công tác tổ chức nhanh chóng, dễ dàng hơn trên
phạm vi toàn quốc. Thứ ba, khi thi hành một vấn đề nào đó đã được trưng cầu thì
sẽ tạo được sự đồng thuận của nhân dân nhiều hơn vì đây là ý chí của đa số nhân
dân, tránh được nhiều khiếu nại, tranh chấp xung quanh vấn đề. Với những lý do
trên nếu chỉ quy định phạm vi trưng cầu ý dân được thực hiện trên toàn quốc là
chưa đầy đủ, phù hợp .Vì vậy, nhóm đại biểu có quan điểm này đề nghị dự thảo luật
cần quy định trưng cầu ý dân có phạm vi trên toàn quốc nhưng trong một số trường
hợp cũng có thể tiến hành ở phạm vi một hoặc một số đơn vị hành chính nhất định.
Trong nhóm ý kiến đồng tình trưng cầu ý dân ở địa phương thì cũng có nhiều ý
kiến: có ý kiến là nên tổ chức trưng cầu ý dân trên phạm vi toàn quốc và cấp tỉnh;
cũng có ý kiến cho rằng nên mở rộng ở cấp huyện và cấp xã, thậm chí cũng có
người cho rằng chỉ nên lấy ý kiến trưng cầu ở địa phương,….
Để lựa chọn được phương án ưu thế nhất cho phạm vi trưng cầu ý dân thì ta
cần phải làm rõ được hai vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất: Sự cần thiết trưng cầu ý dân ở phạm vi vùng lãnh thổ, địa
phương
Một là, trưng cầu ý dân là hình thức người dân trực tiếp tham gia vào các công
việc của nhà nước, trực tiếp thể hiện ý chí và thực hiện quyền làm chủ của mình đối
với các vấn đề hệ trọng của đất nước. Hiến pháp 2013 quy định nội dung xuyên suốt
và cốt lõi là phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ này có
thể thực hiện bằng nhiều hình thức và việc trưng cầu ý dân toàn quốc hay trưng cầu
ý dân vùng lãnh thổ, địa phương đều là hình thức dân chủ trực tiếp mà nhân dân có
quyền thực hiện. Có thể nói ở địa phương là phạm vi gần dân và là nơi phát sinh
nhiều vấn đề trong xã hội nhất. Do đó, bên cạnh những vấn đề mang tính toàn quốc,
27

thì những vấn đề mang tính vùng hoặc liên quan trực tiếp đến địa phương cần có sự
tham gia ý kiến, biểu quyết của người dân. Việc không thực hiện hoạt động trưng
cầu ý dân có thể không giải quyết được vấn đề hoặc giải quyết gây ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích và không được sự ủng hộ của nhân dân, V-Lênin khẳng định :“Cần
phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bình đẳng từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản
thân quần chúng với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống nhân
dân”21. Trên thế giới có nhiều nước tổ chức thực hiện trưng cầu ý dân ở cấp địa
phương bên cạnh trưng cầu ý dân ở toàn quốc hoặc thậm chí có những quốc gia chỉ
trưng cầu ý dân cấp địa phương. Vì vậy, nếu nước ta cho phép trưng cầu ý dân ở
cấp địa phương là việc không mới lạ, “vấn đề chủ yếu là phải tìm và vận dụng các
cách thức thích hợp với điều kiện lịch sử - xã hội của nước ta”22.
Hai là, Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên gọi từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân thành Chính quyền địa phương, thuật ngữ “chính quyền địa phương” đã
được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản của Đảng và Nhà nước,… Đây được
đánh giá là “sự thay đổi hợp lý, phù hợp với lịch sử lập hiến cũng như các văn bản
khác của Đảng và Nhà nước ta”23. Hiện nay, tính tự chủ của Chính quyền địa
phương được tập trung đẩy mạnh, đổi mới thực sự về mô hình tổ chức cũng như
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương theo hướng: “Bảo
đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; tạo
không gian tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn cho chính quyền địa phương; khẳng
định rõ nét hơn vị trí của chính quyền địa phương trong hệ thống hành chính thống
nhất của đất nước”24. Ta có thể thấy ưu điểm khi phát huy tính tự chủ cho chính
quyền địa phương là khi xảy ra vấn đề thì có thể chủ động hơn trong giải quyết
công việc, tạo sự năng động cho chính quyền địa phương trong giải quyết nhanh
chóng vụ việc mà không quá lệ thuộc, chờ đợi vào ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Với
định hướng như trên thì việc nên trao thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân cho
chính quyền địa phương là cần thiết. Ngoài những ưu điểm thì cũng có khuyết điểm
nhất định, hạn chế lớn nhất là khi “tự chủ” quá nhiều có thể dẫn đến việc lạm
quyền. Tuy là tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm nhưng khi chính quyền địa
phương làm trái quy định hoặc có những quyết định không phù hợp, …. thì hậu quả

21
Dẫn theoTrương Hồng Quang (2012), “Vấn đề trưng cầu ý dân trong bối cảnh sửa đổi Hiến pháp 1992”,
Luật học, (8), tr.29.
22
http://tamnhin.net/mot-so-van-de-ve-trung-cau-y-dan.html (truy cập 18/06/2015).
23
http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/6792/To_chuc_Chinh_quyen_dia_phuong (truy cập
18/06/2015)
24
http://moj.gov.vn/npl/Pages/dm-tai-lieu-tham-khao.aspx?ItemID=20, (truy cập 01/06/2015).
28

xảy ra nhân dân là chủ thể chịu sự ảnh hưởng trước tiên. Vì vậy, chế định trưng cầu
ý dân để nhân dân trực tiếp quyết định sẽ phát huy hiệu quả trong vấn đề này.
Tóm lại, dân chủ ở địa phương là dân chủ được thể hiện rõ nét nhất, vì đây là
phạm vi gắn liền với đời sống hàng ngày của nhân dân nên không thể bỏ qua phạm
vi trưng cầu ý dân ở địa phương.
Vấn đề thứ hai: Phạm vi trưng cầu ở địa phương
Ở nước ta chính quyền địa phương được chia thành ba cấp (tỉnh và thành phố
trực thuộc trung ương), cấp huyện (quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh),
cấp xã (xã, thị trấn, phường). Trưng cầu ý dân như phân tích ở trên là cần thiết trưng
cầu ở phạm vi địa phương nhưng phải xác định rõ là nên trưng cầu ở những cấp nào
là tốt nhất.
Hiện nay, ở cấp xã đang áp dụng quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Thực tiễn
quản lý cho thấy trong quá trình thực hiện dân chủ ở các cơ sở các cơ quan quản lý
nhà nước đã sử dụng khá thành công cả hai hình thức lấy ý kiến nhân dân tham
khảo và lấy ý kiến nhân dân có tính quyết định.
Việc lấy ý kiến nhân dân có tính tham khảo được quy định tại Điều 19 Pháp
lệnh thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn số 34/2007/PL - UBTVQH11, những
vấn đề quy định tại điều này là những vấn đề quan trọng, tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định
thì chính quyền cấp xã phải tạo điều kiện cho nhân dân đóng góp ý kiến của mình,
như vậy sẽ làm tăng sức thuyết phục của quyết định hơn. Ngoài ra, pháp lệnh còn
quy định việc lấy ý kiến nhân dân mang tính quyết định quy định tại Điều 10 bắt
buộc phải tổ chức hoặc phát phiếu lấy ý kiến nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử
tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố hoặc trong toàn cấp xã tán thành thì
có giá trị thi hành.
Quy chế Dân chủ ở xã, phường, thị trấn thực hiện ở các năm vừa qua đã có
được những kết quả tích cực, góp phần tạo đẩy mạnh và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đã phát huy được công sức, trí tuệ của các tầng lớp nhân dân. Khắc
phục được tình trạng quan liêu tham nhũng ở một bộ phận cán bộ, công chức. Theo
chủ trương của nhà nước ta là thực hiện, hoàn thiện tốt hơn Quy chế dân chủ cơ sở
và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Vì vậy, từ những lý do trên
nên tiếp tục áp dụng quy chế này mà không nhất thiết phải tổ chức trưng cầu ý dân
ở cấp xã mà chỉ nên tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện và vùng lãnh thổ nhất định. Ở
29

nước ta, trong thời gian vừa qua có một số vụ việc gặp phải nhiều sự phản đối, bất
bình của nhân dân điển hình như hai vụ việc sau:
Vụ việc thứ nhất là vụ việc xảy ra liên quan đến Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân
2 huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Tổng Công ty Phát điện 3 (GENCO3, thuộc
EVN), được khởi công xây dựng vào ngày 08/08/2010 với tổng công suất 1.244
MW, ở nhà máy này bãi xỉ rộng hơn 64 ha hằng ngày nhận 3.000 - 4.000 tấn tro, xỉ
từ hai tổ máy của nhà máy nhiệt điện thải ra. Cạnh đó còn có ống khói rộng 7 m,
cao 210 m liên tục phun khói, bụi chưa qua xử lý ra môi trường và đã gây ra nhiều
cơn “bão xỉ” từ bãi than khiến người dân thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân gánh chịu
toàn bộ. Nhiều hộ dân phải đóng chặt cửa suốt ngày, gây ảnh hưởng đến sức khỏe
nhân dân trong vùng, cây cối, hoa màu cũng bị nhiều thiệt hại, nguồn nước sinh
hoạt bị ô nhiễm,.… Chiều 15/04/2015, trên quốc lộ 1A đoạn qua xã Vĩnh Tân,
huyện Tuy Phong (Bình Thuận) hàng trăm người dân địa phương dùng bàn ghế, đá,
gạch làm chướng ngại vật đưa ra giữa lòng đường chặn xe, ném bom xăng để phản
đối nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 gây ô nhiễm môi trường. Sau khi thuyết phục
người dân đã trả lại mặt đường QL1A quay về nhà lúc 3 giờ sáng. Lúc 10g30 sáng
15/04, người dân ở thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong bất ngờ ùa ra
đường mang theo bàn ghế “tái chiếm” QL1A để tiếp tục chặn xe phản đối Nhà máy
Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 gây ô nhiễm môi trường25.
Vụ việc thứ hai liên quan đến dự án lấp sông của Đồng Nai: Ủy ban nhân dân
tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định chấp thuận đầu tư dự án cải tạo cảnh quan và phát
triển đô thị ven sông Đồng Nai rộng hơn 84.000 m2 cho Công ty Toàn Thịnh Phát
triển khai khu đô thị Pegasus Residence. Dự án dự kiến được triển khai xây dựng
trong 9 năm, kinh phí đầu tư 2.200 tỷ đồng, khi hoàn thành sẽ góp phần rất lớn vào
việc cải tạo cảnh quan, môi trường, tăng nhiều diện tích công viên và cây xanh,
đồng thời phát triển thêm nhiều dịch vụ tiện ích công cộng cho người dân thành phố
Biên Hòa. Theo quy hoạch được duyệt, khu đô thị ven sông Pegasus Residence bao
gồm khu cao ốc văn phòng kết hợp thương mại - dịch vụ, nhà ở riêng lẻ thấp tầng,
chung cư cao cấp, khách sạn cao cấp 4 - 5 sao, trung tâm thương mại... Đáng nói là
trong đó, thể hiện phần diện tích lấn sông lên tới hơn 77.200 m2, phần còn lại hơn
6.800 m2 là đất hiện hữu.

25
Tổng hợp từ các trang http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/nguoi-dan-tao-tuong-lua-tiep-tuc-chan-quoc-lo-
1a-3201050.html,http://phapluattp.vn/thoi-su/binh-thuan-bao-xi-tan-cong-nguoi-dan-than-troi-541636.html,
http://phapluattp.vn/thoi-su/dan-lai-tai-chiem-ql1a-tiep-tuc-phan-doi-bao-xi-546277.html (truy cập
18/06/2015).
30

Việc Công ty Toàn Thịnh Phát lấp sông Đồng Nai để làm khu đô thị kinh
doanh, kiếm lời đã vấp phải sự phản đối và bất bình của người dân ở khu vực. Việc
lấp sông có thể gây ra hậu quả lớn đó là làm suy giảm chất lượng nguồn nước, tăng
nguy cơ ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, tiêu thoát nước trong mùa mưa lũ, gây xói
lở bờ sông. Sông Đồng Nai là sông liên tỉnh, việc xây dựng hạ tầng cơ sở lớn ở lòng
sông không chỉ tác động đến đoạn sông qua tỉnh Đồng Nai mà còn tác động xấu đến
các môi trường và sức khỏe của các hệ sinh thái sông của toàn bộ lưu vực, ảnh
hưởng đến các địa phương khác cùng chia sẻ dòng sông. Với sự phản đối mạnh mẽ
của nhân dân thì Ngày 24/03, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã phát đi thông cáo,
trong đó khẳng định dự án cải tạo cảnh quan và phát triển đô thị ven sông Đồng Nai
không làm thay đổi đáng kể về chế độ thủy lực của dòng chảy đoạn sông, không
gây ảnh hưởng xấu đến sự thay đổi dòng chảy và tác động đến các đoạn bờ lân cận
và dự án lấp sông vẫn diễn ra nhộn nhịp và khẩn trương không có dấu hiệu dừng
lại26.
Qua hai vụ việc trên ta có thể thấy trước một sự việc đã gây ảnh hưởng và sẽ
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân thì việc phản đối là tất yếu. Có
ý kiến cho rằng cần phải lấy ý kiến của nhân dân trước khi tiến hành xây dựng nhà
máy nhiệt điện và trước khi tiến hành lấp sông. Ý kiến nhân dân không chỉ là đưa ra
câu hỏi để dân trả lời mà phải thông tin đầy đủ để dân biết, có giải trình để dân bàn,
có lộ trình thực hiện để dân kiểm tra. Người dân chỉ đồng thuận, có câu trả lời sáng
suốt, đúng đắn khi họ được cung cấp đầy đủ thông tin. Quyền được thông tin là
quyền của công dân được quy định rõ ràng trong Hiến pháp và được luật pháp bảo
vệ.
Đối với hai vụ việc trên, nếu vụ việc thứ nhất chỉ sử dụng lấy ý kiến nhân dân
thì không đảm bảo ý chí của nhân dân là quyết định cuối cùng, không có sự ràng
buộc chính quyền địa phương sẽ thực hiện theo ý chí của nhân dân. Với việc lấp
sông như trường hợp thứ hai nếu lấy ý kiến nhân dân cũng chưa hẳn là cách giải
quyết tốt nhất, như phần tóm tắt vụ việc phía trên thì dù có rất nhiều ý kiến phản đối
nhưng chính quyền địa phương ở Đồng Nai vẫn để công ty Toàn Thịnh Phát gấp rút
tiến hành lấp sông, ta có thể thấy ý kiến đóng góp của nhân dân hoàn toàn không có
sự ràng buộc đối với cơ quan chức năng, ý chí nguyện vọng của nhân dân là ý chí
cao nhất lại không được thực hiện. Trong hai trường hợp này đặt ra nên tổ chức
trưng cầu ý dân ở cấp huyện và vùng lãnh thổ là cách thức tốt nhất đề giải quyết vấn
đề:

26
Tổng hợp từ các bài viết trên trang http://www.thanhnien.com.vn/search/bOG6pXAgc8O0bmc=/lap-
song.html (truy cập 19/06/2015).
31

Một là, vấn đề liên quan đến nhà máy nhiệt điện chỉ xảy ra trong phạm vi một
huyện nên tổ chức trưng cầu ở phạm vi cấp huyện và đối với vụ lấp sông tất cả
những tỉnh có liên quan đến dòng chảy có quyền bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý
dân về cùng vấn đề là hợp lý.
Hai là, có giá trị bắt buộc với cơ quan nhà nước tránh hành động tùy tiện, gây
ra sự phẫn nộ, bức xúc dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đảm bảo được ý chí.
nguyện vọng của nhân dân.
2.2.2 Vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân
Vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân cũng có liên quan mật thiết đối với phạm
vi trưng cầu ý dân, phải xác định được phạm vi trưng cầu trước mới có thể xác định
được vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân được đầy đủ và chính xác. Trưng cầu ý dân là
một chế định mang tính dân chủ cao, là một phương thức để người dân trực tiếp thể
hiện ý chí và quyền lực của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước trong
từng thời điểm cụ thể. Việc đưa vấn đề nào ra trưng cầu ý dân là đặc biệt quan
trọng, ảnh hưởng đến quyền dân chủ trực tiếp của người dân khi tham gia công việc
của nhà nước.
Khi xem xét vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân thì đây là phần có nhiều khác
biệt giữa các quốc gia nhất. Ở một số nước trên thế giới pháp luật chỉ quy định liệt
kê những vấn đề không được đưa ra trưng cầu ý dân, những vấn đề còn lại thì được
tự do đưa ra trưng cầu nếu có đủ điều kiện. Còn ở các quốc gia quy định những vấn
đề được trưng cầu ý dân ở phạm vi toàn quốc thì ta có thể thấy đa số các nước đều
quy định đối tượng là việc ban hành, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, như ở Thụy Sĩ
Điều 140 Hiến pháp Thụy Sĩ cũng quy định về trưng cầu ý dân bắt buộc đó là vấn
đề sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Hiến pháp cộng hòa Pháp quy định tổ chức trưng
cầu ý dân về dự thảo sửa đổi bổ sung Hiến pháp. Ở Liên Bang Nga việc ban hành
Hiến pháp mới buộc phải thông qua trưng cầu ý dân. Ở Australia quy định trưng cầu
ý dân là điều kiện tiên quyết để có thể sửa đổi Hiến pháp,…. Ngoài quyết định
trưng cầu dân ý vấn đề về Hiến pháp thì các quốc gia cũng quy định thêm một số
vấn đề khác tùy theo từng quốc gia. Hoặc có những quốc gia chỉ quy định chung
chung như Ba Lan “Cuộc trưng cầu ý dân cấp quốc gia có thể được tổ chức về
những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với Quốc gia”27. Một số quốc gia cho phép
trưng cầu ý dân ở phạm vi địa phương thì quy định những vấn đề trưng cầu ý dân
như “Hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ cũng yêu cầu các tu chính án Hiến pháp

27
Khoản 1 Điều 125 Hiến pháp Ba Lan 1997.
32

cần phải thông qua trưng cầu dân ý”28,“Cộng hòa liên bang Đức thì vấn đề được
đưa ra trưng cầu ý dân là những việc điều chỉnh địa giới hành chính của các bang
trong Liên bang;”29, pháp luật Nhật Bản quy định các vấn đề như xây dựng nhà
máy hạt nhân, xây dựng đập ngăn nước và quản lý nhiên liệu hạt nhân,…. và
thường các vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân có liên quan ít nhiều đến môi trường.
Nhìn chung trên thế giới có bốn nhóm phương pháp để quy định vấn đề trưng
cầu ý dân:
Phương pháp quy định bắt buộc là khi gặp những trường hợp nhất định được
quy định trong Hiến pháp hoặc pháp luật của quốc gia thì bắt buộc phải đưa vấn đề
ra trưng cầu ý dân. Đặc điểm của các vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân bắt buộc
thường là các vấn đề quan trọng của quốc gia như sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, kí
kết gia nhập điều ước quốc tế, vấn đề an ninh quốc gia,….;
Phương pháp quy định tùy nghi là phương pháp quy định cuộc trưng cầu ý dân
sẽ diễn ra phụ thuộc vào các đề xuất của chủ thể có thẩm quyền như tổng thống, thủ
tướng, các thành viên Nghị viện hoặc cả công dân,…;
Phương pháp quy định chung (phương pháp quy định khái quát): là trường
hợp quy định một cách chung nhất những vấn đề quan trọng được đưa ra trưng cầu
ý dân;
Phương pháp quy định liệt kê là phương pháp xác định rõ một danh mục các
vấn đề có thể là quan trọng được đưa ra trưng cầu ý dân.
Ở nước ta Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc Hội cũng chỉ quy định thẩm
quyền Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân mà không quy định cụ thể việc nào phải
trưng cầu, vì đây là cơ sở để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước nên cần phải
quy định rõ ràng các vấn đề trưng cầu ý dân. Có bốn phương án để xây dựng vấn đề
được đưa ra trưng cầu ý dân ở nước ta hiện nay:
Phƣơng án khái quát: Quy định một cách khái quát, có tính nguyên tắc các
vấn đề được trưng cầu ý dân.
Với phương án này chỉ quy định khái quát (đưa ra một số trường hợp một cách
khái quát, chung nhất) những vấn đề quan trọng của đất nước, ví dụ như những vấn
đề về Hiến pháp, an ninh quốc gia, quyền con người hoặc kí kết gia nhập hay chấm

28
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội,tr.16.
29
Trương Hồng Quang (2012), “Vấn đề trưng cầu dân ý trong bối cảnh sửa đổi Hiến pháp 1992”, Luật học
(8), tr.29.
33

dứt hiệu lực điều ước quốc tế quan trọng,…. Theo các nhà nghiên cứu thì đây là
phương án phù hợp với tình hình kinh tế chính trị xã hội đầy biến động như hiện
nay. Quốc hội có thể dựa vào quy định của pháp luật quyết định và trong một tình
hình cụ thể đưa vấn đề nào đó ra trưng cầu ý dân mà không bị ràng buộc trong một
khuôn khổ nhất định gây khó khăn cản trở. Nhưng phương án này một số đại biểu
cho rằng quy định chung chung rất khó thực hiện. Nếu quy định như vậy thì không
khác gì so với quy định của Hiến pháp về trưng cầu ý dân, có thể Quốc hội lại lựa
chọn quá nhiều vấn đề để quyết định trưng cầu ý dân và hậu quả là “có thể làm
giảm hiệu quả hoạt động của chính thể nhà nước và sự ổn định chính trị”30 đôi khi
không cần thiết gây tốn kém lãng phí hoặc có thể quyết định chẳng đưa vấn đề nào
ra trưng cầu ý dân. Vì vậy, Luật Trưng cầu ý dân sẽ khó có thể đi vào đời sống
chính trị của đất nước.
Phƣơng án liệt kê: quy định liệt kê cụ thể từng loại nhóm vấn đề có thể được
đưa ra trưng cầu ý dân. Với phương án này luật sẽ quy định rõ ràng từng vấn đề đưa
ra trưng cầu ý dân (ví dụ như sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, thông qua Hiến pháp
mới,….) với phương án này “bắt buộc tổ chức trưng cầu ý dân khi phát sinh vấn đề
theo quy định của luật phải trưng cầu ý dân”31 mà không cần Quốc hội biểu quyết
quyết định, không có sự tùy nghi lựa chọn của Quốc hội trong quá trình quyết định.
Việc quy định này sẽ thuận lợi hơn cho các chủ thể có thẩm quyền, chỉ cần căn cứ
vào quy định trong luật mà thực hiện theo không cần phải nghiên cứu, xem xét vấn
đề, tổ chức biểu quyết,… Tuy nhiên, cũng có khuyết điểm là trong những điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội thay đổi thì có thể phát sinh thêm những vấn đề mới quan
trọng trong khi đó quy định của luật lại cứng nhắc chỉ quy định những vấn đề nhất
định, dẫn đến không thể đưa ra trưng cầu ý dân những vấn đề cấp thiết hoặc đối với
một số quy định trong giai đoạn khác thì không còn quan trọng thì theo phương án
này vẫn buộc phải đưa ra trưng cầu ý dân dẫn đến tốn kém, lãng phí.
Phƣơng án kết hợp: phương án kết hợp hai phương án đầu tiên đó là vừa
mang tính mở vừa mang tính liệt kê. Phương án này xác định một số vấn đề quan
trọng quy định cụ thể rõ ràng những vấn đề cần đưa ra trưng cầu ý dân, bắt buộc
phải tổ chức trưng cầu ý dân khi rơi vào trường hợp này, dễ dàng căn cứ vào mà
thực hiện theo đúng luật mà không phụ thuộc vào sự tùy nghi của Quốc hội và thêm
một ưu điểm nữa là trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thay đổi thì có thể phát
sinh thêm những vấn đề mới thì Quốc hội có thể dễ dàng biểu quyết, lựa chọn vấn

30
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội,tr.211.
31
Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật trưng cầu ý dân, Hà Nội, tr.08.
34

đề mới để trưng cầu ý dân mà không bị ràng buộc bởi những vấn đề đã được quy
định rõ trong luật và không phải tiến hành sửa đổi, bổ sung luật gây phức tạp, tốn
kém.
Phƣơng án loại trừ: phương án này quy định những vấn đề không đưa ra
trưng cầu ý dân. Việc quy định như phương án này có thể hiểu là ngoại trừ những
vấn đề không đưa ra trưng cầu ý dân thì có thể đưa bất kì một vấn đề nào ra trưng
cầu ý dân nếu có đủ điều kiện. Với những người ủng hộ phương án này cho rằng
bản chất của trưng cầu ý dân là khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Do đó, không nên giới hạn những việc nhân dân được tham gia trưng cầu ý dân.
Bên cạnh đó thì quy định thêm những vấn đề không được đưa ra trưng cầu ý dân để
có thể kiểm soát được tốt hơn những việc đưa ra Quốc hội xem xét đó có thể là
những vấn đề có thể gây mất an ninh, trật tự xã hội hoặc những vấn đề không cần
đưa ra trưng cầu ý dân mà cũng biết được kết quả,….
Liên hệ với pháp luật một số nước như Liên Bang Nga tại Điều 6 Luật Trưng
cầu ý dân năm 2004 quy định khá cụ thể những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân,
trường hợp bắt buộc phải đưa ra trưng cầu ý dân là dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật theo điều ước quốc tế mà Liên bang Nga đã ký kết và quy định cho phép trưng
cầu ý dân những vấn đề khác nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật32. Ở Hàn
Quốc cũng có quy định trường hợp bắt buộc phải tổ chức trưng cầu ý dân là sửa đổi
Hiến pháp và những trường hợp có thể tùy nghi trưng cầu như Điều 72 Hiến pháp
Hàn Quốc quy định “Tổng thống có thể đưa các chính sách quan trọng liên quan
đến ngoại giao, quốc phòng, thống nhất đất nước và các vấn đề khác liên quan đến
vận mệnh quốc gia ra trưng cầu ý dân ở cấp quốc gia nếu xét thấy cần thiết”,…. Ở
nước ta khi tiến hành khảo sát thì “có tới 71,4% luật gia và 65,6% người dân được

32
Điều 6.Những vấn đề trưng cầu ý dân và trình tự đề xuất những vấn đề đó ra trưng cầu ý dân
1. Hội nghị lập hiến có quyền đưa Dự thảo Hiến pháp mới của Liên bang Nga ra để toàn dân biểu
quyết. Trình tự thông qua tại Hội nghị lập hiến về vấn đề này cũng như trình tự đưa ra để toàn dân biểu quyết
đối với Dự thảo Hiến pháp mới của Liên bang Nga được quy định trong một đạo luật Liên bang được thông
qua theo quy định tại Điều 135 Hiến pháp Liên bang Nga.
2. Bắt buộc phải đưa ra trưng cầu ý dân dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo điều ước quốc tế
mà Liên bang Nga đã ký kết. Việc đưa ra trưng cầu ý dân dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hay vấn đề
nào đó ra trưng cầu ý dân thì việc chuẩn bị và tiến hành trưng cầu ý dân phải tuân thủ những quy định của
Luật trưng cầu ý dân Liên bang Nga và những quy định của điều ước quốc tế mà Liên bang Nga ký kết.
3. Những vấn đề có ý nghĩa quan trọng về mặt nhà nước không được quy định trong Khoản 1 và 2
của Điều này khi đưa ra trưng cầu ý dân phải tuân thủ những quy định của Luật trưng cầu ý dân Liên bang
Nga.
4. Có thể đưa ra trưng cầu ý dân những vấn đề mà Hiến pháp Liên bang Nga quy định thuộc thẩm quyền
của Liên bang cũng như những vấn đề thuộc thẩm quyền của Liên bang đồng thời thuộc thẩm quyền của các chủ thể
của Liên bang.........
35

hỏi mong muốn Luật trưng cầu ý dân cần quy định cụ thể những vấn đề cần đưa ra
trưng cầu ý dân”33.
Bảng khảo sát ý kiến của Hội luật gia về vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân:

Hình 3. Đối tượng/vấn đề trưng cầu ý dân trên phạm vi toàn quốc

Hiến pháp
Xây dựng, bảo vệ tổ quốc, quyền, nghĩa vụ công dân
Dự án, công trình kinh tế xã hội đặc biệt quan trọng
Điều ước quốc tế
Vấn đề khác do QH quyết định

68.3
65.1
60.3 58.3 56.2
49.2 51.1
46.0

30.2 30.2

Luật gia Người dân

Dự thảo lần thứ năm Luật Trưng cầu ý dân đưa ra hai phương án quy định
những vấn đề Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân như sau:
Phương án 1: là phương án khái quát “Những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết
định trưng cầu ý dân là những vấn đề quan trọng về Hiến pháp và những vấn đề
quan trọng khác thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội”.
Phương án 2: là phương án kết hợp (từ khoản 1 đến khoản 3 là các quy định
liệt kê, khoản 4 quy định khái quát) “Những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định
trưng cầu ý dân gồm:
1. Những vấn đề về sửa đổi Hiến pháp;
2. Những chính sách quan trọng có liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc
gia, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
3. Quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế đặc biệt quan
trọng;

33
Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo khảo sát về trưng cầu ý dân, Hà Nội, tr.19.
36

4. Những vấn đề quan trọng khác thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội”.
Trong cả hai phương án này theo tác giả nên xem xét lại cụm từ “thuộc thẩm
quyền quyết định của Quốc hội”. Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp đưa
những vấn đề quan trọng của đất nước cho nhân dân tham gia biểu quyết (trừ những
trường hợp không được ra trưng cầu ý dân) không phải chỉ là những vấn đề thuộc
thẩm quyền quyết định của Quốc hội (Điều 70 Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội
có mười lăm nhiệm vụ, quyền hạn). Hiến pháp 1946 cũng quy định rằng “Những
việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” chứ không
phải là những vấn đề thuộc thẩm quyền của Nghị viện sẽ đưa ra nhân dân phúc
quyết. Vì vậy, nên quy định lại trong dự thảo là “những vấn đề quan trọng khác
được Quốc hội quyết định đưa ra trưng cầu ý dân” để phù hợp hơn.
Đối với phƣơng án thứ hai của dự thảo luật lần thứ năm có một số vấn đề
chưa rõ ràng cần làm rõ như sau:
Thứ nhất, dự thảo luật trưng cầu ý dân đặt tên Điều 6 là “những vấn đề đề
nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân” để gọi tên điều luật. Từ “quyết định”
hiểu theo ngữ cảnh này đó là việc Quốc hội sẽ xem xét, lựa chọn nên đưa một vấn
đề ra trưng cầu ý dân hay không. Đối với phương án một của dự thảo luật thì khi sử
dụng tên điều luật như trên vẫn hợp lý bởi vì bản chất phương án một là tất cả các
vấn đề đều do Quốc hội biểu quyết quyết định đưa vấn đề ra trưng cầu ý dân.
Nhưng nếu ở phương án hai thì từ khoản 1 đến khoản 3 đây là những vấn đề bắt
buộc khi rơi vào những trường hợp này thì phải trưng cầu ý dân, cho nên trường
hợp này Quốc hội sẽ không tổ chức biểu quyết quyết định mà đưa ra nghị quyết để
trưng cầu ý dân ngay. Vì vậy, khi sử dụng tên điều luật là “Những vấn đề đề nghị
Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân” sẽ không phù hợp, nên nếu lựa chọn phương
án hai thì nên sửa lại tên điều luật là “Những vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân”.
Thứ hai, khoản 1 quy định “những vấn đề” sửa đổi Hiến pháp, khoản 2,
khoản 3 đều quy định từ “quan trọng” nhưng những vấn đề gì và quan trọng như
thế nào thì không quy định rõ ràng. Việc quy định như vậy chưa phù hợp với
phương án liệt kê vì theo phương án liệt kê thì luật phải quy định phải cụ thể, rõ
ràng từng phương án để cơ quan nhà nước có thẩm quyền gặp phải trường hợp theo
quy định là áp dụng ngay. Có ý kiến cho rằng việc quy định chi tiết rất khó khăn bởi
vì tùy từng thời điểm các vấn đề quan trọng sẽ khác nhau. Nhưng theo ý kiến tác giả
thì các vấn đề liên quan đến Hiến pháp như sửa đổi, bổ sung, thông qua Hiến pháp
mới, các vấn đề gia nhập, chấm dứt Điều ước quốc tế. Những vấn đề này luôn luôn
lúc nào cũng quan trọng và hoàn toàn có thể xác định được cho dù trong bất kì thời
37

điểm tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ra sao. Khi quy định không rõ ràng như dự
thảo thì việc liệt kê các vấn đề ở ba khoản này không có ý nghĩa và không khác gì
phương án khái quát, Quốc hội cũng sẽ biểu quyết để lựa chọn vấn đề nào “quan
trọng” để đưa ra trưng cầu ý dân. Từ những lý do trên phải quy định thật cụ thể, rõ
ràng các vấn đề này, để khi gặp phải Quốc hội sẽ đưa ra nghị quyết tiến hành trưng
cầu ý dân mà không cần phải nghiên cứu, xem xét.
Thứ ba, tại khoản 1 chỉ quy định những vấn đề về sửa đổi Hiến pháp. Hiến
pháp là đạo luật rất quan trọng đối với mọi quốc gia, xung quanh bản Hiến pháp có
nhiều vấn đề rất quan trọng liên quan đến bản Hiến pháp như sửa đổi, bổ sung,
thông qua một bản Hiến pháp mới, theo quy định tại khoản 4 Điều 120 Hiến pháp
2013 thì việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc Hội quyết định. Vì vậy, việc
quy định chỉ có sửa đổi Hiến pháp là vẫn còn thiếu sót.
Nếu chọn phương án nào thì cũng đều có những ưu, nhược điểm nhất định
không thể tránh khỏi. Nhưng ta có thể thấy phương án hai của dự thảo là phương án
ưu thế nhất trong hai phương án. Như đã phân tích phần trên, đây là phương án kết
hợp có thể tổng hợp được những ưu điểm của phương án khái quát và liệt kê như đã
nêu phần trên. Đối với phương án một như dự thảo luật thì sẽ có hạn chế rất lớn đó
là quyền dân chủ trực tiếp của công dân sẽ phụ thuộc tất cả vào ý chí của chủ thể có
thẩm quyền đề nghị và Quốc hội và như vậy cũng sẽ không còn là quyền dân chủ
đúng nghĩa. Nên theo tác giả nên lựa chọn phương án thứ hai đây là phương án phù
hợp với nước ta nhất.
Tuy nhiên, theo như Hiến pháp 2013 quy định tại khoản 15 Điều 70 thì Quốc
hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân và tại khoản 4 Điều 120
việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định. Vậy ta có thể hiểu Hiến
pháp trao quyền cho Quốc hội quyết định có đưa ra trưng cầu ý dân một vấn đề nào
đó hay không. Do đó, phần liệt kê trong phương án thứ hai của dự thảo Luật Trưng
cầu ý dân mang tính bắt buộc Quốc hội đưa ra vấn đề ra trưng cầu ý dân lại không
phù hợp với Hiến pháp mới. Phương án 2 của dự thảo tuy có khuyết điểm là không
phù hợp với Hiến pháp nhưng phương án này là ưu thế nhất trong các phương án.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nhưng vẫn là cơ quan được nhân
dân ủy quyền, đại diện cho tất cả các tầng lớp nhân dân. Mục đích của Quốc hội suy
cho cùng là phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của
nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. PGS.TS Vũ Văn
Nhiêm có nói: “không ai phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân bằng chính
nhân dân”. Vì vậy, trong một số trường hợp phải do người chủ thực sự của đất nước
38

tự quyết định. Theo ý kiến tác giả nên sửa đổi Hiến pháp quy định lại quyền hạn của
Quốc hội trong trưng cầu ý dân là “Quyết định trưng cầu ý dân trong một số trường
hợp nhất định” chứ không là “Quyết định trưng cầu ý dân” để đảm bảo trưng cầu ý
dân được thực hiện và có thể thực thi quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Nếu
không sửa đổi Hiến pháp mà thực hiện theo phương án một đưa ra thì có thể nước ta
rơi vào tình trạng “Có luật nhưng không biết khi nào mới sử dụng”34 và nhân dân có
thể sẽ không sử dụng được quyền công dân cơ bản của mình.
Ngoài ra, nên xem xét quy định những vấn đề không đưa ra trưng cầu ý dân vì
cả hai phương án trong dự luật quy định vấn đề được trưng cầu do Quốc hội quyết
định nên cần có một “vùng cấm” để tránh Quốc hội quyết định tràn lan các vấn đề
không cần thiết và đôi khi gây ảnh hưởng đến quốc gia.
Quy định của các quốc gia về vấn đề không được trưng cầu: Điều 6 luật trưng
cầu dân ý năm 2004 ở Liên Bang Nga quy định không được trưng cầu ý dân những
vấn đề sau: Vấn đề thay đổi quy chế của chủ thể (các chủ thể) Liên bang Nga được
quy định trong Hiến pháp Liên bang Nga; Về chấm dứt trước nhiệm kỳ hay kéo dài
nhiệm kỳ của Tổng thống Liên bang Nga, của Đuma Quốc gia Liên bang Nga cũng
như những vấn đề về bầu cử Tổng thống Liên bang Nga trước thời hạn, bầu cử các
nghị sĩ Đuma Quốc gia Liên bang Nga trước thời hạn hoặc chuyển dời ngày bầu cử
các chức vụ này;.... Pháp luật Hungary quy định một số vấn đề không đưa ra trưng
cầu ý dân như: Nội dung các luật về ngân sách, về thực thi ngân sách, về các loại
thuế trung ương và các loại thuế trước bạ, về các loại thuế xuất nhập khẩu và quy
định về các loại thuế địa phương, việc giải tán Quốc hội, các chương trình của
Chính phủ, tuyên bố tình trạng chiến tranh khẩn cấp,….. “Pháp luật Italia quy định
không tổ chức trưng cầu ý dân vấn đề thuộc lĩnh vực thuế, ngân sách, phê chuẩn
điều ước quốc tế. Pháp luật của Đan Mạch quy định không được tổ chức trưng cầu
ý dân vấn đề nhập quốc tịch, địa vị pháp lý của nhà vua”35.
Có thể thấy các quốc gia quy định những vấn đề không đưa ra trưng cầu dân ý
là những vấn đề phức tạp, mang tính chủ trương, chính sách, đường lối của một
quốc gia hoặc những vấn đề đòi hỏi có tính chuyên môn cao mà người dân khó nắm
bắt được, việc quy định này có thể đảm bảo được kết quả trưng cầu phản ánh đúng
ý chí nhân dân (nhân dân hiểu rõ vấn đề mới có thể lựa chọn quyết định phản ánh

34
Đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm phát biểu tại buổi họp về dự án luật trưng cầu ý dân ngày 03/06/2015,
http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150604/khong-quy-dinh-cu-the-kho-trung-cau-y-dan/756543.html
(truy cập 23/06/2013).
35
Trương Hồng Quang (2012), “Vấn đề trưng cầu ý dân trong bối cảnh sửa đổi Hiến pháp 1992”, Luật học
(8), tr.29.
39

chính xác ý chí của bản thân) và có thể ngăn ngừa được các vấn đề anh ninh, trật tự
xung quanh việc trưng cầu ý dân.
Hiện nay dự thảo Luật Trưng cầu ý dân lần năm đã có bổ sung quy định này
tại Điều 8 có thể thấy trước tiên việc bổ sung quy định này là hợp lý. Tuy nhiên, cần
nên bổ sung thêm một số vấn đề như: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chế độ chính trị, việc nên quy định không đưa vấn đề này ra trưng cầu ý dân
bởi vì vai trò lãnh đạo của Đảng rất lớn trong sự nghiệp cách mạng nước ta, là nhân
tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các vấn đề độc lập,
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không nên đưa ra trưng cầu ý dân. Vì vấn
đề này đã được xác định rõ ràng ở ngay tại Điều 1 Hiến pháp 2013, là vấn đề thiêng
liêng đối với cả dân tộc Việt Nam và bất khả xâm phạm nên tuyệt đối không biểu
quyết trưng cầu ý dân với các vấn đề này.
Với đề nghị nên bổ sung trưng cầu ý dân ở vùng lãnh thổ, địa phương, ta có
thể xem xét trưng cầu ý dân một số vấn đề quan trọng của vùng hay địa phương
như: thay đổi địa giới hành chính, trưng cầu ý dân về các vấn đề quy hoạch, xây
dựng công trình có khả năng tác động đến môi trường, cảnh quan, di tích,…những
vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội,….Khi Hội luật gia khảo sát các vấn
đề nên trưng cầu ý dân ở địa phương thì kết quả như sau:

Hình 4. Đối tượng/vấn đề trưng cầu ý dân trong phạm vi địa phương
Địa giới Công trình kinh tế-kỹ thuật đặc biệt Vấn đề hệ trọng khác

76.20%
72.30% 69.80%71.90%
66.70%

52.10%

Luật gia Người dân

2.2.3 Thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân


Đề nghị trưng cầu ý dân có thể hiểu là quyền của các chủ thể được luật quy
định như tổ chức, cá nhân đề xuất những vấn đề quan trọng ra cơ quan có thẩm
40

quyền quyết định trưng cầu ý dân. Một cuộc trưng cầu ý dân muốn tổ chức trên thực
tế phải có những điều kiện nhất định, ngoại trừ trường hợp trưng cầu ý dân bắt buộc
thì bước đề nghị trưng cầu ý dân là bước đầu tiên và quan trọng trong các bước. Để
quyết định trưng cầu và hình thành một cuộc trưng cầu hay không thì đòi hỏi phải
có người đặt vấn đề trưng cầu ý dân.
Ngoài “đề nghị trưng cầu ý dân” thì còn có thuật ngữ “sáng kiến trưng cầu ý
dân”. Một số tài liệu sử dụng hai thuật ngữ này như nhau nhưng theo cuốn Sổ tay
dân chủ trực tiếp thì cho rằng có sự khác nhau giữa hai thuật ngữ này36. Hai thuật
ngữ này đều nói về chủ thể có quyền đề xuất, yêu cầu đưa một vấn đề ra trưng cầu ý
dân nhưng sáng kiến trưng cầu ý dân là cho phép cử tri bỏ phiếu về một vấn đề
được đề xuất bởi công dân, không phải là Chính phủ, cơ quan lập pháp hoặc người
có thẩm quyền chính trị khác như đề nghị.
Ở các quốc gia trên thế giới thì tùy theo từng đặc điểm của mình mà mỗi nước
đều có những quy định khác nhau về chủ thể đưa ra đề nghị trưng cầu ý dân và sáng
kiến trưng cầu ý dân. Ở Australia quyền đề nghị thuộc độc quyền của Nghị viện liên
bang, “tại Đan Mạch một phần ba số thành viên của Folketting (Quốc hội) có thể
yêu cầu một cuộc trưng cầu dân ý về một vấn đề , thậm chí ngay cả khi nó đã được
đa số đại biểu Quốc hội thông qua”37,“Ở Hungari, sáng kiến trưng cầu ý dân được
quy định cho các chủ thể như: Chủ tịch nước, Hội đồng Bộ trưởng, Nghị sĩ (nếu
như có từ 50 chữ kí đề nghị) và cử tri nếu thu thập được ít nhất 50.000 chữ
kí”38,…Ở cấp vùng lãnh thổ, địa phương thì các nhà chức trách có chức năng đề
nghị như: Nghị viện (Hội đồng liên bang tỉnh), hoặc là thống đốc bang, tỉnh trưởng,
thị trưởng,…
Theo dự thảo Luật Trưng cầu ý dân của Việt Nam thì đưa ra hai phương án để
lựa chọn:
Phương án 1: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị trưng cầu ý dân.

36
“Với „sáng kiến của công dân‟ (còn được gọi là “sáng kiến nhân dân”), một số công dân trình bày một đề
xuất chính trị (ví dụ như dự thảo luật) và tìm kiếm sự hỗ trợ của công chúng bằng cách giành được một số
lượng chữ ký theo yêu cầu, theo đó mở ra một cuộc bỏ phiếu phổ thông (trưng cầu dân ý) về vấn đề được nêu
ra”.
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.67.
37
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, tr.16.
38
Trương Thị Hồng Hà (2006), “Thủ tục trưng cầu ý dân ở một số nước”, Nghiên cứu lập pháp,(2), tr.57.
41

Phương án 2: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị trưng cầu ý
dân.
Thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân có thể xuất phát từ các cơ quan khác
nhau. Việc quy định trong dự thảo luật các chủ thể như Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, đại biểu Quốc hội như hai phương án của dự luật là đã
khá hợp lý. Các chủ thể này đều có vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước có thể
nắm bắt, hiểu rõ được vấn đề quan trọng với quốc gia để đề nghị Quốc hội quyết
định trưng cầu.
Theo quy định của dự thảo thì ta thấy ở hai phương án khác nhau một điểm đó
là quy định thêm Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam và
Thủ tướng Chính phủ. Hiến pháp 2013 quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham
gia xây dựng Đảng, nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Vì vậy, đa số ý kiến ủng hộ phương án có thêm Đoàn chủ tịch Ủy
ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, “việc quy định Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương
mặt trận tổ quốc Việt Nam sẽ có thêm một kênh thông tin quan trọng để quốc hội
xem xét, quyết định trưng cầu ý dân, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho Mặt trận tổ
quốc Việt Nam phát huy vai trò của mình”39. Quy định thêm Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề nghị trưng cầu ý dân đây sẽ là một chủ thể
khác biệt so với pháp luật các quốc gia khác nhưng phù hợp với điều kiện Việt
Nam. Đối với những đề xuất yêu cầu thêm Thủ tướng Chính phủ có quyền đề nghị
trưng cầu ý dân thì theo tác giả không nên vì hai lý do sau:
Thứ nhất, Thủ tướng chính phủ cũng là một thành viên của Chính phủ là
người đứng đầu Chính phủ. Việc quy định thêm Thủ tướng Chính phủ có quyền đề
nghị thì chẳng khác nào ta đặt Thủ tướng Chính phủ ngang bằng với cả tập thể
Chính phủ. Ví dụ trong trường hợp tập thể Chính phủ biểu quyết có nên đưa một
vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân hay không? Kết quả là tập thể
đưa ra là không đề nghị, các thành viên Chính phủ đều bỏ phiếu không đồng ý chỉ
duy nhất Thủ tướng đồng ý đề nghị. Nếu cho Thủ tướng có quyền đề nghị thì trong

39
Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của Chính phủ và các bộ, ngành về dự án
Luật trưng cầu ý dân, Hà Nội, tr.03.
42

trường hợp này Thủ tướng vẫn có thể tự mình đề nghị trưng cầu ý dân. Do đó, vai
trò của cả tập thể Chính phủ trong trường hợp này là vô nghĩa, việc biểu quyết của
các thành viên Chính phủ chỉ là hình thức, Thủ tướng mới có quyền thực sự trong
việc quyết định.
Thứ hai, Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ phải thực hiện khối lượng
công việc khá nhiều nếu giao quá nhiều việc cho Thủ tướng có thể rất khó để đưa ra
những quyết định đúng đắn, phù hợp. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp của cả tập thể
Chính phủ, đóng góp ý kiến bàn luận thì sẽ tốt hơn.
Hiện nay, có vấn đề là Luật Tổ chức quốc hội 2014 chỉ quy định Quốc hội có
quyền quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc những vấn đề quan trọng khác
theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và một
phần ba (1/3) tổng số Đại biểu quốc hội. Vì vậy, ta có thể thấy nếu chọn phương án
thêm Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc thì hai quy định này mâu thuẫn nhau. Tuy
nhiên, theo báo cáo giải trình thì Chính phủ, Bộ nội vụ, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Mặt trận tổ quốc Việt Nam cho rằng “việc Luật Tổ chức Quốc hội (khoản 1
Điều 19) chỉ quy định 4 chủ thể (như phương án 1) không cản trở Luật Trưng cầu ý
dân bổ sung thêm chủ thể vì luật này là luật chuyên ngành trong lĩnh vực trưng cầu
ý dân”40. Do đó, theo ý kiến tác giả nên lựa chọn phương án thứ hai nhưng không
quy định thêm Thủ tướng Chính phủ.
Vấn đề về quy định ít nhất một phần ba (>=1/3) tổng số đại biểu Quốc hội có
quyền đề nghị trưng cầu ý dân theo như dự thảo luật có thể thấy chưa rõ ràng. Khi
xem xét đến đây thì ta không thể biết được bằng cách nào một phần ba Đại biểu
Quốc hội trở lên đề nghị trưng cầu ý dân, có thể là chỉ cần một đại biểu Quốc hội
khởi xướng và số đại biểu Quốc hội còn lại kí tên ủng hộ hay ít nhất một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội đều nộp đơn kiến nghị trưng cầu ý dân? Nếu quy định
đơn giản như dự thảo luật thì sẽ khó có một đề nghị nào từ ít nhất một phần ba đại
biểu Quốc hội vì không thể căn cứ vào một trình tự, thủ tục nào để thực hiện quyền
đề nghị của mình. Do đó, nên chi tiết, rõ ràng cách thức để đại biểu Quốc hội thực
hiện quyền của mình và theo ý kiến tác giả nên phát phiếu hỏi ở các kì họp Quốc
hội xem có yêu cầu kiến nghị trưng cầu ý dân nào hay không và nếu từ một phần ba
phiếu kiến nghị trở lên thì Quốc hội sẽ tổ chức xem xét đề nghị và quyết định.
Trong vấn đề đề nghị trưng cầu ý dân thì dự thảo lần năm có sự bổ sung so với
dự thảo lần bốn ở điểm quy định thêm hình thức là thẩm tra của Hội đồng dân tộc
40
Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của Chính phủ và các bộ, ngành về dự án
Luật trưng cầu ý dân, Hà Nội, tr.03.
43

và các Ủy ban của Quốc hội đối với đề nghị trưng cầu ý dân. Thẩm tra là xem xét,
đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự,… và cơ
quan thẩm tra sẽ có ý kiến đánh giá, thể hiện quan điểm về vấn đề. Nếu lựa chọn
phương án thứ hai trong Điều 6 dự thảo Luật Trưng cầu ý dân thì các khoản từ một
đến ba sẽ phát sinh trưng cầu ý dân ngay cho dù có đề nghị hay không. Vì vậy,
trong trường hợp này không cần thẩm tra. Cả hai phương án dự thảo luật đưa ra tại
Điều 6 tác giả có đề nghị là chỉnh sửa thành “những vấn đề quan trọng khác mà
Quốc hội quyết định” với quy định này thì Quốc hội là cơ quan quyết định có tổ
chức trưng cầu ý dân trên thực tế hay không theo đề nghị của chủ thể có thẩm
quyền. Do đó, có thể hiểu trưng cầu ý dân được Quốc hội trực tiếp quyết định thông
qua đề nghị của các chủ thể mà không cần phải có cơ quan xem xét thẩm tra. Bên
cạnh đó, khi đưa vấn đề để Quốc hội xem xét, quyết định thì chủ thể đề nghị trưng
cầu ý dân sẽ trình bày những lý do, giải trình về những vấn đề có liên quan trước
Quốc hội. Vì vậy, với những lý do nêu trên thì không nên quy định thêm bước thẩm
tra trước khi trình Quốc hội quyết định.
Ngoài những chủ thể là chủ thể có thẩm quyền ở cơ quan nhà nước thì có một
số ý kiến cho rằng nên quy định cho nhân dân được quyền sáng kiến trưng cầu ý
dân nếu thu thập được một số lượng chữ kí nhất định vì đây công cụ có thể đóng
góp vào chất lượng của nền dân chủ nước ta. Có nhiều ý kiến xung quanh việc sáng
kiến công dân.
Với nhóm phản đối việc cho nhân dân có quyền sáng kiến thì đưa ra ý kiến là
Trưng cầu ý dân là vấn đề quan trọng và phức tạp nên giao cho một số chủ thể nhất
định có quyền đề nghị trưng cầu ý dân và nên giới hạn các chủ thể có thẩm quyền, ở
các quốc gia trên thế giới “sáng kiến đôi khi được đưa ra bởi những nhóm có thế
lực mà có hành động để thúc đẩy lợi ích kinh tế, hoặc lợi ích riêng xã hội của họ”,
“sáng kiến cũng có thể được sử dụng bởi những nhóm lợi ích đầy quyền lực nhằm
hạn chế quyền lực nhà nước theo những hướng có hại hoặc để mang lại những lợi
ích chính trị cụ thể cho nhóm”41 . Việc trao quyền đề nghị cho nhân dân đây là vấn
đề còn mới mẻ ở nước ta, trưng cầu ý dân đều liên quan đến vấn đề hệ trọng, nhân
dân đôi khi khó có thể nắm bắt được các vấn đề mà họ đề nghị trưng cầu, nên có thể
mang tính cảm tính, không cần thiết. Với quy định đại biểu Quốc hội có quyền đề
nghị trưng cầu ý dân vì là đại diện cho nhân dân nên khi mong muốn đề nghị một
vấn đề nào đó nhân dân có thể thông qua đại biểu Quốc hội đề nghị trưng cầu ý dân.

41
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.26.
44

Ý kiến ủng hộ cho rằng nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, trưng cầu ý
dân là hình thức thực hiện dân chủ đảm bảo quyền làm chủ của công dân, nên công
dân cũng phải có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân,
ở các nước dân chủ thì đa số đều có quy định về vấn đề sáng kiến trưng cầu ý dân ví
dụ như Ở Ucraina, Italia, New Zealand,… “trưng cầu ý dân thực sự có ý nghĩa khi
sáng quyền được bảo đảm một cách rộng rãi, một cách dân chủ như chính bản chất
của trưng cầu ý dân”42. Vì vậy, cần thiết quy định thêm sáng kiến trưng cầu ý dân
vào luật.
Theo ý kiến của tác giả thì nên quy định thêm quyền sáng kiến trưng cầu ý dân
cho công dân. Bởi vì, nhân dân là chủ thể chịu sự ảnh hưởng, tác động nhanh nhất,
có tính nhạy cảm với các vấn đề diễn ra trong xã hội nên sẽ có những đề nghị nhanh
chóng và chuẩn xác đối với các vấn đề quan trọng diễn ra trên đất nước. Đối với ý
kiến cho rằng thông qua các chủ thể đại diện bảo vệ quyền lợi ích của nhân dân sẽ
đề nghị theo yêu cầu nhân dân, tác giả cho rằng dù đại diện cho nhân dân nhưng ý
chí đó vẫn có thể sẽ bị sai lệch, méo mó qua lăng kính của những người đại diện.
Ngoài ra, khi thông qua luật nếu Quốc hội lựa chọn phương án thứ nhất quy định về
vấn đề trưng cầu ý dân (Điều 6) thì phương án này khá phụ thuộc ý chí của các chủ
thể đề nghị và Quốc hội, làm hạn chế dân chủ trong trưng cầu ý dân. Vì vậy, nên
quy định thêm quyền sáng kiến trưng cầu ý dân cho công dân để làm hạn chế tính lệ
thuộc các chủ thể có thẩm quyền, nâng cao tính dân chủ hơn. Giáo sư, tiến sĩ
Nguyễn Vân Nam chuyên gia về luật tổ chức nhà nước và công pháp quốc tế cho
rằng: “Đừng sợ dân đề nghị trưng cầu ý dân nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến chế độ
hay mất chế độ vì kết quả chỉ có hiệu lực khi không vi hiến”43.
Khi quy định thêm vấn đề sáng kiến trưng cầu ý dân đòi hỏi phải nghiên cứu
xem xét các vấn đề như: số lượng cụ thể chữ kí của cử tri để chứng minh sự ủng hộ
cho một đề xuất nhất định; thời gian thu thập chữ kí; các điều kiện về hình thức nội
dung để sáng kiến hợp pháp,… Ngoài ra, ở một số quốc gia còn đặt ra những quy
định khác cho thủ tục này ví dụ như đòi hỏi sự phân bố địa lý của chữ ký một cách
cụ thể cụ thể như Liên Bang Nga quy định ít nhất là hai triệu công dân Liên bang
Nga có quyền tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân với điều kiện trong số đó phải có
không quá 10% tổng số cử tri sống trên lãnh thổ của một nước cộng hòa tự trị hoặc
không quá 10% tổng số công dân Liên Bang Nga sống ở nước ngoài và còn một số
quốc gia khác như Belarus, Ucraina,…
42
Phạm Thị Minh Hiếu (2008), Trưng cầu ý dân lý luận và thực tiễn, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.78.
43
http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150607/hoi-y-dan-va-de-dan-quyet-dung-noi-dan-tri-
thap/758118.html (truy cập 17/06/2015).
45

2.2.4 Thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân


Tùy vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước mà ở các nước khác nhau quy
định cơ quan có thẩm quyền quyết định cũng khác nhau. “Ở Pháp, quyết định tổ
chức trưng cầy dân ý là trách nhiệm của một mình cơ quan hành pháp - tổng thống
của nước cộng hòa”44. Ucraina, Ai Cập chủ thể được trao thẩm quyền quyết định tổ
chức trưng cầu ý dân là tổng thống với tư cách là người đại diện của nhân dân. Ở
Brazil, Hungary chủ thể có quyền quyết định trưng cầu ý dân là nghị viện. Ở Ba
Lan việc quyết định trưng cầu ý dân cấp quốc gia thuộc thẩm quyền của “Hạ nghị
viện hoặc thẩm quyền của Tổng thống Ba Lan”45.
Quyết định trưng cầu ý dân là thủ tục để chủ thể có thẩm quyền quyết định
đưa vấn đề trưng cầu ý dân ra trưng cầu trên phạm vi toàn quốc hoặc địa phương.
Hiện tại, theo quy định của Hiến pháp thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân thuộc
về Quốc hội. Tuy nhiên, việc quy định Quốc hội có thẩm quyền quyết định là chưa
rõ ràng bởi vì Quốc hội là một tập thể đông đảo các đại biểu. Vì vậy, Quốc hội
quyết định là quyết định cách thức, tỉ lệ như thế nào?
Để bổ sung cho Hiến pháp, dự thảo Luật Trưng cầu ý dân có quy định cách
thức trưng cầu là biểu quyết và phải đạt được tỉ lệ hơn nửa (>1/2) tổng số đại biểu
Quốc hội tán thành khoản 3 Điều 16 “Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân
phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”.
Nếu lựa chọn phương án thứ 2, trong Điều 6 dự thảo lần thứ năm Luật Trưng
cầu ý dân thì với quy định “Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân phải được
quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành” là chưa đủ vì như đã phân
tích ở phần vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân thì phương án 2 các khoản từ 1 đến
3 khi gặp phải thì dù cho có được các chủ thể đề nghị hay không và dù muốn hay
không muốn thì cũng phải đưa ra trưng cầu ý dân. Vì vậy, với trường hợp này phải
quy định thêm vào luật là “Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân phải được
quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ các khoản 1, 2, 3 Điều
6 luật này” với việc quy định thêm vế thứ hai, Quốc hội sẽ ra Nghị quyết trưng cầu
ý dân mà không cần đại biểu Quốc hội biểu quyết.
Dựa vào kiến nghị về phạm vi trưng cầu ý dân thì theo tác giả nên quy định
trưng cầu ở phạm vi địa phương, nên cần phải quy định chủ thể có thẩm quyền
quyết định trưng cầu ý dân ở phạm vi địa phương, vùng lãnh thổ. Có ý kiến cho

44
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, tr.16.
45
Khoản 2 Điều 125 Hiến pháp Ba Lan 1997.
46

rằng, tuỳ thuộc vào tính chất, tầm quan trọng và phạm vi tác động của vấn đề đưa ra
trưng cầu ý dân, Quốc hội sẽ quyết định quy mô tổ chức có thể là trên phạm vi toàn
quốc, cũng có thể trong một vùng lãnh thổ như một số tỉnh, thành phố hoặc chỉ
trong một tỉnh, thành phố. Nhưng theo ý kiến tác giả là chưa hợp lý ở chỗ thứ nhất,
đại biểu Quốc hội là từ những vùng miền khác nhau trên đất nước, có thể trong
phạm vi địa phương hoặc một vùng nhân dân họ thấy rất cần thiết nhưng những đại
biểu Quốc hội ở vùng miền khác có thể không hiểu rõ được vấn đề ở địa phương đó
và không thấy cần thiết trưng cầu. Vì vậy, việc biểu quyết của Đại biểu Quốc hội có
thể kết quả sẽ là không quyết định trưng cầu ý dân. Thứ hai, khi không có trường
hợp đặc biệt thì Quốc hội chỉ họp mỗi năm hai kỳ. Vấn đề xảy ra ở địa phương thì
rất nhiều và nước ta đơn vị hành chính cấp tỉnh cũng đã chiếm con số 63. Vì vậy,
khi Quốc hội đưa ra những quyết định không kịp thời có thể gây ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích của nhân dân. Thứ ba, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ
quan quyền lực cao nhất của nước ta nếu quy định để Quốc hội giải quyết những
vấn đề mang tầm vi mô như thế này thì không nên vì Quốc hội đã có quá nhiều
nhiệm vụ, chức năng phải làm. Vì tất cả những lý do như trên, nên cần quy định
theo hướng là nếu ở vùng bao gồm nhiều tỉnh thì vấn đề vẫn thuộc quyết định của
Quốc hội. Nếu ở phạm vi một tỉnh, một huyện thì thuộc thẩm quyền của Hội Đồng
nhân dân cấp đó quyết định cũng theo tỉ lệ giống như Quốc hội là quá nửa tổng số
đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết đồng ý. Và với lý do trao quyền quyết định
cho Hội đồng nhân dân trưng cầu ý dân nên cần phải quy định bổ sung thêm vào
Hiến pháp thẩm quyền này của Hội đồng nhân dân.
2.2.5 Cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân
Cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân là những chủ thể được lập ra nhằm
mục đích tổ chức thực hiện, quản lý trong các cuộc trưng cầu ý dân. Ở các quốc gia
trên thế giới thì bất kì cuộc trưng cầu ý dân nào cũng đều do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tổ chức. Cơ quan tổ chức trưng cầu ý dân ở các nước khác nhau có
những quy định khác nhau về cơ quan có thẩm quyền tổ chức trưng cầu ý dân, có
những nước cơ quan có thẩm quyền thuộc về một cơ quan của Quốc hội, có những
nước sử dụng Hội đồng bầu cử chuyên trách để tổ chức luôn cả trưng cầu ý dân,
cũng có những nước sẽ thành lập ra cơ quan lâm thời để tổ chức trưng cầu ý dân.
Ở Liên Bang Nga cơ quan tổ chức trưng cầu ý dân là Ủy ban trưng cầu ý dân
được thành lập theo ba cấp: ủy ban trưng cầu ý dân trung ương, ủy ban trưng cầu ý
dân mỗi quận và ủy ban trưng cầu ý dân khu vực, ở Thái Lan, Philipines,… cơ quan
tổ chức trưng cầu ý dân là Ủy ban bầu cử, Ở Myanmar Hội đồng Hòa bình và Phát
47

triển Quốc gia sẽ thành lập Ủy ban trưng cầu ý dân gồm những công dân phù hợp
với số lượng cần thiết,…..
Ở nước ta có 3 luồng ý kiến về cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân:
Thứ nhất, trưng cầu ý dân là một cuộc bỏ phiếu toàn dân chỉ xảy ra khi có
những vấn đề quan trọng của đất nước phát sinh nên việc tổ chức trưng cầu ý dân
không phải tổ chức thường xuyên và đều đặn như bầu cử. Có ý kiến cho rằng là nên
thành lập Ủy ban trưng cầu ý dân để thực hiện việc tổ chức trưng cầu ý dân theo sự
phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội sau khi thực hiện nhiệm vụ xong thì tự
giải tán để đảm bảo về vấn đề kinh phí và tính hợp lý.
Thứ hai, một số ý kiến cho rằng nên để Hội đồng bầu cử Quốc gia thực hiện
nhiệm vụ tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân, quy định như thế này trước hết là đảm
bảo sự độc lập, khách quan của cơ quan tổ chức trưng cầu ý dân mà không phụ
thuộc vào bất kì cơ quan nào và tiếp theo là không thành lập thêm một cơ quan nào
đảm bảo kinh phí hơn cả phương án thành lập Ủy ban trưng cầu ý dân.
Thứ ba, ý kiến khác lại cho rằng theo như Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức
Quốc hội 2014 đều có quy định thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội là tổ
chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. Vì vậy, nên quy định cho Ủy
ban thường vụ Quốc hội trực tiếp thực hiện để phù hợp với quy định trên và trong
qua trình tiến hành tổ chức trưng cầu ý dân có thể phối hợp với Chính phủ, Ủy ban
các cấp, Ủy ban mặt trận tổ quốc các cấp,… Ngoài ra, có thể thành lập ra cơ quan
giúp việc, trong một số trường hợp cần thiết.
Theo phương án để Hội đồng bầu cử tổ chức trưng cầu ý dân thì Hội đồng bầu
cử ở nước ta hiện nay được quy định thành một chế định độc lập do Quốc hội thành
lập (không còn là Ủy ban thường vụ Quốc hội như trước đây) và theo Hiến pháp
2013 quy định chỉ có chức năng nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ
đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Quốc hội. Vì vậy, nếu để Hội đồng bầu cử
tổ chức trưng cầu ý dân là không phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Đối với phương án thứ nhất thì việc thành lập ra cơ quan tổ chức trưng cầu ý
dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập ra có thể nói là khách quan hơn so với
việc Quốc hội tự mình tổ chức trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, cơ quan này vẫn do
Quốc hội thành lập ra nên vẫn phụ thuộc vào sự chỉ đạo từ phía Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Thực tế phương án này tương đối giống với phương án thứ 3. Vì vậy, tính
về mặt lợi ích thì ta nên quy định cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trực tiếp tổ chức
để không phải thành lập thêm một cơ quan nào khác để đỡ tốn kém về mặt kinh phí.
48

Tóm lại, theo các phương án trên nên quy định theo hướng để Ủy ban thường
vụ Quốc hội tự mình tổ chức trưng cầu ý dân đồng thời trong những trường hợp cần
thiết thì có thể thành lập ra cơ quan giúp việc trong tổ chức trưng cầu ý dân và với ý
kiến cho rằng Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình tổ chức trưng cầu ý dân sẽ
không khách quan (Quốc hội giám sát chính Quốc hội) theo ý kiến tác giả thực tế
nếu muốn sự khách quan trong trưng cầu ý dân thì trong trường hợp này ta nên có
cơ chế giám sát tốt hơn chứ không nhất thiết phải dựa vào sự thành lập chủ thể tổ
chức trưng cầu ý dân.
Đối với trưng cầu ý dân địa phương thì cũng tương tự như toàn quốc, cơ quan
có thẩm quyền tổ chức trưng cầu ý dân sẽ là thường trực Hội đồng nhân dân.
2.2.6 Lập danh sách cử tri
Lập danh sách cử tri là bước quan trọng trong quá trình tổ chức trưng cầu ý
dân. Danh sách cử tri tham gia trưng cầu ý dân “có nghĩa trong việc xác định giá trị
pháp lý của các cuộc trưng cầu ý dân”46.
Lập danh sách cử tri ở nước ta có thể quy định theo 2 phương án :
Phƣơng án 1: Sẽ quy định về nguyên tắc lập danh sách cử tri, những trường
hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri, thẩm quyền lập danh sách cử tri, việc
niêm yết danh sách cử tri, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri, việc
cử tri bỏ phiếu nơi khác và quy định về khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý
dân.
Phƣơng án 2: Không thiết kế các điều luật cụ thể mà chỉ quy định một điều
dẫn chiếu áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân về nguyên tắc lập danh sách cử tri; những trường
hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách cử tri; niêm
yết danh sách cử tri; khiếu nại và giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri; bỏ phiếu
nơi khác và khu vực bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.
Việc lập danh sách cử tri nên thực hiện theo phương án một vì hai lý do sau:
Thứ nhất, nên quy định rõ ràng ngay trong Luật Trưng cầu ý dân để nhân dân
có thể dễ dàng tiếp cận, tránh dẫn dắt qua các văn bản pháp luật khác làm “rối”
người xem.
Thứ hai, bầu cử và trưng cầu ý dân là hai chế định khác nhau mặc dù có giống
nhau về những trình tự, thủ tục tiến hành tuy nhiên không hoàn toàn giống nhau
46
Trương Thị Hồng Hà(2006), “Thủ tục trưng cầu ý dân ở một số nước”, Nghiên cứu lập pháp,(2),tr.58.
49

tuyệt đối. Các thuật ngữ sử dụng ở hai luật này cũng không giống nhau ví dụ như
“tổ trưng cầu ý dân” - “tổ bầu cử”, “ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân” - “ ngày bầu
cử”,… Ngoài ra, còn một số sự khác biệt do bản chất của hai chế định này khác
nhau theo dự luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định
“Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu Quốc hội được bầu ở
mỗi đơn vị bầu cử được tính căn cứ theo số dân, do Hội đồng bầu cử quốc gia ấn
định theo đề nghị của Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh và được công bố chậm nhất là 80
ngày trước ngày bầu cử” còn ở Luật Trưng cầu ý dân không cần thiết căn cứ vào số
dân để phân chia mà theo như dự thảo luật quy định “Việc chia khu vực bỏ phiếu do
Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định và được Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê
chuẩn”. Vì vậy, không nên chọn phương án dẫn chiếu áp dụng theo quy định của
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Trong vấn đề lập danh sách cử tri có một câu hỏi đặt ra công dân Việt Nam ở
nước ngoài có được ghi tên vào danh sách cử tri hay không? Theo như quy định tại
Điều 5 dự thảo Luật Trưng cầu ý dân người có quyền biểu quyết trưng cầu ý dân
là:“Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên
tính đến ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân, có đủ năng lực hành vi dân sự”, trừ
“Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù và người mất năng lực hành
vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri; Người đã có tên trong danh
sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Tòa án tước quyền bỏ phiếu biểu
quyết trưng cầu ý dân, phải chấp hành hình phạt tù hoặc mất năng lực hành vi dân
sự thì Ủy ban nhân dân cấp xã xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi
thẻ cử tri”. Nhưng không quy định rõ là công dân Việt Nam đang định cư ở nước
ngoài có được tham gia trưng cầu ý dân hay không?
Vấn đề công dân ở nước ngoài có được phép tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý
dân hay không thì có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm cho rằng đã là công dân Việt Nam thì mọi công dân đều có quyền
và nghĩa vụ bình đẳng như nhau, không phân biệt công dân ở trong hay ngoài nước,
không thể vì bất kì lý do nào mà loại bỏ đi quyền bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý
dân của nhóm công dân Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là nhóm các công chức,
viên chức có nhiệm vụ công tác ở nước ngoài thì càng không nên bỏ đi quyền của
họ.
Quan điểm không đồng ý với quan điểm trên cho rằng với điều kiện nước ta
hiện nay thì không nên quy định công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia bỏ
50

phiếu trưng cầu ý dân thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn ở các khâu tổ chức, giám sát,…
chỉ nên quy định công dân Việt Nam ở nước ngoài về nước trong khoảng thời gian
nhất định thì sẽ được tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý dân.
Liên hệ với pháp luật Liên bang Nga cũng như bầu cử công dân đủ 18 tuổi
không thuộc trường hợp hạn chế bầu cử thì đều được bỏ phiếu trưng cầu ý dân,
công dân Liên Bang Nga định cư ở nước ngoài cũng có quyền trưng cầu ý dân. Ở
Thụy Sĩ (Điều 136 Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ) tất cả các công dân, dù sống ở
Thụy Sĩ hay nước ngoài đủ 18 tuổi trở lên, đủ năng lực hành vi, thì đều có quyền bỏ
phiếu biểu quyết trong cuộc trưng cầu ý dân. Ở Ba Lan (Điều 62 Hiến pháp Ba Lan
1997) công dân đủ 18 tuổi tính đến ngày bỏ phiếu có quyền tham gia trưng cầu ý
dân trừ những trường hợp mất năng lực hành vi hoặc bị tước quyền tham gia trưng
cầu ý dân. Ở Myanmar theo Điều 11 Luật Trưng cầu ý dân thì công dân ở nước
ngoài phải được sự đồng ý của Chính phủ mới được bỏ phiếu, còn đối với các nhà
ngoại giao, nhân viên ngoại giao, nhân viên lãnh sự của Liên bang Myanmar và
thành viên trong gia đình họ hoặc người được Chính phủ giao thực hiện nhiệm vụ
ngoài phạm vi Liên bang Myanmar và thành viên trong gia đình họ thì được quyền
bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Theo quy định tại Điều 4 Luật Trưng cầu ý dân Philipines
thì “Quyền sáng kiến lập pháp và trưng cầu ý dân có thể được thực hiện bởi tất cả
cử tri đã đăng ký của toàn quốc, các khu tự trị, các tỉnh, thành phố, các huyện và
các xã/phường”.
Khoản 5 Điều 26 dự thảo Luật Trưng cầu ý dân quy định “Công dân Việt Nam
công tác, lao động, học tập, du lịch, thăm người thân hoặc định cư ở nước ngoài trở
về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết
đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ, thì đến Ủy ban nhân dân
cấp xã xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để ghi tên vào danh sách cử
tri và nhận thẻ cử tri để được bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân”. Luật Trưng cầu
ý dân không quy định một cách trực tiếp nhưng gián tiếp khẳng định là chỉ có công
dân Việt Nam ở trong nước trước thời điểm 24 giờ mới có quyền bỏ phiếu trưng
cầu. Theo ý kiến của tác giả thì ủng hộ quy định của dự thảo luật khi làm luật ta
phải tính đến khả năng hiện tại của đất nước, việc phải nghiên cứu trình tự, cách
thức bỏ phiếu, ai giám sát cuộc trưng cầu, nếu thực hiện bỏ phiếu qua Internet liệu
Việt Nam đã có đủ khả năng thực hiện như các quốc gia khác hay không,… Do đó,
dự thảo luật quy định là khá hợp lý với tình hình đất nước ta hiện tại.
2.2.7 Thông tin, tuyên truyền
51

Để thực hiện cuộc trưng cầu ý dân đòi hỏi nhân dân phải được thông tin một
cách đầy đủ, các cử tri yêu cầu phải nhận được thông tin cần thiết liên quan đến vấn
đề quan trọng sắp đưa ra trưng cầu. Kết quả của các cuộc trưng cầu ý dân sẽ đầy đủ
và khách quan hơn nếu có tỉ lệ cao cử tri tham gia bỏ phiếu trưng cầu. Việc thực
hiện công tác tuyên truyền có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, vấn đề tuyên truyền có thể nói rất quan trọng trong quá trình tổ
chức trưng cầu ý dân, quyết định sự thành công của cuộc trưng cầu ý dân. Ở
Australia trưng cầu ý dân được tổ chức khá thường xuyên nhưng thường là kết thúc
thất bại, các nhà khoa học Australia giải thích nhiều lý do khác nhau trong đó có
nguyên nhân là chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến. Việc tuyên
truyền giúp cho nhân dân hiểu rõ được các vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân. Từ
đó, khi có được thông tin chính xác đầy đủ, khách quan thì lá phiếu của cử tri sẽ
phản ánh được đúng ý chí của mình. Đặc biệt, trong điều kiện trình độ dân trí, ý
thức chính trị, pháp luật của đa số nhân dân chưa cao thì việc phổ biến, tuyên truyền
cho nhân dân về mục đích, nội dung, quan điểm của các cuộc trưng cầu ý dân là hết
sức cần thiết.
Thứ hai, tuyên truyền về vấn đề trưng cầu ý dân thường được thực hiện dưới
sự chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền tổ chức trưng cầu ý dân và được chính quyền
địa phương phối hợp với cơ quan chức năng như đài truyền thanh, truyền hình thực
hiện. Ngoài ra, ở pháp luật các nước trên thế giới việc tuyên truyền về trưng cầu ý
dân được thực hiện do nhiều tổ chức xã hội, đảng phái khác nhau dưới nhiều hình
thức:
Ở Liên bang Nga mọi công dân và các tổ chức xã hội, hiệp hội của công
dân Liên bang Nga bằng các phương tiện và hình thức hợp pháp, đều có
thể tuyên truyền cho việc ủng hộ hay chống lại việc tiến hành trưng cầu ý
dân ở Liên Bang Nga. Đương nhiên pháp luật cấm việc tuyên truyền,
kích động sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, dân
tộc47.
Thứ ba, các hình thức tuyên truyền là thông qua báo chí, truyền thanh, truyền
hình, panô, áp phích, … đối với các hình thức như trên thì có thể nói là khá quen
thuộc được áp dụng rất nhiều đối với các vấn đề được tuyên truyền như phổ biến
pháp luật, vận động bầu cử,…. Hiện nay, dưới thời đại Internet có mặt ở khắp mọi
nơi được nhiều người trên thế giới tiếp cận “Hiệp hội thông tin điện tử quốc tế vừa
47
Đinh Ngọc Vượng (2005), “Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và Liên Bang Nga”, Nghiên cứu lập pháp,( 9),
tr.59.
52

công bố báo cáo cho hay hiện nay trên thế giới có hơn 3 tỷ người hàng ngày sử
dụng đều đặn dịch vụ Internet, và công nghệ thông tin này đang tiếp tục phát triển
rất mạnh tại hầu hết các quốc gia”48 đây có thể là một công cụ đắc lực mới giúp
cho nhà nước thực hiện công tác tuyên truyền của mình rộng rãi hơn đến nhân dân,
không phải tốn kém, lãng phí. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có những khuyết điểm là
thông tin lan truyền trên Internet dễ phát tán sai lệch do một số đối tượng gây ra để
nhân dân hiểu sai vấn đề. Do đó, khi thực hiện hình thức tuyên truyền trên Internet
cần phải có sự quản lý chặt chẽ, ngăn chặn các thông tin không chính xác lan truyền
gây ảnh hưởng đến cuộc trưng cầu ý dân nói riêng và tình hình anh ninh nói chung.
Thứ tƣ, việc tuyên truyền, phổ biến phải được tiến hành khách quan, dân chủ,
đúng pháp luật. Như đã nêu phần trên trưng cầu ý dân là hình thức mang tính dân
chủ cao trong xã hội, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, quá trình
tuyên truyền trưng cầu ý dân cần phải được tiến hành thật khách quan, dân chủ,
đúng pháp luật để nhân dân có thể hiểu rõ thực hiện quyền làm chủ của mình, đảm
bảo niềm tin của công dân vào nhà nước, tránh được các tranh chấp không đáng có.
Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân dành một chương để quy định về vấn đề tuyên
truyền trưng cầu ý dân các quy định bao gồm:
Điều 33. Mục đích, nguyên tắc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân
Điều 34. Nội dung thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân
Điều 35. Thời gian thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân
Điều 36. Các hình thức thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân
Điều 37. Trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong thông tin, tuyên truyền trưng cầu
ý dân
Đối với Điều 33 dự thảo quy định mục đích và nguyên tắc thông tin, tuyên
truyền trưng cầu ý dân. Trưng cầu ý dân có sự khác biệt với bầu cử ở nhiều điểm
khá rõ rệt như việc tuyên truyền trưng cầu ý dân có đặc thù riêng. Tuyên truyền về
vấn đề trưng cầu ý dân, về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cử tri trong việc tham
gia trưng cầu ý dân; động viên cử tri đi bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân, không
vận động cử tri bỏ phiếu hay ủng hộ phương án cụ thể. Nội dung này khác với việc
tuyên truyền, vận động trong bầu cử là người ứng cử được vận động cử tri trực tiếp

48
http://www.vietnamplus.vn/hon-3-ty-nguoi-tren-the-gioi-su-dung-dich-vu-internet-hang-ngay/292978.vnp,
(truy cập ngày 19/05/2015).
53

bỏ phiếu cho mình. Vì vậy, việc quy định tại khoản 149dự thảo luật quy định đã hợp
lý.
Khoản 2 Điều 33 quy định nguyên tắc tuyên truyền “Việc tuyên truyền trưng
cầu ý dân được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, khoa học, đúng pháp
luật, bảo đảm thuận lợi cho cử tri và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”. Đối với
nguyên tắc thì ngay tại điều 4 dự thảo Luật Trưng cầu ý dân quy định khá rõ “Việc
trưng cầu ý dân phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, khách quan,
khoa học, chặt chẽ, công khai, minh bạch” đây là nguyên tắc chung mang tính
xuyên suốt trong cả quá trình trưng cầu ý dân. Vì vậy, theo ý kiến tác giả không cần
thiết quy định thêm về nguyên tắc tuyên truyền, tránh rườm rà không cần thiết.
Điều 34 về nội dung thông tin tuyên truyền có ý kiến cho rằng do khoản 5
Điều 20 quy định nhiệm vụ của Ủy ban thường vụ Quốc hội là chỉ đạo thực hiện
công tác thông tin, tuyên truyền về trưng cầu ý dân ở địa phương nên để Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định nội dung tuyên truyền. Tuy nhiên, ta có thể thấy việc
quy định rõ ràng nội dung trưng cầu là khá cần thiết là căn cứ để tuyên truyền đầy
đủ các nội dung. Vì vậy quy định này phải rõ ràng, chính xác để cơ quan tổ chức
tuyên truyền thực hiện theo và làm đúng quy định của pháp luật.
Trong Điều 34 có vấn đề lưu ý là có nên tuyên truyền cho cả hai hướng (đồng
ý và không đồng ý) theo ý kiến của tác giả thì vẫn phải tuyên truyền cả hai hướng.
Thứ nhất, để nhân dân biết đây là quyền quyết định của họ, hoàn toàn có quyền lựa
chọn không ép buộc phải lựa chọn theo ý chí của cơ quan nhà nước. Thứ hai, để
nhân dân hiểu rõ hơn về vấn đề, có sự so sánh, đánh giá, nghiên cứu giữa các
phương án để đưa ra kết quả lựa chọn hợp lý. Tại Cộng hòa Ai-len cho phép các
chủ thể tuyên truyền theo cả hai hướng và “các quyết định của Tòa án Tối cao cho
rằng chính phủ không được phép chi công quỹ để hỗ trợ cho một bên nào trong
chiến dịch trưng cầu dân ý và cơ quan dịch vụ truyền thông của nhà nước không
được phép dành nhiều thời gian hơn cho một bên nào trong chiến dịch trưng cầu
dân ý”50.
2.2.8 Kết quả trưng cầu ý dân

49
Khoản 1 Điều 33 Dự thảo luật Trưng cầu ý dân : “Việc thông tin, tuyên truyền trưng cầu ý dân nhằm cung
cấp thông tin đầy đủ, đúng đắn về vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân để cử tri hiểu rõ ý nghĩa, nội dung của
vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân;
động viên, khuyến khích cử tri tham gia tích cực vào việc bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân”
50
Viện chính sách công và pháp luật(2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội,tr.61.
54

Kết quả trưng cầu ý dân là vấn đề cốt lõi của cuộc trưng cầu ý dân. Các giai
đoạn trong quá trình trưng cầu ý dân đều hướng tới kết quả sao cho phản ánh trung
thực, chính xác ý chí của nhân dân. Trong vấn đề kết quả trưng cầu ý dân ta phải
xem xét hai vấn đề đó là số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu và cách xác định kết quả
trưng cầu ý dân.
Số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu: việc xác định số lượng cử tri nhất định
tham gia bỏ phiếu sao cho một cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ, theo quy định các nước
trên thế giới khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia. Ví dụ “Ở Ý kết quả của một
cuộc trưng cầu ý dân có hiệu lực khi có 50% người dân trở lên di bỏ phiếu. Ở
Colombia, tỉ lệ này là 25%, Lithuania có hai loại tỉ lệ số cử tri bỏ phiếu và số cử tri
thông qua, tùy theo tính chất đề xuất”51, Đan Mạch quy định tỉ lệ là 45%, Uruguay
là 35%, Hungary hơn một nửa số cử tri tham gia bỏ phiếu hợp lệ. Trong khi đó, ở
Thụy Sĩ lại không quy định tỉ lệ tối thiểu mà cử tri tham gia bỏ phiếu trưng cầu ý
dân, mà với bất kì tỉ lệ nào thì cuộc trưng cầu ý dân cũng được coi là hợp lệ.
Việc quy định tỉ lệ cử tri tham gia trưng cầu ý dân là nhằm đảm bảo được kết
quả phản ánh phù hợp với đa số nguyện vọng của nhân dân “tỉ lệ cử tri bỏ phiếu cao
thường được xem là một chỉ số về tính chính đáng dân chủ của một cuộc trưng cầu
dân ý”52. Đối với những quốc gia không quy định tỉ lệ thì họ cho rằng trong “Trong
bất cứ tình huống nào cũng phải tôn trọng tiếng nói của một bộ phận tích cực chính
trị trong số cử tri những người không có tính tích cực không thể thắng được những
người có tính tích cực chính trị. Ai không tham gia bỏ phiếu là tự mình từ bỏ quyền
chính trị của mình”53 và nếu phải quy định tỉ lệ cử tri nhất định đôi khi cuộc trưng
cầu ý dân khó có thể tổ chức trên thực tế liên hệ ở Italia cho thấy “những người
phản đối đề xuất có thể vận động cử tri không đi bỏ phiếu”54.
Cách xác định kết quả trưng cầu ý dân: xác định kết quả trưng cầu ý dân nhằm
mục đích xem xét kết quả trưng cầu ý dân có được thông qua hay không. Ở các
quốc gia khác thì tỉ lệ này vẫn tùy thuộc theo từng quy định của quốc gia, không có
tỷ lệ nhất định nào để cuộc trưng cầu ý dân có giá trị. Trên thực tiễn, các quốc gia sẽ
có những mức tỉ lệ phù hợp mà nó có thể tránh được việc tranh chấp đối với kết quả

51
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.18.
52
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.62.
53
Dẫn theo Trương Hồng Quang(2012), “Vấn đề trưng cầu ý dân trong bối cảnh sửa đổi Hiến pháp 1992”,
Luật học (8), tr.35.
54
Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.62
55

trưng cầu ý dân và duy trì sự ổn định “ở Hungary số cử tri bỏ phiếu tán thành phải
chiếm 1/4 tổng số cử tri; ở Albani và Armenia, tỷ lệ này là 1/3 tổng số cử tri”55. Ở
một số quốc gia khác thì tùy vào những vấn đề mà họ xem là quan trọng của đất
nước thì tỉ lệ này có thể cao hơn những vấn đề khác ví dụ “ở Đan Mạch, đối với
trưng cầu ý dân liên quan đến sửa đổi hiến pháp, thì phải đạt được sự tán thành của
40% tổng số cử tri”,“ở Latvia, đối với việc sửa đổi hiến pháp thì phải được sự tán
thành của hơn 50% số cử tri đã đăng ký”56.
Kinh nghiệm của một số nước cho thấy, “để phát huy được những ưu thế của
hình thức trưng cầu ý dân trong thực tế, việc đánh giá kết quả trưng cầu ý dân là
thành công hay không nên dựa trên tỷ lệ phần trăm cử tri nói chung và cuộc bỏ
phiếu trưng cầu ý dân được coi là thành công nếu tỷ lệ đó vào khoảng 30 - 40%”57.
Tuy nhiên, nếu ở nước ta quy định tỉ lệ phần trăm trên tổng số cử tri thì trước tiên
như đã nói phía trên, đối với cách quy định này có thể dẫn đến những người phản
đối trưng cầu ý dân có thể vận động cử tri không bỏ phiếu khiến cuộc trưng cầu ý
dân không thể diễn ra giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước. Tiếp theo là
vì việc quy định này khó có được kết quả tán thành từ nhân dân nên có thể xảy ra
vấn đề thúc ép cử tri đi bỏ phiếu, bỏ phiếu hộ, bỏ phiếu thay,… dẫn đến làm mất đi
ý nghĩa của chế định trưng cầu ý dân.
Theo như dự thảo Luật Trưng cầu ý dân lần thứ năm quy định thì chia ra hai
phương án:
Phƣơng án 1:
1. Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá nửa tổng số cử tri có tên trong
danh sách cử tri đi bỏ phiếu.
2. Phương án trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được
công bố để thi hành.
Phƣơng án 2:
1. Cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá nửa tổng số cử tri có tên trong
danh sách cử tri đi bỏ phiếu. Trường hợp trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì cuộc
trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá hai phần ba tổng số cử tri có tên trong danh
sách cử tri đi bỏ phiếu.
55

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1040&TabI
ndex=2&TaiLieuID=1818, (truy cập 03/06/2015).
56

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1040&TabI
ndex=2&TaiLieuID=1818, (truy cập 03/06/2015).
57
Trần Ngọc Đường (2010), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát
quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hà Nội, tr.268.
56

2. Phương án trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được
công bố để thi hành. Trường hợp trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì phương án trưng
cầu ý dân được quá hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành.
Theo ý kiến của tác giả thì phương án thứ nhất là khả thi hơn. Thứ nhất, Hiến
pháp là đạo luật quan trọng, cơ bản quy định tất cả những vấn đề quan trọng của đất
nước nhưng khi đem vấn đề ra trưng cầu ý dân thì vấn đề đó dĩ nhiên sẽ đều là các
vấn đề quan trọng của đất nước. Vì vậy, không nhất thiết phải phân biệt giữa Hiến
pháp và các vấn đề quan trọng khác. Thứ hai, nếu quy định tỉ lệ theo phương án thứ
hai thì có thể rất khó để đạt được sự tham gia và tán thành của 2/3 tổng số cử tri. Do
đó, có thể dẫn đến tình trạng đốc thúc, ép buộc nhân dân bỏ phiếu hoặc tình trạng
bỏ phiếu hộ bỏ phiếu thay,… Tóm lại, nên quy định kết quả trưng cầu ý dân theo
phương án thứ nhất là hợp lý.
Giá trị kết quả trƣng cầu ý dân:
Ở các nước trên thế giới thì kết quả của cuộc trưng cầu ý dân có thể mang tính
ràng buộc (là kết quả bắt buộc cơ quan nhà nước phải quyết định theo, là kết quả
cuối cùng không được làm trái) hoặc trưng cầu ý dân có tính chất tham khảo (là để
biết ý kiến nhân dân về một vấn đề nào đó mà cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định
thông qua, ý kiến nhân dân trong trường hợp này không mang tính bắt buộc áp
dụng). Ta có thể thấy hình thức trưng cầu ý dân có giá trị tham khảo lại giống như
hình thức lấy ý kiến nhân dân, tham vấn nhân dân.
Ở Liên Bang Nga kết quả trưng cầu ý dân có hiệu lực bắt buộc thực hiện ngay
mà không cần phải có sự phê chuẩn của chủ thể nào, quyết định này chỉ có thể được
thay thế, sửa đổi bởi một cuộc trưng cầu ý dân khác. Ở Canada thì lại không cho
phép trưng cầu ý dân mang tính ràng buộc, một số trường hợp giá trị kết quả trưng
cầu ý dân sẽ tùy thuộc vào một số tiêu chí như:
Ở Andorra, Úc và Tây Ban Nha, trưng cầu ý dân về một vấn đề quan
trọng chỉ mang tính tham khảo, nhưng trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì
có hiệu lực bắt buộc; ở Lithuania thì trưng cầu ý dân có hiệu lực bắt
buộc nếu đó là các cuộc trưng cầu ý dân về các sáng kiến pháp luật do
người dân đề xuất hay khởi xướng và các trưng cầu ý dân về các quy
định của Hiến pháp, còn các vấn đề khác thì chỉ là trưng cầu ý dân có
tính chất tham khảo58.

58
http://moj.gov.vn/tcdcpl/tintuc/Lists/NghienCuuTraDoi/View_detail.aspx?ItemID=516 (truy cập ngày
22/06/2015).
57

Theo quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội “Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị
quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân” và dự thảo Luật Trưng cầu
ý dân cũng đã đưa ra quy định thống nhất với Luật Tổ chức Quốc hội 2014. Quy
định này là hợp lý, J.J.Rousseau khẳng định “Không một quyết định chính trị hay
một đạo luật nào có hiệu lực nếu không được nhân dân tán thành”. Nhân dân là chủ
thể của quyền lực nhà nước, trưng cầu ý dân phản ánh được ý chí của nhân dân nên
bắt buộc nhà nước phải tuân thủ đúng ý chí của nhân dân. Việc quy định trưng cầu ý
dân có tính chất tham khảo thực chất lại giống như lấy ý kiến nhân dân mà nhà
nước ta đã thực hiện. Nếu vậy không cần xây dựng Luật Trưng cầu ý dân mà chỉ
cần thực hiện lấy ý kiến như lâu nay đã làm. Khi trưng cầu ý dân không có giá trị
quyết định sẽ dẫn đến tốn kém rất nhiều chi phí, nguồn lực của quốc gia như ở các
khâu khởi xướng, tuyên truyền, tổ chức,…. Ta có thể thấy trên thực tế ở New
Zeland từ năm 1993 đến nay có ba cuộc trưng cầu ý dân diễn ra và các kết quả
không mang tính ràng buộc, với việc kết quả trưng cầu ý dân không mang tính ràng
buộc đã bị chỉ trích khá nhiều và “làm giảm đi sự nhiệt tình của công chúng và ngày
càng ít đề xuất nộp cho ban thư ký Hạ viện trong những năm gần đây”59. Trên thế
giới hiện nay thì việc quy định trưng cầu ý dân có tính tham khảo cũng không
nhiều, chủ yếu mang tính bắt buộc.
Nhưng quy định này thật ra lại vấp phải quy định của Hiến pháp 2013 theo
quy định tại khoản 4 Điều 120 Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Vậy ta có thể hiểu Hiến pháp chỉ
được thông qua khi có hai phần ba đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tán thành trong
những trường hợp sửa đổi, bổ sung hoặc thông qua Hiến pháp mới. Nhưng xét trong
Luật Trưng cầu ý dân thì vấn đề liên quan đến Hiến pháp là vấn đề quan trọng của
đất nước, Hiến pháp là vấn đề đầu tiên nhắc đến khi nói đến những vấn đề cần tổ
chức trưng cầu ý dân và cả hai phương án của dự thảo Luật Trưng cầu ý dân đều có
đề cập đến Hiến pháp. Nếu vụ việc liên quan đến Hiến pháp được đưa trưng cầu ý
dân thì theo Luật Tổ chức Quốc hội và dự thảo luật này thì kết quả trưng cầu ý dân
có giá trị quyết định cuối cùng. Do đó, đây là hai quy định mâu thuẫn nhau. Vì vậy,
Luật Tổ chức Quốc hội và dự thảo Luật Trưng cầu ý dân không phù hợp với Hiến
pháp ở phần này nhưng nếu không quy định như hai luật này sẽ không hợp lý. Vì
vậy, tốt nhất nên sửa đổi Hiến pháp ở vấn đề này “Hiến pháp được thông qua khi
kết quả trưng cầu ý dân hợp lệ tán thành” (tác giả đề nghị ở phần trước các vấn đề
sửa đổi, bổ sung, thông qua Hiến pháp là nên bắt buộc đưa ra trưng cầu ý dân).

59
Văn phòng Quốc hội (2015), Chuyên đề Kinh nghiệm một số nước trên thế giới về trưng cầu ý dân, Hà
Nội, tr.28.
58

Vấn đề bỏ phiếu lại:


Vấn đề bỏ phiếu lại được quy định trong Điều 53 dự thảo Luật Trưng cầu ý
dân theo đó thì Ủy ban thường vụ Quốc hội hủy bỏ kết quả bỏ phiếu ở khu vực bỏ
phiếu vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Quy định bỏ phiếu lại trong trưng cầu ý dân
khác so với bầu cử vì bản chất khác nhau. Việc khu vực bỏ phiếu có số lượng cử tri
đi bỏ phiếu thấp (không hợp lệ) thì không phải bỏ phiếu lại. Tuy nhiên, vấn đề này
quy định cũng chưa rõ ràng cần phải giải thích rõ vi phạm “nghiêm trọng” là vi
phạm như thế nào, từ đó Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể căn cứ vào để quyết
định có bỏ phiếu lại hay không.
2.2.9 Giám sát trưng cầu ý dân
Trưng cầu ý dân là một hình thức thể hiện dân chủ trực tiếp, thể hiện được tâm
tư nguyện vọng của nhân dân, đòi hỏi xuyên suốt trong quá trình trưng cầu ý dân
phải được thực hiện một cách khách quan nhất. Vì vậy, đặt ra cơ chế giám sát cho
quá trình tổ chức trưng cầu ý dân là một việc cần làm để đảm bảo quyền và lợi ích
của nhân dân.
Theo từ điển Luật học định nghĩa:
Giám sát là sự theo dõi quan sát mang tính chủ động thường xuyên của
cơ quan tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu
sự giám sát và sự tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và
hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục
đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho Hiến pháp và
pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh60.
Ở các nước trên thế giới khi diễn ra trưng cầu ý dân thì đa số đều quy định
những chủ thể và cách thức nhất định tùy thuộc vào từng quốc gia để nhân dân có
thể giám sát cuộc trưng cầu ý dân. Có hai cách mà các quốc gia quy định giám sát.
Cách thứ nhất là thành lập ra một cơ quan giám sát độc lập hoặc quy định cho
những chủ thể nhất định giám sát, ví dụ như Ai Cập thành lập một Ủy ban tối cao
để giám sát cuộc trưng cầu ý dân về dự thảo Hiến pháp diễn ra vào ngày
15/12/2012, cuộc trưng cầu ý dân diễn ra ở Crimea có sự tham gia giám sát của các
quan sát viên viên quốc tế đến từ châu Âu gồm 30 thành viên, bao gồm các đại diện
của Ba Lan, Áo, Pháp, Đức, Bỉ, Bulgaria, Hungary, Hy Lạp, Italia, Latvia, các nghị
sĩ của Nghị viện châu Âu và các chuyên gia hàng đầu châu Âu về luật pháp quốc
tế,… Cách thứ hai quy định cho nhân dân hoặc các chủ thể trong xã hội quyền

60
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006) ,Từ điển luật học, NXB từ điển bách khoa-NXB tư pháp, Hà
Nội, tr.292.
59

khiếu nại, tố cáo, khởi kiện để đảm bảo nhân dân và các chủ thể khác thực hiện
được quyền giám sát trên thực tế. Ví dụ như ở Liên Bang Nga “mọi quyết định hay
hành động (bất hành động) nào của Ủy ban trưng cầu ý dân Trung ương Liên Bang
Nga và của những người có chức vụ của Ủy ban đều có thể bị khiếu nại lên Tòa án
tối cao Liên Bang Nga”61, ở các nước Châu Âu có cơ quan bảo hiến là Tòa án Hiến
pháp thì một trong những nhiệm vụ của tòa này là giải quyết những tranh chấp trong
các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân,…
Giám sát là vấn đề rất quan trọng trong bất cứ hoạt động nào của cơ quan nhà
nước không riêng với trưng cầu ý dân. Giám sát trong trưng cầu ý dân có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc đảm bảo ý chí của nhân dân, ảnh hưởng đến quyền và
nhiệm vụ của các cơ quan trong trưng cầu ý dân. Vì vậy, đòi hỏi phải có cơ chế
giám sát chặt chẽ, độc lập để trưng cầu ý dân mới phát huy đúng giá trị của bản thân
nó. Ở nước ta theo quy định của dự thảo Luật Trưng cầu ý dân tại Điều 9 thì quyền
giám sát trưng cầu ý dân thuộc về Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và nhân dân giám
sát quá trình tổ chức trưng cầu ý dân phù hợp với chức năng nhiệm vụ của mình.
Trước tiên là Quốc hội, theo quy định tại Hiến pháp 2013 thì Quốc hội có
quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước, giám sát tối cao việc tuân
theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Do vậy, quy định tại khoản 1 Điều
9 Luật Trưng cầu ý dân phù hợp với quy định của Hiến pháp. Trong quá trình thực
hiện Nghị quyết của mình Quốc hội có thể giám sát bất kì một cơ quan nào như Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp,…đây là quy định
hợp lý nhằm kiểm tra, giám sát các chủ thể tổ chức thực hiện trưng cầu ý dân.
Nhưng trong quá trình ban hành Nghị quyết trưng cầu ý dân, đây là việc thuộc thẩm
quyền của Quốc hội. Vậy đặt ra câu hỏi trong quá trình này nếu có trái với Hiến
pháp, pháp luật thì liệu Quốc hội có xử lý chính mình hay không? Các chủ thể khác
có nhiệm vụ giám sát ngoài Quốc hội như Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc thậm chí đại
biểu Hội đồng nhân dân thì các thành viên cũng đều có thể là Đại biểu Quốc hội. Vì
vậy, trong trường hợp này cần có một thiết chế độc lập để giám sát Quốc hội.
Đối với quy định các chủ thể khác như :Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và nhân dân giám

61
Đinh Ngọc Vượng (2005), “Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và Liên Bang Nga”, Nghiên cứu lập pháp,( 9),
tr.58.
60

sát phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định.
Có thể thấy có khá nhiều các chủ thể tham gia giám sát trưng cầu ý dân, đảm bảo sự
kiểm soát chặt chẽ của các chủ thể đối với chủ thể tiến hành trưng cầu ý dân và
kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành. Theo ý kiến tác giả nên quy định
thêm chủ thể có quyền giám sát là Chính phủ vào điều luật này để đầy đủ hơn vì
theo khoản 5 Điều 21 Luật Trưng cầu ý dân có quy định “Phối hợp với Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam
trong kiểm tra, giám sát trưng cầu ý dân”.
Đối với nhân dân khi tham gia giám sát trưng cầu ý dân thì có thể thông qua
các hình thức như khiếu nại, khởi kiện, tố cáo. Nhân dân có quyền khiếu nại, tố cáo,
khởi kiện đối với các việc làm trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi ích của mình.
Trong trưng cầu ý dân, nhân dân cũng hoàn toàn có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi
kiện, đây là cách thức nhân dân giám sát cơ quan nhà nước trong việc tổ chức trưng
cầu ý dân. Thực hiện quyền giám sát này có ý nghĩa rất quan trọng là đề cao quyền
làm chủ của nhân dân và việc giám sát sẽ khách quan hơn bởi vì phía nhân dân sẽ
không bị chi phối như các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, trong hình thức khiếu nại
và khởi kiện thì còn một số điểm chưa phù hợp:
Thứ nhất, đối với hình thức khiếu nại, theo quy định của dự thảo Luật Trưng
cầu ý dân Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng có quyền giải quyết khiếu nại (khoản
10 Điều 20) về kết quả trưng cầu ý dân. Nhưng theo Luật Khiếu nại 2011 thì trong
thẩm quyền giải quyết khiếu nại không quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có
thẩm quyền giải quyết. Luật Tổ chức Quốc hội 2014 cũng không quy định nhiệm vụ
của Ủy ban thường vụ Quốc hội là giải quyết khiếu nại. Tương tự như vậy tổ trưng
cầu ý dân, cơ quan lập danh sách như chỉ huy đơn vị vũ trang cũng không phải là
đối tượng giải quyết khiếu nại trong Luật Khiếu nại 2011. Vì vậy, khi quy định các
chủ thể này có thẩm quyền là chưa phù hợp nên cần bổ sung thẩm quyền này vào
Luật Khiếu nại, Luật Tổ chức Quốc hội để đảm bảo sự thống nhất của pháp luật.
Thứ hai, việc quy định quyền khiếu nại trong dự thảo Luật Trưng cầu ý dân
còn khá sơ sài. Theo quy định của khoản 3 Điều 7 dự thảo Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật quy định “không quy định chương riêng về thanh tra, khiếu nại,
tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong văn bản quy phạm pháp luật, nếu không có
nội dung mới”. Nhưng đối với những vấn đề giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội,
tổ trưng cầu ý dân, cơ quan lập danh sách cử tri, chỉ huy như đơn vị vũ trang giải
quyết khiếu nại đều là những chủ thể không được quy định trong Luật Khiếu nại
2011. Trong dự thảo lần năm hiện tại cũng chưa làm rõ được vấn đề này. Do đó,
61

nếu quy định thêm những chủ thể trên cần phải làm rõ thẩm quyền, trình tự, thủ
tục,… như thế nào để có thể giải quyết khiếu nại.
Thứ ba, về quy định tại Điều 30 dự thảo Luật Trưng cầu ý dân có quy định
“trường hợp người khiếu nại không đồng ý về kết quả giải quyết thì có quyền khởi
kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tố tụng hành chính”. Nhưng tại
Luật Tố tụng hành chính hiện hành và dự thảo sửa đổi Luật Tố tụng hành chính
cũng không quy định thẩm quyền giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bỏ phiếu
biểu quyết trưng cầu ý dân, mà chỉ có quy định thẩm quyền là giải quyết “Khiếu
kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân”. Vì vậy, cần thiết nên bổ sung quy định này vào dự thảo luật tố
tụng hành chính để đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân./.
KẾT LUẬN

Hiện nay, nhà nước ta luôn chú trọng đến việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đưa ra nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh dân chủ và tham gia hầu
hết các công ước về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị. Hiến pháp 2013 cũng đã nhấn mạnh hơn quyền dân chủ trực
tiếp ở nước ta, đặc biệt là quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Ở
nước ta, chế định trưng cầu ý dân đã có từ Hiến pháp 1946 nhưng vì lý do chủ yếu
là chưa có luật hướng dẫn chi tiết, cụ thể nên cơ quan nhà nước không thể đưa một
vấn đề nào đó ra trưng cầu ý dân và nhân dân không thể thực hiện quyền chính trị
cơ bản của mình. Để thực hiện từng bước những chủ trương, định hướng và thực
hiện đúng như Công ước nước ta đã gia nhập thì Quốc hội đã đưa vấn đề xây dựng
Luật Trưng cầu ý dân vào chương trình xây dựng luật pháp lệnh năm 2015. Đây là
một bước tiến quan trọng trong việc đẩy mạnh quyền làm chủ của nhân dân. Từ
những chủ trương của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước để góp phần nghiên cứu, tìm
hiểu, đưa ra những thông tin, đóng góp ý kiến về chế định trưng cầu ý dân ở nước
ta, đề tài này làm rõ khái quát chung của chế định trưng cầu ý dân như khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩ, hạn chế, phân biệt trưng cầu ý dân với một số chế định khác. Từ
đó đi vào tìm hiểu những quy định về trưng cầu ý dân ở Việt Nam qua các giai đoạn
từ Hiến pháp 1946 đến nay. Và cuối cùng là kiến nghị một số vấn đề được đưa ra
tranh luận nhiều nhất và quan trọng nhất trong dự thảo lần năm Luật Trưng cầu ý
dân như phạm vi trưng cầu ý dân, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân, thẩm quyền đề
nghị, quyết định trưng cầu ý dân, kết quả trưng cầu ý dân,…
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân là rất
cấp bách. Luật Trưng cầu ý dân với những quy định chặt chẽ, hợp lý khi thi hành
trên thực tế sẽ góp phần tạo sự nhiệt tình cho nhân dân tham gia vào việc đóng góp,
xây dựng hoàn thiện đất nước, tạo sự đồng thuận, tin tưởng của nhân dân đối với
các chủ trương, chính sách, góp phần cho sự phát triển bền vững của Việt Nam
trong thời kì đổi mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG
1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
2. Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Hiến pháp 1959 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Hiến pháp 1980 của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
5. Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ
sung năm 2001).
6. Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
7. Hiến pháp Liên bang Thụy Sĩ 1999.
8. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.
9. Luật hướng dẫn trưng cầu ý dân Thái Lan 2007.
10. Luật Tổ chức Quốc hội 2001 (sửa đổi, bổ sung 2007).
11. Luật Tổ chức Quốc hội 2014.
12. Luật Trưng cầu ý dân cộng hòa liên bang Myanmar 2008.
13. Luật Trưng cầu ý dân và sáng kiến lập pháp số 6735 của Philipines.
14. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020.
15. Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30 tháng 05 năm 2014 về Điều chỉnh
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015.
16. Nghị quyết số 987/2006/NQ - UBTVQH11 ngày 11 tháng 01 năm 2006
nhằm thực hiện Nghị quyết Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
17. Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành kèm theo nghị
quyết về việc ban hành quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội số
26/2004/NQ - QH11 năm 2004.
18. Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội ban
hành theo Nghị quyết của Quốc hội số 27/2004/NQ - QH11 năm 2004.
19. Pháp lệnh số 34/2007/PL - UBTVQH11 ngày 06 tháng 4 năm 2007 thực hiện
dân chủ xã, phường, thị trấn.
20. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 63 - SL ngày 22 tháng 11 năm
1945 về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành
chính các cấp (xã, huyện, tỉnh, kỳ).
SÁCH, TÀI LIỆU THAM KHẢO
21. Bộ tư pháp - Viện khoa học pháp luật (2006), Từ điển luật học, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
22. Trần Ngọc Đường (2010), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài Phân công,
phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, Hà Nội.
23. Trương Thị Hồng Hà (2006), “Thủ tục trưng cầu ý dân ở một số nước”,
Nghiên cứu lập pháp, (2).
24. Phạm Thị Minh Hiếu (2008), Trưng cầu ý dân lý luận và thực tiễn, Thành
phố Hồ Chí Minh.
25. Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của Chính
phủ và các bộ, ngành về dự án Luật trưng cầu ý dân, Hà Nội.
26. Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật
trưng cầu ý dân, Hà Nội.
27. Hội luật gia Việt Nam (2015), Báo cáo khảo sát về trưng cầu ý dân, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Việt Hương (2006), “Hình thức lấy ý kiến có tính chất quyết
định của nhân dân và những vấn đề thuộc đối tượng trưng cầu ý dân”, Nhà nước và
pháp luật, (01).
29. Trần Minh Hương (2004), “Vấn đề xây dựng pháp luật về trưng cầu ý dân”,
Luật học, (6).
30. Trần Minh Hương (2006), “Phạm vi và đối tượng trưng cầu ý dân”, Dân chủ
và pháp luật, (2).
31. Khoa luật đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người,
quyền công dân (2012), Tuyển tập hiến pháp của một số quốc gia, NXB Hồng Đức,
Hà Nội.
32. Hoàng Thế Liên (2006), “Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam và yêu
cầu đặt ra đối với luật Trưng cầu ý dân”, Dân chủ và pháp luật,(3).
33. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt,
NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
34. Vũ Văn Nhiêm (2011), Giáo trình Bầu cử trong nhà nước pháp quyền, NXB
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Hoàng Phê (1994), Từ điển tiếng việt, NXB Giáo dục, Hà nội.
36. Ngô Trung Thành(2006), “Trưng cầu ý dân, đặc điểm bản chất ý nghĩa,
Nghiên cứu lập pháp, (3).
37. Tờ trình dự án Luật Trưng cầu ý dân.
38. Nguyễn Minh Tuấn (2014), “Các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ
ở Việt Nam”, Nhà nước và pháp luật, (6).
39. Trương Hồng Quang (2012), “Vấn đề trưng cầu ý dân trong bối cảnh sửa đổi
Hiến pháp 1992”, Luật học (8).
40. Trương Hồng Quang (2013), “Quyền tham gia trưng cầu ý dân trong dự thảo
Hiến pháp sửa đổi”, Nhà nước & pháp luật ,(2).
41. Viện chính sách công và pháp luật (2014), Dân chủ trực tiếp sổ tay Idea
quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
42. Văn phòng Quốc hội (2015), Chuyên đề Kinh nghiệm một số nước trên thế
giới về trưng cầu ý dân, Hà Nội.
43. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB từ điển
bách khoa - NXB tư pháp, Hà Nội.
44. Đinh Ngọc Vượng (2005), “Trưng cầu ý dân ở Liên Xô và Liên Bang Nga”,
Nghiên cứu lập pháp, (9).
45. Đinh Ngọc Vượng (2006), “Chế định trưng cầu ý dân trong pháp luật Việt
Nam”, Nhà nước& pháp luật, (01).
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ
46. dantri.com.vn
47. duthaoonline.quochoi.vn
48. nld.com.vn
49. nhandan.com.vn
50. tcnn.vn
51. thanhnien.com.vn
52. tuoitre.vn
53. vneconomy.vn

You might also like