Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


-----🙦🙥🕮🙦🙥-----

BÀI THẢO LUẬN


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài:
PHÂN TÍCH THÀNH TỰU 35 NĂM ĐỔI
MỚI TRÊN LĨNH VỰC NGOẠI GIAO CỦA
ĐẤT NƯỚC

Giảng viên: Nguyễn Ngọc Diệp


Lớp học phần: 2313HCMI0131
Nhóm: 9

Hà Nội, tháng 3 năm 2023


1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 9

STT Tên thành viên MSV


81 Nguyễn Thị Nụ 21D100226
82 Phạm Xuân Phú 21D140306
83 Bùi Mai Phương 21D100320
84 Nguyễn Phương Phước 21D140129
85 Lường Minh Phượng 21D100321
86 Trần Hoài Quyên 21D100229
87 Trịnh Thị Quỳnh 21D100369
88 Nguyễn Thị Thanh 21D140311
89 Trần Minh Thành 21D100416
90 Nguyễn Phương Thảo 21D100371
Nguyễn Thu Trang

2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................................5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................................5
1.1. Khái niệm lĩnh vực ngoại giao..................................................................................5
1.2. Vai trò của ngoại giao trong việc đổi mới đất nước...............................................5
1.3. Quan điểm đường lối ngoại giao của Việt Nam......................................................8
1.4. Các yếu tố tác động đến lĩnh vực ngoại giao...........................................................9
CHƯƠNG 2. THÀNH TỰU TRONG LĨNH VỰC NGOẠI GIAO TRONG 35 NĂM
ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC (1986 - 2021)......................................................................10
2.1.Thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao giai đoạn 1986 - 1995.................................10
2.1.1. Thành tựu trong lĩnh vực kinh tế giai đoạn 1986 - 1995..............................10
2.1.2.Thành tựu trong lĩnh vực chính trị giai đoạn 1986 - 1995.............................11
2.2. Thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao giai đoạn 2011 - 2021................................14
2.2.1. Thành tựu trong lĩnh vực kinh tế giai đoạn 2011 – 2021..............................14
2.2.2. Thành tựu trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 2011 – 2021............................16
2.2.3. Thành tựu trong lĩnh vực chính trị giai đoạn 2011 – 2021...........................17
CHƯƠNG 3. TỔNG KẾT.................................................................................................22
3.1. Ý nghĩa của ngoại giao đối với lợi ích đất nước...................................................22
3.2. Những điểm mạnh yếu của lĩnh vực ngoại giao nước ta......................................24
3.2.1. Điểm mạnh........................................................................................................24
3.2.2. Điểm yếu............................................................................................................27
3.3. Nhiệm vụ của toàn thể đất nước trong việc ngoại giao và phát triển đất nước.27
3.4. Bài học kinh nghiệm................................................................................................30
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................................33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................34

3
LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu
to lớn. Ba mươi lăm năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu
sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn công tác đối ngoại "phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc
mà phục vụ". Thực hiện lời dạy của Người, trong 35 năm đổi mới, công tác đối ngoại
Việt Nam đã luôn đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo thực hiện thành công. Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an
ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng
bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị
được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm lĩnh vực ngoại giao
a) Khái niệm:
Ngoại giao là một khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của những khả
năng, là hoạt động của những cơ quan làm công tác đối ngoại và những đại diện có
thẩm quyền làm công tác đối ngoại của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền
hạn của quốc gia, dân tộc ở trong nước và trên thế giới, góp phần giải quyết những
vấn đề quốc tế chung, bằng con đường đàm p) hán và những hình thức hòa bình khác.
b) Đặc điểm của ngoại giao:
- Thứ nhất, ngoại giao giúp triển khai những mục tiêu cụ thể của quốc gia song
song đảm bảo trật tự thế giới, là công cụ để quốc gia đạt được lợi ích của mình.
Ngoại giao như một cỗ máy mà thông qua đó một quốc gia có thể tạo nên sự ảnh
hưởng và thể hiện sự quan tâm của họ đối với bên ngoài và đảm bảo lợi ích của quốc
gia.
- Thứ hai, ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai đường lối
ngoại giao và đường lối chính sách đối ngoại của một quốc gia.
Các nhà ngoại giao nắm vững chính sách đối ngoại, có kiến thức và kỹ năng cần
thiết để tiến hành hiệu quả những nghiệp vụ Ngoại giao và đạt được những mục tiêu
đối ngoại.
- Thứ ba, ngoại giao là nhiệm vụ của những cơ quan chuyên trách về quan hệ
đối ngoại ở cả trong và ngoài nước.
Các cơ quan đại diện Ngoại giao ở nước ngoài có nhiệm vụ thu thập thông tin tại
nước sở tại về tình hình kinh tế, chính trị, về những hoạt động và quan hệ giữa chính
quyền nước sở tại với bên ngoài nhằm đánh giá, phân tích và dự báo những vấn đề
phát sinh.
1.2. Vai trò của ngoại giao trong việc đổi mới đất nước
- Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy, hoạt động đối ngoại
luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc giữ yên bờ cõi, giữ gìn nền độc lập, chủ
quyền của đất nước.
Ngoại giao - lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập
dân tộc, củng cố môi trường hoà bình cho đất nước.
- Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời, trong bối cảnh lực lượng
cách mạng còn non trẻ, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao mở

5
đường bảo vệ chính quyền cách mạng trước tình thế “ngàn cân treo sợ tóc”. Hiệp định
Sơ bộ (6/3/1946), bản Tạm ước (14/9/1946)… đã trở thành những bài học kinh điển,
nghệ thuật ngoại giao đồng thời phân hoá hàng ngũ đối phương, tránh được việc phải
đối mặt với nhiều kẻ thù mạnh. Ngoại giao đã góp phần kéo dài khoảng thời gian hoà
bình tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng quan trọng để chính quyền cách mạng có thêm thời
gian củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc trường kì kháng chiến.
- Trong hai cuộc kháng chiến, ngoại giao Việt Nam đã đóng vai trò tích cực
trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng
hợp cho dân tộc ta giành thắng lợi cuối cùng. Ngoại giao đã trở thành 1 mặt trận quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược và là bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối cách
mạng, kết hợp cùng với mặt trận quân sự có mặt ở tuyến đầu của đấu tranh cách
mạng. Ngoại giao đã giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc và tinh thần thiện
chí làm cầu nối với nhân dân thế giới yêu chuộng hoà bình, qua đó tập hợp mặt trận
quốc tế rộng rãi ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Cùng với thắng lợi quân sự
trên chiến trường thì trên mặt trận ngoại giao thời kì này đã phát huy trí tuệ bản lĩnh
để ghi mốc son trong lịch sử dân tộc với các hiệp định Genève 1954 và Hiệp định
Paris 1973, tạo điều kiện thuận lợi đưa dân tộc ta đi đến chiến thắng lịch sử mùa Xuân
1975.
- Trong thời bình, Ngoại giao đóng vai trò nòng cốt góp phần giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho xậy dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, ngoại giao đã đi đầu trong đấu tranh chính trị, đàm phán, cùng với quốc
phòng, an ninh góp phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia. Bên cạnh đó, ngoại giao đã xử lý khôn khéo các vấn đề nảy sinh trong quan
hệ với các nước cũng như những phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn, tạo môi
trường quốc tế thuận lợi cho an ninh và phát triển của đất nước.
Ngoại giao nỗ lực trong tìm kiếm, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để phục
vụ phát triển đất nước.
- Trong thời kỳ kháng chiến, ngoại giao đi đầu trong việc vận động sự trợ giúp
của bạn bè quốc tế, đóng góp vào công cuộc phục hồi kinh tế, xây dựng cơ sở cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc để trở thành hậu phương vững chắc
cho miền Nam.
- Trong những năm trước đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước hết sức
khó khăn. Ngoại giao đã đi đầu trong “phá vây” mở ra cục diện phát triển mới cho đất
nước, đã tham mưu cho Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 32 (tháng 7 - 1986)
khẳng định bước đổi mới tư duy quan trọng về đối ngoại là kết hợp sức mạnh dân tộc

6
với sức mạnh thời đại, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, và Nghị quyết số 13 (tháng 5 - 1988) trong đó nhấn mạnh chính sách
“thêm bạn, bớt thù”, đa dạng hoá quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, đôi bên cùng có lợi.
- Ngoại giao đã tham gia tích cực trong hội nhập quốc tế với trọng tâm là hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút nguồn lực cho sự phát triển đất nước. Sau gần 35
năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, GDP của Việt Nam đã tăng gấp 10 lần,
kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng gần 176 lần. Bên cạnh đó ngoại giao ngày càng gắn
kết hơn với người dân, các địa phương và doanh nghiệp trong quá trình phát triển.
Ngoại giao kinh tế đã tích cực, chủ động, tiếp cận , mở đường phát triển quan hệ
thương mại và đầu tư với 230 thị trường ở tất cả các châu lục, tham gia hơn 500 hiệp
định song phương và đa phương trong nhiều lĩnh vực, phục vụ đắc lực cho phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngoại giao phát huy vai trò nòng cốt nâng cao vị thế đất nước, thể hiện vai trò
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
- Ngành ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các binh chủng đối
ngoại trên cả ba trụ cột: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân để
triển khai đồng bộ hiệu quả công tác đối ngoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Thực hiện lời dạy của Bác,
chúng ta không những bảo vệ vững chắc Tổ quốc mà còn tham gia, đóng góp tích cực
vào công việc chung của cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, kể từ khi đổi mới đến nay,
chúng ta trực tiếp đóng vai trò điều phối lợi ích trên cương vị chủ nhà nhiều sự kiện
quan trọng, trong đó có Hội nghị thượng đỉnh Pháp ngữ năm 1997, Hội nghị cấp cao
ASEAN năm 1998, năm 2010, Hội nghị cấp cao ASEM năm 2005, Hội nghị cấp cao
APEC năm 2006 và năm 2017... Chúng ta đã và đang đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại
đa phương theo tinh thần của Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư,
về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, chủ động và tích cực
đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương, đồng thời vươn lên đóng vai trò
tích cực vào việc giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu. Việc chúng ta góp phần
tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ hai tại Hà Nội, qua
đó thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và
cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao; việc Việt Nam trúng cử với số phiếu cao kỷ lục
trong lịch sử Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào vị trí Ủy viên không thường trực
nhiệm kỳ 2020 - 2021 của cơ quan quan trọng nhất của Liên hợp quốc đã cho thấy sự
tin tưởng, kỳ vọng của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Đặc biệt, trong năm
2020, lần đầu tiên Việt Nam cùng lúc đảm nhiệm ba trọng trách quốc tế: Chủ tịch
7
ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2020 - 2021, Chủ tịch Hội đồng liên Nghị viện ASEAN lần thứ 41 (AIPA 41), thể
hiện trách nhiệm quốc tế của đất nước cũng như năng lực của các binh chủng đối
ngoại dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
1.3. Quan điểm đường lối ngoại giao của Việt Nam
Tại Đại hội Đảng, Đảng và Nhà nước nêu rõ quan điểm, đường lối đối ngoại và
chủ động hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta như sau:
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đa dạng hóa, đa phương hóa
trong quan hệ đối ngoại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài
để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào
sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong đó,
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân được đặt lên hàng đầu; đồng thời phải
nhận thức rõ vị trí của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đối với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế phải góp phần quan trọng bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, ưu
tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có
chung biên giới như: Lào, Trung Quốc và Cam-pu-chia. Ký kết và thực hiện hiệu quả
các hiệp định thương mại song phương, đa phương mới trong một kế hoạch tổng thể
với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước.
Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng
đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai
trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại của quốc tế.
Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược.
Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là với các
nước ASEAN.

8
Hội nhập quốc tế là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ đối ngoại. Hội nhập
quốc tế không giới hạn trong một phạm vi, một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà
được lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Tham gia
mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế là phải tham gia các quá trình kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời
cuộc nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách
nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu…, đặc biệt là
Liên hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối
phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu toàn
cầu. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong
đó có tham gia các hoạt động hợp tác ở mức độ cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa
bình của Liên hợp quốc,…
Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hợp tác quốc
tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công
nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh vực khác. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị…; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động,
đối đầu.
1.4. Các yếu tố tác động đến lĩnh vực ngoại giao
Các nhân tố quan trọng quyết định chính sách đối ngoại của một quốc gia bao
gồm:
- Lợi ích của quốc gia: Lợi ích quốc gia của Việt Nam trong đối ngoại bao gồm
hai nhóm: nhóm các lợi ích sống còn và nhóm các lợi ích phát triển. Nhóm các lợi ích
sống còn bao gồm giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia;
giữ vững hòa bình với bên ngoài, bảo đảm ổn định và trật tự bên trong; bảo đảm cuộc
sống an toàn cho nhân dân; bảo đảm an ninh kinh tế của quốc gia; giữ gìn bản sắc dân
tộc. Nhóm các lợi ích phát triển bao gồm không ngừng nâng cao khả năng giữ vững
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; không ngừng nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân; mở rộng không gian phát triển; phát huy bản sắc dân
tộc; phát huy vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
- Thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế: Chính sách đối ngoại được xây
dựng trên cơ sở không những phải phù hợp với lợi ích của quốc gia, mà còn phải
tương thích với vị thế và sức mạnh tổng hợp của đất nước.

9
- Tình hình chính trị và an ninh thế giới: cục diện thế giới và khu vực cũng có
ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối
ngoại của mọi quốc gia trên thế giới
- Mục tiêu quốc gia mong muốn đạt được;
- Ảnh hưởng của bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại;
- Các nhân tố chính trị nội bộ (các nhóm lợi ích, giới truyền thông, công luận,
…)

CHƯƠNG 2. THÀNH TỰU TRONG LĨNH VỰC NGOẠI GIAO TRONG


35 NĂM ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC (1986 - 2021)
2.1.Thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao giai đoạn 1986 - 1995
2.1.1. Thành tựu trong lĩnh vực kinh tế giai đoạn 1986 - 1995
Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thứ nhất, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và bắt đầu hội
nhập nền kinh tế quốc tế.
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng như: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm,
trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 - 14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng
28%/năm.
Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh
tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội
dung của công nghiệp hóa Xã hội Chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Điều quan
trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý
mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải
phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
- Thứ hai, đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái và có những
bước phát triển trong kinh tế đối ngoại.
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng như khắc
phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và
toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức, cụ thể: GDP bình quân tăng
8,2%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm, nông nghiệp tăng 4,5%/năm,

10
lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm, tổng sản lượng lương thực 5 năm từ 1991 - 1995 đạt
125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990.
Hầu hết các lĩnh vực kinh tế nước ta đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá.
“Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn
15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để
chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Song song với quá trình hiện đại hóa đất nước chính là phát triển hợp tác quốc
tế, Việt Nam ngày càng có nhiều đối tác kinh tế ở trong và ngoài khu vực Đông Nam
Á.
- Thứ ba, cải thiện môi trường kinh doanh trong nước, qua đó thu hút thêm đầu
tư nước ngoài cho phát triển.
Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng hiện đại với tỷ trọng
nông nghiệp giảm dần và tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ và sản xuất công
nghiệp ngày càng tăng, chứng kiến sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, bên
cạnh các doanh nghiệp Nhà nước. Xuất khẩu thường xuyên đạt tốc độ tăng trưởng
cao, được đa dạng hóa với tỷ trọng hàng công nghiệp chế tạo ngày càng tăng, tỷ trọng
hàng nông sản và nguyên liệu thô giảm dần. Các vùng kinh tế trọng điểm, khu công
nghiệp tập trung trở thành động lực tăng trưởng kinh tế. Sản xuất công nghiệp và xây
dựng duy trì đà tăng trưởng vững chắc, tạo ra sự đa dạng lớn về sản phẩm. Từ những
cải thiện tích cực bên trong nền kinh tế, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài càng đổ về
Việt Nam nhiều hơn, càng làm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế Việt Nam thêm
mạnh mẽ.
- Thứ tư, đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, góp phần tăng cường nguồn
lực cho phát triển đất nước.
Việt Nam tiến hành xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị
trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học
- công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận đã được ký
kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Việc thúc đẩy
và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế đã góp phần thiết thực cho
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
2.1.2.Thành tựu trong lĩnh vực chính trị giai đoạn 1986 - 1995
Chủ trương đối ngoại của Việt Nam được khẳng định tại Ðại hội VII (1991),
theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với các nước trên thế giới và mở rộng, đa
phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Thế giới quan mới về thời đại và cục diện thế

11
giới, đã mở đường, tạo điều kiện để Việt Nam phá thế bao vây cô lập, phát triển rộng
rãi quan hệ đối ngoại. Việt Nam, đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
năm 1991, với Mỹ năm 1995, thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các
nước quan trọng trên thế giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Với chủ trương đường lối và quyết sách đúng đắn của Đảng, đất nước đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển mới
của đất nước. Các xu thế hòa bình, toàn cầu hóa, dân chủ hóa của thời đại ngày càng
được củng cố và tăng cường, là một trong những nước nằm trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao.
Thứ nhất, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ.
Ngày 3-2-1994 Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và ngày 11-7-
1995 Tổng thống B.Clin-tơn tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận, chính thức đặt
dấu mốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Việc bình thường hóa
quan hệ với Mỹ đã giúp ta khai thông quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), Nhật
Bản, Hàn Quốc, gia nhập Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
và các tổ chức quốc tế khác. Quan hệ giữa ta với các nước bạn bè cũ ở Đông Âu được
xác định lại trên cơ sở mới.
Thứ hai, gia nhập ASEAN.
Sau khi Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết, "nút thắt" đầu tiên trong
quan hệ của ta với các nước đã được tháo gỡ, quá trình đàm phán giữa ta và các nước
ASEAN về việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được đẩy nhanh. Ngày 28-7-1995,
chúng ta đã gia nhập ASEAN và trở thành thành viên chính thức thứ bảy của tổ chức
này. Năm 1995 với 3 sự kiện quan trọng cùng diễn ra trong tháng 7 là ký Hiệp định
khung với EU; thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và chính thức trở thành thành
viên của ASEAN, đã trở thành năm đáng ghi nhớ nhất của ngoại giao Việt Nam thời
kỳ đổi mới, tạo ra một hình ảnh mới về Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Từ đó đã phá được thế bị bao vây, cấm vận thời kỳ đầu đổi mới; bình thường
hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường
hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục từng bước đưa quan hệ với
các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn.

12
Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác
toàn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,
đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế
giới, phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng ASEAN. Cùng với việc tăng cường
ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân được mở
rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương.
Thứ tư, củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, giữ vững độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố
và có những bước phát triển, ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Quan hệ Việt
Nam Campuchia được củng cố và tăng cường về nhiều mặt. Quan hệ với Trung Quốc
có những bước tiến triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Đã phân giới cắm
mốc xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; phê chuẩn Hiệp định phân định và Hiệp
định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ.
Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, có lúc rất
căng thẳng, chúng ta đã xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, kiên trì bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích của đất nước; đồng thời
kiên trì giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, kiên trì quan hệ hữu nghị với nhân
dân Trung Quốc, kiên trì chủ trương giải quyết những bất đồng bằng các biện pháp
hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật
biển 1982, kiên trì tôn trọng thỏa thuận giữa ASEAN và Trung Quốc về cách ứng xử
của các bên trên Biển Đông (DOC), nỗ lực cùng các nước liên quan xây dựng một Bộ
quy tắc ứng xử (COC) có hiệu lực hơn trong việc quản lý tranh chấp và ngăn ngừa
xung đột trên Biển Đông. Những chủ trương và giải pháp của Đảng, Nhà nước ta đã
được nhân dân đồng tình và dư luận quốc tế ủng hộ.
Thứ năm, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan
trọng đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập
vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc
biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Đẩy mạnh và từng bước đưa vào chiều sâu các hoạt
động hợp tác về quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn
hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác; lồng ghép
các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát
triển các lĩnh vực này. Chủ động ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực của quá trình
hội nhập quốc tế.

13
Như vậy, nhờ sự điều chỉnh đúng đắn đường lối đối ngoại, trên cơ sở nhận thức
sâu sắc những biến chuyển của thời cuộc, chúng ta đã đạt được thành tựu bước đầu
quan trọng là phá bỏ sự bao vây cấm vận, gỡ bỏ những trở ngại trong quan hệ quốc tế
và khu vực, khơi thông dòng chảy hội nhập, bước vào trường quốc tế với một tư cách,
vị thế và hình ảnh mới, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của ngoại giao Việt Nam
trong những năm đổi mới.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững
hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên
thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó
cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.2. Thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao giai đoạn 2011 - 2021
2.2.1. Thành tựu trong lĩnh vực kinh tế giai đoạn 2011 – 2021
Thứ nhất, mở rộng và đưa quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước đi vào
chiều sâu; tham gia các liên kết kinh tế, diễn đàn đa phương nhằm tranh thủ tối đa
các nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế đất nước.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác
chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm
hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên
thế giới. Bộ Công Thương thay mặt Chính phủ cũng đã thiết lập và duy trì cơ chế họp
luân phiên Ủy ban liên chính phủ và Ủy ban Hỗn hợp, các Nhóm công tác chuyên biệt
nhằm thúc đẩy hợp tác song phương và giải quyết kịp thời những vướng mắc trong
quan hệ kinh tế, thương mại, công nghiệp và năng lượng giữa Việt Nam với các nước
đối tác. Điển hình, là quan hệ ngoại giao.
Một trong những thành tựu nổi bật trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam trong 10 năm qua đó là việc tham gia đàm phán, ký kết và thực thi các Hiệp
định thương mại tự do (FTA). Quán triệt chủ trương và chỉ đạo của Đảng và Chính
phủ về công tác hội nhập kinh tế quốc tế hiệu lực và hiệu quả trong tình hình mới, Bộ
Công Thương, với vai trò là cơ quan chủ trì công tác điều phối, đã đóng góp lớn trong
việc đàm phán và ký kết thành công hàng loạt các FTA mới với các đối tác thương
mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam, giúp đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu,
đồng thời tạo ra những động lực đổi mới trong nước nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân giữa Việt Nam
và Campuchia.

14
Thứ hai, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu.
Việt Nam tiếp tục được duy trì và mở rộng với trên 200 đối tác thương mại. Qua
đó cho thấy sự nỗ lực trong việc mở cửa thị trường, sự cải tiến trong công tác xúc tiến
thương mại tiêu thụ hàng hóa và hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu có tác động tích
cực không nhỏ đối với kinh tế của Việt Nam. Cùng với việc một loạt các FTA mới
được ký kết và có hiệu lực trong giai đoạn vừa qua, hàng hóa Việt Nam bên cạnh việc
tiếp tục khai thác vào các thị trường truyền thống, đã và đang mở rộng tìm kiếm, phát
triển thêm nhiều thị trường mới.
Tính tới năm 2020, Việt Nam đã có 31 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1
tỷ USD, trong đó, 5 thị trường đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD, 8 thị trường trên 5 tỷ
USD. Trong giai đoạn 2015 - 2020, xuất khẩu của Việt Nam sang EU (27 nước) tăng
từ 14,2 tỷ USD lên 35,1 tỷ USD (tăng 148%), Nhật Bản tăng từ 10,8 tỷ USD lên 19,3
tỷ USD (tăng 79%), Ốt-xtrây-lia tăng từ 2,5 tỷ USD lên 3,6 tỷ USD (tăng 44%), Niu
Di-lân tăng từ 151 triệu USD lên 498 triệu USD (tăng 229%). Trong bối cảnh dịch
Covid-19 diễn biến phức tạp và có tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại trên
phạm vi toàn cầu, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang một số thị trường truyền
thống gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, khi nhìn vào tổng thể, xuất khẩu của cả nước
vẫn tăng trưởng dương do các doanh nghiệp đã tận dụng được cơ hội đẩy mạnh xuất
khẩu sang các thị trường thay thế. Điều này cho thấy, việc đẩy mạnh các hoạt động
đàm phán, ký kết các FTA đã giúp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh sự phụ
thuộc quá lớn vào một thị trường.
Bên cạnh đó, xuất khẩu đã có sự tăng trưởng cân đối hơn, không chỉ về quy mô
chiều rộng mà hướng tới cả về chiều sâu. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp
cận được các khu vực thị trường được coi là “khó tính” nhất trên thế giới, nơi đặt ra
những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cao đối với hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là với
nhóm hàng nông sản và thủy sản. Cụ thể: đối với thủy sản, trong giai đoạn 2011 -
2020, kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 40% (từ 1,2 tỷ USD lên 1,6 tỷ USD),
sang Nhật Bản tăng 41% (từ 1 tỷ USD lên 1,4 tỷ USD), sang Ốt-xtrây-lia tăng 40% (từ
163 triệu USD lên 229 triệu USD), sang Hà Lan tăng 38% (từ 159 triệu USD lên 219
triệu USD), v.v. Đối với rau quả, trong giai đoạn 2011-2020, kim ngạch xuất khẩu
sang Hoa Kỳ tăng 485% (từ 29 triệu USD lên 169 triệu USD), sang Nhật Bản tăng
173% (từ 47 triệu USD lên 128 triệu USD), sang Hà Lan tăng 175% (từ 30 triệu USD
lên 82 triệu USD), sang Ốt-xtrây-lia tăng 491% (từ 11 triệu USD lên 64 triệu USD).

15
Thứ ba, tích cực nghiên cứu, theo dõi, dự báo về kinh tế thế giới, khu vực để
tham mưu, đề xuất phục vụ Đảng và Nhà nước trong xây dựng chiến lược, chính sách,
điều hành kinh tế.
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, thực hiện tốt
công tác ngoại giao kinh tế để tiếp tục nâng cao hiệu quả và đáp ứng được các yêu cầu
trong tình hình mới kinh tế - xã hội.
2.2.2. Thành tựu trong lĩnh vực văn hóa giai đoạn 2011 – 2021
Nhìn chung, ngoại giao văn hóa tiếp tục quảng bá sâu rộng hình ảnh đất nước,
con người và văn hóa Việt Nam ra thế giới. Chúng ta đã vận động UNESCO công
nhận mới 6 di sản/danh hiệu và tôn vinh 03 danh nhân Việt Nam. Chính phủ đã ban
hành Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030, trong đó xác định rõ mục tiêu,
quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ cho các cấp, các ngành tiếp tục đẩy mạnh, nâng
cao hiệu quả ngoại giao văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn
mới.
Ngày 14/2/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược Ngoại giao văn
hóa đến năm 2020 (Quyết định số 208/QĐ-TTg). Đây là chiến lược đầu tiên của Việt
Nam trên lĩnh vực văn hóa nhằm triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế của Đại hội lần thứ XI của Đảng. Chiến lược xác định nội hàm khái niệm, các
mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp triển khai cụ thể của ngoại giao văn hóa Việt Nam
trong giai đoạn 2011 – 2020.
Thứ nhất, ngoại giao văn hóa quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, văn hóa và
con người Việt Nam với thế giới.
Các hoạt động quảng bá được cả hệ thống chính trị tích cực triển khai nhằm giới
thiệu với bạn bè quốc tế hình ảnh đất nước Việt Nam có lịch sử hào hùng hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước, một đất nước tươi đẹp và giàu tiềm năng phát triển; con
người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý,
đoàn kết, cần cù, sáng tạo, thân thiện và hiếu khách; nền văn hóa Việt Nam đặc sắc, đa
dạng và hòa hợp.
Thứ hai, ngoại giao văn hóa góp phần nâng cao vị thế đất nước và tranh thủ các
nguồn lực phục vụ phát triển bền vững đất nước.
Tại các diễn đàn đa phương, ngoại giao văn hóa kết hợp với ngoại giao chính trị
xây dựng hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam phát huy và làm lan tỏa giá trị văn hóa Việt
Nam thông qua việc thể hiện vai trò tích cực, chủ động, trách nhiệm của quốc gia
thành viên tham gia đóng góp vào công việc chung của tổ chức, ủng hộ việc tôn trọng
luật pháp quốc tế và các giá trị phổ quát; thể hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,

16
hòa bình, hợp tác và phát triển; tích cực thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia, cùng
chung nỗ lực, chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu
như phòng chống Covid-19, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy bình đẳng giới,
phát triển bền vững...
Tại ASEAN, ngoại giao văn hóa Việt Nam đã đóng góp tích cực, cùng các quốc
gia thành viên xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) thông qua các
sáng kiến, đề xuất nhằm góp phần thúc đẩy quảng bá hình ảnh, nâng cao nhận thức
của người dân hướng đến Cộng đồng ASEAN; tăng cường trao đổi văn hóa, giao lưu
nhân dân, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, thể thao, môi
trường...; thúc đẩy tình đoàn kết và thống nhất lâu bền giữa các quốc gia và người dân
ASEAN, tạo dựng một bản sắc văn hóa chung ASEAN, qua đó góp phần giữ gìn hòa
bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
Thứ ba, ngoại giao văn hóa tham gia xây dựng thương hiệu địa phương.
Nhiều địa phương đã tổ chức thành công các lễ hội, sự kiện văn hóa lớn, trong
đó, nhiều sự kiện, lễ hội định kỳ và thường niên dần trở thành “thương hiệu” của địa
phương, tạo sức hút đối với Ngoại giao Đoàn tại Việt Nam, với bạn bè và khách du
lịch quốc tế.
Ngoại giao văn hóa kết hợp với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế giúp
tạo hiệu ứng, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư, du lịch, góp phần mở rộng hợp tác
giữa các địa phương Việt Nam với các địa phương và đối tác nước ngoài. Một số địa
phương đang hướng đến xây dựng thương hiệu "thành phố sáng tạo", "thành phố học
tập toàn cầu" của UNESCO, trở thành trung tâm của khu vực và thế giới trong lĩnh
vực ẩm thực, điện ảnh…
2.2.3. Thành tựu trong lĩnh vực chính trị giai đoạn 2011 – 2021
Thứ nhất, quan hệ chính trị tiếp tục được tăng cường và ngày càng đi vào chiều
sâu, giữ vai trò nòng cốt, định hướng tổng thể trong quan hệ hai nước.
Hai bên luôn khẳng định quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào là mẫu mực, thủy chung, trong sáng hiếm có, là quy luật
phát triển, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng mỗi nước, là tài sản chung vô
giá của hai Đảng, hai dân tộc, cần được giữ gìn, bảo vệ, vun đắp và truyền tiếp cho
các thế hệ mai sau.
Hai bên đã phát huy những cơ chế hợp tác sẵn có, đồng thời triển khai những cơ
chế hợp tác mới; phối hợp chặt chẽ trong các vấn đề chiến lược; thường xuyên trao
đổi các đoàn cấp cao và các cấp dưới nhiều hình thức, góp phần làm sâu sắc hơn mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, nổi bật có các chuyến thăm Lào của Tổng Bí thư,

17
Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và các chuyến
thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc
hội Lào. Bên cạnh đó, chuyến thăm của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Trung ương Đảng của hai bên…; ký kết nhiều văn kiện hợp tác quan trọng giữa hai
Đảng, hai Chính phủ, tạo hành lang pháp lý thuận lợi thúc đẩy quan hệ hợp tác; tập
trung triển khai thực hiện tốt các thỏa thuận và Tuyên bố chung được ký kết giữa lãnh
đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, góp phần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong việc thực hiện các thỏa thuận.
Hai bên luôn phối hợp tuyên truyền sâu rộng về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt
Việt Nam - Lào, nhất là trong thế hệ trẻ, nhân các sự kiện trọng đại trong quan hệ giữa
hai nước; triển khai xây dựng một số công trình và tôn tạo các di tích lịch sử về quan
hệ Việt Nam - Lào ở mỗi nước.
Hoàn thành Công trình Nhà Quốc hội Lào, Tượng đài Tình đoàn kết liên minh
chiến đấu Lào - Việt Nam tại tỉnh Xaisomboun; khánh thành Khu di tích lịch sử cách
mạng Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản tại khu di tích Lao Khô thuộc tỉnh Sơn La (năm
2017); Dự án biên dịch các bộ sách kinh điển Mác - Ăng-ghen, Lê-nin và Hồ Chí
Minh Toàn tập sang tiếng Lào và bộ phim tài liệu Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản,
Chủ tịch Xu-pha-nu-vông; tặng thưởng huân chương, huy chương cho các tập thể và
cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc góp phần thúc đẩy và tăng cường quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào.
Về phối hợp phòng, chống dịch Covid-19: Hai bên đã thể hiện sự chia sẻ, giúp
đỡ nhau trong năm 2021: Đảng, Nhà nước Việt Nam đã hai lần hỗ trợ Đảng, Nhà nước
Lào ứng phó với dịch Covid-19 số tiền mặt 2.650.000 USD cùng trang thiết bị y tế trị
giá hơn 2 triệu USD; tặng Bạn Lào 1 triệu liều vắc-xin; cử các đoàn chuyên gia y tế và
quân y sang hỗ trợ Lào chống dịch được Bạn đánh giá cao. Đảng, Nhà nước Lào và
các doanh nghiệp của Lào đã hỗ trợ Việt Nam 1,7 triệu USD (trong đó doanh nghiệp
là 1,4 triệu USD). Hai bên phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho người dân hai
nước, lưu học sinh xuất nhập cảnh, cách ly, sinh sống và học tập bình thường.
Trong năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, dù bối cảnh dịch bệnh COVID-
19 còn diễn biến phức tạp, nhưng hai bên đã phối hợp tổ chức thành công Đại hội đại
biểu toàn quốc của mỗi Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội ở mỗi nước trong năm
2021; duy trì các chuyến thăm, các cuộc điện đàm và tiếp xúc cấp cao bằng nhiều hình
thức linh hoạt, nổi bật là chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Lào.

18
Hai bên thiết lập và triển khai thực hiện có hiệu quả các cơ chế tham vấn thường
niên cấp Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; tăng cường
trao đổi thông tin về tình hình thế giới và khu vực mà hai bên cùng quan tâm; phối
hợp chặt chẽ, hiệu quả trong các hoạt động tại các diễn đàn đa phương, như Liên hợp
quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á - u
(ASEM), Khu vực Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV), Hợp tác
Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV), Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh
tế Ayeyarwady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS) và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng
Mekong, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của mỗi nước.
Thứ hai, hợp tác quốc phòng- an ninh tiếp tục được coi là trụ cột quan trọng
trong quan hệ hai nước.
Hai bên luôn phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau nhằm bảo đảm ổn định chính
trị, an ninh và trật tự, an toàn xã hội ở mỗi nước; thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác
05 năm và Kế hoạch hợp tác giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hai nước. Hai bên
đã hoàn thành Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào ;ký
02 văn kiện pháp lý quan trọng năm 2016 là “Nghị định thư về đường biên giới và
mốc giới Việt Nam - Lào” và “Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu
biên giới trên đất liền Việt Nam - Lào”; nâng cấp một số cửa khẩu chính lên cửa khẩu
quốc tế ; duy trì cơ chế Cuộc họp thường niên giữa hai Trưởng đoàn đại biểu biên giới
Việt Nam - Lào; cơ bản hoàn thành Thỏa thuận cấp cao Chính phủ về giải quyết vấn
đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong khu vực biên giới hai nước .
Hai bên tiếp tục duy trì trao đổi thông tin, hợp tác chặt chẽ nhằm bảo đảm an
ninh, xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào ổn định, phát triển toàn diện; tổ chức
giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới lần thứ nhất;khẳng định nguyên tắc không cho
phép bất kỳ lực lượng nào dùng lãnh thổ của nước này để chống nước kia; tăng cường
tổ chức tuần tra chung, tìm kiếm cứu nạn, kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu; trao đổi
kinh nghiệm trong công tác xây dựng lực lượng quân đội hai nước; phòng, chống tội
phạm xuyên quốc gia; ngăn chặn và xử lý khai thác tài nguyên thiên nhiên trái phép,
buôn lậu, vận chuyển ma túy và những vấn đề tiêu cực khác nảy sinh tại khu vực biên
giới hai nước. Hai bên cũng phối hợp chặt chẽ trong công tác phòng, chống dịch bệnh
COVID-19; tiếp tục củng cố và phát huy vai trò của các cụm, bản; phối hợp, tu bổ các
tượng đài biểu tượng của tình đoàn kết hữu nghị và liên minh chiến đấu Việt Nam -
Lào tại Lào; phối hợp tìm kiếm và quy tập hài cốt chiến sĩ, quân tình nguyện Việt
Nam hy sinh tại Lào .

19
Thứ ba, hợp tác kinh tế, văn hóa, y tế và khoa học - kỹ thuật đã có chuyển biến
tích cực.
Việt Nam và Lào tích cực triển khai các hiệp định giữa hai Chính phủ và thỏa
thuận tại các kỳ họp của Ủy ban liên Chính phủ; tích cực triển khai Thỏa thuận về
Chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào;
tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, chủ động tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, tiếp tục ký kết nhiều văn kiện hợp tác, tạo hành lang pháp lý đồng bộ để
thúc đẩy hợp tác giữa hai nước.
Về đầu tư, tính đến nay, Việt Nam có 214 dự án đầu tư sang Lào còn hiệu lực,
với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 5,33 tỷ USD , tiếp tục duy trì vị trí thứ 3 trong số
các nước có hoạt động đầu tư tại Lào (sau Trung Quốc, Thái Lan). Một số dự án đã đi
vào hoạt động đạt hiệu quả tốt, đã có doanh thu, thực hiện các nghĩa vụ tài chính với
các cơ quan nhà nước Lào và tạo ra việc làm ổn định cho hàng vạn lao động của Lào.
Từ năm 2017 đến năm 2021, hai bên tích cực triển khai và đưa vào sử dụng nhiều
công trình, dự án sử dụng nguồn vốn viện trợ, trong đó có dự án trọng điểm như Bệnh
viện Hữu nghị tại tỉnh Hủa-phăn và tỉnh Xiêng-khoảng của Lào. Đặc biệt, hai bên
hoàn thành dự án công trình Nhà Quốc hội mới của Lào. Đây là món quà của Đảng,
Nhà nước, nhân dân Việt Nam dành tặng Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào, là biểu
tượng của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
Về thương mại, hai bên tiếp tục thúc đẩy, đàm phán và ký kết nhiều văn bản
quan trọng, góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thương mại (Hiệp định thương
mại song phương mới, Hiệp định thương mại biên giới, Nghị định thư sửa đổi Hiệp
định quá cảnh hàng hóa Việt Nam - Lào, Đề án phát triển thương mại biên giới Việt
Nam - Lào…); chủ động, tích cực triển khai các văn kiện đã ký kết và cơ chế “một
cửa, một lần dừng” tại cặp cửa khẩu quốc tế Lao Bảo –Đen-xạ-vẳn, tăng cường các
biện pháp xúc tiến thương mại.
Giai đoạn 2016-2020, kim ngạch thương mại Việt Nam – Lào đã có những bước
phát triển đáng kể, tốc độ tăng bình quân 4%/năm. Kim ngạch thương mại Việt Nam -
Lào năm 2021 đạt trên 1,37 tỷ USD (tăng khoảng 33,3% so với năm 2020). Giai đoạn
2021-2025, hai nước phấn đấu tăng kim ngạch thương mại hai nước mỗi năm tăng
10%.
Trong 4 tháng đầu năm 2022, kim ngạch thương mại hai nước đạt 558,2 triệu
USD (tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2021). Trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang
Lào đạt 192,2 triệu USD, tăng 11,8% và nhập khẩu của Việt Nam từ Lào đạt 366 triệu
USD, tăng 48,5% so với cùng kỳ năm 2021.

20
Về giao thông vận tải, hai bên tiếp tục tập trung thực hiện Bản ghi nhớ giữa hai
Chính phủ về Chiến lược hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải giai đoạn 2016 -
2025, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, hai bên phối hợp nghiên cứu, thúc đẩy tìm
kiếm nguồn vốn triển khai các dự án trọng điểm; triển khai Hiệp định hợp tác và đầu
tư phát triển cụm bến cảng 1, 2, 3 tại cảng Vũng Áng; cơ bản hoàn thành dự án xây
dựng sân bay Nỏng-khạng tại tỉnh Hủa-phăn. Hai bên ký kết Thỏa thuận về xây dựng
và khai thác tuyến đường sắt Vũng Áng - Viêng Chăn; phối hợp đề nghị với Nhật Bản
xem xét triển khai thực hiện dự án tuyến đường bộ cao tốc Hà Nội - Viêng Chăn; đẩy
mạnh hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về giao
thông vận tải.
Về lĩnh vực năng lượng điện, hai bên đã ký kết Biên bản ghi nhớ về phát triển
các dự án thủy điện tại Lào và mua bán điện giữa hai nước đến năm 2030 và Hiệp
định về hợp tác phát triển các công trình năng lượng điện và mỏ; ký kết Bản ghi nhớ
về hợp tác mua bán điện từ các công trình điện gió…
Về nông lâm và phát triển nông thôn,hai Bên đã thống nhất coi hợp tác trong
lĩnh vực này là rất quan trọng, theo đó đã tăng cường trao đổi chuyển giao công nghệ,
kỹ thuật và xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp, nông thôn giảm nghèo, nâng
cao năng lực thể chế, chính sách trong quản lý sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản và
thủy lợi. Hai Bên tiếp tục hỗ trợ có hiệu quả cho phát triển nông thôn vùng trọng điểm
tại các tỉnh: Xiêng-khoảng, Hủa-phăn, Xay-xổm-bun; hoàn thành xây dựng các trung
tâm dịch vụ kĩ thuật nông nghiệp; thống nhất xây dựng một số dự án thủy lợi. Hai bên
đã phối hợp thực hiện tốt việc quản lý và bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên, ngăn
chặn việc buôn bán-vận chuyển gỗ trái phép và lâm sản - thú rừng xuyên biên giới.
Về lĩnh vực y tế, công tác khám, chữa bệnh cho cán bộ và nhân dân Lào tại Việt
Nam, nhất là tại các tỉnh có chung đường biên giới và công tác phối hợp khám, chữa
bệnh từ xa tiếp tục được quan tâm thúc đẩy; Việt Nam luôn tạo điều kiện giúp Lào đào
tạo cán bộ y tế; phối hợp chặt chẽ trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
Thứ tư, hợp tác về giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Việc triển khai Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt Nam - Lào
trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 đã tạo ra
sự thay đổi tích cực đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực của Lào, trong đó điểm
nhấn là việc triển khai xây dựng, sửa đổi các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao công
tác quản lý, tiếp nhận, đào tạo du học sinh Lào, điều chỉnh các chế độ học phí, sinh
hoạt phí, tạo điều kiện cho công tác đào tạo ngày càng hiệu quả, tạo sự chuyển biến rõ
rệt về số lượng và chất lượng. Hai bên phối hợp đẩy mạnh phong trào học tiếng Việt

21
tại các cơ sở đào tạo và các cơ quan của Lào; hoàn thành biên soạn và bàn giao
chương trình tiếng Việt (thực hiện thí điểm) từ lớp 1 đến lớp 12 để giảng dạy tại các
trường trung học có nhu cầu và có đủ điều kiện tại Lào; biên soạn sách giáo khoa
tiếng Việt cho học sinh Lào; thí điểm dạy song ngữ Việt - Lào trong Trường song ngữ
Nguyễn Du, xây dựng từ điển Việt - Lào. Bên cạnh đó, hai bên cũng thúc đẩy triển
khai các dự án sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới trường học, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tổ chức công tác dạy và học của học sinh, sinh viên; đào tạo bồi dưỡng giáo
viên, cán bộ tại Lào. Cuối năm 2020, hai bên đã ký kết Đề án nâng cao chất lượng và
hiệu quả hợp tác Việt Nam - Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực
giai đoạn 2021 – 2030, theo đó mỗi năm Việt Nam dành cho Lào hơn 1000 suất học
bổng đào tạo và bồi dưỡng và Lào dành cho Việt Nam 60 suất học bổng.
Hai bên đã thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực dạy nghề thông qua cung cấp các
trang thiết bị phục vụ cho việc dạy nghề của Lào; triển khai hợp tác hiệu quả trong tập
huấn tay nghề cho các thí sinh Lào tham dự Hội thi tay nghề ASEAN hằng năm.
Thứ năm, quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các ban, bộ, ngành, cơ quan
của Quốc hội, Mặt trận, các đoàn thể, các địa phương.
Trong các chuyến thăm lẫn nhau, hai bên trao đổi kinh nghiệm về công tác xây
dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; giúp đỡ lẫn
nhau giữa các địa phương, nhất là các địa phương có chung đường biên giới trong việc
xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm sóc y tế, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, xóa
nghèo, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn tại các khu vực biên giới hai nước.
Hoạt động đối ngoại nhân dân được hai nước hai nước hết sức quan tâm trong đó
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội của hai nước thường xuyên tổ
chức các chuyến thăm, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao. Qua đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa
nhân dân hai nước, thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Lào ngày càng phát triển đi vào
chiều sâu.

CHƯƠNG 3. TỔNG KẾT


3.1. Ý nghĩa của ngoại giao đối với lợi ích đất nước
Sau hơn 35 năm đổi mới, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc,
nhất là tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng
tiến bộ của nhân loại, công tác đối ngoại mang bản sắc “cây tre Việt Nam” đã mang
lại ý nghĩa vô cùng to lớn đối với lợi ích đất nước. Cụ thể là:

22
Một là, từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày
càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ,
thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm ngoại giao với tất cả các nước láng
giềng, các nước lớn, và bạn bè truyền thống. Nhờ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng
hộ rộng rãi của quốc tế. Cho đến nay, “nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước
trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ
đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện” và là thành
viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như
Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO, v.v.. Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà
nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh
nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu, góp phần củng cố
chính trị, quốc phòng, an ninh; kinh tế, văn hóa - xã hội được đẩy mạnh, qua đó tăng
cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác.
Hai là, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực
từ bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã
hội.
Sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền
kinh tế nước ta có sự liên kết quốc tế sâu rộng với hầu hết các nền kinh tế quan trọng
trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong
đó có 3 FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao. “Nếu cách đây 30 năm, chúng ta mới có
quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có quan
hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu đến nay đã đạt khoảng 600 tỉ USD, gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu
của thời kỳ đổi mới”. Mặt khác, trong bối cảnh đại dịch Covid -19 diễn biến phức tạp,
Việt Nam đã chủ động đóng góp có trách nhiệm vào sự nỗ lực chung của quốc tế
trong phòng, chống dịch Covid -19, đồng thời tranh thủ được sự hỗ trợ to lớn của
quốc tế về vắc xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, góp phần quan trọng trong phòng,
chống dịch Covid -19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, đối ngoại đã giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Các vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo điều
kiện thuận lợi nhằm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, góp phần củng cố hòa bình, ổn định
trong khu vực. Thực hiện tốt ngoại giao cây tre, kết hợp “cứng” và “mềm”, đề cao hòa

23
hiếu: “chúng ta luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm
phán với các nước liên quan kiểm soát bất đồng, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài
cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế”.
Bốn là, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày
càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy trách nhiệm vào việc giữ vững hòa
bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.
Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải
quyết trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của Việt Nam đã nhận được sự
đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Có thể nói, những cố gắng, kết quả trong công tác đối ngoại đã góp phần rất
quan trọng, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau 35 năm đổi mới: “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
3.2. Những điểm mạnh yếu của lĩnh vực ngoại giao nước ta
3.2.1. Điểm mạnh
Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ: “Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm
độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”1. Phát huy vai trò tiên phong, trong năm đầu tiên
thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngành Ngoại giao Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận trên tất cả các trụ cột.
Thứ nhất, về ngoại giao chính trị, ngành Ngoại giao Việt Nam đã tích cực thúc
đẩy mối quan hệ song phương và đa phương giữa Việt Nam với các đối tác, góp phần
củng cố vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với các đối tác đang ngày càng sâu sắc
và thực chất hơn, mở đường cho những cơ hội hợp tác sâu rộng hơn trên nhiều lĩnh
vực. Với các đối tác chiến lược quan trọng, Việt Nam đã và đang tích cực củng cố
quan hệ hợp tác, đa dạng hóa các lĩnh vực có tiềm năng hợp tác giữa hai bên, tạo điều
kiện cho việc nâng cấp quan hệ song phương, một trong số đó có thể kể đến như
Tuyên bố chung về tầm nhìn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga
đến năm 2030, một bước tiến lớn trong việc khẳng định tình hữu nghị và quan hệ hợp
tác bền chặt của hai quốc gia.
Bên cạnh đó, trên phạm vi khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và đang củng cố vai
trò và vị thế của mình trên mọi lĩnh vực, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, là thành
viên tích cực của các tổ chức quốc tế, chủ động xây dựng và nâng cao hiệu quả hợp

24
tác giữa các quốc gia. Đáng chú ý, trong năm 2021, Việt Nam đã đảm nhiệm thành
công vai trò chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, chủ trì 4 sự kiện
quan trọng, có ý nghĩa thiết thực, gồm: Phiên thảo luận cấp cao của Hội đồng Bảo An
với chủ đề: Tăng cường hợp tác giữa Liên hiệp quốc và các tổ chức khu vực nhằm
thúc đẩy xây dựng lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa và giải quyết xung đột; 2
phiên thảo luận cấp bộ trưởng về chủ đề: “Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa
bình bền vững: Tăng cường gắn kết để hành động hiệu quả hơn và Bảo vệ cơ sở hạ
tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân” và Phiên thảo luận mở thường niên về
bạo lực tình dục trong xung đột.
Thứ hai, về ngoại giao kinh tế, ngành Ngoại giao Việt Nam đã chủ động đóng
góp tích cực trong quá trình ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do, góp
phần giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường và sản phẩm, đưa hàng hóa Việt Nam ra
thế giới.
Thời gian qua, ngành Ngoại giao đã đôn đốc triển khai và đưa các hiệp định
thương mại tự do đã có hiệu lực đi vào thực chất, đạt hiệu quả. Hiệp định EVFTA
giữa Việt Nam và Liên minh châu u (EU) có hiệu lực từ tháng 8/2020 đã góp phần
thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Chỉ trong năm 2021, thương mại
hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỷ USD, tăng trưởng 14,8%, trong đó, Việt
Nam xuất sang EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2020. Bên cạnh đó, hiệp
định UKVFTA giữa Việt Nam và Vương quốc Anh có hiệu lực từ năm 2021 cũng đã
góp phần thúc đẩy thương mại hai chiều giữa hai quốc gia, với tổng giá trị 6,6 tỷ USD.
Cùng với sự hỗ trợ của ngành Ngoại giao, thời gian qua, Việt Nam cũng đã
không ngừng tích cực hoàn thiện khung pháp lý, phê chuẩn hiệp định RCEP trước
tháng 11/2021 và dự kiến Hiệp định này sẽ có hiệu lực từ tháng 01/20225. Với sự
tham gia của nhiều nền kinh tế lớn và có mối quan hệ sâu rộng với Việt Nam, như:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…, RCEP hứa hẹn sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn nữa
cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, các cơ quan đại diện của Việt
Nam tại nước ngoài luôn tích cực trong việc giúp đỡ, tạo điều kiện cho thương nhân
và nhà đầu tư trong nước tiếp cận với các thị trường mới thông qua quá trình trao đổi
thông tin như tổ chức các buổi tiếp xúc, gặp mặt, trao đổi thông tin về thị trường cho
các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Bộ Ngoại giao cũng đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, dưới sự chỉ đạo của
Chính phủ, triển khai đồng bộ và hiệu quả nhiều chính sách, biện pháp phục hồi kinh
tế trong và sau đại dịch như bảo đảm duy trì chuỗi cung ứng, giao thương hàng hóa,
dịch vụ trong nước cũng như giữa Việt Nam với nước ngoài; tiếp tục đẩy mạnh cải

25
thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cắt giảm thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp, phát
triển kết cấu hạ tầng, logistics…; tích cực triển khai các hiệp định thương mại tự do
với các đối tác; hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn do dịch đại dịch
gây ra.
Thứ ba, về ngoại giao văn hóa.
Các cơ quan đại diện Việt Nam đã tích cực phối hợp với các đơn vị trong nước
cũng như chính quyền, người dân sở tại để tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao văn
hóa với sự đa dạng về nội dung, hình thức, góp phần giới thiệu, quảng bá hiệu quả về
đường lối, chính sách, tiềm năng, thế mạnh cũng như về lịch sử, vẻ đẹp văn hóa, đất
nước và con người Việt Nam. Trong thời gian qua, các cơ quan đại diện Việt Nam đã
chủ động tổ chức các chương trình giao lưu trong khuôn khổ Chương trình Ngày Việt
Nam ở nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2010. Các chương
trình này đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc giới thiệu Việt Nam đến với bạn bè
quốc tế, từ đó thu hút thêm các nhà đầu tư, các đối tác thương mại đến với Việt Nam.
Ngoài ra, Đại sứ quán Việt Nam tại một số quốc gia cũng đã chủ động tổ chức các
hoạt động nhằm bảo tồn và phổ biến tiếng Việt tại nước ngoài thông qua các hình thức
như giao lưu với sinh viên học tiếng Việt, hỗ trợ tư vấn về quá trình học và các tài liệu
học tiếng Việt… Những hoạt động kể trên của các cơ quan đại diện không những góp
phần giới thiệu hình ảnh và nét đẹp của tiếng Việt ra cộng đồng quốc tế mà còn là một
cách hiệu quả để truyền bá nét đẹp văn hóa Việt Nam, thúc đẩy mối quan hệ bền chặt
giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Thứ tư, nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đại diện Việt Nam tại
nước ngoài và các cơ quan trong nước, công tác bảo hộ công dân tại nước ngoài thời
gian qua đã đạt được những kết quả tích cực.
Trong trường hợp có tình huống khẩn cấp, các cơ quan đại diện đã luôn chủ
động triển khai các biện pháp nghiệp vụ, trao đổi thông tin với các cơ quan chức năng
tại quốc gia sở tại và trong nước để tiến hành bảo hộ công dân. Cụ thể, thời gian qua,
trước thông tin về việc người lao động Việt Nam tại một số quốc gia bị bóc lột, phải
làm việc trong điều kiện không đáp ứng an toàn, các cơ quan đại diện Việt Nam đã
chủ động xác minh các sự việc và liên hệ với các cơ quan chức năng để có hành động
cần thiết bảo vệ và bảo đảm quyền lợi của người lao động Việt Nam.
Về công tác phòng, chống dịch Covid-19, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã tổ
chức các buổi trao tặng vật tư, thiết bị y tế cho nhiều quốc gia và đối tác của Việt
Nam, thể hiện sự chủ động, tích cực của Chính phủ và Nhân dân Việt Nam trong công
cuộc đẩy lùi dịch bệnh, đồng thời, thể hiện hình ảnh của một Việt Nam đoàn kết, đồng

26
lòng, tương thân tương ái. Ngoài ra, tính từ đầu năm 2020, Đại sứ quán, Lãnh sự quán
Việt Nam tại nước ngoài đã tổ chức, kết hợp với các hãng hàng không và cơ quan liên
quan của Việt Nam để đưa hàng nghìn công dân Việt Nam mắc kẹt trong đại dịch về
nước, giúp cộng đồng người Việt tại nước ngoài nhanh chóng thoát khỏi tình trạng
khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Như vậy, có thể thấy, ngành Ngoại giao Việt Nam đã đóng góp to lớn vào công
cuộc đẩy lùi dịch bệnh Covid-19 và nỗ lực phục hồi kinh tế đất nước, đồng thời giữ
vững ổn định chính trị, xã hội, tạo lập môi trường hòa bình để tiến hành công cuộc đổi
mới, hội nhập quốc tế sâu rộng.
3.2.2. Điểm yếu
Bên cạnh những thành tựu kể trên, công tác đối ngoại của nước ta cũng còn
những hạn chế, “hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có lúc, có việc chưa
thật chủ động và hiệu quả chưa cao”; thiếu những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn
chế tối đa các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế; nhận thức
và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình
hình; sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương còn thiếu chặt chẽ;
công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình chưa thật bài bản, kết quả chưa được
như mong muốn.
3.3. Nhiệm vụ của toàn thể đất nước trong việc ngoại giao và phát triển đất
nước
Đối với ngành ngoại giao, năm 2021 là một năm có nhiều sự kiện, dấu mốc đặt
biệt, thể hiện trên cả 3 cấp độ: Thế giới, Việt Nam và ngành ngoại giao. Ngày 15/12,
ngay sau Hội nghị đối ngoại toàn quốc (14/12), Bộ Ngoại giao đã tổ chức Phiên khai
mạc Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 và Phiên toàn thể về Ngoại giao phục vụ phát
triển đất nước theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Thủ tướng Chính phủ Phạm
Minh Chính tham dự và trực tiếp chỉ đạo Hội nghị.
Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh trước biến chuyển sâu sắc và toàn diện của cục
diện tình hình thế giới và nhu cầu phát triển, vị thế, cơ đồ của đất nước, ngành Ngoại
giao cùng đất nước bước vào giai đoạn 2022 - 2023, giai đoạn nền tảng, tạo đà thực
hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của Đại hội Đảng XIII, hiện thực hóa khát
vọng, tầm nhìn sánh vai cùng các nước phát triển. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính
phủ đưa ra các quan điểm chỉ đạo về công tác ngoại giao trong thời gian tới.
Thứ nhất, triển khai hiệu quả các nhiệm vụ về đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng.

27
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ nhiệm vụ “tiếp tục phát huy vai trò tiên
phong của đối ngoại” trong việc thực hiện 3 mục tiêu: “tạo lập và giữ vững môi
trường, hoà bình, ổn định”, “huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước” và “nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”.
Mục tiêu cao nhất của đối ngoại là phải tích cực đóng góp xứng đáng vào việc
thực hiện thắng lợi 3 mục tiêu phát triển chiến lược đến 2025, 2030 và 2045 của đất
nước. Yêu cầu đặt ra cho công tác đối ngoại và ngành ngoại giao “cao hơn về chất
lượng hiệu quả, sâu rộng hơn về lĩnh vực và lực lượng tham gia, đồng bộ chặt chẽ hơn
về phối hợp, chủ động tích cực hơn trong triển khai”. Nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao tất
yếu sẽ gắn chặt và liên thông nhiều hơn nữa với các nhiệm vụ trọng tâm của các bộ,
ngành, địa phương. Quá trình phối hợp sẽ cần đáp ứng các tiêu chí mới về nội dung và
tính thời điểm, theo tinh thần: chủ động, tích cực, toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu
quả, từ sớm, từ xa.
Thứ hai, quán triệt và triển khai kết quả của Hội nghị Đối ngoại toàn quốc ngày
14/12/2021. Hoạt động ngoại giao cần bám sát chủ trương Việt Nam là thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia và hài hoà lợi ích của các
đối tác quốc tế theo phương châm “tình cảm, chân thành, tin cậy, bình đẳng, tôn
trọng, hiệu quả, cùng phát triển”.
Hội nghị đã đạt được sự thống nhất cao trong phương hướng triển khai các quan
điểm mới về đối ngoại mà Đại hội Đảng XIII đề ra và 6 nhiệm vụ mà Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng giao cho các cơ quan làm đối ngoại trong cả nước. Đó là quan
điểm mới về “triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”. Đó là quan điểm mới về phát huy vai
trò tiên phong của đối ngoại trong “tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của
đất nước”. Đó là quan điểm mới về “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” với
3 trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Hội nghị đã nhất trí thông qua Nghị quyết và Chương trình hành động với các
biện pháp, phương hướng cụ thể. Theo đó, tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác đi vào
chiều sâu, ổn định, hiệu quả, trên tinh thần “ngoại giao tâm công, từ trái tim đến trái
tim”, “tình cảm, chân thành, tin cậy, bình đẳng, tôn trọng, hiệu quả, cùng phát triển”,
như đồng chí Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh
Chính đã chỉ đạo.

28
Thứ ba, đổi mới tư duy triển khai công tác ngoại giao trên cơ sở bảo đảm lợi ích
quốc gia, đồng thời đề cao chủ nghĩa đa phương trên tinh thần “cương quyết, kiên
định, mềm mại, linh hoạt, thích ứng và hiệu quả”.
Đẩy mạnh ngoại giao phục vụ phát triển là nhiệm vụ trung tâm, tạo chuyển biến
mới, mạnh mẽ về tư duy, cách làm theo hướng sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm;
quyết tâm đi vào những lĩnh vực, hướng đi mới, chuyển biến mạnh mẽ hơn trong hợp
tác kinh tế, khoa học, công nghệ, giáo dục, lao động, giao lưu nhân dân, chống biến
đổi khí hậu… trong quan hệ với các đối tác, thiết thực phục vụ các định hướng phát
triển của đất nước; lồng ghép hiệu quả các nội hàm, mục tiêu phát triển vào các lĩnh
vực và nhiệm vụ đối ngoại. Xây dựng và triển khai Chỉ thị mới của Ban Bí thư về
Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 theo hướng lấy người
dân, doanh nghiệp và địa phương làm trung tâm phục vụ. Tiếp tục đi đầu trong tham
mưu chủ trương, chính sách và triển khai đối ngoại phục vụ phòng chống dịch, phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý…, phục vụ quá trình chuyển đổi, tái cơ cấu nền kinh tế,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Thứ tư, triển khai đồng bộ các trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.
Về ngoại giao chính trị, kiên trì đường lối ngoại giao độc lập tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hòa bình, phát triển, dành được tình cảm và
sự yêu quý của bạn bè quốc tế và cộng đồng quốc tế trên tinh thần chung tay giải
quyết các vấn đề chung của thế giới; làm cho các đối tác quốc tế hiểu và ủng hộ
đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Về ngoại giao kinh tế, cần góp phần xây dựng thể chế kinh tế cho phát triển, hợp
tác đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, thu hút công nghệ xanh, sạch, tài chính xanh,
kinh nghiệm quản trị quốc gia, thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu
quả. Đóng góp vào cải thiện môi trường đầu tư và đưa các ngành, lĩnh vực kinh tế
tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu; Tham gia chủ động vào các khuôn khổ,
vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế. Tiếp tục đóng góp tích cực vào kiểm soát hiệu quả dịch
bệnh Covid-19, đồng thời phục vụ các nhiệm vụ khôi phục kinh tế và bảo đảm an sinh
xã hội; thúc đẩy tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số,
chuyển đổi năng lượng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, an ninh mạng…
Về ngoại giao văn hóa, tích cực triển khai các nhiệm vụ về văn hóa được thông
qua tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, đặt văn hóa ngang tầm với

29
chính trị và kinh tế. Tiếp tục thúc đẩy UNESCO công nhận các di sản vật thể và phi
vật thể của đất nước và phát triển văn hóa gắn với hoạt động du lịch.
Thứ năm, chú trọng xây dựng lực lượng ngoại giao, trước hết là xây dựng đội
ngũ cán bộ ngoại giao có nền tảng tư duy cả về chính trị, kinh tế và văn hoá, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, năng lực, chuyên môn, phong cách chuyên nghiệp,
hiện đại, tư duy đổi mới, sáng tạo, nhạy bén, có tinh thần chủ động tiến công.
Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, nhân ái, thủy chung, quật cường,
cương quyết, linh hoạt. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng và đảng viên ngành Ngoại giao. Tiếp tục kiện toàn cơ sở vật chất của Bộ Ngoại
giao và các Cơ quan đại diện, đồng thời quan tâm, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cho cán bộ, nhân viên trong ngành. Đồng thời, tiếp tục nâng cao sự phối hợp
đồng bộ, hiệu quả giữa các kênh và cơ quan đối ngoại, phát huy vai trò của Bộ Ngoại
giao là cơ quan điều phối các hoạt động đối ngoại của các bộ, ngành, địa phương
nhằm bảo đảm nguyên tắc thống nhất quản lý đối ngoại, gia tăng tính bổ trợ, tạo thành
sức mạnh tổng hợp về đối ngoại của đất nước.
3.4. Bài học kinh nghiệm
Có nhiều cách tiếp cận khi đúc rút kinh nghiệm trong công tác ngoại giao: từng
sự kiện, vấn đề hoặc từng giai đoạn; thời kỳ hay toàn bộ chiều dài lịch sử ngoại giao
Việt Nam. Trải qua 35 năm đổi mới, có thể rút ra một số bài học như sau:
Bài học thứ nhất: Đặt lợi ích chính đáng của dân tộc lên trên hết, đồng thời phải
tôn trọng lợi ích dân tộc chính đáng của các nước khác, nhất là của các nước láng
giềng. Đây là bài học có tầm quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa nguyên tắc trong hoạt
động đối ngoại Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ ngoại giao: “Muốn làm
gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm”. Lợi ích chính đáng của dân tộc Việt Nam là
hòa bình, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chế độ và
nhân dân; lợi ích phát triển và phát huy ảnh hưởng. Trong tất cả hoạt động ngoại giao
từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòahòa ra đời, đặc biệt trong các cuộc đàm phán
lịch sử như Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Tạm ước 14/9/1946, Hội nghị Geneva năm
1954 về Đông Dương, Hội nghị Paris về Việt Nam cũng như các cuộc đàm phán song
phương và đa phương sau này, chúng ta luôn đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên
hết.
Muốn bảo vệ được tốt nhất lợi ích dân tộc, không những phải xuất phát từ nhiệm
vụ chiến lược, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước và đặc điểm cơ bản của tình hình
quốc tế để xác định đúng phương hướng, chiến lược đối ngoại mà còn phải xác định

30
đúng ưu tiên của chính sách đối ngoại trong từng thời điểm của lịch sử dân tộc nhằm
phục vụ cho lợi ích lâu dài. Lợi ích dân tộc là trên hết, song phải coi trọng lợi ích các
dân tộc khác, nhất là các nước láng giềng.
Bài học thứ hai: Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại. Thế giới mà chúng ta
đang sống tuy đầy mâu thuẫn nhưng là một thể thống nhất. Các dân tộc sống trên thế
giới này tuy có bản sắc riêng, lớn nhỏ giàu nghèo, chế độ chính trị và trình độ phát
triển khác nhau nhưng đều là một bộ phận của tổng thể đó.
Thế giới như một guồng máy đồ sộ vận hành theo những quy luật chung nhất mà
người ta gọi là xu thế và mỗi một nước đều hoặc cùng vận hành theo xu thế chung
hoặc bị loại trừ. Mỗi dân tộc nếu nắm bắt được xu thế phát triển chung của thế giới và
trên cơ sở đó chọn cho mình một vị trí thích hợp nhất trong guồng máy chung của thế
giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại thì sức mạnh tổng hợp
sẽ được tăng lên gấp bội.
Bài học thứ ba: Độc lập tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ là
“tự điều hành đất nước, không có sự can thiệp của nước ngoài”, tức là dựa vào sức
mình là chính. Bác Hồ nhấn mạnh: “Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải
tự cứu lấy mình”. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường nghĩa là nội lực là quyết định,
song ngoại lực rất quan trọng, góp phần làm tăng khả năng tự lực tự cường của đất
nước.
Mặt khác, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, biệt phái, mà đi liền với
đoàn kết, hợp tác và hội nhập quốc tế. Bác Hồ luôn khẳng định: “Thêm bạn bớt thù”,
“Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “Mọi người
yêu nước và tiến bộ là bạn của ta”. Đó là tiền đề chính sách đối ngoại rộng mở và đa
dạng, đa phương hóa sau này của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Bài học thứ tư: Coi trọng và xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn, xây dựng,
giữ gìn quan hệ hữu nghị và lâu dài, bền vững với các nước láng giềng.
Quan hệ giữa các nước lớn luôn là cạnh tranh và thỏa hiệp. Tuy nhiên, cần thấy
khả năng tác động của các nước lớn cũng còn nhiều hạn chế vì lợi ích nước lớn luôn
xung đột nhau và không phải lúc nào các nước lớn cũng có thể dễ dàng thỏa hiệp hoặc
đối đầu trên lưng các nước khác.
Từ nhận thức trên, chúng ta xác định đúng vị trí của của nước ta trong chiến lược
của các nước lớn; không ngừng hoàn thiện mối quan hệ của ta với các nước lớn; đặt
quan hệ với các nước lớn là nhiệm vụ đối ngoại ở tầm chiến lược. Chiến lược đó gồm
các nội dung: Tranh thủ có quan hệ bình thường, đúng đắn với tất cả nước lớn; cố
gắng thực hiện một chính sách cân bằng tương đối trong quan hệ với các nước lớn,

31
không nhất biên đảo; xử lý linh hoạt, khéo léo quan hệ với các nước lớn nhưng phải
trên nguyên tắc nắm vững lợi ích dân tộc, độc lập tự chủ.
Bài học thứ năm: Dĩ bất biến ứng vạn biến. Đây là lời Bác Hồ dặn dò Quyền
Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng trong việc xử lý việc nước trước khi lên đường
thăm chính thức nước Pháp ngày 31/5/1946. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lấy cái
không đổi để ứng phó với vạn cái thay đổi và lấy vạn điều thay đổi để thực hiện điều
không đổi. Đây cũng là mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp, giữa nguyên tắc
và sách lược. Nếu chỉ biết cái bất biến sẽ trở nên giáo điều, còn chỉ biết cái vạn biến
dễ chệch hướng, lạc mục tiêu. Đó chính là triết lý phương Đông rất đặc sắc, là nghệ
thuật chỉ đạo chiến lược.
Nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn biến”: Một là, giữ vững mục tiêu các mạng.
Hai là, trung thành với lý tưởng đã lực chọn, có niềm tin vào thắng lợi. Ba là, nắm
chắc quy luật tất yếu của của lịch sử. Bốn là, phải biết nhân nhượng, thỏa hiệp, song
nhận nhượng thỏa hiệp phải có nguyên tắc. Năm là, xác định đúng giới hạn của nhận
nhượng. Sáu là, luôn nhạy bén dự báo, phát hiện thay đổi, nhất là trong các bước
ngoặt và kiên quyết, sáng tạo, mưu lược thực hiện điều vạn biến, các vấn đề sách lược.
Bài học thứ sáu, Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao/ đối ngoại bao gồm tư
tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao là di sản vô giá, là kim chỉ
nam cho hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Lịch sử đối ngoại
Việt Nam trong 75 năm qua đã chứng minh: chỉ khi nào coi trọng việc nghiên cứu,
vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao của Người, công tác ngoại giao của Đảng và
Nhà nước sẽ thành công, ngược lại sẽ gặp khó khăn, thậm chí thất bại.
Các bài học trên có giá trị trường tồn, cần vận dụng sáng tạo trong điều kiện
quốc tế hiện nay.

32
PHẦN KẾT LUẬN
Qua 35 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu về ngoại giao, đánh dấu một bước tiến
chưa từng thấy trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục
cho tính chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng. Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn dựa trên 3 trụ cột: Đối ngoại
Đảng, Ngoại giao Nhà nước và Đối ngoại nhân dân đã góp phần rất quan trọng giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước. Ý
nghĩa to lớn của những thành tựu đó không đơn thuần ở những con số mà quan trọng
hơn là ở những nỗ lực cao nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã tập trung một cách hiệu
quả trong một thời gian không dài, trong những điều kiện rất khó khăn, phức tạp, để
cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đó cũng là cơ sở
niềm tin để khơi dậy khát vọng của nhân dân ta về một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, hạnh phúc, vì hạnh phúc của nhân dân.

33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngoại giao trong
giai đoạn mới (baoquocte.vn)
2. Công tác đối ngoại của đất nước trước yêu cầu, nhiệm vụ mới* (vietnam.vn)
3. Hội nghị Ngoại giao 31: Đánh dấu một giai đoạn kế thừa và phát triển mới của
ngoại giao Việt Nam (baochinhphu.vn)
4. 75 năm Ngoại giao Việt Nam: Bài học và kinh nghiệm (baoquocte.vn)
5. Thành tựu đối ngoại Việt Nam trong 5 năm qua (phambinhminh.chinhphu.vn)
6. Thành tựu đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước
(baodantoc.vn)
7. Tư liệu tham khảo (dangcongsan.vn)
8. Những thành tựu của ngoại giao Việt Nam (quanlynhanuoc.vn)
9. "Ngoại giao cây tre" (dangcongsan.vn)

34

You might also like