TLSHCĐ Tháng 9 - 2023

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

THÁNG 9

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH QUẢNG NINH 2023

NỘI DUNG CHÍNH Kỷ niệm 78 năm Ngày Quốc khánh


Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam (02/91945 – 02/92023)
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM


THÀNH CÔNG

HỘI NHẬP QUỐC TẾ

NGÀY KỶ NIỆM TRONG


THÁNG 8

ĐỊNH HƯỚNG
TUYÊN TRUYỀN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Di chúc của Bác Hồ: Giá trị thực tiễn


cho muôn đời
(Chinhphu.vn) - Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện lòng yêu nước, thương
dân vô bờ bến, một trí tuệ mẫn tiệp, nghị lực kiên cường, tinh thần lạc quan cách mạng và
lòng tin tuyệt đối vào Đảng, vào sức mạnh cuả toàn dân tộc. Đó còn là tấm gương đạo đức
ngời sáng và tình đoàn kết quốc tế chân thành…

Hình ảnh làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nguồn tư liệu TTXVN

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, ngày 3/9/1969, Bộ Chính trị triệu
tập cuộc họp bất thường Ban Chấp hành Trung ương Đảng để quyết định
tổ chức quốc tang và công bố bản Di chúc của Người viết lần đầu năm
1965. Quyết định này hợp lý lúc đó vì đây là bản duy nhất được viết
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

hoàn chỉnh, có cả chữ ký của Người và chữ ký chứng kiến của Bí thư thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn.

Sau khi Tổ quốc thống nhất, công cuộc khôi phục, xây dựng lại đất nước
bị chiến tranh kéo dài tàn phá đã tạm ổn định thì đồng chí Vũ Kỳ, Thư
ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cuốn hồi ký Bác Hồ viết Di chúc
bằng tình cảm tận tụy, sâu nặng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần
trách nhiệm, tâm huyết với lịch sử. Cuốn hồi ký của đồng chí Vũ Kỳ được
sự cộng tác nhiệt tình của đồng chí Thế Kỷ, một sĩ quan nghiên cứu lịch
sử công tác tại Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân. Sau khi bản thảo
cuốn sách hoàn thành, đồng chí Vũ Kỳ đã gửi đến Nhà xuất bản Sự Thật
(Chính trị quốc gia) để biên tập, xuất bản đồng thời tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh, sau đó phát hành rộng rãi trong toàn quốc nhân kỷ
niệm 20 năm ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cũng vào dịp này, ngày 19/8/1989, Bộ Chính trị ra thông báo số 151/TB-
TW về một số vấn dề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh mà do hoàn cảnh lịch sử của năm 1969 chưa được công bố,
đó là các tài liệu, bản viết gốc Di chúc có chỉnh sửa của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, bản công bố chính thức tháng 9/1969 là hoàn toàn trung thành,
chính xác với bản gốc. Thông báo này và cuốn hồi ký của đồng chí Vũ Kỳ
đã công bố rõ ràng những nội dung Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được chỉnh sửa qua từng năm cũng như quá trình viết Di chúc của
Người.

Từ năm 1989, các bản gốc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được lưu
giữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng sau đó được in màu,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

phát hành rộng rãi và được các nhà xuất bản khác tái bản nhiều lần cho
đến bây giờ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trong một phiên họp tại chiến khu Việt Bắc, chuẩn bị cho chiến
dịch Điện Biên Phủ - Ảnh tư liệu TTXVN

Ý nghĩa lịch sử và giá trị trường tồn của bản Di chúc

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một kiệt tác chứa đựng tinh thần
cao cả, sâu sắc nhưng cũng rất gần gũi với dời sống hàng ngày của một
nhà cách mạng, nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục và nhà văn
hóa lỗi lạc; vừa mang tính triết lý truyền thống đồng thời cũng chỉ ra con
đường tương lai; vừa là cảm nghĩ của một vĩ nhân nhưng cũng là sự đúc
kết các quy luật của tự nhiên, xã hội, con người một cách đơn giản, nhẹ
nhàng, kinh nghiệm, cô đọng, triết luận.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chọn dịp sinh nhật để viết những dòng tài liệu bí mật để lại cho đồng
bào, đồng chí và Tổ quốc nên phong cách diễn đạt suy nghĩ của Người
trong Di chúc rất độc đáo, đó là sự kết hợp hài hòa giữa dân gian và bác
học, cổ điển và hiện đại, phù hợp giữa tinh thần Đông phương với tình
hình thực tiễn của thời điểm đó và cả về sau này, mang chất dung dị, đời
thường, chứa đựng tình cảm thương yêu mênh mông bao trùm hết thảy
của một trái tim nhân hậu.

Những ý tưởng của Người được diễn tả chân thực vì nói đúng sự thật
khách quan và chính xác về chủ quan; ngắn gọn, dễ hiểu bởi mọi tâm ý
đều đã được khái quát, chắt lọc tối giản; nhân văn và thiết thực. Chính vì
tư tưởng, phong cách, đạo đức cao thượng đẹp đẽ trong sáng như vậy
nên tác phẩm này chỉ có thể thuộc về một Con Người vĩ đại, có tầm nhìn
thời đại và hàm chứa suy nghĩ của cả nhân loại.

Nội dung Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy khí phách, tinh
thần lạc quan cách mạng của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng như Jean
Lacourture đã nhận xét: “Văn phong kỳ lạ rõ ràng là thế! Người ta không
thấy có giọng văn này ở cả Stalin, Churchill hay De Gaulle, còn văn Cụ
Hồ thì vươn tới tiếng nói của lịch sử”.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh tư tưởng đạo đức và tâm
hồn cao đẹp của một anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt
xuất, một chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp hòa bình, tiến
bộ, phát triển trên toàn thế giới. Sinh ra, lớn lên trong một giai đoạn lịch
sử đầy biến động của đất nước, Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm cống
hiến tuổi trẻ và cả cuộc đời của mình vào hành trình tìm đường cứu
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nước, giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã đến với Chủ
nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản, từ đó sáng lập,
lãnh đạo, rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam, xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đi vào lịch sử cách mạng thế giới với vai trò của người chiến sĩ tiên
phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa trong thế kỷ XX.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa văn hóa thành ngọn hải
đăng cho sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời Người cũng là nhà
hoạt động văn hóa trên các lĩnh vực: Báo chí, thơ, văn. Người còn là một
nhà ngoại giao xuất chúng, luôn kiên trì phấn đấu không mệt mỏi cho
hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc trên toàn
thế giới và từ đó đưa Việt Nam lên vị thế xứng đáng trong bản đồ chính
trị thế giới.

Từ những cống hiến lớn lao và kinh nghiệm phong phú trong sự nghiệp
cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò tất cả những điều
cần thiết, quan trọng, chính yếu trong Di chúc của Người cho tương lai
của dân tộc. Chính vì vậy mà Fidel Castro đã viết: “Hồ Chí Minh thuộc
lớp những người đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự sống và là
nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào vai trò, vị trí và tính
tiên phong của Đảng cầm quyền, một chính Đảng cần phải lấy đạo đức
cách mạng làm nền tảng, có nhiệm vụ làm cho dân giàu nước mạnh và
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

người đảng viên luôn xác định phải trung thành tận tụy phục vụ đất
nước, phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân.

Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn giữ vững tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên
định về tư cách của Đảng cầm quyền, trong đó nền tảng là đạo đức của
đảng viên. Người đã nói rõ cách mạng muốn thành công trước hết phải
có “Đảng Cách mệnh”, tuy nhiên: “Đảng không phải là một tổ chức để
làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Muốn gánh vác được
trách nhiệm nặng nề đó, đảng viên cần có đạo đức cách mạng, đó là:
“Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
dân mà đấu tranh quên mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thường xuyên
nhắc nhở: “Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những
chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng
về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng, về
nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”.

Và, trong Di chúc, Người cũng vẫn nhấn mạnh những vấn đề cơ bản,
quyết định đến sự tồn vong của Đảng cầm quyền, đó là: Đoàn kết, tự phê
bình và phê bình, đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Như
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Mỗi bước đi của nhân dân ta và
của Đảng ta đều gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng sôi nổi
và đẹp đẽ của Hồ Chủ tịch. Toàn bộ hoạt động của Người cùng với sự
nghiệp của nhân dân ta và của Đảng ta là một thiên anh hùng ca bất diệt
của cách mạng Việt Nam”.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sâu sắc tinh thần
yêu nước thương dân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc nhân dân của
một vị lãnh tụ lập quốc vĩ đại, mà còn tỏa sáng lòng bao dung, nhân ái
của một vị thánh Cộng sản đối với tất cả con người, niềm tin tưởng tuyệt
đối vào nhân dân. Trong suốt cuộc đời cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân
dân của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mục tiêu duy nhất để
hướng tới, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, để nhân dân có quyền làm chủ đất nước. Vì thế, Người luôn tâm
niệm rằng: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân,
ta phải hết sức tránh”. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân
và Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân nên bất luận
trong hoàn cảnh nào: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi;
nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy cán bộ Đảng và chính
quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của
nhân dân”.

Trong những lời cuối cùng để lại, Người quan tâm từng chi tiết tới người
dân của các tầng lớp xã hội, nhắc những công việc cụ thể đối với những
người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho đến những nạn
nhân của xã hội cũ. Đó không chỉ là niềm tin vững chắc, sự khẳng định
về thắng lợi cuối cùng của một dân tộc anh hùng đấu tranh vì chính
nghĩa, mà còn là tấm lòng đôn hậu, bao dung, tình thương yêu con người
vô bờ bến. Như nhà sử học Helen Tourmel đã viết: “Ở con người Hồ Chí
Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhât, bình dị
nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình… Hình ảnh của Hồ Chí
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp giữa đạo đức khôn ngoan của Phật,
lòng bác ái của Chúa, triết học của Karl Marx, thiên tài cách mạng của
Lenin và tình cảm của một người chủ gia tộc”.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy tầm nhìn xa, sự quan tâm
sâu sắc, chăm lo, bồi dưỡng các thế hệ cách mạng đời sau. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng vấn đề đào tạo, giáo dục các thế hệ cách mạng kế
cận, đặc biệt là lứa tuổi đoàn viên, thanh niên bởi: “Thanh niên là chủ
tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một
phần lớn là do các thanh niên”. Hơn thế nữa, đội quân chủ lực, nguồn
sức mạnh tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng
chính là nhờ các thế hệ thanh niên nếu như lực lượng thanh niên được
giáo dục, rèn luyện thử thách trong thực tiễn cách mạng thì chắc chắn sẽ
trở thành lực lượng hậu bị vững chắc của Đảng và của dân tộc. Chiến
lược đối với thế hệ trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là cẩm nang
cần thiết cho một giai đoạn cách mạng cụ thể, mà đó còn là yêu cầu
quan trọng phục vụ mãi mãi sự nghiệp và lý tưởng cách mạng. Thế hệ
trẻ Việt Nam cần phải rèn luyện những tố chất trung thành, nhiệt tình,
hăng hái, tinh thông nghiệp vụ, quan hệ mật thiết với nhân dân và quyết
tâm cao, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp đổi mới của Đảng,
của dân tộc, đó chính là “những người thừa kế xây dựng CNXH vừa hồng
vừa chuyên”.

Thực hiện ý nguyện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định vị trí, vai trò, ý nghĩa to lớn của đạo
đức cách mạng đối với xã hội nói chung và đặc biệt quan trọng đối với
tư cách của người đảng viên: “Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Cả
cuộc đời Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, đạo đức
cộng sản. “Người luôn luôn quan tâm tới lợi ích của nhân dân, nghĩ
những điều dân nghĩ, lo những điều dân lo, hiến dâng cả đời mình cho
nhân dân, không quan tâm đến lợi ích bản thân… Suốt đời, Người luôn
luôn gìn giữ đạo đức cao đẹp, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và
dùng tám chữ đó để giáo dục cán bộ và nhân dân”. Đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh rất sâu sắc, toàn diện và mang tính thiết
thực, tuy ở mỗi giai đoạn lịch sử, tùy theo yêu cầu cấp thiết của sự
nghiệp cách mạng, những tiêu chí của đạo đức được bổ sung thêm,
nhưng nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng không thay đổi.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”. Trải qua nửa thế kỷ quyết tâm thực
hiện theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vững vàng lãnh đạo đất nước nước ta đến những thành công to lớn về
mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, ngoại giao… Trong giai đoạn
hiện nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều giải pháp để giữ vững vai trò tiên
phong lãnh đạo, đó là: Xác định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mac-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; lấy xây dựng và chỉnh đốn Đảng là
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

nhiệm vụ then chốt, hàng đầu lâu dài; dựa vào dân để xây dựng Đảng;
Bộ Chính trị ra Chỉ thị 05-CT/TƯ để đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII đã ra Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ và kể từ đó đến nay cuộc chiến đấu chống tiêu
cực, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, thoái hóa trong tổ chức
Đảng diễn ra quyết liệt, nóng hổi, đạt được một số kết quả đáng ghi nhận
làm cho quần chúng nhân dân hồ hởi, phấn khởi, ủng hộ, dõi theo từng
ngày và qua đó đã củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng.

Trước tình hình đó, vai trò trách nhiệm của người đảng viên càng nặng
nề hơn, mỗi người cần phải kịp thời rút ra những bài học thực tế cho
riêng bản thân, không ngừng tu dưỡng đạo đức người đảng viên bằng
những hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày và khi thực thi nhiệm
vụ. Mỗi cán bộ đảng viên luôn luôn khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng
sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư
cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước. Đồng chí ta phải học lấy bốn đức cách mạng:
Cần, kiệm, liêm, chính”.

Đã tròn 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa nhưng Di chúc của Người
vẫn còn nguyên giá trị, đó là một áng văn tuyệt bút minh chứng cho lòng
yêu nước, thương dân thiết tha, vô bờ bến, một trí tuệ mẫn tiệp, nghị lực
kiên cường, tinh thần lạc quan và lòng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

sức mạnh đoàn kết cuả toàn dân tộc, một tấm gương đạo đức ngời sáng
và tình đoàn kết quốc tế nồng nhiệt, chân thành. Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn mãi mãi soi rọi con đường chân lý chẳng những cho
nhân dân ta mà còn cho tất cả những dân tộc trên thế giới đang đấu
tranh cho tự do, độc lập, hòa bình, công lý và hạnh phúc của loài người.

Đỗ Hoàng Linh
Phó Giám đốc Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH
NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM

Giá trị dân tộc và thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập - tuyên bố với
toàn thể đồng bào cả nước và các dân tộc trên thế giới về nền độc lập của
dân tộc Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam mới. Bản Tuyên ngôn
Độc lập là văn kiện khẳng định và kết tinh truyền thống yêu nước, khát
vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam từ bao đời, phản ánh tính quốc tế,
thời đại sâu sắc.
Cách đây 78 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lãnh đạo Nhân dân ta đứng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
năm 1945 thành công, lập ra chính quyền cách mạng trong cả nước. Ngay sau
đó, vào ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ cách
mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, để tuyên bố với quốc dân đồng bào
cả nước và nhân dân thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam và sự ra đời
của một chính thể nhà nước ở Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với dân tộc Việt Nam,
đồng thời mang giá trị quốc tế, thời đại sâu sắc. Đó là văn kiện khẳng định tinh
thần, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam; khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên
độc lập, tự do, hạnh phúc. Mặt khác, bản Tuyên ngôn Độc lập đóng góp rất quan
trọng cho sự phát triển tư tưởng nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc
của các dân tộc trên thế giới; là ngọn cờ cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên
phạm vi toàn thế giới.
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH
NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet


Bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh truyền thống yêu nước, khát vọng
độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam
Trong công cuộc dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam sớm hình thành và
hun đúc truyền thống yêu nước nồng nàn. Yêu nước là chuẩn mực cao nhất
trong giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Truyền thống quý báu này luôn gắn
kết chặt chẽ với khát vọng được sống trong độc lập, tự do của mỗi người dân
Việt Nam. Vì thế, mỗi khi Tổ quốc đứng trước sự đe dọa của giặc ngoại xâm,
Nhân dân ta lại đứng lên, kiên cường, bất khuất đánh đuổi bọn xâm lược, giành
độc lập, tự do cho dân tộc.
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị. Tiếp nối và
phát huy truyền thống yêu nước ngàn đời của dân tộc, không cam chịu ách thống
trị của thực dân Pháp, lớp lớp thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đứng lên đấu
tranh dưới nhiều hình thức để cứu nước, cứu dân. Song các cuộc đấu tranh yêu
nước đó cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đều bị thực dân Pháp
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH
NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM

đàn áp đẫm máu. Nhưng sự thất bại đó đã không làm nản lòng Nhân dân Việt
Nam, mà là những bài học kinh nghiệm quý giá, giúp cho cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 thành công.
Bản Tuyên ngôn Độc lập chính là văn kiện khẳng định và kết đọng giá trị truyền
thống yêu nước và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc, đồng thời khẳng định
quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc Việt Nam: “Quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(1).
Với tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm cao của cả dân tộc, trong 30 năm chiến
tranh ái quốc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Nhân dân Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục kháng
chiến đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân
hiếu chiến, có tiềm lực kinh tế và quân sự, kỹ thuật hiện đại hơn chúng ta nhiều
lần. Nhân dân Việt Nam đã và sẽ làm hết sức mình để bảo vệ vững chắc độc lập,
tự do, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bản Tuyên ngôn Độc lập - Văn kiện khai sinh ra nước Việt Nam mới; mở ra
một kỷ nguyên của độc lập, tự do, hạnh phúc
Trước Cách mạng Tháng Tám, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, Nhân dân
ta phải sống trong cảnh lầm than, bị tước đi các quyền dân tộc và quyền con
người. Thực dân Pháp đã thi hành những chính sách hết sức phản động, cả về
chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội, để áp bức bóc lột Nhân dân ta. Đó là những
hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”(2). Lịch sử dân tộc từ cuối thế
kỷ XIX đặt ra yêu cầu bức thiết là phải giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự
do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã buộc: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua
Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để
gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi
thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(3). Việt Nam từ một xứ thuộc địa,
bị xóa tên trên bản đồ thế giới đã giành lại vị thế của một quốc gia độc lập; từ
một dân tộc nô lệ, dân tộc ta đã giành lại tự do, giành được quyền hưởng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, quyền tự quyết định sự phát triển của mình.
Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “Bản Tuyên ngôn
Độc lập là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt chính thể
quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở ra một kỷ nguyên dân
chủ cộng hòa”(4).
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH
NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM

Bản Tuyên ngôn Độc lập - Văn kiện đóng góp quan trọng vào sự phát triển
của tư tưởng nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc
Quyền con người, quyền dân tộc luôn là những vấn đề tác động mạnh đến sự
phát triển của nhân loại. Với sự bùng nổ và giành thắng lợi của các cuộc cách
mạng dân chủ tư sản Âu - Mỹ, tư tưởng nhân loại về quyền con người đã có sự
phát triển vượt bậc. Thay vì bị định đoạt cuộc sống bởi vương quyền và thần
quyền, con người đã ý thức rõ ràng về quyền tự quyết định vận mệnh của chính
bản thân, về những quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” là mục tiêu phấn đấu, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy cuộc
cách mạng xã hội phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi.
Tuy nhiên, trên thực tế, những giá trị cao đẹp đó chỉ giành cho một thiểu số
người trong xã hội, mà không phải giành cho đại đa số người dân. Những người
dân lao động, chiếm đa số trong xã hội vẫn phải sống nghèo khổ, “vẫn cứ lo tính
cách mệnh lần thứ hai”(5). Sang đến nửa sau của thế kỷ XIX, khẩu hiệu “Tự do -
Bình đẳng - Bác ái” đã bị chủ nghĩa đế quốc làm cho tha hóa, trở thành chiêu bài
mị dân để ru ngủ các cuộc đấu tranh của người lao động ở chính quốc và đi xâm
chiếm, cướp bóc tàn bạo các thuộc địa.
Bản Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định không phải chỉ thiểu số người, mà “tất
cả mọi người” đều sinh ra bình đẳng và đều được hưởng các quyền thiêng liêng
của mỗi con người, nhất là quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Từ chỗ quyền con người chỉ dành cho một thiểu số trở thành quyền dành cho tất
cả mọi người, đó thực sự là một đóng góp quan trọng, một bước phát triển lớn về
giá trị nhân văn, nhân bản; sự bổ sung, phát triển tư tưởng nhân loại về quyền
con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Từ việc bổ sung, phát triển tư tưởng về quyền con người, bản Tuyên ngôn Độc
lập đã tiến tới xác lập quyền của cả dân tộc, của tất cả các dân tộc được sống
trong độc lập, tự do, hạnh phúc - đó là quyền thiêng liêng của tất cả mọi người,
cũng như tất cả các dân tộc. Bởi vì, “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống
phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc
lập!”(6). Đó là chân lý, là lẽ phải và chính nghĩa không ai chối cãi được. Đây là
một đóng góp quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự phát triển tư
tưởng nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc.
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH
NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM

Bản Tuyên ngôĐộc lập là ngọn cờ cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới
Từ khi chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lược và cướp bóc ở các nước thuộc địa,
vấn đề dân tộc bắt đầu được đặt ra và trở thành một nội dung trọng tâm của thời
đại. Cùng với cường độ khai thác, vơ vét thuộc địa ngày càng gia tăng của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, vấn đề này ngày càng đòi hỏi phải được giải quyết một
cách cấp thiết. Tuy nhiên, cho đến đầu thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới, chưa có một quốc gia, dân tộc nào thành công.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) là dấu mốc vĩ đại đánh
dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đánh
giá về Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Như
ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu
rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người”(7). Người cho rằng, cuộc cách mạng đó
không chỉ có ý nghĩa vạch thời đại, mà còn cả ý nghĩa là ngọn cờ tiên phong cổ
vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Với thắng lợi của Liên Xô và phe Đồng Minh, sự thất bại của chủ nghĩa phát xít
trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới phát triển mạnh mẽ. Tranh thủ thời cơ vô cùng thuận lợi, học tập gương
Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo
Nhân dân Việt Nam Tổng khởi nghĩa thành công. Bản Tuyên ngôn Độc lập do
Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước quốc dân đồng bào đã tuyên bố
trước toàn thể Nhân dân Việt Nam và dân tộc trên thế giới về việc Việt Nam
thoát ly mối quan hệ với thực dân Pháp, rằng Việt Nam đã trở thành một nước tự
do, độc lập và quyết tâm cao độ của Nhân dân Việt Nam để bảo vệ quyền tự do,
độc lập.
Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam mới được khẳng định
trong bản Tuyên ngôn Độc lập đã góp phần thức tỉnh và cổ vũ, động viên to lớn
các dân tộc đang bị áp bức ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh, trước hết là
các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đang bị thực dân Pháp cai trị, vùng dậy
đấu tranh giành độc lập, tự do với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta”.
Trải qua 76 năm, đất nước Việt Nam và thế giới đã có những thay đổi sâu sắc về
mọi mặt, nhưng bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vẫn có sức sống trường tồn
KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH
NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM

và tính thời sự sâu sắc; tư tưởng và nội dung chủ đạo của Tuyên ngôn vẫn mãi
soi đường cho dân tộc Việt Nam trên hành trình xây dựng, củng cố và giữ gìn
độc lập - tự do - hạnh phúc./.
-----------------------------------
Ghi chú:
(1),(2),(3),(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.3, tr.1,
tr.3, tr.3.
(4) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb
Văn học, H.1970, tr.110.
(5) Sđd, tập 2, tr.291.
(7) Sđd, tập 11, tr.159.

ThS Phùng Thanh - Khoa Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị
NGÀY TRUYỀN THỐNG TRONG THÁNG 9

NGÀY 02/9: Kỷ niệm 75 năm Ngày


Quốc khánh Nước CHXHCN Việt Nam

NGÀY 02/9: Kỷ niệm 54 năm ngày mất của


Chủ tịch Hồ Chí Minh

NGÀY 12/9: Kỷ niệm 93 năm


Ngày Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh

NGÀY 20/9: Kỷ niệm 46 năm ngày VN trở thành


thành viên chính thức của Liên Hiệp quốc

NGÀY 23/9: Kỷ niệm 78 năm


Ngày Nam Bộ kháng chiến

NGÀY 27/9: Kỷ niệm 83 năm


Ngày Khởi nghĩa Bắc Sơn
1. Tuyên truyền kết quả, các mục tiêu, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; kết quả Đoàn
thanh niên các cấp xung kích, tham gia thi đua lập
thành tích chào mừng 60 năm Ngày thành lập tỉnh
Quảng Ninh.
2. Tiếp tục thông tin, tuyên truyền việc thực hiện
Chỉ thị số 27-CT/TU ngày 22/7/2022 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về tổ chức kỷ niệm 60 năm
Ngày thành lập tỉnh Quảng Ninh (30/10/1963 -
30/10/2023) và Kế hoạch số 19/KH-UBND ngày
02/02/2023 của UBND tỉnh về tổ chức các hoạt
động kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập tỉnh Quảng
Ninh; các phong trào thi đua lập thành tích chào
mừng kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập tỉnh với Chủ
đề “Khát vọng xây dựng một Quảng Ninh kiểu mẫu,
giàu đẹp, văn minh, hiện đại” gắn với tuyên truyền
việc quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị số 37-
CT/TU ngày 21/7/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
“về đổi mới phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023 - 2025, định hướng
đến năm 2030” và văn bản số 2280/UBNDTKTH,
ngày 21/8/2023 của UBND tỉnh “về đẩy mạnh các
phong trào thi đua; tổng kết phong trào thi đua đặc
biệt chào mừng kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập
tỉnh”.
3. Các hoạt động của đoàn thanh niên các cấp chào
mừng ngày Quốc khánh Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam mùng 2-9.
4. Tiếp tục tuyên truyền, hưởng ứng tham gia các
cuộc thi: (1) Cuộc thi Tìm hiểu “Quảng Ninh 60 năm
xây dựng và phát triển” bằng hình thức trực tuyến -
Đợt3; (2) Cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học,
nghệ thuật, báo chí chủ đề Kỷ niệm 60 năm Ngày
thành lập tỉnh; (3) Cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu
pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước” do Hội đồng
phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh Quảng
Ninh tổ chức; (4) Cuộc thi viết “Gương sáng quanh
ta”

You might also like