Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 9

TẠP CHl KHOA HỌC ĐHQGHN, KHXH & NV, T.

XXII, số 3, 2006

S ự CHUYỂN ĐỔI LOẠI HÌNH TÁC GIẢ


TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỂ KỶ XIV

ĐỖ T hu H iền <•>

T hế kỷ XIV là một trong những giai Qua đó, chúng tôi muôn nhận diện sự
đoạn vẫn được coi là ít th àn h tựu của hình thành và những đặc điểm của loại
lịch sử văn học Việt Nam. Quả thực, đó hình tác giả nhà nho giai đoạn đầu cũng
là giai đoạn dường như không có tác giả, như vai trò của nó đối vổi sự phát triển
tác phẩm nổi bật, cũng không có những của văn học giai đoạn này, đặt trong
hiện tượng văn chương đáng lưu ý. Nằm tổng thể quá trìn h vận động của văn học
giữa hai thòi kỳ có dấu ấn đặc trưng là mười th ế kỷ nói chung. Chúng tôi cho
th ế kỷ XIII và th ế kỷ XV, văn học th ế kỷ rằng đây là một trong những vấn đề mấu
XIV thường chỉ được lưốt qua trong các chốt có ý nghĩa lý luận để giải quyết
cuốn văn học sử như một gạch nối mờ những khúc mắc cũng như nhận diện
nhạt. T hế nhưng, dưới vẻ ngoài tĩnh lặng quy lu ật phát triển của văn học Việt
đó, ở giai đoạn này đã âm thầm diễn ra Nam trung đại.
một sự kiện quan trọng trong tiến trình 1. Từ P hật giáo sang Nho giáo -
văn học trung đại Việt Nam, đó là lần định hướng vận động cơ bản
chuyển đổi lón n h ấ t trên phương diện của xã h ôi V iêt Nam thời Lý -
loại hình tác giả, nhà nho trở th àn h loại Tran
hình tác giả chính yếu, thay th ế cho nhà
Trạng thái vận động nói chung của
sư và quý tộc - võ tưóng thời Lý - Trần.
xã hội Việt Nam trong những th ế kỷ đầu
Đây là sự khẳng định một loại hình tác
tiên của thòi tự chủ đã diễn ra tương đôì
giả sẽ chiếm lĩnh văn đàn cho đến hết
phức tạp. P h ật giáo mặc nhiên được chọn
lịch sử văn học tru n g đại, có thể coi là
là quốc giáo với những lý do hoàn toàn
một bước ngoặt hình th àn h nên văn hợp lý của sự vận động lịch sử xã hội. Nó
chương nhà nho ở Việt Nam. đang là hệ tư tưỏng - tôn giáo phổ biến
Lâu nay, ý kiến của giới nghiên cứu nhất, bao trùm cả xã hội Việt Nam.
về sự chuyển đổi của loại hình tác giả Nhưng P h ật giáo, h ẳn nhiên, từ trong
trong giai đoạn này đã đ ạt được sự thông bản chất không th ể là một hệ tư tưỏng có
n h ấ t cơ bản. Tuy nhiên, ngoài những thể giúp ích nhiều cho giới cầm quyền
n h ận xét mối chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý, trong việc xây dựng một th iết chế xã hội
vân đề này cho đến nay vẫn chưa thu vững mạnh. T hế nên, cũng ngay từ buổi
h ú t được sự quan tâm chú ý xứng tầm. đầu đó, Nho giáo đã được quan tâm đến
Chính vì thế, bài viết này hy vọng bưốc như một hệ tư tưởng hữu dụng cho nhà
đầu mô tả diện mạo, quá trìn h và làm nước. Dường như khi ấy, Nho giáo vẫn
sáng tỏ những điều kiện lý luận và thực chưa được sử dụng một cách có ý thức và
tiễn nào đã quy định sự chuyển đổi đó. chủ động, nó x u ất hiện trong một th ế

° ThS., Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn, ĐHQGHN.

11
12 Đỗ Thu Hiền

hỗn dung các hệ tư tưởng, như một phần lại là mốc quan trọng ghi nhận sự có m ặt
tấ t yếu đã cấu th àn h nên th iết chế xã hội mang tính tấ t yếu của Nho giáo. Việc dòi
nguyên mẫu là T rung Quốc, cũng như xã đô về Thăng Long không chỉ có ý nghĩa
hội phái sinh là Việt Nam. Người Việt lớn lao về m ặt chiến lược m à nó cho thấy
Nam khi giành quyền tự chủ ở th ế kỷ Lý Công U ẩn đã không còn nhìn võ công
thứ X cũng đồng nghĩa với việc nhận lại và bạo lực như những yếu tô" quan trọng
một di sản văn hoá do người Trung Quốc n h ất cần có của kẻ làm vua. ô n g đã tiến
đã nỗ lực gắn kết vào nền văn hoá bản gần hơn đến hình ảnh của một vị đế
địa trong một ngàn năm Bắc thuộc. Nho vương kiểu Nho giáo. Lập nưóc năm
giáo vào Việt Nam không phải dưối dạng 1009, đến năm 1070, nhà Lý cho lập Văn
một hệ tư tưởng th u ần n h ấ t mà trong miếu, tạc tượng Chu công, Khổng tử, Tứ
trạng thái đã gia nhập và trở thành phối, vẽ tượng T hất th ập nhị hiền để tế
những thực thể sống động, cụ thể trong lễ; năm 1076, lập Quốc tử giám. Năm
tổng thể văn hoá xã hội ỏ T rung Quốc. 1075, khoa th i đầu tiên m inh kinh bác sĩ
Mặc dù dấu ấn của nó ở Việt Nam thời và thi nho học tam trường được tổ chức.
Bắc thuộc là rấ t mờ n h ạt trên bề nổi thì Rõ ràng, trong hoàn cảnh P h ật giáo đang
trong thực tế, nó lại ẩn mình dưới những thịnh hành, sự xuất hiện của Nho giáo
thực thể văn hoá vật chất và tinh thần chứng tỏ đây là một nhu cầu không thể
mà người Việt Nam tiếp thu từ Trung Quốc. thiếu đối với sự phát triển của đất nước.
Các vị vua Ngô - Đinh - Tiền Lê dù Định hướng phát triển chủ đạo của
coi P hật giáo là quốc giáo thì vẫn phải sử xã hội Việt Nam thời Lý - T rần kéo dài
dụng mô hình chính trị từ Trung Quốíc, gần 400 năm chính là xu hướng đi từ
thứ mà Nho giáo đã là một phần thiết P hật giáo sang Nho giáo. T hế hỗn dung
yếu cấu thành nên, trong tìn h th ế không Nho - P h ật - Đạo đã m ang đến cho xã hội
có một lựa chọn nào khác. Nhưng họ thời này những màu sắc hồn nhiên và
cũng mới chỉ áp dụng mô hình đó ở hình sông động khác hẳn với những th ế kỷ
thức sơ khai, tối giản và phiến diện nhất. còn lại của thòi quân chủ ở Việt Nam.
Đ ất nưốc vẫn được điều h àn h theo kiểu Nhưng đến đầu th ế kỷ xrv đã diễn
ngẫu hứng, kinh nghiệm chủ nghĩa. Bạo ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
lực th ậ t sự vẫn có sức m ạnh khó thay thế có mầm mông từ những ngày lập quốc,
nổi trong một xã hội vẫn chưa hoàn toàn có sức m ạnh làm thay đổi một cách cơ
thoát ra khỏi trạn g thái hỗn độn của thòi bản xã hội Việt Nam và có tác động lâu
loạn. Có thể thấy là các vị vua thời này dài m ang tính quyết định đến tương lai
chưa phải là mẫu hình các vị đế vương đất nưóc. Đó là sự khủng hoảng của cả
của Nho giáo. một hệ thông thiết chế xã hội lẫn hệ tư
Năm 1009, Lý Công u ẩ n lên ngôi, lập tưởng không còn khả năng giải quyết
ra triều Lý, lần lượt dời đô về Thăng những vấn đề thời đại đ ặt ra. Hồ Quý Ly
Long, đặt quốc hiệu là Đại Việt, mở ra đã xuất hiện như một n h ân vật có khả
một “kỷ nguyên mới” cho đ ất nưốc. Công năng làm một cuộc cách m ạng thay đổi
cuộc xây dựng nưóc Đại Việt đến đây mới thời cuộc. Đến bây giờ, ông vẫn được coi
có thể coi là thực sự b ắt đầu. Đây cũng là một trong những nhà cải cách hiếm

Tạp chí Khoa hoe ĐHQGHN. KHXH & NV, T.XXII. s ố 3, 2006
Sự chuyển dổi loại hình tác giả trong vân học Việt Nam.. 13

hoi của lịch sử Việt Nam. Đáng tiếc, cuộc công việc của quốc gia như trong buổi
cải cách của Hồ Quý Ly đã đi quá xa so đầu dựng nước này.
với những gì m à trìn h độ phát triển của Để có thể tham gia công việc triều
xã hội Việt Nam bấy giờ có thể dung nạp chính, các nhà sư đã không thể chỉ dùng
nổi, cách thức thực hiện lại quá mạnh giáo lý đạo Phật, họ cần đến những kiến
bạo và quyết liệt trong một thời điểm thức khác nữa như Nho giáo chẳng hạn,
chưa hoàn toàn phù hợp. Đó là lý do do vậy nhân vật thiền sư tham chính
khiến ông th ấ t bại. T rên tiến trìn h đưa thời kỳ này không m ang tính chất P hật
Nho giáo vào th ay th ế P h ật giáo ở Việt giáo thuần nhất. Nhưng có những giới
Nam giai đoạn V ãn T rần sang Hồ, Hồ h ạn mà dù được bô sung bởi nhiều loại
Quý Ly là người khai phá, nhưng đã tri thức cụ thể thì nhà sư vẫn không thể
không thể đi h ết con đường mà lịch sử đã vượt qua. Do vậy, họ vẫn không thể là
lựa chọn. một hình m ẫu lý tưởng để giúp nhà vua
Đã có “m ộ t s ự c h u y ể n g ia o th ự c sự xây dựng bộ m áy chính quyền hùng
g iữ a Nho g iá o và P h ậ t g i á o 99 (chữ m ạnh, v ả lại, các nhà sư giúp việc cho
dùng của T rần Đ ình Hượu) từ th ế kỷ các bậc đế vương thường với tư cách là
XIV đến XV. Cuộc chuyển giao có ý thức những vị quân sư, những ông thầy nhiều
này đã không thê thực hiện trọn -vẹn hơn là kẻ bề tôi. Dù rằng P hật giáo ở
dưới thời T rần - Hồ mà phải đợi qua giai Việt Nam thời kỳ đó không tồn tại như
đoạn thuộc M inh, đến Nguyễn Trãi, rồi một th ế lực th ần quyền song song, thậm
Lê T hánh Tông mói được coi là hoàn tất. chí ỏ trên hoàng quyền như Thiên chúa
giáo ở phương Tây, mà giữa P hật giáo và
2. Từ nhà sư và võ tướng quý
triều đình có xu hưống nhập vào làm
tộc đến nhà nho

một hệ thống, nhưng về m ặt lý thuyết
N hân vật trí thức chính trong triều cũng như trong thực tế thì đó vẫn là điều
đình thời đầu độc lập là các nhà sư. Nhà không tưởng. Cùng với sự sa sút của đạo
chùa là trường học, đồng thời là nơi tập P h ậ t ở th ế kỷ XIV - XV thì cũng không
tru n g mọi tin h hoa, tri thức của đất còn xuất hiện những vị sư có tài đức, uy
nước. Thậm chí, n h à chùa cũng chính là vọng như trưốc nữa. Không có những
trường dạy kiến thức Nho giáo đầu tiên ỏ đụng độ quyết liệt hay những tranh
thời tự chủ. Tuy vói những tài liệu còn giành ầm ĩ, một cách âm thầm và lặng
lại đến ngày nay, P h ậ t giáo chưa bao giờ lẽ, các nhà sư dần rú t lui, nhường hẳn
được chính thức tuyên bô" là quốc giáo, chỗ cho quý tộc, võ tưống và nho sĩ trên
nhưng trong thực tế, không nghi ngò gì, vũ đài chính trị nói riêng và trên những
nó đã được đối xử như một tôn giáo chính hoạt động bề nổi của xã hội nói chung.
thức của quốc gia. N hiều vị sư trở thành Trong triều đình, thay th ế địa vị của
cô" vấn cho triều đình, giúp nhà vua các nhà sư trong buổi ban đầu là tầng
trong các công việc đôi nội, đổi ngoại, lớp quý tộc, võ tướng. Theo quy lu ật bình
định ra đường hướng, sách lược trị quốc. thường, tri thức dần đã không còn là độc
Chưa bao giờ tầ n g lớp tăn g sư có tinh quyền trong khuôn viên của nhà chùa.
th ầ n nhập thế, th am gia tích cực vào Nhưng không phải nó đi vào trong dân

Tạp c h í Khoa học ĐHQ G H N, KHXH & NV, T X ữ l, S ố 3,2006


14 Đỗ Thu Hiền

gian ngay lập tức, mà ban đầu, nó đến thì xu hướng đó không có cơ hội để tồn
với tầng lóp trên cùng của xã hội. Vào tại. Đến khi Hồ Quý Ly thôn tính nhà
giai đoạn hưng thịnh của mình, nhà Trần, vai trò lịch sử của giói quý tộc về
Trần đã có một th ế hệ quý tộc tôn thất cơ bản đã chấm dứt. Quý tộc nhà T rần
đầy tài năng và lòng kiêu hãnh, thực sự cùng với quá trìn h tran h giành quyền lực
là bộ phận tinh hoa của đ ất nước. Họ là và tiếm ngôi của Hồ Quý Ly đã bị m ất
những võ tướng tài ba nơi sa trường; là hết địa vị chính trị, kinh tế, xã hội, và
những người quản lý đất nước được lòng cuôì cùng bị tàn sát hàng loạt. Đến khi
dân ở điện các; là những th i sĩ, học giả Hồ Quý Ly thôn tính nhà T rần, vai trò
đáng kính trong thư phòng; là những lịch sử của giới quý tộc vể cơ bản đã
thiền sư cao đạo chôn chùa chiền, ở họ chấm dứt. Quý tộc nhà T rần cùng vói
có sự dung hoà giữa tinh thần phóng quá trình tra n h giành quyền lực và tiếm
khoáng của giới võ tướng; tín h chất thâm ngôi của Hồ Quý Ly đã bị m ất h ết địa vị
trầm nhưng rộng rãi của văn hoá Phật chính trị, kinh tế, xã hội, và cuốĩ cùng bị
giáo, và cả cái gọi là tru n g liệt của Nho tàn sát hàng loạt. Họ là những người,
gia. Xu hướng cởi mở của tần g lớp này hiểu thời cuộc hay không, đã cô" gắng kéo
th ậ t sự rõ rệt. lùi lại bánh xe của lịch sử và tấ t nhiên là
đã bị nghiền n át không thương tiếc.
Càng về sau, cùng vói sự suy yếu của
Người đòi sau sẽ gọi họ là những kẻ không
P hật giáo và sự m ạnh dần lên của Nho
giáo trong xã hội thì địa vị của tầng lóp thức thòi. Nhưng đám này lại rấ t đông
và chiếm đa sô" trong hàng ngũ quý tộc.
quý tộc cũng có sự biến đổi tương ứng.
H ành trang kiến thức cũng như bản chất Trong khi đó, có một bộ phận rấ t nhỏ
xã hội của quý tộc xét cho cùng không trong tầng lớp này lại theo một xu hướng
thích hợp vối vai trò nhà quản lý xã hội, khác. Về xuất thân cũng như địa vị trong
những kẻ giúp việc tận tuỵ của hoàng đế. hiện tại, họ thuộc về tầng lớp quý tộc,
Quý tộc nhà T rần coi việc được chia sẻ nhưng họ lại là những người có tri thức
phú quý và quyền lực với n h à vua là hiển Nho học, suy nghĩ theo kiểu Nho gia.
nhiên và không hề biết hàm ơn vì điều Thấu hiểu diễn biến thời cuộc và sự trớ
đó. Thậm chí, tư tưởng “thiên hạ là của trêu của hoàn cảnh cá nhân, họ đã phải
tô tông” đã dẫn đến những chuyện như đứng chông chênh trong một tình huống
của Trần ích Tắc và một phần nào của cơ hồ không lỗi thoát. Con đưòng tỉnh táo
Trần Liễu trưốc đó. H ậu quả lốn n h ất là duy nhất họ có thể lựa chọn lúc đó là
quyền lực của quý tộc tấ t sẽ dẫn đến sự đành thoái lui để bảo toàn tính m ạng cá
suy yếu của nhà nưốc trung ương và tình nhân và đứng ngoài cuộc bất lực giương
trạng cát cứ, tư hữu ruộng đất. Xét về m ắt chứng kiến gia tộc suy vong. T rần
m ặt lý thuyết, đây có thể là một bước Nguyên Đán là một trường hợp điển
tiến hdp lý của lịch sử p h át triển xã hội. hình. Những nhà quý tộc bị Nho giáo hoá
Nhưng xét trong thực tế của một đất này chính là buớc trung gian từ mẫu
nước luôn phải thường trực đối m ặt với hình nhân cách quý tộc sang m ẫu hình
nguy cơ bị xâm lược từ nước láng giềng nhân cách nhà nho giai đoạn Vãn Trần.
phương Bắc khổng lồ và đầy tham vọng Đó cũng là một trong những ngả đường
hình thành nhân cách nhà nho ở Việt Nam.

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXIỊ, S ổ 3, 2006
Sự chuyển dổi loại hình tác giả trong vàn học Việt Nam.. 15

Cùng với xu th ế p h át triển của Nho T hế kỷ XIII- XIV là giai đoạn bản lề
giáo thì nho sĩ, tuy không mối, nhưng đã trong lịch sử p h át triển của lực lượng
bắt đầu trở nên một lực lượng quan nho sĩ Việt Nam. Đó là thòi điểm nho sĩ
trọng trong xã hội. Từ cuối th ế kỷ XIII, trên quá trìn h hình thành lực lượng, dần
nhà nho đã bắt đầu đông đảo trong xã chiếm lĩnh các m ặt của đòi sông xã hội.
hội. Họ dần đạt được những vị trí quan Là loại hình nhà nho giai đoạn khởi đầu
trọng và thay th ế cho nhà sư và quý tộc nên nho sĩ thòi này có nhiều điểm đặc
trong triều đình. Vối tri thức về quản lý trưng sẽ không lặp lại ở các thời kì sau.
xã hội được trang bị song song cùng với Họ bồng bột, sôi nổi, nhưng lại ít kinh
hệ thông lý luận của Nho gia, nhà nho có nghiệm và sự trưởng th àn h hơn, còn chịu
ưu th ế hơn hẳn các tầng lóp khác trong nhiều chi phôi của các luồng tư tưỏng và
xã hội để trở thành những kẻ giúp việc lực lượng xã hội khác nhưng m ặt khác
lại cũng ít chịu ràng buộc của giáo điều
đắc lực cho nhà vua. Quan trọng không
Nho giáo hơn. Chính vì thế, xét về tư
kém, họ còn có đặc điểm m ang tính bản
cách một tầng lớp th ì họ chưa đủ độ chín,
chất của tần g lớp là luôn trung thành
tín h chất Nho gia ở họ chưa th ậ t tiểu
tuyệt đối với các ông vua. Không bao lâu
biểu hoặc chưa được bộc lộ đầy đủ. Lý do
nữa, trọng trách từ nhiều phía sẽ giao
quan trọng hơn là một cơ sở xã hội thực
vào tay nho sĩ.
sự chín muồi cho sự ra đời và tồn tại của
Cùng với sự phát triển và đi lên của một lóp nhà nho tiêu biểu vẫn chưa đầy
lớp nhà nho trong xã hội Việt Nam, ỏ th ế đủ, nghĩa là vẫn còn thiếu một nền tảng
kỷ XIII-XIV, trong văn học đã có sự vững chắc các điều kiện th iết chế, tâm lý
chuyển tiếp của loại hình tác giả theo xu xã hội, cơ chế cung đình, điều kiện kinh
hướng nhà nho dần trở th àn h lực lượng tế. Nhà nho thời T rần vẫn chưa thực sự
sáng tác chủ yếu thay th ế cho nhà sư và phối kết với hoàng quyền. Họ chưa được
quý tộc - võ tưóng. Đây là một hiện nắm giữ những công việc chính sự chủ
tượng nổi b ậ t trong văn học Việt Nam chốt, triều đình vẫn chưa thực sự là môi
thời kỳ này. Sự chuyển đổi của loại hình trường hoạt động của họ.
tác giả song hành cùng sự biến đổi về địa Từ thời Lý đến thòi Hồ, trong văn học
vị cũng như khả năng tác động của Nho Việt Nam đã thực sự diễn ra một cuộc
giáo trong xã hội đã dẫn tới những thay chuyển giao vai trò giữa các loại hình tác
đổi một cách hệ thông, toàn diện của nền giả. Đến tận thòi Lê T hánh Tông (trị vì
văn học Việt Nam mà kết quả của Ĩ1Ó đã 1460-1497), Nho giáo mối chính thức
nhìn thấy được ngay trong th ế kỷ xrv và giành được địa vị ý thức hệ độc tôn trong
sẽ kéo dài nhiều th ế kỷ sau. Sự chuyển xã h ộ i “Tuy nhiên, về m ặt văn học, cần
đổi này có tín h triệ t để và sâu sắc, tạo ra p h ả i ghi nhận rằng, vị trí độc tôn đó đã
một loại hình văn học nhà nho trong lịch diễn ra sớm hơn, trên dưới một th ế
sử văn học Việt Nam, thay th ế cho kỷ”[3]. Cho đến th ế kỷ XIV, nhà nho
những ảnh hưởng ròi rạc và ít nhiều không những đã chiếm đa sô" trên văn
ngẫu nhiên của Nho giáo đến văn học đàn mà còn là những tác giả tiêu biểu
giai đoạn trưốc. nhất. Không những thế, sự áp đảo của số
lượng tác giả nhà nho ở th ế kỷ XIV diễn

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXI1, S ố 3, 2006
16 Đổ Thu Hiền

ra đồng thời với sự xuất hiện của nhiều là tác giả văn học. T hế nên khi sô" lượng
tác giả có sự nghiệp sáng tác tương đối nhà nho bắt đầu tăng lên thì dù nhà nho
dày dặn: Nguyễn Sưởng, Nguyễn úc, chưa tức vị trên chính trường, Nho giáo
Phạm Sư Mạnh, T rần Nguyên Đán, chưa đạt địa vị độc tôn, tác giả nhà nho
Nguyễn Phi Khanh, Hồ Nguyên Trừng... đã áp đảo trên lĩnh vực văn chương.
Trong khi đó, trước thời T rần, di sản văn Bên cạnh đó, trong khi nhà sư cũng
chương còn lại với chúng ta ngày nay là như quý tộc chưa bao giờ coi việc viết
những tác giả mà sự nghiệp sáng tác chỉ văn làm thơ là chuyện quá nghiêm túc
là một, hai bài thơ, văn ít ỏi. thì thái độ coi trọng của Nho giáo đối với
Lý giải hiện tượng này trưốc hết phải văn chương lại là một lý do khiến văn
kê đến sự m ạnh dần lên của Nho giáo chương nhà nho cũng như loại hình tác
thay th ế P h ật giáo ỏ xã hội Việt Nam giả nhà nho p h át triển rấ t m ạnh khi có
thời T rần - Hồ đã dẫn đến sự tăn g mạnh cơ sở xã hội.
số lượng nho sĩ và giảm thiểu sô" lượng T hế kỷ XIII, XTV trong lịch sử Việt
nhà sư. P hật giáo không còn chiếm lĩnh Nam là thời kỳ đang lên của tầng lốp
khu vực thượng lưu của xã hội về cả mặt nho sĩ. Địa vị có được chưa quá cao,
địa vị lẫn tri thức xã hội mà lui hẳn vào nhưng cũng vì th ế mà chưa nếm trải quá
trong dân gian. Đến lúc đó, những tinh nhiều th ấ t bại cũng như chưa chạm quá
hoa của trí thức nước nhà lại tập trung ỏ sâu vào những m ặt phức tạp của thực tế
giới nho sĩ. cuộc sông quan trường, đám nho sl thòi
Nhưng không chỉ đơn giản như thế, kỳ đầu này còn vô cùng lạc quan và hăm
loại hình tác giả nhà Nho thậm chí đã hở vối k h át vọng hành đạo giúp đời. Và
tức vị trên văn đàn khi địa vị Nho giáo thời th ế dường như cũng khiến ọho
trên chính trường vẫn chưa giành được những hoài bão của họ được thoả mãn.
sự ưu thắng còn do tính chất đặc trưng Nhà nho bắt đầu được dùng, chưa phải ở
của tầng lóp nho sĩ, dù là ở giai đoạn những vị trí cao nhưng đã là cơ hội cho
đầu. Họ là những trí thức chuyên nghiệp họ thể hiện năng lực và nhiệt huyết.
mà “nghề” chính thức là học hành, suốt Những tên tuổi thành công trên quan
cuộc đời họ chỉ có một nhiệm vụ tiên trường khá nhiều: T rần Thì Kiến, Đoàn
quyết là dùi mài kinh sử mong đỗ đạt Nhữ Hài, Đỗ Thiên Hứ, Mạc Đĩnh Chi,
làm quan. Văn chương xét theo nghĩa Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ,
rộng (1) chính là phương tiện để nhà nho Nguyễn T rung Ngạn, Lê Quát, Phạm Sư
đạt được mong ước đổi đời. Cơ chế học Mạnh, Lê Duy, Trương H án Siêu, Lê Cư
hành khoa cử đã biến nho sĩ thành N hân... Lê Quý Đôn nhận xét về nho sĩ
những người thông thạo chữ nghĩa, thơ thời T rần như sau: “Đấy là những người
phú (2). Gần như trên lý thuyết, tấ t cả trong trẻo, cứng rắn, cao thượng, thanh
những người đi học, những nhà nho đều liêm, có phong độ như sĩ quăn tử đời Tây
H án, thật không phải người tầm thường
(1) Không tương đương với văn chương nghệ thuật như có th ể theo kịp <fỉ/Ợc”[U. N hận định của
chúng ta hiểu ngày nay.
{2) Thậm chí, khi bị đẩy đến chỗ cực đoan thi nhiều khi
Lê Quý Đôn có phần không chính xác khi
nho sĩ còn có thể trở thành những cái máy vô cảm khi dùng cái nhìn không xét đến tính chất
biết sản xuất ra thơ ca.

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXII, Sô'3, 2006
Sự chuyển dổi loại hình tác giả trong vàn học Việt Nam. 17

vận động của xã hội để xem nhà Trần hình thức của di sản văn chương của
như một thời đại hoàng kim của Nho người T rung Quốc- trong đó Nho giáo là
giáo Việt Nam, nhưng lại vô cùng xác một th àn h phần cơ bản cấu thành nên.
đáng khi nhận ra chất phóng khoáng, Chính vì vậy, sự tách biệt th ậ t rõ ràng
bồng bột không lặp lại của nho sĩ nhà ran h giới giữa văn học nhà nho ỏ thời
Trần. Trần- Hồ và văn học trước đó th ậ t không
đơn giản. Hơn th ế nữa, cũng như bản
3. Đ ịnh hình ở bước đầu những
th â n loại hình nhà nho giai đoạn đó, bộ
đặc trưng của văn chương
phận văn học n h à nho này cũng chưa
Nho giáo th ậ t tiêu biểu cho văn chương nhà nho
Trước hết cần phải phân biệt văn nói chung. Nó còn bị pha tạp và chịu ảnh
chương do nhà nho sáng tác và văn hưởng của quá nhiều hệ tư tưởng vẫn
chương m ang m àu sắc Nho giáo. Đối còn sức chi phối rấ t m ạnh trong không
tượng mà chúng ta quan tâm ở đây chính k hí cởi mở của xã hội. Cũng như thế, cơ
là loại văn chương thứ hai. Trước khi sở xã hội vẫn chưa sẵn sàng cho một nền
văn chương của các nhà nho thông trị văn chương nho giáo thực sự trưởng
nền văn học Việt Nam, đã có một nền thành.
văn chương mang nội dung và chịu ảnh Tuy nhiên, những nội dung của văn
hưởng m ạnh của P h ật giáo nhưng tự chương nhà nho đều đã được hình thành
th ân m ang trong m ình những yếu tô" của ở bước đầu. Có th ể thấy sự hình thành
nguyên lý mỹ học Nho gia. Không phải của văn chương Nho giáo thòi kỳ này
vô cớ mà T rần Đình Hượu đã đặt dấu hỏi qua quan niệm về văn học, hệ thông chủ
cho sự tồn tại của một nền văn học P hật đề, đề tài, cảm hứng chủ đạo, hình tượng
giáo ở Việt Nam thòi Lý - T rần (3). Tác tru n g tâm , hệ thông thể loại, ngôn ngữ
giả của loại hình văn học này có thể là văn học...
thiền sư hoặc vua chúa quý tộc, thậm chí
Lý luận văn học Việt Nam cho đến
là n h à nho. Điều này xuất p h át từ nguồn
gốc ngoại nhập của sự ra đời nền văn học th ế kỷ XV vẫn còn là khoảng trông. Kể
Việt Nam. Từ khi vay mượn tiếng Hán cả nếu không có chuyện thư tịch m ất
và chữ H án làm ngôn ngữ và văn tự cho m át thì có lẽ tìn h hình cũng không khả
văn chương nói riêng và nhiều m ặt của quan gì hơn nếu xét trìn h độ của văn học
đời sông tinh th ần nói chung, mặc nhiên đến thòi điểm đó cũng như truyền thông
và quá trìn h p h át triển lý luận văn học
người Việt Nam đã tiếp nhận một cách
nưóc nhà nói chung (4). Đó cũng là tình
vô thức hệ thống quan niệm, nội dung,
hình chung dù ở mức độ đõ cực đoan hơn
của cả nền văn học trung đại Việt Nam.
(3) UỞ nước ta có lúc Phật giáo đà thống trị; trước văn học Nói về nhạc, Nguyễn Nhữ B ật (?- ?) có
các nhà nho là văn học các nhà SƯ. Nhưng có hay
không có m ột nên văn học Phật giáo ỏ Việt Nam? Phải nhận xét: “N gày nay, vua trên thánh
chăng k h i bắt chưởc người Trung Quốc làm thơ, làm phú
thì người viết cũng tự nhiên chấp nhận quan niệm văn
học, quan niệm cài đẹp của thơ, phú? v ề sau khi Nho (4) Trong cố gắng sưu tầm những ý kiến về văn học của
giáo càng được đề cao thì quan niệm đó càng được điêu cổ nhân từ thế ky X- XX, các soạn giả của tập “Từ trong
chỉnh, hoàn chình theo Nho g ià o T . Trần Đình Hượu. di sản" cũng chì thu được vài ba đoạn văn ngắn cho thời
Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Giáo Lý- Trần. Thực tế có thể nhiều hơn nhưng cũng không
dục, Hà Nội, 1999. tr. 55, 56. đáng kể.

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, Txai, S ố 3, 2006
18 Đỗ Thu Hién

triết, vận nước hanh thông. C h ế độ hưng Phạm Sư Mạnh, một trong những
thịnh, ổn định thành công. Bỏ nhạc dăm nhà nho th àn h đạt n h ất ở th ế kỷ xrv,
đ ể dùng nhã nhạc, hoà trăm họ đ ể cảm nói về năng lực “trí quân trạch dân” của
thần th ô n g ”, v ề công việc chép sử, một nhà nho:
tác giả khuyết danh viết rằng: “K hi ngòi “B ình sinh nhị thập an biên sách,
bút vừa dầm xuống mực; quỷ thần kinh
mà lánh bóng xa”[2; tr.318, 336]. Có thể N hất thốn đan trung ánh bạch đầu”
coi những phát biểu hiếm hoi còn sót lại (Quan bắc)
của thời Lý- T rần trên là nằm trong (Bình sinh với hai mươi sách lược vỗ
quan niệm văn chương truyền thống của yên biên giới,
nhà nho.
Một tấc lòng tru n g son sắt ánh lên
Nội dung của văn chương nhà nho mái đầu bạc)
ngay từ giai đoạn này đã đi đúng theo
Lê Q uát cũng nói đến lòng trung
những nguyên tắc của mỹ học Nho gia,
th àn h tận tuỵ của nhà nho:
chủ yếu phản ánh th ế giới quan, nhân
sinh quan Nho giáo. Từ các phương diện “Bảo Nguyên tằng dự tuỳ triều tuyển,
cảm hứng chủ đạo, hình tượng trun g tâm Lạc dục ăn thâm khắc cốt tồn”
có thể thấy rằng lóp nhà nho này đang
(Đăng cao)
ra sức dùng văn chương để thuyết minh
cho các quan niệm Nho giáo, cũng là để (Từng được triều đình tuyển dự vào
chứng tỏ giá trị của tầng lóp nhà nho đôi Bảo Nguyên,
vối xã hội. Họ đem một xã hội “Văn trị”, ơ n sâu đào tạo còn khắc mãi trong
trong đó địa vị của các ông vua không chỉ xương cốt)
được đảm bảo bằng sức người mà còn
Về m ặt thể loại, trong văn chương
bằng cả ý trời, ra để mòi chào các đấng
giai đoạn này cũng đã diễn ra những
quân vương. Yếu tô" Nho giáo này ngày
thay đổi lốn. Nếu văn chương của các
càng gia tăng ở những tác giả giai đoạn
nhà sư và quý tộc chủ yếu chỉ là các thể
sau.
loại có dung lượng nhỏ như thơ Đường
Đào Sư Tích ngợi ca đức của nhà vua lu ật thì ở văn chương nhà nho đã bắt
như sau: đầu xuất hiện những thể loại "lớn” hơn,
“N hân ân trạm hề bàng thiếp, trong đó đặc biệt có thể phú, một thể loại
Phẩm vựng xán hề chiêu tô. đặc trưng của văn chương khoa cử. Đây
chính là hệ quả của một nền giáo dục-
Đức ký m ậu ư vô tư,
khoa cử m ang đậm dấu ấn của Nho giáo.
Thiên năi tích hồ ứng p h ù ”
Nó m ang lại cho xã hội cũng như văn
(C ảnh Tinh ph ú ) chương một loại hình tác giả có học thức,
(Ân đức thấm khắp gần xa, được rèn luyện không những nội durig
Muôn vật tốt tươi chói lọi. giáo lý của Nho giáo mà còn cả vốn kiến
văn, kỹ th u ật, phép tắc. niềm say mê,
Vò tư đức đã dồi dào,
tôn sùng đốỉ vối văn chương. Có thể nói,
Tròi bèn ứng ban điềm mới) những truyền thông trên nhiều phương

Tạp chí Khoa học ĐHQỢHN, KHXH & NV, TJOQI. s ố 3, 2006
Sự chuyến dổi loại hình tác giả trong văn học Việt Nam... 19

diện của văn chương nhà nho đã thực sự tác phẩm vẫn cần có sự nghiên cứu toàn
bắt đầu. diện hơn về những đặc trưng của văn
Nhìn sự biến động của văn chương chương Nho giáo giai đoạn này. Việc
th ế kỷ XIV trên phương diện loại hình nghiên cứu văn chương Nho giáo đặt
tác giả văn học là một hướng tiếp cận mà trong tiến trìn h vận động từ P h ật giáo
chúng tôi cho là có hiệu quả. Nhưng để sang Nho giáo chắc chắn sẽ là một hướng
sự nhận diện đa dạng và có chiều sâu nghiên cứu có triển vọng cho văn học
hơn, dựa trên chính đối tượng văn bản trung đại Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2: Kiến Văn tiểu lục, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1977.
2. Nhiều tác giả, Thơ văn Lý - Trần, tập 3, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Trần Ngọc Vương, Loại hình học tác giả văn học - Nhà nho tài tử và văn học Việt N am ,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1999.

VNU. JOURNAL OF SCIENCE, s o c ., SCI., HUMAN. T.XXII, Nọ3, 2006

THE CHANGE OF THE WRITER TYPES IN VIETNAMESE LITERATURE


IN THE 14th c e n t u r y
MA. Do Thu Hien
Department of Literature
College o f Social Sciences and Humanities, VNU

The change of the w riter types in the 14th century is one of the most im portant
event in Vietnam ese m ediaeval L iterature. The Confucianist w riters became the main
w riter type, replacing the B uddhist and noble- m ilitary leader w riter types. It was the
w riter type which dom inated V ietnam ese literature until the end of the 19th century.
The article describes the m ain orientation of the society and ideology- the change from
Buddhism to Confucianism. This was the biggest cause of the form ation of Vietnamese
Confucian literature. After th at, the article shows the w riter type changing process
from the B uddhist and noble- m ilitary leader to Confucianist w riter type. The changes
in political position of these w riter types led to the change in their quality, quantity
and literatu re position. Finally, the article initially m entions to formation of the
Confucian literatu re features in term s of w riter, creation opinion, them e, content,
image, genre, language, etc.

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH & NV, T.XXII, S ố 3, 2006

You might also like