BTL TTHCM-1

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 33

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ 213/ NĂM HỌC 2021 – 2022

LỚP: DT05
NHÓM: 25
GVHD: TS. PHAN DUY ANH

Tp. Hồ Chí Minh - 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

ĐỀ BÀI TẬP LỚN:


GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH
MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG CUỘC BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

Tên các thành viên trong nhóm (MSSV):


Phạm Chánh Toàn (1912230)
Lê Thanh Sơn (1911977)
Trần Trung Hiếu (1913367)
Ngô Hoàng Phương Giao (1913197)
Nguyễn Đình Bảo Huy (1913367)
Nguyễn Triệu Vỹ (1912490)

2
Tp. Hồ Chí Minh - 2022

1
0
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC.........................................................................................................4
1.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản...........................................................................4
1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo...............................................5
1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn
dân tộc, lấy liên minh công – nông làm nền tảng......................................7
1.4 Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc..............................9
1.5 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
bạo lực cách mạng...................................................................................10
Chương 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY.................................12
2.1 Giá trị về mặt lý luận.........................................................................12
2.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản..........12
2.1.2 Hồ Chí Minh vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam......................................15
2.1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc đã trở
thành nền tảng tư tưởng của các đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc của Đảng Cộng sản........................................................................20
2.1.4 Giá trị trong Tư tưởng Hồ Chí Minh..........................................20
2.2 Giá trị về mặt thực tiễn......................................................................21
KẾT LUẬN.....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................30

1
MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược nước ta từ năm 1858, đến 1884, chúng
hoàn thành bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ nước ta, biến nước ta thành thuộc địa
của chúng. Giặc cướp, áp bức bóc lột, nỗi oán hận đã khiến nhân dân ta nổi dậy hợp
lực, đấu tranh lật đổ ách đô hộ của bọn thực dân Pháp. Ban đầu, nổ ra các phong
trào theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản, tiêu biểu là: phong trào Cần Vương,
Đông kinh Nghĩa Thục, Duy Tân… nhưng tất cả đều thất bại. Mọi nỗ lực dẫn đến
đường lối giải phóng dân tộc dường như rơi vào đường bế tắc. Trước hoàn cảnh đất
nước, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được nếu vẫn đi theo tư tưởng phong kiến
hoặc tư sản thì không thể giải phóng đất nước. Nhằm hiểu rõ kẻ thù của mình,
Người hướng con đường cứu nước sang Phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm
hiểu khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” mà thế lực thù địch truyền bá. Khi đọc
được luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, cùng với vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm ra được con đường đúng đắn
để giải phóng, dành độc lập, tự do cho dân tộc. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh: Muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh công – nông
làm nền tảng cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc, phải được tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng.
Đấy là lý do chúng ta tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải
phóng dân tộc.
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều
luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi
nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt
Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo,
quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối
tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt

2
do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của
của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt
có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực
hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay.
Thấu hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng suốt và
thông minh, kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi cùng với sự linh
hoạt và thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất
nước trong thời kỳ đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay - đó là bí quyết
thành công trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng ta và dân tộc ta. Đó là lý do
nhóm chọn đề tài: “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay” làm bài tập lớn
kết thúc môn học.
Nhiệm vụ của đề tài:
Một là, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Hai là, làm rõ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong bối cảnh hiện nay.

3
NỘI DUNG

Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG


DÂN TỘC
1.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị nước ta, vấn đề
sống còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thực
dân, đế quốc. Hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng không thành
công, sự thất bại của những phong trào yêu nước trong thời kỳ này thể hiện sự
khủng hoảng, bế tắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cách mạng. Vượt qua tầm
nhìn của các bậc tiền bối lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh muốn tìm kiếm con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc ở phương Tây,như Người đã nói: “Tôi muốn đi ra nước
ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét hị làm như thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta” 1. Nhưng qua tìm hiểu thực tế sau đó, Người quyết
định không chọn con đường cách mạng tư sản vì cho rằng: “Cách mệnh Pháp cũng
như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức
thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nhân Pháp hẵng còn phải mưu cách
mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi ách áp bức”2.
Năm 1917, Cách mạnh Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới
Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người
cho rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công, và thành
công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam… Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” 3.
Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.621.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.296.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304.

4
cứu nước, giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản, như sau này Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường náo khác
là con đường cách mạng vô sản” 4. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong
bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin
làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi trong mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nới trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đay là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế thứ ba”5. Học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin
được Ngươi vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là
trước hết, trên hết. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, con đường cách mạng vô sản ở
châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp – giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải
phóng con người. Còn theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam và các nước thuộc địa do
hoàn cảnh lịch sử - chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải phóng dân tộc – giải
phóng xã hội – giải phóng giai cấp – giải phóng con người.
Đọc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương hướng chiến lược cách mạng
Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Phương hướng này vừa phù hớp với xu thế phát triển của thời đại vừa
hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà cách
mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Trong văn kiện Đại hội VI Quốc tế Cộng Sản, khái niệm “Cách mạng tư sản
dân quyền” không bao hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân rộc ở
các nước thuộc địa. Còn trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nêu rõ:
Cách mạng tư sản dân quyền trước hết phải là đánh đổ đé quốc và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… Cũng theo Quốc tế Cộng sản, hai

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30.


5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.562.

5
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời, khăng
khít với nhau, nương tựa vào nhau. Nhưng xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí
Minh không coi hai nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên
hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, còn nhiệm vụ chống
phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân thì sẽ từng bước thực hiện. Cho nên
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người chỉ nêu “thâu hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo” 6 mà chưa nêu ra chủ trương
“người cày có ruộng”. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh.
1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Về tầm quan trọng của tổ chức đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ rõ: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó
phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông dảo quần chúng, huấn luyện quần chúng
và đưa quần chúng ra đấu tranh. Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận chủ chủ nghĩa Mác –
Lênin và rất chú trọng đến việc thành lập Đảng Cộng sản, khẳng định vai trò to lớn
của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản. Trong tác
phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Người đặt vấn đề: Cách mệnh trước mắt phải
có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần
chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững thì cách mệnh mới thành công7…
Trong hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa – phong kiến, Hồ Chí Minh
cho rằng, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội
iên phong của giai cấp nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sách
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc. Đcòn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (năm 1951), Người viết: “ Chính vì

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.2.


7. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

6
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”8.
Đây là luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ sung, phát triển
lý luận mácxít của Đảng cộng sản.
1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn
dân tộc, lấy liên minh công – nông làm nền tảng
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghãi Mác – Lênin khẳng định rằng: cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân: quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử. V.I. Leenin viết: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân
dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì
cách mạng vô sản không thể thành công được”9.
Kế thừa tư tưởng của các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh quan niệm: có dân
là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng dân, được lòng dân thì được tất cả, mất
lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người” 10. Người lý giải gần “dân tộc cách mệnh
thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền”11. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập
hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên
lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông,…để lôi kéo họ về phía vô sản giai cấp; còn
đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập12.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh tha
thiết kêu gọi mọi người không phân biệt giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,…
đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.41.


9. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.39, tr.251.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.238.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.287
12. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.

7
kháng chiến ( tháng 12/1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”13.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng,
không được quên “công nông là người chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh” 14. Trong
tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: giai cấp công nhân và nông dân là
giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lòng cách
mạng càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu
thua thì chỉ mất một kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc” 15
1.4 Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên
Quốc tế Cộng sản có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế Cộng
sản năm 1928 đã thông qua Những luận cương về phong trào cách mạng trong các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó có đoạn viết rằng: chỉ có thể thực hiện
hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này có tác động không tốt, làm
giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc
đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Quán triệt tư tưởng
của V.L.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với
phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khắng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa
cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc - mối quan hệ bình đẳng,
không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534.


14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.288.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.288.

8
Năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, Người nói: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”.
Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người cũng viết: “Chủ nghĩa tư bản là
một con đĩa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi
khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải
đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt
lại sẽ mọc ra". Là một người dân thuộc địa, là người cộng sản và là người nghiên
cứu rất kỹ về chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột để tiện của một bọn thực dân lòng tham không
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những
điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
- Thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế
quốc, là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bờ” cho chủ nghĩa
đế quốc. Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, ngày 23-6-1924, Hồ Chí Minh đã
phát biểu để “thức tỉnh...về vấn đề thuộc địa”. Người cho rằng: “nọc độc và
sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc”; nếu thờ ơ về vấn đề cách mạng ở thuộc địa thì như “đánh
chết rắn đẳng đuôi”. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa có vai trò rất lớn trong
việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa,
mà theo Người nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ"
khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng.

9
Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vô sản
ở chính quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí
Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn.
1.5 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
bạo lực cách mạng
Trong bộ Tư bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản lần đầu tiên năm 1867,
C.Mác viết: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ
mới". Năm 1878, trong tác phẩm Chống Đuyinh, Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực
còn đóng một vai trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng; nói theo C.Mác, bạo lực
còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ
mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan tành những hình
thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, với kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng thế giới,
V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng: không có bạo lực cách
mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Dựa trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần
thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". Người vạch rõ: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi".
Và sau khi xâm chiếm, bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ cai trị vô cùng tàn
bạo: dùng bạo lực để đàn áp dã man các phong trào yêu nước, thủ tiêu mọi quyền tự
do, dân chủ của nhân dân, bóc lột và đẩy người dân thuộc địa vào bước đường cùng.
Vì vậy, muốn đánh đổ thực dân - phong kiến giành độc lập dân tộc thì tất yếu phải
sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của kẻ thù.

10
Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây
là bạo lực của quần chúng được với hai lực lượng chính trị và quân sự, hai hình
thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh
chính trị của quần chúng là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và
đấu tranh vũ trang; đấu tranh vũ trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt
lực lượng quân sự và âm mưu thôn tính của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến
tranh. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của
quần chúng nhân dân trong cả nước, chủ yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp
với lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.

11
Chương 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
2.1 Giá trị về mặt lý luận
2.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản
Sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và đội ngũ của giai cấp công nhân chính là
nội dung cơ bản, nguyên tắc hàng đầu. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác
và Ph.Ăngghen thay mặt Liên đoàn những người cộng sản viết và được công bố vào
tháng 3-1848 có lời kết như lời kêu gọi và cũng là mệnh lệnh hành động của tất cả
những người vô sản trên thế giới: Công nhân toàn thế giới hãy liên hiệp lại! Đây là
điểm mà những người nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đều thống nhất khi đề cập đến
nội dung của chủ nghĩa quốc tế vô sản. V.Lênin: “Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại”
Nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta có thể nhận ra “những tầng bản
chất” của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Điển hình là 5 nội dung về sự thống nhất mà
giai cấp công nhân toàn thế giới cần đạt tới: thống nhất về lợi ích, thống nhất về tư
tưởng, thống nhất về mục tiêu, thống nhất về tổ chức và thống nhất trong hành
động.
2.1.2 Hồ Chí Minh vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam
2.1.2.1 Nhận định lại về thực tiễn và cốt lõi vấn đề giải phóng dân tộc
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn đất nước và quá trình
hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc, giải quyết đúng đắn, sáng
tạo vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Những sáng tạo lý
luận của Người về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn
nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng
thời có giá trị thời đại sâu sắc.
Do những quy định của điều kiện lịch sử và cả những sai lầm trong đường lối
cứu nước của các bậc tiền bối dựa vào chủ nghĩa phong kiến, tư bản đã không giải
quyết thành công vấn đề dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy nhu cầu

12
bức thiết, trước mắt cũng như lâu dài của các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt
Nam là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập, tự do cho dân tộc và tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định, nội dung cốt lõi của vấn đề
dân tộc thuộc địa là “độc lập dân tộc”. Giải quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập,
tự do là nhiệm vụ hàng đầu, không giành được độc lập dân tộc thì không có gì
hết. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (năm 1930) đã chủ trương: “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ
hàng đầu của tư sản dân quyền cách mạng là: “Ðánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” 16. Cách mạng
tư sản dân quyền sẽ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là đánh đuổi đế quốc, thực
dân giành độc lập dân tộc; đánh đổ phong kiến tay sai giành ruộng đất cho dây cày
nghèo. Trong hai nhiệm vụ ấy, giải phóng dân tộc cần được đặt lên trước hết.
Độc lập phải là độc lập thật sự. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Một dân tộc có được nền độc lập thật sự khi đánh đuổi hoàn toàn kẻ
xâm lược, thống trị ra khỏi lãnh thổ, quốc gia của dân tộc mình và có toàn quyền
quyết định vận mệnh và mọi vấn đề của dân tộc mình, trong phạm vi lãnh thổ của
quốc gia dân tộc mình. Độc lập dân tộc thật sự còn gắn với tự do, hạnh phúc của
nhân dân. Năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám, trong bức thư gửi Ủy ban nhân
dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chí Minh nói: “Nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 17. Độc lập dân tộc là
tiền đề, điều kiện của CNXH.
Trong bối cảnh chính trị mới của thế giới hiện nay, chủ nghĩa quốc tế vô sản
vẫn là quy luật vận động phát triển và thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân trên toàn thế giới. Đã và đang xuất hiện nhiều thách thức, khó khăn mới
từ chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc, từ “chủ nghĩa tự do mới” và chủ
nghĩa quốc gia - dân tộc hiện đại...Thực tế đó đòi hỏi mỗi đảng cộng sản và toàn thể

16 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quóc gia, H. 2011, tr 1
17 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr64

13
phong trào công nhân thế giới cần phải nỗ lực, đoàn kết và sáng tạo để vượt
qua.
2.1.2.2 Hồ Chí Minh vận dụng và giải quyết sáng tạo vấn đề giải phóng
dân tộc
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
Năm 1920, đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn - con
đường cách mạng vô sản và Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”18. Người sớm xác định phương hướng chiến
lược của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới XHCN. CNXH là hạnh phúc, tự do. Chính theo con
đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng tháng
Tám 1945, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945).
Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2/9/1945, Hồ Chí
Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập”19.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa

18 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 30
19 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 3

14
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam”20. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem
lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ bổ sung
yếu tố phong trào yêu nước vào sự ra đời của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy
phong trào yêu nước có khả năng kết hợp với phong trào công nhân, vì cả hai phong
trào cùng một nhiệm vụ và mục tiêu trước mắt là chống xâm lược, giành độc lập
dân tộc.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên
cơ sở liên minh công nông
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn
dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt... “Cách mạng giải phóng dân tộc
là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”...
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ
Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế, chỉ có đoàn kết mới tạo thành sức mạnh, tạo nên thành công.
Từ thực tiễn Việt Nam, đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân,
nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nông làm nòng cốt cho
Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đồng thời nó còn sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và có giá trị lý luận và thực tiễn đối với cách mạng
thế giới.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn, hòa bình, kết hợp đấu tranh
chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang.

20 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 289

15
“Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”21. Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh
không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân
tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ
Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình.
Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối
hóa vai trò của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với
Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục
tiêu chính trị của cách mạng. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên
truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”.
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII khẳng
định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan
trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX
(2001), lần thứ XI: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta.”.
Về vấn đề CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở nước ta, Hồ Chí Minh
khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất
định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc điểm lớn nhất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”.

21 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 275

16
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền
chuyên chính vô sản. Ở Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển một hệ thống các
quan điểm sáng tạo về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Thiết lập chính phủ công
nông binh, tổ chức ra quân đội công nông.
Sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã phản ánh
nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của không chỉ
dân tộc Việt Nam mà còn của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là tài sản vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam, Người là
tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền
thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại.
2.1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc đã trở
thành nền tảng tư tưởng của các đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của
Đảng Cộng sản
Giải phóng dân tộc là tiền đề, điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mới bảo đảm mọi quyền và
đem lại hạnh phúc cho con người. Vậy nên từ khi đất nước vẫn còn tràn ngập mùi
súng đạn của chiến tranh cho đến khi đất nước hòa bình và trên đà phát triển mạnh
mẽ, tư tưởng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã như một ngôi sao hy vọng và một
đường lối vững chắc cho dân tộc Việt Nam đến tận ngày nay.
Tại Đại hội VII, việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh dấu một
bước tiến mới về đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và
kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong

17
thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển
ở nước ta.
Trong quá trình giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, Việt Nam đã vận dụng
khéo léo và kịp thời tư tưởng Hồ Chí Minh vào các vấn đề dân tộc và ngoại giao
một cách hợp lý. Sự vận khéo léo này đã nhiều lần tạo nên sự thay đổi hoàn toàn bộ
mặt đất nước Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, có thể nói đến như quá trình
Việt Nam từng bước gia nhập ASEAN.
Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN là một chặng đường phấn đấu đầy gian
nan trong gần 3 thập kỷ. Với hoàn cảnh lịch sử khách quan, trong suốt 30 năm
(1945 - 1975), nhân dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Và cũng trong thời gian này, Đông Nam Á là một khu vực bị chia rẽ sâu sắc
do những ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Lạnh.
Tháng 1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam được ký kết. Sau Hiệp định Paris, Việt Nam dù không có quan hệ với
ASEAN nhưng vẫn hợp tác song phương với các nước thành viên của tổ chức này.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đã đem lại nền
độc lập, thống nhất hoàn toàn cho dân tộc ta, đồng thời cũng dẫn đến những thay
đổi căn bản trong tình hình Đông Nam Á. Quan hệ Việt Nam - ASEAN bắt đầu xuất
hiện những bước khởi đầu tốt đẹp từ chuyến thăm lần lượt các nước ASEAN của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh vào
cuối năm 1977 và đầu năm 1978.
Sau những chuyến thăm này, tại hội nghị được tổ chức vào tháng 2/1985,
Ngoại trưởng các nước ASEAN đã thống nhất việc đối thoại trực tiếp với Đông
Dương nhằm giải quyết vấn đề Campuchia và lập lại hòa bình ổn định khu vực.
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó “tư duy đối
thoại mới” hình thành, cách nhìn nhận với ASEAN đã có chuyển biến. Lúc này,
Đảng ta cũng xác định “phải tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á”. Chưa
đầy một năm, vào tháng 8/1987, trong cuộc gặp tại TPHCM giữa Việt Nam với
Indonesia - đại điện ASEAN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch bày tỏ
nguyện vọng muốn gia nhập ASEAN.
Chiến tranh Lạnh kết thúc vào năm 1991 cũng đã làm thay đổi cục diện khu
vực, đặt ra cho ASEAN yêu cầu tìm hướng đi mới. Mở rộng ASEAN vì hòa bình,
hợp tác, phát triển của khu vực và từng thành viên, trở thành mục tiêu mới của Hiệp
hội. Cũng trong lúc này, từ ngày 24/10 - 1/11/1991, Thủ tướng Võ Văn Kiệt lần
lượt thăm hữu nghị chính thức Indonesia, Thái Lan và Singapore. Những nỗ lực
ngoại giao trên đã làm thay đổi diện mạo quan hệ đối đầu ASEAN - Đông Dương
sang hướng hòa dịu, tạo điều kiện cho quá trình đàm phán gia nhập ASEAN của
Việt Nam được đẩy nhanh.
Ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW về “nhiệm vụ và
chính sách đối ngoại trong tình hình mới”, nhấn mạnh chủ trương “thêm bạn, bớt

18
thù”, ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, chủ
động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng
tồn tại hòa bình. Thực hiện những phương châm đối ngoại trên, năm 1992, Việt
Nam tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam Á (TAC) và trở thành
quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hằng năm. Việt
Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác chuyên ngành
ASEAN.
Dựng nước và giữ nước là một quá trình lâu dài và cần sự khôn ngoan và khéo
léo từ phía những con người cầm trịch của đất nước. Kim chỉ nam “Tư tưởng Hồ
Chí Minh” luôn là nguồn sáng và là hướng đi dẫn dắt toàn dân Việt Nam trên con
đường bảo vệ tổ quốc và nâng cao vị thế của mình.

2.1.4 Giá trị trong Tư tưởng Hồ Chí Minh


Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Trong những năm gần đây,
đời sống chính trị- xã hội thế giới có nhiều biến động lớn, Việt Nam vẫn vững bước
trên con đường CNXH mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Thế giới
đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi.
Giá trị lớn nhất, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó hữu cơ giữa
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta trong việc kết hợp biện chứng vấn đề gai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề nhân
loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Những chỉ đạo của người về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để thực sự là
hạt nhân lãnh đạo của cách mạng nước ta về xây dựng nhà nước, hệ thống chính
quyền thực sự của dân, do dân, vì dân; xây dựng các đoàn thể, cán bộ là công bộc
của dân mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị.
2.2 Giá trị về mặt thực tiễn

19
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của con dân đất Việt, vốn từ sinh thời đã có
niềm tin mãnh liệt với công cuộc sxây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới của quốc
gia. Bác luôn nhắc nhở rằng "Tăng cường quan hệ, hữu nghị với các nước láng
giềng bằng nhiều hình thức ngoại giao nhà nước đến việc thiết lập quan hệ với
chính quyền và nhân dân các nước sống chung cùng đường biên giới, giải quyết
xung đột bằng đàm phán thương lượng"22. Nhờ vào việc vận dụng triệt để tư tưởng
Hồ Chí Minh xây dựng trên cơ sở nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng và Nhà
nước ta đã luôn đạt đạt nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá cao về vấn đề
đối ngoại ở lĩnh vực quốc phòng nói riêng cũng như an ninh cả nước nói chung. Đặc
biệt hơn, nước ta luôn đặt quyền an ninh biên giới, vùng biển, vùng trời cũng như
hải đảo lên hàng đầu, chủ động thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với bạn bè các
nước láng giềng để cùng xây dựng và phát triển đôi bên cùng có lợi.
Trước hết, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là tất yếu, là mục tiêu nhất quán và
có ý nghĩa chiến lược.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
là tư tưởng nhất quán, tuyệt đối, không nghi ngờ, không thay đổi. Tính nhất quán
này xuất phát từ sự thiêng liêng của chính lãnh thổ quốc gia đối với dân tộc, vì nó
không chỉ là bảo vệ các giá trị hiện có như đất, trời và biển - những gì tổ tiên chúng
ta đã xây dựng, gìn giữ và truyền đạt, bảo vệ suốt hàng ngàn bao năm, với mỗi địa
danh thiêng liêng trên đất mẹ đều chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần phong
phú, đa dạng và cao đẹp.
Hơn nữa, xây dựng vùng biên cương hòa bình, hữu nghị trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng quyền
bình đẳng và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình

22 Hồ Chí Minh (2001), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
biên phòng, Nxb: Chính trị quốc gia, tr.262, tr.277, tr.286

20
và xây đắp dân chủ thế giới"23. Suy nghĩ của Người thể hiện rõ quan điểm nhất quán
trong đường lối đối ngoại của Nhà nước Việt Nam là tăng cường đoàn kết, hữu nghị
nhưng phải tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ của nhau và quan hệ giữa
các nước. Các quốc gia phải dựa trên sự bình đẳng, chống cưỡng chế, chống cường
quyền.
Hợp tác và đấu tranh là hai mặt của những quan hệ quốc tế trong tình hình mới
hiện nay. Nắm bắt tính tất yếu của hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề ra nguyên tắc "Sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên
nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và giữ vững nền độc
lập"24. Tư tưởng của Người là hợp tác không nên dựa trên sự áp đặt hoặc ảnh hưởng
chủ quyền của nhau, mà phải cố gắng giảm thiểu các tác động tiêu cực và xây dựng
lòng tin lẫn nhau. Mặt khác, hợp tác chính là sự thân thiện, tương trợ, hỗ trợ, giúp
đỡ lẫn nhau và tạo ra một cộng đồng có lợi cho tất cả các bên.
Sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD - 981 trong thềm lục địa, vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam ngày 02/5/2014 vừa qua là sự vi phạm nghiêm trọng
luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam đặc
biệt coi trọng và luôn làm hết sức mình để gìn giữ và tăng cường quan hệ hữu nghị
tốt đẹp với Trung Quốc. Việt Nam mạnh mẽ phản đối các hành động xâm phạm và
kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của mình phù hợp với
luật pháp quốc tế. Với nước bạn Lào, chúng ta luôn phát huy mối quan hệ hữu nghị
đặc biệt vốn có, củng cố vun đắp tình hữu nghị, đập tan mọi âm mưu lợi dụng vấn
đề biên giới hòng chia rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch. Với nước bạn
Campuchia, chúng ta luôn hướng tới việc khơi dậy mối quan hệ truyền thống trong
chiến đấu chống kẻ thù chung, tranh thủ lực lượng tiến bộ của bạn, làm thất bại mọi
âm mưu gây mất ổn định trên biên giới.
Hiện nay, trước sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực và
Biển Đông, đặc biệt là việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo đối với hai

23 Đảng cộng sản Việt Nam (1990), Thông tin tổng hợp, Nxb: Thông tin lý luận chính trị, tr.114.
24 Hồ Chí Minh (2001), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
biên phòng, Nxb Chính trị quốc gia, tr.262, tr.277, tr.286.

21
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta. Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ trở thành nhiệm vụ vô cùng cấp bách đòi hỏi chúng ta cần phải kiên quyết, kiên
trì, khéo léo và mềm dẻo để đảm bảo giữ vững chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Trong
đó, xây dựng thế trận lòng dân, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng
của Tổ quốc là vấn đề chiến lược mang tính cấp bách và then chốt. Vì vậy, chúng ta
phải thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo.
Một là, chúng ta cần nâng cao nhận thức về chủ quyền biển, đảo và trách
nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho bộ máy hệ thống chính trị và cho toàn xã hội.
Giải pháp này gần như quan trọng hàng đầu, vì nó sẽ tạo nên sự thống nhất trong
nhận thức và hành động cho hệ thống chính trị và toàn xã hội đối với trách nhiệm
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Như Bác Hồ đã căn dặn: “Dân
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và bè lũ cướp nước” 25. Ngoài ra, sự đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả của giáo dục thông qua tuyên truyền nâng cao nhận thức sẽ tạo
được sự đồng thuận trong mọi tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Về phần nội dung cần xoáy mạnh vào vị trí, vai trò cũng như tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; truyền
thống, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta; bản chất âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển, đảo để chống phá nước ta…
Hai là, chúng ta nên cách vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh,
đặc biệt là tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong vấn đề chủ quyền biển, đảo.
Quán triệt và vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người 1 cách
nhuần nhuyễn và thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ quyền biển, đảo là
chủ quyền quốc gia trên biển, là lợi ích quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là
cái “bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thay mặt cả nước và nhân dân Việt Nam,

25 Hồ Chí Minh, (2002), Toàn tập, Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr. 38

22
tuyên bố với thế giới rằng, nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hòa bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập cho đất nước; toàn
thể nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của
cải”1 để giữ vững chủ quyền quốc gia. Kiên định đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo bằng giải pháp “hòa bình”, bằng sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính trị, ngoại
giao, chứng cứ pháp lý, lịch sử. Đồng thời, cần cảnh giác trước những mưu toan hạ
thấp giá trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm suy giảm lòng tự tôn dân tộc, tinh thần
yêu nước…
Ba là, phải xây dựng thành công lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trên
đất liền cũng một “thế trận lòng dân” trên biển, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Xây dựng “thế trận lòng dân” trên
biển là quá trình xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, ý chí, tâm lý và niềm tin của
nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc, mà cốt lõi là lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân dân. Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển phải
song hành với việc giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá
biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với phát
triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở công bằng, bình đẳng, tuân thủ pháp luật. Tập
trung xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng hải quân, cảnh sát
biển, biên phòng biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển; chú trọng xây dựng trình
độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ hợp đồng tác chiến quân binh chủng đi liền với
trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
Bốn là, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Xác lập và
thực hiện chiến lược phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh quốc
phòng; phát huy hết các nguồn lực tiềm ẩn, thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước
ngoài để phát triển các khu vực ven biển. Phát triển kinh tế biển là cơ sở cần thiết để
củng cố quốc phòng - an ninh trên biển, đồng thời việc củng cố này chính là điều
kiện, là tiền đề để phát triển kinh tế biển một cách bền vững. Bảo đảm mỗi bước

23
phát triển kinh tế biển phải tạo cơ sở cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo và ngược
lại. Sự gắn kết và mối quan hệ biện chứng này phải được xác định rõ từ quan điểm,
chủ trương, chính sách, kế hoạch về phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an
ninh trên biển; gắn chặt và thống nhất chung trong chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia biển mạnh, cần khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng
biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; tạo điều kiện thuận lợi và khuyến
khích người dân định cư lâu dài trên các đảo. Tập trung xây dựng và nhân rộng các
mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát
triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ
tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận mô hình khu
kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, công nghệ cao, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Biên giới, vùng biển của ta vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn định có thể dẫn tới
tranh chấp, căng thẳng trên những khu vực trọng điểm. Các thế lực thù địch sử dụng
những mưu mô nham hiểm nhằm lôi kéo các nước láng giềng gây xung đột biên
giới, biển đảo để tạo cớ can thiệp. Vì vậy, chúng ta phải luôn theo dõi, nắm chắc
tình hình, vận dụng quy luật hợp tác, đấu tranh trong quan hệ quốc tế vào giải quyết
các vấn đề phát sinh trên biên giới đất liền và trên biển với các nước láng giềng theo
đúng luật pháp, tập quán quốc tế và đảm bảo lợi ích các bên. Giải quyết đúng đắn
mối quan hệ hợp tác và đấu tranh quốc phòng, an ninh sẽ tạo được sự tin cậy lẫn
nhau, tăng điểm tương đồng và hạn chế bất đồng, đó cũng chính là điều kiện, môi
trường cho chúng ta xây dựng biên giới trên đất liền, trên không, trên biển, đảo hòa
bình, hữu nghị và phát triển bền vững lâu dài.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường,
tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
và xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới cần được giải quyết trong bảo vệ độc lập, chủ
quyền. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong những

24
năm đổi mới cũng còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt, tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào một số
đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước… Các thế lực thù địch, phản động
tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta
bằng các thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện
truyền thông trên mạng internet để chống phá.
Trước những khó khăn, thách thức đó, cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực,
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Để thực hiện được điều đó, cần tập trung thực
hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần
xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng: “...nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn,
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật” 26, đồng thời tạo
môi trường, điều kiện để mỗi người tự rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành. Tập trung
xây dựng con người Việt Nam: yêu nước; nhân ái, nghĩa tình; trung thực; đoàn kết;
cần cù, sáng tạo. Đẩy mạnh giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng tri thức cho người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi
mới và hội nhập quốc tế, yêu cầu của kinh tế tri thức và xã hội học tập.
Hai là, chăm lo xây dựng môi trường tôn vinh những giá trị văn hóa truyền
thống lịch sử. Cần tập trung giáo dục lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
truyền thống đấu tranh, kiên cường bất khuất của nhân dân ta, tuyên truyền sâu rộng
về những anh hùng liệt sĩ, những tấm gương yêu nước tiêu biểu. Kết hợp chặt chẽ
giữa xây dựng chuẩn mực đạo đức, tấm gương điển hình với “chống” mọi biểu hiện,
hành vi trái với đạo lý, truyền thống của dân tộc; coi trọng giáo dục, rèn luyện thông
qua hoạt động thực tiễn và các phong trào thi đua yêu nước.

26 Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (ngày 9-6-2014), “Về xây dựng và phát
triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”

25
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của
nhân dân, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là điều kiện để
phát huy nhân tố con người, tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ
quốc. Do vậy, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác hiệu quả, tiềm
năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Ưu tiên
nguồn lực để tạo chuyển biến trong phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt dân chủ cơ sở, tôn trọng ý kiến của nhân dân,
kiên quyết đấu tranh với tệ quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân và các hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng có ý
nghĩa quyết định đối với quá trình phát huy sức mạnh của con người Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực và sức
chiến đấu, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự phê bình và phê bình, tăng
cường đoàn kết, thống nhất và kiên quyết đấu tranh với các phần tử cơ hội. Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kết hợp
chặt chẽ phê bình và tự phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng đối với
các tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên, luôn lắng nghe ý kiến đóng góp và
nghiêm túc tiếp thu, sửa chữa những khuyết điểm.
Hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới, dân tộc Việt Nam thấu hiểu sự vô giá của
độc lập, tự do. Để giành được độc lập, tự do ấy, dân tộc ta đã phải đổi bằng xương
máu và nước mắt của lớp lớp các thế hệ. Đó là sự hy sinh tự nguyện và anh dũng, là
biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước ấy
được dẫn dắt bởi nhà tư tưởng lỗi lạc Hồ Chí Minh với tư tưởng phát huy cao độ
nhân tố con người. Trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, tư tưởng này của
Người vẫn còn nguyên giá trị. Trong điều kiện mới, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc,
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người để biến
truyền thống, bản lĩnh, khí phách và trí tuệ người Việt Nam thành sức mạnh to lớn
nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc.

26
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là hệ
thống những quan điểm, tư tưởng cách mạng, khoa học. Sự vận dụng cùng với
những thành công của cách mạng Việt Nam tính đến nay đã chứng minh cho tính
đúng đắn, sáng tạo cũng như giá trị trường tồn của tư tưởng này. Đồng thời, là cơ sở
chắc chắn để đập tan âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch xung
quanh nội dung có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia nói riêng.

KẾT LUẬN

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản và dưới sự chỉ đạo của Đảng, thực tế lịch sử Việt Nam đã ghi nhận
gồm chiến thắng Cách mạng tháng Tám và hai kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Ngoài sự dẫn dắt của Đảng còn phải dựa vào lực lượng đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam, sự chủ động và sáng tạo, cần thiết phải tiến hành bằng con đường bạo lực
cách mạng, đó là những yếu tố cốt lõi để quyết định sự thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc. Khi nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh trước tiên phải nói đến mục tiêu
giải phóng các dân tộc. Bởi lẽ, chỉ có các dân tộc được giải phóng thì mới nói đến
giải phóng con người. Trái lại, khi các dân tộc chưa có độc lập thật sự thì con người

27
cũng chưa thể có tự do thật sự. Nếu độc lập và tự do vốn gắn liền với truyền thống
nhân văn, nhân đạo của mọi thời đại thì với chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, độc
lập và tự do càng trở nên quý báu hơn bao giờ hết, không có gì quý bằng. Vì thế, ý
nghĩa và tầm vóc của tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vượt ra khỏi
không gian nước ta và đến với nhiều dân tộc trên thế giới như một chân lý bất diệt
của thời đại chống chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Từ đó, nhận thức đúng sức mạnh
của dân tộc, củng cố niềm tự hào, tự tôn để chung sức xây dựng và phát triển đất
nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phòng dân tộc là tài sản tinh thần vô giá của
Đảng và của dân tộc. Hơn nữa, đóng góp và làm phong phú thêm kho tàng lý luận
Mác – Lênin. Với tình hình luôn thay đổi trên thế giới, hệ tư tưởng ấy luôn là ánh
đèn soi sáng cho công cuộc xây dựng đất nước để đi lên chủ nghĩa xã hội. Giá trị ấy
được khai thác có hiệu quả tới đâu tùy thuộc vào ý thức, trình độ, năng lực vận dụng
của mỗi người chúng ta. Đồng thời không lung lay trước các tư tưởng phản động,
chống phá Đảng,Nhà nước. Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là công việc rất quan trọng và cần thiết. Hiện nay lại càng
quan trọng hơn để phát huy giá trị con người Việt Nam, xây dựng một đất nước
vững về chính trị, quốc phòng, mạnh về kinh tế để cạnh tranh với các cường quốc
trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, t.23, tr.1043.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.87-88
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Sđd, t.4, tr.526-527, tr.611
5. Cổng thông tin điện tử Ban tuyên giáo tỉnh ủy Hà Giang, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
6. Đảng cộng sản Việt Nam (1990), Thông tin tổng hợp, Nxb: Thông tin lý luận
chính trị, tr.114.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.3, tr.1.

28
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2011, tr.1,3,539.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.4, 1.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.289.
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.3.
13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.391.
14. Hồ Chí Minh (2001), Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác biên phòng, Nxb: Chính trị quốc gia, tr.262,
tr.277, tr.286
15. Lê Văn Yên (2020), Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi
thắng lợi trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật.
16. Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (ngày 9-6-
2014), “Về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”
17. Nguyễn Danh Tiên (2020), Tạp chí tổ chức nhà nước, “Những sáng tạo lý
luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại”.
18. Sđd, tập 3, tr.3.
19. Sđd, tập 10, tr.453.
20. V.I.Lênin, Toàn tập, t.3, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.694
21. V.I.Lênin, Sđd, t.2, tr.115

29

You might also like