Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

HCMC UNIVERSITY OF LAW

Always the Right Thing

LUẬT LAO ĐỘNG


CHƯƠNG III: HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

LỚP CLC47B – NHÓM 2


THÀNH VIÊN NHÓM:
1. Phạm Ngọc Minh Thư – 2253801011282
2. Trần Lê Như Phượng – 2253801012195
3. Nguyễn Đăng Anh Quân – 2253801012196
4. Lý Đức Tân – 2253801011263
5. Vũ Việt Khôi – 2253801015141
6. Huỳnh Nguyên Hy – 2253801015130
7. Lê Châu Phú - 2253801012185

i
Mục lục
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG...............................................1
Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên................................................1

VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG......................2
Tóm tắt Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao....2
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng?.......3
2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống pháp luật nước
ngoài.....................................................................................................................................................................4
3. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng trong tình
huống trên có thuyết phục không? Vì sao?......................................................................................................5

VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC.................7
Tóm tắt Bản án số 609/2020/PS-DT ngày 12/11/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí
Minh..................................................................................................................................................7
1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi của BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ
đề đang nghiên cứu;...........................................................................................................................................8
2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực hiện được được
xác định như thế nào? Vì sao?...........................................................................................................................9
3. Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đối
tượng không thể thực hiện được?.....................................................................................................................9
4. Trong vụ án trên, Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được có
thuyết phục không? Tại sao?...........................................................................................................................10

VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI SẢN..............11
Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP. Thủ Dầu Một tỉnh
Bình Dương về vụ việc tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất........................................11
Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.....11
* Đối với vụ việc thứ nhất...............................................................................................................12
1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?..........................................................................................12
2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng? Các bên xác lập
giao dịch có giả tạo với mục đích gì?..............................................................................................................13
3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.............................14
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.....14

* Đối với vụ việc thứ hai.................................................................................................................15


1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhằm
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?....................................................................................................15
2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ)?..........15
3. Cho biết hệ quả của việc Toà án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ..16

ii
STT TÊN ĐẦY ĐỦ TÊN VIẾT TẮT

1 Bộ luật Dân sự BLDS

iii
4
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

Trả lời câu hỏi:

Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.
 Đối với quyết định số 1 của toà thì theo em nghĩ là phù hợp với những quy
định trong BLDS 2015, cụ thể dựa vào căn cứ pháp lý ở khoản 1 Điều 400
BLDS 2015:
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết”

Trong tình huống ta có thể thấy, trong hợp đồng A, B, C là người đề nghị và đều ký
tên, nhưng chỉ có A, B nhận được chấp nhận đề nghị của D còn C thì không (D
không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị và C cũng không nhận được chấp
nhận đề nghị). Vì vậy lúc này hợp đồng được xem là chưa giao kết vì một trong các
bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D.

 Đối với quyết định số 2 của toà thì em nghĩ là chưa hoàn toàn phù hợp với
những quy định trong BLDS 2015, cụ thể dựa vào căn cứ pháp lý ở khoản 1
Điều 394 BLDS 2015:

“1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của
bên chậm trả lời.

Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.”

Trong tình huống ta có thể thấy, hợp đồng giữa các bên không có thoả thuận về thời
hạn trả lời nên theo quy định trên thì phải trả lời trong một thời hạn hợp lý. Tuy
nhiên để xác định thời hạn hợp lý phải dựa vào tình huống cụ thể. Tình huống trên

1
thì D đã trả lời chấp nhận đề nghị giao kết của A, B sau 2 năm. Nếu sự trả lời này
của D đã trễ và hợp đồng không thể thực hiện được thì thời hạn trả lời trên được
xem là không hợp lý. Còn nếu khi trả lời chấp nhận, A, B vẫn đồng ý và hợp đồng
có thể tiến hành thì đó được xem là thời hạn hợp lý.

 Đối với quyết định số 3 của toà thì em nghĩ là chưa hoàn toàn phù hợp với
những quy định trong BLDS 2015, cụ thể dựa vào căn cứ pháp lý ở khoản 1
Điều 394 BLDS 2015:

“1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị
mới của bên chậm trả lời.

Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu
lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.”

Trong tình huống ta có thể thấy, hợp đồng giữa các bên không có thoả thuận về thời
hạn trả lời nhưng theo khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 thì lời chấp nhận giao kết hợp
đồng chỉ được xem là đề nghị mới khi giữa 2 bên có sự ấn định thời hạn trả lời.
Trong trường hợp này, hợp đồng giữa các bên không có sự ấn định thời hạn trả lời,
vì vậy không thể xem đây là lời đề nghị giao kết mới.

VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO


KẾT HỢP ĐỒNG

Tóm tắt Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao
Nguyên đơn: bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến.

Bị đơn: ông Lê Văn Ngự.

2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Lê Thị Quý, bà Trần Thị Phấn, anh Lê
Văn Tám, chị Lê Thị Tưởng, anh Lê Đức Lợi, chị Lê Thị Đường, anh Lê Mạnh Hải,
chị Lê Thị Nhâm.

Nội dung án lệ:

“Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn
ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất,
tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông Ngự, bà
Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý. Theo lời khai
của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý,
ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển
nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết
“giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây
dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử
dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác
định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông
Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho
rằng ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không
có căn cứ.”

Trả lời câu hỏi:

1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao
kết hợp đồng?
Theo khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 quy định:

Điều 404. Thời điểm giao kết hợp đồng dân sự

2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên
nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận
giao kết.

Theo khoản 2 Điều 393 BLDS 2015 quy định:

3
Điều 393. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

2. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa
các bên.

Như vậy, theo quy định của BLDS 2005 quy định im lặng là chấp nhận, đồng ý khi
các bên có thoả thuận. Còn theo BLDS 2015 quy định thì sự im lặng trong giao kết
không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ngoại trừ trường hợp có
thoả thuận hoặc theo thói quen được xác lập giữa các bên.

Ở đây BLDS 2015 theo hướng thông thường thì im lặng không là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng nhưng có ngoại lệ, khi theo thoả thuận hay thói quen của các bên,
im lặng vẫn được xem là đề nghị giao kết hợp đồng. Ngoài hai ngoại lệ này chúng
ta nên hướng bản thân im lặng không là chấp nhận nhưng nếu bên cạnh sự im lặng
là biết nhưng không nói gì mà có yếu tố khác như giao hàng, trả tiền, lời đề nghị
hoàn toàn vì lợi ích của người được đề nghị thì vẫn có thể chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng.

Ngoài ra, BLDS 2005 nêu về thời điểm giao kết hợp đồng là “khi hết thời hạn trả
lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết”. Còn BLDS 2015 quy định nếu hai bên thoả thuận im lặng là sự chấp
nhận giao kết thì thời điểm giao kết hợp đồng sẽ là thời điểm cuối cùng của thời
hạn.

 BLDS 2015 đã làm rõ và chi tiết hơn về vai trò im lặng trong giao kết hợp
đồng so với BLDS 2005.

2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống
pháp luật nước ngoài.
Nghiên cứu so sánh cho thấy bản thân sự im lặng không đủ để xác định có chấp
nhận hay không chấp nhận giao kết hợp đồng. Ví dụ, theo Điều 2.1.6 Bộ nguyên tắc

4
Unidrot: “Bản thân sự im lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng”. Quy định này cũng ghi nhận tại Điều 2:204 của Bộ nguyên
tắc Châu Âu về hợp đồng. Tương tự, theo Điều 18 khoản 1 Công ước Viên về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980: “sự im lặng hoặc không phản ứng của
bên được chào hàng không được coi là chấp nhận chào hàng.”

Ở Anh, một nghiên cứu đã khẳng định rằng “quy định thực sự là: im lặng không thể
được nhìn nhận như đương nhiên chấp nhận”. Pháp mới sửa đổi Bộ Luật dân sự vào
năm 2016 trong đó có bổ sung quy định về im lặng trong giao kết hợp đồng tại Điều
1120 với nội dung: “im lặng không có giá trị chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng,
trừ trường hợp Luật, tập quán, quan hệ thương mại hay hoàn cảnh đặc biệt suy luận
khác.”

Như vậy, nhìn chung có thể thấy, hầu hết quy định về im lặng trong giao kết hợp
đồng của các quốc gia trên thế giới đều theo hướng không công nhận sự im lặng là
đương nhiên chấp nhận trong giao kết hợp đồng.

Tuy nhiên, lại xuất hiện một số ngoại lệ:

 Một số nước như ở Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia, Đan Mạch,…
sự im lặng có thể được suy luận là chấp nhận hợp đồng nếu tồn tại một thói
quen hay tập quán ở một ngành nghề nào đó cho rằng sự im lặng của một
bênđược hiểu là sự chấp nhận hợp đồng.
 Sự im lặng cũng được coi như chấp nhận hợp đồng nếu như giữa các bên đã
tồn tại quan hệ làm ăn trước đó thông qua việc ký kết lặp đi, lặp lại hợp đồng
có cùng bản chất.
 Nếu đề nghị giao kết hợp đồng được đưa ra hoàn toàn vì lợi ích của bên được
đề nghị thì sự im lặng cũng được suy luận là chấp nhận.

5
3. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Toà án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống trên là thuyết phục. Vì:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao về lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ: “Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc
tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được
giải quyết như nhau…”. Tuy Án lệ liên quan đến tài sản chung của vợ chồng còn
tình huống trên liên quan đến việc định đoạt tài sản là tài sản sở hữu chung nhưng
tài sản của cả hai vụ việc đều thuộc sở hữu chung hợp nhất được quy định tại Điều
210 BLDS 2015 và Các chủ sở hữu chung còn lại của hai vụ việc đều biết việc
chuyển nhượng nhà đất nhưng không ai có ý kiến gì nhưng sau này lại tuyên bố
giao dịch hợp đồng vô hiệu.

Đối với Án lệ 04/2016/AL, sau khi lập hợp đồng và mua nhà đất từ gia đình ông
Ngự, vợ chồng bà Tý đã tiến hành sửa lại nhà. Bà Phấn không thể nào không biết
ông Ngự đã chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý vì theo như án lệ gia đình
ông Ngự xây nhà mới đã viết “giấy cam kết” có nội dung mượn vợ chồng bà Tý
ngôi nhà phía trong để sử dụng và chứa nguyên vật liệu, đồng thời theo lời khai bà
Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Do đó hoàn toàn có căn cứ tin rằng bà
Phấn đã đồng ý việc chuyển nhượng nhà đất cho dù bà Phấn im lặng, không tham
gia trực tiếp vào việc chuyển nhượng. Nghĩa là giữa gia đình bà Phấn và gia đình bà
Tý đã có thoả thuận.

Tương tự với tình huống đã nêu, sau khi ông Văn nhận được đất từ bà Chu và ông
Bùi, ông Văn đã xây dựng chuồng trại trên đó, đồng thời các bên làm thủ tục
chuyển nhượng để ông Văn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong
quá trình đó, gia đình bà Chu, ông Bùi không ai có ý kiến gì, như vậy hoàn toàn có
căn cứ tin rằng họ đã đồng ý với việc chuyển nhượng và có cơ sở xác định các con

6
ông Chu phải biết việc này nhưng không phản đối dù không tham gia trực tiếp vào
chuyển nhượng.

Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký
hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên
trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền
theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền
chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử
dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý
kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà
đất.

 Như vậy, việc Toà án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng
chuyển nhượng trong tình huống trên là hợp lí.

VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ


THỰC HIỆN ĐƯỢC

Tóm tắt Bản án số 609/2020/PS-DT ngày 12/11/2020 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh
Nguyên đơn: ông Huỳnh Tấn P.

Bị đơn: ông Nguyễn Tấn L.

Nội dung vụ án:

Ông B vay của ông P 100 triệu đồng dưới hình thức chuyển nhượng các thửa đất số
20,21 và 22 cho ông L như yêu cầu của ông P. Sau khi kí hợp đồng với ông L thì
ông P có đưa cho ông “Giấy cam kết” trong thời hạn 5 năm được chuộc lại đất với
số tiền 160 triệu đồng.

7
Ngày 08/02/2017 ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đầu năm
2017 ông đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Thu H thửa đất với giá 550 triệu
đồng. Bà H đã thế chấp thửa 21 và 22 cho Ngân hàng TMCP phát triển Thành phố
H. Bà H chuyển nhượng thửa đất số 20 cho ông Nguyễn Ngọc N1 với giá 585 triệu
đồng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm , Tòa tuyên xử:

Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa số 20,21,22 giữa
ông L với bà H.

Hủy một phần Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa HD Bank với bên thế
chấp là bà Nguyễn Thị Thu H.

Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đói với thửa số 20 giữu bà H
với ông N1

Tại bản án dân sự phúc thẩm, Tòa án quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của ông N1 và của Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Phát triển Thành phố H.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Trả lời câu hỏi:

1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi của BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang nghiên cứu;
Cơ sở pháp lí: Điều 408 BLDS 2015 và Điều 411 BLDS 2005

Ở khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 có quy định rằng hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu như
đối tượng trong hợp đồng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì ở khoản
1 Điều 408 BLDS 2015 đã quy định lại, bỏ đi lí do khách quan. Và thay đổi từ “ký
kết” thành “giao kết”.

8
Tại khoản 3 Điều 411 của BLDS 2005 và Điều 408 BLDS 2015 cũng có sự khác
biệt: BLDS 2005 chỉ quy định tại khoản 2, ở BLDS 2015 đã được bổ sung thêm
khoản 1.

 Ý nghĩ cá nhân về sự thay đổi trên:

Việc loại bỏ đi “lý do khách quan” trong BLDS 2015 đã giúp khắc phục được thiếu
sót của BLDS 2005 vì trên thực tế sẽ có nhiều trường hợp xảy ra trong quá trình
thực hiện hợp đồng, hay có thể nói là “lý do chủ quan”.

Việc thay đổi từ “ký kết” thành “giao kết” cũng giúp cho quy định của luật hợp lí và
có tính bao quát hơn vì “ký kết” chỉ dùng cho hợp đồng bằng văn bản tuy nhiên hợp
đồng có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức hơn.

2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
Điều 408 BLDS 2015 đã nêu rõ hợp đồng bị vô hiệu khi có đối tượng không thể
thực hiện được “ngay từ khi giao kết”. Nguyên nhân dẫn đến hợp đồng vô hiệu do
có đối tượng không thể thực hiện sẽ quyết định đến thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu.
Điều 132 BLDS 2015 có quy định về Thời hiệu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu

Một hợp đồng vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa
vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập. Trong trường hợp này, các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, có thể hoàn trả bằng hiện
vật hoặc bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch
thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Hợp đồng
cũng có thể chỉ vô hiệu một phần nếu những phần khác của hợp đồng không bị vô
hiệu.
Bản án đang nghiên cứu là trường hợp hợp đồng vô hiệu trong BLDS, nhưng BLDS
không cho biết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng. Nguyên nhân

9
là vì do hợp đồng bị vô hiệu bởi “đối tượng không thể thực hiện” mà lí do này
không nằm trong các quy định, các khoản của Điều 132 BLDS 2015 nên thời hiệu
yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không xác định.
3. Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng
vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được?
Phần của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đối tượng không
thể thực hiện được là: “Do đó, tuy ông Nguyễn Ngọc N1 trình bày khi nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng thửa đất số 20 thì ông không biết đất đang có tranh chấp,
nhưng bên chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị Thu H biết rõ đất đang có tranh chấp,
nên không có căn cứ để xác định việc chuyển nhượng đất là ngay tình. Mặt khác, tại
Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12/6/2018 (bút lục 368, 369) thể hiện trên
phần đất thửa số 20 đang tồn tại 01 nhà mồ và 04 ngôi mộ của người thứ ba, nhưng
việc chuyển nhượng đất lại không có ý kiến của chủ sở hữu hợp pháp các vật kiến
trúc trên đất, nên quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển
nhượng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Do đó, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được theo
Điều 408 BLDS 2015.”

4. Trong vụ án trên, Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể
thực hiện được có thuyết phục không? Tại sao?
Theo nhóm em, quyết định của Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được là không thuyết phục.

Trong vụ án ở đây, tài sản thế chấp chính là quyền sử dụng thửa đất số 20. Căn nhà
mồ cùng 4 ngôi mộ xung quanh không cùng thuộc sở hữu của chủ đất.

Theo khoản 2 Điều 325 BLDS 2015. Thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế
chấp tài sản gắn liền với đất: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà người sử
dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền
sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất trong
phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình; quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp trong mối

10
quan hệ với chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người nhận
chuyển quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

 Vì thế, nhóm em thấy quyết định tuyên hợp đồng vô hiệu của Tòa quá vội
vàng và sẽ làm ảnh hưởng tới quyền cũng như lợi ích hợp pháp của bên nhận
chuyển nhượng. Nếu có căn cứ cho rằng các bên khi chuyển nhượng có thỏa
thuận chừa phần đất mộ ra, hay bên nhận chuyển nhượng tự nguyện chừa
phần đất mộ thì có thể công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất.

VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM


TẨU TÁN TÀI SẢN

Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP.
Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương về vụ việc tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất.
Nguyên đơn: Trần Thị Diệp Thúy.

Bị đơn: Nguyễn Thị Thanh Trang.

Nội dung vụ án:

Ngày 23/11/2013 giữa bà Thúy và bà Trang có thiết lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với giá chuyển nhượng là 200.000.000đ. Cả hai bên đều thừa
nhận hợp đồng này là giả tạo nhằm để che giấu việc bà Thúy cho bà Trang vay
100.000.000đ. Bà Trang khai rằng là đã trả cho bà Thúy 180.000.000 với hình thức
trả góp 6 tháng tính từ ngày 23/11/2013 nhưng bà Thúy không thừa nhận và bà
Trang cũng không có chứng cứ chứng minh được mình đã trả số tiền đó. Do đó, Tòa
án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trang và bà Thúy
11
là vô hiệu, đồng thời bà Trang có nghĩa vụ trả lại tiền cho bà Thúy với số tiền đã
nhận là 95.000.000đ.

Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao về vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn: Bà Võ Thị Thu.

Bị đơn: Bà Đặng Thị Kim Anh.

Nội dung vụ án:

Năm 2009, vợ chồng bà Anh vay tiền của bà Thu nhiều lần, cụ thể: ngày 10/7/2009
vay 2,1 tỷ đồng, ngày 11/7/2009 vay 1 tỷ đồng, ngày 17/7/2009 vay 600 triệu đồng,
lãi suất 3% /tháng, thỏa thuận miệng thời hạn vay 15 ngày. Ngày 11/02/2010, bà
Anh trả cho bà Thu 600 triệu đồng tiền gốc. Bà Thu khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà
Anh trả số tiền gốc còn nợ là 3,1 tỷ đồng và tiền lãi theo lãi suất Nhà nước quy định
kể từ ngày vay cho đến khi Tòa án xét xử sơ thẩm. Vợ chồng bà Anh cam kết
chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) có giá thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ
đồng để trả nợ cho bà thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà
Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng
chỉ với giá 680 triệu đồng.

Trả lời câu hỏi:

* Đối với vụ việc thứ nhất


1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Căn cứ theo Điều 124 BLDS 2015 đã quy định về giao dịch dân sự được xác lập do
giả tạo:

“Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

12
1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của
Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

Theo khoản 1, Điều 124 BLDS 2015, giả tạo trong xác lập giao dịch có thể được
hiểu như sau: giao dịch được xác lập nhằm che dấu việc thực hiện một hợp đồng
khác hay một hành vi trái pháp luật mà các bên thật sự mong muốn thực hiện. Giao
dịch giả tạo mà các bên “tự nguyện” tham gia nhưng với mục đích giao dịch được
thể hiện ra bên ngoài không biểu trưng cho mục đích các bên thực sự quan tâm, kết
quả mà các bên mong muốn đạt được, hay nói cách khác là ý chí nội tâm của các
bên.

Tuy nhiên không phải bất cứ một sự thể hiện ý chí giả tạo nào cũng đều là giao dịch
giả tạo mà chỉ những giao dịch ý chí giả tạo tồn tại ở các chủ thể, các bên trong giao
dịch đã có sự thông đồng từ trước, trước khi tham gia giao dịch thì mới được coi là
giao dịch giả tạo. Để bảo về người thứ ba ngay tình thì các nước trên thế giới đều
quy định khi tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu thì giao dịch che giấu vẫn tồn tại
hiệu lực và tính pháp lí.

Ví dụ: Ông A cho ông B vay 200.000.000 đồng. Ông B hiện đang sở hữu một căn
nhà. Ông B thành lập một hợp đồng chuyển nhượng cho ông A với giá là
200.000.000 đồng, ông A trả cho ông B 200.000.000 đồng nhưng thực chất ông B
chỉ vay ông A, quyền sở hữu căn nhà vẫn do ông B cầm quyền.

2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng?
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Ở đoạn của Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân
TP.Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương có ghi rằng: “Nguyên đơn và bị đơn thống nhất
ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng chuyển nhượng
13
quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
AP 154638, số vào sổ H531166 do UBND thị xã ( nay là thành phố) Thủ Dầu Một
cấp ngày 30/07/2009, tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương, giá chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai bên đều thừa nhận đây
là giao dịch giả tạo để che dấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền
100.000.000 đồng.

Giao dịch giả tạo là giao dịch mà ý chí được biểu đạt ra ngoài khác với ý chí đích
thực và có tồn tại sự khác biệt giữa kết quả thực tế đã thực hiện giao dịch so với
mục đích của giao dịch dân sự được xác lập. Các bên xác lập giao dịch giả tạo ở đây
với mục đích là che đậy việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng.

3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.
Theo như bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 thì Tòa án giải quyết như sau:
“ Xét theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “khi các bên xác lập
giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu cho một giao dịch dân sự khác thì
giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao
dịch dân sự đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này”. Đối chiếu quy định
trên với trường hợp giữa nguyên đơn với bà Trang thì hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được xác lập ngày 23/11/2013 giữa bên nguyên đơn và bà Trang
là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài sản số tiền 100.000.000 đồng có hiệu
lực.”. Vậy Tòa nhận thấy do có mâu thuẫn với quy định ở điều 124 của Bộ luật Dân
sự 2015 vì thế nên cho vô hiệu hợp đồng giả tạo ở đây là chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và công nhận giao dịch dân sự hợp pháp bị che dấu ở đây là cho vay tài
sản.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu.
Theo tôi về việc Tòa án đưa ra hướng xử lý như vậy là thuyết phục và hợp pháp bởi
vì để đánh giá giao dịch nào là hợp pháp, giao dịch nào là giả tạo, thì phải đánh giá
chủ thể tham gia giao dịch đó có hoàn tự nguyện hay không? Xét thấy rằng bản chất

14
các bên mong muốn thực hiện giao dịch cho vay và đảm bảo cho hợp đồng vay
được thực hiện nhưng vẫn ký hợp đồng mua bán tài sản. Như vậy, việc thể hiện ý
chí ra bên ngoài không thực hiện đúng theo ý chí (có sự khác nhau giữa ý chí và bày
tỏ ý chí) đối với hợp đồng mua bán tài sản. Có nghĩa là không có sự thống nhất giữa
ý chí của bên bán (mục đích vay tiền, đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ vay tiền)
và thực hiện ý chí của bên bán (ký kết hợp đồng bán nhà) và đối với bên cho vay
(tức bên mua) tại thời điểm ký kết mong muốn tài sản không rõ ràng (nếu thực hiện
việc mua bán sẽ rất có lợi) mà mục đích ký kết hợp đồng mua bán sẽ đảm bảo cho
hoạt động vay tiền. Như vậy, giữa ý chí và thực hiện ý chí của các bên trong trường
hợp này là không thống nhất. Vì thế việc ra quyết định vô hiệu sau khi hai bên đều
công nhận đây là giao dịch giả tạo cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(hợp đồng giả tạo) và công nhận giao dịch cho vay tài sản (hợp đồng bị che dấu) là
hợp pháp, hợp lý. Còn việc áp dụng Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 để giải quyết
hậu quả hợp đồng vô hiệu và xác định cả hai bên đều có lỗi ngang nhau trong việc
làm theo hợp đồng vô hiệu do vậy các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và
không phải bồi thường.

* Đối với vụ việc thứ hai


1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu vì trong quá trình giải quyết vụ án,
vợ
chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời, vợ chồng bà
Anh
cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng
vợ
chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng
nhà đất trên cho vợ chồng ông Vượng. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng
bà Anh với vợ chồng ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là

15
gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu
đồng nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bà Thu và thực tế các bên
cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh
nghĩa vụ)?
Hướng xác định trên của Tòa án hoàn toàn hợp lý. Theo Điều 124 BLDS 2015 về
giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì giao dịch giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng
ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bà Thu mà khoản 2 Điều này có
quy định “Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
Tòa án có nhận định rằng: “Quá trình giải quyết vụ án thì vợ chồng bà Anh thừa
nhận còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà Anh cam kết chuyển
nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh
không thực hiện cam kết với bà Thu làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho
anh là vợ chồng ông Vượng. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh và
vợ chồng ông Vượng không phù hợp thực tế vì giá thực tế nhất đất gần 5,6 tỷ đồng,
nhưng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu đồng và thực tế các
bên chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng”. Do đó, có thể kết luận hướng xác định
của Tòa án là hoàn toàn hợp lý.
3. Cho biết hệ quả của việc Toà án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ.
Hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là: Buộc vợ chồng bà Anh phải trả
nợ cả gốc và lãi cho bà Thu, đồng thời tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ
chồng ông Vượng là vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu như ở Tòa án cấp sơ thẩm
(Vì căn cứ theo khoản 2 Điều 124 BLDS 2015 thì: “Trường hợp xác lập giao dịch
dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô
hiệu”)

16
17

You might also like