Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

HAI ĐỨA TRẺ

I. TÌM HIỂU CHUNG


1) Tác giả:
a. Cuộc đời
- Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường
Lân)
- Sinh ra và học tập tại Hà Nội. tử nhỏ cùng chị gái sống ở quê ngoại, kí ức tuổi thơ
đã lưu lại những dấu ấn sâu đậm trong sáng tác văn chương của Thạch Lam nhất là
trong Hai đứa trẻ
- Bản thân Thạch Lam là con người có tâm hồn nhạy cảm, rất mực đôn hậu giàu lòng
trắc ẩn đặc biệt là với người dân nghèo thành thị và những số phận trẻ thơ
b. Các tác phẩm chính:
+ các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942)
+ tiểu thuyết Ngày mới (1939)
+ tập tiểu luận Theo dòng (1941)
+ tùy bút Hà Nội ba sáu phố phường (1943)
c. Phong cách nghệ thuật
+ là cây bút truyện ngắn tài hoa trong nền văn học Việt Nam hiện đại
+ đặc điểm truyện ngắn của Thạch Lam
• Sáng tác thường hướng vào cuộc sống cơ cực của những người dân thành thị
nghèo và vẻ đẹp nên thơ của cuộc sống thường nhật
• Cốt truyện đơn giản thuộc loại truyện không có truyện
• Thạch Lam đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật
• Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu chất thơ
• Giọng văn trầm lắng nhỏ nhẹ như lời tâm tình thủ thỉ
• Có sự hòa quyện tuyệt vời giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, tự sự và trữ
tình Thạch Lam là người khai sinh ra kiểu truyện ngắn trữ tình
⇒ Dù chỉ xuất hiện trên thi đàn vẻn vẹn có năm năm nhưng Thạch Lam đã tạo được
vị trí không thể nào thay thế
2. Đôi nét về tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
a. Hoàn cảnh sáng tác, vị trí
- Tác phẩm có lẽ được gợi lên từ những câu chuyện cảnh đời nơi phố huyện Cẩm
Giàng, Hải Dương quê ngoại nhà văn với những kỉ niệm tuổi thơ
- Hai đứa trẻ tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn tài hoa, độc đáo của Thạch Lam.
Ở Hai đứa trẻ chất hiện thực hòa quyện với lãng mạn, tự sự giao duyên với trữ tình
b. Tóm tắt
Hai đứa trẻ là câu truyện về hai đứa trẻ Liên và An . Liên và An đã từng có một
cuộc sống đầy đủ vui vẻ ở Hà Nội. Do gia đình sa sút, hai đứa trẻ phải về sống nơi
phố huyện - một cuộc sống nghèo khổ, đơn điệu. Trong một buổi chiều tà, nhìn thấy
những đứa trẻ con đi nhặt nhạnh những đồ thừa, Liên cảm thấy lòng man mác buồn.
Xung quanh chị em Liên là cuộc sống tàn lụi của chị Tí, bác Siêu, bác Sẩm.... Thế
nhưng chừng ấy người sống trong bóng tối vẫn hy vọng cái gì đó tươi sáng hơn.
Mong ước ấy được thể hiện qua việc chờ chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện.
Chuyến tàu đêm từ Hà Nội về, ầm ầm lăn bánh qua phố huyện rồi khuất dạng, im
tiếng trong trời đêm sâu thẳm. Lúc đó người buôn bán ở phố huyện mới dọn hàng sau
một tối ế ẩm để trở về nhà. Còn hai đứa trẻ dần dần chìm vào giấc ngủ yên tĩnh.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Bức tranh phố huyện tăm tối quẩn quanh và tâm trạng của Liên
a. Cảnh ngày tàn
♦ Dấu hiệu ngày tàn
- Âm thanh tiêng trống thu không nhỏ dần từ xa vọng lại, tiếng ếch nhái kêu ran
ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve
- Màu sắc:
+ chân trời phương tây đỏ rực như lửa cháy và những áng mây ánh hồng như hòn
than sắp tàn
+ màu đen của dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời
⇒ Âm thanh và màu sắc gợi nỗi buồn thấm thía, cảm giác tàn lụi
- Không gian hẹp như bị chặn lại
- Từng bước chân thời gian chầm chậm bước tới chiều rồi tối
⇒ Qua ngòi bút của Thạch Lam buổi chiều như buồn hơn, ngày tàn đến nhanh hơn,
phố huyện phơi bày vẻ tiêu điều xác sơ, mòn mỏi
♦ Tâm trạng của Liên
- Tâm hồn cô bé nhạy cảm, tinh tế, xao xuyến một nỗi buồn man mác: Liên không
hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn
b. Cảnh chợ tàn
- Hình ảnh chợ huyện lúc vãn: trên nền chợ đầy rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và
lá mía
- Những đứa trẻ nghèo nhặt rác, chúng nhặt nhạn thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái
gì có thể dùng được.....
- Tâm trạng Liên: động lòng thương cảm
c. Những con người nơi phố huyện
- Mẹ con chị Tí:
+ ngày ngày mò cua bắt ốc, đem đến lại lầm lũi dọn hàng nước
+ khách hàng toàn là những người dưới đáy xã hội
+ dẫu chả kiếm được bao nhiêu nhưng đêm nào mẹ con chị Tí cũng dọn hàng
⇒ Mẹ con chị đang cầm cự trong sự sống
- Chị em Liên với của hàng tạp hóa sơ sài.... chẳng đáng là bao
- Bà cụ Thi là nhân vật điển hình cho số phận tàn tạ trong cái đêm đen của xã hội ấy
⇒ Diễn biến tâm trạng Liên thể hiện một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và đồng cảm với
những con người không tương lai, không hạnh phúc
2. Tâm trạng của Liên trong đêm tối và trước những ngọn đèn
a. Cảnh phố huyện về đêm
♦ Khung cảnh: sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối
- Bóng tối bao la phủ trùm tất cả, cả phố huyện chìm trong bóng tối...
- Ánh sáng nhỏ bé yếu ớt chỉ là quầng, là khe, là vệt, là chấm và cuối cùng chỉ là hột
sáng thưa thớt...
⇒ Có sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, hình ảnh ngọn đèn leo lét nơi quán hàng
chị Tí là biểu tượng cho kiếp sống nhỏ nhoi lay lắt, mù tối của những người cùng khổ
trong biển đêm mênh mông của cuộc đời. Ngọn đèn ấy tuy yếu ớt nhưng vẫn là niềm
lạc quan sống của những kiếp người nhỏ bé vô danh, vô nghĩa không tương lai, hạnh
phúc trong xã hội cũ.
♦ Sinh hoạt của con người
- Các nhà đóng của im lìm
- Gánh phở của bác Siêu so với mẹ con chị Tí có phần khấm khá hơn nhưng lại đứng
trước nguy cơ đáng sợ hơn: thất nghiệp. Bởi ở vùng quê này thứ quà của bác Siêu là
một thứ quà xa xỉ
- Vợ chồng bác Sẩm sống trong cảnh màn trời chiếu đất trông chờ vào của bố thí ở
nơi đây là sự trông chờ trong vô vọng
- Mẹ con chị Tí
- Chị em Liên
⇒ Nghèo khổ, nhàm chán, tẻ nhạt, vô vị
b. Tâm trạng của Liên
- Đêm tối với Liên quen lắm, chúng chẳng đáng sợ
- Rồi Liên hoài tưởng về quá khứ tươi đẹp ở Hà Nội, nơi có một vùng sáng rực và lấp
lánh
- Như mọi người dân trong phố huyện Liên luôn mong chờ một cái gì đó mới mẻ,
tươi sáng sẽ đến xua tan đi đêm đen âm u lụi tàn ở phố huyện
⇒ Bằng trái tim đôn hậu, dịu dàng Thạch Lam đã phát hiện ra những rung động sâu
xa, những khao khát thầm kín trong cuộc đời những con người tưởng như hoàn toàn
cam phận ấy
3. Tâm trạng đón đợi tàu
a. Tâm trạng chờ đợi
- Cậu bé An dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn đặn chị tàu đến nhớ đánh thức em
- Còn Liên ngồi yên không động đậy ngắm nhìn sao trời....
b. Tâm trạng đón tàu
- Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa nghe tiếng còi vọng lại Liên đã vội vã goi em dậy
- Rồi tàu đến Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua
c. Tâm trạng khi tàu đi qua
- Ngẩn ngơ nuối tiếc
- An băn khoăn ngĩ ngợi: Tàu hôm nay không đông chị nhỉ? Còn Liên lặng theo mơ
tưởng
d. Ý nghĩa của việc đợi tàu
- Đợi tàu là nếp sống nhu cầu không thể thiếu của chị em Liên
- Đợi tàu để được cháy lên khao khát đổi đời
- Qua việc đợi tàu Thạch Lam thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc
sống lay lắt bế tắc của những kiếp người nhỏ bé nhất là những đứa trẻ vừa nâng niu
trân trọng khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời ở những con người ấy
III. TỔNG KẾT
1) Nghệ thuật
- Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm
giác mong manh mơ hồ trong tâm hồn nhân vật.
- Bút pháp tương phản, đối lập.
- Miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng con người.
- Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng.
- Giọng điệu thủ thỉ thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng.
2) Ý nghĩa văn bản
Tác phẩm thể hiện niềm cảm thương chân thành đối với những kiếp sống
nghèo khổ, chìm khuất trong mỏi mòn, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện và sự trân
trọng những ước mong bé nhỏ, bình dị mà tha thiết của họ.

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

I . TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả
- Nguyễn Tuân (1910- 1987)
- Ông sinh ra trong gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn
- Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông đến với cách mạng, tự nguyện dùng
ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến
- Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa , thích xê dịch, sang trọng lịch lãm, phóng túng và
rất ngông
2. Các tác phẩm chính: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê
hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch
(1960),......
3. Phong cách nghệ thuật: tài hoa uyên bác độc đáo
+ Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời tôn thờ và tận hiến cho cái đẹp
+ Với niềm đam mê khám phá mọi vật đến kì cùng thông tỏ Nguyễn Tuân đã huy
động vốn kiến thức uyên bác của mọi lĩnh vực đời sống như âm nhạc, hội họa, điêu
khắc, thể thao,..
+ Nguyễn Tuân luôn thay đổi thực đơn cho các giác quan, ham mê những cái mới lạ,
phi thường tuyệt đỉnh, tuyệt đối
+ có nhiều sáng tạo độc đáo trong việc dùng từ đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ
2. Đôi nét về tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
a. Xuất xứ
- Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 trên
tạp chí Tao đàn sau được tuyển in trong tập Vang bóng một thời
- Vang bóng một thời in lần đầu năm 1940 gồm 11 truyện ngắn kết tinh tài năng tâm
huyết của nhà văn, là văn phẩm đạt đến sự toàn thiện toàn mĩ
b. Tóm tắt
Huấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nên bị kết án tử hình.
Trước khi chịu án chém, ông bị đưa đến giam tại một nhà tù. Khi trát gửi đến nhà tù,
biết trong danh sách có ông Huấn Cao, người nổi tiếng viết chữ đẹp, viên quản ngục
đã cho thầy thơ lại bảo người quét dọn phòng giam nơi Huấn Cao và những người tử
tù sẽ ở. Trong những ngày Huấn Cao ở tù, viên quản ngục đã biệt đãi ông và những
người đồng chí của ông. Sở nguyện của viên quản ngục là xin được chữ viết của Huấn
Cao. Lúc đầu, Huấn Cao tỏ ý khinh miệt viên quản ngục, nhưng khi hiểu được tấm
lòng viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ vào cái đêm trước khi ông bị xử
chém. Trong đêm cho chữ, ông Huấn Cao tay viết như rồng bay phượng múa trên tấm
lụa bạch còn viên quán ngục và thầy thơ lại thì khúm núm đứng bên cạnh. Sau khi cho
chữ, ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục về quê để giữ cho "thiên lương" trong
sáng. Viên quản ngục nghe lời khuyên của ông Huấn Cao một cách kính cẩn "Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh".
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Nghệ thuật thư pháp
- Có truyền thống lâu đời ở phương Đông
- Ở Việt Nam, thời phong kiến thư pháp khá phát triển
- Là nét đẹp trong truyền thống văn hóa người Việt thể hiện tài hoa, tâm hồn, nết
người, bản lĩnh,... của người viết
- Người chơi chữ phải có trình độ văn hóa và khiếu thẩm mĩ, biết thưởng thức cái đẹp
của chữ, cái sâu của nghĩa
2. Tình huống truyện đặc biệt
- Huấn Cao- một tử tù chờ ngày ra pháp trường và viên quản ngục tình cờ gặp nhau
hiểu lầm nhau và rồi trở thành tri âm tri kỉ trong một hoàn cảnh đặc biệt: nhà lao tỉnh
Sơn nơi quản ngục làm việc
- Chính tình huống đặc biệt đôc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng Huấn Cao,
làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của quản ngục đồng thời thể hiện sâu sắc chủ
đề tác phẩm: ca ngợi cái đẹp, cái thiện có thể chiến thắng cái xấu cái ác ngay ở trong
nơi bóng tối bao trùm, cái ác ngự trị
- Bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa được sử dụng thành công
3. Vẻ đẹp các nhân vật
a. Hình tượng nhân vật Huấn Cao
♦ Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa
- Là người có tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp. Hơn thế mỗi con chữ của Huấn Cao còn
chứa đựng khát vọng, hoài bão tung hoành cả đời người
- Có được chữ ông Huấn là có được báu vật ở đời
⇒ Ca ngợi nét tài hoa của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã thể hiện tư tưởng nghệ thuật
của mình: kính trọng những con người tài hoa tài tử, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ
truyền của dân tộc
♦ Khí phách hiên ngang
- Thể hiện rõ nét qua các hành động: dỗ gông, thảm nhiên nhận rượu thịt
- Trong mọi hoàn cảnh khí phách hiên ngang ấy vẫn không thay đổi
♦ Thiên lương trong sáng, nhân cách cao cả
- Quan niệm cho chữ: trừ chỗ tri kỉ ngoài ra không vì vàng bạc châu báu mà cho chữ
- Đối với quản ngục:
+ khi chưa hiểu tấm lòng quản ngục Huấn Cao cho hắn là kẻ tiểu nhân tỏ ra khinh
biệt
+ khi nhận ra tấm lòng quản ngục Huấn Cao không những cho chữ mà còn coi quản
ngục là tri âm tri kỉ.
⇒ Huấn Cao là hình tượng có vẻ đẹp uy nghi giữa tài và tâm của người nghệ sĩ, của
bậc anh hùng tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang lẫn liệt
b. Hình tượng nhân vật quản ngục
- Một tấm lòng biệt nhỡn liên tài
- Có sở thích cao quý chơi chữ
c. Cảnh cho chữ: Cảnh tượng xưa nay chưa từng có
- Không gian: ngục tối ẩm ướt, bẩn thỉu
- Thời gian: đêm khuya
- Dấu hiệu:
+ người cho chữ là tử tù, người xin chữ là quản ngục
+ người cho chữ mất tự do cổ đeo gông chân vướng xiềng trong khi quản ngục-
người xin chữ khúm núm bị động
+ tử tù lại là người khuyên quản ngục
- Sự hoán đổi ngôi vị
+ ý nghĩa lời khuyên của Huấn Cao: cái đẹp có thể sản sinh ở nơi đất chết, nơi tội ác
ngự trị nhưng không thể sống chung với cái xấu cái ác. Người ta chỉ xứng đáng được
thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương
+ tác dụng: cảm hóa con người
⇒ Điều lạ lùng ở đây không chỉ là thú chơi chữ tao nhã, thanh cao được thể hiện ở nơi
tối tăm bẩn thỉu, người trổ tài là kẻ tử tù mà đặc biệt hơn là trong chốn lao tù tối tăm
ấy cảnh cho chữ là sự thăng hoa của cái tài, cái đẹp, người tử tù sắp chết lại cảm hóa
được người coi tù. Chính những điều này đã tạo nên hào quang rực rỡ, bất tử cho hình
tượng Huấn Cao.
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
- Tạo dựng tình huống truyện độc đáo, đặc sắc (cuộc gặp gỡ và mối quan hệ éo le, trớ
trêu giữa viên quản ngục và Huấn Cao).
- Sử dụng thành công thủ pháp đối lập tương phản.
- Xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao – con người hội tụ nhiều vẻ đẹp.
- Ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, có tính tạo hình, vừa cổ kính vừa hiện đại.
2. Ý nghĩa văn bản
Tác phẩm khẳng định và tôn vinh sự chiến thắng của ánh sáng, cái đẹp, cái
thiện và nhân cách cao cả của con người đòng thời bộc lộ lòng yêu nước thầm kín của
nhà văn.
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và
ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về
một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách
của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân
trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất
hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử
tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm.
“Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử
tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng
những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi
bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong
cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào
những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng
không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ,
muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại
diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo
ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn
quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn
bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát
triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ
đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi:
“người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến
ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có
được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là
niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà
đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông
vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về
tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết
ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng
những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền
mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu
đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên
quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn
người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại
phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên
lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh
một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo,
Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi
đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao
bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng
còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con
người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra
những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản
ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm
lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những
người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách
cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của
mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được
tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để
treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ
của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay
xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không
phải ai cũng cho chữ.

Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với
người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn
cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa
từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện
ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính,
ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người
tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc
sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài.
Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn
vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác
phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu
của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân
trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật
xây dựng tình huống đắc sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-tich-chu-nguoi-tu-tu-nguyen-tuan

HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả: Vũ Trọng Phụng (1912-1939)
a. Cuộc đời:
- Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, sống bếp bênh bằng nghề viết văn, viết báo
- Bản thân tuy học ít nhưng lại rất tài hoa, là người nhân hậu sống nề nếp, ghét cay
ghét đắng cái xã hội nhố năng hiện tại
- Tiếc rằng con người tài hoa ấy lại yểu mệnh mất sớm vì bệnh lao
b. Các tác phẩm chính:
+ tiểu thuyết: Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê
+ phóng sự: Kĩ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô
c. Phong cách nghệ thuật:
+ văn chương Vũ Trọng Phụng ngùn ngụt ngọn lửa căm phẫn đối với xã hội chó đểu
+ ông là cây bút trào phúng bậc thầy, một trong những đại biểu xuất sắc của xu hướng
văn học hiện thực
2. Đôi nét về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)
- Đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ
- Tiểu thuyết này được viết và đăng báo năm 1936, in thành sách năm 1938
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Nhan đề
- Thể hiện sự đối lập mâu thuẫn thú vị tạo tiếng cười nhưng lại là sự châm biếm mỉa
mai
- Tang gia mà lại hạnh phúc, thật bi hài hết chỗ nói
2. Niềm hạnh phúc của tang gia và ngoài tang gia
a. Nguyên nhân
- Cụ tổ mất, di chúc được thực hiện
- Mọi người được thỏa mãn ước nguyện bấy lâu
b. Những hạnh phúc khác nhau
- Hòa trong niềm vui cung bầy con cháu chí hiếu của cụ tổ mỗi người lại có niềm vui
riêng:
+ người có dịp diễn trò già yếu, phô trương thanh thế gia đình
+ kẻ có cơ hội quảng bá sản phẩm
+ kẻ khoe tài chụp ảnh
- Vậy nên khi có lệnh phát phục ban ai ai cũng sung sướng thỏa thích
⇒ Cả tang gia mỗi người một niềm vui chẳng ai quan tâm đến người chết đang nằm
kia
c. Niềm vui hạnh phúc tràn cả ra ngoài
- Xuân Tóc Đỏ uy tín tăng thêm
- Các nhà cải cách Âu hóa có dịp lăng xê trang phục
- Cảnh binh sung sướng vì có việc làm
- Bạn bè cụ cố Hồng khoe huân chương, râu ria
- Đám giai thanh gái lịch ve vãn hẹn hò, tỏ tình đủ kiểu
⇒ Qua việc miêu tả đám ma với những niềm hạnh phúc ngập tràn tác giả đã vạch trần
cái bộ mặt giả dối của xã hội đương thời, chạy theo lợi nhuận nhu cầu cá nhân, hủy
diệt đi tình người, đạo lí truyền thống của dân tộc
3. Hình ảnh đám tang
- Như một đám hội đám rước
- Tổ chức linh đình hoành tráng sang trọng
⇒ Không khí náo nhiệt tới mục hỗn loạn, nhốn nháo
Bề ngoài thật long trọng, “gương mẫu” nhưng thực chất chẳng khác gì đám rước nhố
nhăng lố bịch, có đủ ‘kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, kèn tây kèn ta, vòng hoa câu
đối”; “giai thanh gái lịch” thản nhiên nói chuyện, bình phẩm, cười tình,...+ Đỉnh điểm
của sự giả dối diễn ra lúc hạ huyệt khi cậu tú Tân yêu cầu mọi người tạo dáng để chụp
ảnh, con cháu tự nguyện trở thành những diễn viên đại tài và nhất là màn kịch siêu
hạng của ông Phán mọc sừng.
⇒ Đám người đã phơi bày đầy đủ bộ mặt bỉ ổi của cái xã hội thượng lưu đang mang
danh Âu hóa, chúng hiện nguyên hình là những kẻ khốn nạn, những tên chó đểu trong
một xã hội chó đểu
III. TỔNG KẾT
1) Nghệ thuật
- Tạo tình huống trào phúng cơ bản rồi mở rộng ra những tình huống khác;
- Phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt cùng tồn tại trong một con người, sự vật, sự
việc.
- Thủ pháp nói ngược, nói mỉa,... được sử dụng một cách linh hoạt;
- Miêu tả biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết, nói trúng nét riêng của từng
nhân vật.
2) Ý nghĩa văn bản
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là một bi hài kịch phơi bày bản chất
nhố nhăng, đồi bại của một gia đình đồng thời phản ánh bộ mặt thật của xã hội thượng
lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám.

Cảnh đám ma gương mẫu nằm ở chương XV của tiểu thuyết “Sổ đỏ”, được đặt
nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”. Những trang viết là những màn hài kịch
kéo dài của đám đông nhố nhăng, dị hợm. Có lẽ chưa từng có một đám tang như
thế, nơi mà cái chết trở thành niềm vui, hạnh phúc của nhiều người, nơi mà người
ta xem là dị khoe mẽ, là dịp phô bày những lối lăng đồi bại. Nhưng đám ma ấy lại
diễn ra giữa cái xã hội tư bản thành thị được xem là văn minh.

Phân tích cảnh đám ma gương mẫu có thể thấy, Vũ Trọng Phụng đã miêu tả một
đám ma, nhưng lạ thường thấy nó lại vô cùng hoành tráng, lại tưng bừng không
kém gì dịp lễ hội. Tại đám tang này, tất cả các phong cách đều xuất hiện, từ Ta,
Tàu đến Tây, mọi thứ kết hợp trở thành một mớ lộn xộn. “Có kiệu bát cống, lợn
quay đi lọng, cho đến lốc bốc soảng và bú dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu
đối, vài trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã
thi nhau như ở hội chợ”. Với bấy đó thứ, đám ma này thực sự đã gây được sự chú
ý, trầm trồ của thiên hạ theo ý cụ cố Hồng. Như Vũ Trọng Phụng đã viết thật sâu
cay: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng
phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”.

Một đám ma thương mang không khí trầm buồn, xót thương, nhưng đám ma này đi
đến đâu là gây huyên náo như một gánh xiếc đang quảng cáo để bán vé cho những
màn trình diễn xiếc thú. Người đến tiễn người mất chỉ toàn là quan chức tai to mặt
lớn, đến đám tang chỉ nhằm thể hiện cái uy danh của mình. Và mỉa thay cái tình
huống những kẻ này đã xúc động khi “trông thấy một làn da trắng thập thò trong
làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Đám tang nhưng tiếng kèn, tiếng người
ta nói chuyện át cả tiếng khóc.

“Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, xong le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau
chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may”. Chưa
hết, còn có “đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình
phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn
rầu của những người đi đưa ma”. Thử hỏi có thứ “văn minh” nào lại đồi bại, dị
hợm đến như thế.

Cái đám ma gương mẫu này như là dịp để đám con cháu khoe niềm hạnh phúc khi
ông cụ cố mất. Người ta đưa đám ma diễu hành qua đến 4 con phố dài, càng đi lại
càng náo nhiệt. Điểm lố lăng đỉnh điểm là sự xuất hiện của Xuân Tóc đỏ. Y đến
với “sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai ngăn… Hai vòng
hoa đồ sộ, một nhà báo Gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào hàng đầu”. Đây quả là
một đám ma có một không hai, khi đến sư chùa, nhà báo cũng nên vào đám ma
như hòa vào cuộc vui. Tất cả làm thành một gánh tạp kĩ đang tìm cách mua vui cho
thiên hạ.

Đám ma nhưng tiếng khóc lại là thứ xa xỉ nhất. Rút cuộc ta phải tự hỏi, đây là đám
viếng người chết là đám rước những kẻ đang sống? Và với giọng văn sâu cay, pha
bỡn cợt lại không thiếu phần chua chát của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm đã giáng
một đòn trực diện nhất vào sự tha hóa của bản chất người, của xã hội mà ở đó
những kẻ lấy đám ma làm niềm vui luôn xem đó là môi trường văn minh.

Bởi thế, ngược đời làm sao, chua xót làm sao tang gia mà lại hạnh phúc, người
khóc chẳng có nhưng lại lắm kẻ cười vui. Cái đám diễu hành cứ đi, cứ đi, khi cuộc
vui đến hồi kết thì đám chưa dừng lại.

Cái đại tài của Vũ Trọng Phụng, sự trào phúng đỉnh cao của ngòi bút Vũ Trọng
Phụng là lật cái mặt nạ giả dối của lũ con cháu trong cảnh hạ huyệt. Ở đó, cậu Tú
Tân “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc còng lưng, hoặc
lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu
của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống
nhau.” Cái cảnh “Xuân Tóc Ðỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông
Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc
to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”, thực là một màn hài kịch, nhưng cũng là bi kịch, bi
kịch cho những kiếp người sống không có phẩm cách, lấy cái chết của người khác
làm niềm vui. Một đám ma vì thế lại trở thành một bức tranh sống động không một
sắc thái biểu cảm nào là không có.

Nghệ thuật nổi bật trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là nghệ thuật
trào phúng rất sắc bén và sâu cay như chính phong cách sáng tác của Vũ Trọng
Phụng. Điều này thể hiện trọn vẹn ở các phương diện: tình huống trào phúng, nhân
vật trào phúng và cảnh tượng trào phúng.

Tình huống trào phúng ở đây nằm ở sự ngược đời đó là, cái chết của cụ cố Hồng
lại trở thành niềm hình phúc cho lũ con cháu. Cái đám tang của cụ trở thành phông
nền cho đám con cháu bộc lộ bản chất khốn nạn của mình.

Về nhân vật trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một hệ thống
các nhân vật trào phúng với nhiều tính cách và mục đích khác nhau. Nhưng suy
cho cùng, dù mục đích gì cũng đều là vì lợi ích cá nhân mà không mảy may xót
thương cho cụ cố Hồng vừa nằm xuống.

Và có lẽ, đỉnh điểm của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm là ở cảnh tượng trào
phúng – cảnh hạ huyệt. Với cảnh này, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã hoàn tất
sứ mệnh là tái hiện và lên án gay gắt xã hội thượng lưu giả dối, tàn bạo, thối nát.

Với tiểu thuyết “Số đỏ” nói chung và đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nói
riêng, Vũ Trọng Phụng thực sự phải khiến người người ngả mũ bởi cái bút lực
châm biếm, bút lực trào phúng của ông. Phân tích cảnh đám ma gương mẫu mới
thấy rằng, tác giả thật tài, tình đời làm sao khi viết nên một vở hài kịch diễn cảnh
đám ma, để qua đó lột trần sự “chó đểu” của cái xã hội thối nát, lụi tàn về nhân
cách.

CHÍ PHÈO
PHẦN 1. TÁC GỈA NAM CAO
I. Tiểu sử và con người
2. Tiểu sử
- Nam Cao (1917 - 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri
- Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con
- Sau hơn ba năm bôn ba ở Sài Gòn kiếm sống ông trở về quê nhà dạy học ở trường tư
thục nhưng cuộc đời giáo khổ trường tư cũng không yên ổn, quân Nhật vào Đông
Dương, trường đóng của ông phải sống chật vật, lay lắt bằng nghề viết văn và gia sư
- Ông tham gia cách mạng từ năm 1943 và tích cực hoạt động, dùng ngòi bút để chiến
đấu - Năm 1951 trên đường đi công tác ông bị giặc phục kích và sát hại
2. Con người
- Vẻ ngoài lạnh lùng, đời sống nội tâm sục sôi luôn nghiêm khắc đấu tranh với mình
thoát khỏi cái tầm thường, nhỏ nhoi để vươn tới những giá trị cao đẹp. Chính điều này
đã làm nên thành công cho Nam Cao ở mảng đề tài khám phá nội tâm người trí thức
nghèo.
Là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình yêu thương nhất là người nông dân
nghèo ⇒ những trang văn viết về người nông dân luôn thấm đượm tư tưởng nhân đạo
sâu sắc
- Là người luôn day dứt suy tư về bản thân cuộc sống ⇒ những sáng tác của ông luôn
giàu tính triết lí
⇒ Cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật của ông là tấm gương cho hậu thế nhất là
các nhà văn trẻ
II. Sự nghiệp văn học
1. Quan điểm nghệ thuật
- Nghệ thuật vị nhân sinh: Phê phán sự thoát li, khẳng định giá trị văn học nghệ thuật:
Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than
- Văn học chân chính là văn học thấm đượm tư tưởng nhân đạo, vừa mang nỗi đau,
vừa tiếp thêm sức mạnh cho con người trong cuộc đấu tranh vươn tói cuộc sống nhân
ái, công bằng, hòa hợp, làm cho người gần người hơn
- Đề cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn. Nhà văn phải có lương tâm, nhân cách và
trách nhiệm với nghề nghiệp của mình
⇒ Đây là những quan niệm đúng đắn toàn diện thể hiện quan niệm sống cùng nhân
cách của nhà văn
2. Các đề tài chính: SGK
3. Phong cách: SGK
PHẦN 2: TÁC PHẨM CHÍ PHÈO (Nam Cao)
I. TÌM HIỂU CHUNG
- Truyện ngắn Chí Phèo có tên là Cái lò gạch cũ; khi in sách lần đầu,
nhà xuất bản tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi

- Sau khi in lại trong tập Luống cày tác giả đặt tên là Chí Phèo

II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN 1


1. Hình tượng Chí Phèo
a. Từ khi ra đời đến trước ki vào tù
- Xuất thân:
+ là đứa con hoang bị bỏ rơi, không cha, không mẹ, không thân không thích
+ bị bán trao tay không biết bao nhiêu người, phải đi ở
- Lớn lên:
+ hiền lành, cần cù chất phác
+ có lòng tự trọng
+ có ước mơ giản dị một mái ấm bình yên chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải như
bao người nông dân khác
b. Bị đẩy vào nhà tù, bị tha hóa khi ra tù
- Nguyên nhân:
+ cơn ghen của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù
+ nhà tù thực dân phong kiến đã nhào nặn nên con người Chí, biến hắn thành người
khác hẳn
- Ra tù chí xa đọa vào con đường lưu manh hóa
+ Chí bị hủy hoại hình người: mặt hắn ngang dọc không biết bao nhiêu là sẹo, đầy
mình xăm trổ,....
+ hủy hoại tính người: Chí trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, con quỷ dữ của
làng Vũ Đại
• Dọa nạt, chửi bới, đập đầu rạch mặt ăn vạ, đâm chém cướp phá đó đều là kì tích bất
hảo của Chí
• Chí chìm trong cơn say liên miên
• Chí từng bước bán linh hồn cho quỷ dữ
- Bị xã hội loài người chối bỏ
+ tiếng chửi của Chí đầu đoạn trích là minh chứng, hắn càng chửi đáp lại hắn chỉ là
tiếng chó sủa
+ Chí Phèo tiêu biểu cho cả một hiện tượng bi thảm trong xã hội cũ có tính quy luật:
hiên tượng lưu manh hóa, bị hủy diệt những giá trị của con người⇒ sức mạnh tố cáo
xã hội, giá trị hiện thực sâu sắc
c. Chí Phèo thức tỉnh khi gặp Thị Nở
- Thị Nở: xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng, nghèo lại là con nhà mả hủi
- Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên trong đêm trăng đã thay đổi cuộc đời đen tối của Chí
- Lòng yêu thương, mộc mạc chân thành của người đàn bà ấy đã khiến bản chất lương
thiện bị vùi dập bấy lâu của Chí có cơ hội hồi sinh
- Sáng hôm sau Chí tức dậy muộn, tỉnh rượu, Chí thấy bâng khuâng buồn
- Bỗng Chí ngẫm ra bao điều về cuộc đời mình, hiện tại của Chí là con số không tròn
trĩnh: không vợ, không con, không nhà, không cửa, tương lai chỉ có sự đơn độc
- Bát cháo hành là hương vị đầu tiên của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà
Chí được hưởng
⇒ Ngòi bút tài tình của Nam Cao đã nhìn thấy bản chất lương thiện ẩn sâu trong lớp
vỏ quỷ dữ của Chí Phèo. Khi có tình người chạm tới nó sẽ thức tỉnh, qua đó Nam Cao
đã khẳng định niềm tin sâu sắc vào con người
d. Sự bế tắc trên con đường trở về làm người lương thiện
- Mối tình với Thị Nở tan vỡ
+ nguyên nhân: định kiến xã hội, bà cô thị không đồng ý
+ đến một con người như thị mà Chí cũng không được phép yêu
⇒ có thể nói trong cái xã hội ấy Chí đã hoàn toàn bị vứt bỏ, Chí rơi và bi kịch đau đớn
khi nhận ra mình không trở trở về cái xã hội bằng phẳng của những người lương thiện
được nữa
- Đến nhà Bá Kiến
+ Chí đến đòi lương thiện
+ với Chí những khao khát cuộc sống lương thiện lúc này còn quan trọng hơn tính
mạng và Chí giết Bá Kiến rồi tự sát
+ Cái chết của Chí Phèo mang tính tố cáo xã hội không những đẩy con người vào
bước đường tha hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ đi tới cái chết
+ Ở đây ta còn thấy cảm quan hiện thực sâu sắc của nhà văn Nam Cao: thực trạng
mâu thuẫn xung đột ở nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể giải quyết bằng đấu
tranh
⇒ Giá trị của tác phẩm: Chí Phèo phản ánh tình trạng một bộ phận nông dân bị tha
hóa, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, giữa các thế lực ác bá ở địa phương; cảm
thương sâu sắc trước cảnh người nông dân cố cùng bị lăng mhục; phát hiện và miêu tả
phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi tưởng như họ bị biến thành thú dữ;
niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.
III. TỔNG KẾT
1) Nghệ thuật
- Xây dựng những nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá
tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, logic.
- Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
- Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen,
biến hóa, trần thuật linh hoạt.
2) Ý nghĩa văn bản
Tác phẩm tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi nhân
hình lẫn nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn phát hiện và
khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã bị biến thành
quỷ dữ.

"Chí Phèo" của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ánh đậm nét xã hội phong kiến
đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần
cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh
xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo - một người nông dân lương thiện nhưng bị
xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân
vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng "tiếng chửi". Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo
như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn "Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng
Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn...".

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở
cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những
oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau
mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng
đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của
một đời người. Chí Phèo xuất hiện "Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm
trông gớm chết". Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn
trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở
làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn
làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa
người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã
đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng
trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là hình tượng điển
hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm
yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp
Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã
khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí,
thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo
thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện
của hắn. "Bát cháo hành" là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp
lánh giữa xã hội thối nát.

Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn
bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống
"Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật... hắn khát khao làm
hòa với mọi người". Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải
rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.

Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của
Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để
mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người,
quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và
quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà
Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí Phèo còn hét lên "Ai
cho tao làm người lương thiện", xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một
bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình như kéo
người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành
động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.

Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-tich-truyen-chi-pheo-cua-nam-cao

Apply:

You might also like