Professional Documents
Culture Documents
à N Thi HK 1 - Lá P 11
à N Thi HK 1 - Lá P 11
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất
hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử
tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm.
“Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử
tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng
những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi
bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong
cuộc đời.
Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào
những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng
không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ,
muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại
diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo
ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn
quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn
bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát
triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ
đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi:
“người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến
ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có
được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là
niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà
đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông
vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về
tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết
ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng
những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền
mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu
đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên
quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn
người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại
phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên
lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh
một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo,
Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi
đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao
bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng
còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con
người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra
những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản
ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm
lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những
người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách
cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của
mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được
tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để
treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ
của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay
xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không
phải ai cũng cho chữ.
Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với
người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn
cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa
từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện
ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính,
ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người
tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc
sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài.
Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn
vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác
phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu
của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân
trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật
xây dựng tình huống đắc sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Cảnh đám ma gương mẫu nằm ở chương XV của tiểu thuyết “Sổ đỏ”, được đặt
nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”. Những trang viết là những màn hài kịch
kéo dài của đám đông nhố nhăng, dị hợm. Có lẽ chưa từng có một đám tang như
thế, nơi mà cái chết trở thành niềm vui, hạnh phúc của nhiều người, nơi mà người
ta xem là dị khoe mẽ, là dịp phô bày những lối lăng đồi bại. Nhưng đám ma ấy lại
diễn ra giữa cái xã hội tư bản thành thị được xem là văn minh.
Phân tích cảnh đám ma gương mẫu có thể thấy, Vũ Trọng Phụng đã miêu tả một
đám ma, nhưng lạ thường thấy nó lại vô cùng hoành tráng, lại tưng bừng không
kém gì dịp lễ hội. Tại đám tang này, tất cả các phong cách đều xuất hiện, từ Ta,
Tàu đến Tây, mọi thứ kết hợp trở thành một mớ lộn xộn. “Có kiệu bát cống, lợn
quay đi lọng, cho đến lốc bốc soảng và bú dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu
đối, vài trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã
thi nhau như ở hội chợ”. Với bấy đó thứ, đám ma này thực sự đã gây được sự chú
ý, trầm trồ của thiên hạ theo ý cụ cố Hồng. Như Vũ Trọng Phụng đã viết thật sâu
cay: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng
phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”.
Một đám ma thương mang không khí trầm buồn, xót thương, nhưng đám ma này đi
đến đâu là gây huyên náo như một gánh xiếc đang quảng cáo để bán vé cho những
màn trình diễn xiếc thú. Người đến tiễn người mất chỉ toàn là quan chức tai to mặt
lớn, đến đám tang chỉ nhằm thể hiện cái uy danh của mình. Và mỉa thay cái tình
huống những kẻ này đã xúc động khi “trông thấy một làn da trắng thập thò trong
làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Đám tang nhưng tiếng kèn, tiếng người
ta nói chuyện át cả tiếng khóc.
“Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, xong le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau
chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may”. Chưa
hết, còn có “đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình
phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn
rầu của những người đi đưa ma”. Thử hỏi có thứ “văn minh” nào lại đồi bại, dị
hợm đến như thế.
Cái đám ma gương mẫu này như là dịp để đám con cháu khoe niềm hạnh phúc khi
ông cụ cố mất. Người ta đưa đám ma diễu hành qua đến 4 con phố dài, càng đi lại
càng náo nhiệt. Điểm lố lăng đỉnh điểm là sự xuất hiện của Xuân Tóc đỏ. Y đến
với “sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai ngăn… Hai vòng
hoa đồ sộ, một nhà báo Gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào hàng đầu”. Đây quả là
một đám ma có một không hai, khi đến sư chùa, nhà báo cũng nên vào đám ma
như hòa vào cuộc vui. Tất cả làm thành một gánh tạp kĩ đang tìm cách mua vui cho
thiên hạ.
Đám ma nhưng tiếng khóc lại là thứ xa xỉ nhất. Rút cuộc ta phải tự hỏi, đây là đám
viếng người chết là đám rước những kẻ đang sống? Và với giọng văn sâu cay, pha
bỡn cợt lại không thiếu phần chua chát của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm đã giáng
một đòn trực diện nhất vào sự tha hóa của bản chất người, của xã hội mà ở đó
những kẻ lấy đám ma làm niềm vui luôn xem đó là môi trường văn minh.
Bởi thế, ngược đời làm sao, chua xót làm sao tang gia mà lại hạnh phúc, người
khóc chẳng có nhưng lại lắm kẻ cười vui. Cái đám diễu hành cứ đi, cứ đi, khi cuộc
vui đến hồi kết thì đám chưa dừng lại.
Cái đại tài của Vũ Trọng Phụng, sự trào phúng đỉnh cao của ngòi bút Vũ Trọng
Phụng là lật cái mặt nạ giả dối của lũ con cháu trong cảnh hạ huyệt. Ở đó, cậu Tú
Tân “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc còng lưng, hoặc
lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu
của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống
nhau.” Cái cảnh “Xuân Tóc Ðỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông
Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc
to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”, thực là một màn hài kịch, nhưng cũng là bi kịch, bi
kịch cho những kiếp người sống không có phẩm cách, lấy cái chết của người khác
làm niềm vui. Một đám ma vì thế lại trở thành một bức tranh sống động không một
sắc thái biểu cảm nào là không có.
Nghệ thuật nổi bật trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là nghệ thuật
trào phúng rất sắc bén và sâu cay như chính phong cách sáng tác của Vũ Trọng
Phụng. Điều này thể hiện trọn vẹn ở các phương diện: tình huống trào phúng, nhân
vật trào phúng và cảnh tượng trào phúng.
Tình huống trào phúng ở đây nằm ở sự ngược đời đó là, cái chết của cụ cố Hồng
lại trở thành niềm hình phúc cho lũ con cháu. Cái đám tang của cụ trở thành phông
nền cho đám con cháu bộc lộ bản chất khốn nạn của mình.
Về nhân vật trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một hệ thống
các nhân vật trào phúng với nhiều tính cách và mục đích khác nhau. Nhưng suy
cho cùng, dù mục đích gì cũng đều là vì lợi ích cá nhân mà không mảy may xót
thương cho cụ cố Hồng vừa nằm xuống.
Và có lẽ, đỉnh điểm của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm là ở cảnh tượng trào
phúng – cảnh hạ huyệt. Với cảnh này, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã hoàn tất
sứ mệnh là tái hiện và lên án gay gắt xã hội thượng lưu giả dối, tàn bạo, thối nát.
Với tiểu thuyết “Số đỏ” nói chung và đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nói
riêng, Vũ Trọng Phụng thực sự phải khiến người người ngả mũ bởi cái bút lực
châm biếm, bút lực trào phúng của ông. Phân tích cảnh đám ma gương mẫu mới
thấy rằng, tác giả thật tài, tình đời làm sao khi viết nên một vở hài kịch diễn cảnh
đám ma, để qua đó lột trần sự “chó đểu” của cái xã hội thối nát, lụi tàn về nhân
cách.
CHÍ PHÈO
PHẦN 1. TÁC GỈA NAM CAO
I. Tiểu sử và con người
2. Tiểu sử
- Nam Cao (1917 - 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri
- Sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con
- Sau hơn ba năm bôn ba ở Sài Gòn kiếm sống ông trở về quê nhà dạy học ở trường tư
thục nhưng cuộc đời giáo khổ trường tư cũng không yên ổn, quân Nhật vào Đông
Dương, trường đóng của ông phải sống chật vật, lay lắt bằng nghề viết văn và gia sư
- Ông tham gia cách mạng từ năm 1943 và tích cực hoạt động, dùng ngòi bút để chiến
đấu - Năm 1951 trên đường đi công tác ông bị giặc phục kích và sát hại
2. Con người
- Vẻ ngoài lạnh lùng, đời sống nội tâm sục sôi luôn nghiêm khắc đấu tranh với mình
thoát khỏi cái tầm thường, nhỏ nhoi để vươn tới những giá trị cao đẹp. Chính điều này
đã làm nên thành công cho Nam Cao ở mảng đề tài khám phá nội tâm người trí thức
nghèo.
Là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình yêu thương nhất là người nông dân
nghèo ⇒ những trang văn viết về người nông dân luôn thấm đượm tư tưởng nhân đạo
sâu sắc
- Là người luôn day dứt suy tư về bản thân cuộc sống ⇒ những sáng tác của ông luôn
giàu tính triết lí
⇒ Cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật của ông là tấm gương cho hậu thế nhất là
các nhà văn trẻ
II. Sự nghiệp văn học
1. Quan điểm nghệ thuật
- Nghệ thuật vị nhân sinh: Phê phán sự thoát li, khẳng định giá trị văn học nghệ thuật:
Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than
- Văn học chân chính là văn học thấm đượm tư tưởng nhân đạo, vừa mang nỗi đau,
vừa tiếp thêm sức mạnh cho con người trong cuộc đấu tranh vươn tói cuộc sống nhân
ái, công bằng, hòa hợp, làm cho người gần người hơn
- Đề cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn. Nhà văn phải có lương tâm, nhân cách và
trách nhiệm với nghề nghiệp của mình
⇒ Đây là những quan niệm đúng đắn toàn diện thể hiện quan niệm sống cùng nhân
cách của nhà văn
2. Các đề tài chính: SGK
3. Phong cách: SGK
PHẦN 2: TÁC PHẨM CHÍ PHÈO (Nam Cao)
I. TÌM HIỂU CHUNG
- Truyện ngắn Chí Phèo có tên là Cái lò gạch cũ; khi in sách lần đầu,
nhà xuất bản tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi
- Sau khi in lại trong tập Luống cày tác giả đặt tên là Chí Phèo
"Chí Phèo" của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ánh đậm nét xã hội phong kiến
đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần
cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh
xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.
Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo - một người nông dân lương thiện nhưng bị
xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân
vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng "tiếng chửi". Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo
như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn "Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng
Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn...".
Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở
cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những
oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau
mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng
đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của
một đời người. Chí Phèo xuất hiện "Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm
trông gớm chết". Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.
Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn
trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở
làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo.
Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn
làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa
người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã
đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng
trong xã hội phong kiến.
Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là hình tượng điển
hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm
yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp
Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã
khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí,
thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo
thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện
của hắn. "Bát cháo hành" là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp
lánh giữa xã hội thối nát.
Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn
bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống
"Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật... hắn khát khao làm
hòa với mọi người". Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải
rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.
Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của
Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để
mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người,
quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và
quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà
Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí Phèo còn hét lên "Ai
cho tao làm người lương thiện", xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một
bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình như kéo
người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành
động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
Apply: