Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

SOẠN 11 VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC THI KTHP

CÂU 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với việc học tập của bản thân

Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để nước ta
bước vào một thời kì phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã được tạo ra,
quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng . Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập
với cộng đồng thế giới được tăng thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội . Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu
thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát triển đứng trước một thách
thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao ,mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường
cạnh tranh quyết liệt . Trước tình hình đó ,cũng với xu thế phát triển của thời đại ,Đảng và nhà nước cần tiếp tục tiến
hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt ,giữ vai trò chủ
đạo. Đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách ,bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ,giúp cho công cuộc
đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh. Với tư cách là mộ t sinh viên, mộ t công dân của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, em muốn tìm hiể u kĩ hơn về Triết họ c Mác- Lênin, cụ thể đó là mố i quan hệ biệ n chứng giữa
vật chất với ý thức để qua đó thấy được ý nghĩa phương pháp luận và cách vận dụng Triết học vào thực tiễn cuộc
sống cũng như đường lố i, chủ trương của Đảng trong công cuộc xây dựng xã hộ i chủ nghĩa.
Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Khi
định nghĩa:” Vật chất là một phạm trù triết học”, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất,
rộng vô hạn, muốn phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát và trừu tượng,
với những dạng vật chất cụ thể, với những “hạt nhỏ” cảm tính. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học không có
những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình
của chủ nghĩa duy vật cũ, đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó
có ,không thể tiêu diệt được ,nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác ,ý thức con người, vật chất là một
thực tại khách quan.Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối của CNDTKQ ,”thượng đế”của tôn giáo …Vật chất không
phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó ,trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự
vật ,hiện tượng cụ thể ,và do đó các các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan
để gây ra cảm giác ,và nhờ đó mà ta có thể biết được ,hiểu được và nắm bắt sự vật này .Định nghĩa của Lênin đã
khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học .Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác
chép lại ,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.Khẳng định như vậy một mặt muốn nhấn mạnh
tính thứ nhất của vật chất ,vai trò quyết định của nó với vật chất ,và mặt khác khẳng định khả năng nhận thức thế giới
khách quan của con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là một định nghĩa toàn diện và
triệt để nó giải đáp được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phân biệt về nguyên tắc với chủ nghĩa duy tâm, bất khả trị luận, nhị nguyên luận. Đồng thời nó cũn khắc phục thiếu
sót, siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ. Định nghĩa vật chất của Lênin cũn giúp
chúng ta nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, đó là tồn tại xã hội, và nó cũn có ý nghĩa trực tiếp định hướng trong
nghiên cứu khoa học tự nhiên, giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu dạng cụ thể của vật chất trong
giới vĩ mô. Nó cũng giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan
trong suy nghĩ và hành động.

Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý
thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc. Cũng như vật chất
có rất nhiều các quan niệm về ý thức theo các trường phái khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật ở đây
khẳng định rằng ý thức là đặc tính là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của
con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần, ý thức chẳng qua là cái vật chất được di
chuyển vào bộ óc của con người và được cải biến ở trong đó.
Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc tự nhiên: • Óc người là cơ
quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất. Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển
lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc con người. Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh
phụ thuộc vào những cấp độ phát triển khác nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa
của phản ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người. Nguồn gốc xã hội biểu hiện việc ý thức hình thành thông
qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội của loài người. Lao động của con người là nguồn gốc vật
chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con người.
Chính nhờ lao động, con người và xã hội mới hình thành và phát triển. Lao động là phương thức tồn tại đầu tiên của
con người, lao động đồng thời ngay từ đầu đã liên kết những con người với nhau trong những quan hệ khách quan,
tất yếu, mối quan hệ này đến lượt nó lại làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu ”
Cần phải có với nhau một cái gì”. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy.
Với sự xuất hiện ngôn ngữ, tư tưởng của con người có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành tính
hiệu vật chất tác động đến giác quan con người và gây ra cảm giác. Nhờ có ngôn ngữ con người có thể giao tiếp, trao
đổi tư tưởng, tình cảm lẫn nhau truyền đạt kinh nghiệm cho nhau. Thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức
xã hội và ngược lai, ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức cá nhân. Ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện vật chất
không thể thiếu được của sự trừu tượng hoá, tức là quá trình hình thành, thực hiện ý thức và chính nhờ trừu tượng
hoá và khái quát hoá mà con người có thể đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đồng thời tổng kết được hoạt
động của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan quan hệ giữa con người
và thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức con người về thế giới
khách quan. Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất của thế
giới vật chất, song phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất mà được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản
ánh vật lý; phản ánh sinh học; phản ánh ý thức. Về nguồn gốc xã hội thì nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo
thành nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt
động bản chất của con người đã đem lại cho con người quá trình chuyển hóa từ vượn thành người, từ tân lí động vật
thành ý thức, và lao động là tác động khách quan, làm biến đổi thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Nhờ
có lao động,bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn thiện,làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con
người ngày càng cao. Còn về ngôn ngữ, ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội ,là hệ thống tín
hiệu thứ hai,là cơ sở vật chất của tư duy,là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng phát triển
tâm lí, tư duy của con người và xã hội loài người.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức biểu hiện ở vật chất và ý thức quan hệ qua lại và chuyển hóa lẫn
nhau :Vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, vật chất là nguồn gốc, là tiền đề cho sự ra đời, tồn
tại và phát triển của ý thức. Hay nói cách khác vật chất thế nào thì ý thức như thế ấy, vật chất thay đổi đến đâu thì ý
thức thay đổi đến đó. Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối trong phạm vi hết
sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và
cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó thì sự đối lập đó chỉ là tương đối. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là
tương đối nếu như chúng là những nguyên tố, những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người, đặc
biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến được sự vật, không
có khả năng tự biến thành hiện thực. Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết được
tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt
nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người
có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh tự nhiên trù phú, sinh
động, tự nhiên của con người. Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc
lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu
cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có ý
nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết
học Mác-Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua
lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.

Ý thức là do vật chất sinh ra nhưng một khi ý thức ra đời nó có tác dụng tích cực trở lại với vật chất sinh ra nó
theo 2 trường hợp: Nếu ý thức tiến bộ: phản ánh phù hợp với thực tế thì có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu
ý thức lạc hậu: phản ánh không phù hợp với quy luật khách quan thì có tác dụng kìm hãm xã hội phát triển. Ý thức
thuần túy: ý thức này dù tiến bộ hay lạc hậu thì bản thân chúng cũng không làm thay đổi điều kiện hiện thực mà ý
thức đó phải thông qua hành động thực tiễn của con người thì mới trở thành hiện thực. Trong hoạt động của con
người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của
con người vì nhân tố vật chất qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con người,
tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó qui định mục đích
chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hoá
mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến
tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và
phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trò cơ sở,
quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh
thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa,
trong hoạt động của mình con người không thể để cho thế giới khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ
động hướng nó đi theo con đường có lợi của mình. Ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng
không thể thay đổi qui luật vận động của nó. D đó, trong quá trình hoạt động của mình, con người phải tuân theo qui
luật khách quan và chỉ có thể đề ra những mục đích, chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép.

Ý nghĩa phương pháp luận: Nếu thừa nhận vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì trong
hành động nhận thức cũng như hành động thực tiễn của con người phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên ta
phải biết phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người. Cần chống
bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, ngồi chờ.

Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức
có tính lực năng động tác động trở lại vật chất. Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận
thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người. Nền
giáo dục Việt Nam ta mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất trước, trong và sau chiến tranh, đã đạt
được nhiều thành tựu đáng tự hào. Ta đã đào tạo được một đội ngũ nghiên cứu khoa học khá và cống hiến quan
trọng cho cộng đồng khoa học quốc tế có thể nói sinh viên Việt Nam khá thông minh, sáng tạo, có khả năng tiếp
nhận tri thức khá tốt. Mặt hạn chế Sinh viên nói chung đều mắc "bệnh" thụ động trong học tập, sinh viên không chịu
tìm tòi sách, tài liệu phụ lục cho chuyên môn của mình, mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô
lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo. Phần lớn sinh
viên Việt Nam thiếu khả năng sáng tạo, lười đoc sách. Một số đông sinh viên ít đọc có nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan nhưng nói chung họ rất thụ động trong việc học. Thụ động bởi sinh viên chỉ đọc giảng viên yêu cầu
thuyết trình một đề tài, viết một bài tiểu luận hoặc khi được khuyến khích bởi một người khác về một cuốn sách hay
nào đó, tức chỉ khi bị áp chế hoặc được truyền cho niềm tin thì họ mới đổ xô đi đọc. Có quá nhiều sinh viên vừa học,
vừa chơi và cũng có quả nhiều sinh viên quên mọi thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như thể đều mang lại những
kết quả tiêu cực khác nhau. Một bên là sự hụt hẫng về kiến thức, thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị đuổi học còn
bên kia lại là sự mệt mỏi, căng thẳng, những lo âu chồng chất trong những năm học đại học khiến sức khỏe bị suy
sụp, lạc lõng với những diễn tiến xung quanh xã hội, lạ lẫm với những điều đang tác động đến cuộc sống hàng
ngày…..Em nói riêng và đa phần sinh viên nói chung đều như những cố máy rỉ sét, chúng em vào lớp chép chính tả
và sau đó trả bài thuộc lòng, lắp ghép các kiến thức rời rạc. Học đối phó và thi đối phó để lấy cho được mảnh bằng,
thể thôi việc học với sinh viên là học, ghi, thì phải thuộc. Đa phần sinh viên mới chỉ học theo kiểu "học vẹt" thiếu
tính thực tiễn. Nhìn vào hiện trạng của các "sản phẩm" của nền giáo dục cao đẳng - đại học hiện nay có thể thấy
rằng, hình như xã hội "không mê" các sản phẩm này. Là một sinh viên đang theo học ngành kinh doanh quốc tế của
trường, em thấy để có thể giúp được bản thân có được đầy đủ một hành trang vững chắc bước ra đời để tiếp tục học
tập và làm việc, khi còn đang trên ghế nhà trường, em cần phải tự rèn luyện cho mình một ý thức học tập có hiệu
quả, đúng đắn, không ỷ lại với số đông hiện nay. Cần phải tự trau dồi kỷ năng, tự giác, kiên trì từng bước nâng cao
kiến thức của bản thân, cố gắng đọc thêm sách vở và đầu tư học ngôn ngữ, học những kĩ năng mềm. Ý thức học tập
của ta sẽ thay đổi nếu ta cố gắng phát triển nó. Và đừng dựa vào thực tế khách quan mà biến bản thân thành một kẻ
thất bại….Muốn học, hiểu sâu về chủ đề nào, điều quan trọng nhất là phải tự mình chạm tới nó trước, như gieo mầm
cho việc tiếp thu của mình. Bản chất của tư học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với
bạn bè. Ngày nay cntt được công nhận là một bộ phận không thể thiếu trong giáo dục. Sinh viên tích cực tiếp cận,
truy cập Internet để có được những thông tin khoa học mới nhất hay có điều kiện trao đổi với bạn bè thế giới.
Vd2 :Là sinh viên năm nhất, học theo hệ tín chỉ và đất nước mình là nước đang phát triển, em tự nhận thức được
rằng đất nước mình còn khó khăn, thiếu thốn về trang thiết bị nên quá trình giảng dạy của giảng viên và quá trình
học tập của sinh viên đều bị ảnh hưởng cho nên bản thân em luôn chú ý và hành động theo quy luật mang tính
khách quan như: tuân thủ thời khóa biểu, đi học đầy đủ đúng giờ, nghe lời giảng viên hướng dẫn...Thứ hai, vì ý thức
có sự tác động trở lại vật chất nên em phải phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực trong học tập, chủ động tìm
hiểu và khai thác vấn đề, rèn luyện kỹ năng sống bằng cách tham gia các clb, xây dựng tình cảm, niềm tin và ý chí.
Thứ ba, em cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, tiếp thu chọn lọc những kiến thức
mới và việc hôm nay không để ngày mai. Và cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải tính đến các
điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiên khách quan lẫn yếu tố chủ quan như trong việc đăng kí học phần
của, phải xem năng lực học tập của mình, rồi về điều kiện tài chính, và cả quỹ thời gian, phải đăng kí có kế hoạch
tránh việc không theo kịp, tiêu tốn thời gian, tiền bạc và công sức.
Câu 2: Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, vận dụng vào bản thân.

Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản,
những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng những ý
niệm trong đầu óc của ta chẳng qua là những sự phản ánh của hiện thực khách quan, do đó bản thân của ý niệm chỉ
đơn thuần là sự phản ánh có ý thức sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan. Như vậy phép biện
chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và sự phát triển chung của thế giới. Vì thế
Ph. Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và
chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau.Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau hay có liên hệ qua lại,
ràng buộc lẫn nhau? Nếu có thì cơ sở nào đảm bảo cho sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó? Quan điểm siêu
hình cho rằng các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau, cái này nằm
cạnh cái kia, không có sự liên hệ lẫn nhau; còn nếu giả sử có sự liên hệ thì đó chỉ là sự liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt,
bề ngoài; và nếu có nhiều mối liên hệ thì bản thân từng mối liên hệ lại cô lập lẫn nhau. Quan điểm biện chứng cho
rằng mối liên hệ là sự tác động qua lại, ràng buộc lẫn nhau mà sự thay đổi cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi cái
kia. Đối lập với sự liên hệ là sự tách biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại nhưng sự thay đổi cái này sẽ không
tất yếu kéo theo sự thay đổi cái kia. Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới vừa tách biệt nhau vừa
liên hệ ràng buộc, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau; thế giới là một hệ thống chỉnh thể thống nhất mà mọi yếu tố, bộ
phận của nó luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Tuy nhiên, có hai loại quan điểm biện chứng. Quan điểm
biện chứng duy tâm cố tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó ở trong các lực lượng siêu tự nhiên
hay cảm giác, ý thức con người. Quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại, ràng buộc
lẫn nhau đó ở trong vật chất, và mối liên hệ mang tính khách quan – tức tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và nhận
thức của con người, và mang tính phổ biến – tức tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động lại là
phương thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan.Mối
liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến là
hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới. Mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới rất đa dạng. Chính tính đa dạng của tồn tại vật chất
quy định tính đa dạng của mối liên hệ; và các hình thức, kiểu liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tùy theo cơ sở phân chia mà mối liên hệ được chia
thành:Liên hệ trực tiếp và liên hệ gián tiếp; liên hệ bản chất và liên hệ không bản chất; liên hệ tất nhiên và liên hệ
ngẫu nhiên; liên hệ đồng đại (không gian) và liên hệ lịch đại (thời gian) v.v.. Dù mọi cách phân chia đều tương đối,
nhưng phép biện chứng duy vật rất quan tâm đến việc chia mối liên hệ dựa trên vai trò và phạm vi tác động của bản
thân chúng. Nếu dựa trên vai trò tác động đối với sự vận động và phát triển của sự vật thì mối liên hệ được chia
thành mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài. Nếu dựa trên phạm vi tác động đối với sự vận động và phát
triển của sự vật thì mối liên hệ được chia thành mối liên hệ riêng, mối liên hệ chung và mối liên hệ phổ biến. Phép
biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất của thế giới khách quan. Còn những
hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiến cứu của các ngành khoa học cụ thể.
Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của mối liên hệ xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới,
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được phát biểu như sau:Một là, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới
đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc qua lại lẫn nhau.Hai là, trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn
tại của sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới có mối liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan -
phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế
giới.
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các
mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con
người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta
nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ
trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân
biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ
tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương
pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Và sự phân chia từng loại mối
liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, xong nó là cần thiết vì giúp chúng ta xác định vị trí, vai trò của từng loại mối liên
hệ trong sự vận động và phát triển. Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của
sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ,
vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác
nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn
trọng quan điểm lịch sử – cụ thể.Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào
sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát
triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là
luận điểm khoa học trong điều kiện khác.Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách
mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như
bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương,
Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.

Là một sinh viên đại học để có được kết quả học tập cao và đạt được những mong muốn trong kế hoạch một
cách trọn vẹn thì em phải biết vận dụng quan điểm toàn diện vào chính bản thân để thấy được điểm mạnh, điểm
yếu của mình. Phải nhận thức được những kỹ năng mà bạn đang có và những phần mà bạn cần phải cải thiện mình.
Chỉ khi nào bạn hiểu được điều đó bạn mới có thể xác định được mình cần và nên làm những gì để rèn luyện và
phát triển bản thân mình. Trong học tập bao giờ cũng phải xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng
đắn để có kết quả cao, việc áp dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập giúp định
hướng học tập sâu hơn và cao hơn. Để vận dụng quan điểm trên cần phân tích, xem xét các mặt của
việc học một cách cụ thể, toàn diện phù hợp với từng thời điểm: học tập là quá trình dài, phải kiên
trì mới có thể hiểu kỹ, sâu sắc; học phải khiêm tốn, luôn học hỏi ở mọi người...Ngày nay với đà
phát triển của xã hội, học luôn phải đi đôi với hành, không thể tách rời nhau. Học là tiếp thu kiến
thức trong sách vở, là mở mạng trí tuệ, tìm hiểu và cập nhật hóa sự hiểu biết của mình không để bị
thụ lùi. Còn hành nghĩa là làm, là thực hành, ứng dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
Phải luôn nhận thức đúng về việc vận dụng học đi đôi với hành, đó là hai mặt của một quá trình
thống nhất, không thể tách rời mà luôn gắn chặt với nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ chăm chăm vào học
tập thôi thì cũng chưa đủ, em cần rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức, tuy tài và đức là hai phẩm
chất khác nhau nhưng nó gắn bó mật thiết với nhau, tài năng giúp con người lao động hiệu quả,
phẩm chất và đạo đức giúp con người trở nên hòa nhập với cộng đồng, đức và tài bổ sung, hỗ trợ
cho nhau như bác Hồ đã dạy: “ có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì
làm việc gì cũng khó”. Bản thân em đang là sinh viên, là những người đang trong quá trình phát
triển về mọi mặt, đó là thể lực, trí thức và trí tuệ nhân cách... cho nên em luôn phải kết hợp để hoàn
thiện bản thân, rèn luyện phẩm chất, năng lực, học hỏi từ nhà trường, bạn bè, gia đình, xã hội nhằm
đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai. Ngoài
ra, trong môi trường hoạt động ngoài xã hội, tiếp xúc và gắn bó cũng như giao tiếp với rất nhiều người, để có thể
kết bạn tốt và có cách nhìn khách quan tâm lí hay tính cách của ai điều quan trọng là khi nhận xét hay đánh giá một
người cần xem xét họ trong các mối quan hệ với bạn bè và gia đình, xã hội không nên đánh giá, nhận xét một
người chỉ qua vẻ bề ngoài hay một mặt nào đó. Trong cuộc sống khi giải quyết các tình huống cần phải xem xét
quá trình cũng như các hoạt động từ quá khứ đến hiện tại trong các mối liên hệ qua lại lẫn nhau để có cách giải
quyết xử lý tốt nhất. Vận dụng những điều này khi ra trường, chúng ta sẽ dễ dàng đạt được những thuận lợi trong
công việc hơn, sẽ có thể đượ trọng dụng và nhanh chóng có thêm những mối quan hệ giúp ích cho bản thân mình.

Câu 3: Nguyên lí về sự phát triển, ý nghĩa đối với việc học tập và nghiên cứu đối với bản
thân
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng phổ quát nhất của thế giới,
mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều có sự vận động và phát triển. Theo quan điểm chủ nghĩa duy
vật, biện chứng, phát triển là một hình thức của vận động, nó khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình thay đổi về lượng sẽ dẫn đến
thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự
vật vật chất, do những mâu thuẫn của sự vật vật chất quy định. Mọi quá trình phát triển của sự vật đều là quá trình tự
thân của thế giới vật chất.
Các sự vật, hiện tượng khác nhau trong thế giới đứng im, bất động hay không ngừng vận động, phát triển?
Nếu vận động, phát triển thì cái gì là nguồn gốc của vận động, phát triển? Và cách thức, khuynh hướng của chúng
diễn ra như thế nào? Theo quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật, hiện tượng khác nhau trong thế giới đứng im,
bất động; còn nếu giả sử có vận động, phát triển thì đó chỉ là sự tăng – giảm thuần túy về lượng mà không có sự thay
đổi về chất. Tính muôn vẻ về chất của vạn vật trong thế giới là nhất thành bất biến. Phát triển, vì vậy, chỉ là một quá
trình tiến lên liên tục mà không có những bước quanh co phức tạp (đường thẳng). Còn nếu có sự thay đổi về chất thì
đó cũng chỉ là những chất kế tiếp nhau theo một chu trình kín (đường tròn). Quan điểm biện chứng cho rằng, trong
thế giới các mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau làm cho mọi sự vật, hiện tượng tồn tại như những hệ
thống có cấp độ kết cấu tổ chức, với những quy định về chất (kết cấu tổ chức) và về lượng khác nhau. Các hệ thống
sự vật khác nhau không ngừng vận động, và sự vận động của hệ thống không loại trừ sự đứng im (ổn định tương đối
về chất) của nó hay của yếu tố tạo thành nó. Sự vận động – thay đổi nói chung - của một hệ thống sự vật bao gồm:
Một là, sự thay đổi những quy định về chất theo xu hướng tiến bộ ; hai là, sự thay đổi những quy định về chất theo
xu hướng thoái bộ; và ba là, sự thay đổi những quy định về lượng theo xu hướng ổn định tương đối về chất.
Nếu vận động là sự thay đổi nói chung, thì phát triển là một khuynh hướng vận động tổng hợp của một hệ
thống, trong đó sự vận động có thay đổi những quy định về chất (kết cấu tổ chức) theo xu hướng tiến bộ giữ vai trò
chủ đạo, còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất theo xu hướng thoái bộ và sự vận động có thay đổi
những quy định về lượng theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo, thống trị
trên. Như vậy, quan điểm biện chứng về phát triển không cho phép đối lập sự thay đổi tiến bộ với thay đổi thoái bộ,
sự thay đổi về lượng với thay đổi về chất, không cho phép đồng nhất phát triển với thay đổi tiến bộ, mà phải hiểu
phát triển như là một quá trình vận động rất phức tạp khó khăn, vừa liên tục vừa gián đoạn, vừa tiến lên vừa thụt lùi,
thông qua việc giải quyết những xung đột giữa các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn) thực hiện sự chuyển hóa qua
lại giữa lượng và chất (bước nhảy về chất) làm cho cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ (phủ định biện chứng). Phát triển
là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Nếu quan điểm biện chứng duy tâm cố tìm nguồn gốc của sự phát triển trong các lực lượng siêu nhiên hay ý
thức con người (phi vật chất), thì quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật vật chất, do những mâu thuẫn của sự vật vật chất quy định. Mọi quá trình phát triển của sự vật
đều là quá trình tự thân của thế giới vật chất. Vì vậy, sự phát triển mang tính khách quan – tức tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức và nhận thức của con người, và mang tính phổ biến – tức tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, trong
mọi lĩnh vực hiện thực.
Trong thế giới, sự phát triển diễn ra rất đa dạng. Chính tính đa dạng của tồn tại vật chất quy định tính đa dạng
của sự phát triển. Các hình thức, kiểu phát triển cụ thể xảy ra trong các hệ thống (lĩnh vực) vật chất khác nhau được
các ngành khoa học cụ thể nghiên cứu. Gồm: Sự phát triển trong lĩnh vực tự nhiên vô sinh, sự phát triển trong lĩnh
vực tự nhiên hữu sinh, sự phát triển trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển trong lĩnh vực tư duy tinh thần.

Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới,
nguyên lý về sự phát triển được phát biểu như sau:Một là, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng
vận động và phát triển, phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế
giới. Hai là, phát triển mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu
thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. Ba là, sự phát triển thường
diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí có lúc, có sự thụt lùi tạm thời. Phát triển là
sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự
vật.
Quan điểm biện chứng xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua những bước nhảy vọt về
chất.Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ở trong sự vật. Quan điểm siêu hình nói
chung là phủ định sự phát triển, vì họ thường tuyệt đối hoá mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Sau này, khi khoa
học đã chứng minh cho quan điểm về sự phát triển của sự vật, buộc họ phải nói đến sự phát triển, song với họ phát
triển chỉ là sự tăng hay giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của nó ở bên ngoài sự
vật, hiện tượng.
Vậy ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí này là gì? Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi khi
nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như
những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng
biến đổi chính của sự vật. Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của
sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm
thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại
đối với đời sống của con người. Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, mỗi người cần
nắm chắc cơ sở lý luận của chúng – nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng
chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.

Như vậy, quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, đầu óc bảo thủ định kiến, cung cách
suy nghĩ sơ cứng giáo điều; nó xa lạ với sự tuyệt đối hóa một giai đoạn nào đó trong quá trình vận động của đối
tượng nhận thức cũng như của bản thân quá trình nhận thức đối tượng, nó cũng xa lạ với đầu óc trọng cổ, chủ nghĩa
lí lịch, chủ nghĩa thực tại, chủ nghĩa vị lai… Phương pháp luận duy vật biện chứng đòi hỏi phải kết hợp nguyên tắc
khách quan với quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển để xây dựng quan điểm lịch sử – cụ thể - “linh hồn”
phương pháp luận của triết học mácxít.
Liên hệ nguyên lí này vào việc học tập và nghiên cứu của bản thân em thấy được từ khi bước chân vào ngưỡng
của của bậc thềm Đại học, em là một trong vô vàn những sinh viên bước vào trường với một trang giấy trắng, cần
được sự hướng dẫn chỉ dạy của giảng viên, bạn bè và mọi người xung quanh. Tất nhiên cứ bước lên một bậc thì mọi
thứ sẽ không còn trở nên dễ dàng nữa, việc học cũng trở nên khó khắn, đòi hỏi em phải nổ lực rất nhiều, chăm chỉ
hơn, cố gắng tìm tòi những kiến thức trong sách, trên mạng cùng với sự hướng dẫn của thầy cô thì mới có thể cải
thiện bản thân lên từng ngày, để vượt qua những khó khắn thử thách, giải quyết vấn đề tình huống đặt ra hằng ngày,
em đã phải xâu chuỗi lại những kiến thức đã học và liên hệ chúng lại với nhau để có thể từng bước tháo mở nguyên
nhân dẫn đến là ở đâu để từ đó có những cách giải quyết phù hợp. Trong cuộc sống có những điều ta xuất phát từ
con số không nhưng qua quá trình rèn luyện tu dưỡng tích cực thì kết quả đạt được sẽ là ta có những kiến thức linh
nghiệm trong cuộc sống. Đôi lúc chúng ta sẽ gặp khó khăn, trở ngại trong quá trình học tập, tuy nhiên không nên vì
thế mà bi quan, chán nản, trái lại, cần phải đặt việc học trong sự vận động và phát triển, xem những khó khăn ấy là
điều tất yếu của sự phát triển, từ đó không ngừng nổ lực, nâng cao kiến thức. Mỗi ngày phải luôn làm mới bản thân,
học tập thêm nhiều thứ mới mẻ từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau để không bị tụt hậu. Chỉ khi bản thân tiếp thu được
những điều mới mẻ, suy nghĩ và tư duy được mở mang, phát triển thì mới tránh được tư tưởng lạc hậu, bảo thủ. Suy
đến cùng, nguyên lí về sự phát triển giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống hằng ngày. Các sự vật; hiện tượng nói
chung; con người nói riêng: để đạt được thành công đều phải trãi qua những thời kì gian khổ.
Liên hệ 2: Trong học tập em tích lũy kiến thức bằng ngày, vừa học vừa ôn, để có thể hoàn thành tốt các bài
kiểm tra kết thúc môn học. Còn trong việc học tiếng anh, em đặt ra tiêu chuẩn một ngày học được bao nhiêu từ vựng
để tăng thêm vốn từ vựng của mình. Trong cuộc sống em học hỏi và rút thêm kinh nghiệm cho bản qua việc rèn
luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết trình để hoàn thiện bản thân hơn.

Câu 4: Quy luật lượng chất, ý nghĩa đối với việc học và nghiên cứu của bản thân.
Quy luật “ Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại” là một trong những quy luật
quan trọng của Triết học. Quy luật này, được rất nhiều nhà Triết học trên thế giới nghiên cứu nhưng chỉ đến lượt
Mác và Lênin nhận thức mới đầy đủ và phát triển nó trở thành hoàn thiện. Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng
bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng
duy vật ra đời đem lại quan điểm đúng đắn về khái niệm chất, lượng và quan hệ qua lại giữa chúng; từ đó khái quát
thành quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Vậy Chất là gì? Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó là nó chứ không phải là cái khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong
thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác;
nhờ đó mà con người mới có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Con người khác với
động vật chính là nhờ những tính quy định vốn có của con người: có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao động,
có khả năng tư duy. Chất bộc lộ ra thông qua thuộc tính, nhưng chất và thuộc tính không phải có ý nghĩa như nhau.
Mỗi sự vật vừa có một chất nhưng cũng có thể có rất nhiều chất, chất của sự vật hay hiện tượng lộ ra trong sự tác
động lẫn nhau với sự vật hay hiện tượng khác. Chất không tồn tại độc lập, tách rời với bản thân sự vật hay hiện
tượng. Chất là thuộc tính khách quan của sự vật và hiện tượng. Trái với các hệ thống triết học duy tâm và siêu hình
coi chất là một phạm trù chủ quan, phụ thuộc vào cảm giác của con người, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng,
chất cũng là hiện thực khách quan giống như bản thân vật chất đang vận động vật.
Một phạm trù Triết học thống nhất hữu cơ với Chất đó là Lượng. Lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan
vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của
các quá trình vận động, phát triển của sự vật. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó.
Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay
ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,… Trong thực tế
lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường như vận tốc ánh sáng trong không khí,… bên
cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một
người; ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự
vật, có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) của sự vật. Sự
phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Chẳng hạn số sinh viên học giỏi nhất định của một lớp
sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần tuý về lượng,
song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật. Sự vật, hiện tượng bao giờ cũng là thể thống nhất của hai
măt đối lập lượng và chất. Lượng nào chất ấy, chất nào lượng ấy, chúng tác động qua lại lẫn nhau. Sự thay đổi về
lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ
chặt chẽ với nhau chứ không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng sự thay đổi về chất của sự
vật và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể
làm thay đổi ngay lập tức về chất của sự vật. Mặt khác, có thể trong một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay
đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ
của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí có thể lên tới hàng ngàn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ
chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định gọi là độ, thì chất
cũ sẽ mất đi, chất mới sẽ thay thế chất cũ. Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích lũy được. Độ là một phạm trù
triết học dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất và lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật,
hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Dưới áp suất bình thường của không khí, sự tăng hoặc giảm của nhiệt độ
trong khoảng từ 0℃ đến 100℃, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của nước giảm xuống dưới
0℃ nước ở thể lỏng chuyển thành thể rắn và nếu tăng nhiệt độ từ 100℃ trở lên, nước nguyên chất thể lỏng chuyển
dần sang trạng thái hơi. Tại điểm giới hạn như 0℃ và 100℃ ở thí dụ trên gọi là điểm nút. Tại điểm đó sự thay đổi về
lượng cũng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó
sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho
chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của
sự vật ấy. Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Chất
của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Vậy bước nhảy là phạm trù triết học
dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra,
là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm
khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động phát triển liên tục của sự vật.
Như vậy, sự phát triển của bất kỳ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích lũy về lượng trong độ nhất định cho tới điểm
nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút không cố định mà có thể thay đổi do tác động của điều kiện chủ
quan và khách quan qui định. Nghĩa là, muốn có chất mới, trước hết phải tích lũy về lượng đến độ cho phép, để
chuyển sang chất mới.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật gồm: Phải biết tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất của sự vật:
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn ai cũng biết rằng muốn có chất mới thì phải tích lũy về lượng đến độ cho
phép sẽ chuyển sang chất mới. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ biết cách tích lũy về lượng, nghĩa là không được nôn
nóng, chủ quan khi chưa có sự tích lũy về lượng đến độ chín đã muốn thực hiện bước nhảy. Phải có quyết tâm tiến
hành bước nhảy. Nghĩa là luôn chống tư tưởng bảo thủ, chờ đợi không dám thực hiện bước nhảy khi đã có sự tích
lũy đầy đủ về lượng, hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng… sẽ kìm hãm sự
phát triển của sự vật và hiện tượng. Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy trong cuộc sống. Sự vận
dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết quy luật này. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể, từng
quan hệ cụ thể để lựa chọn hình thức bước nhảy cho phù hợp để đạt tới chất lượng và hiệu quả cao trong hoạt động
của mình.
Liên hệ thực tiễn quy luật lượng chất đối với sinh viên nói chung và bản thân em nói riêng, có thể thấy rằng quá
trình tích lũy kiến thức trong học tập chính là độ, kì thi tốt nghiệp chính là điểm nút, việc vượt qua kì thi và lấy bằng
đại học chính là bước nhảy để tiếp tục ra xã hội tìm cho mình một công việc với thu nhập ổn định, tức là có sự thay
đổi về chất. Để có được tấm bằng đại học chính là một quá trình rèn luyện, học hỏi, tích lũy của sinh viên. Trên
phương diện học tập, sinh viên phải gom nhặt những kiến thức từ giảng viên, ngoài ra còn thông qua sách vở,
phương tiện thông tin đại chúng. Trên phương diện xã hội, đòi hỏi sinh viên phải tích cực tham gia vào các hoạt
động văn hóa thể thao của trường để thu tích điểm rèn luyện, nhờ vào những hoạt động xã hội cũng phần nào giúp
sinh viên có được kĩ năng cần thiết cho bản thân như giao tiếp, kết bạn, làm việc nhóm,...Trên phương diện hội nhập
vào nền kinh tế, sinh viên sẽ tiếp cận được những kĩ thuật, công nghệ tiên tiến và bắt kịp xu hướng phát triển của đất
nước. Anh văn sẽ là ngôn ngữ thứ hai giúp ích cho sinh viên sau này trong giao tiếp và công việc, việc trau dồi thêm
ngôn ngữ sẽ tạo ra nhiều cơ hội tốt cho sinh viên trong công việc sau này. Cả ba phương diện trên đều là sự tích luỹ
liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hoá về chất. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự
vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát
triển của xã hội. Tìm được công việc có thu nhập, từ sinh viên trở thành nhân viên, chúng ta sẽ tiếp tục tích lũy cho
mình một lượng kiến thức để nhanh chóng nâng cao chức vụ để có thể gia tăng thu nhập và nâng phẩm giá trong
môi trường làm việc ngoài xã hội…
Liên hệ 2: Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri
thức của nhân loại, trước hết là để phục vụ cho bản thân. Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi
người khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình ấy của con
người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức
cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Là sinh viên, ai cũng phải trải
qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông rồi từ đó qua bậc đại học. Ở bậc đại học, sinh viên phải tích lũy đủ
các học phần theo quy định. Bên cạnh đó, mỗi sinh viên lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những hiểu biết
riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của sinh viên là một quá trình dài, đòi
hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và khả năng của bản thân. Quy luật
lượng chất thể hiện ở chỗ, sinh viên dần tích lũy cho mình một khối lượng kiến thức nhất định qua từng bài học
trên lớp cũng như trong việc hoạt động Đoàn, Hội. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết là
các kì thi kết thúc học phần và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết giúp mỗi sinh
viên vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai đoạn mới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn
luyện của sinh viên thì quá trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua
các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của sinh viên bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay
đổi về chất. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản
thân mỗi sinh viên. Từ những lý luận và thực tiễn trên, quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống mỗi người.

Câu 5: Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, nêu ý nghĩa đối với việc
học tập và nghiên cứu của bản thân.
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn
trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và
phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới. Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập
thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của
phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển. Theo V.I.Lênin “có thể định
nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của
phép biện chứng ...”

“Mặt đối lập”: là sự khái quát những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau nằm
trong một chỉnh thể thống nhất cấu thành nên sự vật hiện tượng. Sự tồn tại của các mặt đối lập là hiện tượng khách
quan và phổ biến (âm và dương, đồng hóa và dị hóa, thiện và ác,…). (Ví dụ: trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân;
trong sinh vật có đồng hóa dị hóa; trong nhận thức có sự “đấu tranh” giữa nhu cầu hiểu biết với khả năng hiểu biết;
giữa hiểu biết đúng với hiểu biết sai v.v...). Hai mặt đối lập này nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít lẫn
nhau nhưng lại tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập
vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, hai mặt đối lập liên hệ ràng buộc nhau và quy định
lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Sự đấu tranh của hai mặt đối lập: là các mặt đối lập bài
trừ nhau, phủ định nhau. Sự bài trừ, phủ định lẫn nhau của hai mặt đối lập chỉ là một trong những hình thức đấu
tranh của chúng. Tính chất đấu tranh của hai mặt đối lập rất đa dạng, nó phụ thuộc vào tính chất, mối quan hệ, vào
điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.

Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau
tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã
hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và nguồn gốc phát triển
của nhận thức. Ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn lô-gic hình thức. Mâu thuẫn lô-gic hình thức
chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu
hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm
cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách
rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm
thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự thống
nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự
thống nhất(…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,thoáng qua,tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối,cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối. Trong sự tác động qua lại của các mặt
đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm
cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo
khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung
đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyễn hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ
được thay thế bằng thể thống nhất mới ; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển
là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không
có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn
biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật . Do đó mâu thuẫn chính là
nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Mâu thuẫn có tính khách quan vì mâu thuẫn là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng trong cả tự nhiên, xã hội và tư
duy con người. Sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng chứa đựng các mặt đối lập, tức là chứa đựng
những mâu thuẫn tự thân của nó. Do đó, mâu thuẫn tồn tại khách quan trong sự vật, hiện tượng chứ không phải do
con người gán cho sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi
quá trình, trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Tính đa dạng của mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ trong các sự vật, hiện
tượng khác nhau, trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn khác nhau. Căn cứ vào
quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật hiện tượng, người ta phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài. Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ
theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét
trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Thí dụ: Trong phạm vi nước ta mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh
tế quốc dân là mâu thuẫn bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước ASEAN khác lại là mâu
thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì
vậy để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định
phạm vi sự vật được xem xét. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không
thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu
thuẫn bên trong. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn trong nước ta không
tách rời việc giải quyết mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác. Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát
triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Căn cứ vào vai
trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia
thành mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu. Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn
đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong
việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối
kháng; giải quyết mâu thuẫn không đối kháng phải bằng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.Từ sự
phân tích trên có thể rút ra thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật, hiện
tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái
mới ra đời thay thế.
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Thứ nhất, thừa nhận
tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều
kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng;
từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần
bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ
giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra
được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh
giữa các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ
thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.

Là một sinh viên, vận dụng quy luật này vào thực tiễn quá trình học tập và nghiên cứu của bản thân thì em nhận
thấy được mình có mâu thuẫn với chính bản thân thông qua việc vẫn còn bâng khuâng với ngành nghề mình chọn đã
thực sự phù hợp hay chưa, có lúc mâu thuẫn này trở nên gay gắt khiến em bị stress và cảm thấy áp lực với mọi thứ
xung quanh, em bị lơ đãng với kiến thức, bị mất phương hướng thậm chí là không hiểu những việc mình đang làm là
vì một điều gì. Em đã đưa ra cho mình những giải pháp như tìm tòi thông tin ngành nghề mình đang theo học có
những mảng nào hợp với mình, đặt ra những sở thích, niềm vui với công việc học tập hiện tại để tạo niềm hưng
phấn. Từng bước nâng cao năng lực bản thân để tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để có động lực theo đuổi đam mê
thực sự…. Tóm lại, qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng duy vật;
chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là
nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Người khẳng định: tự
phê bình và phê bình có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng. Do đó, mỗi chúng ta phải xem tự phê bình và phê bình
như mỗi ngày soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể; mỗi chúng ta “Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình,
những lời mình nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng
thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”. Theo Người, tự phê bình và phê bình là công cụ quan trọng nhất
để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong tập thể. Tư tưởng phê bình và tự phê bình của một con người
chính là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Là một sinh viên, tư tưởng trên hết sức quan trọng đối với
em nói riêng và toàn thể sinh viên cả nước nói chung nên học tập và rèn luyện cho mình một thói quen phê bình và
tự phê bình. Chúng ta làm việc với một tập thể các bạn sinh viên và giảng viên trong một môi trường đại học đòi hỏi
cần phải có sự cạnh tranh công bằng với nhau để tạo nên một không khí làm việc hiệu quả, khi đó sẽ không tránh
việc chúng ta được người khác phê bình những lỗi sai và chỉ ra những khuyết điểm của mình trong vấn đề nào đó.
Hoạc chính ta sẽ là người góp ý kiến sữa lỗi hoặc phê bình đối với một người khác. Việc làm này không hề dư thừa
trong quá trình học tập, mà còn giúp cho mỗi cá nhân có thêm được kinh nghiệm và nhìn thấy được lỗi sai của mình
để khắc phục và rút ra bài học. Ngoài ra, việc tự phê bình bản thân cùn là một hành động vô cùng đáng ghi nhận, bởi
tự biết lỗi sai mà sửa lại và tự khắc phục hậu quả mình gây ra cũng là một cách giúp bản thân rèn luyện cho mình
tính trung thực khách quan và hiểu sâu vấn đề cần bàn luận hơn. Tuy hai tư tưởng trên hoàn toàn trái ngược và mâu
thuẫn với nhau, song lại thống nhất với nhau tạo nên một công cụ hữu dụng đối với bản thân trong quá trình học tập
và nghiên cứu.

Câu 6: Quy luật phủ định của phủ định, ý nghĩa đối với bản thân trong việc học tập và
nghiên cứu.
Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng
(đi lên), hình thức (xoáy ốc), kết quả (sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ) của sự phát triển của
chúng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển; nghĩa là sự vật, hiện tượng mới
ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, nó phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Phủ định biện chứng
là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự
vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật,
hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi
dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
Phủ định biện chứng có tính khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong nó gây
ra), tính kế thừa (loại bỏ các yếu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ còn phù hợp để
đưa vào sự vật, hiện tượng mới). Phủ định biện chứng còn có tính phổ biến (diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy); tính đa dạng, phong phú của phủ định biện chứng thể hiện ở nội dung, hình thức của nó. Đặc điểm cơ
bản của phủ định biện chứng là sau một số (ít nhất là hai) lần phủ định, sự vật, hiện tượng phát triển có tính chu kỳ
theo đường xoáy ốc mà thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, trong đó giai đoạn sau vẫn bảo tồn những gì
tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. Phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu giữa cái củ và cái mới, là sự
tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển.
Ph.Ăngghen đã đưa ra một thí dụ để hiểu về quá trình phủ định này: “Hãy lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng
nghìn triệu hạt đại mạch được xay ra, nấu chín và đem làm rượu, rồi lại tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch
như thế gặp những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất thích hợp, thì nhờ ảnh hưởng của
sức nóng và độ ẩm, đối với nó sẽ diễn ra một sự biến hoá riêng, nó nẩy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt
đại mạch nữa , nó bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ định hạt đại mạch. Nhưng cuộc sống
bình thường của cái cây này sẽ như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới,
và khi hạt đại mạch nó chín thì thân cây chết đi, bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định này là chúng ta lại
có hạt đại mạch như ban đầu không chỉ là một hạt thóc mà nhiều gấp mười, hai mươi, ba mươi lần”. Ví dụ trên cho
thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua sự phủ định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự
phủ định lần thứ hai ( những hạt thóc mới phủ định cây lúa) sự vật dường như quay trở lại sự khẳng định ban đầu
(hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao hơn(số lượng hạt thóc nhiều hơn, chất lượng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó
nhận thấy ngay). Sơ đồ cụ thể: Khẳng định (hạt thóc) - phủ định lần 1 ( cây lúa) - phủ định lần 2 (hạt thóc).
Đối với đa số các côn trùng, quá trình ấy xảy ra cũng giống như trường hợp hạt lúa. Thí dụ, bươm bướm ra đời
từ trứng ngài bằng cách phủ định trứng ngài, nó trải qua cái giai đoạn biến chuyển khác nhau cho đến khi dậy thì; rồi
nó thụ thai đẻ trứng và lại bị phủ định, nghĩa là chết đi khi quá trình tái sinh kết thúc và khi con cái đã để lại một số
rất nhiều trứng. Chúng ta lưu ý, trong quá trình thực hiện, số lượng các bước phủ định nhiều hay ít tùy thuộc vào
tính chất của quá trình phát triển cụ thể. Lịch sử các hình thái kinh tế-xã hội chỉ ra rằng khi giai cấp ra đời và khi xã
hội có giai cấp phát triển thì tức là xã hội cũ không giai cấp bị phủ định. Dưới chế độ cộng sản văn minh sẽ không có
giai cấp nữa. Như thế nghĩa là sau khi đã hoàn toàn phát triển, bản thân xã hội có giai cấp rút cục bị phủ định. Đó là
phủ định của phủ định. Sự phủ định của phủ định ấy không làm cho chúng ta trở về điểm xuất phát đầu tiên  trở về
chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy. Nó đưa chúng ta đến điểm xuất phát mới, tức là điểm xuất phát đầu tiên đã được
nâng lên giai đoạn cao hơn bằng sự phủ định nó và sự phủ định của phủ định. Như vậy chúng ta thấy rằng trong tiến
trình phát triển, do phủ định hai lần nên giai đoạn sau có thể lặp lại giai đoạn trước, nhưng lặp lại trên trình độ phát
triển cao hơn  xã hội cộng sản không giai cấp dựa trên cơ sở tất cả những thành tích của sự phát triển trước. Qui
luật phủ định của phủ định tồn tại cả trong tư duy của con người. Ph.Ăngghen đã lấy sự phát triển của lịch sử triết
học duy vật để vạch rõ qui luật này: chúng ta biêt rằng triết học cổ đại Hy Lạp là chủ nghĩa duy vật tự phát nguyên
thủy. Vì là chủ nghĩa duy vật tự phát nên nó không thể giải thích mối quan hệ giữa tư duy và vật chất. Nhưng vì cần
phải làm rõ vấn đề đó nên về sau mới nảy ra học thuyết về linh hồn tách khỏi thân thể, về linh hồn bất diệt và sau
cùng dẫn đến nhất thần giáo. Như vậy là chủ nghĩa duy vật tự phát, nguyên thủy đã bị chủ nghĩa duy tâm phủ định.
Nhưng trong sự phát triển về sau của triết học, chủ nghĩa duy tâm tỏ ra không có căn cứ, cho nên đã bị chủ nghĩa
duy vật thời nay phủ định. Chủ nghĩa duy vật thời nay  phủ định của phủ định  không phải chỉ là sự khôi phục lại
chủ nghĩa duy vật cũ một cách đơn giản, mà trái lại, gắn liền với cơ sở bền vững của chủ nghĩa duy vật thời nay còn
có cả toàn bộ nội dung tư tưởng của hàng nghìn năm phát triển của triết học và khoa học tự nhiên, cũng như của bản
thân lịch sử hàng nghìn năm ấy. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự
thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần
phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Kế thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ việc sự vật, hiện tượng mới ra đời vẫn giữ lại có chọn lọc và cải
tạo yếu tố còn thích hợp để chuyển sang chúng; loại bỏ các yếu tố không còn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ
đang gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới. Đặc điểm của kế thừa biện chứng là duy trì các yếu tố
tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng lượt bỏ, các yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải tạo, biến đổi để
phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự quy định bởi vai trò của yếu tố phù
hợp được kế thừa; do vậy, việc giữ lại yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định làm cho sự vật, hiện tượng
mới có chất giàu có hơn, phát triển cao hơn, tiến bộ hơn. Kế thừa biện chứng đối lập với kế thừa siêu hình – là việc
đối tượng giữ lại nguyên si những gì bản thân nó đã có ở giai đoạn phát triển trước, không tự mình rũ bỏ những yếu
tố đã tỏ ra lạc hậu hết thời, không còn phù hợp, thậm chí còn ngáng đường, ngăn cản sự phát triển tiếp theo của
chính nó, của đối tượng mới. Kế thừa biện chứng đảm bảo mối dây liên hệ thông suốt bền chặt giữa đối tượng mới
với đối tượng cũ, giữa nó với quá khứ của chính nó. Trong trường hợp này những yếu tố còn tỏ ra phù hợp với đối
tượng mới từ đối tượng cũ nhưng vẫn cần phải chịu sự cải tạo mạnh mẽ cho phù hợp với bản chất mà đối tượng mới
đang tạo lập và những yếu tố mới hẳn mà đối tượng mới đang ra sức xây dựng, bổ sung, là nội dung của khâu trung
gian, của cái trung giới (Hêghen), của bước chuyển, của sự quá độ từ cũ sang mới. Trong cái trung giới chứa đựng
cả những yếu tố cũ, lỗi thời đang dần mất đi, và những yếu tố mới đang xuất hiện, đang trưởng thành và sẽ dần được
khẳng định.
Vận động, phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là quá trình quanh co phức tạp theo đường xoáy ốc đi
lên. Do vậy, đường xoáy ốc là khái niệm dùng để chỉ sự vận động của những nội dung mang tính kế thừa có trong sự
vật, hiện tượng mới nên không thể đi theo đường thẳng, mà diễn ra theo đường tròn không nằm trên một mặt phẳng
tựa như đường xoáy trôn ốc. Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng của quá trình phát triển biện
chứng ở tính kế thừa qua khâu trung gian, tính lặp lại, nhưng không quay lại và tính tiến lên của sự phát triển. Trong
đó, sự phát triển dường như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định
của phủ định. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện trình độ phát triển cao hơn và sự nối tiếp nhau các vòng
của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do mâu thuẫn bên trong của chúng
quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa giữa những mặt đối lập trong sự vật, hiện
tượng. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó, phủ định
lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ,
nhưng cũng đã mang không ít nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng
mới (ra đời do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào), nhưng về
nội dung, không phải trở lại chúng giống y như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn.
Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển vì chỉ thông qua phủ định của phủ định mới dẫn
đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy, phủ định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ phát
triển, đồng thời lại tạo ra điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo. Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ
phát triển có thể nhiều hơn hai, tuỳ theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải qua hai lần
mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, hoàn thành được một chu kỳ phát triển. Mỗi lần phủ định biện
chứng thực hiện xong sẽ mang thêm những yếu tố tích cực mới; do vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định
biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển không ngừng của sự vật, hiện tượng. Do có sự kế thừa nên phủ định biện
chứng không phải là phủ định sạch trơn, không loại bỏ tất cả các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện
cho sự phát triển, duy trì và gìn giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn
lọc, cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ đạo tiến lên như đường xoáy ốc.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mội liên hệ, sự kế thừa thông qua khâu trung gian giữa cái bị
phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều
kiện cho sự phát triển, nó lưu giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của cái
ban đầu trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không hẳn theo đường thẳng, mà theo
đường xoáy trôn ốc.
Nghiên cứu qui luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận sau: thứ nhất, quy
luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện tượng, sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính
kế thừa của sự phát triển, sau khi đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự
phát triển; thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá trình diễn ra quanh co,
phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi; thứ ba, quy luật này giúp nhận
thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất
trong sự phát triển. Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát nhưng trong xã hội, sự
xuất hiện mới đó gắn với việc nhận thức và hành động có ý thức của con người; thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới
thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ
sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực
và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng
mới.
Vận dụng với quá trình đỏi mới ở nước ta: Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn
về xu hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng
mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu
kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập
trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách thức tác động
phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ
đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Vận dụng với quá trình học tập của sinh viên :Trong giai đoạn bạn học đại học chẳng hạn: quá trình học của
bạn là quá trình tích lũy dần về lượng. Khi bạn học ở đại học , sự tích lũy này đã đạt được đủ lượng cần thiết, chỉ cần
bạn thực hiện một bước nhảy (thi tốt nghiệp ) thành công nữa là bạn trở thành sinh viên ra trường, đây là sự thay đổi
về chất. Và khi bạn đã là một sinh viênđã ra trường, có sự khác biệt lớn đối với sinh viênđại học, thì chính bạn đã
phủ định lại sv đại học .Mà trước đó, khi bạn bước vào học đại học (đại học thì bạn đã phủ định cấpba...Vậy xét
trong phạm vi từ cấp ba đến ra trường thì : đại học phủ định cấp ba, ra đại học phủ định cấp đại học, do đó đại học là
sự phủ định của phủ định). Qua mỗi cột mốc, kiến thức nạp vào sẽ phủ định cho kiến thức cũ. Để vận dụng quy luật
phủ định của phủ định vào học tập, muốn học tập ngày càng tiến bộ, ta cần thuờng xuyên đổi mới phương pháp học
tập. Khi chúng ta bỏ đi tính xấu, học tính tốt thì chính chúng ta đã thực hiện một sự phủ định rất có ý nghĩa trong
bản thân mình và cho bản thân mình. Vì ta đã tự thân vận động để thực hiện một sự thay đổi trong con người mình,
cho cuộc sống của mình.

Câu 7: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý nghĩa của quy luật đối
với sự vận động và phát triển.

Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông
qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C.Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực
tiễn mà con người phải chứng minh chân lý ”. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung
hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Trước C.Mác, một
số nhà triết học duy tâm, đặc biệt là Ph.Hêghen, đã tiếp cận được phạm trù thực tiễn, đã phát hiện ra bản tính năng
động sáng tạo của nó và đề cao nó, nhưng họ mới hiểu thực tiễn như là một dạng hoạt động sáng tạo của cái tinh
thần mà không thấy được nó là một hoạt động hiện thực, vật chất, cảm tính của con người… Trong khi đó, các nhà
triết học duy vật, kể cả L.Phoiơbắc, hiểu được tính vật chất của thực tiễn nhưng lại coi thực tiễn chỉ là hoạt động vật
chất tầm thường mang tính bản năng của con người…Vì vậy, lý luận nhận thức của họ còn mắc nhiều hạn chế, trong
đó hạn chế lớn nhất là không hiểu đúng thực tiễn, không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Khi kế
thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót của các nhà triết học tiền bối, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật biện chứng đã mang lại một cách hiểu duy vật và khoa học về thực tiễn, vạch ra vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Việc xây dựng và đưa phạm trù thực tiễn vào
lý luận là một bước ngoặt mang tính cách mạng của lý luận nói chung, lý luận nhận thức nói riêng. Vì vậy, V.I.Lênin
mới nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức” .
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Nếu hoạt động bản năng của loài vật giúp nó nó thích nghi với môi
trường, thì hoạt động thực tiễn của con người hướng đến cải tạo thế giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và vươn
lên nắm giữ vai trò làm chủ thế giới. Nếu loài vật chỉ sống bằng cách tự thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp
cho mình dưới dạng có sẵn, thì con người muốn tồn tại phải lao động tạo ra của cải vật chất để tự nuôi sống mình.
Để lao động có hiệu quả, con người phải chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn lao động,
con người đã tạo nên những vật phẩm không có sẵn trong tự nhiên nhưng cần thiết cho mình. Và thông qua lao
động, con người có quan hệ ràng buộc với nhau tạo nên cộng đồng xã hội. Nhờ vào thực tiễn, con người đã tách ra
khỏi thế giới tự nhiên, tôn vinh mình trong vũ trụ, và cũng nhờ vào thực tiễn, con người quay về sống hòa hợp với
thế giới xung quanh, để qua đó con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển. Như vậy, thực tiễn là phương
thức tồn tại của con người và xã hội loài người, là hoạt động cơ bản, tất yếu, phổ biến, mang tính bản chất của con
người, nói ngắn gọn, thực tiễn là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn được tiến hành trong các quan hệ xã hội, và luôn thay đổi cùng với quá trình phát triển của xã hội.
Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Bất cứ hình
thức hoạt động nào của thực tiễn cũng gồm những yếu tố chủ quan như nhu cầu, mục đích, lợi ích, năng lực, trình độ
của con người đang hoạt động thực tiễn và những yếu tố khách quan như phương tiện, công cụ, điều kiện vật chất
(hay tinh thần đã được vật chất hóa) do thế hệ trước để lại và điều kiện tự nhiên xung quanh. Thực tiễn có thể được
chia ra thành các hình thức cơ bản như thực tiễn sản xuất vật chất, thực tiễn chính trị – xã hội thực tiễn thực nghiệm
khoa học, và các hình thức không cơ bản như thực tiễn tôn giáo, thực tiễn đạo đức, thực tiễn pháp luật… Thực tiễn
sản xuất vật chất là hình thức hoạt động nguyên thủy nhất, cơ bản nhất; bởi vì nó quyết định sự hình thành, tồn tại và
phát triển của xã hội loài người, là cơ sở không chỉ quy định các hình thức hoạt động thực tiễn khác mà còn quy định
mọi hình thức hoạt động sống của con người, nó không chỉ cải biến tự nhiên mà còn cải tạo luôn cả bản thân con
người. Thực tiễn chính trị – xã hội là hình thức hoạt cao nhất, quan trọng nhất; bởi vì nó làm biến đổi các quan hệ xã
hội, tác động đến sự thay đổi của các chế độ xã hội loài người. Thực tiễn thực nghiệm khoa học gắn liền với sự ra
đời và phát triển của khoa học và của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nó ngày càng trở nên quan trọng;
bởi vì nó thúc đẩy mạnh mẽ các hình thức hoạt động thực tiễn khác…
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là
động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là
điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát
triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con
người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho
các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những
tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người
cần phải “đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ
khí” mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít vào những năm 40 của thế kỷ XIX
cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản
bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ
chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác
những tiềm năng bí ẩn của con người… Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không
xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa
vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy,
chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan
của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các
phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức
thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời
thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết: “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của
mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải
luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên
cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều,
máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm
chủ nghĩa.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn hay vai trò của thực tiễn trong nhận thức có ý nghĩa phương
pháp luận to lớn, đặc biệt là trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn,
phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn Thực tiễn là cái được phản
ánh, nhận thức là cái phản ánh. Để hiểu được thực tiễn dưới dạng hình tượng lôgic nhất thiết phải hình thành lý luận.
Bản thân thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Quá trình đó diễn ra có lúc tuân theo quy luật, có lúc
không, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát quá trình đó. Bám sát thực tiễn không chỉ
đơn giản phản ánh phù hợp thực tiễn đương đại mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực
tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó không
phản ánh đúng nhu cầu của thực tiễn, không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn, lý luận đó cũng sẽ bị bác bỏ.
Chính vì thế, trong học tập cũng như rèn luyện của Sinh viên hiện nay, cần phải biết bám sát thực tiễn, phản ánh
đúng yêu cầu thực tiễn để khái quát những kinh nghiệm của thực tiễn, lấy đó làm cơ sơ hình thành lý luận. Là sinh
viên cần phải năng động, sáng tạo, biết vận dụng những kinh nghiệm có trước làm tiền đề cho quá trình học tập, rèn
luyện của mình. Đó là tri thức trực tiếp góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi sinh viên sau này, lý luận phải
khái quát được kinh nghiệm của loài người thì mới có tính khoa học và sẽ đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Một
sinh viên nếu chỉ có lý luận suông trên lý thuyết sách vở mà đem áp dụng vào thực tế đời sống thì sẽ vấp phải những
sai lầm do không phù hợp với sự phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của xã hội. “Học đi đôi với hành”, nhất
thiết phải lấy thực tiễn làm kinh nghiệm hình thành lý luận. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận
dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn
mà còn là mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử luôn được lý luận khái
quát. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho
thực tiễn. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học
nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên nói riêng và của toàn xã
hội nói chung. Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của quá trình nghiên cứu
học tập của sinh viên. Không có một quốc gia nào đứng ngoài sự tác động đó. Khoa học và công nghệ là sự kế thừa
và tích hợp thành tựu của quá khứ và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu mang tính
nhân loại. Con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia chậm phát triển là tranh thủ
thời cơ, ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ để phát triển đất nước. ….
Câu 8: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ý nghĩa của quy luật đối với thực tiễn.
Mở bài 1: Nhìn vào lịch sử xã hội loài người, ai cũng thấy xã hội mỗi ngày một tiến bộ từ thấp tới cao, từ thô
sơ , đơn giản đến đa dạng và phức tạp. Nhưng muốn hiểu nguồn gốc phát triển của xã hội thì chúng ta phải tìm đến
căn nguyên kinh tế của nó; nghĩa là phải tìm xem xã hội tiến hành sản xuất như thế nào và quá trình phát triển của nó
theo dòng lịch sử ra sao? Để biết được điều đó chúng ta hãy nghiên cứu sơ qua quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Anghen mà ở đây chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa QHSX và LLSX. Kể từ khi con người mới xuất
hiện trên hành tinh đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên thuỷ; chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến; tu
bản chủ nghĩa; xã hội chủ nghĩa. Tư duy, nhận thức của loài người không dừng lại một chỗ mà theo dòng thời gian
nó phát triển ngày càng hoàn thiện hơn, từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển LLSX cũng như cơ sở sản xuất. Từ sản
xuất bằng săn bắt hái lượm, trình độ KHKT lạc hậu thì ngày nay khoa học đã đạt tới đỉnh cao trí tuệ nhân loại và
trong tương lai sẽ còn hơn thế nữa. Đặc biệt,sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa QHSX và LLSX có ảnh hưởng rất lớn
tới nền kinh tế và công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa LLSX và QHSX
tạo nên một nền kinh tế có LLSX phát triển kéo theo một QHSX phát triển,đồng thời cũng là một điều kiện tất yếu
để phát triển một nền kinh tế. Nhìn lại quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở nước ta,chúng ta nhận thấy nó xuất
phát từ trạng thái không phù hợp giữa QHSX với trình độ và tính chất phát triển của LLSX. Đứng trước thực trạng
này,Đảng ta đã quyết định xây dựng một QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay để
thúc đẩy quá trình CNH-HĐH , nhanh chóng đi lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy,nghiên cứu:”Nội dung qui luật
QHSX phù hợp với tính chất,trình độ của LLSX và những nhận thức và vận dụng qui luật này của Đảng ta trong giai
đoạn hiện nay” có vai trò rất quan trọng và mang tính cấp thiết cao.Nghiên cứu vấn đề này chúng ta còn thấy được ý
nghĩa lý luận cũng như thực tiễn của nó hết sức sâu sắc.
Với cách thức là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người
thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. PTSX là cái mà nhờ
nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất
chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định và QHSX tương ứng. Đó cũng chính là quy luật QHSX
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn
thế nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản
thân PTSX. Sự tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi của PTSX và kéo theo sự thay đổi cua toàn bộ đời sống
xã hội. Với những lý do trên, quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX có ý nghĩa hết
sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết được một QHSX có phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX hay không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và
kinh nghiệm bản thân. Với những chính sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng và
nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà
đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Lực lượng sản xuất là gì? LLSX là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và
những người lao động với kinh nghiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo
ra của cải vật chất cho xã hội. Từ thực trạng đó,lý luận về LLSX của xã hội được C. Mác đã trình bày hết sức rõ ràng
quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành LLSX của xã hội, trong đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất, linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ
sản xuất thì phải dựa vào công cụ lao động. Muốn đánh giá sự phát triển của một xã hội người ta nhìn vào hệ thống
công cụ lao động như máy móc, phương tiện... Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong LLSX chính là con người,cho
dù những tư liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh đến đâu và đối tượng lao động có phong phú như thế
nào thì con người vẫn là bậc nhất. Với cách hiểu như vậy, kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ
bản sau: Người lao động là con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao động để sản xuất ra những vật phẩm nhằm
thoả mãn nhu cầu nào đó của con người trong đời sống xã hội. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người tích luỹ
kinh nghiệm, phát minh và sáng chế kỹ thuật, nâng cao kỹ năng lao động của mình, làm cho trí tuệ của con người
ngày càng hoàn thiện hơn, do đó hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng cao. Tư liệu sản xuất là cái mà
con người sử dụng nó trong quá trình lao động sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đây là yếu
tố quan trọng không thể thiếu được của lực lượng sản xuất. Tư liệu lao động là cái do con người sáng tạo ra như
phương tiện lao động (hệ thống giao thông vận tải, kho chứa, nhà xưởng, v.v.) và công cụ lao động. Công cụ lao
động được xem là yếu tố động và cách mạng, luôn luôn được con người sáng tạo, cải tiến và phát triển trong quá
trình sản xuất, nó là “thước đo” trình độ chinh chinh phục tự nhiên của loài người và là “tiêu chuẩn” để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau. Đối tượng lao động bao gồm những cái có sẵn trong tự nhiên mà người lao động đã tác
động vào nó và cả những cái đã trải qua lao động sản xuất, được kết tinh dưới dạng sản phẩm. Sản xuất ngày càng
phát triển, thì con người phải tìm kiếm, sáng tạo ra những đối tượng lao động mới, bởi những cái có sẵn trong tự
nhiên ngày càng bị con người khai thác đến “cạn kiệt”.Trong khi con người quan hệ với tự nhiên để tiến hành sản
xuất thì con người cũng phải quan hệ với nhau và được khái quát trong phạm trù quan hệ sản xuất. Ngày nay, với
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ, lao động trí tuệ của con người đóng vai trò chủ yếu trong lực
lượng sản xuất. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất vật chất và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Những phát minh khoa học trở thành xuất phát điểm cho sự ra đời của những ngành sản xuất mới, những thiết bị
máy móc, công nghệ, nguyên, nhiên, vật liệu và năng lượng mới, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất.
QHSX là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong
quá trình sản xuất con người phải có những mối quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc
phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể thì QHSX gồm ba
mặt: quan hệ đối với sở hửu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản
phẩm sản xuất ra. Trong ba mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định đối với các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất là do con người ta quy định với nhau nhưng nội dung của nó lại
mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một ai hay một tổ chức nào. Ba mối quan hệ cơ
bản của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống tương đối ổn định so với sự vận động và phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hê sản xuất là hai mặt thống nhất trong
phương thức sản xuất, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện quy luật chung
chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một tất yếu khách quan. Sản xuất vật chất của
xã hội luôn luôn có khuynh hướng phát triển. Sự phát triển đó, xét cho đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện qua
các trình độ khác nhau. Nói đến trình độ của lực lượng sản xuất là nói đến trình độ của công cụ lao động (thủ công,
cơ khí, công nghiệp hiện đại…), trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ ứng dụng khoa
học-kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội…). Chính trình độ
của lực lượng sản xuất đã quy định tính chất của lực lượng sản xuất và được biểu hiện một cách rõ nét nhất ở sự
phân công lao động xã hội
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định và làm thay đổi quan hệ sản xuất
cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao
động lại là yếu tố động, nó luôn luôn được con người cải tiến và phát triển, đã dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất hiện có và khi ấy xuất hiện sự đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế vào đó quan hệ sản
xuất mới. Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp
trong mâu thuẫn; mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội lại tương đối ổn định (tĩnh).
Thông qua sự tác động nội tại của phương thức sản xuất đã dẫn đến quan hệ sản xuất cũ được thay thế bằng quan hệ
sản xuất mới, cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, cao hơn ra
đời. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã kết luận: “Do có được những lực lượng sản xuất mới,
loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay, đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối
xay chạy bằng máy hơi nước, đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã
chứng minh kết luận ấy. Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động còn thô sơ, chủ yếu là đồ đá, cung
tên, với người lao động chỉ biết săn bắt, lượm hái thì con người muốn duy trì sự sống, chống lại những tai hoạ của tự
nhiên họ phải lao động sản xuất theo cộng đồng, do đó quan hệ sản xuất lúc này phải là quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ công xã nguyên thủy. Song, loài người, vì sự tồn tại và phát triển của mình họ phải tìm cách cải tiến công cụ
lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Sự ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người lao động đã
biết trồng trọt và chăn nuôi, sản xuât theo từng gia đình có năng suất lao động cao hơn, loài người bắt dầu sản xuất
ra những sản phẩm thặng dư, do đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã nguyên thủy tan rã và quan hệ sản xuất
mới dựa trên chế độ tư hữu chủ nô ra đời. Khi công cụ lao động bằng máy móc công nghiệp ra đời cùng với người
lao động là những người công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, phân công lao động đã mang tính xã hội. Trong sự
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một mặt quan hệ sản xuất luôn luôn do trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất quy định, nhưng mặt khác, bản thân quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối so với lực
lượng sản xuất. Điều này được thể hiện trong sự tác động trở lại của nó đến lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
quy định mục đích xã hội của sản xuất, quy định xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành những
khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động biện chứng này đã diễn ra như là
một quy lật chung chi phối toàn bộ sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Ngược lại QHSX luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi
trạng thái của LLSX , bởi tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. QHSX chỉ có thể mở đường cho
LLSX phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó,nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn
giữa QHSX và LLSX. LLSX quyết định sự hình thành biến đổi của QHSX,LLSX là cái biến đổi đầu tiên và luôn
biến đổi trong sản xuất.Con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc, tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải
tiến công cụ lao động,chế tạo ra công cụ lao động mới. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX. QHSX khi đã
được xác lập thì nó độc lập tương đối với LLSX,trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến
đổi đồng thời đối với LLSX. QHSX thường lạc hậu so với LLSX và nếu QHSX phù hợp với trình độ sản xuất, tính
chất của LLSX thì nó thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Nếu lạc hậu so với LLSXdù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát
triển của LLSX. Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX vì nó qui định mục đích của sản xuất,
qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay
nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó, nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động, tạo ra những
điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản
xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tính quy luật này cũng tác động mạnh mẽ vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ
có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Còn quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc “tiên tiến”
(theo ý muốn chủ quan của con người) hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đường lối đó
xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng đều nên chúng ta không thể nóng
vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa so với lực lượng sản xuất vốn có của chúng ta. Vì vậy, thực
hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra
trong công cuộc đổi mới đất nước là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động,
kích thích lợi ích… đối với các chủ thể lao động trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển
theo đúng mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “Phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý
và phân phối”. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất thì điều cần thiết và có
tính quyết định là chúng ta phải phát triển lực lượng sản xuất. Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì không có con
đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã khẳng định: “về thực chất, công nghiệp
hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan niệm ấy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy vấn đề then
chốt của quá trình này ở một nước nông nghiệp lạc hậu là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ
thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Song, đó không chỉ là sự tăng
thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình
chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp với những bước tiến tuần tự
về công nghệ, tận dụng để phát triển chiều rộng, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu để phát triển chiều
sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học, công nghệ trong khu vực và trên thế giới. Như
vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức tạp, được triển khai đồng thời
với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với quá trình hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy
phải thật sự lấy phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát triển giáo dục -
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực
của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh”.

Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến
trình lịch sử nhân loại.Tuy nhiên ,không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó,vì vậy phải nắm bắt tốt quy luật
thì chúng ta mới có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể.

Câu 9:

Trong quá trình nghiên cứu xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ nghiên cứu xã hội thông qua mối quan hệ
biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà còn nghiên cứu cả những quan hệ khác. Trong đó mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng được xem là một quy luật chung chi phối sự
vận động và phát triển của xã hội loài người.

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Trong
một xã hội, có thể tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ
sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của một xã hội tương lai. Cơ sở hạ tầng chính là sự
tổng hợp của các quan hệ sản xuất ấy, trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối
các quan hệ sản xuất khác. Do đó, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, bên cạnh những quan hệ sản xuất tàn dư và
quan hệ sản xuất mầm mống thì quan hệ sản xuất thống trị vẫn là đặc trưng cơ bản của xã hội ấy.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, v.v. cùng với những thể chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v.
được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy
luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà tác đọng qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ
tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau như đối
với cơ sở hạ tầng của nó. Các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn các yếu tố khác
như triết học, nghệ thuật, tôn giáo chỉ liên hệ gián tiếp với nó. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang
tính giai cấp sâu sắc. Đó là cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng của các giai cấp thống trị đối kháng. Nó bao gồm hệ
tư tưởng và các thể chế của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm xã hội trước để lại; quan điếm và các tổ
chức của các bị trị mới ra đời; quan điểm tư tưởng và tổ chức của các tầng lớp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của kiến trúc thượng tầng trong một hình thái xã hội nhất định. Bộ
phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là nhà nước – bộ máy tổ
chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng không
tách rời nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng phản
ánh cơ sở hạ tầng, nó có vai trò to lớn trong việc tác động trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Trong sự thống nhất
biện chứng này, sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng đối với kiến trúc thượng tầng . Kiến trúc
thượng tầng phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, hay cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc
thượng tầng ấy. Quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra như sau: Khi cơ sở hạ tầng
phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút, thì nó đòi hỏi phải kéo thao sự thay đổi về kiến trúc
thượng tầng. Quá trình này không chỉ đơn thuần là sự biến đối của một hay nhiều bộ phận mà là sự biến đổi của cả
một hình thái kinh tế chính trị và hình thái kinh tế chính trị chiếm ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn lịch sự này, trong
giai đoạn đó thì thì cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng dung hòa với nhau hay đạt được giới hạn độ. Tại đây, cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tác động biện chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự thay đổi tuần tự về cơ sở
hạ tầng nhưng tại đây kiến trúc thượng tầng chưa có sự thay đổi. Cơ sở hạ tầng của mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu
thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến quá trình đáo thải. C.Mác nói: “Nếu không có phủ định của những hình thức tồn tại
đã có trước thì không thể có sự phát triển trong bất cứ lĩnh vực nào”. Chính vì có sở hạ tầng cũ được thay thế bằng
cơ sở hạ tầng mới bao hàm những mặt tích cực, tiến bộ của cái cũ được cải tạo, đi trên những nấc thang mới. Chính
vì cơ sở hạ tầng thường xuyên vận động như vậy nên kiến trúc thượng tầng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển của cơ sở hạ tầng. Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai mặt
của đời sống xã hội và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể.
Không như các quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của các quan hệ kinh tế bằng những nguyên nhân thuộc về
ý thức, tư tưởng hay thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền, trong Lời tựa tác phẩm Góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị, C.Mác đã khẳng định: “không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình
thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và
hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật
chất”.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở hạ tầng gữ vai trò
quyết định kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện
trên nhiều phương diện: Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng, nội dung và tính
chất là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Tương ứng với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng
phù hợp, có tác dụng bảo vệ cho cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Sự biến đổi của kiến trúc tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở
hạ tầng này thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự thủ tiêu, cơ sở hạ tầng cũ bị xóa
bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới, thì sự thống trị cũ bị xóa bỏ và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó
mà sự thống trị của giai cấp thay đổi, bộ máy nhà nước mới được thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội cũng
được biến đổi. Trong xã hội có đối kháng giai cấp , sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra do
cuộc đấu tranh gây go, phức tạp giữa gai cấp thống trị và giai cấp bị trị, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Những
biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng
lực lượng sản xuất trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và sự biến đổi của cơ sở hạ tầng lại làm cho kiến
trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Trong xã hội có giai cấp giai cấp thống trị nào thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đói với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ cơ sở hạ tầng thay đổi thì
sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều nhanh chóng ”. Sự thay đổi đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi
từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi quá
trình hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng, và quá trình
này diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự
thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật v.v… Nhưng cũng có yếu tố thay đổi chậm chạp như tôn giáo,
nghệ thuật, hoặc có những yếu tố tiếp tục tồn tại dai dẳng ngay cả khi cơ sở kinh tế sinh ra nó không còn tồn tại, và
có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó
thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định đối với kiến trúc thượng tầng;
kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng. Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng
có nguyên nhân từ tính tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn
pháp luật,… hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu
cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuất khách quan của xã hội. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với
kiến trúc thượng tầng không chỉ biểu hiện trong giai đoạn chuyển đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái
kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Khi có sự biến đổi căn bản
trong cơ sở hạ tầng thì cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Trong quan hệ bịên chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định như đã phân tích ở trên. Song,
đến lượt nó, các yếu tố cấu thành của kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động,
phát triển của nó và tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có
cách thức tác động khác nhau, ví dụ: trong xã hội có giai cấp thì nhà nước, pháp quyền là yếu tố tác động mạnh nhất
đối với cơ sở hạ tầng. Còn các yếu tố khác như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v. cũng đều có sự tác động
đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước và pháp quyền chi phối. Song, sự tác động của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng luôn diễn ra theo hai khuynh hướng khác nhau. Nếu kiến trúc thựơng tầng phản ánh đúng,
phù hợp với cơ sở hạ tầng, với các quy luật kinh tế thì nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh
hơn; ngược lại, nếu cơ sở hạ tầng phản ánh sai, không phù hợp với các quy luật kinh tế thì nó sẽ kìm hãm sự phát
triển kinh tế và phát triển xã hội. Tuy kiến trúc thượng tầng có sự tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng xét cho đến cùng nhân tố kinh tế vẫn đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: Với tư cách là các hình thức phản ánh và
được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của
nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối
với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức. Điều đó tùy thộc vào bản chất của mỗi yếu tố trong kiến trúc
thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Kiến trúc thượng tầng là bộ phận cấu
thành hình thái kinh tế - xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích
cực được thế hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng, tức là luôn luôn bảo vệ, duy trì, củng cố và hoàn
thiện cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó; đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tấng đã lỗi thời, lạc hậu. Kiến trúc
thượng tầng tìm cách để xóa bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm
mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai
cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng đảm bảo sự thống trị chính trị và thống trị của giai cấp giữ địa vị thống trị trong
kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng thì cơ sở kinh tế của nó sẽ
không đứng vững được. Vì vậy, cơ sở thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị
thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội. Trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì
phương thức tác động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua yếu tố nhà nước mới
có thể thực sự được phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của nó. Nhà nước là yếu tố tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ
nhất tới cơ sở hạ tầng của xã hội. Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu
hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi
ích giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng
đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình quyền kiểm soát kinh tế của xã hội.
Sử dụng quyền lực nhà nước giai cấp thống trị sẽ củng cố nền kinh tế, tăng cường sự ảnh hưởng của mình về kinh tế
trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được vững mạnh. Do đó có điều kiện củng cố vững chắc hơn
địa vị kinh tế của giai cấp thống trị, cứ như thế sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ
tầng đem lại sự phát triển hợp quy luật kinh tế và chính trị. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v.. cũng đều tác động tới cơ sở hạ tầng nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi
phối. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng tới cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai xu hướng: tích cực và tiêu cực. Nếu
kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế
phát triển. Còn nếu tác động ngược lại thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức
độ nhất định. Nhưng dù tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,kiến trúc thượng tầng vẫn không làm thay
đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với
kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này
hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế
phát triển.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà
còn phải quán triệt và vận dụng một cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng.Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình
thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn
thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu
kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ
sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất
thiết phải đa đảng và đa nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi
mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá
các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc…
nhằm tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đổi mới kinh tế
là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi
cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn
định chính trị để đổi kinh tế một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội – đó là phương diện
kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động
lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng đồng thời kiến trúc thượng
tầng thường xuyên tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, dù kiến trúc thượng tầng diễn ra với những xu hướng
khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rốt cuộc nó vẫn không giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng của xã hội.
Cơ sở hạ tầng của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.
Câu 10: Tồn tại xã hội, ý thức xã hội. Nêu ý nghĩa của quy luật đối với sự vận động phát triển.
Ý thức xã hội là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao phản ánh thực tại khách
quan ,hình thức mà riêng con người mới có .Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nền
kinh tế nước ta đi từ một điểm xuất phát thấp ,chúng ta phái làm gì để tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đăt cho mỗi chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên
để phát triển kinh tế, như vậy chúng ta cần có tri thức vì tri thức là khoa học .Tuy nhiên chỉ chú trọng vào tri thức mà
bỏ quên công tác văn hóa tư tưởng thì sẽ không phát huy được sức mạnh của truyền thống dân tộc Hiện nay nước ta
đang trên con đường xây dưng xã hội chủ nghĩa cho nên việc tìm hiểu các hình thái ý thức xã hội ,tồn tại xã hội là rất
cần thiết .Ngoài ra nước ta đang phát triển một nền kinh tế thị trường, đất nước ngày càng mở cửa vì thế cho nên
chúng ta có cơ hội được tìm hiểu các nền văn hóa của các nước ,tuy nhiên đó cũng là một phần lý do dẫn đến những
vấn đề không tốt của tâm lý xã hội của con người Việt Nam hiện nay Chính vì vậy em muốn được tìm hiểu thêm về
quy luật “Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vận dụng thực tiễn của bản thân”.

Tồn tại xã hội là toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội (bao gồm phương thức sản xuất, điều kiện tự
nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số… trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất)
được đặt trong phạm vi hoạt động thực tiễn (hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động
thực nghiệm khoa học). Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội bao gồm những quan điểm, tư tưởng,
tình cảm, thói quen v.v. của cộng đồng xã hội được hình thành trên cơ sở của tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,bao gồm toàn bộ những quan điểm,tư tưởng cùng những
tình cảm tâm trạng ,… của những cộng đồng xã hội ,nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển nhất định Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội ,ý thức xã hội bao gồm những
lĩnh vực khác nhau : ý thức chính trị,ý thức pháp quyền,ý thức đạo đức ,ý thức tôn giáo ,ý thức thẩm mỹ… Theo
trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức luận Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ
những tri thức , những quan niệm của nhưng con người trong một cộng đồng người nhất đinh ,được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt đông thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa ,khái niệm hóa thành lý luận .Theo ý thức
xã hội thông thường ,tâm lý xã hội là một phận xã hội quan trọng . Ý thức xã hội thông thường thường phản ánh sinh
động trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người ,thường xuyên chi phối cuôc sống đó. . Ý thức lí luận
là những tư tưởng đã được hệ thống hóa , khái quát hóa thành những học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng
những khái niệm ,phạm trù ,quy luật … .Ý thức lí luận có khả năng đánh giá hiện thực khoa học một cách khái quát
và sâu sắc và chính xác ,vạch ra những mối liên hệ về bản chất của các sự vật và hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội vá ý thức xã hội Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng: tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội ,ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội , phụ thuộc vào tồn tại xã hội .Mỗi khi
tồn tạ xã hội ,nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì tư tưởng và lý luận xã hội,những quan điểm về chính trị,
pháp quyền ,triết học ,đạo đức ,văn hóa nghệ thuật …sớm muộn sẽ biến đổi theo. Các cặp phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã
hội, là sự sản xuất của cải vật chất và những quan hệ của con người trong quá trình sản xuất ấy. Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Ý thức xã hội là phản ánh của tồn tại xã hội, bao gồm nhiều trình độ khác nhau (ý thức thông
thường, ý thức lí luận) và nhiều hình thái khác nhau (chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học,
khoa học, v v.). Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, nhưng có tính độc lập tương đối của nó, thể hiện trên
những nét cơ bản là : Có tính kế thừa, có lôgic phát triển nội tại, có sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã
hội. Ý thức khoa học, tiến bộ có thể dự báo triển vọng của xã hội, cũng có thể cải tạo tồn tại xã hội thông qua thực
tiễn của con người; ngược lại, ý thức sai lầm, lạc hậu, có thể xuyên tạc, kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội.Triết học Mác – Lênin khẳng định vật chất quyết định ý thức,
nhưng ý thức lại tác động trở lại đối với vật chất, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng
điều này vào xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội lại tác động trở lại đối với tồn tại
xã hội. Khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội – đó là quan điểm duy vật về lịch sử -
đây là công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng
quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên trong lịch sử triết học, các ông đã giải quyết một cách khoa học vấn đề
hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cho nên không được tìm
nguyên nhân những biến đổi của đời sống tinh thần của xã hội ngay trong bản thân đời sống tinh thần mà phải tìm nó
trong đời sống vật chất của xã hội, trước hết là trong quan hệ kinh tế giữa con người với con người. Khi quan hệ
kinh tế biến đổi thì tất cả những tư tưởng xã hội như: chính trị, triết học, pháp luật, đạo đức v.v. sớm muộn sẽ biến
đổi theo. Cứ tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, nếu
chúng ta thấy có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác nhau thì chính là do những điều kiện khác nhau của
đời sống vật chất của xã hội quyết định. Tồn tại xã hội không quyết định ý thức xã hội một cách giản đơn, trực tiếp
mà thường thông qua các khâu trung gian. Trong thực tế, không phải bất kỳ quan điểm, tư tưởng hay lý luận nào
cũng phản ánh một cách trực tiếp và rõ ràng các quan hệ kinh tế của thời đại. Chỉ khi nào chúng ta xét cho đến cùng
thì các mối quan hệ kinh tế của thời đại mới được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng, quan
điểm ấy. Do vậy, khi xem xét sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ
biện chứng chứ không nên cứng nhắc.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Mặc dù ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã
hội quyết định, nhưng ý thức xã hội không phải là yếu tố thụ động, hoàn toàn phụ thuộc vào tồn tại xã hội; trái lại, ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó tác động tích cực trở lại đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội được biểu hiện ở những điểm sau đây: Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Tính lạc hậu
của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thể hiện ở chỗ khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức
xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Sở dĩ như vậy bởi vì các nguyên nhân sau đây: Một là, do sự biến
đổi của xã hội diễn ra quá nhanh, ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Mặt khác, ý thức xã hội là sự
phản ánh của tồn tại xã hội nên chỉ khi nào tồn tại xã hội đã biến đổi thì ý thức xã hội mới biến đổi theo. Hai là,
trong lĩnh vực tâm lý xã hội, những thói quen, tập quán, truyền thống v.v… đã được tạo ra qua nhiều thế kỷ nó có ỳ
ghê gớm không thể ngay một lúc có thể thay đổi được. Ba là, xuất phát từ lợi ích giai cấp, các giai cấp, nhóm hay tập
đoàn người phản tiến bộ tìm cách lưu giữ, truyền bá những tư tưởng cũ, lạc hậu, nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp và
chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. Vì những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng, cho nên
trong quá trình xây dựng xã hội mới, giai cấp cách mạng phải tăng cường công tác tư tưởng, kiên quyết đấu tranh
xoá bỏ những tàn dư tư tưởng cũ, lạc hậu, đồng thời ra sức xây dựng và phát huy những truyền thống tư tưởng tốt
đẹp, tiến bộ.
Ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội. Trong khi khẳng định ý thức xã hội thường lạc hậu so
với tồn tại xã hội triết học Mác – Lênin đồng thời khẳng định rằng, trong những điều kiện nhất định, một bộ phận
của ý thức xã hội là những tư tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, hướng dẫn,
chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn của con người, dự báo các khả năng xảy ra trong tương lai, để từ đó đề ra những
nhiệm vụ mới phải giải quyết do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Ý thức xã hội có
tính kế thừa trong sự phát triển của nó. Ý thức xã hội là cái chung nó được thể hiện ra thông qua những cái riêng là
các hình thái ý thức xã hội cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, khoa học, nghệ thuật v.v.. Tất cả các
hình thái ý thức xã hội một mặt phản ánh tồn tại xã hội trực tiếp, nhưng mặt khác, nó có tính kế thừa lịch sử trong sự
phát triển của mình. Ví dụ: Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực
tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Trong xã hội
có giai cấp, các giai cấp khác nhau thường kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai
cấp tiên tiến thì tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ, những truyền thống tốt đẹp của xã hội cũ, còn các giai cấp
lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những lý thuyết, những tư tưởng phản tiến bộ của xã hội
cũ để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình.
Các hình thái ý thức xã hội tác động qua lại trong sự phát triển của chúng. Các hình thái ý thức xã hội đều có
quy luật phát triển riêng nội tại và đều phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong quá trình phát triển, giữa chúng luôn có
sự tác động qua lại, ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau. Ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể có những hình thái ý
thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Trong sự tác động lẫn nhau giữa các
hình thái ý thức thì ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Thông thường ý thức chính trị của giai cấp cách
mạng, tiến bộ sẽ đóng vai trò định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội
quyết định, nhưng ý thức xã hội lại tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội. Nếu ý thức xã hội là khoa học, đúng đắn,
tiến bộ phù hợp với tồn tại xã hội thì nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý thức xã hội không
đúng đắn, không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã cho chúng ta
thấy bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội và của đời sống tinh thần của xã hội nói chung, nó bác bỏ
các quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật :Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biên
chứng của đời sống xã hội . Cần thấy rằng ,thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã
hội ,mặt khác ta cũng thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to
lớn trong đời sống tinh thần của xã hội ,mà ngược lại ,những tác động của đời sống tinh thần xã hội ,với những điều
kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ ,sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ,một măt
phải coi trọng cuộc cách mang tư tưởng văn hóa ,phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối
với quá trình phát triển kinh tế vàcông nghiêp hóa ,hiện đại hóa đất nước ;mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí trong việc xây dưng văn hóa ,xây dựng con người mới .Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng
được đời sống tinh thần của xã hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền
thống và xác lập ,phát triển được phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự công nghiệp
hóa ,hiện đại hóa.

Câu 11: Khái niệm con người, bản chất con người. Ý nghĩa quy luật đối với sự vận động phát
triển.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc
và bản chất của con người. Trước Các Mác, vấn đề bản chất con người chưa được giải đáp một cách khoa h ọc. Khi
hình thành quan niệm duy vật về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm
nên lịch sử của con người. B ằng sự phát triển sự phát triển toàn diện thì con người vừa là mục tiêu v ừa là động lực
phát triển lực lượng sản xuất. Khi lực lượng s ản xuất càng phát triển thì khả năng chiếm lĩnh và sử dụng các lực
lượng tự nhiên ngày càng cao hơn, con người tạo ra ngày càng nhiều hơn cơ sở vật chất cho bản thân mình, đồng
thời từ đó thúc đẩy con người tự hoàn thiện chính bản thân họ. Với quan điểm như vậy thì chủ nghĩa Mác đã kết
luận: con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quy ết đ ịnh trong sự phát triển
của lực lượng sản xuất, mà nó còn là ch ủ th ể của quá trình l ịch sử, của tiến bộ xã hội. Đặc biệt khi xã hội loài ng
ười phát tri ển đ ến trình đ ộ nền kinh tế tri thức thì vai trò của con người đặt biệt quan trọng, vì con người tạo ra tri
thức mới, chứa dựng những tri thức mới.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự
nhiên và xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự
nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc
nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan
trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành vi và hoạt động
sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây: Thứ nhất, con người là kết quả của quá
trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn
bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của
các loài. Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của
con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp
thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con
người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi
trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người,
loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới
tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của
các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội
nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
Bản tính xã hội của con người được phân tích lừ các gíac độ sau đây: Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình
thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc
xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt
qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác -
Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều
chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ. Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn
luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi
tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xà
hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ
ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy định lẫn nhau, tác động
lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra
lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên
hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai
lầm trong nhận thức và thực tiễn.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, "bản tính người" của con
người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí.
Trong tác phâm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm
mới của mình "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội".
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện
tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn
bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật biện chứng về con người
trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ
đó phát hiện bản tính xã hội của nó.
Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách
"người", phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một
thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương
diện tính hiện thực của nó, chính là "tổng hòa những quan hệ xã hội", bởi vì xã hội chính là xã hội của con người,
được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con
người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình
thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương diện
bản tính tự nhiên, người da đen" vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội
chiếm hữu nô lệ anh ta mới bị biến thành "người nô lệ", còn trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta
là "người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như thế không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da
đen hay da trắng, nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những điều kiện lịch sử
xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì cũng tạo sự thay đổi bản chất của con người. Vì vậy, giải phóng bản
chất con người cần phải hướng vào sự giài phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua
đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế
về năng lực sáng tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ, trái lại cần
phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế, chính tri, văn hóa của xã hội
tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con
người trong chừng mực nào thì con nguời lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của
mối quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi
chính lịch sừ đó. Từ đó có thể thấy, hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính
là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ
sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác đã khẳng
định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái
học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải
được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một
lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của
chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch
sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng
cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu".
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn,
tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con
người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ dơn thuần từ phương diện
bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ
những quuan hệ kinh tế - xã hội của nó. Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng
lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát
huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Ba là, sự nghiệp giải phóng con người
nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế -
xãhội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó, có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng
sáng tạo lịch sử của con người. Cuộc cách mạng đó cũng thực hiện sự nshiệp giải phóng toán nhân loại bane phương
thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập và phát triển một
xã hội mà tự do và sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính
là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: "mỗi người vì mọi người,mọi người vì
mỗi người".
Thông qua việc nghiên cứu lý luận, ta có thể vận dụng và phát triển sang tạo học thuyết Mác về con người và
bản chất con người vào thực tiễn, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh,
điều kiện xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phát triển con người Việt Nam - “con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” - vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Phát triển con người Việt Nam - đó cũng chính là động lực,
là mục tiêu nhân văn, là nền tảng, cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân Việt Nam từng bước
thực hiện. Với thực tiễn Việt Nam hiện nay, với bối cảnh quốc tế hiện thời, để phát triển con người Việt Nam, để bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát huy nguồn lực con người, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Việt
Nam cần phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo thực sự trở thành “quốc sách hàng
đầu”, trở thành nền tảng và động lực; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; đặc biệt
là khi quá trình hiện đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia
đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Chính vì thế mà mọi kế
hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư
cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Suy cho cùng, nhân tố con người và bản chất con người đóng vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp phát triển đất nước nói riêng và phát triển thế giới nói chung.

You might also like