Tài Liệu Diễn Đàn Kinh Tế Tp. Hcm 2023

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 306

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1
LỜI NÓI ĐẦU
Diễn đàn Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (HEF) là sự kiện quốc tế thường
niên do Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì tổ chức, nhằm mục tiêu tiếp
nhận các ý kiến đóng góp của các diễn giả, chuyên gia trong nước và quốc tế về các
lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội; các đề án, mục tiêu, chương trình trọng điểm của
Thành phố.
Diễn đàn Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 4 năm 2023 (HEF 2023) là
sự kiện quốc tế lớn với chủ đề “Tăng trưởng xanh: Hành trình hướng tới giảm
phát thải ròng bằng không” dự kiến có sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ, Lãnh
đạo các Bộ ngành Việt Nam; 1,200 đại biểu gồm: Bộ ngành, địa phương quốc tế, các
định chế tài chính quốc tế (World Bank, IMF, IFC, ADB...), các tổ chức Quốc tế
(WEF, UNDP,…), các nhà quản lý và Lãnh đạo các địa phương quốc tế đến từ các
quốc gia, đại diện các cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự, các doanh nghiệp, các
chuyên gia trong nước và quốc tế tại các quốc gia thành công trong việc áp dụng tăng
trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn.
Tập tài liệu HEF 2023 là ấn phẩm của Ban Tổ chức tập hợp thông tin, bài thuyết
trình và bài viết của các Bộ ngành, địa phương quốc tế, định chế tài chính, tổ chức,
chuyên gia trong nước và quốc tế xoay quanh các nhóm nội dung: (i) Xu hướng phát
triển tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn đối với các siêu đô thị; (ii) Xây dựng hệ
sinh thái của mô hình kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh hướng tới mục tiêu giảm phát
thải bằng không; (iii) Chính sách trong xây dựng tăng trưởng xanh hướng tới mục tiêu
giảm phát thải bằng không và sứ mệnh của doanh nghiệp; (iv) Nguồn lực trong phát
triển kinh tế tuần hoàn hướng tới mục tiêu giảm phát thải bằng không và sứ mệnh của
doanh nghiệp; (v) Bài học, kinh nghiệm quốc tế thúc đẩy tăng trưởng xanh và kinh tế
tuần hoàn; (vi) Thực trạng của Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp trong quá trình
áp dụng mô hình tăng trưởng xanh.
Ban Tổ chức HEF 2023 trân trọng cảm ơn và tri ân tất cả diễn giả, chuyên gia,
khách mời đã dành thời gian tham gia Diễn đàn, đồng thời mang đến những ý kiến,
nhận định, kinh nghiệm quý báu của mình đóng góp cho Diễn đàn năm nay nói riêng,
cũng như mục tiêu tăng trưởng xanh của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung. Tất cả ý
kiến đóng góp và bài viết trong Tài liệu này sẽ là kho thông tin quan trọng, có giá trị
tham khảo quý giá đối với Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định chính
sách và tổ chức thực hiện các mục tiêu, kế hoạch đã đề ra của Thành phố.
Trân trọng./.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2023

Ban Tổ chức
Diễn đàn Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 2023.

2
CHƯƠNG TRÌNH CHI TIẾT
DIỄN ĐÀN KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2023
Chủ đề: “Tăng trưởng xanh - Hành trình hướng tới giảm phát thải ròng bằng không”
Thời gian: Ngày 13 - 17 tháng 9 năm 2023
Thời gian Nội dung Chương trình chi tiết
Thứ Tư, ngày 13/9/2023
Cả ngày Đón khách VIP quốc tế và chuyên gia tham dự Diễn đàn.

16:00 – 17:30 Khai mạc triển lãm các sản phẩm, dịch vụ tăng trưởng xanh và tham quan
triển lãm tại phố đi bộ Nguyễn Huệ.
17:30 – 20:30 Lễ trao danh hiệu “Doanh Nghiệp Xanh” cho các doanh nghiệp Thành phố và
tiệc chiêu đãi tại Khách sạn REX.
Thứ Năm, ngày 14/9/2023
Chương trình Talkshow ghi hình cho các chuyên gia, diễn giả trong nước và
Buổi sáng quốc tế tại Đài truyền hình Thành phố.
Giao lưu chuyên gia quốc tế với sinh viên tại Đại học Quốc gia Thành phố:
Gặp gỡ giữa Lãnh đạo Thành phố và các đoàn VIP quốc tế, các chuyên
13:30-17:30 gia trong nước và quốc tế, các tổ chức tài chính và chương trình gặp gỡ
100 CEO của các tập đoàn áp dụng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
13:30 - 14:00: Chương trình nhạc cụ dân tộc chào đón khách.
14:00 - 14:10: Tea Connect - biểu diễn nghệ thuật “Mời trà” và giới thiệu về
trà Việt.
14:10 - 14:20: Phục vụ trà cho khách mời.
14:20 - 14:25: MC tuyên bố lý do và giới thiệu đại biểu.
14:25 - 14:40: Ông Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư
Thường trực Thành Ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố phát biểu chào
mừng.
14:40-17:30: Ông Võ Văn Hoan, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố
điều phối phần phát biểu và thảo luận, trao đổi giữa lãnh đạo thành phố và các
chuyên gia, CEO trong nước và quốc tế.
17:30 - 17:45: Kết luận của Ông Phan Văn Mãi, Uỷ viên Trung ương Đảng,
Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố.
17:45 - 18:00: MC dẫn chương trình kết thúc buổi gặp gỡ. Chụp hình lưu niệm.
18:00 - 20:00 Tiệc tối.

Thứ Sáu, ngày 15/9/2023


I. Phiên khai mạc
7:30 - 8:00 Tiếp đón đại biểu.
8:00 - 8:20 Trình chiếu clip Diễn đàn và giới thiệu đại biểu
8:20 - 8:50 Phát biểu khai mạc Diễn đàn của Thủ tướng Chính phủ.

3
8:50 – 9:05 Phát biểu của Ông Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh.
9:05 – 9:10 Phát biểu của ông Jan Jambon, Bộ trưởng-Thủ hiến Chính phủ, kiêm Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao, Văn hóa, Công nghệ Thông tin và Quản lý cơ sở vật chất Vùng
Flanders, Bỉ.
Các báo cáo chính: (6 báo cáo, mỗi báo cáo 10 phút)
9:10 - 9:20 Báo cáo 1: Xu hướng phát triển tăng trưởng xanh và Ông Jeremy Jurgens,
kinh tế tuần hoàn đối với các siêu đô thị. Giám đốc điều hành
Diễn đàn Kinh tế Thế
giới (WEF).
9:20 - 9:30 Báo cáo 2: Xây dựng hệ sinh thái của mô hình kinh Ông Yasuo Takahashi,
tế tuần hoàn trong bối cảnh hướng tới mục tiêu giảm Nguyên Thứ trưởng Bộ
phát thải ròng bằng không. Môi trường Nhật Bản,
Giám đốc điều hành
Viện chiến lược môi
trường toàn cầu (IGES).
9:30 - 9:40 Báo cáo 3: Chính sách trong xây dựng tăng trưởng Bà Tôn Minh, Phó Chủ
xanh hướng tới mục tiêu giảm phát thải rồng bằng tịch thường trực Nhân
không và sứ mệnh của doanh nghiệp. Đại Thành phố Thượng
Hải.
9:40 - 9:50 Báo cáo 4: Nguồn lực trong phát triển kinh tế tuần Ông Sebastain Eckardt,
hoàn hướng tới mục tiêu giảm phát thải ròng bằng Giám đốc Khối Kinh tế
không và sứ mệnh của doanh nghiệp. Vĩ mô, Thương mại và
Đầu tư, Ngân hàng Thế
giới (WB), Khu vực
Châu Á - Thái Bình
Dương.
9:50 – 10:00 Báo cáo 5: Bài học, kinh nghiệm quốc tế thúc đẩy Ông Herlevi Kari,
tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn. Trưởng phòng hợp tác
toàn cầu về các giải pháp
bền vững, Quỹ Đổi mới
Phần Lan (SITRA).

10:00 – 10:10 Báo cáo 6: Thực trạng của Thành phố Hồ Chí Minh Ông Phạm Bình An, Phó
và giải pháp trong quá trình áp dụng mô hình tăng Viện trưởng Viện
trưởng xanh. nghiên cứu phát triển
Thành phố.
10:10 – 10:25 Giải lao và chụp hình lưu niệm
10:25 - 11:25 Phát biểu của Lãnh đạo Bộ ngành Trung ương Việt Nam.
11:25 – 11:35 Nghi thức công bố và trao Tuyên bố chung về hợp tác giữa Tp. Hồ Chí Minh
và Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF).
11:35 - 12:05 Phát biểu chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
12:05 - 12:20 Phát biểu tiếp thu và định hướng thảo luận cho các phiên buổi chiều của Ông
Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành Ủy,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
12:20 - 13:30 Tiệc trưa.

4
II. Các phiên thảo luận song song
Hội trường lầu 1 Hội trường lầu 2 Hội trường
(chủ đề 1) (chủ đề 2) lầu 3
(chủ đề 3)
- Lãnh đạo chủ trì: Phó Chủ - Lãnh đạo chủ trì: Phó Chủ - Lãnh đạo chủ
tịch UBND thành phố Võ tịch UBND thành phố Bùi trì: Phó Chủ
Văn Hoan. Xuân Cường. tịch UBND
- Đơn vị chủ trì: Viện nghiên - Đơn vị chủ trì: Hiệp hội thành phố
cứu phát triển Doanh nghiệp Thành phố Dương Anh
- Đơn vị phối hợp: - Đơn vị phối hợp: Đức.
+ Sở Ngoại vụ;. + Sở Ngoại vụ; - Đơn vị chủ
+ Sở Khoa học và Công + Đại học Quốc gia Thành trì: Đại học
nghệ; phố; quốc gia
+ Sở Tài nguyên và Môi + Công ty Đầu tư Tài chính Thành phố Hồ
trường. nhà nước Thành phố Chí Minh.
(HFIC).
13:30 - 16:30 Chủ đề 1: Hệ sinh thái của mô Chủ đề 2: Giải pháp thúc đẩy Chủ đề 3: Hợp
hình kinh tế tuần hoàn, tăng doanh nghiệp tăng trưởng tác KTTH khu
trưởng xanh - Kinh nghiệm xanh, áp dụng mô hình kinh vực châu Á –
trong nước và quốc tế nhằm tế tuần hoàn hướng tới phát Thái Bình
hướng tới mục tiêu giảm phát triển bền vững cho một siêu Dương.
thải ròng bằng không. đô thị.

14:30 – 15:50 III.Chương trình “Hợp tác kinh tế song phương Việt Nam và
Flanders,Vuơng quốc Bỉ về xây dựng thành phố bền vững , thích ứng
điều kiện khí hậu” tại khách sạn REX
IV. Gặp gỡ báo chí
16:30 – 17:00 Gặp gỡ báo chí công bố kết quả của Diễn đàn tại Hội trường Thành phố.
V. Phiên Tổng kết và Gala
1. Phiên Tổng kết
17:00 – 17:10 Chiếu clip Tổng kết quá trình chuẩn bị, tổ chức và kết quả Diễn đàn.
17:10 – 17:30 Phát biểu đánh giá Diễn đàn và chỉ đạo định hướng của Ông Phan Văn Mãi,
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành Ủy, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Gala dinner
17:30 - 17:50 Tiết mục văn nghệ chào mừng
17:50 - 17:52 Phát biểu của Ông Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư
Thường trực Thành Ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
17:52 - 20:00 Tiệc Gala.

VI. Hoạt động bên lề tại Diễn đàn


Cả ngày Lãnh đạo Chính phủ, Lãnh đạo Thành phố tiếp xúc với các đoàn VIP, chuyên
gia, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

5
Thứ Bảy, ngày 16/9/2023
Chương trình lãnh đạo Thành phố gặp gỡ Hội đồng tư vấn triển khai Nghị
quyết 98 lần 2.
Buổi sáng
Chương trình tham quan các khu công nghiệp, doanh nghiệp áp dụng mô hình
kinh tế tuần hoàn, phát triển xanh
tại Thành phố Hồ Chí Minh (Đại biểu chọn 1 trong 2 chương trình).

Chương trình 1: Tham quan khu chế Chương trình 2: Tham quan khu
xuất Tân Thuận công nghiệp Hiệp Phước và công
ty TNHH giấy Xuân Mai
8:15 – 8:30: Khách mời tập trung tại sảnh 8:00 – 8:15: Khách mời tập trung
Khách sạn REX. tại sảnh Khách sạn REX.
8:30 – 8:45: Khởi hành đến khu chế xuất 8:15 – 9:00: Khởi hành đến khu
Tân Thuận. công nghiệp Hiệp Phước.
8:45 – 9:45: Tham quan, khảo sát thực tế 9:00 – 10:00: Tham quan, khảo sát
và trao đổi với Ban quản lý khu chế xuất thực tế và trao đổi với Ban quản lý
Tân Thuận. khu công nghiệp Hiệp Phước.
9:45 – 10:45: Tham quan, khảo sát thực
tế và trao đổi với Ban Giám đốc doanh 10:00 – 11:00: Tham quan, khảo
nghiệp tiêu biểu trong khu chế xuất Tân sát thực tế và trao đổi với Ban
Thuận. Giám đốc Công ty TNHH Giấy
10:45 – 11:00: Đoàn di chuyển trở về Xuân Mai.
khách sạn REX. Kết thúc chương trình 11:00 – 11:45: Đoàn di chuyển trở
tham quan. về khách sạn REX. Kết thúc
chương trình tham quan.
Buổi chiều Tham quan quanh trung tâm Thành phố (nếu đoàn có nhu cầu).
Chủ Nhật, ngày 17/9/2023
Tiễn khách quốc tế

6
PHẦN 1
THÔNG TIN DIỄN GIẢ

7
TIẾN SĨ PHILIPP RÖSLER
Chủ tịch và là Người sáng lập (Công ty Consessor
AG)

 Tiến sĩ Philipp Rösler nắm giữ các chức vụ tư


vấn quản lý cũng như thành viên ban giám sát tại các
công ty nổi tiếng của Thụy Sĩ và quốc tế.
 Philipp bắt đầu sự nghiệp của mình với tư
cách là một bác sĩ y khoa tại Lực lượng Vũ trang Đức
nhưng rời Quân đội Đức với quân hàm Đại uý để tham
gia chính trị vào năm 2003. Ông từng là chủ tịch Đảng
Dân chủ Tự do ở bang Lower-Saxony Đức mà ông là
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Lao động và
Giao thông vận tải. Năm 2009, ông gia nhập Chính phủ
Liên bang Đức với tư cách là Bộ trưởng Bộ Y tế trong nội các thứ hai của Thủ tướng Liên
bang Merkel. Năm 2011, Philipp Rösler được bầu làm Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do ở Đức
và thay đổi hồ sơ của mình thành Bộ trưởng Kinh tế và Công nghệ Liên bang. Ông cũng trở
thành Phó Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức.
 Nằm 2013, Tiến sĩ Rösler rời bỏ chính trường và tham gia Ban quản lý Diễn đàn
Kinh tế Thế giới ở Geneva trong bốn năm.
 Vì vậy, ông đã tìm đường đến Thụy Sĩ, nơi ông định cư cùng gia đình ở Zurich và
có được những khách hàng trung thành và là một thành viên hội đồng quản trị kể từ đó.

TRENT DAVIES
Quyền Phó Ủy viên Phòng Thương mại và Đầu
tư của Chính phủ Victoria khu vực Đông Nam Á
 Ông có nhiều kinh nghiệm làm việc tại
Đông Nam Á, đã sống tại Việt Nam hơn 10 năm. Hiện
ông Là Phó giám đốc điều hành, Đông Nam Á
Thương mại và Đầu tư Chính phủ bang Victoria
(VGTI). Ông đang thúc đẩy các sáng kiến thương
mại, giáo dục và đầu tư trên khắp khu vực Đông Nam
Á.
 Ông có kinh nghiệm sâu rộng trong việc tạo
ra các liên kết kinh doanh và đầu tư giữa ASEAN và
Úc, với trọng tâm là Việt Nam nơi anh đang sinh sống.
 Trước khi gia nhập VGTI, Trent đã tư vấn cho các khách hàng quốc tế về những
phức tạp của việc đầu tư và kinh doanh tại Đông Nam Á. Kiến thức và dịch vụ tư vấn của
anh bao gồm nhiều chủ đề khác nhau bao gồm nhưng không giới hạn ở nghiên cứu thị
trường và nhập khẩu, đánh giá chuỗi cung ứng, cấu trúc doanh nghiệp, thỏa thuận thương
mại và các vấn đề pháp lý, thuế, kế toán và nhân sự.

8
SEBASTIAN ECKARDT
Giám đốc phụ trách Kinh tế vĩ mô,
Thương mại và Đầu tư, Ngân hàng
Thế giới (WB) khu vực Đông Á – Thái
Bình, Kinh tế vĩ mô, Thương mại và
Đầu tư Khu vực Đông Á và Thái Bình
Dương.
 Sebastian Eckardt Giám đốc phụ
trách Kinh tế vĩ mô, Thương mại và Đầu tư,
Ngân hàng Thế giới (WB) khu vực Đông Á
– Thái Bình, ông lãnh đạo một nhóm các nhà kinh tế làm việc về Campuchia, Lào, Myanmar,
Trung Quốc, Mông Cổ, Hàn Quốc và Việt Nam. Trước khi đảm nhiệm vị trí này, ông là
chuyên gia kinh tế trưởng ở Trung Quốc, Mông Cổ, Hàn Quốc và trước đó là Việt Nam.
 Kể từ khi gia nhập Ngân hàng Thế giới vào năm 2008, ông đã lãnh đạo các hoạt
động cho vay phức tạp và công việc phân tích sáng tạo trên hơn một chục quốc gia chủ yếu
ở châu Âu và châu Á, hỗ trợ khách hàng trong các lĩnh vực cải cách kinh tế vĩ mô, tài chính
và cơ cấu.
 Trước khi gia nhập Ngân hàng, Sebastian là một nhà kinh tế làm việc cho Chính
phủ Đức. Là công dân Đức, ông có bằng Thạc sĩ của Đại học Birmingham, Vương quốc Anh
và Tiến sĩ Tài chính Công của Đại học Potsdam, Đức.

NÔNG NGỌC DUY


PGS.TS Nông Ngọc Duy, giảng viên, nghiên
cứu viên cao cấp cơ quan nghiên cứu khoa
học và công nghiệp Liên bang Úc (CSIRO),
Đại học Griffith.
 Được vinh danh là một trong những nhà
khoa học trẻ xuất sắc nhất tại Australia năm 2020.
 Tập trung nghiên cứu vào việc giúp các
nước đang phát triển thích ứng với biến đổi khí
hậu và hướng đến phát triển bền vững, nhất là cho
các gia đình nông thôn.
 Là nhà nghiên cứu khoa học trong lĩnh
vực kinh tế nông nghiệp tại CSIRO - cơ quan
nghiên cứu khoa học quốc gia của Australia.
 Giảng dạy tại Đại học Griffith.
 Có hơn 30 bài báo khoa học được công bố trên tạp chí nổi tiếng thế giới và nhiều
công bố quốc tế có ảnh hưởng lớn trong khoa học về lĩnh vực môi trường. Trong số đó, có
1/3 nghiên cứu của anh liên quan đến những vấn đề tại Việt Nam.

9
LÊ THỊ THANH NHÀN
Giảng viên Cao cấp, Trường Kinh tế và
Kinh doanh Đại học Quốc gia Úc.
 Chuyên môn: Tài chính doanh
nghiệp, Địa lý kinh tế, Kinh tế học hành vi và
Ngân hàng.
 Hiện là Giảng viên cao cấp, Đại học
Quốc gia Australia.
 Các dự án nghiên cứu đã xuất bản nổi
bật:
 Rủi ro kiện tụng cổ đông có khiến các
công ty đại chúng hủy niêm yết không? Bằng
chứng từ các vụ kiện tập thể về chứng khoán
(với Jonathan Brogaard, Louis Nguyễn và
Vathunyoo Sila), Tạp chí Phân tích Tài chính
và Định lượng (Sắp xuất bản)
 Tác động lan tỏa nội ngành: Bằng chứng từ hồ sơ phá sản (với Phong Ngô), Tạp
chí Kinh doanh, Tài chính và Kế toán (2022)
 Môi trường thông tin địa phương và gian lận kế toán (với Jens Hagendorff và
Nguyễn Duy Đức), Tạp chí Tiền tệ, Tín dụng và Ngân hàng (2020)
 Phá sản địa phương và sự lây lan theo địa lý trong thị trường cho vay ngân hàng
(với Jawad Addoum, Alok Kumar và Alexandra Niessen-Ruenzi), Review of Finance
(2020)

RAMLA KHALIDI
Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên
hợp Quốc tại Việt Nam UNDP
 Có hơn 30 năm kinh nghiệm làm việc trong
lĩnh vực phát triển và nghiên cứu chính sách ở cấp quốc
gia và khu vực, trong đó có 25 năm công tác tại UNDP
và Ban Thư kí Liên Hợp Quốc.
 Ở cấp khu vực, giữ vai trò lãnh đạo trong các
nỗ lực lập kế hoạch chiến lược và liên ngành của Ủy
ban Kinh tế và Xã hội của Liên Hợp Quốc về Tây Á cho
Chương trình Nghị sự 2030 và các Mục tiêu Phát triển
Bền vững (SDGs), đồng thời quản lý các chương trình hợp tác kỹ thuật và dịch vụ tư vấn
chính sách của tổ chức cho 18 quốc gia thành viên.
 Luôn cố gắng tăng cường quan hệ đối tác của Ủy ban này với các nhà tài trợ, các
cơ quan của Liên Hợp Quốc và các đối tác xã hội dân sự.
 Tập trung vào nghiên cứu giảm nghèo, phát triển xã hội toàn diện, bình đẳng giới
và quản trị.
 Từng làm việc với tư cách một nhà báo, một nhà nghiên cứu và một nhà quản lý
chương trình ở nhiều bối cảnh quốc gia khác nhau.
 Gần đây nhất, bà là Trưởng Đại diện Thường trú của UNDP tại Syria từ năm 2019
đến 2022.
10
Jonathan Berkshire Miller
Một chuyên gia về các vấn đề quốc tế có chuyên môn về
các vấn đề an ninh, quốc phòng và địa kinh tế ở Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương.

 Ông từng giữ nhiều vị trí khác nhau trong khu vực
tư nhân và công cộng. Hiện tại, ông là Giám đốc phụ trách
các vấn đề đối ngoại, an ninh và quốc phòng quốc gia của
Viện MacDonald-Laurier, có trụ sở tại Ottawa.
 Ông cũng đồng thời là thành viên cao cấp của Viện
Quan hệ Quốc tế Nhật Bản (JIIA) và thành viên cao cấp về
Đông Á cho Diễn đàn Châu Á Nhật Bản có trụ sở tại Tokyo.
 Miller cũng là Giám đốc và nhà đồng sáng lập của
Hội đồng Chính sách Quốc tế. Ông cũng là đại diện của Canada trong Nhóm các Chuyên
gia và Nhân vật nổi tiếng của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF EEPs) và là Nhà lãnh đạo
có trách nhiệm cho Quỹ BMW.

DƯƠNG THỊ HỒNG LIÊN


Giảng viên cao cấp khoa Kinh tế và Luật trường
Đại học Curtin, Úc
 Kế toán Công chứng và Giảng viên Cao
cấp tại Trường Kế toán, Kinh tế và Tài chính (Đại học
Curtin)
 Nghiên cứu của bà đã được đăng trên các
tạp chí quốc tế như Tạp chí Tài chính & Kế toán
Doanh nghiệp , Chiến lược Kinh doanh và Môi
trường, Kế toán và Tài chính , Tạp chí Tài chính
Pacific-Basin, Tạp chí Thị trường Mới nổi và Tạp chí
Kế toán và Kinh tế Đương đại.
 Được mời đóng góp ý kiến chuyên môn trên nhiều nguồn truyền thông khác nhau,
bao gồm C hannel 9 News (TV) , ABC News Tonight (TV) , ABC News , 10 Daily News,
The New Daily, The Farmer, Community Radio Networks (RTRFM 92.1, 2SER 107.3FM,
và The Wire – Đài cộng đồng và bản địa).
 Nhận được một số giải thưởng nổi bật: Giải thưởng Định vị toàn cầu năm 2022,
Giải thưởng Tham gia của Nhà nghiên cứu cho năm 2022; Giải Silver Shield (Hạng mục
Nghiên cứu tốt nhất), Viện Kế toán Công chứng Ấn Độ (ICAI)…

11
CURT GARRIGAN
Trưởng Phòng Phát triển Đô thị Bền vững Ủy ban
Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc cho Châu Á và
Thái Bình Dương (UN-ESCAP)
 Trong vai trò Trưởng Phòng Phát triển Đô
thị Bền vững của UN-ESCAP, ông đã đóng góp vào
những nỗ lực của ESCAP để thúc đẩy các giải pháp đô
thị bền vững ở các thành phố trên khắp các khu vực.
 Ông đã làm việc bảy năm tại UN
Environment ở Paris, Pháp, với tư cách là Điều phối
viên của Sáng kiến Xây dựng và Khí hậu Bền vững và
là Quản lý Chương trình Thành phố và Xây dựng. Trước khi gia nhập hệ thống Liên hợp
quốc, ông Garrigan đã phục vụ hơn 22 năm trong các vai trò hoạt động và quản lý cho
Thành phố Nashville, Tennessee, Hoa Kỳ, bao gồm Phó Thị trưởng, Giám đốc Công viên
và Điều phối viên Hạ tầng và Kế hoạch cho Đội Phục hồi sau Lũ lụt của thành phố.
 Ông Garrigan tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Kiến trúc tại Đại học Temple ở
Philadelphia, và có Chứng chỉ Nghiên cứu Cao cấp về Ngoại giao Môi trường từ Đại học
Geneva1.

MACKY ZHANG
ZHANG FENG (TRƯƠNG PHONG)
Tổng giám đốc Huawei Việt Nam
 Năm 2000, sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ Đại học
Trung Nam chuyên ngành Nhân sự và Quản trị Kinh doanh,
ông Macky Zhang gia nhập Huawei và hiện là Tổng giám
đốc Huawei Việt Nam.
 Từ tháng 7 năm 2021 đến tháng 3 năm 2023: ông
Macky Zhang làm việc tại Huawei Philippines với vị trí
Giám đốc Bộ phận kinh doanh Năng lượng số (Digital
Power Business)
 Từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 7 năm 2021, ông giữ chức vụ Giám đốc Bộ phận
Kinh doanh Năng lượng số (Digital Power Business) tại Trung Quốc.
 Từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 1 năm 2019, ông là Giám đốc Bộ phận Nhóm Kinh
doanh Giải pháp Doanh nghiệp tại Tây An, Trung Quốc.
 Từ tháng 5 năm 2000 đến tháng 4 năm 2013, ông giữ chức Giám đốc Bộ phận
Quản lý Bán hàng của Phòng China Unicom (China Unicom Account).
Với 23 năm làm việc tại Huawei, ông Macky Zhang có kinh nghiệm phong phú trong
nhiều mảng khác nhau như Hạ tầng các Nhà mạng, Giải pháp Doanh nghiệp và Năng
lượng số.

12
KLAUS TYRKKO
Trưởng Cố vấn Kỹ thuật cho Chương trình Khu Công
nghiệp Sinh thái Toàn cầu (GEIPP), Tổ chức Phát triển
Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO).

 Chương trình Khu Công nghiệp Sinh thái Toàn


cầu GEIPP là một chương trình của 7 quốc gia nhằm thúc
đẩy việc tiếp thu các hoạt động của Khu công nghiệp sinh
thái và tạo ra một môi trường chính sách thuận lợi cho EIP
 Klaus trước đây từng là trưởng bộ phận tại
UNIDO, vai trò cố vấn chính sách tại UNDP và Ủy ban
Châu Âu. Klaus bắt đầu sự nghiệp của mình trong ngành sản xuất và cũng đã từng là cố
vấn tại hơn 20 quốc gia. Klaus có bằng sau đại học về Kỹ thuật, Chính sách Môi trường
và Quản trị Kinh doanh từ quê hương Phần Lan, Bỉ và Vương quốc Anh.

DR. QUY VO REINHARD


Đồng sáng lập | Giám đốc tại Health Foundation

 Tiến sĩ Quy Vo-Reinhard là doanh nhân sở hữu


bằng Tiến sĩ Công nghệ thông tin sinh học, giám đốc giàu
kinh nghiệm với lịch sử đã được chứng minh về Khoa học
Đời sống, R&D, Chăm sóc sức khỏe, Đổi mới và Chuyển
đổi Kỹ thuật số, hiện đang tập trung vào
Blockchain4Healthcare.
 Đã làm việc ở Thụy Sĩ, Đức, Ý, Canada, Ấn Độ,
Việt Nam và là diễn giả di chuyển khắp nơi trên thế giới.
 Bà hiện đang là Đồng sáng lập và Giám đốc dữ
liệu tại Tổ chức dHealth; Giám đốc điều hành / Đối tác sáng
lập (Pro Bono) của Global V-Space, mạng lưới đáng tin
cậy hàng đầu để kết hợp các Tài năng trong Đổi mới.
 Ngoài ra, Tiến sĩ Quy Vo-Reinhard hiện còn là Giảng viên tại Berner
Fachhochschule BFH; thành viên Hội đồng quản trị (Pro Bono) tại Mạng lưới học thuật
Việt Nam quốc tế toàn cầu và Hội Trí thức và Chuyên gia Việt Nam tại Thụy Sĩ; và đồng
sáng lập, thành viên hội đồng quản trị tại Centiva Health.

13
THOMAS KRAUSE
Chuyên gia phát triển của Cơ quan phát triển quốc tế
Đức – GIZ
 13 năm kinh nghiệm hợp tác phát triển tại Việt
Nam thông qua các nhiệm vụ trong lĩnh vực phát triển tổ
chức và xây dựng năng lực cho các tổ chức đối tác từ kinh
doanh, khoa học, giáo dục và xã hội dân sự
 Kiến thức chuyên đề rộng và áp dụng về các chủ
đề hợp tác phát triển về môi trường và khí hậu, tính bền
vững, tăng trưởng kinh tế xanh, bình đẳng giới, phát triển
nông thôn, y tế và di cư.
 Trưởng nhóm và huấn luyện/đào tạo nhân viên,
điều phối các nhiệm vụ của chuyên gia quốc tế và phát
triển quan hệ hợp tác và mạng lưới với các chủ thể trong nước và quốc tế
 Kinh nghiệm lâu năm trong làm việc với chủ đề hợp tác với xã hội dân sự và hợp
tác và ngoại giao công tư với các đại diện chính trị và Quản lý chu kỳ dự án (PCM)
 Tư vấn viên cho các tổ chức và cơ quan bảo trợ về định hướng chiến lược của
danh mục dịch vụ cho khách hàng và cải thiện các điều kiện khuôn khổ chính trị cho các
thành viên của họ.

LUDWIG GRAF WESTARP


Đại diện tại Việt Nam & Moldavia của Hiệp hội
Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đức (BVMW)
 Ludwig Graf Westarp có nhiều năm kinh
nghiệm quản lý ở châu Âu và Đông Nam Á.
 Tại Hiệp hội Quốc gia Đức cho Doanh
nghiệp Nhỏ và Vừa (BVMW), ông quản lý văn phòng
tại Việt Nam và là người sáng lập công ty SKARO,
hoạt động ở Đức và Việt Nam.
 Ludwig đã từng quản lý các công ty quốc tế
nổi tiếng trong khu vực. Ông đã làm việc cho các
công ty hàng đầu về Bất động sản và Quản lý Cơ sở
hạ tầng tích hợp từ Đức, Đan Mạch, Hoa Kỳ và
Pháp/Trung Quốc về các chủ đề Nhà thông minh và Xanh cũng như quản lý cơ sở hạ tầng
dựa trên dữ liệu.
 Là Trưởng dự án làm việc với Quỹ Hanns Seidel, Ludwig hỗ trợ việc phát triển
và công bố Chiến lược Quốc gia bảo vệ môi trường của Việt Nam đến năm 2020 và Tầm
nhìn đến năm 2030.
 Ông tốt nghiệp từ Trường Cao đẳng Kinh tế và Luật Berlin với bằng thạc sĩ Quản
trị Kinh doanh (MBA) có tầm nhìn quốc tế và tập trung đặc biệt vào Quản lý Châu Á và
giảng dạy tại các trường đại học Quản lý Chiến lược, Quản trị Công ty Bền vững và Quản
trị Quốc tế.

14
ALEXANDER ZIEHE
Giám đốc điều hành Đông Nam Á & Châu Đại
Dương của Viessmann Việt Nam
 Đại diện cho Viessmann, nhà cung cấp
công nghệ hàng đầu của Đức về các giải pháp khí
hậu và năng lượng ở Châu Á Thái Bình Dương.
 Ông quản lý các hoạt động bán hàng khu
vực ở Đông Nam Á và Úc, tập trung vào Việt Nam.
 Trước đây ông làm việc cho Viessmann ở
Bắc Kinh, Thượng Hải và Singapore.
 Trong sự nghiệp của mình ở châu Á, ông
Ziehe đã tích cực tham gia AHK Trung Quốc,
Singapore và Châu Úc. Là thành viên hội đồng sáng
lập của Young Leaders Circle ở Bắc Kinh và tham
gia Cụm năng lượng AHK ở Australia.
 Ông Alexander Ziehe học Ngành Kinh tế và Lịch sử tại Jena, Göttingen,
Phần Lan và Mỹ, và còn là thành viên của chương trình lãnh đạo của Viện Quản lý
St. Gallen.

GIDEON BEHAR
Đại sứ tại Đặc phái viên về Biến đổi khí hậu và
Tính bền vững tại Bộ Ngoại giao Israel

 Trước đó, ông giữ chức Vụ trưởng Vụ


Châu Phi tại Bộ Ngoại giao và chức vụ Đặc phái
viên về các vấn đề Châu Phi.
 2011-2016, ông là Giám đốc Cục Chống
bài Do Thái và Tưởng niệm Holocaust. Ông từng là
Đại sứ Israel tại Senegal 2006-2011 và là Phó Vụ
trưởng Vụ Jordan, Syria và Liban 2002-2006.
 Ông hiện đang giảng dạy tại trường đại
học một khóa học về “Tác động của biến đổi khí hậu đối với quan hệ quốc tế”.
 Ông đã được Tổng thống Wade của Senegal trao tặng danh hiệu "Grand Officier
de l'Ordre National du Lion" vì đóng góp đặc biệt của ông cho Senegal, cũng như giải
thưởng đặc biệt từ tổ chức bảo trợ NGO của Senegal, CONGAD, vì công việc nhân đạo của
ông ở Senegal.
 Ông cùng với nhóm của mình đã được Bộ Ngoại giao trao giải thưởng “Đội ngũ
xuất sắc nhất năm 2015” vì đã tổ chức và chủ trì Diễn đàn toàn cầu về chống chủ nghĩa bài
thị Do Thái.

15
ALEXANDER OBERFELD
Thành viên Hội đồng Thành phố, Thành viên
Ủy ban Chất lượng Môi trường Thành phố
Ashdod, Israel.
 Đang sở hữu một công ty luật độc lập tại
thành phố Asdod.
 Là người khởi xướng ý tưởng thúc đẩy sự
trao đổi giữa các địa phương của Israel và Việt
Nam, góp phần đưa mối quan hệ song phương trở
thành hiện thực.
 Có quan điểm rằng nếu các doanh nghiệp
của thành phố và Việt Nam được kết nối và hợp tác
trên cơ sở thế mạnh của mỗi bên và điều đó sẽ góp phần thúc đẩy thương mại hai chiều
trong thời gian tới.
 Ông cũng bày tỏ niềm tin rằng Ashdod, là một trong những cảng biển lớn nhất của
Israel, sẽ thiết lập mối quan hệ hữu nghị với các địa phương Việt Nam.

MARIO JORIZZO – Tiến sĩ tại Italian National Agency for New Technologies, Energy
and Sustainable Economic Development thuộc Quốc gia Ý.
 Ông làm việc và quản lý một nhóm gồm mười nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, hiện
tại đơn vị có ngân sách dự án là năm triệu euro.

FRANCESCO MONTALTI
 Cố vấn cho các công ty Eagle Projects, FAIT, New
Font và Tratos Cavi
 Thư ký của CEI (công ty mẹ của IEC ở Ý) CT86
(Sợi quang) và Chủ tịch của SC86A.

16
NGUYEN MAILY ANNA
MARIA
Chủ tịch Quỹ Ý –Việt
 Chuyên gia về quốc tế hóa kinh doanh và phát
triển kinh doanh.
 Cộng tác với các Đại sứ Việt Nam tại Italia tại
một số môi trường như thể chế, kinh doanh, đầu tư trực
tiếp nước ngoài, giáo dục, v.v.
 Tổ chức hơn 100 hội thảo/hội thảo, hỗ trợ Đại
sứ quán Việt Nam tổ chức các chuyến thăm cấp cao.
 Về hoạt động tại Châu Âu, năm 2013 tham gia
phái đoàn Châu Âu do của Phó Chủ tịch Ủy ban Châu
Âu Tajani tới Việt Nam với vai trò cầu nối giữa Châu Âu và Việt Nam.
 Năm 2017, tham gia Phái đoàn của Eurocham tới Ủy ban Châu Âu để tạo thuận
lợi cho việc ký kết Hiệp định Thương mại Tự do Châu Âu-Việt Nam tư cách là Đại diện
của Becamex IDC tại Châu Âu, Anh và Thụy Sĩ.
 Năm 2022, ra mắt sách “Việt Nam một thế giới của cơ hội. Hướng tới Xã hội 5.0.”
được xuất bản bởi Albastros Editor.
 Năm 2023 được trao tặng Huân chương Hiệp sĩ của Cộng hòa Ý. Thành lập Quỹ
Ý Việt Nam với mục đích hỗ trợ công cuộc hiện đại hóa và công nghiệp hóa của Việt Nam
và cô đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch.

TAKAHASHI YASUO
Giám đốc điều hành Viện chiến lược môi trường
toàn cầu (IGES)
 Ông TAKAHASHI Yasuo tốt nghiệp Cao
học Kỹ thuật, Đại học Tokyo.
 Năm 1983, ông gia nhập Cơ quan Môi
trường Nhật Bản (Bộ Môi trường hiện nay).
 Ông từng giữ các vị trí quan trọng tại Bộ bao
gồm Vụ trưởng Vụ Chính sách Khí hậu, Vụ trưởng
Vụ Phục hồi Môi trường tại Fukushima, Vụ trưởng
Vụ Quản lý Môi trường và Thứ trưởng phụ trách các
vấn đề môi trường toàn cầu.
 Sau khi nghỉ hưu tại Bộ vào năm 2019, ông
được bổ nhiệm làm Cố vấn cấp cao cho Bộ và gia nhập IGES vào tháng 1 năm 2020 với tư
cách là Cố vấn chính sách đặc biệt.
 Ông đã từng là Giám đốc điều hành của IGES kể từ tháng 11 năm 2020.

17
YASUHIKO HOTTA
Giám đốc sản xuất và tiêu dùng bền vững tại IGES
 Giám sát các hoạt động nghiên cứu của IGES về
tiêu dùng bền vững, quản lý chất thải, kinh tế tuần hoàn và
các vấn đề về nhựa biển.
 Phó Chủ tịch của Hội nghị Bàn tròn Châu Á Thái
Bình Dương về Sản xuất và Tiêu dùng Bền vững (APRSCP).
 Trước khi gia nhập IGES vào tháng 9 năm 2005,
là trợ lý dự án của UNU/Sáng kiến Nghiên cứu Không phát
thải tại Đại học Liên hợp quốc/Viện Nghiên cứu Cao cấp,
Nhà nghiên cứu theo Hợp đồng (Lĩnh vực Chính sách Công
nghiệp), Viện Nghiên cứu Mitsubishi, Inc.
 Ông đã tham gia vào cả các sáng kiến chính sách và dự án nghiên cứu liên quan
đến lưu thông tài nguyên bền vững như Sáng kiến 3R của G8 và Nhóm công tác về Chính
sách 3R cho Đông Nam và Đông Á tại Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á
(ERIA), và Ban Công tác của OECD về Năng suất Tài nguyên và Lãng phí.
 Từ năm 2016 đến năm 2021, Hotta là trưởng nhóm chủ đề của Dự án S-16 của
Quỹ Nghiên cứu Môi trường và Phát triển Công nghệ Nhật Bản về Thiết kế và Đánh giá
Chính sách để Đảm bảo Mô hình Sản xuất và Tiêu dùng Bền vững ở Khu vực Châu Á
(PECoP- Asia) với tiêu đề Hợp phần Thiết kế Chính sách của dự án kéo dài 5 năm liên quan
đến Đại học Tokyo, IGES, NIES và Đại học Keio.

TIẾN SĨ PHẠM NGỌC BẢO


Phó Giám đốc Lĩnh vực Thích ứng và Nước
(Adaptation and Water Area) tại IGES
 Nhận bằng Tiến sĩ tại Khoa Kỹ thuật Đô thị, Đại
học Tokyo, Nhật Bản.
 Có hơn 15 năm kinh nghiệm làm việc trong việc
thực hiện và lãnh đạo các dự án hỗ trợ kỹ thuật và nghiên
cứu liên ngành theo định hướng chính sách ở châu Á, đặc
biệt liên quan đến cấp nước & vệ sinh môi trường ở các nước
đang phát triển, quản lý nước thải sinh hoạt và phân bùn phi
tập trung, quan điểm kinh tế tuần hoàn đối với chất thải nhựa và chất thải rắn quản lý, sản
xuất và tiêu dùng bền vững, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, đặc biệt trong lĩnh vực
nước.
 Ông hiện là Phó Giám đốc Lĩnh vực Thích ứng và Nước (Adaptation and Water
Area) tại IGES. Tiến sĩ Bảo cũng là thành viên của Ban Thư ký Đối tác Môi trường Nước
Châu Á (WEPA) do Bộ Môi trường Nhật Bản tài trợ.

18
PARK BONG GYU
Chủ tịch Hội nghị CEO Hàn Quốc (Korea CEO Summit),
Chủ tịch Hội nghị thượng đỉnh chuỗi khối thế giới
Marvels
 Ngành: Đô thị, Văn hóa, Hội tụ, Mạng toàn cầu,
Chuỗi khối toàn cầu
 Tổng Giám đốc Park Bong Gyu đã chủ trì nhiều
diễn đàn và hội nghị quốc tế với tư cách là Tổng Giám đốc
Korea CEO Summit, dẫn dắt 8.000 CEO từ lĩnh vực khác nhau
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
 Năm 2004, ông tổ chức Diễn đàn mời Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Diễn đàn các
nhà khoa học thế giới (người đoạt giải Nobel Hòa bình).
 2005-2006 tổ chức Diễn đàn kinh tế Hàn-Trung (Đại lễ đường Nhân dân, Bắc
Kinh). 2010 Diễn đàn thương nhân Trung Quốc trên thế giới tại Hàn Quốc, 2010 Diễn đàn
các doanh nhân Hoa Kiều trên thế giới tại Hàn Quốc (Seoul), 2014 Đại hội Đô thị văn hóa
sáng tạo Hàn-Trung (Seoul DDP), 2015 – 2017 đã thu hút sự chú ý khi tổ chức thành công
Diễn đàn Trí tuệ Phương Đông tại Đường Sơn, Tây An, Thanh Đảo của Trung Quốc.

JOO YOUNG SUP


Giáo sư đặc biệt của Đại học Quốc gia Seoul/Quản trị
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũ/Chủ tịch Mạng hội tụ
CNTT-TT Hàn Quốc
 Ngành: Đô thị, Văn hóa, Hội tụ, Mạng toàn cầu,
Chuỗi khối toàn cầu
 Tốt nghiệp bằng Cử nhân khoa Cơ khí tại Đại học
Quốc gia Seoul, Tốt nghiệp Thạc sĩ công nghệ sản xuất tại
VIện khoa học HQ
 Tiến sĩ Kỹ thuật công nghiệp tại Trường Đại học
thuộc Bang Pennsylvania. Ông từng là Giám đốc điều hành
và Tổng giám đốc khu vực Châu Á Thái Bình Dương của GE Thermometrics Hàn Quốc,
và từng là Giám đốc điều hành của công ty Vontech, Hyundai Autonet.
 Sau đó, ông giữ chức vụ MD ngành công nghiệp chủ lực của Ban kế hoạch chiến
lược R&D Bộ Kinh tế tri thức, thành viên Ủy ban đặc biệt về Động lực tăng trưởng tương
lai Ban thanh tra khoa học công nghệ quốc gia, Ủy viên nghiên cứu hội tụ Hội nghiên cứu
khoa học công nghệ quốc gia, Ủy viên Hội tư vấn kinh tế quốc dân trực thuộc Tổng thống
và Giám đốc Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ.

19
SONG JAERYOUNG
Giám đốc Trung tâm Đối ngoại và Hợp tác Chính sách,
Viện Công nghệ Xanh Quốc gia Hàn Quốc.
 Từ năm 2019 đến năm 2022: Thành viên chính
sách tại Hội đồng Quốc gia về Khí hậu và Chất lượng
Không khí (NCCA) thuộc Văn phòng Tổng thống của Hàn
Quốc để xây dựng các chương trình khoa học và công nghệ
quốc tế với các cơ quan của Liên Hợp Quốc.
 Từ năm 2014 đến năm 2016: Hội đồng Nghiên
cứu Khoa học & Công nghệ với vai trò là trưởng phòng
hợp tác quốc tế và phòng chiến lược nghiên cứu và phát
triển (R&D).
 Chủ tịch Ủy ban Biến đổi Khí hậu tại Hiệp hội Đổi mới và Chính sách Châu Á,
chuyên gia tư vấn của Ủy ban Công dân Seoul Xanh tại Chính quyền Thủ đô Seoul, và là
giáo sư phụ trách khoa Truyền thông & Nội dung tại Đại học Sungkonghoe ở Hàn Quốc.

HAN SANG DEOG


Phó Tổng Giám Đốc điều hành Samsung
Engineering Co, Ltd.
 Lĩnh vực phụ trách/Sector: Công nghệ môi
trường và công nghiệp
 Trong hơn 30 năm làm việc tại Tập đoàn
Samsung, ông Han Sang Deog trực tiếp dẫn dắt, quản
lý các dự án quy mô lớn, phức tạp của Samsung
Engineering tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng
thời đảm nhiệm qua nhiều vị trí, chức vụ ở cấp độ toàn
cầu
 Từ năm 2016, lĩnh vực trọng điểm của tập
đoàn trong bối cảnh biến đổi khí hậu và các vấn đề ESG
(environment – social – governance)
 Trong quá trình công tác, ông Han Sang Deog đóng vai trò lớn trong việc kiến tạo
mô hình hợp tác công-tư giữa chính phủ các quốc gia Trung Đông và Samsung Engineering
liên quan đến lĩnh vực môi trường.

20
HWANG KI SIK
Tổng thư ký Quỹ hợp tác quốc tế thành phố Busan
 Thạc sĩ Chính trị Quốc tế, Khoa Cao học Đại
học Korea (1997),
 Thạc sĩ Chính trị Quốc tế, Trường Kinh tế và
Chính trị Khoa học Luân Đôn (LSE)(2004),
 Tiến sĩ Chính trị Quốc tế, Đại học London
(2007)
 Giáo sư tại Khoa Nghiên cứu Quốc tế Sau Đại
học, Đại học Dong-A (2008-2023)
 Chánh Thư ký Hiệu trưởng Đại học Dong-A
(2012-2016)
 Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đa văn hóa Đông Á (2020-2022)
 Chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Châu Âu Đương Hàn Quốc (Tập đoàn) (2020)
 Đồng chủ tịch Hội nghị bàn tròn G-Busan của Thành phố đô thị Busan (2022-nay)
 Thành viên của Ủy ban Cố vấn Quan hệ Công chúng của Quốc hội Đại hội Hàn
Quốc (2015-2016)
 Thành viên của Ủy ban Tư vấn Ngoại giao Địa phương của Thống đốc Hiệp hội
Hàn Quốc (Đại diện Busan)

TIẾN SĨ KIM TAE KUN


Trung tâm Công nghệ xanh, Trung tâm Công nghệ Khí
hậu Quốc gia, Hàn Quốc
 08/2011 - 01/2014: Thành viên/Trưởng nhóm,
KIST Châu Âu.
 10/2006 - 04/2012: Tiến sĩ Xã hội học,
Westfälische Wilhelms-Universität Münster 10.2000-
09/2006; Thạc sĩ Xã hội học, Westfälische Wilhelms-
Universität Münster.
Hiện nay:
 Nghiên cứu viên chính, nguyên Giám đốc bộ phận
và Trưởng nhóm Viện Công nghệ Xanh Quốc gia (Trung
tâm Công nghệ Xanh trước đây).
 Chuyên gia Hợp tác Quốc tế, Ủy ban Tổng thống về Carbon Trung lập và Tăng
trưởng xanh (CNC).
 Thành viên, Quỹ Hợp tác Phát triển Kinh tế (EDCF) Môi trường và Hội đồng tư
vấn xã hội.
 Phó Tổng biên tập Ban biên tập, Hội học thuật phù hợp Công nghệ (ASAT).
 Thành viên chuyên gia, Hội đồng Cố vấn của Tổng thống về Khoa học và Công
nghệ. Ủy ban Giám định Khoa học Cơ bản của (PACST).

21
BRIAN KIM
CEO của Công ty TNHH Kim Ventures (Climate
Tech Investment)
 Thạc sĩ nguyên ngành Khoa học máy tính Đại
học Sejong, Seoul, Hàn Quốc
 Tốt nghiệp chuyên ngành Văn học Anh &
dịch thuật Đại học toàn cầu Handong, Pohang, Hàn
Quốc
 Từ 2018 – 2021: Giám đốc điều hành, Tập
đoàn YOZMA Hàn Quốc. Giám đốc Bộ phận Tăng tốc
– Tư vấn, giáo dục và đầu tư cho các công ty khởi
nghiệp.
 Từ 2005. 5 – 2018: Quỹ R&D công nghiệp
Hàn Quốc- Israel Quản lý cấp cao của Nhóm Lập kế hoạch & Phát triển Chiến lược - Chịu
trách nhiệm quản lý chương trình hợp tác R&D chung giữa Doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Hàn Quốc và Israel.
 Hỗ trợ Bộ Công nghiệp Hàn Quốc, Thương mại và Năng lượng để phát triển
chính sách R&D quốc tế và chương trình. Quản lý chuyển giao công nghệ giữa Hàn Quốc
và Israel.
 Quản lý nhóm của Tổ chức Mạng lưới Công nghệ Quốc tế Chương trình - Chịu
trách nhiệm quản lý mạng lưới các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc phát triển tại
Mỹ, Canada, Anh, Đức, Pháp, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Hungary, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ,
Israel, UAE, Trung Quốc, và Việt Nam.

JAEWON PETER CHUN


Chủ tịch kiêm CEO Diễn đàn Thành phố Thông minh
Thế giới WSCS
 Kể từ tháng 11 năm 2019; là Chủ tịch Diễn đàn
Thành phố Thông minh Thế giới, Giám đốc Điều hành, ARK-
i Labs Jaewon cũng là Giám đốc điều hành, XnTREE.
 Kể từ tháng 3 năm 2011: Giám đốc Điều hành
Phòng Thương mại Hàn Quốc-Israel (KICC)
 Kể từ tháng 1 năm 2005: Đối tác của Công ty &
Đầu tư APEX, ARK-i Labs, công ty của Jaewon, đóng vai trò
then chốt trong việc dẫn dắt các dự án thành phố thông minh
bằng cách lập kế hoạch tổng thể cho thành phố thông minh và
huy động vốn từ khu vực tư nhân.
 Hiện tại, ARK-I Labs đang tham gia vào các dự án
thành phố thông minh tại hơn 7 thành phố trên khắp thế giới.

22
EELKO BREVOORD
Chuyên viên phối hợp lĩnh vực năng lượng tại PUM
Hà Lan các chuyên gia cấp cao
 Tốt nghiệp Thạc sĩ Kỹ sư Hoá học tại Đại học
Twente ở Enschede. Trong suốt thời gian hoạt động và
làm việc, ông đã phát hành hơn 30 công trình nghiên
cứu, sở hữu 5 bằng sáng chế. Ông cũng từng đảm nhận
hàng loạt các công việc như:
 Chuyên viên cấp cao phối hợp lĩnh vực năng
lượng tại PUM Hà Lan
 Tư vấn viên Hydroprocessing & FCC
 Giữ hàng loạt vị trí tại tập đoàn Albemarle qua
các năm như: Giám đốc ứng dụng (2018-2020); Giám
đốc R&D (8/2012 - 8/2018); Giám đốc Dịch vụ Kỹ thuật
Châu Âu/Châu Phi (2010- 8/2012); Giám đốc Công
nghệ Thương mại Liên minh UOP (1/2009- 9/2010);
Giám đốc Dịch vụ Kỹ thuật FCC & HPC; Chuyên gia hydrocracking (1/ 1997 - 1/2001)

NATHAN SCHMIDT
Trưởng khu vực – Châu Á của Climate Fund
Managers Nathan Schmidt chịu trách nhiệm về
hoạt động đầu tư ở châu Á
 Nathan là một chuyên gia trong thị trường cơ
sở hạ tầng châu Á, với kinh nghiệm về cả hai bên mua
và bán các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng và năng lượng
với tổng trị giá hơn 6tỷ USD.
 Năm 2010, Nathan là thành viên sáng lập và
giám đốc của Equis, một quỹ đầu tư tư nhân trị giá hàng
tỷ đô la đầu tư vào châu Á.
 Trước đó, ông là Trưởng phòng của
Macquarie Korea Opportunity Management (MKOM),
quản lý tại Shinhan Macquarie Financial Advisory và
là giám đốc điều hành của Macquarie Securities Inc. tại Hoa Kỳ.
 Ông đã làm việc về phát triển và triển khai các dự án năng lượng tái tạo có công
suất lên tới 700 MW trên khắp châu Á.

23
PGS.TS VŨ MINH
KHƯƠNG
Chuyên gia về chính sách và kinh tế, giảng viên
cao cấp trường Chính sách công Lý Quang
Diệu, Singapore
 Năm 2005, ông hoàn thành xuất sắc
luận án và nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Harvard,
được tên được khắc trên bảng vàng của trường
Hành chính Kennedy.
 Hiện là giảng viên Trường Chính sách
công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia
Singapore), thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân
Phúc nhiệm kì 2016-2021.
 Nghiên cứu của ông tập trung vào tăng trưởng kinh tế, năng suất, tính cạnh tranh
và các vấn đề liên quan tới tác động của CNTT, chính phủ điện tử và hội nhập kinh tế.
 Đăng nhiều bài viết trên các tạp chí quốc tế như Scandinavian Journal of
Economics, German Economics Review, Energy Policy và Journal of Policy Modeling.
 Từng làm tư vấn cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Công ty Tài chính
Quốc tế, USAID, KPMG, Ngân hàng Trung ương Singapore và Cơ quan Truyền thông
Singapore.
 Từng dạy tại Đại học Suffolk (Boston) và Đại học Keio (Tokyo về phân tích chính
sách công, quản lý tài chính và phát triển kinh tế.

MICHELE WEE
Tổng giám đốc ngân hàng Standard Chartered
Việt Nam
 Có 28 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực
ngân hàng,phát huy thế mạnh trong việc đưa ra các
chiến lược.
 Trước khi làm việc tại Standard Chartered
bà đảm nhận các vai trò chủ chốt về Thị trường Tài
chính tại Deutsche Bank, tổ chức Bloomberg và
Astley & Pearce tại Sing từ 2001 đến 2011.
 Được bổ nhiệm làm Chủ tịch Nhóm công
tác Ngân hàng (BWG) vào tháng 3 năm 2022 và tiếp tục thêm một nhiệm kỳ từ tháng 3 năm
2023 đến tháng 3 năm 2024 theo khuyến nghị của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

24
TRACY HARRIS WONG
Giám đốc Tài chính Bền vững Châu Á tại Ngân hàng
Standard Chartered
 Tập trung vào sự phát triển bền vững của Ngân
hàng chiến lược tài chính, bằng cách phát triển các sản phẩm
và giải pháp mới.
 Tracy là đồng thời là Phó Chủ tịch kiêm Phó Tổng
thư ký của Hồng Hiệp hội Tài chính Xanh Kong (HKGFA),
Chính sách bổ nhiệm Thành viên Ủy ban Nghiên cứu Phát
triển Dịch vụ Tài chính Hội đồng (FSDC) và Cố vấn cao cấp
cho Dự án Công trình Xanh..
 Bà thúc đẩy sự phát triển tài chính xanh và bền
vững ở Hong Kong và có hơn 20 năm kinh nghiệm về thị
trường tài chính đối với các sản phẩm có cấu trúc phức hợp
và thu nhập cố dịnh khác nhau ở JPMorgan, Mizuho International, Barclays Capital và BNP
Paribas có trụ sở tại London và Hong Kong.
 Nhận bằng thạc sỹ và cử nhân tài chính quốc tế và thị trường vốn tại Anh và tốt
nghiệp Oxford said về chương trình tài chính xã hội.

WINSTON TSEON LOONG CHOW


Phó Giáo sư về Khí hậu Đô thị và Nghiên cứu viên Lee
Kong Chian tại Cao đẳng Nghiên cứu Tích hợp của Đại
học Quản lý Singapore
 Tiến sĩ Winston Chow nghiên cứu và công bố rộng
rãi về khí hậu đô thị thích ứng và giảm thiểu các tác động và
rủi ro do khí hậu, đặc biệt là nhiệt thái cực ở các thành phố
nhiệt đới.
 Từ năm 2017, ông là Nghiên cứu viên chính của
Sáng kiến Cooling Singapore, chuyên phát triển các giải pháp
để giải quyết thách thức về nhiệt đô thị ở Singapore có thể áp
dụng cho các thành phố khác.
 Vào tháng 7 năm 2023, ông được các chính phủ bầu làm Đồng Chủ tịch, Nhóm
công tác II của IPCC sau khi được Chính phủ Cộng hòa Singapore đề cử.
 Tiến sĩ Chow nằm trong ban biên tập của một số tờ báo về khí hậu đô thị và tính
bền vững của tạp chí học thuật, và cố vấn cho một số dự án nghiên cứu khí hậu quốc tế
trong Singapore, Úc và Hà Lan.
 Tại Đại học Quản lý Singapore, TS. Chow dạy các lớp đại học về biến đổi khí hậu
và các vấn đề bền vững, và các khóa điều hành về biến đổi khí hậu, tài chính và quản trị với
Singapore Trung tâm Tài chính Xanh

25
SHANMUGA RETNAM
Thành viên ban quản trị của i-Forum của Smart
City (SCiF), đối tác của MARA (Market Acess &
Regulatory Affairs) tại Việt Nam.
 Shanmuga Retnam là một nhà kết nối kinh
doanh.
 Ông hiện là đồng chủ tịch điều hành của
Vietnam Smart City Consortium, một sáng kiến đa quốc
gia ba bên và là Đồng sáng lập của Doanh nghiệp Việt
Nam Sàn giao dịch ( VBEx ); một nền tảng kết nối kinh
doanh để đẩy nhanh quá trình hội nhập của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam với khu vực
và Đối tác của MARA ( Tiếp cận thị trường & các vấn đề pháp lý ) Việt Nam, tư vấn thương
mại cửa hàng nhỏ thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương cấp tỉnh và tạo thuận lợi cho trao
đổi thương mại trong khối ASEAN.
 Từng là Phó Chủ tịch, Châu Á Thái Bình Dương cho một mối quan tâm thực hiện
toàn cầu G3 Toàn cầu, quản lý các thị trường mới nổi trong khu vực Châu Á Thái Bình
Dương.
 Từng làm việc tại Văn phòng Thủ tướng (Singapore) vào năm 2007.
Thành tựu nổi bật:
 Được mời vào ban lãnh đạo CETA Ventures xuất khẩu công nghệ EU sang
ASEAN ( 2022 )
 Ban điều hành Liên minh các nhà lãnh đạo thành phố thông minh Việt Nam

BRIAN HO
Đối tác và Lãnh đạo Đảm bảo Khí hậu và Bền
vững cho Châu Á - Thái Bình Dương và Đông
Nam Á tại Deloitte.
 Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phát
triển bền vững, ông cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp
cho khách hàng và chịu trách nhiệm thúc đẩy các dịch
vụ ESG của Deloitte tại khu vực Châu Á Thái Bình
Dương. Ông giữ nhiều vị trí khác nhau trong lĩnh vực
bền vững, bao gồm là thành viên của Ban Cố Vấn Công
nghiệp Báo cáo Bền vững tại Singapore và Ủy ban Bền
vững của REITAS tại Singapore, tích cực thúc đẩy phát
triển khí hậu và bền vững. Trước khi gia nhập Deloitte, ông là một đối tác trong tám năm
trong Bộ phận Trung Quốc của một công ty chuyên nghiệp quốc tế và từng là Giám đốc khu
vực Trung Quốc cho một công ty tư vấn phát triển bền vững ở khu vực Châu Á Thái Bình
Dương trong mười năm.
 Ngoài ra, ông tích cực tham gia vào các sáng kiến giáo dục bền vững trong khu
vực và hợp tác với các tổ chức giáo dục để thúc đẩy các dự án phát triển. Ông là thành viên
của Ủy ban Cố vấn Công nghiệp về Giáo dục Bền vững của Viện Công nghệ Singapore và
là thành viên của Ủy ban Tư vấn cho Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục ESG Toàn cầu tại
Hồng Kông
26
DINH NGUYEN PHAN
Giám đốc quốc gia Công ty EDPR Sunseap Việt
Nam.
 Tháng 9/2002 Thạc sĩ Khoa học Quản lý.
 Tháng 12/2015 Giám đốc” “Đầu tư
Cursus” tại Académie des Métiers Finance - EDF.
 Tháng 3 – tháng 6 năm 2016 Institut de
Relations Internationales et Stratégiques de Paris
(IRIS – Pháp): « Enjeux Géostratégiques de l’Energie
».
 Từ 03/2023: là Giám đốc Quốc gia EDPR
tại Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh – Việt Nam.
Dẫn dắt các hoạt động phát triển kinh doanh cho các
dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam, xây dựng danh mục các dự án năng lượng tái tạo.
 Là Giám đốc Phát triển Kinh doanh SEA / Singapore.
 Là đại biểu, đại diện cho Hội đồng thanh niên nói tiếng Pháp ( www.cjef.be ),
thành viên phái đoàn Chính phủ Bỉ dự Hội nghị của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu tại
Poznan – Ba Lan – tháng 12/2008.

JEFFREY BALL
Thành viên cấp cao không thường trực Chính sách
đối ngoại, An ninh năng lượng và Sáng kiến khí hậu
Viện Brookings, Hoa Kỳ
 Tốt nghiệp Đại học Yale và là một nhà văn có
tác phẩm tập trung vào năng lượng và môi trường.
 Còn là học giả nội trú tại Trung tâm Tài chính
và Chính sách Năng lượng Steyer-Taylor của Stanford;
giảng viên tại Trường Luật Stanford.
 Thành viên cấp cao không thường trú trong
Sáng kiến Khí hậu và An ninh Năng lượng tại
Brookings.
 Bài viết của Ball đã xuất hiện trên The Atlantic, Fortune, the New Republic,
Foreign Affairs, The Wall Street Journal, The New York Times, và Slate, trong số các ấn
phẩm khác.
 Được giải thưởng viết về năng lượng hàng đầu của Hiệp hội các Biên tập viên và
Nhà văn Doanh nghiệp Hoa Kỳ năm 2015.
 Các bài tiểu luận của ông đề cập đến các chủ đề như tại sao giá carbon không thể
kiềm chế biến đổi khí hậu, tài trợ cho quá trình khử cacbon toàn cầu, ý nghĩa của kỷ nguyên
dồi dào năng lượng và nhu cầu về cách tiếp cận năng lượng tái tạo hiệu quả hơn về mặt kinh
tế.

27
Đặng Thành Tâm
Chủ tịch HĐQT Công ty Phát triển Đô thị
Kinh Bắc - CTCP (KBC).
 Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Hàng hải, Cử
nhân Quản trị kinh doanh, Cử nhân Luật, Bằng
Diploma of Business Management của Trường
Henley - Anh Quốc.
 Quá trình công tác:
- 1999 đến 2004: Đại biểu Hội đồng nhân
dân huyện Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh)
nhiệm kỳ 1999 – 2004
- 2004 đến 2009: Đại biểu Hội đồng nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2004 – 2009
- 2002 đến nay: Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ
phần Phát triển Đô thị Kinh Bắc, nay là Tổng công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc – CTCP.
Ngày 22/11/2012 thôi là Tổng giám đốc Tổng công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc – CTCP
- 2007 đến nay: Được Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam chuẩn y bổ
nhiệm làm Thành viên chính thức Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC (ABAC); Thành viên
Hội đồng Tư vấn cao cấp Chương trình Hành động hậu WTO của Chính phủ.

- 2011 đến 2016: Đại biểu quốc hội khóa XIII

Nguyễn Quang Thuân


Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings
 Là Đơn vị đứng đầu Việt Nam về các giải pháp
thông tin và phân tích nhằm phục vụ các nhà đầu tư
trong và ngoài nước tại Việt Nam.
 FiinGroup là đơn vị chuyên cung cấp các nền
tảng phân tích thông tin tài chính,
 Thông tin kinh doanh và nghiên cứu thị trường
nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư trên thị trường Việt Nam và
các doanh nghiệp trong việc phát triển và mở rộng kinh doanh tại Việt Nam.
 Công ty Cổ phần FiinRatings, là một thành viên của FiinGroup và là đối tác hợp
tác chiến lược với S&P Global Ratings. FiinRatings hoạt động trong lĩnh vực xếp hạng tín
nhiệm, được cấp phép bởi Bộ Tài chính, cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm và các hoạt
động liên quan cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư và bên cho vay trên thị trường vốn.
FiinRatings cũng là đơn vị được ủy quyền xác nhận trái phiếu xanh theo chuẩn quốc tế của
Tổ chức Khí Hậu Thế giới (Climate Bonds Initiative) tại Việt Nam.

28
Tiến Sĩ Lê Võ Phương Nga
Giám Đốc Tài Chính và Đối tác
Tổ chức Khoa học và chuyên gia Việt Nam toàn cầu –
AVSE Global
 Tiến sĩ Lê Võ Phương Nga hiện là Giám đốc quản
trị tài chính tại Ngân hàng đầu tư quốc tế Credit Agricole
Corporate & Investment Bank tập đoàn ngân hàng hàng đầu
của Pháp, với gần 700 nghìn nhân viên có mặt trên hơn 70
quốc gia. TS Phương Nga đồng thời đảm nhận cương vị
Giám đốc tài Chính và Đối tác của Tổ chức Khoa học và
Chuyên gia Việt Nam Toàn cầu - AVSE Global.
 Là lãnh đạo của các dự án trọng điểm mang tính
ảnh hưởng xã hội của AVSE Global tại Việt Nam : dự án
Tái thiết Miền Trung, các dự án tư vấn chiến lược phát triển tỉnh thành; dự án Quỹ tương hỗ
cho người nghèo; Dự án Quy tụ những người Việt có tầm ảnh hưởng để huy động các nguồn
lực phát triển Việt Nam... Bà Phương Nga không ngừng nỗ lực đóng góp rất nhiều cho các
dự án mang tính ảnh hưởng xã hội vì sự phát triển của Việt Nam.
 Tiến sĩ Phương Nga có kinh nghiệm sâu sắc trong việc xây dựng và quản lý thành
công các đội ngũ; có niềm tin mạnh mẽ vào công việc, vào hiệu quả tổ chức, vào sự tích cực
hết mình; thấu hiểu tầm quan trọng của sức mạnh tri thức, TS Phương Nga rất tâm huyết với
các hoạt động kết nối nguồn lực phục vụ cho sự phát triển của Việt Nam.

Đinh Hồng Kỳ
Chủ tịch Hệ thống Secoin
 Kỹ sư điều khiển tự động tại Trường Đại học Bách khoa
Hà nội
 Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh tại Trường Đại học Griggs
(Hoa Kỳ) và Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
 1990-1995: Chuyên viên Cơ quan Thương vụ thuộc Đại
sứ quán Việt Nam tại Ba Lan
 Từ năm 1995: Trở về Việt Nam và tập trung vào các
hoạt động sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng không nung
của Công ty Secoin - nhà sản xuất hàng đầu Đông Nam Á đối với sản phẩm gạch ngói nghệ
thuật không nung cao cấp với hệ thống 9 nhà máy và 3 showroom lớn tại ba miền Bắc -
Trung - Nam Việt Nam, Doanh nhân góp phần tích cực vào sứ mệnh “phát triển bền vững”
, hướng tới “kinh tế tuần hoàn” và “net-zero” của Việt Nam.

29
Tiến sĩ Lê Thái Hà
Giám đốc điều hành của Giải thưởng
VinFuture, Quỹ VinFuture.
 Tiến sĩ Thái Hà có gần 3 năm kinh
nghiệm làm Giám đốc Nghiên cứu và Giảng
viên Cao cấp tại Trường Chính sách Công và
Quản lý Fulbright, Đại học Fulbright Việt Nam
và 7 năm kinh nghiệm làm Giảng viên Cao cấp
tại Đại học RMIT Việt Nam. Chuyên ngành
nghiên cứu của Bà gồm kinh tế năng lượng, kinh tế môi trường và kinh tế ứng dụng.
 Theo xếp hạng của các chuyên gia thuộc Đại học Stanford được đăng trên tạp chí
khoa học PLoS Biology vào năm 2021, Tiến sĩ Thái Hà có tên trong top 1% các nhà khoa
học có tầm ảnh hưởng nhất thế giới trong tất cả lĩnh vực khoa học và là nhà nghiên cứu nữ
người Việt duy nhất ở trong xếp hạng này.
 Tư vấn cho Ngân hàng Thế giới (World Bank), UNDP, Ngân hàng Phát triển Châu
Á (ADB), Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA).

Colin James Barrow


Colin Barrow là Giáo sư và Chủ tịch Công nghệ
sinh học tại Đại học Deakin.
 Nghiên cứu của ông tập trung vào công nghệ
sinh học công nghiệp và biển. Ông là Giám đốc Trung
tâm Sản phẩm sinh học bền vững và là Trưởng chương
trình CRC Sản phẩm sinh học biển. Ông có hơn 300
ấn phẩm được bình duyệt với hơn 24.000 trích dẫn.
Ông hiện là thành viên của Trường Cao đẳng Chuyên
gia ARC và là thành viên của Ủy ban Cố vấn TGA về
Thuốc bổ sung. Giáo sư Barrow có tham gia các phòng this nghiệm chung ở Trung Quốc,
Ấn Độ và New Zealand.

30
TS. Trần Thị Hồng Minh
TS. Trần Thị Hồng Minh là Viện trưởng Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương.
 TS. Trần Thị Hồng Minh có hiểu biết sâu rộng và
nhiều nghiên cứu về các chủ đề cải cách kinh tế thị trường, hội
nhập kinh tế quốc tế và các mô hình kinh tế mới.
 TS. Trần Thị Hồng Minh đang tham mưu cho Chính
phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về các nội dung chính sách kinh
tế vĩ mô, cải cách thể chế kinh tế, các mô hình kinh tế mới và
hội nhập kinh tế quốc tế.
 TS. Trần Thị Hồng Minh đã chủ trì nhiều sáng kiến
chính sách, trong đó có Chiến lược quốc gia về Cách mạng
Công nghiệp 4.0, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, Đề án Thể chế liên kết vùng ở Việt Nam,
Đề án Phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam, Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Hiện tại, TS. Trần Thị Hồng Minh đang chủ trì xây dựng dự thảo Nghị định về cơ chế thử
nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn.
 TS. Trần Thị Hồng Minh có bằng Thạc sỹ về Kinh tế và thương mại quốc tế tại
Đại học Flinders, Australia, và Tiến sỹ về Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế tại
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam (trao bằng năm 2013).

MELISSA MACEWEN
Giám đốc ESG phụ trách chức năng kinh tế tuần hoàn
ở New Zealand và khu vực APAC, chuyên gia của PwC
Châu Á Thái Bình Dương.
 Với nền tảng kinh nghiệm về quy định năng lượng
và công nghiệp và các vấn đề công cộng, Melissa sau đó đã
dành bốn trong số năm năm qua để quản lý chương trình Môi
trường và Xã hội của viện chính sách quốc tế Chatham
House có trụ sở tại London (bao gồm các lĩnh vực chủ đề về
thực phẩm, đất đai và nông nghiệp, biến đổi khí hậu, quản
trị tài nguyên, năng lượng và nền kinh tế tuần hoàn). Ở đó,
bà đã lãnh đạo sự phát triển của lĩnh vực chủ đề kinh tế tuần
hoàn, đưa ra nghiên cứu và phân tích và đưa ra các khuyến nghị cho các chính phủ quốc tế,
các tổ chức đa phương, ngân hàng phát triển, tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp trong
các lĩnh vực tài chính, hệ thống thực phẩm, chất thải điện tử và nguyên liệu thô quan trọng,
năng lượng tái tạo, sản xuất và xây dựng.
 Melissa có kinh nghiệm trong việc xác định lợi ích và sự đánh đổi của việc chuyển
đổi sang nền kinh tế tuần hoàn, Các khuyến nghị của bà đã được đưa vào chiến lược kinh tế
tuần hoàn của Ủy ban châu Âu và bà được coi là đối tác tri thức chính cho các tổ chức tư
nhân và công cộng trên toàn thế giới khi nền kinh tế tuần hoàn đạt được chỗ đứng.

31
Christopher Phillip Howe
 Kinh nghiệm
- Tháng 7, 2021 – nay: Trưởng nhóm WWF
Đồng bằng châu Á, Đồng bằng sông Cửu Long
- Tháng 2, 2019 – Tháng 7, 2021: Trưởng nhóm
Thực phẩm và Cảnh quan, WWF-Vương quốc Anh
- Tháng 1, 2017 – Tháng 1, 2019: IUCN văn
phòng khu vực châu Á, Giám đốc Dự án
- Tháng 1, 2007 – Tháng 12, 2016: Giám đốc
Điều hành WWF-New Zealand
 Bằng cấp:
- 2022: Bảo tồn bao trùm WWF
- 2011: Thạc sĩ Viết sáng tạo, trường Đại học Wellington, Victoria
- 2007-2013: WWF Leading at the Top, IMD International, Lausanne
 Hiệp hội
- 1985-nay: Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Anh Quốc
- 1997-nay: IUCN, Ủy ban quản lý hệ sinh thái
- 2007-nay: IUCN, Ủy ban quốc tế Các khu vực được bảo vệ

Jochen M. Schmittmann
Trưởng đại diện thường trú khu vực của
IMF tại Việt Nam, Campuchia và Lào.
 Trước đó, ông là Phó Giám đốc Văn
phòng Khu vực Châu Á và Thái Bình Dương của
IMF tại Tokyo, chuyên gia Kinh tế của Phái đoàn
IMF làm việc về Nhật Bản và Trưởng đoàn của
đoàn IMF làm việc về Liên bang Micronesia.
 Trước đây, ông là Đại diện thường trú
của IMF tại Singapore, phụ trách các thị trường
tài chính Singapore, Malaysia và châu Á.
 Trước khi đến Singapore, Jochen đã làm việc tại Vụ Châu Á – Thái Bình
Dương (và là chuyên gia Kinh tế chính cao cấp của Phái đoàn IMF làm việc về Việt
Nam từ năm 2014 đến 2017), Vụ Các nước Tây Bán cầu, Vụ Tài chính, và Vụ Tiền
tệ và Thị trường vốn. Ông cũng từng là thành viên của nhóm quản lý các khoản đầu
tư của IMF
 Ông đã xuất bản nhiều ấn phẩm về các chủ đề trong lĩnh vực tài chính và
kinh tế vĩ mô, bao gồm tài chính hành vi, tài chính khí hậu, phòng ngừa rủi ro tiền tệ,
thị trường lao động và tác động kinh tế của thay đổi nhân khẩu học ở châu Á.
Jochen có bằng Tiến sĩ Kinh tế Tài chính tại Đại học Goethe Frankfurt

32
PHẦN 2
BÀI THAM LUẬN

33
Khai phá tiềm năng:
Hài hòa các tiêu chí ESG toàn cầu thông qua sự lãnh
đạo của Liên hợp quốc vì một tương lai bền vững

Tóm tắt

Các tiêu chí về Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) đã phát triển thành một khuôn khổ
quan trọng để đánh giá các hậu quả lâu dài và đạo đức của các hoạt động đầu tư và kinh
doanh. Trong khi khái niệm về tiêu chí ESG đang ngày càng có chỗ đứng thì việc thiếu các
tiêu chuẩn toàn cầu chắc chắn khiến việc triển khai rộng rãi và hiệu quả trở nên khó khăn.
Bài viết này ủng hộ Liên hợp quốc (LHQ) dẫn đầu nỗ lực hài hòa các tiêu chí ESG toàn cầu,
tạo ra một khuôn khổ rõ ràng và đầy đủ có thể thúc đẩy sự phát triển bền vững và các hoạt
động kinh doanh có trách nhiệm xuyên biên giới. Bài viết này nhấn mạnh tầm quan trọng
của các nỗ lực hợp tác quốc tế nhằm khai thác toàn bộ tiềm năng của các tiêu chí ESG cho
một tương lai bền vững bằng cách đi sâu vào hiện trạng của các tiêu chí ESG, phân tích lợi
ích tiềm tàng của việc tiêu chuẩn hóa và khám phá vai trò của Liên hợp quốc trong việc thúc
đẩy quá trình này.

Từ khóa: ESG, sự bền vững, hài hòa, toàn cầu, lãnh đạo, Liên Hợp Quốc

1. Giới thiệu

Các yếu tố Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) gần đây đã trở nên nổi bật như một mô
hình quan trọng để đánh giá hiệu quả phi tài chính của các tổ chức và đầu tư (Escrig-Olmedo
và cộng sự, 2019; Friede và cộng sự, 2015; Pedersen và cộng sự cộng sự, 2021; Tien và
cộng sự, 2020; Townsend, 2020). Bộ tiêu chí toàn diện này bao gồm nhiều mối quan tâm, từ
đo lường tác động môi trường của các hoạt động và tuân thủ các cam kết trách nhiệm xã hội
cho đến kiểm tra tính hiệu quả của các thủ tục quản trị doanh nghiệp. Trong thời đại được
đánh dấu bởi những mối lo ngại toàn cầu nghiêm trọng như biến đổi khí hậu, bất công xã
hội và nhu cầu về hành vi đạo đức của doanh nghiệp, tầm quan trọng của tiêu chí ESG trong
việc xác định quy trình ra quyết định và củng cố các sáng kiến bền vững đã tăng lên rất
nhiều.

Thế giới hiện đại đang ở ngã ba đường, phải vật lộn với những mối quan tâm phức tạp và đa
chiều đòi hỏi các giải pháp hợp tác và sáng tạo. Trong bối cảnh này, các tiêu chí ESG nổi
lên như một tia hy vọng, cung cấp một khuôn khổ có cấu trúc để các doanh nghiệp và nhà
đầu tư quản lý hoạt động và quyết định của họ thông qua một lăng kính vượt ra ngoài những
cân nhắc về tài chính. Các tiêu chí này vận hành như một bộ công cụ năng động khuyến
khích sự xem xét từ bên trong, trách nhiệm giải trình và sự phù hợp với những lý tưởng vượt
xa tỷ suất lợi nhuận. Tuy nhiên, để các tiêu chí ESG phát huy hết tiềm năng của chúng với
tư cách là động lực thúc đẩy sự thay đổi tích cực, cần phải có một khuôn khổ vững chắc và

34
được thống nhất trên toàn cầu (Escrig-Olmedo và cộng sự, 2019; Gibson Brandon và cộng
sự, 2021; Khan, 2022; Li và cộng sự cộng sự, 2021).

Mặc dù có được sự thừa nhận ngày càng tăng về tầm quan trọng của các vấn đề ESG, một
thách thức dai dẳng đã che mờ tác động của chúng trên toàn thế giới: thiếu một khuôn khổ
được xác lập chắc chắn và được chấp nhận rộng rãi để phân tích và báo cáo hiệu suất ESG.
Môi trường ESG đương đại được phân biệt bởi rất nhiều lý thuyết, kỹ thuật và hệ thống đánh
giá (Dimson và cộng sự, 2020). Kết quả là, các công ty, nhà đầu tư và các bên liên quan khác
thường xuyên bị buộc phải xoay xở trong một mê cung phức tạp gồm các thước đo, chỉ số
và tiêu chuẩn khác nhau. Mặc dù sự đa dạng này phản ánh sự chú trọng ngày càng tăng vào
tính bền vững nhưng nó cũng mang lại những thách thức riêng (Van & Long, 2022).

Việc thiếu một khuôn khổ xác định sẽ cản trở khả năng so sánh dữ liệu ESG, làm phức tạp
quá trình ra quyết định và ảnh hưởng đến độ tin cậy của các thông tin ESG (Avramov và
cộng sự, 2022; Dimson và cộng sự, 2020). Kết quả là, mục tiêu tăng trưởng bền vững bị cản
trở bởi sự thiếu nhất quán trong giải thích dữ liệu, khó khăn trong việc so sánh hiệu quả hoạt
động và các vấn đề để phân biệt những nỗ lực bền vững thực sự với những cử chỉ hời hợt,
thường được gọi là “tẩy xanh” (Delmas & Burbano, 2011; Freitas Netto và cộng sự, 2020).
Sự thiếu nhất quán trong các tiêu chí ESG đặt ra những thách thức trong việc huy động nguồn
lực cho các hoạt động bền vững quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu hóa, nơi vốn chảy
xuyên biên giới và đầu tư vượt qua ranh giới địa lý (Dimson và cộng sự, 2020; Friede và
cộng sự, 2015; Shakil, 2021).

Với những vấn đề này, nhu cầu cấp thiết là phải chuẩn hóa các tiêu chí ESG. Một khuôn khổ
thống nhất sẽ thúc đẩy sự cởi mở, cho phép đưa ra quyết định sáng suốt và tạo sân chơi bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh dựa trên các biện pháp bền vững thực sự (Escrig-
Olmedo và cộng sự, 2019). Sự hài hòa như vậy sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho các nhà
đầu tư muốn sử dụng nguồn lực một cách có đạo đức mà còn cho phép các doanh nghiệp coi
tính bền vững như một thành phần vốn có trong kế hoạch hoạt động của họ (Drempetic và
cộng sự, 2020). Con đường hướng tới tiêu chuẩn hóa các tiêu chuẩn ESG toàn cầu có tiềm
năng mở ra một kỷ nguyên mới về ứng xử kinh doanh có trách nhiệm, cho phép các công ty
đóng góp thực sự cho một tương lai bền vững, đồng thời tạo ra giá trị cho các cổ đông và
các bên liên quan (Adams & Abhayawansa, 2022).

2. Bối cảnh tiêu chí ESG hiện tại

Từ các cơ quan xếp hạng quan trọng và các hiệp hội ngành cho đến các tổ chức tài chính nổi
tiếng, rất nhiều khuôn khổ, phương pháp và hệ thống tính điểm đã xuất hiện. Nói chung,
những sáng kiến này đã bổ sung thêm vào tấm thảm phong phú tạo nên bối cảnh ESG
(Dimson và cộng sự, 2020; Shakil, 2021). Chúng rất quan trọng trong việc nâng cao nhận
thức về sự cần thiết của việc kết hợp các cân nhắc về môi trường, xã hội và quản trị bên cạnh
các chỉ số tài chính truyền thống khi đánh giá hiệu suất và hiệu quả của công ty
(Mervelskemper & Streit, 2017). Hơn nữa, những chương trình này rất cần thiết trong việc
vận hành kinh doanh có trách nhiệm ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, đòi hỏi các tập
đoàn có ý thức hơn về ảnh hưởng xã hội và môi trường của mình (Văn & Long, 2022).
35
Mặc dù các hướng dẫn và quy trình ESG này rõ ràng đã hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang các
hoạt động kinh doanh bền vững hơn, nhưng chúng cũng đã vô tình góp phần tạo ra bức tranh
phân mảnh định hình nên sân khấu ESG đương đại. Do không có cách tiếp cận thống nhất
nên mỗi khuôn khổ nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hoạt động ESG, áp dụng các
quy trình đánh giá khác nhau và đo lường các tiêu chí khác nhau. Do đó, các tổ chức thường
được đánh giá bằng cách sử dụng các số liệu riêng biệt mang lại kết quả khác nhau, khiến
việc so sánh chéo vốn có ý nghĩa quan trọng lại trở nên khó khăn (Berg và cộng sự, 2022;
Billio và cộng sự, 2021).

Sự không nhất quán trong phương pháp đánh giá ESG này có những hậu quả sâu rộng. Một
khó khăn trước mắt là khả năng xảy ra sự không nhất quán trong cách mô tả hiệu quả hoạt
động bền vững của công ty (Alsayegh và cộng sự, 2020; Khan, 2022). Các công ty có thể
nhấn mạnh các lĩnh vực hoạt động của họ tương ứng với các khuôn khổ ESG cụ thể trong
khi có thể xem nhẹ các lĩnh vực khác, được thúc đẩy bởi sức hấp dẫn của thương hiệu thuận
lợi và danh tiếng ngày càng tăng (Arvidsson & Dumay, 2022). Sự nhấn mạnh có chọn lọc
này, được gọi là "tẩy xanh", có thể dẫn đến sự miêu tả sai lệch các cam kết bền vững của
công ty, làm suy yếu niềm tin mà các nhà đầu tư, người tiêu dùng và các bên liên quan khác
đặt vào các công bố ESG (Delmas & Burbano, 2011; Freitas Netto và cộng sự , 2020).

Hơn nữa, sự thiếu nhất quán trong việc đánh giá và báo cáo hiệu quả hoạt động ESG có ý
nghĩa mang tính hệ thống rộng hơn đối với những người ra quyết định ở mọi cấp độ. Do sự
không nhất quán trong dữ liệu có thể truy cập được, các nhà đầu tư, những người đóng vai
trò quan trọng trong việc phân bổ tiền cho các công ty bền vững, gặp khó khăn trong việc
đánh giá đầy đủ hiệu suất ESG của các khoản đầu tư tiềm năng (Avramov và cộng sự, 2022;
Caplan và cộng sự, 2013). Tương tự, các công ty cố gắng kết nối chiến lược của mình với
các mục tiêu dài hạn sẽ gặp khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của mình so
với các công ty cùng ngành và xác định tính hiệu quả của các chương trình bền vững của họ
(Pedersen và cộng sự, 2021).

Việc thiếu khả năng so sánh và báo cáo chuẩn hóa cũng là trở ngại chính cho các nhà hoạch
định chính sách và cơ quan quản lý trong việc thiết lập các khuôn khổ bền vững hiệu quả và
khuyến khích hành vi có trách nhiệm trong phạm vi quyền hạn của họ. Việc xây dựng các
chính sách thành công trở thành một nhiệm vụ khó khăn hơn khi không có một tiêu chuẩn
và một cách thức giám sát hiệu quả ESG được chấp nhận trên toàn cầu, có khả năng dẫn đến
các quy tắc rời rạc và không đồng đều trên các thị trường khác nhau (Adams & Abhayawansa,
2022; Arvidsson & Dumay, 2022).

Về bản chất, sự thiếu nhất quán trong đánh giá và báo cáo ESG làm suy yếu khả năng so
sánh và độ tin cậy của dữ liệu ESG, hạn chế khả năng của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và
chính phủ trong việc đưa ra quyết định có hiểu biết và có ảnh hưởng. Để nhận ra đầy đủ tiềm
năng của các tiêu chí ESG với tư cách là động lực thay đổi tích cực, cộng đồng toàn cầu phải
hợp tác để tạo ra một khuôn khổ tiêu chuẩn hóa nhằm thống nhất những nỗ lực khác nhau
này và mở đường cho việc đánh giá toàn diện, minh bạch và nhất quán hơn về hiệu quả hoạt
động bền vững.

36
3. Lập luận về sự hài hòa

Để bắt đầu, việc thiết lập một từ vựng thống nhất và khuôn khổ được thừa nhận trên toàn
cầu để đánh giá ESG là một bước quan trọng nhằm tăng cường tính minh bạch và độ tin cậy
trong báo cáo ESG. Sự rõ ràng mới được phát hiện này sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư và
các bên liên quan một nền tảng vững chắc để đưa ra quyết định. Một khuôn khổ ESG thống
nhất đảm bảo rằng thông tin được sử dụng để ra quyết định là đáng tin cậy và không có sự
mơ hồ trong một thế giới nơi những cân nhắc về đạo đức và sự bền vững ngày càng được
coi trọng (Adams & Abhayawansa, 2022). Sự khả tín này tạo ra niềm tin cao hơn giữa các
tổ chức và các bên liên quan của họ, mở đường cho sự tham gia và hợp tác có ý nghĩa hơn
trong tương lai (Berg và cộng sự, 2022).

Ngoài tính minh bạch, lợi ích của việc hài hòa các tiêu chí ESG còn mở rộng sang đầu tư
xuyên biên giới (Escrig-Olmedo và cộng sự, 2017). Việc giảm bớt những trở ngại gây ra bởi
sự khác biệt trong tiêu chuẩn báo cáo ESG giữa các khu vực pháp lý có khả năng giải phóng
dòng vốn quốc tế đổ vào các sáng kiến bền vững. Bằng cách thiết lập một sân chơi bình đẳng
trong đó thông tin ESG được tổ chức và đánh giá thống nhất, các nhà đầu tư có thể tự tin
theo đuổi các khả năng trên thị trường toàn cầu mà không phải đối mặt với những khó khăn
do các thủ tục báo cáo khác nhau gây ra. Sự hội tụ này phù hợp với cấu trúc toàn cầu của
nền kinh tế ngày nay, trong đó các khoản đầu tư xuyên lục địa và những nỗ lực bền vững
đáng được ủng hộ, không kể vị trí ở đâu (Amel-Zadeh & Serafeim, 2018; Halbritter &
Dorfleitner, 2015).

Tác động của tiêu chuẩn hóa tiếp tục vang dội khắp môi trường doanh nghiệp, truyền cảm
hứng cho sự đổi mới và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Các công ty được cung cấp một
bộ tiêu chí nhất quán để đánh giá hiệu quả hoạt động của họ so với các công ty cùng ngành
và các tiêu chuẩn của ngành khi có một khuôn khổ thống nhất. Môi trường năng động này
thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới và phát triển các cách thức cải thiện đáng kể hiệu suất
ESG của họ (Billio và cộng sự, 2021; Khan, 2022). Các công ty cạnh tranh để thành công
trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn ESG đã được xác định cụ thể có thể mang lại những đột
phá mang tính thay đổi cuộc chơi trong chiến lược bền vững. Cuộc đua cạnh tranh hướng tới
các tiêu chuẩn ESG cao hơn này có thể đóng vai trò là động lực thúc đẩy nghiên cứu mới,
công nghệ biến đổi và các mô hình kinh doanh có trách nhiệm hơn, cùng nhau thúc đẩy con
đường hướng tới một tương lai bền vững (Alsayegh và cộng sự, 2020; Billio và cộng sự,
2021).

Tóm lại, việc xác định tiêu chí ESG toàn cầu là một bước chủ động hướng tới cải thiện cách
thức hoạt động của tổ chức, cách thức đầu tư và cách thức phát triển xã hội. Nó tạo dựng
niềm tin và tạo điều kiện cho các phán đoán sáng suốt bằng cách mang lại sự rõ ràng và độ
tin cậy cho báo cáo ESG. Việc xóa bỏ rào cản xuyên biên giới khuyến khích đầu tư quốc tế
vào các sáng kiến bền vững, thúc đẩy chương trình nghị sự về bền vững toàn cầu. Hơn nữa,
áp lực cạnh tranh mà nó tạo ra giữa các doanh nghiệp sẽ khuyến khích sự đổi mới, mang lại
những lợi ích cụ thể trong thực tiễn phát triển bền vững. Những lợi thế này kết hợp với tác

37
động của những cân nhắc về ESG sẽ thúc đẩy tiến trình hướng tới một thế giới có đạo đức,
có trách nhiệm và bền vững hơn.

4. Vai trò của Liên hợp quốc

Liên Hợp Quốc (LHQ) là ngọn hải đăng của hợp tác và cộng tác quốc tế, có vị trí hoàn hảo
để đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu chuẩn hóa các tiêu chí ESG toàn cầu. Phạm vi tiếp
cận rộng rãi, độ tin cậy và khả năng triệu tập vô song của nó mang lại mảnh đất màu mỡ cho
việc sắp xếp một khuôn khổ thống nhất vượt qua biên giới địa lý, chính trị và ngành (Kim &
Yoon, 2023).

Khi xem xét vai trò của Liên hợp quốc trong nỗ lực này, người ta có thể hình dung ra một
cách tiếp cận toàn diện, tập hợp nhiều bên khác nhau. Khả năng nội tại của LHQ trong việc
tập hợp các bên lại với nhau trên một nền tảng chung, chẳng hạn như chính phủ, các tập đoàn
đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và các tổ chức tài chính, có rất nhiều hứa hẹn.
Sự hội tụ các quan điểm này nhờ danh tiếng của Liên hợp quốc trong việc thúc đẩy đối thoại
mang tính xây dựng, làm gia tăng sự trao đổi hiệu quả về ý tưởng, hiểu biết và các thực hành
tối ưu (Ortas và cộng sự, 2015). Thông qua những tương tác này, có thể phát triển được một
khuôn khổ hoàn chỉnh bao phủ các thách thức quan trọng nhất của ESG, đưa ra các lời
khuyên về đánh giá và báo cáo.

Sứ mệnh của LHQ không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi mà còn là chủ đích tạo
dựng sự đồng thuận. Liên hợp quốc, với cam kết lâu dài về phát triển bền vững, đóng vai trò
là một diễn đàn trung lập, nơi các lợi ích đa dạng có thể được cân bằng và hài hòa. LHQ có
khả năng thu hẹp khoảng cách và phát triển sự hiểu biết chung giữa các bên liên quan thông
qua việc khởi xướng các cuộc thảo luận, tiến hành nghiên cứu và triệu tập các nhóm làm
việc gồm các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực. Kinh nghiệm sâu rộng của mạng lưới toàn cầu
LHQ giúp tổ chức này có khả năng điều tra các khía cạnh tinh tế của việc cân nhắc ESG
trong khi tính đến hoàn cảnh khu vực, những thách thức theo ngành cụ thể và các quan điểm
khác nhau của các bên liên quan (Sethi & Schepers, 2014).

Trong môi trường này, một trong những tài sản quý giá nhất của LHQ là tính hợp pháp của
tổ chức này. Sự tham gia của Liên hợp quốc trong việc tiêu chuẩn hóa các tiêu chí ESG mang
lại sự tin cậy cho khuôn khổ sau cùng với tư cách là một tổ chức toàn cầu đáng tin cậy (Kim
& Yoon, 2023). Tính trung lập và không đảng phái của nó thiết lập một môi trường trong đó
sự lựa chọn được thực hiện dựa trên lợi ích tập thể hơn là lợi ích cá thể. Điều này mang lại
tính hợp pháp cho các nguyên tắc ESG tiêu chuẩn hóa được phát triển nhờ nỗ lực hợp tác
này, xây dựng niềm tin trong tâm trí các nhà đầu tư, doanh nghiệp và xã hội.

Hơn nữa, sự chuyên nghiệp của Liên hợp quốc trong việc đàm phán những khó khăn toàn
cầu phức tạp khiến tổ chức này trở thành ứng cử viên hoàn hảo không chỉ để mở đầu các
cuộc đối thoại mà còn thúc đẩy nỗ lực lâu dài nhằm hài hòa các tiêu chí ESG. Thành tích
của tổ chức trong việc đoàn kết các quốc gia và các bên liên quan xung quanh các mục tiêu
chung, chẳng hạn như Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), đóng vai trò là hình mẫu cho
tiềm năng mang lại kết quả mang tính cách mạng của tổ chức (Pradhan và cộng sự, 2017).

38
Tóm lại, sự tham gia của Liên hợp quốc vào việc tiêu chuẩn hóa các tiêu chí ESG toàn cầu
không phải là một gợi ý mà là một nhu cầu. Vị thế trên toàn thế giới, thái độ trung lập, nền
tảng hợp tác và sự chuyên nghiệp của nó thúc đẩy một bầu không khí phù hợp để bắt đầu,
tạo điều kiện và dẫn dắt quá trình phát triển khuôn khổ ESG được công nhận rộng rãi. Thông
qua các nguyên tắc ESG đã được thiết lập vượt qua các ranh giới và mở đường cho sự thành
công hợp tác toàn cầu, LHQ có thể quản lý sự phức tạp của các lợi ích khác nhau của các
bên liên quan, thúc đẩy thỏa thuận và giúp thiết kế một tương lai bền vững hơn.

5. Vượt qua khó khăn và tiến về phía trước

Lộ trình hướng tới sự hài hòa hóa các tiêu chuẩn ESG trên toàn thế giới là một hoạt động
phức tạp và đa chiều, đòi hỏi sự cân bằng tốt giữa nhiều khía cạnh (Cornell, 2021; Eccles &
Stroehle, 2018). Mặc dù tồn tại những rào cản nhưng không phải là không thể vượt qua và
với việc lập kế hoạch cẩn thận, phối hợp nhóm và cống hiến cho các mục tiêu phát triển bền
vững tổng thể, những trở ngại này có thể được giải quyết bằng cách tiếp cận chủ động và
toàn diện (Arvidsson & Dumay, 2022; Pradhan và cộng sự, 2017).

Lợi ích khác nhau của các bên liên quan trong quá trình hài hòa hóa gây ra trở ngại đáng kể.
Các chính phủ, tập đoàn, tổ chức phi chính phủ (NGO) và các tổ chức tài chính đều đưa ra
quan điểm, mục tiêu và mối lo lắng của riêng mình (Berg và cộng sự, 2022; Dimson và cộng
sự, 2020). Việc cân bằng những lợi ích khác nhau này đòi hỏi một cách tiếp cận khéo léo và
toàn diện để đảm bảo mọi tiếng nói đều được lắng nghe. Thảo luận có sự tham gia của các
bên là cần thiết vì chúng tạo ra một diễn đàn để trao đổi cởi mở, thúc đẩy kiến thức được
chia sẻ về những vấn đề phức tạp liên quan. Việc trao đổi ý tưởng cởi mở này rất quan trọng
để đạt được giải pháp dựa trên sự đồng thuận, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của tất cả
các bên liên quan.

Hơn nữa, việc đưa vào những sắc thái riêng biệt của ngành là một điều quan trọng cần cân
nhắc. Từ công nghệ, nông nghiệp đến năng lượng, mỗi ngành đều có những đặc điểm riêng
ảnh hưởng đến các vấn đề ESG của họ (Berg và cộng sự, 2022). Việc nhận biết những khác
biệt này đòi hỏi cách tiếp cận đa sắc thái — một cách tiếp cận cho phép tùy chỉnh khuôn khổ
tiêu chuẩn hóa để đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng ngành. Quá trình tiêu chuẩn hóa có thể
luôn năng động và linh hoạt bằng cách sử dụng chiến lược lặp lại bao gồm các vòng phản
hồi liên tục và hiểu biết sâu sắc của chuyên gia, đảm bảo rằng khuôn khổ đạt được có tính
mạnh mẽ và có thể được sử dụng trong các lĩnh vực (Billio và cộng sự, 2021).

Các biến thể văn hóa, tuy đa dạng nhưng lại thường có thể cản trở quá trình hài hòa (Dimson
và cộng sự, 2020). Các giá trị và thông lệ khác nhau rất nhiều giữa các địa điểm và những
khác biệt về văn hóa này có thể ảnh hưởng đến cách giải thích và sử dụng các tiêu chuẩn
ESG thông thường. Điều quan trọng là phải vượt qua khó khăn này bằng cách nhấn mạnh
tính toàn diện và tôn trọng nền tảng văn hóa đa dạng. Nó đòi hỏi phải thúc đẩy một diễn
ngôn trong đó các biến thể văn hóa được coi là điểm mạnh chứ không phải là trở ngại, đồng
thời thừa nhận rằng có thể cần phải có những thay đổi cục bộ để đảm bảo sự thành công và
phù hợp của khuôn khổ ở nhiều nơi khác nhau (Khan, 2022).

39
Chìa khóa để vượt qua những trở ngại này là duy trì cam kết phù hợp với các mục tiêu bền
vững toàn cầu lớn hơn, chẳng hạn như Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Những mục
tiêu này đưa ra một tầm nhìn chung vượt lên trên lợi ích cá nhân và nuôi dưỡng ý thức cộng
đồng. Khuôn khổ này đạt được mục đích cao hơn bằng cách gắn kết các nỗ lực hài hòa hóa
trong bối cảnh các mục tiêu bền vững đã được thiết lập này — một mục tiêu phù hợp với
nguyện vọng của cộng đồng toàn cầu về một xã hội bình đẳng, công bằng và bền vững hơn
(Alsayegh và cộng sự, 2020; Crifo & Diaye, Marc -Arthur, Oueghlissi, Rim, 2017; Tien và
cộng sự, 2020). Sự liên kết đó không chỉ duy trì tính toàn vẹn của các nguyên tắc ESG được
tiêu chuẩn hóa mà còn thúc đẩy sự hợp tác nhiều hơn giữa các bên liên quan khi họ cùng
nhau hướng tới một mục tiêu chung.

Tóm lại, mặc dù con đường hướng tới việc hài hòa các quy tắc ESG toàn cầu đầy rẫy những
khó khăn nhưng cũng có rất nhiều cơ hội để thay đổi mạnh mẽ. Những rào cản này có thể
được chuyển thành bước đệm hướng tới một cách tiếp cận tiêu chuẩn hóa, minh bạch và có
tác động hơn đối với đánh giá ESG bằng cách áp dụng các cuộc thảo luận có sự tham gia,
các quy trình lặp lại và sự cống hiến cho cả các mối quan tâm cụ thể của ngành và các mục
tiêu bền vững toàn cầu. Cộng đồng toàn cầu có thể dẫn đường cho một tương lai trong đó
các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm là chuẩn mực và tính bền vững là một thành phần
cố hữu của tiến bộ kinh tế và xã hội toàn cầu bằng cách hợp tác, đổi mới và cam kết bền
vững.

6. Nhận xét cuối cùng

Trong thời đại được đánh dấu bằng mức độ kết nối và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng,
nhu cầu xác định các tiêu chí ESG toàn cầu càng trở nên cấp bách hơn. Khi những khó khăn
mà chúng ta phải đối mặt, từ suy thoái môi trường đến bất bình đẳng xã hội, vượt qua ranh
giới quốc gia, một khuôn khổ tiêu chuẩn hóa sẽ trở thành công cụ quan trọng để tạo ra phản
ứng hợp tác đối với những vấn đề toàn cầu phức tạp này. Khuôn khổ ấy hoạt động như một
ngôn ngữ chung, tạo điều kiện cho sự hợp tác có ý nghĩa và thúc đẩy cam kết chung nhằm
đảm bảo một tương lai bền vững và công bằng cho tất cả mọi người.

Liên Hợp Quốc (LHQ) đóng vai trò quan trọng đối với nỗ lực này vì nó có vị thế đặc biệt để
dẫn đầu cuộc chiến hướng tới tiêu chuẩn hóa ESG toàn cầu. Do lịch sử lâu dài của Liên hợp
quốc với tư cách là cơ quan triệu tập và hòa giải toàn cầu, đây là chất xúc tác tự nhiên cho
sự thay đổi mạnh mẽ này. Sức mạnh tập hợp của nó vượt qua các ranh giới chính trị, kinh tế
và văn hóa, tạo ra một môi trường trung lập cho các chính phủ, công ty, tổ chức phi chính
phủ (NGO) và các bên liên quan khác tham gia vào các cuộc thảo luận hiệu quả. Cuộc thảo
luận này đóng vai trò là lò thử thách để nhiều quan điểm va chạm với nhau, tạo ra một con
đường không chỉ phù hợp mà còn tôn vinh sự đa dạng về lợi ích, hiểu biết sâu sắc và giải
pháp cần thiết cho khuôn khổ ESG toàn diện và được chấp nhận rộng rãi.

Sự cống hiến của Liên hợp quốc cho việc cải thiện toàn cầu đã gắn liền với văn hóa của tổ
chức này, khiến tổ chức này trở thành một cơ quan có năng lực và đáng tin cậy để quản lý
sự phức tạp của nỗ lực này. Chương trình nghị sự của nó dựa trên mục tiêu chung là biến thế
giới thành một nơi công bằng, bền vững và thịnh vượng hơn cho các thế hệ hiện tại và tương
40
lai. Bằng cách ủng hộ việc tiêu chuẩn hóa các tiêu chí ESG, LHQ không chỉ hoàn thành các
nhiệm vụ hiện có mà còn mở rộng ảnh hưởng của mình trong một lĩnh vực có ý nghĩa rất lớn
đối với cộng đồng quốc tế.

Hơn nữa, sự tham gia của Liên Hợp Quốc không chỉ đơn giản là đặt ra các tiêu chuẩn; nó
cho phép các doanh nghiệp, nhà đầu tư và xã hội nói chung giải quyết hiệu quả hơn mạng
lưới phức tạp của các vấn đề liên quan tới bền vững. Liên Hợp Quốc cung cấp cho các bên
liên quan một công cụ để vượt qua những thách thức trong đánh giá ESG bằng cách tạo một
khuôn khổ gắn kết nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong khu vực, sự khác biệt về văn hóa
và những thành kiến trong ngành. Việc trao quyền này vượt ngoài khuôn khổ học thuật và
có tác động hữu hình. Các doanh nghiệp có thể kết hợp các ý tưởng bền vững vào hoạt động
của mình một cách an toàn khi biết rằng những nỗ lực của họ sẽ phù hợp với các tiêu chuẩn
được công nhận trên toàn cầu. Các nhà đầu tư có thể hướng nguồn vốn vào các sáng kiến
cho thấy sự tiến bộ rõ rệt hướng tới tính bền vững. Thông qua các đánh giá dựa trên dữ liệu
ESG nhất quán và chính xác, xã hội có thể buộc các tổ chức phải chịu trách nhiệm.

Tóm lại, việc hài hòa hóa các tiêu chí ESG toàn cầu không chỉ đơn giản là một bước nhỏ
hướng tới một tương lai bền vững và công bằng hơn. Với khả năng triệu tập, cống hiến để
cải thiện và ảnh hưởng toàn cầu, Liên hợp quốc có cơ hội dẫn đầu cuộc cách mạng này. Liên
Hợp Quốc tập hợp các bên liên quan lại với nhau để theo đuổi một thế giới nơi tính bền vững
không chỉ là lý tưởng cao cả mà còn là hiện thực chung bằng cách khuyến khích tiêu chuẩn
hóa các tiêu chí ESG. Cộng đồng toàn cầu có thể vượt qua những rào cản chia rẽ và thiết lập
một con đường thống nhất hướng tới một thế giới bền vững, công bằng và thịnh vượng hơn
cho các thế hệ tương lai với sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.

Tiến sỹ danh dự đa lĩnh vực, Philipp Rösler

Lãnh sự danh dự tới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Elena Weber,

Consessor AG

41
Các chính sách tạo ra tăng trưởng xanh hướng tới net
zero và sứ mệnh của doanh nghiệp

1. Giới thiệu
Nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với các vấn đề ngày càng gia tăng về suy
thoái đất, thiếu nước, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và mất đa dạng sinh học dưới tác
động của biến đổi khí hậu do phát thải khí nhà kính (GHG) ngày càng tăng (Arias và
cộng sự., 2020; Hatfield-Dodds và cộng sự., 2015; Hoegh-Guldberg & Bruno, 2010;
Xi và cộng sự., 2021). Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các chính sách,
chiến lược khác nhau và thúc đẩy phát triển công nghệ nhằm giảm phát thải khí nhà
kính và tỷ lệ khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nhiều quốc gia cũng đã đồng ý và đưa
vào thực tiễn các chính sách để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 cho đến năm
2050, trong khi nhiều quốc gia khác cũng đang trong quá trình thảo luận hoặc sớm
công bố/cam kết mục tiêu này1. Trong bối cảnh đó, việc đạt được mục tiêu phát thải
ròng bằng 0 đòi hỏi sự kết hợp của các công cụ, chương trình chính sách được thiết
kế tốt, phát triển công nghệ trong các lĩnh vực và khu vực địa phương khác nhau, tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và môi trường của một quốc gia.
Chiến lược tăng trưởng xanh là một trong những cơ chế nổi bật nhằm giảm phát
thải khí nhà kính vào khí quyển và giảm tỷ lệ khai thác tài nguyên thiên nhiên, từ đó
giảm áp lực lên hành tinh của chúng ta. Đặc biệt, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế (OECD) đã đưa ra Tuyên bố về Tăng trưởng Xanh năm 2009 và ban hành Chiến
lược Tăng trưởng Xanh năm 2011. Hiện đã có gần 50 quốc gia tham gia Tuyên bố
OECD về Tăng trưởng Xanh năm 20092. Nhìn chung, tăng trưởng xanh có nghĩa là
nền kinh tế cần phát triển và tăng trưởng dựa trên sự tôn trọng tài nguyên thiên nhiên
và đi theo con đường bền vững về môi trường. Tăng trưởng xanh bao trùm nhiều khía
cạnh trong hệ thống kinh tế và môi trường, trong đó quá trình chuyển đổi sang các
nguồn năng lượng tái tạo trong toàn bộ hệ thống kinh tế sẽ đóng vai trò quan trọng.
Điều đó có nghĩa rằng không chỉ ngành sản xuất điện đặt mục tiêu thay thế đầu vào
từ nhiên liệu hóa thạch bằng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo, mà các ngành khác
như nông nghiệp, sản xuất, dịch vụ, khu vực công và tư nhân cũng cần giảm sự phụ
thuộc vào nhiên liệu hóa thạch bằng cách phát triển hệ thống năng lượng mặt trời áp
mái hoặc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo khác (như điện gió, thủy điện, điện
khí hydro…). Các lĩnh vực khác, như lĩnh vực giao thông vận tải, có thể được phát
triển hiệu quả với mạng lưới giao thông công cộng sử dụng điện và khí hydro thay thế
cho nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Cụ thể, các phương tiện chạy bằng xăng hoặc
dầu diesel cũng có thể được thay thế bằng phương tiện chạy bằng khí hydro hoặc điện.
Các tòa nhà cũng có thể được trang bị hệ thống và thiết bị sử dụng năng lượng thông
minh và hiệu quả để giảm thiểu mức tiêu thụ điện. Ngành xây dựng có thể thay thế
vật liệu truyền thống bằng vật liệu tái tạo thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, không
có cách tiếp cận “phù hợp cho tất cả” để thúc đẩy tăng trưởng xanh do khác biệt trong
điều kiện kinh tế và môi trường, nguồn tài nguyên và thể chế của mỗi quốc gia. Do
đó, các chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh có thể có những đặc điểm chung nhưng
42
có thể khác nhau đáng kể giữa các quốc gia và khu vực tùy thuộc vào điều kiện kinh
tế xã hội và môi trường riêng của từng quốc gia.

2. Tổng quan về chính sách và công cụ hỗ trợ tăng trưởng xanh

Các công cụ chính sách hiệu quả, thiết thực và linh hoạt là trọng tâm trong việc
tạo ra tăng trưởng xanh thành công và bền vững, đặc biệt là ở các nước đang phát triển
vì các công cụ chính sách này có thể định hướng dòng vốn đầu tư với mức độ phù hợp
vào đúng ngành và khu vực vào thời điểm thích hợp. Từ đó, hỗ trợ phát triển công
nghệ và lĩnh vực ưu tiên thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ hệ thống kinh tế. Ví dụ,
Malaysia đặt mục tiêu thúc đẩy các phương tiện chạy bằng khí hydro và điện nhằm
phát triển một lộ trình bền vững cho mạng lưới giao thông trong nước. Do đó, xe điện
chạy bằng khí hydro sẽ sớm được thử nghiệm ở Kuching, tỉnh Sarawak3. Các công cụ
chính sách cũng có thể đảm bảo quá trình chuyển đổi thị trường lao động diễn ra suôn
sẻ với các chương trình đào tạo và hỗ trợ đầy đủ và phù hợp vì các công việc mới sẽ
được tạo ra liên quan đến lĩnh vực xanh, trong khi lao động được trang bị kỹ năng làm
việc với các hoạt động gây ô nhiễm sẽ trở nên dư thừa. Một ví dụ nổi bật có thể đề
cập đến là sự dịch chuyển lao động từ các ngành năng lượng dựa trên nhiên liệu hóa
thạch sang các ngành năng lượng tái tạo khi quá trình chuyển đổi năng lượng diễn ra.
Các chính sách hiệu quả cũng có thể giúp cân bằng hệ thống kinh tế bằng cách hỗ trợ
các ngành bị ảnh hưởng bất lợi bởi các hoạt động xanh đang phát triển để thay thế cho
các phương thức truyền thống. Các công cụ chính sách này bao gồm cả chính sách cụ
thể và chính sách chung, giải quyết tất cả các khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội.
Bảng 1: Các công cụ chính sách và chức năng chính
KHUYẾN KHÍCH XÂY TÀI GIÁM
DỰNG CHÍNH SÁT
Các công Các công Các Các Các công Các
cụ định giá cụ hỗ trợ công cụ công cụ cụ tài công cụ
ô nhiễm và các chính thúc đẩy quản lý chính và giám
sử dụng tài sách định tính toàn rủi ro đầu tư sát
nguyên giá diện
thiên nhiên
Cải cách tài ✔ ✔
chính và phí
môi trường
Đánh giá chi ✔ ✔ ✔
tiêu môi
trường công
cộng
Mua sắm ✔ ✔ ✔
công bền
vững
Đánh giá ✔ ✔
môi trường
chiến lược
43
Các công cụ ✔ ✔ ✔
bảo trợ xã
hội
Thanh toán ✔ ✔ ✔
dịch vụ môi
trường
Chứng nhận ✔ ✔ ✔
sản xuất bền
vững
Các công cụ ✔ ✔
để xây dựng
chính sách
môi trường:
truyền
thông và
thúc đẩy
Chính sách ✔ ✔
công nghiệp
và đổi mới
xanh
Ra quyết ✔
định trong
điều kiện
không chắc
chắn
Đánh giá tác ✔ ✔
động cấp dự
án
Phân tích ✔
lao động

Nguồn: Ngân hàng Phát triển Châu Phi và cộng sự (2012).


Trong số các chính sách này, cách tiếp cận cải cách tài chính và thu phí môi
trường là một trong những công cụ mạnh mẽ và phổ biến nhất để giải quyết vấn đề
biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học cũng như thúc đẩy tăng
trưởng xanh. Việc thực hiện chính sách này thường nhận được sự quan tâm lớn từ các
bên khác nhau, chẳng hạn như doanh nghiệp, khu vực tư nhân, nhà hoạch định chính
sách, nhà nghiên cứu, nhà đầu tư, v.v. Lý do là vì một chính sách, chẳng hạn như thuế
carbon hoặc thuế năng lượng, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực và hoạt động khác nhau
và toàn bộ hệ thống kinh tế bằng cách thay đổi giá cả đầu vào và đầu ra, hành vi sản
xuất và tiêu dùng. Cụ thể, công cụ này có thể được chia thành nhiều nhóm chính như
sau:
 Cải cách chính sách thuế và trợ cấp trên sản phẩm: Thuế sản phẩm
là công cụ mạnh mẽ để giảm nhu cầu đối với một số sản phẩm cụ thể bằng cách

44
làm cho giá của chúng trở nên đắt hơn, chẳng hạn như mức thuế thuốc lá tương
đối cao ở Úc (Bayly và cộng sự, 2022). Mặt khác, trợ cấp giúp giảm giá để
khuyến khích mức tiêu dùng cao hơn hoặc để ổn định nền kinh tế. Ví dụ, trợ
cấp cho xăng dầu và các sản phẩm từ dầu mỏ (như ở Úc và Việt Nam) trong
cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu hiện nay sẽ giúp hạn chế sự tăng giá
của các sản phẩm này, từ đó ổn định hoạt động sản xuất và tiêu dùng cũng như
toàn bộ hệ thống nền kinh tế. Trong bối cảnh này, Cơ quan Năng lượng Quốc
tế IEA ước tính trợ cấp cho tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch trên quy mô toàn cầu
đạt 1 nghìn tỷ USD vào năm 2022, tăng gấp đôi so với năm trước để bù đắp
một phần cho sự gia tăng đáng kể của giá năng lượng. Cuộc khủng hoảng năng
lượng toàn cầu hiện nay cũng thách thức các chính phủ trên toàn thế giới trong
việc xóa bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch. Ví dụ, Liên minh Châu Âu sẽ không
loại bỏ các khoản trợ cấp như vậy ít nhất tới năm 2030, khi vẫn giữ mức trợ cấp
tương đối ổn định trong giai đoạn 2015-2021 và thậm chí còn tăng vào năm
20224. Tuy nhiên, Canada vẫn có kế hoạch loại bỏ dần các khoản trợ cấp nhiên
liệu hóa thạch không hiệu quả vào năm 20255. Tuy nhiên, các công cụ hỗ trợ
khác lại có lợi cho môi trường, hỗ trợ mạnh mẽ cho tăng trưởng xanh, chẳng
hạn như trợ cấp cho việc trồng lại rừng. Nhiều quốc gia đã tăng trợ cấp cho các
hoạt động này và tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án trồng rừng trên toàn thế
giới như trong Hình 1. Ngoài ra, vào tháng 5/2023 vừa qua, Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO đã thông qua trợ cấp nghề cá để bảo vệ cuộc sống dưới nước
nhằm đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững 14 của Liên hợp quốc6.
Hình 1: Các dự án trồng rừng trên thế giới

Nguồn: https://tree-nation.com/projects
 Phí ô nhiễm hoặc chính sách biến đổi khí hậu: Định giá phát thải hoặc các
phương pháp tiếp cận dựa trên thị trường, chẳng hạn như thuế carbon, kế hoạch mua
45
bán phát thải và quỹ giảm phát thải, thường là các phương pháp trọng tâm để giảm
đáng kể mức phát thải khí nhà kính trực tiếp từ các hoạt động sản xuất và tiêu dùng
(Nong và cộng sự, 2021). Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các cơ chế này cũng khuyến
khích đầu tư vào công nghệ xanh hoặc công nghệ tái tạo để chuyển đổi sang các nguồn
tài nguyên tái tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng để các ngành công nghiệp
có thể giảm gánh nặng chi phí liên quan đến khí thải (Hao và cộng sự, 2021; Ojha và
cộng sự, 2020). Hiện nay, có 40 quốc gia và 25 khu vực địa phương (ví dụ: California
ở Hoa Kỳ) áp dụng mức phí phát thải carbon7. Bên cạnh đó, để đạt được mức đóng
góp do quốc gia tự quyết định, nhiều quốc gia cần áp dụng cách tiếp cận dựa trên thị
trường cũng như để nâng cao giá carbon. Gần đây, Cam kết Khí mê-tan toàn cầu cũng
đã được đưa ra với mục tiêu giảm thiểu lượng khí thải mê-tan nhằm hạn chế sự gia
tăng nhiệt độ8. Cùng với việc phát triển các công nghệ mới để giảm lượng khí thải này
từ các nguồn khác nhau (ví dụ: khai thác mỏ, nông nghiệp và chất thải), định giá lượng
khí thải mêtan cũng là một cách tiếp cận nổi bật để đảm bảo mức phát thải khí mêtan
thấp hơn.
 Định giá và/hoặc hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên: Các quốc gia
đã cải cách cơ cấu thuế để duy trì việc khai thác và sản xuất có trách nhiệm các tài
nguyên thiên nhiên như thủy sản và lâm nghiệp. Ví dụ, Cameroon đã cải cách chế độ
thuế rừng để trở nên công bằng hơn trong việc phân bổ tiền thuê rừng và quản lý các
hoạt động rừng (Ekoko, 2000; Topa và cộng sự, 2009). Cải cách lâm nghiệp cũng
được tạo điều kiện thuận lợi ở nhiều quốc gia khác, như Trung Quốc (Wang và cộng
sự, 2007), Indonesia, Costa Rica, và Bolivia (Silva và cộng sự, 2002). Fishing
restrictions are also facilitated in many countries worldwide, such as in Indonesia Việc
hạn chế đánh bắt cá cũng được áp dụng ở nhiều quốc gia trên toàn thế giới, chẳng hạn
như ở Indonesia (Campbell và cộng sự, 2020), khu vực Đông Nam Phi (McClanahan
& Abunge, 2016), và Úc (McPhee, 2008). Các cơ chế này nhằm giúp duy trì hoạt
động khai thác tài nguyên thiên nhiên ở mức bền vững nhằm cung cấp nguyên liệu
cho tăng trưởng xanh về lâu dài.
3. Thảo luận
Mục tiêu Net Zero đã trở thành mục tiêu chung của hầu hết các quốc gia trên toàn
thế giới mặc dù khung thời gian có thể khác nhau giữa các quốc gia do phải cân nhắc
đến khả năng cạnh tranh, điều kiện kinh tế xã hội và môi trường của mỗi quốc gia
cũng như công nghệ sẵn có. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều đồng ý hoặc cân nhắc
đạt được mục tiêu này vào năm 2050. Chiến lược tăng trưởng xanh là một trong những
chiến lược quan trọng nhất mà nền kinh tế thế giới đồng ý phát triển cùng với các lộ
trình để đạt được Mục tiêu Net Zero một cách bền vững. Tuy nhiên, phát triển xanh
là một chiến lược bao trùm rộng rãi và sâu sắc hầu hết các khía cạnh của một nền kinh
tế. Nó bao gồm tất cả các khía cạnh từ vật liệu và sản phẩm thân thiện với môi trường
tới bảo vệ tài nguyên môi trường, nghĩa là bao gồm tất cả các hoạt động và lĩnh vực
kinh tế như năng lượng, xây dựng, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
Do đó, các chính sách hỗ trợ tăng trưởng xanh cần phải bao quát và cụ thể nhằm
giải quyết các khía cạnh khác nhau của một nền kinh tế và các khu vực. Ở một quốc
gia, thường có các chính sách trung ương và chính sách lớn, chẳng hạn như thuế

46
carbon hoặc các chương trình mua bán khí thải, để giảm lượng khí thải một cách hiệu
quả. Những chính sách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển công nghệ và
sản xuất tái tạo, đồng thời giảm hoặc hạn chế mức độ sản xuất năng lượng dựa trên
nhiên liệu hóa thạch và hoạt động khai thác liên quan. Các chính sách này cũng thúc
đẩy sự phát triển của các công nghệ tiết kiệm năng lượng và thúc đẩy việc thay thế
các máy móc và thiết bị kém hiệu quả. Ngoài ra còn có các hoạt động khác để thích
ứng với các chính sách này, chẳng hạn như sử dụng nhiên liệu đầu vào ít phát thải.
Thông thường, các nhiên liệu đầu vào này là chất đốt sinh khối hoặc tài nguyên tái
tạo. Kết quả của những chính sách này thường góp phần đáng kể vào tiến trình hướng
tới tăng trưởng xanh. Thuế năng lượng cũng là chính sách lớn hạn chế sử dụng nhiên
liệu hóa thạch ở cấp độ vĩ mô như tại một địa phương hay toàn bộ nền kinh tế quốc
gia. Tuy nhiên, tăng trưởng xanh bao hàm tất cả các khía cạnh liên quan đến tất cả các
nguồn tài nguyên môi trường. Do đó, để thúc đẩy tăng trưởng xanh cần có các chính
sách và chương trình cụ thể giải quyết các lĩnh vực và hoạt động. Ví dụ, để bảo vệ bền
vững sự sống dưới nước, cần có chính sách hạn chế hoạt động đánh bắt theo mùa, quy
mô, khu vực và loài.
Tài nguyên nước cũng là tài nguyên quan trọng cho sản xuất nông nghiệp, sinh
hoạt hàng ngày, dịch vụ và sản xuất. Vì vậy, các chính sách và kế hoạch phát triển
liên quan đến các nguồn tài nguyên này cần được xem xét một cách toàn diện và thận
trọng. Ví dụ, xây dựng các đập thủy điện sẽ hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo góp
phần vào một khía cạnh của tăng trưởng xanh, nhưng hành động đó có thể gây hại cho
các khía cạnh khác của tăng trưởng xanh, như ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản, sản
xuất nông nghiệp và chất lượng đất khu vực hạ lưu. Vì vậy, sự đánh đổi cần phải được
đánh giá đầy đủ. Bảo vệ đất rừng, đất nông nghiệp và chất lượng đất cũng là một yêu
cầu quan trọng để đạt được tăng trưởng xanh bền vững, do đất màu mỡ cải thiện năng
suất nông nghiệp và đóng vai trò là bể chứa carbon quan trọng để hấp thụ CO2 từ khí
quyển. Rừng và nông nghiệp cũng cung cấp một lượng lớn sinh khối để thay thế nhiên
liệu hóa thạch trong sản xuất điện và sản xuất các sản phẩm sinh học như nhựa sinh
học, vật liệu xây dựng sinh học và các sản phẩm dược phẩm sinh học khác. Quản lý
chất thải và tái chế chất thải cũng là những khía cạnh quan trọng cần được giải quyết
để hạn chế khai thác tài nguyên. Ngoài ra còn có các khía cạnh khác, tùy thuộc vào
địa lý, khí hậu, môi trường và kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và khu vực.
Cùng với việc thực hiện các chính sách và chương trình kể trên, phát triển công
nghệ cũng là nhiệm vụ không thể thiếu nhằm góp phần tăng hiệu quả của các chính
sách, chương trình. Công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon mang lại chi phí thấp hơn
cho một quốc gia trong việc giảm thiểu mức phát thải khí nhà kính. Công nghệ tiết
kiệm năng lượng còn cho phép tiết kiệm năng lượng và sử dụng tài nguyên hiệu quả
hơn. Trí tuệ nhân tạo cũng có thể đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh
tế xanh bằng cách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, sản xuất, quản lý tài nguyên, thiết kế
mạng lưới giao thông thông minh và thành phố thông minh, v.v. (Allam & Dhunny,
2019; Chang và cộng sự, 2023; Qian và cộng sự, 2023). Ngoài ra còn có nhiều khía
cạnh khác của phát triển công nghệ để hỗ trợ các lĩnh vực tăng trưởng xanh khác nhau,
chẳng hạn như vật liệu hoặc phương pháp mới để phát triển sản phẩm sinh học, cải
thiện tài nguyên năng lượng mặt trời và năng lượng gió, v.v. Do đó, đầu tư vào đổi

47
mới và công nghệ trở thành điều bắt buộc để tạo ra tăng trưởng xanh và đạt được mục
tiêu Net Zero một cách bền vững.
Các chính sách hỗ trợ tăng trưởng xanh không chỉ mang lại lợi ích mà còn có
những đánh đổi, chẳng hạn như việc xây dựng đập thủy điện sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng đất và nông nghiệp của vùng hạ lưu cũng như đa dạng sinh học trong toàn khu
vực. Tăng trưởng xanh toàn diện và bền vững cũng như các chính sách và chương
trình Mục tiêu Net Zero cần các công cụ đánh giá để định lượng các tác động có thể
xảy ra nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư, nhà sản xuất, công
chúng và những người khác trong việc quan sát và đưa ra những sửa đổi, thay đổi cần
thiết và phù hợp. Nhờ đó, những lĩnh vực không phù hợp sẽ được bù đắp để duy trì sự
phát triển bền vững của toàn hệ thống xã hội, kinh tế và môi trường. Một trong những
cách tiếp cận toàn diện nhất mà nhiều tổ chức và chính phủ đang sử dụng và phát triển
là cách tiếp cận mô hình đánh giá tích hợp. Cách tiếp cận này bao gồm nhiều mô hình,
như mô hình kinh tế cân bằng tổng thể, mô hình cân bằng từng phần về nông nghiệp,
giao thông và điện, các mô hình khác như tài nguyên nước, sử dụng đất, khí hậu, đa
dạng sinh học, chu trình carbon, v.v. Cách tiếp cận mô hình toàn diện như vậy đang
có nhu cầu cao để phát triển cùng với nỗ lực hướng tới tăng trưởng xanh và Mục tiêu
Net Zero nhằm định lượng các tác động và xác định lộ trình thiết thực nhất để đạt
được các mục tiêu này.
4. Chính sách xanh trong bối cảnh Việt Nam
Việt Nam có những đặc điểm và điều kiện riêng biệt về vị trí, khí hậu, lịch sử,
văn hóa, môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội. Nhìn chung, Việt Nam là một nước
nông nghiệp với khoảng 40% tổng diện tích đất được sử dụng cho sản xuất nông
nghiệp. Việt Nam cũng có khí hậu, đất đai và nguồn nước khác nhau dọc đất nước từ
Bắc vào Nam. Nền kinh tế của Việt Nam cũng còn tồn tại rất nhiều vấn đề như đô thị
hóa nhanh, ô nhiễm, tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thiếu công nghệ
tiên tiến và nguồn nhân lực. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đã cam kết đạt được Mục
tiêu Net Zero nhằm đóng góp vào nỗ lực quốc tế trong việc giải quyết vấn đề biến đổi
khí hậu. Điều này thậm chí còn tạo ra nhiều thách thức hơn cho nền kinh tế đất nước.
Để đạt được Mục tiêu Net Zero cùng với các mục tiêu kinh tế xã hội và môi trường
khác, Việt Nam cần có sự kết hợp của các chính sách được xác định rõ ràng với sự hỗ
trợ mạnh mẽ từ phát triển công nghệ tiên tiến và chuyển giao công nghệ từ các tổ chức
quốc tế. Ở thị trường trong nước, Việt Nam cần có những chính sách, chương trình
tổng thể và cụ thể được áp dụng ở cấp quốc gia, khu vực và đặc thù ngành.
Thứ nhất, để giảm phát thải khí nhà kính một cách hiệu quả trên diện rộng, Việt
Nam cần xem xét cơ chế định giá carbon hiệu quả để đưa chi phí phát thải vào ứng
dụng tương tự như tại nhiều quốc gia, khu vực khác trên thế giới do sự phát triển công
nghệ và chuyển dịch sản xuất sẽ không đủ để cắt giảm lượng khí thải ở mức cần thiết
nhằm đạt được Mục tiêu Net Zero. Ngoài ra, sẽ không có đủ động lực để chuyển đổi
đầu vào của các hoạt động sản xuất khỏi từ các nguồn có lượng phát thải cao nếu
không có cơ chế chính sách như vậy. Trong bối cảnh này, chính sách tính chi phí
carbon sẽ chuyển đổi đáng kể nền kinh tế của đất nước sang nền kinh tế ít carbon với

48
sự tăng trưởng đáng kể của các nguồn năng lượng tái tạo (Nong, 2020), góp phần hỗ
trợ tăng trưởng xanh.
Thứ hai, mặc dù có nguồn tài nguyên tái tạo dồi dào và chất lượng cao (ví dụ:
gió và mặt trời), nhưng phần lớn các nguồn năng lượng này chỉ hiện diện ở một số
vùng nhất định tại Việt Nam (Nong và cộng sự, 2020). Do đó, mạng lưới truyền tải
điện có vai trò quan trọng trong việc giảm tiêu hao điện năng và bảo vệ niềm tin của
các nhà đầu tư. Có thể coi đây là một trong những yêu cầu ưu tiên hàng đầu của quốc
gia nhằm duy trì an ninh năng lượng, giúp ngành điện hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt
động sản xuất và sinh hoạt cũng như thúc đẩy lộ trình tăng trưởng xanh. Ngoài ra, các
kế hoạch đầu tư và phát triển năng lượng tái tạo cần được xem xét, điều chỉnh thường
xuyên và định lượng, có tính đến các yếu tố phát triển kinh tế xã hội và dân số cũng
như mạng lưới truyền tải và phân phối. Điều này sẽ giúp đáp ứng tiến độ phát triển cơ
sở hạ tầng và nhu cầu năng lượng ngày càng tăng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài
nguyên.
Thứ ba, Việt Nam có nguồn tài nguyên thủy sản biển và nước ngọt đáng kể,
nhưng cần xem xét hạn chế hoạt động đánh bắt theo mùa, quy mô, số lượng và loài
để bảo vệ và làm phong phú hơn các nguồn tài nguyên này. Cùng với tốc độ tăng
trưởng dân số ngày càng cao, sự phát triển kinh tế và hiện tượng nóng lên toàn cầu đã
đe dọa đáng kể đến các nguồn tài nguyên thủy sản (Nong, 2019); do đó, nếu không có
cơ chế bổ sung để bảo vệ tốt các nguồn tài nguyên này, chúng sẽ trở nên khan hiếm
trong thời gian tới, đe dọa an ninh lương thực, các mục tiêu kinh tế xã hội khác và
tăng trưởng xanh.
Thứ tư, đồng bằng sông Cửu Long – một trong những vùng sản xuất nông nghiệp
quan trọng nhất của Việt Nam – đã bị ảnh hưởng nặng nề do mực nước biển dâng.
Vấn đề này cũng cần được ưu tiên giải quyết, vì sự suy yếu trong sản xuất nông nghiệp
ở khu vực này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển cân bằng của nền kinh tế
đất nước, đe dọa an ninh lương thực, sản xuất sinh khối và thu nhập của các hộ gia
đình. Không chỉ vậy, hậu quả còn ảnh hưởng tới sự dịch chuyển vốn và lao động sang
các ngành và khu vực khác, gây ra nhiều áp lực lên các lĩnh vực xã hội, kinh tế và môi
trường như nhà ở, giao thông, bệnh viện giáo dục, v.v. Do đó, tăng trưởng xanh sẽ
không bao giờ hoặc khó có thể đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ năm, cùng với các chính sách trên phạm vi vùng và cả nước, Việt Nam cũng
cần có những yêu cầu và/hoặc chính sách cho các ngành cụ thể. Ví dụ, cần tạo điều
kiện thuận lợi cho các cơ chế phân loại chất thải để cải thiện thực tiễn quản lý chất
thải, hỗ trợ nền kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Việc hạn chế sử dụng túi nilon cũng cần sớm được quy định để bảo vệ môi trường vì
các sản phẩm, phụ phẩm này không được tái chế và gây hại cho môi trường. Các chính
sách cụ thể để phát triển mạng lưới giao thông công cộng sử dụng nhiên liệu sạch hoặc
tái tạo như khí hydro và điện cần được xem xét cùng với các chính sách khác. Cũng
cần có cơ chế (như giảm thuế, trợ cấp) để khuyến khích doanh nghiệp thay thế máy
móc, thiết bị cũ, kém hiệu quả và áp dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất, tiết
kiệm năng lượng.

49
Thứ sáu, các nguồn phát thải khí nhà kính trong từng lĩnh vực, khu vực cần được
xác định rõ ràng để có sự đầu tư thích đáng và phát triển công nghệ giảm nhẹ phù hợp.
Bằng cách này, đầu tư và các nguồn lực sẽ được phân bổ và sử dụng hiệu quả nhằm
phát triển công nghệ phù hợp, giảm phát thải. Nói cách khác, phát triển và đổi mới
công nghệ là không thể thiếu để giúp các quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế công
nghệ thấp, giảm mức phát thải khí nhà kính để đạt được Mục tiêu Net Zero và tăng
trưởng xanh bền vững.
Thứ bảy, các chính sách và mục tiêu thành công cũng cần nhận được sự ủng hộ
của công chúng. Ví dụ, họ có thể thay đổi hành vi tiêu dùng để sử dụng các sản phẩm
thân thiện với môi trường hơn như nhựa sinh học, xe điện. Họ cũng có thể thay thế
các thiết bị kém hiệu quả để tiết kiệm điện, lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái để
sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và thực hiện tiêu dùng có trách nhiệm nhằm
giảm thiểu chất thải, cũng như có trách nhiệm phân loại rác, giảm bớt gánh nặng cho
việc quản lý chất thải. Ngoài ra, người dân cũng có thể giúp bảo vệ tài nguyên môi
trường, chẳng hạn như tài nguyên nước và thủy sản. Nói cách khác, vai trò của người
dân trong việc giúp Việt Nam đạt được Mục tiêu Net Zero và tăng trưởng xanh là rất
quan trọng.
5. Kết luận
Tăng trưởng xanh bao trùm hầu hết các khía cạnh của một nền kinh tế. Để đạt
được mục tiêu tăng trưởng xanh bền vững và bao trùm, cần có các gói chính sách tổng
thể và cụ thể. Các công cụ chính sách chung có thể áp dụng toàn quốc hoặc toàn khu
vực để giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cũng cần có chính sách cụ thể
phù hợp với từng ngành, từng vấn đề để giải quyết các vấn đề của ngành, vùng. Cùng
với việc thực thi chính sách, phát triển và đổi mới công nghệ đóng vai trò quan trọng
trong việc giảm thiểu chi phí cho toàn nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu khả thi.
Ngoài ra, tăng trưởng xanh cần có sự đóng góp đáng kể của công chúng và người dân
trong việc tiết kiệm tài nguyên và giúp cho hoạt động quản lý tài nguyên trở nên dễ
dàng hơn.

Duy Nông
Chuyên gia nghiên cứu khoa học cấp cao, Khoa học dự báo, Nông nghiệp & Thực
phẩm, CSIRO, Úc
Phó Giáo sư, Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế Năng lượng Ứng dụng
Email: duy.nong@csiro.au

50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
Lê Thị Thanh Nhàn
Giảng viên Cao cấp, Trường Kinh tế và Kinh doanh Đại học Quốc gia Úc.

82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
Tiến sĩ Dương Thị Hồng Liên
Giảng viên cao cấp, Đại học Curtin, Australia
Phó Chủ tịch, VASEA | ESG

93
Tận dụng hành động của thành phố để tăng trưởng xanh

Giới thiệu:

Diễn đàn Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 2023 với chủ đề “Tăng trưởng xanh
– Hướng tới Net Zero” là một cột mốc đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng xanh và phát
triển bền vững không chỉ là những thành phần chính trong chiến lược phát triển quốc
gia và địa phương mà còn là những ưu tiên thiết yếu nếu chúng ta muốn đạt được tham
vọng của Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững và Thỏa thuận Khí hậu
Paris.

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương không đi đúng hướng để đạt được bất kỳ
Mục tiêu Phát triển Bền vững nào. Phân tích ESCAP chỉ ra rằng với tốc độ hiện tại,
khu vực này sẽ bỏ lỡ 90% trong số 118 mục tiêu SDG có thể đo lường được vào năm
2030 trừ khi các hành động được đẩy nhanh. Mặc dù hiện tại không có SDG nào ở
mức cần thiết trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững, nhưng Hành
động vì khí hậu (SDG 13) thực sự đang thụt lùi.

Hiện đã rõ ràng rằng các thành phố đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được
Chương trình nghị sự 2030 và đẩy nhanh hành động về khí hậu. Quả thực, ít nhất 2/3
mục tiêu SDG đòi hỏi một số hành động ở cấp độ địa phương hoặc sự tham gia của
các bên liên quan ở địa phương. Ở châu Á-Thái Bình Dương, việc các thành phố của
chúng ta đang phát triển như thế nào đặc biệt quan trọng, vì quá trình đô thị hóa nhanh
chóng đang thúc đẩy mức tiêu thụ năng lượng và khí thải, làm tăng lượng rác thải,
góp phần gây ra tắc nghẽn và ô nhiễm.

Những thách thức này xuất hiện trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng đa dạng
và liên kết với nhau mà các thành phố phải đối mặt. Ngoài những tổn thương về khí
hậu thường xuyên xảy ra ở các thành phố trong khu vực của chúng ta, hậu quả của đại
dịch COVID-19 có lẽ cũng thấy rõ nhất ở các khu vực thành thị, nơi có những tổn
thương lâu dài, từ nhà ở giá phải chăng, khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản và chăm
sóc sức khỏe cho đến các cơ hội kinh tế và sự bất bình đẳng ngày càng bộc lộ rõ hơn,
đồng thời những sự đóng của đã hạn chế các nguồn lực cần thiết để khắc phục những
khoảng trống về cơ sở hạ tầng hiện có.

Nhiều thành phố ở châu Á thường xuyên bị ghi nhận là một trong những nơi có
chất lượng không khí tồi tệ nhất thế giới, khiến sức khỏe và đời sống của người dân
thành thị chiếm đa số trong khu vực gặp nguy hiểm, đồng thời làm suy yếu tiến bộ
kinh tế và xã hội trong nhiều thập kỷ. Ô nhiễm cũng lan sang các tuyến đường thủy

94
và đại dương trong khu vực, với ô nhiễm nhựa - hầu hết phát sinh ở các thành phố -
hiện là một cuộc khủng hoảng môi trường đe dọa sinh kế và lương thực.

Với việc các thành phố trong khu vực dự kiến sẽ mở rộng thêm hơn 1 tỷ người
vào năm 2050, giờ là lúc phải cam kết đô thị hóa phải được quản lý tốt hơn để xây
dựng khả năng phục hồi và đảm bảo tăng trưởng đô thị trong tương lai một cách bền
vững. Để làm được điều này đòi hỏi tất cả các thành phố phải tập trung vào bốn lĩnh
vực chuyên đề chính: Quy hoạch đô thị và lãnh thổ; Khả năng phục hồi đô thị; Chuyển
đổi kỹ thuật số đô thị; và Tài chính đô thị.

Quy hoạch đô thị và lãnh thổ

Nhiều thách thức khó khăn nhất mà các thành phố trong khu vực phải đối mặt
xuất phát từ việc thiếu quy hoạch đô thị hướng tới tương lai. Cơ sở hạ tầng không đủ
để đáp ứng nhu cầu định cư ngày càng tăng - cả chính thức và không chính thức - dẫn
đến khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh bị hạn chế. Việc thiếu quy hoạch giao
thông đô thị và hệ thống giao thông công cộng kém dẫn đến tắc nghẽn phương tiện, ô
nhiễm không khí, hạn chế việc làm và khả năng tiếp cận dịch vụ. Hệ thống quản lý
chất thải rắn không đầy đủ và các cơ hội áp dụng các phương pháp tiếp cận tuần hoàn
và sáng kiến 3R để giảm chất thải bị bỏ lỡ liên quan trực tiếp đến vấn đề ô nhiễm ngày
càng gia tăng. Việc khai thác quá mức nước ngầm tạo ra hiện tượng sụt lún đất, một
mối đe dọa hiện hữu đối với nhiều thành phố khi chúng tiếp tục chìm xuống trong khi
mực nước biển tiếp tục dâng cao, khiến các cộng đồng dễ bị tổn thương cũng như vô
vàn các tài sản văn hóa và vốn phải chịu các rủi ro cực độ.

Để vượt qua những thách thức này đòi hỏi phải tập trung vào quy hoạch và
chính sách đô thị để hiện thực hóa lợi ích của các thành phố an toàn, bền vững và đáng
sống. Một môi trường chính sách thúc đẩy quy hoạch đô thị mang tính chuyển đổi và
linh hoạt đòi hỏi sự tham gia của tất cả các cấp chính quyền và các bên liên quan. Sự
phát triển tổng hợp, nhỏ gọn và đa mục đích, được hỗ trợ bởi giao thông công cộng sẽ
làm tăng khả năng di chuyển tích cực, đồng thời giảm thiểu các nguồn lực – thiên
nhiên, nhân lực và tài chính – cần thiết cho hoạt động hiệu quả của các thành phố.

Quy hoạch đô thị mạnh mẽ và tích hợp cung cấp nền tảng cho chính quyền địa
phương và quốc gia đạt được nhiều mục tiêu phát triển và tận dụng những đổi mới và
công nghệ mới nổi để đảm bảo một tương lai bền vững hơn. Sự tập trung rõ ràng vào
các giải pháp xanh, bao gồm năng lượng sạch, giao thông và quy hoạch nhằm nâng
cao tính tự nhiên ở các khu vực đô thị sẽ tạo ra một môi trường lành mạnh hơn cho
người dân.

Khả năng phục hồi đô thị và hành động vì khí hậu

95
Nói chung, kể từ năm 2012, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã chiếm hơn
50% lượng phát thải khí nhà kính hàng năm của thế giới. Trong thập kỷ 2010-2020,
lượng khí thải từ châu Á-Thái Bình Dương đã tăng hơn 25%, phản ánh nhu cầu năng
lượng ngày càng tăng - chủ yếu vẫn được tạo ra thông qua nhiên liệu hóa thạch - trùng
hợp với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng trên toàn khu vực. Vì
vậy, các thành phố không thể vắng mặt trong mọi nỗ lực chuyển đổi sang một tương
lai ít carbon. Thật vậy, những cam kết mà nhiều quốc gia đã đưa ra thông qua Đóng
góp do Quốc gia Tự quyết, và rộng hơn là để đạt được net-zero (phát thải bằng không)
vào năm 2050 sẽ đòi hỏi phải phát triển các thành phố có lượng carbon thấp.

Để xây dựng khả năng phục hồi và đương đầu với khủng hoảng khí hậu, cộng
đồng địa phương phải tham gia nhiều hơn vào hành động về khí hậu. Đẩy nhanh quá
trình phát triển nhỏ gọn và các phương pháp tiếp cận ít carbon, bao gồm các tòa nhà
tiết kiệm năng lượng và giao thông công cộng hiệu quả, có thể là một bộ phận của các
chiến lược về khí hậu. Việc chuyển sang các nguồn carbon thấp trong quá trình phát
triển đô thị trong tương lai sẽ giúp thay đổi lộ trình từ tăng lượng khí thải sang hỗ trợ
các mục tiêu không phát thải.

Nhưng những nỗ lực giảm nhẹ không phải là ưu tiên duy nhất. Nhiều thành phố
trong khu vực, đặc biệt là các cộng đồng ven biển, rất dễ bị tổn thương trước tác động
của biến đổi khí hậu, bao gồm lũ lụt do lốc xoáy và mực nước biển dâng cao. Một số
thành phố tương tự đang bị chìm do sụt lún đất xuất phát từ việc quy hoạch kém và
quản lý nước ngầm có nhiều bất cập.

Các giải pháp dựa vào thiên nhiên và khả năng thích ứng dựa vào hệ sinh thái
đô thị mang lại cơ hội lớn cho các thành phố đang phải đối mặt với các mối đe dọa từ
biến đổi khí hậu. Hiện có vô số giải pháp và ở nhiều quy mô, từ cơ sở hạ tầng xanh
đến nông nghiệp đô thị, cải tạo bờ sông tự nhiên đến hành lang hoang dã đô thị, v.v.
Các phương pháp tiếp cận bền vững và tuần hoàn hơn trong quản lý nước, bao gồm
thu hoạch nước mưa cũng có thể đảm bảo rằng sự phát triển không dẫn đến cạn kiệt
tầng ngậm nước, góp phần gây ra sụt lún đất.

Chuyển đổi kỹ thuật số đô thị

Đổi mới kỹ thuật số có tiềm năng lớn để các thành phố thúc đẩy hơn nữa hành
động về khí hậu và xây dựng khả năng phục hồi. Đặc biệt trong lĩnh vực giao thông,
quản lý và quản lý năng lượng cũng như dịch vụ công, các giải pháp kỹ thuật số ở các
thành phố có thể tăng cường sự tham gia của người dân và cho phép quản lý tài nguyên
hiệu quả. Các chính sách về thành phố thông minh toàn diện và lấy con người làm
trung tâm có thể nâng cao tính bền vững và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng phải
được hỗ trợ bằng việc xây dựng năng lực để khắc phục tình trạng thiếu hiểu biết về

96
công nghệ kỹ thuật số và đảm bảo rằng việc tiếp cận các ứng dụng kỹ thuật số không
để bất kỳ ai bị bỏ lại phía sau.

Về vấn đề này, chuyển đổi đô thị kỹ thuật số phải bao gồm việc giải quyết các
nhu cầu về cải cách pháp lý, quy định và quyền riêng tư dữ liệu. Các hướng dẫn về
thành phố thông minh cấp khu vực và quốc gia nhằm cung cấp một môi trường chính
sách rõ ràng có thể khuyến khích đầu tư của khu vực công và tư nhân vào cơ sở hạ
tầng CNTT cần thiết, hỗ trợ các doanh nhân và người khởi nghiệp cũng như thu hút
người dân tham gia vào các đổi mới như cung cấp thông tin từ cộng đồng (ví dụ: báo
cáo các điểm nóng ô nhiễm, thông tin lũ lụt thời gian thực). Chính quyền địa phương
và quốc gia cũng phải xem xét cách xây dựng năng lực để sử dụng dữ liệu và thông
tin tiên tiến hơn, chẳng hạn như hình ảnh vệ tinh và viễn thám, để giám sát ô nhiễm
không khí đô thị và lũ lụt cũng như giảm thiểu rủi ro lâu dài.

Công nghệ thành phố thông minh cho phép hoạt động của thành phố hiệu quả
hơn, chẳng hạn như nhu cầu năng lượng của các tòa nhà thành phố, dịch vụ cấp phép
điện tử và trực tuyến, quản lý dòng chất thải và hỗ trợ tái chế cộng đồng cũng như các
ứng dụng giao thông công cộng khác nhau, cùng nhiều ứng dụng khác. Những công
nghệ như vậy có tiềm năng đáng kể trong việc giảm lượng khí thải và tạo ra các cộng
đồng sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, thúc đẩy các cơ hội kinh tế tuần hoàn.

Tài chính đô thị

Hiện thực hoá được nhiều lợi ích của thành phố bền vững đòi hỏi khả năng tài
trợ cho nhu cầu phát triển và cơ sở hạ tầng một cách bền vững. Cho dù chiến lược tài
chính của địa phương dựa vào doanh thu từ nguồn tự có, chuyển giao liên chính phủ,
tài trợ bằng nợ hay hỗ trợ phát triển, tất cả các cộng đồng đều phải xem xét các cải
cách tài chính và nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của địa
phương. Tác động của đại dịch ở nhiều thành phố đã làm giảm doanh thu của địa
phương, đồng thời làm gia tăng khoảng cách về cơ sở hạ tầng và làm tăng nhu cầu về
dịch vụ đô thị và nhà ở giá rẻ. Đồng thời, nhu cầu đòi hỏi các thành phố phát triển các
giải pháp về khí hậu ở địa phương và xây dựng khả năng phục hồi của đô thị để hỗ
trợ các chiến lược khí hậu quốc gia tạo ra một thách thức về nguồn lực cần phải vượt
qua thông qua các cách tiếp cận sáng tạo đối với tài chính đô thị.

Để đề phòng những cú sốc và căng thẳng trong tương lai, chính quyền địa
phương sẽ cần mở rộng và đa dạng hóa nguồn thu ngân sách địa phương để đầu tư
vào nhà ở, cơ sở hạ tầng, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ đô thị cơ bản. Điều cần
thiết là phải tối ưu hóa việc thu thuế tài sản, tạo ra hệ thống thuế địa phương hiệu quả,
thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và khuyến khích thu hút doanh nghiệp và mở
rộng cơ sở thuế, đồng thời khám phá các quan hệ đối tác công tư đổi mới nếu khả thi.
Đồng thời, cần có các khuôn khổ rõ ràng về chuyển giao liên chính phủ để đảm bảo
97
rằng việc phân bổ nguồn lực đầy đủ được triển khai nhằm hỗ trợ hiệu quả và công
bằng cho các cộng đồng - lớn và nhỏ - nhằm đáp ứng nhu cầu địa phương.

Để tối ưu hóa tiềm năng của các thành phố trong việc thực hiện hành động về
khí hậu tại địa phương và tham vọng net zero (phát thải bằng không), môi trường
chính sách hỗ trợ tài chính đô thị thích ứng với khí hậu nhằm chuẩn bị cho các thành
phố và giảm thiểu tính dễ bị tổn thương trước các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt là
rất quan trọng. Các cơ chế tài chính đổi mới, bao gồm trái phiếu xanh, quỹ khí hậu
tổng hợp và quan hệ đối tác công tư, có thể cho phép các thành phố Đầu tư vào năng
lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng tiết kiệm năng lượng, giao thông xanh và phát triển đô thị
nhỏ gọn. Sự liên kết theo chiều dọc mạnh mẽ hơn của các hành động và đầu tư về khí
hậu sẽ thúc đẩy đạt được các mục tiêu bền vững lâu dài, đồng thời tạo ra các cộng
đồng đô thị kiên cường hơn.

Kết luận

Khi quá trình phục hồi tiếp tục diễn ra, sẽ có những cơ hội lớn cho những
chuyển đổi đô thị nhằm thúc đẩy các thành phố toàn diện, kiên cường và bền vững
hơn. Các khu vực đô thị phải tham gia để giúp dẫn dắt quá trình chuyển đổi sang phát
triển ít carbon và lượng phát thải ròng bằng không (net zero), đồng thời sử dụng tài
nguyên hiệu quả hơn và thúc đẩy các phương pháp tiếp cận tuần hoàn trong các lĩnh
vực và sinh kế. Quản trị đa cấp, bao gồm chính quyền trung ương, chính quyền địa
phương và người dân, là yếu tố then chốt giúp tất cả các bên liên quan có thể góp phần
hiện thực hóa những nguyện vọng đó. Lập kế hoạch là điều cơ bản nếu cộng đồng
muốn trở nên kiên cường trước những cú sốc và căng thẳng trong tương lai, đồng thời
công nghệ có thể được tận dụng để nâng cao hiệu quả và thu hút người dân. Xây dựng
năng lực tài chính và thể chế để đảm bảo rằng các hành động của địa phương dẫn đến
quản lý phát triển tốt hơn có vai trò rất quan trọng đối với một tương lai đô thị bền
vững.

Curt Garrigan,

Trưởng ban – Ban Phát triển Đô thị Bền vững, ESCAP

98
Từ đam mê đến hành động, giải pháp xanh để hiện
thực hóa Net Zero

Theo OECD, phát triển xanh có nghĩa là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời vẫn đảm
bảo tài nguyên thiên nhiên bền vững và phúc lợi xã hội. Khi xã hội loài người hướng tới
tương lai, số hóa và carbon hóa thấp sẽ trở thành chủ đề nóng nhất và là hai cách tiếp cận
chính để phát triển xanh. Trên toàn cầu, hơn 66 quốc gia và khu vực đã đặt ra các mục tiêu
và lộ trình trung hòa carbon quốc gia, hơn 170 quốc gia đã công bố các chiến lược kỹ thuật
số quốc gia.

Vai trò, và Mục tiêu của ngành Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT) để
đạt được Mục tiêu Net Zero.

Năng lượng tái tạo đang trở thành xu hướng chủ đạo, Trong tương lai, hàng ngàn hộ gia
đình sẽ triển khai phát điện quang điện trên mái nhà và điện được tạo ra không chỉ đủ tự
cung tự cấp mà còn được bán cho các công ty lưới điện. Các nhà máy quang điện nổi và
tuabin gió có đường kính trên 200 mét sẽ phổ biến tại các địa điểm ngoài khơi. Sa mạc Sah ara
rộng lớn sẽ là nơi có nhà máy quang điện lớn nhất thế giới và siêu lưới điện sẽ mang điện
tới các quốc gia, lục địa khác nhau.

Kinh tế sẽ chuyển đổi xanh và số hóa. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nền kinh tế kỹ
thuật số đang tăng trưởng nhanh gấp đôi GDP ở mức trung bình toàn cầu, đặc biệt là đối với
các nền kinh tế có thu nhập trung bình cao. Trong quá trình này, hạ tầng số đóng vai trò là
nền tảng của nền kinh tế số. Ví dụ, cứ tăng 10% thâm nhập băng rộng cố định sẽ làm tăng
GDP thêm 0,8% -2,3%; cứ tăng 10% thâm nhập băng rộng di động sẽ làm tăng GDP thêm
1,5% -2,8%. Trong tương lai, các công nghệ kỹ thuật số bao gồm 5G, đám mây và AI sẽ
đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Lối sống carbon thấp đang thu hút sự chú ý của công chúng. Đến năm 2030, 145 triệu
phương tiện năng lượng mới trên toàn thế giới sẽ hỗ trợ lái xe tự động và cung cấp các dịch
vụ chia sẻ. Hàng chục ngàn máy bay thân cánh pha trộn chạy bằng năng lượng mới sẽ đưa
đón hành khách giữa các sân bay quốc tế. Các tàu chở hàng năng lượng mới chạy năng lượng
từ các nhà máy quang điện sẽ đi lại trên toàn cầu. Internet giao thông thậm chí sẽ phối hợp
quản lý các phương tiện năng lượng mới, giao thông công cộng, xe đạp và xe máy dùng
chung và vỉa hè để xác định phương tiện giao thông tốt nhất để vận chuyển hành khách và
giao hàng, giảm tắc nghẽn giao thông và khí thải carbon.

99
ICT đang đóng một vai trò quan trọng trong mục tiêu Net Zero

Số hóa là đòn bẩy để giảm lượng khí thải carbon trong các ngành công nghiệp, giúp
các ngành công nghiệp khác giảm 12,1 tỷ tấn carbon bằng cách ứng dụng công nghệ
ICT vào năm 2030, chiếm 20% tổng lượng carbon giảm. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh
tế Thế giới, việc ứng dụng công nghệ ICT cho phép hiệu quả giảm carbon tăng gấp 10 lần.
Huawei có nhiều trường hợp thực tế trên khắp thế giới xác nhận kết luận này. Trường hợp
từ Thụy Điển: dữ liệu lớn và sử dụng phương tiện bay không người lái để phun thuốc có thể
giảm sử dụng thuốc trừ sâu xuống 20 lần. Tại Harbin, một thành phố lớn ở miền bắc Trung
Quốc, hệ thống sưởi thông minh giúp giảm mức tiêu thụ năng lượng trung bình xuống 12,5%.
Nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam đã và đang bùng nổ và là thị trường phát triển nhanh
thứ hai ở Đông Nam Á. Bộ TT&TT (MIC) nhận định, với tốc độ hiện nay, giá trị nền kinh
tế số Việt Nam có thể đạt 57 tỷ USD, chiếm 25-30% GDP vào năm 2025.

Công nghệ kỹ thuật số cũng rất quan trọng trong việc quản lý toàn bộ vòng đời của
carbon và Thị trường Carbon. Báo cáo tiến độ thị trường carbon toàn cầu năm 2022 Tác
động carbon quốc tế (ICAP) cho thấy thị trường carbon đang phát triển nhanh chóng trên
toàn thế giới, với phạm vi bao phủ ngày càng tăng. 25 thị trường carbon hoạt động trên toàn
thế giới, chiếm 17% lượng khí thải nhà kính và 1/3 dân số toàn cầu. 22 thị trường carbon
chủ yếu ở Nam Mỹ và Đông Nam Á đang được xây dựng và sẽ đi vào hoạt động trong vòng
1 đến 2 năm,. Tính đến cuối năm 2021, giá chiết khấu trên thị trường carbon EU đã vượt 100
USD/tấn, mức cao kỷ lục và doanh thu đấu giá thị trường hàng năm vào năm 2021 sẽ đạt
36,7 tỷ USD, tăng gần 63% so với cùng kỳ năm ngoái.

Dựa trên mạng viễn thông tiên tiến, mạng cáp quang và trung tâm dữ liệu dung lượng
lớn, công nghệ điện toán đám mây, Việt Nam có thể xây dựng nền tảng thị trường carbon
một cách nhanh chóng, giúp đẩy nhanh đáng kể quá trình phát triển các-bon thấp.

Mục tiêu của ngành ICT đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0

Đầu tiên, bản thân ngành công nghiệp ICT đạt được lượng khí thải carbon bằng
không. Một số nhà khai thác hàng đầu như Vodafone, Orange và BT đã công bố các cột mốc
để trở thành doanh nghiệp không carbon vào năm 2040. Theo báo cáo của GSMA / ITU,
tổng lượng phát thải hiện tại trong lĩnh vực ICT là khoảng 680 triệu tấn, chiếm 2% lượng
khí thải của toàn ngành. Để đạt được mức phát thải carbon bằng 0 trong ngành công nghiệp
ICT vào năm 2050, chúng ta phải giảm ít nhất 45% lượng carbon vào năm 2030.

Thứ hai, giảm phát thải carbon được kích hoạt bởi các giải pháp ICT vào năm 2030
sẽ đạt 20% lượng khí thải toàn cầu. Theo phân tích của GeSI, chỉ trong lĩnh vực Di động,

100
Sản xuất, Nông nghiệp, Xây dựng và Năng lượng, việc áp dụng công nghệ ICT mới có thể
giảm 12,1 tỷ tấn khí thải carbon vào năm 2030.

Cuối cùng, quản lý toàn bộ vòng đời của carbon là một công cụ quản trị quan trọng
để đạt được carbon bằng không, bao gồm giám sát carbon, giao dịch carbon và tài
chính carbon, dựa trên công nghệ kỹ thuật số hiện đại, như điện toán đám mây. Với
việc Việt Nam vừa công bố 8 Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (PDP8), trong đó đặt
mục tiêu chuyển đổi năng lượng thành công gắn liền với hiện đại hóa sản xuất, việc xây
dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến là phù hợp với quá trình chuyển
đổi xanh, giảm phát thải của thế giới. Đến năm 2050, tỷ lệ tái tạo sẽ đạt 67,5-71,5% sản
lượng điện.

Những thách thức trong việc trở thành Net Zero

Chúng ta cảm thấy hào hứng khi đối mặt với cuộc đua giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.
Việt Nam là một trong những quốc gia ASEAN đầu tiên chính thức đề xuất lộ trình quốc gia
trung hòa carbon 2050 tại Hội nghị thượng đỉnh COP26. Đề xuất cũng đưa ra mục tiêu mang
tính tầm nhìn để đạt được mức phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào hoặc trước năm 2065.
Hãy cùng điểm qua 3 thách thức hàng đầu của Thái Lan trong việc đạt được Net Zero.

Thách thức đầu tiên là ngành sản xuất điện với tỉ lệ phát thải khí nhà kính là 37%. Nhưng
hiện nay, ngành này phụ thuộc nhiều vào khí đốt tự nhiên và than đá. Theo số liệu mới nhất
từ EPPO, trong tổng sản lượng điện sinh hoạt hiện nay không bao gồm điện nhập khẩu, 62%
đến từ khí đốt tự nhiên, 37% từ than đá và 1% từ máy phát điện. Chúng ta đều biết rằng sản
xuất năng lượng mới là xu hướng. Tuy nhiên, tỷ lệ năng lượng mới trong sản xuất điện thấp
đến mức nó bị bỏ qua trong các bảng thống kê.

Thách thức thứ hai là làm thế nào để giảm lượng khí thải carbon công nghiệp. Công
nghiệp đặc biệt là các ngành công nghiệp sản xuất và ICT, là động lực tăng trưởng kinh tế
và khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Trong khi giảm lượng khí thải carbon, chúng ta
nên giữ khả năng cạnh tranh của ngành. Như tôi đã đề cập trong câu hỏi đầu tiên, số hóa có
thể cải thiện khả năng cạnh tranh và giảm lượng khí thải carbon. Các ngành công nghiệp ở
Thái Lan thải carbon nhiều hơn giao thông vận tải và là TOP 2 nguồn thải khí carbon.

Thách thức thứ ba là chuyển đổi lưới điện. Như chúng ta đã biết, lưới điện truyền thống
được xây dựng theo định hướng nhà máy điện lớn. Theo số liệu mới nhất từ EPPO, Điện
hiện chỉ chiếm 22% tổng năng lượng tiêu thụ. Trong kỷ nguyên Net Zero, tỷ lệ tiêu thụ điện
sẽ tăng đáng kể lên hơn 60%. Việc phổ biến sản xuất điện quang trên mái nhà sẽ thay đổi
tình hình phát điện. Tương tự, việc xe điện trở nên phổ biến sẽ thay đổi bối cảnh tiêu thụ
điện năng, đòi hỏi phải chuyển đổi cấu trúc của toàn bộ lưới điện bằng cách áp dụng các
công nghệ đột phá để đáp ứng sự thay đổi này.

101
Các giải pháp hiện thực hóa Net Zero

Bởi vì công nghệ thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người, chúng ta sẽ dựa nhiều hơn vào
công nghệ để hướng tới một xã hội Net Zero. Trong 5 năm tới, ba giải pháp công nghệ cao
sau đây sẽ được sử dụng rộng rãi và trở thành cơ sở hạ tầng mới của Net Zero.

Giải pháp đầu tiên là Smart PV đối với Phát điện xanh, triển khai trên mái nhà tại
hàng nghìn doanh nghiệp và hộ gia đình. Do sự đa dạng về hình dạng và kích thước mái
của các doanh nghiệp và hộ gia đình, một giải pháp PV thông minh đa kịch bản được phát
triển để có thể dễ dàng triển khai tại các nhà máy quang điện lớn, giải pháp PV mái công
nghiệp và thương mại, mái nhà hộ gia đình. Các giải pháp PV thông minh được xây dựng
với công nghệ quang điện + lưu trữ năng lượng + đám mây, theo mô-đun và dễ triển khai,
tự tối ưu hóa, giám sát từ xa, có khả năng chuyển đổi và bán hàng cao, tỉ suất hoàn vốn đầu
tư hạn chế và giảm. Chi phí điện có thể đạt 1,3 baht mỗi kilowatt giờ. Các mô-đun, tính năng
tự vận hành và bảo trì giúp việc triển khai trên mái nhà ở dễ dàng.

Quang điện thông minh áp mái đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam. Đến năm
2023, các dạng năng lượng mới chiếm khoảng 16,7% tổng sản lượng điện của Việt Nam,
hơn 60% trong số đó sẽ là sản xuất điện PV. Và trong tương lai, một nửa sản lượng điện PV
sẽ đến từ PV dân dụng. Đến năm 2023, các sản phẩm biến tần Smart PV cải tiến toàn kịch
bản của Huawei đã hỗ trợ khách hàng tạo ra hơn 23 tỷ kWh năng lượng sạch tại Việt Nam,
giảm 10,6 triệu tấn khí thải carbon.

Giải pháp thứ hai là Mạng lưới thông minh

+ Năng lượng chuỗi thông minh với Cách mạng Lưới điện chuyển đổi lưới điện truyền
thống bằng các công nghệ kỹ thuật số tiên tiến như 5G, phương tiện bay không người lái,
robot, đám mây, AI và camera độ nét cao. Nó cho phép kết nối hiệu quả trên diện rộng và
điều khiển từ xa. Công nghệ thông minh có thể được giới thiệu nhanh chóng, chẳng hạn như
giám sát robot tự động và hiệu quả giám sát gấp 80 lần so với công việc thủ công.

Công nghệ lưu trữ năng lượng chuỗi thông minh (ESS): Sự kết hợp giữa pin lithium và
công nghệ điều khiển kỹ thuật số làm cho hệ thống lưu trữ năng lượng chuỗi thông minh
ngày càng phổ biến, giải quyết cơ bản vấn đề phát điện không liên tục từ năng lượng mặt
trời và gió. Lưu trữ năng lượng chuỗi thông minh + Giải pháp lưới điện thông minh cải thiện
đáng kể độ bền và tính hiệu quả của lưới điện.

Giải pháp thứ ba là ICT xanh, bao gồm Trung tâm dữ liệu xanh và các điểm xanh.

Bản thân ngành công nghiệp ICT hiện tại chiếm 2% lượng khí thải carbon toàn cầu. Theo
báo cáo của ITU, nếu hiệu quả năng lượng của ICT và việc áp dụng năng lượng sạch không
được cải thiện, lượng khí thải carbon ICT toàn cầu sẽ tăng gấp 2,3 lần vào năm 2030, chiếm
4,6% tổng lượng khí thải.

Tất cả các kịch bản và trung tâm dữ liệu mô-đun xanh thúc đẩy hiệu quả tiêu thụ năng
lượng lên 17% và giảm hiệu quả sử dụng điện năng xuống 1.2.

102
Các điểm xanh kết hợp năng lượng điện quang, lưu trữ năng lượng và trạm gốc 5G,
phát điện và truyền thông để đạt được net zero.

Ba giải pháp này tạo thành cơ sở hạ tầng mới của Net Zero, từ đó hỗ trợ quá trình khử
cacbon và số hóa toàn ngành và cuối cùng là hiện thực hóa Net Zero của toàn xã hội.

Số hóa và cacbon hóa thấp đi đôi với nhau và đưa chúng ta đến gần hơn với thế giới
thông minh và không phát thải ròng

Khi nhìn vào lịch sử loài người chúng ta thấy rằng công nghệ năng lượng và công nghệ
thông tin là những động lực chính của cuộc cách mạng công nghiệp, đã liên tiếp định hình
lại các mô hình kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và sau đó
là nền kinh tế kỹ thuật số ngày nay.

Khi nhìn vào tương lai, kết hợp hai cách tiếp cận với nhau, chúng ta có thể kết luận rằng
số hóa và carbon hóa thấp đi đôi với nhau cho một thế giới thông minh và Net Zero.

Macky Zhang, Tổng Giám đốc Huawei Việt Nam

103
Tránh rác thải đổ ra môi trường và biển cả và những gì
các thành phố tại Việt Nam cần làm trong ngữ cảnh
này để đóng góp vào Mục tiêu Phát triển Bền vững 11

Kính thưa các đại biểu và quý vị khách mời thân mến,
Nhân dịp Diễn đàn Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 2023, tôi xin được nhân cơ
hội này này để chia sẻ một số quan sát và đề xuất với quý vị về cách các thành phố
Việt Nam - nhỏ, trung bình hoặc lớn - có thể ứng phó với vấn đề rác thải biển và rác
thải và qua đó, đóng góp vào việc đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững 11, tức là
làm cho các thành phố và nơi sinh sống của người dân nên toàn diện, an toàn, mạnh
mẽ và bền vững
Vấn đề rác thải và rác thải biển tại Việt Nam - con số và sự thật
Trước khi tôi giới thiệu 2 hành động chính và 2 biện pháp hỗ trợ, mà tôi tin tưởng
rằng các thành phố Việt Nam nên xem xét để cải thiện hệ thống quản lý rác thải của
họ, tôi muốn đưa ra một tổng quan về tình hình quản lý rác thải hiện tại tại Việt Nam,
bắt đầu bằng một số con số và dữ kiện.
Sản xuất rác thải tại ASEAN tiếp tục tăng, cả về số lượng và thành phần. Việt
Nam đứng ở vị trí thứ ba về sản lượng rác thải đô thị với 27 triệu tấn mỗi năm vào
năm 2018, và dự kiến sẽ có 54 triệu tấn được sản xuất vào năm 2030 (theo Đánh giá
Quản lý Rác thải Rắn và Nguy hại của WB năm 2021). Sản lượng rác thải trên mỗi
người gần như đạt 1kg/ngày (được nêu trong Nghiên cứu Quốc gia về Rác thải Rắn
và Nhựa tại Việt Nam, do WWF tiến hành năm 2019).
Theo báo cáo Thị trường Vật liệu Việt Nam của VCCI 2019, 64% là rác hữu cơ,
tiếp theo là nhựa 12%, giấy 5%, kim loại 5% và vải 3%.
Ngoài ra, có rác xây dựng và phá hủy lên tới hàng triệu tấn mỗi năm, khó để
thống kê số liệu vì thường bị đổ trái phép vào bãi chôn lấp và vào môi trường.
Những con số này thật quá sức tưởng tượng, nhưng thách thức cụ thể nào đối với
các đô thị Việt Nam để quản lý rác thải tốt hơn và tránh việc rác thải đổ vào biển?
Cả ở thành phố và vùng nông thôn, hệ thống quản lý rác thải thiếu khả năng và
cơ sở hạ tầng cho việc tách rác, thu gom, xử lý và xử lý rác thải. Có một thực tế là
75% các đô thị ở Việt Nam nằm trong hệ thống sông và khu vực ven biển.
Những thách thức chính đối với các đô thị là ngân sách của họ không cho phép
cải thiện cơ sở hạ tầng cần thiết, một trong những nguyên nhân là các khoản phí thu
gom thấp. Ngoài ra, các đầu tư tư nhân cho các giải pháp xử lý rác vẫn còn thấp do
thiếu tính minh bạch trong quá trình cấp phép và đấu thầu. Nguồn cấp liệu sử dụng
thấp (chất thải hàm lượng hữu cơ cao kết hợp với rác nhựa) và tỷ lệ tái chế thấp do
chi phí cấp liệu cao là những trở ngại khác cho việc quản lý rác thải một cách hợp lý.
Trong bối cảnh Việt Nam đối phó với vấn đề rác thải đổ vào biển, tôi cũng muốn
đề cập đến một số dữ kiện về ô nhiễm rác thải nhựa trong các dòng nước sông và biển.

104
Sông là một nguồn chính của rác thải nhựa vào đại dương của chúng ta. Theo
một nghiên cứu được thực hiện bởi Tổ chức Phi lợi nhuận The Ocean Cleanup vào
năm 2021, có 1000 con sông chịu trách nhiệm cho gần 80% lượng rác thải nhựa hàng
năm trên toàn cầu, trong đó có những con sông đô thị nhỏ nằm trong số những nguồn
gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất. 20% còn lại của lượng rác thải nhựa được phân tán
bởi 30.000 con sông. Việt Nam có khoảng 50 con sông trong số 1000 con sông gây ô
nhiễm nghiêm trọng nhất!
Phương pháp chính - hình thành cấu trúc
Dựa trên tình hình quản lý rác thải và ô nhiễm rác thải biển hiện tại của Việt
Nam, câu hỏi cần trả lời ngay bây giờ là: làm thế nào các thành phố Việt Nam có thể
thực hiện hành động ngay lập tức để vượt qua những thách thức này?
Kính thưa quý vị, có rất nhiều việc có thể thực hiện bởi các thành phố để tạo đà
cho sự thay đổi, nhưng cần phải làm những việc đúng! Và những việc làm này chưa
được thực hiện một cách đầy đủ.
Như đã được thấy rõ, vấn đề chung mà các thành phố Việt Nam đang phải đối
mặt là thiếu các giải pháp hệ thống thân thiện với môi trường cho quản lý rác thải,
Kinh doanh như thường lệ vẫn là câu trả lời của các thành phố đối với rác thải và ô
nhiễm nhựa.
Cuộc sống đô thị và lối sống thân thiện với khí hậu yêu cầu việc tập trung vào
việc hình thành cấu trúc và bận tâm ít hơn về cách cá nhân có thể hoặc nên thay đổi
hành vi của họ trong các cấu trúc hiện có. Quản lý rác thải là một phần quan trọng của
việc đạt được cuộc sống thân thiện với khí hậu để giảm lượng khí CO2 và methane
thải ra môi trường, cũng như ô nhiễm không khí và môi trường. Các thành phố cần
tuân theo phương pháp mấu chốt này để tạo ra các thay đổi cấu trúc thay vì các giải
pháp phân mảnh để đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững.
Giải pháp chính I – Các phòng thí nghiệm và trung tâm
Các thành phố cần hành động toàn diện để cải thiện việc quản lý rác thải. Bây
giờ, một giải pháp toàn diện cụ thể là gì? Làm thế nào các thành phố Việt Nam có thể
hình thành cấu trúc thuận lợi cho việc quản lý rác thải cải thiện và đạt được cam kết
tốt hơn từ các bên liên quan?
Ý tưởng quan trọng đầu tiên mà các thành phố hợp tác với ngành tư nhân và đối
tác quốc tế cần thực hiện gồm hai phần.
Một là, các thành phố cần một cơ cấu tổ chức tốt hơn dưới dạng các phòng thí
nghiệm Giải pháp & Tri thức vật lý, tư nhân hoặc công tư sở hữu để nhân bản các
mô hình kinh doanh Tuần hoàn & giải pháp quản lý rác thải thông qua việc tạo điều
kiện cho đầu tư từ khu vực tư nhân. Những phòng thí nghiệm này cần có các địa điểm
triển khai giải pháp được đặt tại các khu vực ven biển và sông để tạo điều kiện cho
việc nhân bản. Một trung tâm tri thức (liên kết với trường đại học và các cơ sở nghiên
cứu) sẽ đảm bảo các giải pháp được thu thập và tiếp cận.
Các thành phố cũng cần một giải pháp kỹ thuật mang tính hệ thống và toàn diện
hơn cho quản lý rác thải bằng cách sở hữu các cơ sở quản lý rác thải và tài nguyên tư
nhân hoặc công tư với các hiển thị về phân loại & tái chế.
105
Vậy là một cơ sở quản lý rác thải và tài nguyên trông như thế nào, cấu trúc cơ sở
trông như thế nào? Tôi muốn nhấn mạnh rõ ràng, rằng những trung tâm này chưa tồn
tại cho rác thải đô thị, vì cho đến nay chỉ có các giải pháp phân mảnh thôi!
Trung tâm quản lý rác và tài nguyên là gì, cơ cấu của các cơ sở như thế nào? Tôi
muốn nhấn mạnh rõ ràng rằng những trung tâm này chưa tồn tại cho rác thải đô thị vì
cho đến nay chỉ có những giải pháp rời rạc!
Thiết lập một trung tâm quản lý rác thải và tài nguyên tương tự như một khu công
nghiệp cụ thể hoặc một không gian làm việc chung dành riêng cho ngành, có thể là
một cơ sở độc lập hoặc nằm tại một khu đất nào đó. Được quản lý tập trung, nó sẽ bao
gồm một nhà máy tách rác thải nhựa + các nguồn rác thải khác, một nhà máy xử lý
nước thải, và một không gian tiền xử lý (tái chế) và giao dịch cho các giải pháp chuyển
đổi rác thải nhựa khác nhau, bao gồm nhựa giá trị thấp. Trung tâm có thể mở rộng
thông qua việc tích hợp thêm các giải pháp xử lý rác thải khác (ví dụ, xử lý rác thải
hữu cơ để sản xuất phân bón hoặc biogas). Mô hình Trung tâm cần được bổ sung bằng
các Điểm Khôi phục Tài nguyên (RRPs) để tách rác thải (Trạm thu thập dựa trên
container) trên khắp thành phố/quận. RRPs sẽ được quản lý bởi các công nhân xử lý
rác thải phi chính thức (IWW’s) và được tích hợp vào hoạt động thu thập của Trung
tâm.
Tóm lại, một Trung tâm là một tập hợp các cơ sở tại một nơi liên kết với
IWW/RRP để phát triển các luồng vật liệu tuần hoàn cục bộ. Một Trung tâm như vậy
không phải là một thách thức kỹ thuật lớn và cũng liên quan đến chi phí đầu tư có thể
quản lý được.
Ngoài ra, cần cải thiện dịch vụ của các công ty rác thải công cộng để thu thập và
xử lý phần còn lại của rác thải. Sự cải thiện này bao gồm các biện pháp như cung cấp
nhiều thùng rác hơn, cả trong không gian công cộng và tại hộ gia đình, đầu tư vào
nhiều xe tải cho các dòng rác thải khác nhau, lên kế hoạch thu thập rác thải tốt hơn,
và trong tương lai, các trạm trung chuyển, nhà máy nhiệt điện từ rác và các chương
trình EPR với PRO. Chỉ sự kết hợp giữa các giải pháp tư nhân + dịch vụ công cộng
cải thiện sẽ đem lại quản lý rác thải và tương tác PPP có hệ thống và khả thi, và do đó
đem lại sự HÌNH THÀNH các cấu trúc, và sau đó đạt được mục tiêu 80/20 (20% rác
thải trên bãi rác và 80% tái chế hoặc sử dụng lại) & ngăn ngừa ô nhiễm biển một cách
hiệu quả.
Giải pháp chính II - Quản lý từ nguồn đến biển
Sáng kiến thứ hai cho các thành phố cải thiện quản lý rác thải và ngăn ngừa ô
nhiễm biển là hợp tác khu vực để giải quyết vấn đề về việc đưa rác thải và nhựa vào
con sông và sau đó là biển.
Hoạt động con người trên đất liền và dọc theo sông/đồng bằng đang tạo ra gánh
nặng nặng nề lên hệ sinh thái nước ngọt và đại dương. Có sự rời rạc trong quản trị, tài
chính, quản lý và vận hành, nói cách khác, vẫn còn quá nhiều tư duy SILO. Việc quản
lý rác thải dừng lại ở ranh giới thành phố là không hiệu quả và sẽ không ngăn ngừa
được ô nhiễm biển một lượng lớn nhựa + các nguồn rác thải khác thâm nhập vào các
con sông từ các khu vực nông thôn ở hạ lưu, Do đó, cần có một phương pháp
Source2Sea (S2S) như một giải pháp khu vực. Phương pháp S2S là một công cụ quản
106
trị xem xét các mối liên kết giữa đất liền, nước ngọt, bờ biển và đại dương. Nó chỉ ra
mối bận tâm về thượng nguồn-hạ nguồn và thúc đẩy sự hợp tác giữa các lĩnh vực để
đạt được mức thải nhựa zero. Việc thực hiện thực tế thông qua cam kết và hành động
của nhiều bên liên quan (giữa các cơ quan chính phủ = theo chiều ngang và khu vực
+ theo chiều dọc = bao gồm doanh nghiệp/hiệp hội phi chính phủ/tổ chức giáo dục)
sẽ tạo ra các giải pháp khu vực hoặc đô thị-nông thôn cho quản lý rác thải (xem thêm
"Nền tảng quản lý từ nguồn đến biển: lưu vực sông Vũ Gia-Thu Bồn, Viện Nước quốc
tế Stockholm").
Biện pháp hỗ trợ - Chuyển giao R&D & giáo dục thích ứng & thực tiễn kinh
doanh
Thưa quý vị, sau khi nhấn mạnh hai biện pháp chính mà các thành phố cần xem
xét, tôi xin được trình bày một cách ngắn gọn về hai biện pháp hỗ trợ mà hiện vẫn
chưa được áp dụng một cách hiệu quả.
Một biện pháp hỗ trợ quan trọng cho việc chuyển đổi để việc xác định cơ cấu
quản lý rác thải hiệu quả hơn là việc chuyển giao kết quả R&D đến một nhóm các bên
liên quan rộng hơn để biến kiến thức thành hiện thực!
Các dự án R&D thường dừng lại sau khi hoàn thành nghiên cứu hoặc hành động
và sản phẩm đã được bàn giao (dưới dạng nghiên cứu, hướng dẫn, cơ sở dữ liệu, v.v.).
Nhưng thường thì CB không đủ hoặc không bao quát và không cung cấp đủ kiến thức
tùy chỉnh/có thể áp dụng cho những người thực hiện đến từ chính phủ, doanh nghiệp
hoặc cộng đồng ở cấp địa phương. Chúng ta cần phải bù đắp được khoảng cách này!
Giải pháp là trước tiên phải xem xét dịch vụ chuyển giao về mặt ngân sách, một
đối tác thực hiện phù hợp, gói CB toàn diện, thời gian và đồng thời là khuyến khích
nghiên cứu. Nghiên cứu về CE như một yếu tố quan trọng để đạt được nhiều SDGs
cần được xem là một trong những chủ đề chính.
Nghiên cứu khả thi và các đề xuất chính sách về chiến lược đầu tư để chuyển
hướng dòng tiền tài chính công/ tư nhân vào các ứng dụng rác/CE đổi mới là một ví
dụ.
Một biện pháp hỗ trợ quan trọng thứ hai cho việc định hình cơ cấu là cải thiện
giáo dục hướng thực hành và thực hiện các phương thức kinh doanh bền vững.
Các thành phố và doanh nghiệp cần khuyến khích và thực hiện giáo dục hướng
thực hành rộng rãi bằng cách kết hợp lý thuyết và thực hành ở mọi cấp độ (TVET và
Giới học thuật) và thứ hai, bằng cách tăng cường các phương thức kinh doanh bền
vững trong các công ty hoặc tổ chức theo ứng dụng 7R (suy nghĩ lại, thiết kế lại, tái
mục đích [tái sử dụng và chia sẻ], sửa chữa, tái chế và phục hồi).
Ví dụ về các thực hành gồm: mua sắm xanh, thiết kế tuần hoàn, loại bỏ việc sử
dụng giấy, bảo tồn nước và xem xét năng lượng tái tạo, phát triển chương trình tái
chế, đào tạo nhân viên. Đối với lĩnh vực này, các thành phố cần có một khung đo
lường để theo dõi tiến độ đạt được mục tiêu trở thành không còn rác thải (tôi đề xuất
nghiên cứu trường hợp thành công của thành phố Peterborough ở Anh với mục tiêu
trở thành một thành phố tuần hoàn).
Kết luận
107
Thưa quý vị, dựa trên gần 25 năm kinh nghiệm của tôi trong việc đồng hành và
hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và những quan sát có được, hai biện
pháp chính đã nêu trên, thành lập các trung tâm xử lý rác và tài nguyên và phương
pháp S2S, là yếu tố chính để các thành phố định hình cơ cấu thu gom và quản lý rác
thải. Chúng cũng là điều kiện tiên quyết để có chương trình EPR và chuyển đổi CE.
Hướng đi cho các thành phố chỉ có thể là thực hiện từng bước nhỏ và thực tế.
Điều kiện tiên quyết để định hình cơ cấu thuận lợi về quản lý rác thải để làm cho việc
quản lý rác thải dễ dàng, hiệu quả hơn và khả thi hơn và cuối cùng cải thiện ngăn ngừa
rác biển của Việt Nam là sự sẵn sàng chính quyền địa phương để đổi mới, kết nối với
doanh nghiệp và thực thi quản lý S2S đô thị-nông thôn. Hợp tác quốc tế có thể hỗ trợ
điều này bằng cách cũng điều chỉnh các dự án quản lý rác tốt hơn trước đây về mặt
thiết kế cấu trúc. Nơi làm việc của tôi, Viện Quản lý Xây dựng và Thành phố (AMC),
cũng sẽ hỗ trợ các thành phố với các dịch vụ phù hợp cho phát triển đô thị bền vững
để cải thiện cơ cấu, quản lý rác thải và ngăn ngừa rác biển và từ đó đóng góp vào việc
đạt được SDG 11.
Cám ơn sự quan tâm của quý vị. Tôi chúc quý vị thật nhiều sức khỏe và được
truyền cảm hứng từ những bài tham luận của diễn đàn này.

108
Việt Nam - Phát triển đô thị thông minh và cải thiện
hiệu suất xây dựng thông qua các thực tiễn

Bài viết cho HEF 2023 – Ludwig Graf Westarp, Tháng 7 năm 2023

Cùng với Quỹ Hanns Seidel (HSF) và các chuyên gia quốc tế, tôi đã hỗ trợ Viện Chiến
lược Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (Isponre) và Bộ Tài nguyên và Môi trường
(MONRE) trong việc xuất bản "Chiến lược Quốc gia về Bảo vệ Môi trường của Việt
Nam đến năm 2020 và Tầm nhìn đến năm 2030" và đã làm việc cho các công ty toàn
cầu đến từ Mỹ, Đan Mạch, Pháp và Đức về các giải pháp THÔNG MINH và Quản lý
Cơ sở hạ tầng Tích hợp dựa trên dữ liệu.

Sự phát triển của đô thị thông minh và quá trình chuyển đổi xây dựng đóng vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ theo xu hướng
xanh. Ngoài tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, sự đô thị hóa đang diễn ra, còn
có sự gia tăng nhu cầu về năng lượng và vật liệu xây dựng tại các thành phố như
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Do đó, các giải pháp tiết kiệm năng lượng và bền
vững đóng một vai trò trung tâm trên con đường đạt đến trung tính khí hậu của Việt
Nam vào năm 2050.

Phát triển Đô thị Thông minh

Các thành phố - đặc biệt là ở phía Nam địa cầu - đang phát triển mạnh mẽ, và với đó
là nhu cầu về cơ sở hạ tầng. Hỗn loạn giao thông, thiếu nhà ở và tiêu thụ tài nguyên
gia tăng là những vấn đề cần giải quyết một cách cấp bách.

Mục tiêu của đô thị thông minh là giảm tiêu thụ tài nguyên trong khi cải thiện chất
lượng cuộc sống của người dân. Công nghệ hiện đại giúp đạt được mục tiêu này, và
tài nguyên phải được sử dụng hiệu quả hơn để mang lại cuộc sống tốt hơn cho chúng
ta và đặc biệt là cho các thế hệ tương lai.

Điều này không chỉ liên quan đến công nghệ, mà còn liên quan đến việc suy nghĩ lại.
Ví dụ, "Chia sẻ xe hơi" đang ngày càng phổ biến tại Berlin. Mọi người cùng chia sẻ
xe chứ không sở hữu riêng một chiếc xe của họ. Hơn nữa, hệ thống giao thông công
cộng được tổ chức tốt. Nó bao gồm hệ thống tàu điện ngầm, tàu hỏa, xe buýt và xe
điện. Với hệ thống giao thông công cộng này, mọi người có thể đến nơi đích của họ
xuyên suốt cả ngày đêm - thậm chí thường nhanh hơn so với việc tìm kiếm chỗ đậu
xe

109
Các quy trình và dịch vụ thường có thể được tối ưu hóa và việc quản lý có thể trở nên
minh bạch hơn. Việc số hóa mang lại nhiều cơ hội, ví dụ như các thủ tục hành chính
số hóa được đơn giản hóa. Điều quan trọng là người dân ủng hộ những thay đổi này.
Tiêu thụ năng lượng, sử dụng nhân lực và tài chính sẽ ngay lập tức trở nên hiệu quả
hơn
Tắc đường và ô nhiễm không khí là những vấn đề ở cả Thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội. Năm 1997, điều này cũng đã xảy ra ở Barcelona. Thành phố Tây Ban Nha bị
che phủ bởi sương mù độc hại. Lúc đó, không ai ngờ rằng Barcelona một ngày nào đó
sẽ trở thành mô hình mẫu cho cả thế giới. Trẻ em chơi trên các đường chính được
chặn tuyến, giao thông công cộng đang phát triển mạnh và các kế hoạch đô thị từ khắp
nơi trên thế giới đến Barcelona để học hỏi. Bí mật của thành phố thông minh Tây Ban
Nha là gì?

Ở Barcelona, có hàng nghìn cảm biến trên khắp thành phố thu thập dữ liệu. Ngay cả
hệ thống đèn đường cũng thông minh. Dữ liệu là cơ sở quan trọng nhất để thay đổi
các thành phố trên toàn thế giới. Nếu một điều gì đó không thể đo lường được, thì việc
hành động không thể được chứng minh một cách hợp lý. Chỉ với dữ liệu, chúng ta
mới hiểu được một tình hình. Đèn đường đo chất lượng không khí và thu thập dữ liệu
liên tục.

Hệ thống đèn đường gửi dữ liệu này lên một đám mây chia sẻ. Một thuật toán xử lý
dữ liệu và chuyển nó thành báo cáo. Không chỉ chất lượng không khí, mà còn cường
độ tiếng ồn cũng có thể được đo lường. Nếu cường độ tiếng ồn vượt quá mức tại một
điểm nào đó trong thành phố, giao thông phải được định tuyến sang hướng khác. Do
đó, nhiều tuyến đường chính ở Barcelona được chặn lại không còn dùng cho mục đích
giao thông và được xây dựng lại - trao trở lại cho cư dân và thiên nhiên.
Việc chặn lại này tạo ra các khu phố nhỏ với cửa hàng, quán cà phê và nhiều không
gian hơn cho cư dân: gọi là "Super Blocks".
Các đoàn đại biểu từ khắp nơi trên thế giới đến Barcelona để tìm hiểu về các "Super
Blocks". Thành phố trở nên trong lành hơn với ít ô nhiễm không khí và tiếng ồn hơn.
Người đi bộ được ưu tiên. Nếu xe hơi bị cấm ở một số khu vực của thành phố, thì trẻ
em sẽ có nhiều không gian hơn để chơi. Bất ngờ thay, giao thông ở các đường phố
xung quanh cũng không bị ùn tắc. Đơn giản là có ít ô tô hơn và giao thông công cộng
đang được mở rộng. Xe đạp cho thuê có ở mọi góc phố. Bất kỳ ai trả lại xe ô tô cá
nhân ở Barcelona đều có thể sử dụng phương tiện công cộng miễn phí trong ba năm.

Một ý tưởng thú vị ở Barcelona là việc sử dụng xe điện như các thiết bị lưu trữ năng
lượng di động để sạc năng lượng cho nhà cửa. Vì xe điện không chỉ là phương tiện
vận chuyển, mà còn có thể được sử dụng như một nguồn năng lượng. Theo kế hoạch
của Liên minh Châu Âu, sau năm 2035 sẽ không còn đăng ký xe chạy bằng dầu diesel
hay xăng. Trong tương lai, chỉ có xe điện sẽ di chuyển qua các thành phố của chúng

110
ta. Những chiếc xe này đầy năng lượng nhưng được dừng đỗ 90% thời gian. Năng
lượng trong các xe dừng đỗ không được sử dụng.

Vì vậy, có bình điện lăn" ở khắp mọi nơi và nhiều năng lượng không được sử dụng.
Một bộ sạc thông minh có thể quyết định nơi năng lượng cần thiết nhất. Nếu có đủ
năng lượng trong nhà, xe sẽ được sạc. Nhưng khi nhà cần năng lượng, năng lượng sẽ
được lấy từ các xe. Điều đó tiết kiệm tiền bạc và bảo vệ môi trường. Các xe được sạc
vào ban đêm. Trong ban ngày, năng lượng được lấy từ các xe điện. Nếu trời sáng, ít
năng lượng được lấy từ xe điện vì năng lượng mặt trời có thể được sử dụng bổ sung.
Trí tuệ nhân tạo đảm bảo luôn có đủ năng lượng.

Barcelona được coi là thành phố tiên phong trong quy hoạch đô thị với nhiều ý tưởng
thông minh. Ở đây, trọng tâm không phải vào công nghệ, mà vào động cơ để làm việc
vì một tương lai tốt hơn.
Các Tòa nhà Thông minh và Xanh

Những tòa nhà mà chúng ta muốn làm việc, là những tòa nhà thông minh và vai trò
của văn phòng sẽ thay đổi hoàn toàn. Trước đây, chúng ta đến văn phòng để làm việc.
Hiện nay - sau đại dịch toàn cầu - chúng ta có thể làm việc từ bất kỳ đâu. Chúng ta
chỉ đến văn phòng để giao tiếp và tham gia vào một văn hóa chung.

Các tòa nhà có tác động lớn đến khí hậu thế giới. Các ngành xây dựng và bất động
sản chiếm gần 40% tổng lượng khí carbon phát ra trên toàn cầu. Các công nghệ khác
nhau đóng vai trò quan trọng ở mỗi giai đoạn trong vòng đời của tòa nhà và giúp
chúng ta làm việc hiệu quả hơn, giảm lãng phí và tiết kiệm thời gian và năng lượng.
Bằng cách thu thập dữ liệu năng lượng, tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng và tiêu
thụ nước v.v., chúng ta hiểu được những gì thực sự đang diễn ra trong các tòa nhà.

Tòa nhà cần thoải mái, tiết kiệm năng lượng, hiệu quả sản xuất và an toàn, đáp ứng
kỳ vọng cao hơn của cư dân. Điều này do công nghệ và Internet of Things thúc đẩy
để thu hút nhân viên và cư dân cũng như duy trì lợi thế cạnh tranh. Do đó, các chủ sở
hữu tòa nhà cần tạo ra môi trường tập trung vào con người để cải thiện trải nghiệm
của người cư trú. Để thực sự thông minh, một tòa nhà phải cung cấp hoạt động hàng
đầu thế giới và tương tác với cư dân. Tòa nhà là một phần mở rộng của những người
làm việc và đến thăm đó. Các tòa nhà trở thành những đóng góp viên tích cực cho sự
thành công của người cư trú, doanh nghiệp và phải là những không gian tập trung vào
con người. Các nền tảng phân tích dữ liệu đang kết nối con người trong tòa nhà với
tòa nhà.

Trong dự án "Việt Nam - Chuyển đổi Tòa nhà", Cơ quan Năng lượng Đức (dena)
gần đây đã công bố hai nghiên cứu với các tiêu đề "Vật liệu Xây dựng Tái tạo ở Việt
Nam" và "Làm mát bằng năng lượng Tái tạo trong Các tòa nhà". Các nghiên cứu
111
này cho thấy rõ tiềm năng cao để triển khai các thực hành xây dựng bền vững tại
Việt Nam. Theo các nghiên cứu của dena, các xu hướng xây dựng và xây dựng hiện
tại tại Việt Nam cho thấy sự gia tăng của các tòa nhà chọc trời theo mô hình thiết kế
phương Tây tương đối không phù hợp và sử dụng chủ yếu vật liệu năng lượng
composite như bê tông cốt thép, kính và thép. Những vật liệu này được sản xuất
bằng phương pháp phát thải cao và dẫn đến việc tăng lượng rác xây dựng cho đất
nước. Xu hướng xây dựng tòa nhà cao tầng khó có thể thay đổi, nhưng Việt Nam có
tiềm năng lớn chưa được khai thác để tích hợp các vật liệu bền vững vào thực hành
kiến trúc hiện đại của mình.

112
Mô hình kinh tế nước tuần hoàn của Israel và cách nó
giảm lượng khí thải nhà kính và giảm thiểu thiệt hại
đối với môi trường
Khủng hoảng khí hậu toàn cầu và khủng hoảng nước toàn cầu là hai mặt của cùng một
đồng xu. Một mặt là khủng hoảng khí hậu đang ngày càng làm trầm trọng hơn khủng
hoảng nước đang diễn ra, và mặt khác, cách chúng ta tiêu thụ nước, vận chuyển và
không xử lý nước thải đúng cách đang tăng cường khủng hoảng khí hậu và gây ra
lượng khí nhà kính không cần thiết.
Đây là một vấn đề chỉ có một số ít những người liên quan đến việc ngăn chặn khủng
hoảng khí hậu nhận thức được hiện nay. Nhưng lượng khí nhà kính từ ngành nước
toàn cầu và sự kỳ vọng về việc tiêu thụ nước lớn hơn cho nông nghiệp, sử dụng đô thị
và công nghiệp là những yếu tố quan trọng trong khủng hoảng khí hậu. Theo số liệu,
ngành nước toàn cầu chiếm trách nhiệm khoảng 2% tổng lượng khí nhà kính thải ra
trên thế giới. Số liệu này được chia đều thành hai nửa giữa lượng thải liên quan đến
năng lượng sử dụng cho bơm nước, vận chuyển nước đến người tiêu dùng và sau đó
xử lý nước thải, và lượng thải do hệ thống thoát nước không qua xử lý, chủ yếu là khí
methane. Loại khí này mạnh gấp 84 lần CO2 theo thời gian, do đó tác động của nó
đối với sự nóng lên toàn cầu là đáng kể.
Nước thải chưa qua xử lý có nhiều hậu quả tiêu cực về môi trường: nó ô nhiễm các
thể chất nước và gây ra hiện tượng nở tảo làm ngạt hệ thống nước biển, ô nhiễm sông
suối, xâm nhập vào nguồn nước dưới đất và làm ô nhiễm nó, và gây ra tổn hại môi
trường nghiêm trọng làm gián đoạn khả năng hoạt động của thiên nhiên và hấp thụ
lượng khí nhà kính.
Có một nghịch lý lớn là khi khủng hoảng khí hậu tiến triển và phát triển, nó gây ra sự
thiếu nước ngày càng tăng. Đồng thời, nhu cầu đáp ứng sự thiếu hụt này lại làm trầm
trọng thêm khủng hoảng khí hậu, vì cần tăng nguồn nước, bơm nước và vận chuyển
nước qua những khoảng cách ngày càng xa tới người tiêu dùng cuối cùng, và đôi khi
còn phải thực hiện quá trình lọc nước biển thành nước ngọt, quá trình này đòi hỏi năng
lượng đáng kể và tạo ra nước mặn loãng được xả đi vào môi trường. Do đó, một vòng
lặp tích cực được tạo ra ở đây, đó là cần tìm cách áp dụng và hiệu quả để phá vỡ nó.
Nói cách khác, chúng ta cần tách khủng hoảng khí hậu toàn cầu khỏi khủng
hoảng nước toàn cầu.
Trong bài viết này, tôi muốn trình bày kinh nghiệm của Israel trong lĩnh vực kinh tế
nước tái chế và chỉ ra một số cách đơn giản nhưng hiệu quả nhằm tạo ra một kinh tế
nước tái chế, tiết kiệm tài nguyên và ít thải khí nhà kính. Kinh nghiệm của Israel xuất
phát từ sự cần thiết và như câu nói: "Nghèo khó là mẹ của sáng tạo". Israel nằm trong
khu vực khô cằn với lượng mưa ít. Thực tế, khoảng 60% diện tích của nước này là sa
mạc và phần còn lại là vùng bán khô cằn. Kể từ khi ra đời, đất nước đã phải đối mặt
với thách thức duy trì nông nghiệp hiệu quả, sản xuất thực phẩm tự cung cấp và cung
cấp nước cho dân số ngày càng tăng mà lượng nước có sẵn không thay đổi đáng kể,
thậm chí còn giảm đi. Điều này là một thách thức lớn và đáng chú ý, làm thế nào để

113
đem nước với giá bình đẳng đến cho mỗi người dân, bất kể họ sống ở đâu và cách xa
nguồn nước như thế nào? Làm thế nào để duy trì chất lượng cuộc sống và thậm chí
cải thiện nó liên tục? Làm thế nào để đảm bảo rằng nước là chất lượng cao, sạch và
tốt cho sức khỏe? Và làm thế nào để giữ đủ nước cho tự nhiên và hệ sinh thái?
Thêm vào đó là thách thức của khủng hoảng khí hậu dẫn đến giảm lượng mưa, tăng
nhiệt độ và do đó làm tăng hiện tượng bay hơi, thay đổi phân bố mưa trong năm và
các sự kiện cực đoan như mưa lũ rất lớn rơi trong khoảng thời gian ngắn và lợi ích
của chúng đối với thiên nhiên và nông nghiệp giảm đi, như một hệ quả tất yếu.
Chúng ta sẽ không đánh giá lại lịch sử nước thú vị của Israel ở đây, mà sẽ tập trung
vào chính sách nước hiện tại với ý định sử dụng nó như một mô hình hiệu quả cho các
quốc gia và vùng khác trên thế giới. Có thể không có ý định trước, nhưng như một sự
cần thiết của hiện thực, một kinh tế nước tái chế đã được tạo ra ở Israel, vẫn chưa hoàn
thiện, nhưng theo thời gian trôi qua, nó đang ngày càng gần hơn.
Chúng ta sẽ không đánh giá lại lịch sử nước phong phú của Israel ở đây, mà sẽ tập
trung vào chính sách nước hiện tại nhằm tạo mô hình hiệu quả cho các quốc gia và
vùng lãnh thổ khác trên thế giới. Có lẽ không có ý định trước, nhưng vì sự cần thiết
của hiện thực, một nền kinh tế nước tái chế đã được tạo ra ở Israel, vẫn chưa hoàn
chỉnh, nhưng qua các năm, nó đang ngày càng tiến gần tới sự hoàn thiện.
Các nguồn nước chính của Israel là nước từ Hồ Kinneret, nước ngầm, nước khử mặn
và nước thải đã qua xử lý để sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Trong bối cảnh nước
tự nhiên như nước ngầm và nước bề mặt bị hạn chế về số lượng và thậm chí có nguy
cơ giảm do khủng hoảng khí hậu, như chúng ta đã mô tả ở trên, nước được sản xuất
từ quá trình khử muối và xử lý nước thải là các nguồn đang ngày càng tăng.
Khử muối nước ở Israel đạt khoảng 600 triệu mét khối mỗi năm, hầu hết đều từ Biển
Địa Trung Hải. Theo kế hoạch là khử muối thêm 300 triệu mét khối mỗi năm cho đến
năm 2030. Đây là một động thái chiến lược cuối cùng sẽ dẫn đến phần lớn nước ngọt
ở Israel là nước biến được khử muối. Hiện nay, hầu hết năng lượng sử dụng cho quá
trình khử muối đến từ khí tự nhiên, nhưng khi năng lượng dùng cho khử muối đến từ
các nguồn tái tạo, lượng khí nhà kính thải ra cũng sẽ giảm và tác động lên sự nóng lên
toàn cầu cũng vậy.
Ngoài ra, Israel cũng cung cấp nước cho các nước láng giềng của mình: khoảng 100
triệu mét khối nước được chuyển tới Jordan và gần như bằng số đó tới Palestine. Theo
kế hoạch, là tăng lượng nước chuyển tới Jordan thêm 200 triệu mét khối mỗi năm,
trong khuôn khổ thỏa thuận ba bên giữa Israel-Jordan-Các Tiểu vương quốc Arab
Thống nhất. Những điểm chính của thỏa thuận này là Israel sẽ chuyển 200 triệu mét
khối nước biển được khử muối cho Jordan và nhận năng lượng mặt trời từ Jordan sản
xuất trên lãnh thổ của họ. Chúng ta thấy rằng Israel không chỉ phải đáp ứng nhu cầu
nước của riêng mình, mà ngày càng cần phải giúp đỡ các nước láng giềng của mình.
Khử muối nước biển là bước đầu tiên trong nền kinh tế nước tái chế của Israel. Quá
trình này được thực hiện thông qua một số cơ sở được phân bố trải rộng dọc theo bờ
biển Địa Trung Hải, ở khoảng cách tương đối ngắn tới người tiêu dùng. Trong tương
lai gần, nước biển được khử muối sẽ được vận chuyển qua hệ thống đường ống quốc
114
gia đến Hồ Kinneret ở miền bắc Israel để giúp duy trì mực nước của hồ và ngăn chặn
hiện tượng nước biển xâm nhập vào hồ.
Trạm tiếp theo là sử dụng nước khử muối cho nhu cầu đô thị. Khoảng 92% dân số của
Israel sống ở các thành phố và các thành phố là người tiêu dùng nước chính của đất
nước này. Nước khử muối được pha với nước ngầm để cải thiện chất lượng và trải
qua các quy trình đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng. Sau khi sử dụng, hầu
hết lượng nước này - khoảng 95% nước, một kỷ lục thế giới - được chuyển tới các
nhà máy xử lý nước thải và đây là trạm thứ ba trong nền kinh tế nước tái chế của
Israel.
Nước này được làm sạch ở các cấp độ khác nhau tùy theo mục đích sử dụng trong
nông nghiệp. Một lượng nước nhất định đã được lọc được phun vào nước ngầm như
một phần của quy trình tự nhiên giúp làm sạch nó. Sau đó, nước được bơm từ nước
ngầm và chuyển đi để được sử dụng trong nông nghiệp. Phần còn lại của nước đã lọc
được chuyển đến trực tiếp trong một đường ống riêng để sử dụng trong nông nghiệp
hoặc cho tự nhiên. Quá trình lọc được thực hiện tại các cơ sở xử lý nước phía tây được
vận hành trên cơ sở kinh tế, thường là nhiều thành phố và chính quyền địa phương
cùng nhau tham gia xử lý nước thải tại một cơ sở trung tâm. Điều này cải thiện quy
trình, giảm chi phí và nguy cơ rò rỉ nước thải chưa qua xử lý. Bùn, sản phẩm phụ của
quy trình, được sử dụng làm phân bón, đồng thời tạo ra khí sinh học trong quá trình
xử lý, và hiện nay có những ý tưởng thú vị để sản xuất năng lượng thay thế thân thiện
với môi trường như hydro từ lượng bùn này.
Sử dụng trong nông nghiệp là điểm dừng thứ tư và cuối cùng trên con đường mà nước
đi qua. Khoảng một nửa các mùa màng nông nghiệp của Israel dựa vào nước đã được
xử lý và làm sạch dựa trên quy định nghiêm ngặt nhằm đảm bảo rằng lượng nước này
sẽ không gây hại đến sức khỏe hay môi trường. Có một quá trình kiểm soát và giám
sát liên tục đối với lượng nước này. Nếu không có điều này, nông nghiệp sẽ bị giảm
sút đáng kể, sự phụ thuộc vào nhập khẩu thực phẩm sẽ tăng và đất đai sẽ thay đổi và
trở nên cằn cỗi hơn.
Ngoài quy trình đã mô tả ở trên, dựa trên 4 trạm chính, cũng có thể thêm việc sử dụng
nước mặn được bắt nguồn từ việc khoan ở các khu vực sa mạc của đất nước, phù hợp
cho một số loại cây trồng nông nghiệp, một số trong số đó đã được thích nghi với
nước mặn, và cho mục đích nuôi cá trong ao nuôi cá ở sa mạc, và trong những trường
hợp khác, nước được khử muối để sử dụng làm nước uống ở các khu dân cư.
Hiệu quả của chiến lược nước của Israel được xác nhận lại cũng nhờ một chính sách
khác dựa trên hai nguyên tắc chính: ngăn chặn mất nước trong hệ thống nước và bảo
tồn và tăng cường nhận thức về việc sử dụng nước. Israel có lẽ là một trong những
quốc gia có kỷ lục thế giới trong việc ngăn chặn mất nước. Trong khi ở nhiều quốc
gia và thành phố trên thế giới, hàng chục phần trăm lượng nước bị thất thoát do bị rò
rỉ, sự cố và trộm cắp, ở Israel, hệ thống nước chỉ mất một vài phần trăm.
Cần phải hiểu rằng: nước đã bị thất thoát do rò rỉ hoặc bay hơi thực tế là nước đã được
sản xuất và vận chuyển, và khí nhà kính không cần thiết đã được thải ra vào bầu không
khí khi bơm nước, đôi khi từ độ sâu hàng trăm mét, và vận chuyển đến người tiêu

115
dùng, đôi khi cả hàng trăm kilomet và thậm chí nhiều hơn. Việc giảm rò rỉ, ngăn chặn
bay hơi, mất mát và trộm cắp là bước chính trong việc giảm lượng khí nhà kính thải
ra trong ngành nước toàn cầu, và Israel cũng là một quốc gia đi đầu trong chiến lược
và ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực này, một số trong số đó đã được
phát triển tại Israel.
Nguyên tắc thứ hai là tiết kiệm nước và nhận thức cao về tầm quan trọng của nó. Khi
tôi thăm các quốc gia khác trên thế giới, đôi khi tôi ngạc nhiên bởi việc lãng phí nước
ở đó, ngay cả ở các quốc gia khô cằn mà thực sự rất thiếu nước. Tôi luôn kiểm tra các
vòi nước trong các phòng khách sạn, bồn rửa chén và phòng tắm, xem chúng có được
trang bị các thiết bị tiết kiệm nước hay không, một loại bộ lọc kim loại đơn giản, giúp
giảm lượng nước chảy qua vòi mà không ảnh hưởng đến tốc độ hoặc mạnh yếu của
dòng nước. Trong phòng tắm, tôi kiểm tra xem có hai chế độ xả bồn hay không: một
là với lượng nước tối thiểu và chế độ còn lại với lượng nước ít hơn một chút. Hai biện
pháp đơn giản và rõ ràng này có thể giảm tiêu thụ nước hộ gia đình khoảng 15%. Hãy
tưởng tượng xem có bao nhiêu khí nhà kính có thể được ngăn chặn trên quy mô toàn
cầu nếu các tiêu chuẩn này được bắt buộc áp dụng ở mọi nơi trên thế giới.
Israel cũng được đặc trưng bởi hiệu quả rất cao trong việc sử dụng nước trong nông
nghiệp. Các vườn cây ăn quả và rau cải được trồng với phương pháp tưới nhỏ giọt,
tiết kiệm tới 50% so với các phương pháp tưới tiêu biểu của thế giới là tràn đổ nước
vào các khu vực nông nghiệp. Không chỉ là phương pháp này tiết kiệm nước, nó còn
tăng năng suất lên đến hàng chục phần trăm so với các phương pháp tưới khác và ngăn
chặn bệnh tại cây trồng do độ ẩm không cần thiết và phân bón bị lãng phí. Ở Israel,
loại cây trồng nông nghiệp tiết kiệm nước và kháng hạn được phát triển liên tục, bao
gồm cả lúa được trồng bằng phương pháp tưới dưới thay vì tưới ngập. Điều này có
thể góp phần lớn vào việc gia tăng sự an toàn thực phẩm toàn cầu và giảm khí nhà
kính, vì ngành lúa là nguyên nhân gây ra khoảng 10% khí methane toàn cầu.
Người dân Israel ý thước được rất rõ về tình trạng thiếu nước, là kết quả của nhiều
thập kỷ giáo dục thông qua phương tiện truyền thông và các chiến dịch công khai kêu
gọi tiết kiệm nước. Như kết quả trực tiếp của điều này, tiêu thụ nước theo đầu người
ở Israel là một trong những tỉ lệ thấp nhất so với các quốc gia phương Tây. Đồng thời,
chất lượng cuộc sống không bị ảnh hưởng và không có tình trạng thiếu nước. Kế hoạch
dài hạn, đến năm 2050, lưu ý sự tăng trưởng dân số, biến đổi khí hậu, tính chất tiêu
thụ nước trong tương lai và nhiều yếu tố khác, đảm bảo tình hình này sẽ tiếp tục duy
trì như hiện tại.
Cần phải nói rằng hệ thống nước được quản lý chuyên nghiệp với tầm nhìn dài hạn,
được hỗ trợ bởi quy định thích hợp, chính sách giá rõ ràng tạo sự bình đẳng và cơ hội
tăng trưởng cho tất cả các người tiêu dùng, góp phần vào tất cả những điều này - ở
Israel, giá nước đồng nhất cho tất cả người tiêu dùng theo mức sử dụng - và đây chính
là giá thực sự của nước mà không có các khoản trợ cấp. Lợi nhuận từ việc bán nước
cho người tiêu dùng được đầu tư vào việc cải thiện hệ thống nước, cải tiến cơ sở hạ
tầng và quản lý hệ thống. Chúng không dành cho các nhu cầu khác, dù chúng có thể
quan trọng như thế nào, nhưng không liên quan đến hệ thống nước. Bằng cách này,
hệ thống nước Israel nhận được đầu tư liên tục để duy trì cấp độ và ngăn ngừa thất

116
thoát nước. Hiệu quả của hệ thống nước ở Israel trên thực tế là nhờ vào một hệ thống
thống nhất trên toàn đất nước, và điều này khả thi là nhờ diện tích nhỏ bé của lãnh thổ
Israel.
Tóm lại, mô hình nước của Israel là một trong những mô hình phù hợp nhất trên thế
giới để đối phó với khủng hoảng khí hậu. Mong muốn rằng và thậm chí là quan trọng,
mô hình này sẽ là nguồn cảm hứng cho các quốc gia, khu vực và thành phố khác trên
thế giới. Việc áp dụng mô hình này, dù là một phần hoặc toàn bộ tùy thuộc vào đặc
điểm của mỗi quốc gia và khu vực khí hậu, có thể giúp giảm đáng kể lượng khí nhà
kính thải ra toàn cầu - từ đó đóng góp vào việc giảm thiểu khủng hoảng khí hậu toàn
cầu. Điều này cũng cần thiết để tạo nên sự kiên cường và thích nghi trước sự gia tăng
nhanh chóng của khủng hoảng nước toàn cầu. Cuối cùng, nếu không thể giải quyết
triệt để vấn đề nước trên quy mô toàn cầu, chúng ta sẽ không thể thiết lập lại lượng
khí nhà kính toàn cầu và cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết nhất cho cuộc sống của
chúng ta – chính là nước.
Đại sứ Gideon Behar, Đặc phái viên Đặc biệt về Biến đổi Khí hậu và Bền vững của
Israel, Bộ Ngoại giao.

117
Tổng cục Công nghệ mới, Năng lượng và Phát triển
Kinh tế bền vững, Cục Phát triển Bền vững: Tổng quan
ENEA là Tổng cục Công nghệ mới, Năng lượng và Phát triển Kinh tế bền vững,
một cơ quan công cộng nhằm nghiên cứu, đổi mới công nghệ và cung cấp các dịch vụ
tiên tiến cho doanh nghiệp, cơ quan quản lý công cộng và người dân trong lĩnh vực
năng lượng, môi trường và phát triển kinh tế bền vững (theo điều 4, Luật số 22 ngày
28 tháng 12 năm 2015).
Kể từ khi thành lập vào những năm 1960, thế mạnh của ENEA là nghiên cứu ứng
dụng, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ khoa học - kỹ thuật cho các công ty, hiệp hội,
lãnh thổ, cơ quan trung ương và địa phương: vì lý do này - khác với các cơ sở nghiên
cứu khác – Tổng cục này trực thuộc Bộ Môi trường và An ninh Năng lượng.
Các hoạt động phát triển khoa học và công nghệ của ENEA được thực hiện tại
chín Trung tâm Nghiên cứu trải dọc cả nước, cùng với năm phòng thí nghiệm, trụ sở
chính ở Rome, mạng lưới các văn phòng khu vực và văn phòng liên kết ở Brussels để
tham gia vào các dự án nghiên cứu châu Âu và quốc tế.

Cục Phát triển Bền vững


Mục tiêu chung

118
Đóng góp vào tôn vinh vốn kinh tế, tự nhiên và xã hội bằng cách cung cấp công
cụ công nghệ và phương pháp để thúc đẩy sự phát triển bền vững và cạnh tranh,
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân
Hỗ trợ xây dựng và thực hiện chính sách thúc đẩy giảm lượng phát thải, giảm
thiểu tác động của biến đổi khí hậu, chuyển đổi sang các mô hình kinh tế đổi mới
(nền kinh tế hướng vòng tròn, nền kinh tế sinh học, nền kinh tế xanh)
Cục cũng đảm bảo hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ quan công quyền trong các diễn
đàn quốc gia, EU và diễn đàn quốc tế; trong các nền tảng EIP châu Âu và các nhóm
làm việc; trong các Ủy ban Chuyên gia quốc tế và trong các cuộc đàm phán quốc tế
(Liên Hợp Quốc, Liên Hợp Quốc - ECE, EU, v.v.)..
Các chủ đề chiến lược
 Biến đổi khí hậu
 Vốn tự nhiên và du lịch bền vững
 Đóng vòng, khu vực công nghiệp và nền kinh tế hướng vòng tròn
 Thành phố bền vững
 Chuỗi cung ứng và hệ thống lương thực bền vững
 Vật liệu và quy trình cho ngành công nghiệp sản xuất cạnh tranh
 Sản phẩm và hệ thống sức khỏe đổi mới
 Chất lượng không khí và sức khỏe
 Bảo vệ và tôn vinh di sản nghệ thuật, lịch sử và kiến trúc của chúng ta 
 An ninh lãnh thổ 
 Hệ thống, sản phẩm và quy trình công nghệ sinh học
Cục Phát triển Bền vững (SSPT) của ENEA phát triển, triển khai và thúc đẩy sự
đổi mới sinh thái trong hệ thống sản xuất và tiêu dùng, góp phần định hình và thực
hiện các chiến lược và chính sách của đất nước trong tổng thể khuôn khổ chuyển đổi
lên mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững hơn.
Các phân ban là các đơn vị tổ chức của Cục thực hiện các hoạt động nghiên cứu
và phát triển trong các lĩnh vực sau:
 Hiệu quả tài nguyên: Phân ban này phát triển và triển khai các công nghệ,
phương pháp và công cụ để nâng cao, sử dụng và quản lý tài nguyên một cách hiệu
quả, nhằm thúc đẩy nền kinh tế hướng vòng tròn trong chuỗi giá trị của sản phẩm và
vật liệu, trong chuỗi sản xuất, trong các khu vực đô thị và công nghiệp, và trên toàn
lãnh thổ. Phân ban này xử lý các công nghệ lên tới quy mô dự án thử nghiệm, phục
vụ công tác quản lý tài nguyên chất thải và nước ở cả lĩnh vực dân sự và công nghiệp,
tái chế/phục hồi tài nguyên nguyên liệu từ các sản phẩm phức tạp cuối đời và dưỡng
chất, vật liệu và năng lượng từ chất thải.
 Vật liệu bền vững: Phân ban này hoạt động trong lĩnh vực vật liệu đổi mới
để áp dụng cho hệ thống sản xuất, đặc biệt là vật liệu composite, gốm, nano và
polymer. Nó phát triển các vật liệu chức năng và cấu trúc có tác động môi trường thấp,
các công nghệ liên quan (bao gồm công nghệ gia công) và các thành phần thử nghiệm.
Nó thúc đẩy thay thế các nguyên liệu quan trọng và phát triển các kỹ thuật phân tích
liên quan đến di sản nghệ thuật của chúng ta.
 Mô hình và công nghệ giảm thiểu rủi ro: Phân ban này phát triển các mô hình
số học về khí quyển và hệ thống khí hậu để đánh giá tác động của ô nhiễm không khí,
biến đổi khí hậu và các kịch bản tương lai về tài nguyên thiên nhiên, sức khỏe con

119
người và vật liệu. Nó phát triển và áp dụng các công nghệ chống động đất mới cho
các tòa nhà dân sự, công nghiệp và di tích. Nó phát triển phương pháp xác định rủi ro
địa hình và địa chất. Nó đề xuất chiến lược thích ứng và giảm nhẹ các rủi ro xuất phát
từ nguyên nhân tự nhiên và con người.
 Bảo vệ và tăng cường tài nguyên thiên nhiên: Phân ban này thu thập dữ liệu
và phát triển phương pháp và công nghệ để xác định đặc điểm, bảo vệ, quản lý và
khắc phục môi trường, và hiểu rõ hệ thống khí hậu và sự biến đổi của nó, hợp tác với
ngành công nghiệp để phát triển các nguyên mẫu và công cụ mới. Nó thiết kế và quản
lý các đài quan sát tích hợp và tiến hành nghiên cứu để tăng cường và bảo vệ các hệ
sinh thái và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nó phát triển các công nghệ vi sinh học
được áp dụng vào lĩnh vực cải thiện, phục hồi môi trường, bảo tồn và khôi phục di
sản văn hóa.
 Công nghệ sinh học và công nông nghiệp: Phân ban này thực hiện các hoạt
động nghiên cứu và đổi mới cho hệ thống nông nghiệp và thực phẩm, thúc đẩy tính
cạnh tranh và bền vững của hệ thống từ quan điểm nền kinh tế học sinh thái hướng
vòng tròn, để nâng cao hiệu suất về chất lượng, số lượng, an toàn và khả năng theo
dõi của các sản phẩm, góp phần vào sức khỏe và sự thịnh vượng công cộng.
 Công nghệ bảo vệ sức khỏe: Phân ban này thực hiện các hoạt động nghiên
cứu và đổi mới trong lĩnh vực công nghệ sinh học công nghiệp và y tế. Nó phát triển
các giải pháp đổi mới cho sức khỏe; xác định các mục tiêu phân tử mới có lợi cho điều
trị; đưa ra các chiến lược cung cấp mới, các chỉ số sinh lý và các chỉ số về phóng xạ.
Thông qua việc phát triển các phương pháp tiếp cận thử nghiệm đổi mới và thông qua
đánh giá rủi ro, nó định dạng tác động của các thay đổi môi trường đối với sức khỏe
con người về mặt nguy cơ tiến triển bệnh mãn tính và quá trình lão hóa.
Ngoài ra, Phân ban này phối hợp các hoạt động hỗ trợ và chuyển giao công nghệ
nhằm hướng đến các nước đang phát triển để thúc đẩy các hoạt động chống lại tác
động của biến đổi khí hậu, trong khuôn khổ các cam kết quốc gia theo Khung công
ước khí hậu của Liên Hợp Quốc và hợp tác với cơ quan quản lý Nhà nước.

Hợp tác phát triển


Hợp tác phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ENEA, thống nhất với
các giá trị và nhiệm vụ sáng lập của nó. Trong thực tế, Tổng cục này cung cấp các
chuyên môn, công nghệ và dịch vụ của mình thông qua các thỏa thuận, hợp đồng và
giao thức hợp tác với hệ thống hợp tác quốc gia (MAECI, AICS) thông qua một Hiệp
định Khung cụ thể với các tổ chức quốc gia và quốc tế (FAO, UNIDO ITPO Italy,
v.v.), các tổ chức phi chính phủ, Tổ chức Xã hội Dân sự và các đối tác hàng đầu khác
trong lĩnh vực này, với những đối tác mà ENEA tham gia trong các cuộc gọi vốn quốc
gia và châu Âu
Theo Thỏa thuận với Bộ Môi trường, Đất và Biển của Ý (MATTM), ENEA
chuyển giao công nghệ và cung cấp sự hợp tác về môi trường cho những quốc gia,
đặc biệt là những quốc gia đang phát triển và nằm trong nhóm quốc gia đảo nhỏ đang
phát triển (SIDS), mà MATTM đã ký kết biên bản ghi nhớ.
Các dự án hợp tác phát triển cung cấp kế hoạch dự án, chuyển giao công nghệ,
tư vấn, đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật trong việc sản xuất năng lượng tái tạo, bảo vệ môi
trường và sức khỏe, biến đổi khí hậu, nông nghiệp bền vững và tự lực, quản lý nước,

120
nước thải và chất thải, khu vực bảo vệ biển (bao gồm các hải khu bảo tồn), hệ thống
cảnh báo và điều chỉnh khu vực ven biển.

Các sáng kiến cho mỗi lĩnh vực can thiệp


BẢN ĐỒ MÔI TRƯỜNG CỦA

BỘ MÔI TRƯỜNG ĐẤT VÀ


BIỂN
ENEA và MATTM hợp tác từ năm 2015 để đảm bảo hỗ
trợ công nghệ cho các nước đang phát triển nhằm xác
định, quản lý và thực hiện các dự án biến đổi khí hậu
bằng cách:
* các chuyến thăm kỹ thuật:
* phân tích trước về các tình huống và điểm quan trọng
của địa phương;
* sự tham gia của các doanh nghiệp quốc gia;
Các dự án giảm thiểu và
* đề xuất dự án:
* nghiên cứu khả thi;
thích ứng với biến đổi khí
* thông số kỹ thuật:
* xác định và thực hiện thích ứng với biến đổi khí hậu hậu ở các nước đang phát
và các biện pháp can thiệp giảm thiểu được đề xuất đồng
bộ và phối hợp với chính quyền địa phương của các triển
nước đang phát triển;
* giám sát các bước thực hiện can thiệp khác nhau:
BẢN ĐỒ MÔI TRƯỜNG CỦA ANEA phân tích hậu kỳ về hiệu quả của các can thiệp.
Bộ Môi trường, Đất đai và Biển Ý
Tiến sĩ Giovanni Brunelli-brunelli HYPERLINK
"mailto:giovanni@minambiente.it"
giovanni@minambiente.it
Tổng cục Công nghệ Mới, Năng lượng và Phát triển
Kinh tế Bền vững Italia, Tiến sĩ Natale Massimo
Caminiti-natale.caminiti@enea.it Tiến sĩ Maria

Dự án ENEA-MATTM 2016-2019
Đóng góp vào việc đạt được các mục tiêu của Liên
hợp quốc 2030

Bộ Môi trường, Đất đai và Biển Ý khuyến khích và hỗ trợ


các nỗ lực của các nước đang phát triển trong việc thúc
đẩy bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Sau Thỏa
thuận Paris, Bộ hỗ trợ chuyển giao công nghệ theo các
thỏa thuận hợp tác song phương và đa phương với các
quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước rủi ro biến đổi khí
hậu

TỔNG CỤC CÔNG NGHỆ MỚI, NĂNG LƯỢNG VÀ


PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ý

Tổng cục Công nghệ Mới, Năng lượng và Phát triển Kinh tế Bền
vững của Ý là một tổ chức công chủ yếu tập trung vào nghiên cứu
và đổi mới công nghệ, cung cấp cho các doanh nghiệp, cơ quan
hành chính công và người dân các dịch vụ tiên tiến trong lĩnh
vực năng lượng, môi trường và phát triển kinh tế bền vững.

121
TỰ CHỦ NÔNG NGHIỆP VÀ NƯỚC HỆ THỐNG CẢNH BẢO KHÍ HẬU SỚM BẢO VỆ VÙNG BIỂN VÀ DUYÊN HẢI
Tại các Quốc đảo nhỏ hơn thuộc Quần đảo Thái Bình Dương và Ethiopia,
Tại Ethiopia, Maldives, Sudan, eSwatini và Botswana, một số dự án nhằm Tại Tonga, Vanuatu và Cuba, ENEA tham gia vào các dự án quản
7 dự án đã được triển khai để cung cấp nước an toàn cho nông nghiệp và
tạo ra hoặc tăng cường hệ thống cảnh báo sớm đã được triển khai để dự lý bền vững tài nguyên đại dương bằng cách cung cấp:
dân dụng. Trong số này
báo các hiện tượng thời tiết cực đoan, chẳng hạn như bão gió, sét, mưa • Các bản đồ giám sát môi trường sống ở biển và đánh giá tính
• Dự án trên đảo Yap để thu thập và lưu trữ nước mưa trong 5 cộng đồng
đá, lũ lụt bất ngờ và hạn hán. dễ bị tổn thương của hệ sinh thái rạn san hô của các môi trường
của những người di tản vì khí hậu và tạo ra những vườn rau có khả năng
Các dự án nhằm mục đích tăng cường mạng lưới giám sát và cácdịch vụ ven biển liên quan;
chống hạn;
khí hậu bằng cách sử dụng các mô hình số để tạo ra các dự báo theo • Công nghệ và dữ liệu lập kế hoạch không gian biển để xác định
• Dự án quản lý bền vững nước cho mục đích dân dụng ở 22 ngôi làng của
mùa hữu ích trong lĩ nh vực khí tượng nông nghiệp. Do đó, việc phát các khu vực cần được bảo vệ và những khu vực có thể khai thác
Ethiopia nhằm tăng cường khả năng tự chủ nước của họ trong điều kiện hạn
triển các công cụ phù hợp có thể được lập kế hoạch để dự đoán các biến đổi cho các mục đích kinh tế khác nhau:
hán. Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo bằng cách thay thế động cơ
khí hậu, đánh giá tác động của nó đối với các hệ sinh thái và dân số, đồng • Hỗ trợ kỹ thuật và khoa học cho các chính phủ trong việc thiết
diesel bằng các tấm pin quang điện để cung cấp nước.
thời thực hiện các chiến lược thích ứng và ra quyết định tốt hơn lập các khu vực biển được bảo vệ khác nhau, đánh giá hiệu quả của
mạng lưới các khu vực biển được bảo vệvà khả năng kết nối của
chúng
Dự án ENEA-MATTM 2016 – 2019
HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG KHỬ CÁC Các quốc gia tham gia
ENEA cung cấp hỗ trợ khoa học và kỹ thuật để thực hiện các dự án
giảm thiểu biến đổi khí hậu và giảm nhiên liệu hóa thạch.
Ở Châu Phi (Botswana, Djibouti, eSwatini) và ở Liên bang Micronesia,
ENEA hỗ trợ các dự án sử dụng năng lượng hiệu quả trong các tòa
nhà công cộng và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.
tại Liên bang Micronesia, nó tham gia vào các dự án cung cấp để sử
dụng năng lượng tái tạo trong các trường công lập.
Nó cũng đang thực hiện các nghiên cứu và đánh giá tiềm năng về
năng lượng gió, quang điện và địa nhiệt ở Djibouti và Lesotho và
năng lượng đại dương ở Maldives

Ví dụ về dự án gần đây về Tính bền vững:

Điều hướng rừng châu Âu và kinh tế sinh học rừng bền vững đối với sự
trung lập khí hậu của EU

ForestNavigator nhằm mục tiêu đánh giá tiềm năng giảm thiểu khí hậu của rừng
Châu Âu và các ngành dựa vào rừng thông qua mô hình hóa các con đường chính
sách, nhất quán với các tiêu chuẩn báo cáo LULUCF tốt nhất, và cung cấp thông tin
cho các cơ quan chính phủ về cách tiếp cận chính sách rừng và kinh tế sinh học rừng
phù hợp nhất. ForestNavigator tập trung chủ yếu vào một số quốc gia thành viên của
EU được chọn lựa để tăng tính nhất quán của EU và các con đường quốc gia, và tập
trung vào phạm vi toàn cầu và một số đối tác thương mại chính của EU được lựa chọn
để tính đến các yếu tố thúc đẩy từ bên ngoài EU và hiệu ứng rò rỉ tiềm tàng.
Dự án dựa vào một khung mô hình chính sách tích hợp mới cho rừng Châu Âu
và kinh tế sinh học rừng bao gồm: i) tất cả các chiến lược giảm thiểu có liên quan từ
quản lý rừng đến thay thế năng lượng và vật liệu, ii) ảnh hưởng của biến đổi khí hậu,
122
thích ứng và các sự cố tự nhiên, iii) phản hồi khí hậu sinh lý, iv) tính toán một cách
hệ thống ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, dịch vụ hệ sinh thái rừng và các chức năng
rừng khác, bao gồm việc tạo việc làm và tăng trưởng xanh.
Để tăng tính khả dụng của các mô hình và đánh giá con đường, cũng như sự hiểu
biết và minh bạch của chúng, một nền tảng quyết định mới được thiết lập, bao gồm
Cổng thông tin ForestNavigator trên web, và một cộng đồng các nhà quy hoạch chính
sách, các cơ quan quốc gia và người mô phỏng, Diễn đàn Mô hình Chính sách Rừng.
Để đạt được mục tiêu của mình, ForestNavigator sẽ i) điều hòa, tích hợp và liên
tục cập nhật các bộ dữ liệu hiện có bằng cách bao gồm việc thu thập thông tin quốc
gia với dữ liệu quan sát từ xa mới và các mô hình ii) bắt đầu từ các mô hình rừng và
biến đổi khí hậu phức tạp và thông qua các bộ mô phỏng xây dựng chúng thành các
công cụ mô phỏng chính sách hoạt động, iii) tích hợp thông tin sinh học và kinh tế xã
hội, iv) xem xét rừng Châu Âu và kinh tế sinh học rừng trong bối cảnh rộng hơn của
sử dụng đất và các ngành kinh tế khác, v) dựa vào thông tin từ các nhà hoạch định
chính sách và các bên liên quan khác.
ENEA đóng góp cho dự án với một số hoạt động. Ngoài việc tham gia vào quản
lý một cuộc đối thoại với các bên liên quan năng động, nắm bắt sự khác biệt trong nhu
cầu và thách thức chủ yếu giữa các lợi ích khác nhau, nó hỗ trợ đánh giá các đường
cong chi phí quản lý rừng để cung cấp thông tin cho mô hình hóa tích hợp và đánh giá
chi phí rõ ràng trong việc trồng cây và quản lý dưới các giả định khác nhau. Quan
trọng nhất, ENEA sẽ dẫn dắt hoạt động đánh giá các dịch vụ vui chơi giải trí và văn
hóa bằng cách xác định các giá trị tiền tệ liên quan đến các loại quản lý rừng khác
nhau. Cuối cùng, ENEA sẽ tham gia vào việc thiết kế Cổng thông tin ForestNavigator
và sản xuất, truyền thông và phổ biến kết quả dự án.

POLYRISK - Hiểu về mức tiếp xúc và mối nguy hại về sức khỏe của chất ô
nhiễm hạt nhựa nhỏ và hạt nano trong môi trường chúng ta - Chiến lược mới
giúp bảo vệ con người khỏi ô nhiễm hạt nhựa nhỏ và hạt nano
Các hạt nhựa nhỏ và hạt nano (MNP) là các chất ô nhiễm rộng rãi trong môi
trường và chuỗi thức ăn của chúng ta. Bao nhiêu phần trăm của ô nhiễm này nhập vào
cơ thể chúng ta qua việc hít thở và ăn uống? Liệu MNP có ảnh hưởng tiêu cực đến
sức khỏe con người? Dự án POLYRISK do EU tài trợ giải đáp những câu hỏi này
bằng cách nghiên cứu mức tiếp xúc của con người với MNP và tác động độc hại lên
hệ thống miễn dịch của chúng ta. Đội ngũ đa ngành của POLYRISK sử dụng các
phương pháp tiên tiến để phát hiện và đo lường MNP theo phương diện hóa học, hiểu
các cơ chế quan trọng về độc tính của MNP trong môi trường in vitro, và tìm các chỉ
số sinh trắc học về độc tính trong máu và nước bọt. Đây là những yếu tố quan trọng
trong chiến lược đánh giá rủi ro của POLYRISK đối với sức khỏe con người từ MNP.
Các kết quả đánh giá sẽ đóng góp cho chính sách của EU và giúp bảo vệ sức khỏe con
người, ngày hôm nay và trong tương lai.
123
Dự án POLYRISK nhằm mục tiêu giải mã những nguy cơ từ các hạt nhựa nhỏ
và hạt nano (MNP) phổ biến trong môi trường và có khả năng nhập vào cơ thể con
người qua hít thở và ăn uống. Các hạt MNP nhỏ có kích thước siêu vi và nano, dễ hấp
thụ sinh học nhất, tạo ra những thách thức phân tích lớn đối với nhà hóa học phân tích
hiện đại. Hiện có kiến thức về ảnh hưởng hướng viêm của các hạt bụi trong không khí
và các hạt nano, kết hợp với chứng cứ về hướng viêm do MNP gây ra được quan sát
trong các mô hình động vật và các thử nghiệm thực nghiệm trong ống nghiệm với tế
bào miễn dịch của con người, cho thấy MNP có thể gây ra tác động độc tố trên con
người. Tiếp xúc nghề nghiệp của công nhân với các MNP sợi thực sự có thể dẫn đến
các tổn thương viêm kháng, gây kích ứng hô hấp, các bất thường chức năng và viêm
phổi do công nhân làm việc trong môi trường có chứa bụi MNP. Hiện tại, các giao
thức đánh giá rủi ro sức khỏe con người đặc thù cho MNP chưa có sẵn và dữ liệu
chính yếu thiếu. Điều này làm trở ngại cho việc đưa ra quyết định dựa trên khoa học.
Trong bối cảnh này, chiến lược đánh giá rủi ro của POLYRISK đối với con người sẽ
kết hợp các phương pháp lấy mẫu, xử lý mẫu và phân tích cực kỳ tiên tiến để phát
hiện MNP trong các ma trận phức tạp, công nghệ đánh giá nguy hiểm phù hợp với
mục đích và nhiều kịch bản tiếp xúc thực tế của con người. Chúng tôi sẽ tập trung vào
các sự kiện độc tính chính liên quan đến một số bệnh viêm mãn tính. Liên minh sẽ
đem đến sự kết hợp độc đáo về kinh nghiệm và hiểu biết đa ngành trong việc phân
tích hóa chất kiểm soát chất lượng MNP và phụ gia, mô hình độc tính đường ruột và
hô hấp, dự đoán tiếp xúc con người, độc tố học miễn dịch và các nghiên cứu tiếp xúc
cao thực tế. Chiến lược đánh giá rủi ro con người mới của POLYRISK dựa trên cách
lập lý cơ chế và linh hoạt phù hợp với tính phức tạp của lớp độc chất MNP. Xây dựng
trên khoa học đột phá, tham gia các bên liên quan và giao tiếp mạnh mẽ, POLYRISK
nhằm giảm bớt ngay lập tức những không chắc chắn rủi ro hiện tại từ MNP và hỗ trợ
nỗ lực của EU để đảm bảo sức khỏe công chúng được bảo vệ đầy đủ khỏi các nguy
cơ tiềm năng từ ô nhiễm MNP. POLYRISK là một phần của cụm châu Âu về tác động
sức khỏe từ nhựa nhỏ hạt và nano hạt.

Gói cải tạo để cải thiện toàn diện hiệu quả năng lượng của các tòa nhà EU,
tối đa hóa sự tạo ra năng lượng tái tạo và hiệu quả chi phí (REHOUSE)
Mục tiêu chính của REHOUSE là phát triển và thử nghiệm 8 gói cải tạo của các
đổi mới công nghệ tiềm năng đến TRL7. Các gói cải tạo được thiết kế hoàn toàn cho
một loạt các hoạt động cải tạo tòa nhà, bao gồm cải tạo sâu, vượt qua những rào cản
chính làm giảm tỷ lệ cải tạo hiện tại của EU, tuân theo nguyên tắc tái sinh, bao gồm
đa chức năng thông qua tích hợp yếu tố hoạt động/ bị động, xây dựng tiền trợ cấu
thành và xây dựng ngoài công trình và tôn trọng mỹ quan, kiến trúc và giá trị lịch sử
của các công trình. REHOUSE cũng triển khai chiến lược hòa nhập xã hội hướng
người dân tích cực để trang bị cho làn sóng cải tạo có cái nhìn và quan điểm của cư
dân và chủ sở hữu về tính khả thi, sự hài lòng và sự hấp dẫn của cải tạo bền vững. Các
124
gói cải tạo sẽ được triển khai tại 4 địa điểm phục vụ như những người biểu diễn nằm
ở Hy Lạp, Ý (Margherita di Savoia), Pháp và Hungary. Các cải tạo này bao gồm thiết
kế chi tiết, thiết lập thử nghiệm, thử nghiệm và đánh giá để xác thực trong điều kiện
hoạt động (xã hội) các mẫu nguyên mẫu của 8 gói cải tạo. REHOUSE đề xuất các giải
pháp cùng nhau bao gồm một tập hợp 5 nguyên tắc cải tạo cung cấp các giải pháp cải
tạo kỹ thuật và kinh tế phù hợp đủ linh hoạt để giải quyết gần như 100% thách thức
cải tạo tòa nhà ở cấp độ EU. Mục tiêu là thúc đẩy sự tiếp cận thị trường, khả năng mở
rộng và nhân bản các gói cải tạo REHOUSE, liên kết đề xuất giá trị với các khía cạnh
và rào cản kinh tế, kỹ thuật, xã hội, quy định và bảo mật/bảo vệ dữ liệu quan trọng và
đề xuất các khuyến nghị thực tế về cách vượt qua chúng.

Tái chế CRM tiên tiến từ các pin LFP đã qua sử dụng
Dự án ACROBAT nhằm tái chế pin LFP đạt đến cuối vòng đời thông qua quy
trình và phương pháp tách biệt hiệu quả, sáng tạo và thân thiện với môi trường để
phục hồi một lượng tối đa các CRMs của Liên minh châu Âu (EU) dưới dạng sản
phẩm có giá trị cao và các kim loại cơ bản (chia thành các phân đoạn sắt và Cu/Al).
Mục tiêu cụ thể của ACROBAT là nghiên cứu, phát triển và xác nhận:
1. Tiền xử lý tiền dành riêng cho LFP (như cắt nhỏ, tách cơ học) với sự ô nhiễm
chéo được giảm.
2. Phân tích liên tục, không tiếp xúc, nội tuyến của khối đen LFP.
3. Phục hồi các vật liệu điện ly (như muối dẫn diện, dung môi hữu cơ) bằng
cách trích xuất.
4. Phục hồi than chì bằng quá trình tạo bọt.
5. Phục hồi lithi như hydroxit lithi đạt chuẩn pin thông qua phương pháp hydro-
/solvometallurgy dựa trên HCl
6. Tái chế trực tiếp khối LFP đen bằng cách tổng hợp thủy luyện-thủy nhiệt
song song.
Tính bền vững của quy trình của ACROBAT được đánh giá bằng đánh giá vòng
đời. Tổng cộng, liên minh ACROBAT (bao gồm VITO, ENEA, Fraunhofer ILT, KU
Leuven, Accurec) nhằm phục hồi 90% các EU-CRMs (Li, P và than chì) từ các pin
LFP và tái chế vật liệu catot LFP, than chì và điện ly, lần lượt lên đến 5,4, 6,2 và 4,4
kt/năm vào năm 2030 tại châu Âu.
Hội đồng Tư vấn Công nghiệp của ACROBAT (bao gồm Umicore, Bebat,
Sortbat và Electrocycling) sẽ thúc đẩy việc tận dụng kết quả dự án trong lĩnh vực công
nghiệp.

PRO-GRACE: Thúc đẩy Cộng đồng Tài nguyên Di truyền Thực vật cho
Châu Âu
PRO-GRACE sẽ giải quyết những thách thức đa dạng mà tài nguyên di truyền
thực vật (PGR) tại Châu Âu đang đối mặt bằng cách xây dựng hệ thống, quy trình,
125
tiêu chuẩn và phương pháp, và phát triển khái niệm, khuôn khổ quy định và cơ cấu
quản trị cho một Cơ sở hạ tầng Nghiên cứu hoạt động và hiệu quả.
Dựa trên Chiến lược Tài nguyên Di truyền Thực vật cho Châu Âu - được phát
triển trong ba năm qua thông qua sự tham khảo của nhiều chuyên gia và bên liên quan
bởi Chương trình Hợp tác Châu Âu về Tài nguyên Di truyền Thực vật (ECPGR) -
cùng với kinh nghiệm của một số dự án được tài trợ bởi EC trong thập kỷ qua, PRO-
GRACE hướng đến:
1. Đảm bảo việc gìn giữ và tiếp cận PGR Xây dựng một hệ thống chứng nhận
cho các kho gen ex situ và tạo cơ chế bảo tồn, giám sát và tiếp cận với PGR in situ để
đảm bảo việc bảo tồn và tiếp cận PGR được thực hiện đúng cách.
2. Xây dựng một hệ thống thông tin PGR Châu Âu tích hợp: Phát triển và
thử nghiệm các chiến lược và phần mềm để tích hợp vào Danh mục Tìm kiếm Châu
Âu cho Tài nguyên Di truyền Thực vật (EURISCO) các thông tin thiếu từ các kho gen
Châu Âu và các điểm bảo tồn in situ cũng như thông tin được phát triển bởi các dự án
PGR khác tại Châu Âu
3. Xác định đảm bảo chất lượng cho PGR ex situ và in situ: Phát triển và
thử nghiệm các tiêu chuẩn và giao thức cho quản lý chất lượng PGR ex situ và in situ,
điều đặc biệt quan trọng khi các điều kiện môi trường thay đổi và loài gây hại mới/các
loài xâm nhập có thể có thể nhanh chóng làm mất đi đa dạng gen
4. Thiết lập các dịch vụ khoa học cung cấp bởi Cơ sở Hạ tầng Nghiên cứu:
Phát triển và thử nghiệm danh sách các dịch vụ khoa học mà GRACE-RI sẽ cung cấp
cho cộng đồng khoa học và các nhà cung cấp tiềm năng của các dịch vụ này
5. Phát triển tiêu chuẩn và thủ tục đánh giá các đặc điểm hình thái PGR:
Phát triển và thử nghiệm chiến lược, thủ tục và tiêu chuẩn thống nhất cho việc đánh
giá các đặc điểm hình thái của PGR được lưu trữ cả in situ và ex situ, và cung cấp
thông tin cho người dùng cuối cuối (người lai tạo, nông dân).
6. Phân tích các chính sách, khung xã hội và đạo đức để thúc đẩy việc tiếp
cận và chia sẻ lợi ích PGR: Hỗ trợ việc chuyển đổi các kho gen Châu Âu để trở thành
cơ sở hạ tầng nghiên cứu phức tạp hơn bằng cách phân tích các chính sách, luật pháp
và thách thức hiện tại cản trở việc trao đổi mở của PGR và thông tin di truyền của
chúng (như thông tin DSI), và chia sẻ công bằng lợi ích phát sinh từ việc sử dụng
chúng
7. Phát triển khái niệm, mô hình quản trị và kế hoạch tài chính sơ bộ cho
GRACE-RI tương lai: Phân tích bức tranh chính sách hiện tại và các bên liên quan
cũng như sự tương hỗ với các Cơ sở Hạ tầng Nghiên cứu Châu Âu hiện tại để phát
triển cấu trúc, quản lý và kế hoạch tài chính cho một Cơ sở Hạ tầng Nghiên cứu PGR
hàng đầu thế giới
8. Xác định người dùng của RI tương lai và nhu cầu của họ: Xác định người
dùng của RI tương lai, xem xét nhu cầu của họ, phổ biến và truyền đạt các kết quả của
dự án, và đào tạo các nhóm người dùng tiềm năng về việc sử dụng và bảo tồn PGR.
126
Phục hồi tuỷ sống bị chấn thương bằng phương pháp điện xung lai sinh học
(RISEUP)
Chấn thương tủy sống (SCI) là nguyên nhân chính gây liệt, hiện tại chưa có
phương pháp điều trị hiệu quả. Mỗi năm, gần 500.000 người được chẩn đoán mắc SCI
trên toàn thế giới.
Khó khăn trong việc phục hồi thần kinh sau SCI dựa trên chuỗi sự kiện phức tạp
gây ra giai đoạn mạn tính thoái hóa chủ yếu do môi trường không thích hợp và khả
năng hạn chế tái mọc trục thần kinh. Các chiến lược đa diện được xem là giải pháp
duy nhất để khôi phục chức năng bằng cách bao gồm thay thế tế bào, bảo vệ thần kinh
và thúc đẩy sự phát triển trục thần kinh.
RISEUP đề xuất đạt được tái tạo chức năng thần kinh sau SCI thông qua một
công nghệ cấy ghép sinh học, kích hoạt điện và có khả năng tương thích và có thể sạc
không dây chưa từng có trước đây. RISEUP sử dụng việc kích thích bằng các xung
điện micro giây cao áp (micropulses) và dòng điện trực tiếp có biên độ thấp trên sự
kết hợp của tế bào gốc (tế bào gốc thần kinh được kích hoạt và tế bào gốc đa năng),
việc ghép tế bào này được tạo điều kiện thuận lợi bằng một giá đỡ sinh học đổi mới.
Khái niệm RISEUP là kích thích điện có thể gây ra sự phân hóa tế bào gốc thành
tế bào thần kinh và giá đỡ có thể thúc đẩy việc cấy ghép chúng vào mô bị tổn thương,
tạo điều kiện cho quá trình tái tạo.
Dù mục tiêu của RISEUP rất tham vọng, nhưng nó là khả thi nhờ vào sự đa ngành
và năng lực đáng kể của Liên minh, bao gồm cả ENEA làm Tổ chức điều phối, Đại
học Công nghệ València, Công ty Công nghệ RISE, Đại học Sapienza, CNRS, Trung
tâm Nghiên cứu Príncipe Felipe de València.
RISEUP hướng đến việc khởi đầu một hướng công nghệ hoàn toàn mới (cấy ghép
chứa tế bào kích hoạt bằng điện, điều khiển từ xa, tương thích sinh học, phân hủy sinh
học để khắc phục tổn thương thần kinh), mà theo tầm nhìn dài hạn có thể dẫn đến một
sự thay đổi cách mạng trong việc điều trị SCI.

Web sites:
https://www.enea.it/en/enea/about-us
https://sostenibilita.enea.it/en
https://sostenibilita.enea.it/en/projects
https://sostenibilita.enea.it/en/structure/pvs
https://www.enea.it/en/publications/enea-activities

MARIO JORIZZO
Tiến sĩ tại Italian National Agency for New Technologies, Energy and Sustainable
Economic Development thuộc Quốc gia Ý

127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
Hợp tác chiến lược Hàn Quốc - Việt Nam đối với TP.
Hồ Chí Minh
Jaeryoung Song*

Giám đốc Trung tâm Đối ngoại và Hợp tác Chính sách, Viện Công nghệ Xanh Quốc
gia (NIGT)
14F, 60, Yeouinaru-no, Yeongdeungpo-gu, Seoul, 07328, Hàn Quốc
*makingbetterworld@nigt.re.kr

(i) Đề xuất phương hướng, giải pháp cho TP. HCM;


TP. HCM và nhiều đô thị ở Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức khó
khăn trong việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế xã hội với sự bền vững về môi
trường. Lợi ích từ tăng trưởng kinh tế không qua trung gian có thể dẫn đến những tác
động nghiêm trọng đến môi trường, gây cản trở cải thiện cả về chất lượng và số lượng
các chỉ tiêu kinh tế xã hội của một quốc gia.
Theo nghĩa đó, có hai bài học quan trọng từ lịch sử tăng trưởng kinh tế của các thành
phố công nghiệp hóa đó là con đường mà các thành phố công nghiệp hóa đã theo đuổi
thường không bền vững và cũng không nên được các nước đang phát triển nhân rộng,
do các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với những thách thức và thực tế kinh tế
xã hội phức tạp hơn. Bài học này cung cấp động lực cho tư duy sáng tạo hướng tới
các mô hình phát triển thay thế.
Tăng trưởng kinh tế bền vững, thông qua các chiến lược tăng trưởng bền vững được
thiết kế cẩn thận cùng kế hoạch phát triển năng lực và ứng dụng có chọn lọc các công
nghệ bền vững phù hợp với địa phương, là một trong những mô hình tư duy sáng tạo
có thể giúp giảm thiểu tác động môi trường đồng thời tăng cường phát triển kinh tế xã
hội ở các nước đang phát triển.
Trên thế giới, ngày càng nhiều sự công nhận và chấp nhận trên toàn cầu về nhu cầu
hợp tác giữa các thành phố công nghiệp hóa và phi công nghiệp hóa cũng như giữa
các thành phố phi công nghiệp hóa về các chiến lược và công nghệ tăng trưởng kinh
tế bền vững. Đấu trường rộng lớn này có thể giúp các quốc gia cùng nhau tăng cường
học hỏi các giải pháp khả thi bao gồm kiến thức, kinh nghiệm và thực tiễn trong một
loạt chiến lược, khái niệm, công cụ, công nghệ và biện pháp can thiệp.
Trong bối cảnh đó, tôi đưa ra những gợi ý sau: TP. HCM trước tiên nên xem xét các
khía cạnh chính sách của công nghệ khí hậu trước khi giới thiệu các công nghệ bền
vững và đổi mới. Công nghệ chỉ nên được giới thiệu sau khi một chính sách công nghệ
có tính nhất qu án cao được thiết kế. Ngoài ra, cần có các kế hoạch nghiên cứu và phát
triển (R&D) cũng như việc làm xanh, không nên chỉ bao gồm kế hoạch nhập khẩu

165
công nghệ đơn giản từ nước ngoài. Hàn Quốc sẽ có thể hợp tác với TP.HCM trong
vấn đề này.

(ii) Cơ hội hợp tác giữa chính phủ, các địa phương và doanh nghiệp tại TP. HCM
về tăng trưởng xanh và hướng tới net-zero.
Hàn Quốc là quốc gia điển hình phát triển nhờ khoa học và công nghệ. Đặc biệt với
các lĩnh vực nghiên cứu và phát triển quốc gia trong ngành đóng tàu, sản xuất TV,
CDMA, chất bán dẫn, v.v. Kể từ những năm 2010, quá trình chuyển đổi xanh tại Hàn
Quốc đã nổi lên như một chủ đề nóng sau những phản ánh về việc ứng dụng và lan
rộng của công nghệ xám. Theo đó, Chính phủ Hàn Quốc đã liên tục hỗ trợ các chính
sách tăng trưởng xanh và chia sẻ công nghệ xanh (công nghệ khí hậu) cho các nước
đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam với tư cách là đối tác chiến lược quốc gia trong
10 năm qua. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng khí hậu toàn cầu ngày càng được nhấn
mạnh, chúng ta cần một chiến lược và phương tiện công nghệ khí hậu đổi mới và sáng
tạo hơn. Tôi tập trung vào hai chủ đề: một là cách chia sẻ kinh nghiệm và sự tiếp nối
công nghệ khí hậu công cộng của Hàn Quốc với các đối tác Việt Nam, và thứ hai là
cách tạo ra các công nghệ công cộng của Hàn Quốc chuyển giao cho Việt Nam về mặt
thương mại.
Viện Công nghệ Xanh Quốc gia (NIGT) là cơ quan tư vấn do chính phủ Hàn Quốc tài
trợ, có nhiệm vụ điều phối và hỗ trợ các chính sách nghiên cứu và phát triển công
nghệ xanh quốc gia với sự cộng tác của các bộ và cơ quan ban ngành Hàn Quốc. NIGT
đóng vai trò là cửa ngõ hợp tác công nghệ xanh toàn cầu của Hàn Quốc, kết nối các
nước phát triển và đang phát triển để tăng trưởng và phổ biến các chiến lược và công
nghệ xanh. Cùng với Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (GGGI) và Quỹ Khí hậu Toàn
cầu (GCF), NIGT hình thành các trục “Tam giác Xanh” cho sự tăng trưởng xanh thành
công của các nước đang phát triển trên thế giới.
Với văn phòng điều hành của GGGI và GCF tại Hàn Quốc cách đây khoảng 10 năm,
hợp tác biến đổi khí hậu với Hàn Quốc cũng như việc phổ biến kinh nghiệm tăng
trưởng xanh của Hàn Quốc ngày càng được cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều hơn.
Điều này được thể hiện thông qua việc phát triển và mở rộng quỹ Hỗ trợ Phát triển
Chính thức xanh (ODA), các hoạt động tư vấn chính sách và chuyển giao công nghệ
từ Hàn Quốc với NIGT là đơn vị hỗ trợ chính cho các hoạt động này.
Ngoài ra, các quốc gia đang có động lực ngày càng tăng đối với việc xây dựng các kế
hoạch và chiến lược tăng trưởng xanh, cũng như trên phạm vi quốc tế đối với việc
phát triển một hệ thống hợp tác toàn cầu về phổ biến tăng trưởng xanh thông qua sự
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc và các Ngân hàng phát triển đa
phương (bao gồm Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB). Vai trò của Hàn Quốc và
NIGT trong đó là không thể thiếu.
NIGT hợp tác trực tiếp với các nước đang phát triển nhằm xây dựng năng lực quốc
gia thông qua việc thiết lập chiến lược, thiết kế và thực hiện các kế hoạch tăng trưởng
xanh và chuyển giao công nghệ xanh. NIGT cũng cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ

166
các chương trình giáo dục và đào tạo về tăng trưởng xanh và ứng dụng công nghệ
xanh.
Do đó, NIGT sẽ đóng vai trò là cầu nối đáng tin cậy và có năng lực, đồng thời là người
hỗ trợ giữa Việt Nam (đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh) với các tổ chức nghiên cứu và
doanh nghiệp Hàn Quốc hướng tới hợp tác hiệu quả về phát triển, chuyển giao và triển
khai công nghệ xanh.

167
168
169
PARK BONG GYU, Chủ tịch Hội nghị CEO Hàn Quốc (Korea CEO Summit),
Chủ tịch Hội nghị thượng đỉnh chuỗi khối thế giới Marvels

170
Xu hướng tăng trưởng đô thị dựa trên Khu phức hợp
thân thiện với môi trường – Samsung

Cùng với sự tăng dân số và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của TP.HCM là vấn đề
ô nhiễm môi trường. Sự phát triển của đô thị và công nghiệp đã và đang gây ô nhiễm
nước, không khí và đất, và chất thải thì không ngừng gia tăng. Do đó, Samsung
Engineering, đơn vị đã cùng đồng hành trải qua quá trình phát triển mạnh mẽ và nhanh
chóng của Hàn Quốc trong giai đoạn trước đây, đề xuất một mô hình thân thiện với
môi trườnng của Samsung Engineering với mục đích hướng tới kinh tế tuần hoàn,
thân thiện với môi trường, tập trung vào xửg trong tương lai cho TP.HCM. Cụ thể mô
hình Khu phức hợp thân thiện với môi trườ lý nước và rác thải giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, gia tăng giá trị cuộc sống của người dân đô thị, cụ thể như sau:
Xử lý nước: Công nghệ giải quyết tình trạng khan hiếm nước sạch
Cùng với hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn hán và xây dựng các đập ở thượng
nguồn đã khiến tình trạng thiếu nước, đặc biệt là nước sạch ở miền Nam Việt Nam
trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh, ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Do đó, cần phải tích cực xem xét các cách giải quyết vấn đề thiếu nước sạch như xử
lý nước thải để tái sử dụng cho các nhu cầu cần thiết như phục vụ công nghiệp, nông
nghiệp, rửa đường…
Samsung Engineering đã phát triển thành công công nghệ tái sử dụng nước bằng
phương pháp thẩm thấu ngược, và đang thực hiện xử lý nước thải cho Thành phố
Asan, Hàn Quốc, qua đó nước thải được tái sử dụng và cung cấp cho nhà máy
Samsung Display, thành viên của Tập đoàn Samsung để sử dụng trong sản xuất công
nghiệp cho các nhà máy.
Xử lý nước thải: Công nghệ tiết kiệm năng lượng trong xử lý nước thải
Lượng điện năng tiêu thụ cho xử lý nước thải chiếm từ 1-3% tổng lượng điện tiêu thụ
của cả nước. Do đó, cần phải đạt được net-zero cho các cơ sở xử lý nước thải bằng
cách sử dụng các quy trình xử lý nước thải tiết kiệm năng lượng. Công nghệ bùn hạt
hiếu khí không chỉ có diện tích nhỏ hơn so với công nghệ xử lý nước bằng phương
pháp sinh học truyền thống mà còn có thể giảm 30% lượng năng lượng tiêu thụ trong
quá trình vận hành.
Ngoài ra Samsung Engineering cũng đang phát triển công nghệ Mainstream
Anammox mang tính đột phá trong việc giảm năng lượng trong xử lý nước. Thông
qua đó, hiện thực hóa việc xử lý nước thải zero energy không cần sự trợ giúp của các
nguồn năng lượng tái tạo khác.
Xử lý nước thải: Công nghệ tận thu tài nguyên từ chất thải
Chất thải hữu cơ như phân gia súc, bùn thải, rác thải thực phẩm và phụ phẩm nông
nghiệp là nguồn tài nguyên quý giá và có thể thu hồi năng lượng.

171
Do đó, nguồn carbon gây ô nhiễm trong nước thải phải được thu hồi thành các dạng
năng lượng thay vì xử lý đơn thuần.
Xử lý nước thải chắc chắn tạo ra bùn, tuy nhiên bằng cách áp dụng công nghệ nhiệt
phân và carbon hóa thủy nhiệt, trước hết sẽ giảm chi phí và ô nhiễm so với việc xử lý
bằng phương pháp chôn lấp truyền thống như hiện nay. Và sau đó, bằng việc sản xuất
và bán khí sinh học từ bùn, năng lượng được sử dụng cho các nhà máy xử lý có thể
thu hồi từ 25% tới 50%.
Ngoài ra, Samsung Engineering còn cung cấp giải pháp toàn diện giúp thu hồi cả năng
lượng và tài nguyên bằng cách áp dụng công nghệ để chuyển đổi bùn thành nhiên liệu
rắn và nguyên liệu phân bón.
Công nghệ thu hồi: công nghệ thu hồi tài nguyên từ chất thải
Chúng tôi tin rằng Thành phố Hồ Chí Minh có thể khởi xướng thay đổi mô hình từ
khái niệm chi phí sang khái niệm đầu tư bằng cách sử dụng công nghệ thu hồi tài
nguyên hiệu quả từ chất thải và tài nguyên rác.
Nếu rác thải thực phẩm và chất thải hữu cơ được công nhận như một nguồn tài nguyên
và áp dụng công nghệ carbon hóa thủy nhiệt thì nó có thể được chuyển hóa thành
nhiên liệu rắn như bùn thải.
Xử lý chất thải, chuyển đổi thành năng lượng: Công nghệ tiết kiệm năng
lượng và an toàn trong xử lý chất thải
Đốt rác phát điện sẽ thân thiện với môi trường hơn so với công nghệ chôn lấp truyền
thống. Hiệu suất là yếu tố quan trọng nhất trong việc chuyển hóa chất thải thành năng
lượng và nếu sử dụng công nghệ ORC có thể giảm thiểu mức tiêu thụ năng lượng
ngoài ra nhiệt dư từ các nhà máy đốt rác có thể được chuyển hóa thành năng lượng.
Ở Việt Nam, ngoài phương pháp xử lý rác bằng cách chôn lấp truyền thống, một phần
chất thải rắn đã và đang được xử lý bằng cách đốt rác phát điện, nhưng việc này vẫn
có thể dẫn đến một vấn khác liên quan đến môi trường, gây ô nhiễm không khí như
mùi hôi và khí độc hại.
Vì vậy, cần phải hết sức quan tâm và hạn chế tối đa tác động của mùi hôi, khí độc
hại từ các nhà máy đốt rác phát điện. Việc áp dụng giải pháp công nghệ tiên tiến,
thân thiện với môi trường để kiểm soát tối đa mùi hôi, khí độc hại từ các nhà máy
đốt rác phải được ưu tiên hàng đầu trong việc triển khai các hoạt động đốt rác phát
điện, đặc biệt tại đô thị lớn như Tp.HCM. Tại Samsung Engineering, chúng tôi đã
phát triển và áp dụng thành công các giải pháp công nghệ thân thiện với môi trường
để kiểm soát mùi hôi, khí độc hại do các hoạt động đốt rác phát điện này.
HAN SANG DEOG,
Phó Tổng Giám Đốc điều hành Samsung Engineering Co, Ltd

172
Những nỗ lực của Hàn Quốc đối với Trung hòa
carbon và tăng trưởng xanh: Tập trung vào Chính sách
Quốc gia và Viện Công nghệ Xanh Quốc gia

Về Chủ đề 1: Hệ sinh thái của nền kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh - Kinh
nghiệm trong nước và quốc tế trong việc nỗ lực để đạt được net zero
Hàn Quốc đã thiết lập chính sách Quốc gia về tăng trưởng xanh và Trung hòa carbon
và đang thúc đẩy các hoạt động khu vực công tư phù hợp.
Năm 2009, Hàn Quốc đã đẩy mạnh "Tăng trưởng Xanh Carbon Thấp" như một chính
sách ưu tiên quốc gia. Điều này đã dẫn đến việc ban hành <Đạo luật Khung về Carbon
Thấp và Tăng trưởng Xanh>, thành lập Ủy ban Tổng thống về Tăng trưởng Xanh và
thiết lập và thực hiện Kế hoạch 5 năm cho Tăng trưởng Xanh (Kế hoạch thứ nhất:
2009-2013, kế hoạch thứ hai: 2014-2018, kế hoạch thứ ba: 2019-2023). Những sáng
kiến này đã hỗ trợ và thúc đẩy việc xây dựng cơ sở hạ tầng và hoạt động cho tăng
trưởng xanh trong toàn xã hội.
Năm 2020, Chính phủ Hàn Quốc đã công bố "Tuyên bố Trung hòa carbon 2050", với
mục tiêu đạt được hệ thống tính net-zero vào năm 2050. Để hỗ trợ mục tiêu này, <
Đạo luật Khung về Trung hòa carbon và Tăng trưởng Xanh để Đối phó với Khủng
hoảng Khí hậu> đã được ban hành vào năm 2021. Đạo luật này đã bổ sung Trung hòa
carbon vào Đạo luật Khung về Carbon Thấp và Tăng trưởng Xanh, và cũng đã đưa
đến việc đổi tên Ủy ban Tổng thống về Trung hòa carbon thành Ủy ban Trung hòa
carbon 2050 vào năm 2022.
Về hợp tác quốc tế, Hàn Quốc đã nộp Cam kết Đóng góp do quốc gia tự quyết định
(NDC) của mình theo Thỏa thuận Paris của UNFCCC vào năm 2016 và phiên bản cập
nhật vào năm 2020 và 2021. Lần nộp cuối cùng được dựa trên cơ sở năm 2018 và bao
gồm mục tiêu giảm 40% vào năm 2030. Ngoài ra, Hàn Quốc đã quốc tế hóa Viện
Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (GGGI) trong nước vào năm 2012, đăng cai Quỹ Khí hậu
Xanh vào năm 2013, và mở văn phòng ngoại trụ của Trung tâm Công nghệ và Mạng
Lưới Khí hậu (CTCN) vào năm 2022.
Như một biện pháp để thúc đẩy hợp tác quốc tế, Hàn Quốc đang nâng tỷ lệ hợp tác
quốc tế trong NDC của mình và thúc đẩy các nỗ lực giảm lượng khí nhà kính và thích
nghi dựa trên các thỏa thuận giảm thiểu song phương mang tính quốc tế. Ngoài ra,
Hàn Quốc tiếp tục tăng tỷ lệ ODA cho Giao thức Xanh New Deal và mở rộng quy mô
kinh phí cho hợp tác chung với ASEAN (Quỹ Hợp tác ASEAN - Hàn Quốc), bao gồm
trung hòa carbon và tăng trưởng xanh.
Theo bối cảnh này, Viện Công nghệ Xanh Quốc gia (NIGT) tiếp tục thúc đẩy hợp tác
với ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Indonesia, thông qua Dự án Hợp tác Biến đổi
Xanh ASEAN-Hàn Quốc (2023-), Dự án Cơ sở Giải quyết Vấn đề Toàn cầu (2019-
nay) và Dự án Quản lý Rác thải Đô thị Tích hợp AKCF (2023-, sắp triển khai). Thông
qua các dự án hợp tác sử dụng các công nghệ xanh, NIGT nỗ lực góp phần giảm thiểu
và thích ứng với biến đổi khí hậu trong các khu vực cụ thể.
Tóm lại, Hàn Quốc đã đạt được tiến bộ đáng kể trong chính sách quốc gia về tăng
trưởng xanh và trung lập carbon. Thông qua sự kết hợp của các sáng kiến trong nước
173
và quốc tế, Hàn Quốc đã nỗ lực để đạt được các mục tiêu khí hậu đầy tham vọng của
mình.
< Tổng quan về Khung công tác và Hành động của Đại hàn Dân quốc về Trung hòa
carbon và Tăng trưởng Xanh >
Mục tiêu 2009~2023 (hiện tại)
• Tuyên bố Tăng trưởng Xanh (OECD 2009-, 30% vào năm 2020)
• NDC (2016-2020, 37% dự kiến đạt vào năm 2030), NDC lần 2
(2020, 24.4% dự kiến đạt vào năm 2017), NDC cập nhật (2021, 40%
dự kiến đạt vào năm 2018)
• Tuyên bố Trung hòa carbon 2050 (2020-, đạt Trung hòa carbon vào
năm 2050)
Luật pháp • Luật Phát triển Bền vững (2007)
• Luật Khí hậu Thấp Carbon, Tăng trưởng Xanh (2009, 2011)
• Luật Trung hòa carbon (2021)
Ủy ban • Ủy ban Tăng trưởng Xanh do Tổng thống chủ tịch (2009-2013,
2013-)
• Ủy ban Trung hòa carbon do Tổng thống chủ tịch (2021-2022)
• Ủy ban Trung hòa carbon 2050 (2022-)
Chính sách • Kế hoạch 5 năm cho Tăng trưởng Xanh (lần 1 năm 2009, lần 2 năm
2014, lần 3 năm 2019)
• Kế hoạch Cơ bản Ứng phó Biến đổi Khí hậu (lần 1 năm 2016, lần 2
năm 2019)
• Lộ trình Giảm lượng Khí nhà kính Quốc gia (lần 1 năm 2016, lần 2
năm 2018)
• Chính sách kinh tế mới phiên bản Hàn Quốc (lần 1 năm 2020, lần 2
năm 2021)
Cơ quan • Chương trình Mua bán Phát thải tại Hàn Quốc (2015-)
Các tổ • Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (2012-)
chức quốc • Quỹ Tài trợ Khí hậu Xanh (2013-)
tế • Văn phòng Đối tác và Liên kết Mạng lưới và Trung tâm Công nghệ
và Khí hậu (2022-)

Tae Kun Kim, Viện Công nghệ Xanh Quốc gia (NIGT), Đại hàn Dân quốc

174
Tăng trưởng xanh và Giải pháp Net-zero tại Thành phố
Hồ Chí Minh có thể được tạo ra từ Các Startup và Vốn
đầu tư mạo hiểm địa phương.

Hyunsung Kim(Brian Kim)

Thành phố Hồ Chí Minh, giống như nhiều trung tâm đô thị đang phát triển nhanh
chóng khác, đối diện với nhiều thách thức về ô nhiễm môi trường. Một số vấn đề ô
nhiễm nổi bật tại Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm.
Thứ nhất, ô nhiễm không khí. Thành phố Hồ Chí Minh phải hứng chịu mức độ ô
nhiễm không khí cao, chủ yếu do khí thải từ phương tiện giao thông, hoạt động công
nghiệp, công trình xây dựng và đốt rác không kiểm soát. Chất lượng không khí thường
bị ảnh hưởng bởi hạt bụi (PM2.5 và PM10), khí nitrogen dioxide (NO2), khí lưu huỳnh
dioxide (SO2) và các hợp chất hữu cơ bay hơi (VOCs), gây hại cho sức khỏe người
dân và môi trường. Thứ hai, ô nhiễm nước. Các dòng nước của thành phố, như sông
và kênh, bị ô nhiễm do các chất thải công nghiệp chưa qua xử lý, nước thải và việc xử
lý rác thải. Nước bị nhiễm độc gây nguy cơ sức khỏe đáng kể và ảnh hưởng đến hệ
sinh thái nước. Thứ ba, quản lý chất thải. Thành phố Hồ Chí Minh đang gặp khó khăn
trong việc quản lý và xử lý chất thải đúng cách. Hệ thống thu gom và xử lý chất thải
không đủ có thể dẫn đến việc vứt rác bừa bãi, xả thải không kiểm soát và thải các chất
gây hại vào môi trường. Sự đô thị hóa và tăng lưu lượng giao thông góp phần làm tăng
mức độ tiếng ồn trong thành phố. Tiếp xúc lâu dài với ô nhiễm tiếng ồn có thể ảnh
hưởng đến sức khỏe và gây ra các vấn đề về sức khỏe khác nhau. Thứ năm, ô nhiễm
đất. Các hoạt động công nghiệp và các thói quen xử lý chất thải không đúng cách có
thể gây ô nhiễm đất với các kim loại nặng và các hợp chất hại cho sức khỏe, ảnh
hưởng đến năng suất nông nghiệp và gây nguy hại cho sức khỏe. Thứ sáu, Hiệu ứng
đảo nhiệt đô thị. Việc sử dụng một cách rộng rãi các bề mặt bê tông và nhựa đường,
kết hợp với việc giảm không gian xanh, góp phần vào hiện tượng hiệu ứng đảo nhiệt
đ đô thị, khiến thành phố nóng hơn đáng kể so với các khu vực nông thôn xung quanh.
Cuối cùng là ngập lụt. Khi thành phố mở rộng, hệ thống thoát nước tự nhiên bị gián
đoạn, dẫn đến tình trạng ngập lụt trong thành phố khi mưa lớn.
Để giảm các vấn đề ô nhiễm môi trường này, các cơ quan chức năng của Thành phố
Hồ Chí Minh đã tiến hành nhiều chính sách khác nhau, bao gồm kiểm soát khí thải
nghiêm ngặt, thúc đẩy giao thông công cộng, triển khai quản lý chất thải và khuyến
khích các sáng kiến xanh. Ngoài ra, chính quyền địa phương và quốc gia cùng hợp tác
trong việc cải thiện chất lượng không khí và nước, và nâng cao sự bền vững môi
trường tổng thể. Tuy nhiên, tiến trình đô thị hóa và tăng trưởng dân số tiếp tục đặt ra
những thách thức lớn trong việc đạt được môi trường không ô nhiễm.
Là một nhà đầu tư mạo hiểm và người thúc đẩy khởi nghiệp, tôi muốn nhấn mạnh sức
mạnh của các phương pháp mới từ các startup công nghệ về khí hậu. Trên toàn thế
giới, có rất nhiều startup công nghệ khí hậu đang làm việc về các giải pháp đổi mới
175
để giảm khủng hoảng khí hậu. Một startup phát triển công nghệ có thể phun CO2 tái
chế vào bê tông trong quá trình trộn, khiến bê tông mạnh hơn trong khi đồng thời giữ
chặt CO2. Tên của startup này là CarbonCure Technologies và trang web của họ là
www.carboncure.com. Vui lòng truy cập trang web của họ và xem cách họ giảm lượng
CO2. Ngoài ra, còn có một startup đóng góp vào việc giảm lượng khí thải từ giao
thông bằng cách cung cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ sạc xe điện. Tên công ty này là
ChargePoint và họ là một trong những mạng lưới sạc xe điện (EV) lớn nhất thế giới.
Trang web của họ là www.chargepoint.com. Có một startup Ấn Độ dẫn đầu trong
công ty năng lượng tái tạo, phát triển và vận hành các dự án năng lượng mặt trời và
gió để chuyển sang năng lượng hóa thạch. Tên công ty này là Renew Power và trang
web của họ là www.renew.com. Họ đã thành công niêm yết trên NASDAQ (RNW).
Có hàng trăm startup công nghệ khí hậu đang tiến triển trên toàn thế giới. Hãy xem
qua những startup này: Climeworks, Greenlots, Terracycle, SilviaTerra, NestEgg,
Carbon Clean Solutions (CCSL).
Vì Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí nghiêm trọng,
tôi muốn đề xuất một startup đang cố gắng giải quyết cùng một vấn đề tại Ấn Độ. Tên
công ty này là Climate Connect (https://climateconnect.earth). Một trong những khía
cạnh quan trọng trong công việc của Climate Connect là tích hợp các nguồn năng
lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và năng lượng gió vào lưới điện hiện có. Phương
pháp dựa trên dữ liệu của họ giúp các công ty điện lực và nhà điều hành lưới điện
quản lý tốt hơn sự biến đổi trong cung cấp và cầu cần năng lượng tái tạo, đảm bảo
nguồn cung điện ổn định và đáng tin cậy. Công việc của startup này phù hợp với mục
tiêu năng lượng sạch và cam kết giảm thiểu biến đổi khí hậu của Ấn Độ. Quốc gia này
đặt mục tiêu tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cộng suất điện của mình và giảm
lượng khí thải nhà kính.
Vậy thì, làm thế nào để những startup công nghệ khí hậu đó có thể tồn tại và phát triển
để giảm thiểu vấn đề thực sự của khủng hoảng khí hậu. Một trong những yếu tố quan
trọng là hỗ trợ tài chính. Tôi nhận thấy một số quỹ và chương trình công nghệ khí hậu
tại Việt Nam. Đầu tiên, là Trung tâm Khởi nghiệp Sáng tạo Mekong (MIST), một
sáng kiến hỗ trợ các startup trong khu vực Mekong, bao gồm Việt Nam, tập trung vào
việc đi lại và du lịch, bao gồm các giải pháp thân thiện với khí hậu cho du lịch bền
vững. Thứ hai, là Trung tâm sáng tạo về khí hậu (CICs), được hỗ trợ bởi chương trình
InfoDev của Ngân hàng Thế giới, nhằm giúp đỡ các nước đang phát triển thúc đẩy
các giải pháp đổi mới liên quan đến ứng phó và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Việt Nam
đã có Trung tâm Đổi mới Khí hậu của riêng mình để hỗ trợ các startup công nghệ khí
hậu. Thứ ba, là Trung tâm Sáng tạo Khí hậu Việt Nam (VCIC), một chương trình hỗ
trợ các doanh nghiệp ở giai đoạn đầu phát triển phát triển các giải pháp công nghệ khí
hậu tại Việt Nam. Chương trình này cấp vốn, hỗ trợ kỹ thuật và hướng dẫn cho các
startup được chọn. Thứ tư, là Cơ quan Đầu tư Xanh (GIF), một sáng kiến hợp tác giữa
Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới để hỗ trợ tài chính cho các dự án xanh
tại Việt Nam, bao gồm các sáng kiến công nghệ khí hậu. Thứ năm, là Quỹ Hành động
Khí hậu Việt Nam (VCAF), một sự hợp tác giữa Bộ Tài chính Việt Nam và Ngân
hàng Thế giới, nhằm thu hút nguồn vốn cho các dự án liên quan đến biến đổi khí hậu,
bao gồm cả các dự án liên quan đến công nghệ khí hậu. Cuối cùng, là Quỹ Đầu tư Tư

176
nhân. Ngoài các sáng kiến được hỗ trợ bởi chính phủ, có thể có các quỹ đầu tư tư nhân
và các công ty đầu tư mới nổi tại Việt Nam tập trung vào việc đầu tư vào các startup
và dự án công nghệ khí hậu.
Là một nhà đầu tư mạo hiểm và người thúc đẩy khởi nghiệp, tôi muốn nhấn mạnh đến
sự phát triển của quỹ đầu tư tư nhân và quỹ đầu tư khởi nghiệp tại Việt Nam, từ đó
thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đề
xuất 10 giải pháp để xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm mạnh tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Thứ nhất, phải có chiến lược đầu tư mạnh mẽ. Một chiến lược đầu tư được xác
định rõ ràng là quan trọng cho sự thành công. Một quỹ đầu tư tư nhân nên tập trung
vào các ngành công nghiệp, lĩnh vực hoặc giai đoạn cụ thể của các startup tương ứng
với tiềm năng phát triển và nhu cầu thị trường của đất nước. Thứ hai, các nhà đầu tư
mạo hiểm cần phải có kiến thức về thị trường địa phương. Hiểu rõ động lực thị trường
địa phương, môi trường quy định, nét văn hóa và bức tranh kinh doanh là cần thiết để
đưa ra các quyết định đầu tư sáng suốt. Có một đội ngũ có kiến thức sâu về hệ sinh
thái kinh doanh của Việt Nam có thể là lợi thế cạnh tranh.

Thứ ba, tiếp cận dòng giao dịch chất lượng cao. Tiếp cận liên tục dòng khởi nghiệp
chất lượng cao và cơ hội đầu tư là rất quan trọng. Xây dựng mạng lưới mạnh mẽ với
các doanh nghiệp khởi nghiệp, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, người thúc đẩy tốc
độ và người chơi trong ngành có thể giúp nhận biết các start-up triển vọng. Thứ tư, hỗ
trợ giá trị cộng thêm. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thành công thường vượt xa việc cung
cấp vốn. Thực hiện hỗ trợ có giá trị cộng thêm, chẳng hạn như hướng dẫn, kết nối mối
quan hệ trong ngành và chuyên môn vận hành, có thể giúp các doanh mục trong danh
mục phát triển và thành công. Thứ năm, quản trị rủi ro. Quản trị rủi ro hiệu quả đóng
vai trò quan trọng trong đầu tư VC. Mặc dù các startup có thể mang lại tiềm năng tăng
trưởng đáng kể, chúng cũng mang theo rủi ro đi kèm. Việc đa dạng hóa danh mục đầu
tư và xem xét cẩn thận là vô cùng quan trọng trong việc quản trị rủi ro. Thứ sáu, Cơ
Hội Thoát Nợ. Một quỹ đầu tư rủi ro thành công cần phải có cơ hội thoát nợ khả thi
cho các doanh nghiệp trong danh mục của mình, chẳng hạn như sáp nhập và mua lại
hoặc niêm yết công khai lần đầu (IPOs). Một thị trường thoát nợ đang hoạt động và
thanh khoản là quan trọng để tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Thứ bảy, môi trường
pháp lý. Môi trường quy định mang tính hỗ trợ và có thể đoán định có thể thúc đẩy
một hệ sinh thái VC phát triển mạnh mẽ. Các chính sách khuyến khích khởi nghiệp,
bảo vệ quyền của nhà đầu tư và đem lại ưu đãi cho đầu tư VC có thể góp phần vào sự
thành công của quỹ. Thứ tám, Khả Năng Thích Nghi và Linh Hoạt. Bức tranh kinh
doanh và công nghệ đang phát triển nhanh chóng. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thành
công cần phải thích nghi và linh hoạt để luôn điều chỉnh với các xu hướng thị trường
và nhận biết các cơ hội mới nổi. Thứ chín, đội ngũ giàu kinh nghiệm và cam kết. Sự
thành công của một quỹ đầu tư mạo hiểm thường dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm
và cam kết của đội ngũ đầu tư. Việc có một đội ngũ có lịch sử đầu tư thành công có
thể truyền sự tự tin đến số lượng giới hạn cả đối tác tiềm năng. Thứ mười, mạng lưới
và danh tiếng. Một mạng lưới mạnh trong cộng đồng đầu tư mạo hiểm và uy tín tích
cực có thể thu hút nhà đầu tư và các startup triển vọng. Một danh tiếng tốt có thể đưa
đến dòng giao dịch và đối tác tăng lên.

177
Việt Nam đang trải qua tăng trưởng kinh tế và hoạt động khởi nghiệp đầy ý nghĩa,
khiến nó trở thành điểm đến hấp hấp dẫn cho những người tham gia đa dạng trong
phát triển công nghiệp. Nhưng đã đến lúc cần tính đến Sự phát triển xanh và Net-
Zero. Chúng ta đều thấy cuộc khủng hoảng khí hậu thay đổi chất lượng cuộc sống
của con người như thế nào. Tôi tin rằng các startup có ý tưởng đổi mới và niềm đam
mê có thể giải quyết những khủng hoảng khí hậu này trên toàn thế giới cũng như ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Hãy cùng phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp tốt nhé.

178
Thành phố Hồ Chí Minh
Một hướng mới cho mô hình thành phố tương
lai

Tóm tắt

Hôm nay tôi ở đây để thảo luận về một chủ đề cấp bách và mang tính thay đổi, nắm giữ chìa
khóa cho tương lai của Thành phố Hồ Chí Minh - "Tăng trưởng Xanh - Hướng tới Net Zero".
Khi chúng ta giải quyết sự phức tạp của quá trình đô thị hóa và tính bền vững của môi trường,
trách nhiệm chung của chúng ta là nắm bắt khái niệm tăng trưởng xanh và mô hình kinh tế
tuần hoàn để cải thiện siêu đô thị yêu quý của chúng ta, Sài Gòn.

Xu hướng tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn đã thu hút sự chú ý của các siêu
đô thị trên toàn thế giới và chúng ta cũng không ngoại lệ. Trong thời đại đô thị hóa nhanh
chóng này, chúng ta đứng trước cả thách thức và cơ hội. Nền kinh tế tuần hoàn, với trọng
tâm là giảm thiểu chất thải, tái chế tài nguyên và xem xét lại quy trình sản xuất, mang đến
cho chúng ta con đường hướng tới sự thịnh vượng bền vững. Bằng cách áp dụng mô hình
này, chúng ta không chỉ bảo vệ môi trường mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phù hợp với
phúc lợi sinh thái.

Trọng tâm của nỗ lực này là yêu cầu cấp thiết phải xây dựng một hệ sinh thái mạnh mẽ cho
nền kinh tế tuần hoàn. Điều này đòi hỏi nỗ lực chung từ nhiều bên liên quan - các cơ quan
chính phủ, doanh nghiệp, cộng đồng địa phương và cá nhân. Các chính sách của chúng ta
phải đóng vai trò là nền tảng trong hành trình hướng tới mức phát thải bằng không và tăng
trưởng bền vững. Chúng ta cần những chính sách có tư duy tiến bộ nhằm khuyến khích các
hoạt động xanh, thúc đẩy đổi mới và tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các công
nghệ sạch. Thông qua những chính sách như vậy, chúng ta có thể đảm bảo rằng sự phát triển
của thành phố không gây tổn hại đến môi trường mà là hài hòa với môi trường.

Sự phát triển của nền kinh tế tuần hoàn phụ thuộc vào việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài
nguyên. Khi cố gắng giảm dấu chân sinh thái, chúng ta phải áp dụng tư duy coi trọng việc
tối ưu hóa tài nguyên. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi mô hình - sự chuyển đổi từ cách tiếp
cận tuyến tính "nhận – làm – bỏ" sang cách tiếp cận tuần hoàn, trong đó tài nguyên được tái
sử dụng, sửa chữa và tái tạo. Bằng cách đó, chúng ta không chỉ bảo tồn được những nguyên
liệu thô quý giá mà còn giảm bớt căng thẳng cho nguồn tài nguyên hữu hạn của hành tinh
chúng ta.

Trong quá trình theo đuổi tăng trưởng bền vững, chúng ta có thể rút ra những bài học vô giá
từ kinh nghiệm của các siêu đô thị khác trên thế giới. Những câu chuyện thành công và thách
thức quốc tế cung cấp cho chúng ta lộ trình để định hướng con đường riêng của mình. Trong
bối cảnh đó, sự tham gia gần đây của Thành phố Hồ Chí Minh vào “Sáng kiến THÀNH PHỐ

179
ĐÔI TOÀN CẦU” tại Liverpool mang lại nhiều hứa hẹn. Bằng cách cộng tác với các thành
phố đô thị toàn cầu khác, chúng ta có thể tận dụng khả năng nhận diện thương hiệu của thành
phố để trao đổi kiến thức, chia sẻ các phương pháp hay nhất và cùng nhau hướng tới một
tương lai xanh hơn, sáng tạo hơn.

Bằng cách áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, xây dựng các chính sách có tầm nhìn, tối ưu
hóa nguồn lực và học hỏi từ các đối tác toàn cầu, chúng ta có thể thúc đẩy Thành phố Hồ
Chí Minh hướng tới một tương lai được đặc trưng bởi tăng trưởng bền vững, quản lý môi
trường và khả năng phục hồi. Cùng nhau, chúng ta có sức mạnh để biến thành phố của mình
thành một ví dụ điển hình về đổi mới xanh, nơi tiến bộ đi đôi với sự bền vững.

180
1. BỐI CẢNH

Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc, năm 2014, 54% dân số thế giới, xấp xỉ 3,3 tỷ người, sống
ở thành thị. Đến năm 2030, khoảng 66%, tương đương 5 tỷ người sẽ sống ở khu vực thành
thị. Điều này không chỉ thể hiện thách thức lớn trong cách chúng ta xây dựng và quản lý
thành phố mà còn mang đến cơ hội đáng kể để cải thiện cuộc sống của hàng tỷ người. Trước
thách thức đó, các kỹ sư trên toàn thế giới đang chuyển sang công nghệ mới - chẳng hạn như
Hệ thống Vật lý Không gian mạng, 5G và phân tích dữ liệu - tìm kiếm các phương pháp và
giải pháp mới sẽ cải thiện giao thông thành phố, quản lý nước và chất thải, sử dụng năng
lượng và một loạt các vấn đề cơ sở hạ tầng khác làm nền tảng cho hoạt động của thành phố
và cách sống của người dân thành thị.

Theo Deloitte, để giải quyết những thách thức do đô thị hóa mang lại, các nước trên thế giới
đã đầu tư đáng kể vào việc xây dựng thành phố thông minh trong hơn một thập kỷ qua.
Lượng đầu tư ngày càng tăng qua từng năm và dự kiến sẽ đạt mức cao nhất trong 5 năm tới,
đặc biệt là ở các nước châu Á, nhờ những lợi thế đi sau giúp họ có nhiều dư địa để phát triển
ở các thành phố thông minh.

1-1.Cải thiện chất lượng cuộc sống

Cốt lõi của thành phố thông minh là giải quyết các vấn đề đô thị bằng cách xây dựng nền
tảng thành phố thông minh trong thành phố hiện có. Trước đây, thành phố phải chịu đựng
tình trạng tắc nghẽn giao thông, thiếu điện và các vấn đề ô nhiễm môi trường và các thành
phố đã cố gắng giải quyết những vấn đề này thông qua các biện pháp vật lý. Ngược lại, ngày
nay, thành phố thông minh tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề chung và phân tích dữ liệu
được tạo ra qua Internet.

Ví dụ, thành phố thông minh Amsterdam đã giúp nó tiết kiệm 9-14% chi phí nhiên liệu và
lượng khí thải carbon dự kiến sẽ giảm 40% vào năm 2025. Hệ thống nước thông minh của
Barcelona giúp thành phố tiết kiệm 58 triệu đô la Mỹ mỗi năm và hệ thống bãi đậu xe thông
minh tiết kiệm 50 triệu đô la Mỹ hàng năm. Tại Songdo, Hàn Quốc, giải pháp tòa nhà thông
minh giúp tiết kiệm khoảng 30% năng lượng tiêu thụ cho mỗi tòa nhà.

Do đó, với việc áp dụng thành phố thông minh, người dân Thành phố Hồ Chí Minh có thể
được hưởng một số lợi ích xã hội. Thứ nhất, hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu sẽ nâng
cao hiệu quả của chính sách và tạo môi trường xã hội thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và đời
sống người dân. Thứ hai, phân tích dữ liệu giám sát theo thời gian thực bằng hệ thống cảm
biến có thể cải thiện an toàn và an ninh công cộng. Thứ ba, tăng hiệu quả thu gom rác thải
bằng cách sử dụng cảm biến trong thùng chứa rác thải có thể giúp thành phố quản lý rác thải
hiệu quả hơn. Thứ tư, giảm tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm đô thị thông qua tối ưu hóa cơ
sở hạ tầng giao thông có thể giúp thành phố giảm ùn tắc giao thông và ô nhiễm. Thứ năm,
tiết kiệm năng lượng thông qua hiểu biết sâu sắc về việc sử dụng năng lượng theo thời gian
thực có thể giảm chi phí liên quan.

1-2.Đảm bảo phân tích cạnh tranh

181
Mang lại sự đổi mới trong hoạt động đô thị bằng cách xây dựng một thành phố thông minh
có thể đạt được một thành phố cạnh tranh. Người dân có thể tham gia trực tiếp vào quá trình
phát triển thành phố thông minh và xây dựng thành phố thông minh bền vững nơi mà các
bên liên quan của thành phố có thể chia sẻ những ý tưởng. Các cá nhân, các ngành công
nghiệp, sự phát triển không ngừng áp dụng các kỹ năng CNTT trong khu vực công và hiệu
quả tạo việc làm có thể đạt được thông qua nhiều hình thức đầu tư và tính cạnh tranh và hợp
tác của đô thị.

Ví dụ, theo thống kê của Deloitte, các thành phố đầu tư vào công nghệ và cơ sở hạ tầng thông
minh đã giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống 1,0%. Theo thống kê, đầu tư vào lưới điện thông minh
và cơ sở hạ tầng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP thêm 0,7%. Ngoài ra, với mức tăng chưa
từng có 20% trong đầu tư vào CNTT có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP thêm 1,0%.

Do đó, với việc áp dụng thành phố thông minh, Thành phố Hồ Chí Minh có thể được hưởng
lợi từ lợi thế cạnh tranh mà thành phố sẽ đạt được. Thứ nhất, thành phố có thể tăng GDP
bình quân đầu người. Thứ hai, nó có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Cuối cùng, cho phép các
nhà quản lý đô thị đưa ra quyết định khoa học và thực hiện quản lý chi tiết.

2. Định nghĩa Thành phố thông minh

2-1.Tác động xã hội và tái tạo đô thị

Thành phố thông minh ra đời nhằm giải quyết các vấn đề đô thị khác nhau (môi trường, tiết
kiệm năng lượng, giao thông, v.v.) bằng dịch vụ và công nghệ tốt hơn dựa trên sự đổi mới
và tác động xã hội. Thành phố thông minh cũng chia sẻ và phân tích dữ liệu được tạo từ các
cảm biến và camera quan sát được lắp đặt ở nhiều cơ sở đô thị khác nhau thông qua internet,
đồng thời cung cấp công nghệ thông tin mới trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm năng
lượng, giao thông và quản lý tòa nhà nhằm mục đích cải thiện chất lượng cuộc sống trong
thành phố.

Trong những năm qua, các thành phố đã thay đổi các quy tắc cấu thành của nó. Thành phố
từ nơi có đời sống xã hội đã trở thành không gian được sử dụng để tận dụng cơ sở hạ tầng
và dịch vụ. Tâm lý này đã tạo ra tình trạng xuống cấp, mất trật tự, lãng phí, thiếu nguồn lực,
dịch vụ kém. Nó định hình một mô hình thành phố mới quyết định quá trình mở rộng đô thị.
Điều cấp thiết là phải xác định một mô hình phát triển đô thị mới, được cấu trúc dựa trên
chính sách chặt chẽ và hữu cơ, với các mối quan hệ đa cấp, trong đó các thành phố đóng vai
trò kép là người thực hiện chính sách và người hoạch định chính sách.

Vì vậy, tái tạo đô thị là nỗ lực nhằm đảo ngược sự suy giảm đó bằng cách cải thiện cơ cấu
vật chất, và quan trọng hơn là nền kinh tế của những khu vực đó. Ở một số nước phát triển,
quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở các thành phố lớn đã bắt đầu. Nó dẫn đến nhiều vấn đề
đô thị, bao gồm lãng phí tài nguyên năng lượng, suy giảm các hoạt động thương mại, tắc
nghẽn giao thông và ô nhiễm. Ngoài ra, việc giảm đầu tư vào trung tâm thành phố đã làm cơ
sở vật chất, hạ tầng hiện có xuống cấp, khiến điều kiện kinh tế khu vực nội đô rơi tự do.
182
Khái niệm tái tạo đô thị nổi lên như một giải pháp chính sách thay thế cho những vấn đề này.
Trong những năm 1980, các dự án tái tạo đô thị tập trung vào việc hồi sinh vật chất và kinh
tế của trung tâm thành phố đổ nát. Tuy nhiên, kể từ những năm 1990 trên khắp châu Âu,
cách tiếp cận mới về tái tạo đô thị đã xuất hiện. Nó nhấn mạnh các quan điểm về môi trường
và kinh tế cũng như các phương pháp tiếp cận tích hợp hơn để tái phát triển đô thị. Nó liên
quan đến việc kích thích các hoạt động kinh tế và cải thiện môi trường với các yếu tố xã hội
và văn hóa rộng hơn. Nói cách khác, tái tạo đô thị là một khái niệm nhấn mạnh việc xử lý
toàn diện để khôi phục các lĩnh vực vật chất, môi trường, công nghiệp, kinh tế, xã hội và văn
hóa của thành phố.

Trên thực tế, Anh chính là quốc gia đi tiên phong trong khái niệm tái tạo đô thị. Triết lý tái
tạo đô thị ở Anh gắn liền với việc tạo ra “những nơi bền vững mà mọi người muốn sống,
làm việc và nuôi dưỡng gia đình”. Công thức then chốt để tái tạo đô thị thành công là sự kết
hợp của (1) tăng cường khả năng dịch chuyển kinh tế và xã hội, (2) phát huy các giá trị địa
phương và (3) sự tham gia của các khu vực thứ ba.

Và bây giờ, khi chúng ta đang sống trong thời đại này, các công nghệ tiên tiến sẽ giảm bớt
nhiều rào cản mà chúng ta từng gặp phải liên quan đến các vấn đề đô thị. Điều này có nghĩa
là xây dựng cơ sở hạ tầng thông minh. Cơ sở hạ tầng thông minh giúp cộng đồng gắn kết
hơn, giảm tội phạm và tạo ra hệ thống quản lý năng lượng hiệu quả hơn. Trên nhiều lĩnh vực
khác nhau bao gồm dịch vụ công dân, phát triển kinh tế, cộng đồng, thực thi pháp luật, quản
lý tài nguyên, thay đổi hành vi và sức khỏe, trong số những lĩnh vực khác có thể được hưởng
lợi từ cơ sở hạ tầng đó và đó là tác động xã hội và tái tạo đô thị mà chúng ta có thể mong đợi
từ việc xây dựng một thành phố thông minh.

2-2. Tăng trưởng kinh tế bền vững

Dựa trên hộp cát công nghệ đổi mới, dự án thành phố thông minh nhằm mục đích xây dựng
một thành phố thông minh bền vững, trong đó người dân và các công ty khởi nghiệp địa
phương tham gia phát triển thành phố thông minh và chia sẻ ý tưởng.

Từ “phát triển bền vững” xuất hiện vào những năm 1980 để bao gồm nhiều khía cạnh khác
nhau như kinh tế, đô thị, nông thôn, công nghiệp, nông nghiệp, công nghệ. Khi đó, phát triển
bền vững được Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới định nghĩa: “Phát triển bền vững
là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Đã có những nỗ lực nghiên cứu nhằm xác định các
chỉ số cho sự phát triển bền vững được áp dụng ở châu Âu, bao gồm phát triển kinh tế xã
hội, hòa nhập xã hội, thay đổi nhân khẩu học, y tế công cộng, biến đổi khí hậu và năng lượng,
sản xuất và tiêu dùng bền vững, tài nguyên thiên nhiên, giao thông bền vững, quản trị tốt và
quan hệ đối tác toàn cầu. Các mục tiêu phát triển bền vững được coi là có mối liên hệ với
nhau và đòi hỏi sự tích hợp tư duy giữa tất cả các lĩnh vực của thành phố và tạo động lực
cho sự hợp tác giữa các tổ chức trong nước và quốc tế cũng như người dân tham gia vào quá
trình ra quyết định, hoạch định chính sách và quản trị phát triển bền vững.

183
Và Thành phố thông minh có thể giúp khắc phục những hạn chế của phát triển đô thị truyền
thống có xu hướng quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị theo dạng silo. Bằng cách tận dụng
đặc điểm phổ biến của dữ liệu và dịch vụ được cung cấp bởi các công nghệ kỹ thuật số,
chẳng hạn như Điện toán đám mây, Internet vạn vật hoặc Dữ liệu mở, chúng giúp kết nối
các bên liên quan khác nhau của thành phố, cải thiện sự tham gia của người dân, cung cấp
các dịch vụ mới và nâng cao các dịch vụ hiện có cũng như cung cấp bối cảnh - quan điểm
nhận thức về hoạt động của thành phố. Tuy nhiên, việc phát triển Thành phố thông minh rất
phức tạp, đầy thách thức và có bối cảnh cụ thể. Những thách thức bao gồm các diễn ngôn
khác nhau được các nhà công nghệ và nhà hoạch định chính sách sử dụng, thiếu khả năng
kết nối các thách thức về tính bền vững của đô thị với các phương pháp tiếp cận có thể hành
động và áp lực lên sự gắn kết xã hội và lãnh thổ đòi hỏi các giải pháp quản trị độc đáo.

Các lĩnh vực mà chúng ta có thể mong đợi cải thiện là (1) giao thông đô thị bền vững, (2)
các quận và môi trường xây dựng bền vững, và (3) cơ sở hạ tầng và quy trình tích hợp. Đầu
tiên, với khả năng giao thông bền vững trong đô thị, chúng ta có thể sử dụng thông tin người
đi đường theo thời gian thực cho phép mọi người đưa ra quyết định sáng suốt về khả năng
di chuyển của mình, tiết kiệm thời gian và năng lượng. Có thể tăng cường giao thông công
cộng dựa trên CNTT, giúp giảm thời gian chờ đợi cũng như lượng khí thải và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đi lại đa phương thức. Thứ hai, với môi trường xây dựng và quận bền
vững, chúng ta có thể sử dụng các công nghệ thông minh cho môi trường xây dựng để đạt
được cuộc sống tốt hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên và giảm chất thải. Các quận bền vững
cũng là một lĩnh vực trọng tâm, cho phép chúng ta giảm lượng khí thải và mức tiêu thụ tài
nguyên bằng cách áp dụng các công nghệ tích hợp tiết kiệm năng lượng. Và chúng ta cũng
có thể tạo ra các cộng đồng cùng quan tâm có thể là chìa khóa để hỗ trợ giải pháp SCC tích
hợp. Thứ ba là cơ sở hạ tầng và quy trình tích hợp. Chúng ta có thể xây dựng nền tảng thành
phố thông minh cho phép giám sát và chỉ đạo phòng ngừa theo thời gian thực đối với các
thành phố. Các dịch vụ thành phố thông minh cũng có thể thực hiện được, cho phép đồng sở
hữu các vấn đề và kết quả của địa phương. Ở đây, nó còn giúp chính quyền thành phố tiết
kiệm hiệu quả và khuyến khích sự tham gia ở cấp địa phương. Lưới điện thông minh rất
đáng chú ý ở đây vì với thông tin và hiểu biết được thu thập, các nhà quy hoạch và quản lý
có thể sử dụng dữ liệu và thông tin đó.

2-3. Kết nối các thành phố: Xác thực chéo và chia sẻ kinh tế

Dự án sẽ hỗ trợ sự tham gia, thương mại hóa và toàn cầu hóa của người dân. Nó sẽ thúc đẩy
khả năng cạnh tranh toàn cầu bằng cách hợp tác trong các thành phố quốc tế.

Thuật ngữ “nền kinh tế chia sẻ” vẫn chưa có một định nghĩa được thống nhất rộng rãi. Tuy
nhiên, nó thường đề cập đến các tương tác có tổ chức trong đó các cá nhân hoặc tổ chức trao
đổi với người khác khả năng “thặng dư” hoặc “nhàn rỗi” chưa được khai thác của tài sản của
họ, thường là cho một số loại hình thanh toán hoặc dịch vụ. Ba đặc điểm phân biệt nền kinh
tế chia sẻ với thị trường truyền thống hoặc thực tiễn chia sẻ cộng đồng: sử dụng công nghệ
kỹ thuật số để kết nối người mua và người bán, tận dụng năng lực nhàn rỗi và xác minh niềm
tin. Nền kinh tế chia sẻ thường được sử dụng như một thuật ngữ chung cho các mô hình kinh

184
doanh mới hoặc bị nhầm lẫn với các khái niệm mới nổi tương tự như “nền kinh tế hợp tác”,
“nền kinh tế ngang hàng”, “nền kinh tế tự do”, “nền kinh tế theo yêu cầu”. và “nền kinh tế
đám đông”.

Nền kinh tế chia sẻ đã tạo ra nhiều cơ hội cho các thành phố thông minh trong việc cải thiện
sử dụng tài sản và giảm chi phí giao dịch cũng như giảm lãng phí một cách hiệu quả. Cải
thiện sử dụng tài sản mang lại nhiều kết quả tích cực, chẳng hạn như tiết kiệm năng lượng
và giảm tắc nghẽn. Mặc dù việc chia sẻ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường đã có lịch sử lâu
đời và việc chia sẻ trực tiếp kiểu cũ vẫn còn diễn ra trong cộng đồng ở khắp mọi nơi, các
nhà trung gian Internet giờ đây có thể hỗ trợ các giao dịch này và kết nối cung cầu theo thời
gian thực trên quy mô lớn.

Khi nền kinh tế chia sẻ được đưa vào thành phố thông minh, nó có thể mở ra nhiều cơ hội
khác nhau. Nền kinh tế chia sẻ được thúc đẩy bằng cách hỗ trợ các công nghệ kết nối kỹ
thuật số, cung cấp nền tảng cho những đổi mới này theo nghĩa là nó cho phép thực hiện ngay
lập tức. Thông tin và kiến thức theo thời gian thực do các cá nhân thu thập là chìa khóa để
giải quyết việc sử dụng kém hiệu quả các tài sản chưa được sử dụng đúng mức và biến thành
phố trở nên “thông minh”.

Có ba lĩnh vực chính mà chúng ta có thể mong đợi cải tiến: công nghệ, yếu tố con người và
tổ chức. Đầu tiên, công nghệ dựa trên việc sử dụng CNTT để biến đổi cuộc sống và công
việc trong thành phố theo những cách phù hợp. Từ quan điểm của một dịch vụ chia sẻ, công
nghệ rất quan trọng để một thành phố trở nên thông minh vì cơ sở hạ tầng công nghệ thay
đổi đáng kể và căn bản cách thức chia sẻ tài nguyên trong đó.

Thứ hai, yếu tố con người dưới góc độ dịch vụ chia sẻ nêu bật vai trò của cơ sở hạ tầng con
người, vốn nhân lực và giáo dục trong phát triển đô thị. Thành phố thông minh là một thành
phố nhân đạo, mang lại nhiều cơ hội để khai thác tiềm năng con người và giúp mọi người có
cuộc sống sáng tạo.

Thứ ba, các tổ chức của thành phố thông minh tập trung vào sự hỗ trợ chính phủ và các chính
sách quản trị, đồng thời bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như cộng đồng thông minh, chính
phủ thông minh, quản trị tích hợp và minh bạch, mạng lưới và quan hệ đối tác. Chính phủ
thông minh hơn không chỉ điều tiết đầu ra của hệ thống kinh tế và xã hội; mà còn kết nối
linh hoạt với các bên liên quan như người dân, cộng đồng và doanh nghiệp.

3. So sánh

Có một loạt các thông số mà một thành phố phải tuân theo để được coi là thành phố thông
minh: công nghệ, quản trị, chính sách, con người và cộng đồng, nền kinh tế, cơ sở hạ tầng
được xây dựng và môi trường tự nhiên. Lưu ý đến những điều này, cách chúng ta phát triển
khuôn khổ phù hợp cho Việt Nam cần phải cân nhắc nhiều yếu tố.

Để làm được như vậy, chúng ta có thể xem xét cách tiếp cận của phương Tây, châu Á và
Hàn Quốc trong cách họ xây dựng khuôn khổ cho thành phố thông minh, như được tóm tắt
trong Bảng 1.
185
Bảng 1. Các cách tiếp cận khác nhau của thành phố thông minh

Các nước phương Tây Các nước đang phát triển Hàn Quốc
(Châu Âu) (Châu Á)
Người Lãnh đạo tư nhân (CảiLãnh đạo chính phủ (TăngChỉ đạo từ chính quyền trung
khởi thiện chất lượng cuộccường tính cạnh tranh quốc ương
xướng sống) gia)

Mục tiêu Ứng phó với biến đổi khí Giải quyết các vấn đề đô thị Chuyển dịch cơ cấu công
hậu, tái tạo đô thị hóa cấp bách, nghiệp,
Kích thích nền kinh tế bãi bỏ quy định, tạo việc
làm

Đối với các nước phương Tây, tập trung quanh châu Âu, lãnh đạo tư nhân với mục tiêu cải
thiện chất lượng cuộc sống là người khởi xướng dự án. Mục đích của họ là ứng phó hiệu quả
với các vấn đề biến đổi khí hậu và tái tạo đô thị. Ở nhiều nước châu Á bao gồm Trung Quốc
và Ấn Độ, tập trung vào các nước đang phát triển, lãnh đạo công với mục tiêu tăng cường
năng lực cạnh tranh quốc gia là người khởi xướng dự án. Mục đích của họ là giải quyết các
vấn đề đô thị hóa cấp bách và kích thích nền kinh tế tăng trưởng hơn nữa.

Nếu chúng ta xem xét trường hợp gần đây của Hàn Quốc như một ví dụ, thì chính quyền
trung ương dường như có toàn quyền kiểm soát dự án thành phố thông minh. Chính phủ Hàn
Quốc đã khởi động dự án thí điểm thành phố thông minh quốc gia ở Sejong và Busan, tập
trung vào việc xây dựng dự án thành phố mới bằng cách tận dụng các dự án hiện có do các
công ty nhà nước vận hành.

4. Quản trị

Việt Nam là quốc gia phát triển kinh tế nhanh nhất ở châu Á, với hơn 70% tổng dân số ở độ
tuổi 30 hoặc trẻ hơn. Do đó, điều quan trọng là thiết lập hoạt động kinh doanh thành phố
thông minh dựa trên PPP (Quan hệ đối tác công-tư) như một bước đệm để tạo ra một hệ
thống kinh tế tăng trưởng mới bền vững cho thế hệ tiếp theo. Trong trường hợp của Hàn
Quốc, mặc dù lĩnh vực thành phố thông minh quốc gia được chính phủ quản lý, nhưng nhiều
bộ và ngân sách không được huy động do sự kiểm soát mang tính thâu tóm từ một nhóm bộ
cụ thể. Ngoài ra, các chính sách bãi bỏ quy định và hệ sinh thái đổi mới do khu vực công/tư
nhân mang tính khuyến khích cần phải tồn tại vì chúng vô cùng quan trọng trong việc xây
dựng thành phố thông minh, nhưng chính phủ Hàn Quốc chưa cung cấp chính xác các nguồn
lực cần thiết để hệ thống đó phát triển trong khi phát hành quá nhiều vốn, điều này khiến bộc
lộ những vấn đề về hiệu quả và tính khả thi về mặt kinh tế. Do đó, Thành phố Hồ Chí Minh
được khuyến nghị đặt mục tiêu tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu giữa các doanh
nghiệp nhỏ bằng cách thiết lập hệ sinh thái đổi mới quốc tế, các dự án tái tạo đô thị và cụm
công nghiệp.

Dự án thí điểm Thành phố Hồ Chí Minh thông minh có thể thu hút các công ty đổi mới sáng
tạo trên toàn thế giới, bao gồm cả các công ty ở Việt Nam, đồng thời đưa ra một mô hình

186
kinh doanh nhằm giải quyết các vấn đề đô thị. Đây sẽ là động lực để vốn, nhân lực, công
nghệ nước ngoài dẫn dắt các doanh nghiệp thông minh tại TP.HCM. Mặc dù hiện có rất
nhiều dự án thành phố thông minh đang được triển khai trên khắp thế giới, chính phủ và các
công ty Việt Nam nên quan tâm đến hoạt động kinh doanh thành phố thông minh và cơ cấu
đổi mới của Toronto để hiểu rõ hơn. Chính quyền Toronto từ lâu đã cung cấp khu đất bến
tàu bị bỏ hoang (dự án Quayside) cho Google, nơi đã nhận được khoản đầu tư trị giá 2 nghìn
tỷ USD cho nhiều thử nghiệm khác nhau. Hành động này đã tác động đến các lĩnh vực đổi
mới chính của Nền kinh tế số và thu hút nhiều công ty khởi nghiệp/công nghệ từ Hoa Kỳ và
Châu Âu. Các trường đại học ở Toronto đang trải qua tác động tổng hợp của việc nâng cao
chất lượng nghiên cứu R&D đồng thời thu hút sinh viên tài năng.

Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có thể đặt nền móng kinh tế trong thời gian ngắn thông qua dự
án thí điểm thành phố thông minh, đây sẽ là hình mẫu cho khu vực Đông Nam Á trong trung
và dài hạn.

Để có được một giải pháp hiệu quả, điều quan trọng là phải tạo ra một cơ cấu tổ chức và
chính sách hữu hiệu. Để giải quyết các vấn đề nảy sinh thông qua các dự án và đạt được hai
mục tiêu nêu trên, cần tận dụng nguồn vốn, công nghệ và nhân lực nước ngoài vì chỉ riêng
ngân sách quốc gia là khó khăn.

Có nhiều phần chưa phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam như các dịch vụ và công nghệ
khác nhau được triển khai trong thành phố thông minh. Một thành phố thông minh có thể
được chuẩn bị cho việc bãi bỏ quy định, các chính sách hỗ trợ đa dạng và giảm nhẹ hệ thống
để không chỉ tuân thủ luật pháp mà còn thực hiện đúng các dự án thí điểm. Phương pháp
chuẩn bị là xin phê duyệt các luật đặc biệt liên quan đến Thành phố Thông minh từ Hội đồng
Chỉ đạo Thành phố Thông minh. Ngoài ra, một thành phố thông minh cần có sự hỗ trợ từ
Nhóm công tác về Thành phố thông minh để xây dựng các quy hoạch tổng thể.

5. Kết thúc

“Dự án thành phố thông minh được hình dung là “Tăng trưởng xanh - Hướng tới Net Zero”
mang đến cơ hội chuyển đổi cho Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ cải thiện cơ sở hạ tầng
đô thị mà còn tạo ra tác động tích cực lâu dài đến môi trường và chất lượng cuộc sống cho
người dân. Bằng cách hợp tác với các thành phố toàn cầu khác trong sáng kiến đổi mới này,
Thành phố Hồ Chí Minh có thể thu được nhiều lợi ích:

1. Tính bền vững về môi trường: Trọng tâm về “Tăng trưởng xanh” phù hợp với các nỗ lực
toàn cầu nhằm chống lại biến đổi khí hậu. Thực hiện các biện pháp bền vững, chẳng hạn như
tích hợp năng lượng tái tạo, quản lý chất thải hiệu quả và giao thông xanh, sẽ làm giảm đáng
kể lượng khí thải carbon của thành phố và cải thiện chất lượng không khí.

2. Tăng trưởng kinh tế: Đầu tư vào khuôn khổ thành phố thông minh thu hút các công ty
công nghệ xanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cơ hội việc làm trong khu vực. Thành phố
có thể trở thành trung tâm đổi mới, thu hút cả đầu tư trong và ngoài nước.

187
3. Cơ sở hạ tầng được cải thiện: Cách tiếp cận thành phố thông minh thúc đẩy việc sử dụng
các công nghệ tiên tiến để tối ưu hóa cơ sở hạ tầng đô thị. Lưới điện thông minh, hệ thống
quản lý giao thông thông minh và phân phối nước hiệu quả có thể nâng cao chất lượng cuộc
sống chung của người dân.

4. Nâng cao chất lượng cuộc sống: Các chính sách “Net Zero” có thể mang lại không khí
sạch hơn, giảm ô nhiễm tiếng ồn và cải thiện không gian xanh. Điều này sẽ góp phần mang
lại một dân số khỏe mạnh hơn, hạnh phúc hơn và thu hút nhiều khách du lịch hơn.

5. Hợp tác toàn cầu: Hợp tác với các thành phố toàn cầu khác trong dự án này thúc đẩy trao
đổi kiến thức, chia sẻ phương pháp hay nhất và hợp tác giải quyết vấn đề. Thành phố Hồ Chí
Minh có thể học hỏi kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc của các thành phố khác trên con đường
tương tự. Đặc biệt, Thành phố Hồ Chí Minh gần đây đã tham gia “Hội nghị thượng đỉnh
OXYGEN Liverpool” để hợp tác với các thành phố đô thị toàn cầu tham gia “Sáng kiến
THÀNH PHỐ ĐÔI Toàn cầu”.

6. Khả năng phục hồi: Việc tập trung vào “Net Zero” sẽ nâng cao khả năng phục hồi của
thành phố trước những thách thức môi trường trong tương lai, giảm tính dễ bị tổn thương
trước các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và đảm bảo một tương lai bền vững hơn cho các
thế hệ mai sau.

7. Hình ảnh quốc tế tích cực: Thúc đẩy “Tăng trưởng xanh - Hướng tới Net Zero” giúp Thành
phố Hồ Chí Minh phù hợp với các mục tiêu bền vững toàn cầu. Hình ảnh tích cực này có thể
nâng cao danh tiếng của thành phố trên trường quốc tế, thu hút sự quan tâm và ủng hộ từ các
quốc gia và tổ chức khác.

Về bản chất, việc Thành phố Hồ Chí Minh theo đuổi dự án thành phố thông minh với chủ
đề “Tăng trưởng xanh - Hướng tới Net Zero”, phối hợp với các thành phố toàn cầu khác,
mang đến cơ hội độc đáo để tạo ra một môi trường đô thị thịnh vượng, bền vững và linh
hoạt, mang lại lợi ích cho cả thế hệ hiện tại và tương lai”.

Kết thúc

Jaewon Peter Chun

Chủ tịch Diễn đàn Thành phố Thông minh Thế giới (WSCF)

Ngày 14 tháng 9 năm 2023

Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

188
Tài chính hỗn hợp để phát triển cơ sở hạ tầng thành
phố bền vững
Mối quan tâm về biến đổi khí hậu

Do việc đốt nhiên liệu hóa thạch trên diện rộng, nạn phá rừng do nhu cầu công nghiệp và sự
chuyển đổi đất đai thông qua đô thị hóa, một lượng đáng kể khí nhà kính đang được thải vào
khí quyển, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu đáng kể.

Theo báo cáo của NASA, kể từ năm 1880 nhiệt độ trung bình toàn cầu trên Trái đất đã tăng
tối thiểu 1,1 độ C (1,9 độ F). Đáng chú ý, 9 năm qua liên tục được xếp hạng là những năm
ấm nhất kể từ năm 1880, trong đó năm 2022 được coi là năm ấm thứ năm được ghi nhận. 1
Do đó, biến đổi khí hậu đã trở thành mối quan tâm hàng đầu về môi trường trên phạm vi
toàn cầu.

Do biến đổi khí hậu, các sự kiện thời tiết khắc nghiệt khác nhau như bão, hạn hán và lũ lụt
đã xảy ra nhiều với mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng. Những sự kiện như vậy đã dẫn
đến những kết quả nghiêm trọng, bao gồm gia tăng tính dễ bị tổn thương, nghèo đói và bất
bình đẳng, đặt ra những thách thức đối với nông nghiệp và an ninh lương thực, rủi ro sức
khỏe khuếch đại, khan hiếm nước leo thang, buộc phải di dời và di cư.

Đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị bền vững và có khả năng chống chịu

Các khu vực đô thị được coi là những tác nhân đóng góp đáng kể vào phát thải khí nhà kính
2
và cũng rất dễ bị tổn thương trước các tác động của khí hậu. Để giảm thiểu tác động của
biến đổi khí hậu cũng như cải thiện khả năng thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu
và đưa các thành phố vào con đường thịnh vượng, có khả năng chống chịu, cần ưu tiên đầu
tư cơ sở hạ tầng đô thị bền vững và thích ứng với khí hậu.

Trung tâm Cơ sở hạ tầng Toàn cầu đã thâm hụt khoảng 15 nghìn tỷ đô la đầu tư cơ sở hạ
tầng toàn cầu. Theo OECD, đến năm 2030, cần khoảng đầu tư 6,3 nghìn tỷ USD đầu tư để
phù hợp với các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc và cần thêm 6,9 nghìn tỷ
USD để đáp ứng các điều kiện tiên quyết về đầu tư cơ sở hạ tầng của các mục tiêu trong
Thỏa thuận Paris.3

Thông thường, nguồn vốn có thể đạt được thông qua hai con đường:

 tài chính thành phố, bao gồm các khoản thu của thành phố, các khoản vay và chuyển
giao liên chính phủ (trợ cấp), và
 đầu tư từ khu vực tư nhân.

1
Đài quan sát Trái đất của NASA, Thế giới thay đổi: Nhiệt độ toàn cầu
2
Ngân hàng, Đầu tư Châu Âu, 2022. Báo cáo phát triển bền vững năm 2021 của Tập đoàn EIB.
3
Công ước Thị trưởng toàn cầu về Khí hậu và Năng lượng(GCoM), 2022. Cơ hội đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị bền
vững, có thể chống chịu.
189
Tuy nhiên, do xếp hạng tín dụng quốc gia thấp của các thành phố có thu nhập thấp và trung
bình thấp, 55% thành phố xác định thiếu nguồn tài chính công là rào cản chính để duy trì và
cải thiện cơ sở hạ tầng4. Tương tự, đối với đầu tư khu vực tư nhân, chỉ một phần nhỏ đầu tư
thị trường vốn toàn cầu chảy vào các thị trường mới nổi hàng năm 5 do những rủi ro mà các
nhà đầu tư tư nhân phải đối mặt bao gồm rủi ro lợi nhuận thấp so với rủi ro khác như rủi ro
chủ quyền, pháp chế và quản trị doanh nghiệp.

Tài chính hỗn hợp

Để đẩy nhanh những tiến bộ hướng tới việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, tài
chính hỗn hợp được thừa nhận rộng rãi là có vai trò quan trọng trong việc thu hẹp chênh lệch
tài chính giữa những gì có sẵn và những gì cần có. Tài chính hỗn hợp kết hợp chiến lược các
quỹ khu vực công và tư nhân để hỗ trợ các dự án có mục tiêu xã hội hoặc vì môi trường ở
các nền kinh tế mới nổi với mục đích tận dụng thế mạnh của cả khu vực nhà nước và tư
nhân để giải quyết khoảng cách nguồn vốn và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

Trong tài chính hỗn hợp, các quỹ ưu đãi, được cung cấp dưới dạng cho vay hoặc trợ cấp,
được kết hợp với các quỹ thương mại từ các nhà đầu tư tư nhân. Mục tiêu là thu hút vốn tư
nhân vào các dự án có thể được coi là không thuận lợi về mặt thương mại chỉ với vốn tư
nhân. Bằng cách cung cấp các quỹ ưu đãi này, từ các chính phủ, tổ chức quốc tế hoặc ngân
hàng phát triển, các rủi ro bổ sung liên quan đến đầu tư vào các nước đang phát triển hoặc
với các dự án có tác động xã hội được hấp thụ một phần, làm cho các khoản đầu tư khả thi
đối với các nhà đầu tư tư nhân.

Tài chính hỗn hợp có thể có nhiều hình thức khác nhau như:

 Đảm bảo: Cung cấp bảo đảm để bảo vệ chống lại những tổn thất tiềm ẩn.
 Cho vay ưu đãi: Cung cấp các khoản vay với các điều khoản ưu đãi, chẳng hạn như
lãi suất thấp hơn hoặc thời gian trả nợ dài hơn, để giảm gánh nặng tài chính cho các
nhà phát triển dự án.
 Hỗ trợ kỹ thuật: Cung cấp hỗ trợ chuyên môn và xây dựng năng lực để nâng cao
khả năng tồn tại và thành công của các dự án.
 Đầu tư cổ phần: Đầu tư vào các dự án cùng với các nhà đầu tư tư nhân, chia sẻ cả
rủi ro và phần thưởng.
 Vốn lỗ thất bại đầu tiên: Phân bổ các quỹ ưu đãi để bù đắp các khoản lỗ ban đầu
tiềm ẩn, cung cấp một mạng lưới an toàn cho vốn tư nhân.
Nói tóm lại, tài chính hỗn hợp thúc đẩy sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân, đóng
vai trò là nền tảng cho các sáng kiến phát triển toàn cầu. Điều này mang đến một cơ hội đáng
kể cho các tổ chức nhà nước, từ thiện và tư nhân hợp tác ở quy mô cần thiết để đạt được các
mục tiêu phát triển bền vững nhằm theo đuổi các kết quả cùng có lợi. Các nhà đầu tư tư nhân
có thể thu được lợi nhuận hấp dẫn từ các khoản đầu tư của họ, trong khi các các cơ quan nhà
nước, các tổ chức nhân đạo có thể tối đa hóa tác động của các nguồn lực hạn chế của họ,
4
C40 Cities Finance Facility, Giải thích: làm thế nào để cấp vốn cho cơ sở hạ tầng đô thị
5
OECD, 2016. Báo cáo hợp tác phát triển, Chương 3, Kết hợp các quỹ công và tư để phát triển bền vững.
190
đảm bảo thực hiện rộng rãi. Điều quan trọng là cách tiếp cận này hướng nhiều nguồn vốn và
kiến thức hơn đến các thị trường mới nổi và đầy thách thức, nơi hậu quả của biến đổi khí
hậu sẽ lan rộng nhất. Sự phân bổ chiến lược này có thể là một chất xúc tác hiệu quả mang
lại những thay đổi lớn trong nền kinh tế, xã hội và cuộc sống của người dân.

Tập trung vào cả giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, Ban Quản lý Quỹ Khí hậu
(CFM) là công ty quản lý quỹ tài chính hỗn hợp hàng đầu đảm bảo một tương lai bền vững
thông qua đầu tư vào các thị trường mới nổi toàn cầu với sự hỗ trợ toàn diện của Chính phủ
Hà Lan, bao gồm Bộ Ngoại giao, thông qua Quỹ Khí hậu và Phát triển Hà Lan, các nhà đầu
tư thương mại (KLP, IMAS Foundation, Sanlam, Aegon), ngân hàng nhà nước Hà Lan, một
tổ chức phát tài chính triển (FMO) và các nhà tài trợ (Ủy ban châu Âu và Quỹ phát triển Bắc
Âu).

Hiện tại, Ban Quản lý Quỹ Khí hậu quản lý hai cơ sở tài chính hỗn hợp:

 Quỹ đầu tư Climate Investor 1 (CI1) cung cấp các dự án cơ sở hạ tầng năng lượng
tái tạo tập trung vào công nghệ gió trên bờ và gần bờ, quang điện, thủy điện đập dâng
với mức vốn huy động đạt là 850 triệu USD khi đóng quỹ.
 Quỹ đầu tư Climate Investor 2 (CI2) cung cấp các dự án cơ sở hạ tầng nước, vệ
sinh và đại dương tại các thị trường mới nổi. Đặt mục tiêu đạt 1 tỷ USD ở đợt đóng
quỹ cuối cùng, CI2 đã đạt mức 855 triệu USD cam kết ở giai đoạn đóng quỹ thứ hai
vào tháng 12/2022.
Bằng cách sử dụng tài chính hỗn hợp cho các dự án bền vững, CFM có thể tận dụng chuyên
môn của mình để huy động vốn, thúc đẩy các sáng kiến có trách nhiệm với môi trường và
đóng góp vào nỗ lực toàn cầu để chống lại biến đổi khí hậu đồng thời đạt được lợi nhuận tài
chính tích cực.

Nathan Schmidt, Trưởng khu vực – Châu Á của Climate Fund


Managers Nathan Schmidt chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư ở châu Á

191
Cam kết của Việt Nam về tính bền vững

Tại COP26, tháng 11 năm 2020, Thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra một cam
kết táo bạo rằng Việt Nam sẽ đạt mục tiêu phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050.
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh của Việt Nam đã gây ra mức tăng gấp bốn lần khí thải
nhà kính trên đầu người người trong thế kỷ này, từ 0,79 tấn CO2 tương đương vào
năm 2000, lên 3,81 tấn vào năm 2018, với tốc độ gia tăng khí thải nhanh nhất trên thế
giới. Cam kết này càng có ý nghĩa hơn khi nền kinh tế của đất nước phụ thuộc vào
đầu tư nước ngoài từ các ngành công nghiệp sản xuất xuất khẩu. Khi các thương hiệu
ngày càng nhận thức rõ hơn và tìm kiếm xây dựng cơ sở sản xuất bền vững, Việt Nam
phải có khả năng cung cấp các cơ sở và dịch vụ xanh, và điều này là mang tính tiên
quyết. Ô nhiễm liên quan đến những khí thải này gây hại cho sức khỏe và năng suất;
việc cạn kiệt tài nguyên và tác động của biến đổi khí hậu đã và đang gây tổn hại cho
thương mại và đầu tư. Báo cáo "Báo cáo Về Khí hậu và Phát triển của Quốc gia cho
Việt Nam" của Nhóm Ngân hàng Thế giới đã nhấn mạnh rằng việc thực hiện cam kết
quốc tế đầy tham vọng của Việt Nam sẽ đòi hỏi hành động trong các lĩnh vực phát
thải chính, năng lượng, vận tải, nông nghiệp và sản xuất, và sử dụng việc định giá
carbon để thúc đẩy đầu tư”. Báo cáo cũng cho biết rằng Việt Nam đã bị mất khoảng
10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP do ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu. Mô hình cũng cho thấy chi phí cho nền kinh tế gây ra bởi biến đổi khí hậu có thể
lên tới 523 tỷ USD vào năm 2050. Xanh hóa ngành tài chính, thúc đẩy các dự án tăng
trưởng xanh trên các lĩnh vực và đảm bảo quy trình minh bạch và có thể đoán định
cho các dự án năng lượng phải là điều ưu tiên. Để thực hiện điều này, việc thiết lập
và thực hiện các chính sách, cải cách và quản trị toàn cầu, minh bạch và được tiêu
chuẩn hóa là vô cùng cần thiết để thu hút cả nguồn tài chính ở cả khu vực công và tư.
Sau COP26, vào ngày 14 tháng 12 năm 2022, lãnh đạo Việt Nam cùng với Nhóm
Đối tác Quốc tế, bao gồm Liên minh Châu Âu, Vương quốc Anh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ,
Ý, Canada, Nhật Bản, Na Uy và Đan Mạch đã đồng ý hợp tác mạnh mẽ với đối tác về
Chuyển dịch Năng lượng Công bằng (JETP). Đối tác sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện
mục tiêu đầy tham vọng là phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, thúc đẩy đạt đỉnh khí
thải nhà kính và chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng sạch. JETP sẽ
huy động một số tiền ban đầu là 15,5 tỷ USD từ nguồn tài chính công và tư nhân trong
3 đến 5 năm tới để hỗ trợ việc chuyển đổi xanh của Việt Nam.
Việt Nam có cơ hội không chỉ đạt được mục tiêu mà còn vượt qua các nước khác
để bước lên vị thế của một quốc gia mẫu mực và điều này đòi hỏi các mục tiêu và chỉ
tiêu lớn lao và đầy táo bạo.

192
Mục tiêu và Thách thức
Cam kết đưa khí thải net về "0" vào giữa thế kỷ này là một thách thức nhưng
đồng thời cũng là cơ hội để Việt Nam thực hiện cải cách mạnh mẽ, tái cấu trúc nền
kinh tế, hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững, từ từ tăng tỷ trọng năng lượng sạch
và năng lượng tái tạo trong phát triển kinh tế. Trong quá trình này, sự đồng hành và
chia sẻ của các tổ chức quốc tế, tổ chức tài chính và ngân hàng nước ngoài đóng vai
trò quan trọng, không chỉ từ góc độ tư vấn chính sách và chia sẻ kinh nghiệm cho cơ
quan quản lý nhà nước, mà còn hỗ trợ nguồn lực tài chính và vốn trực tiếp cho các
nhà đầu tư dự án xanh, phát triển bền vững..
Để đạt được mục tiêu phát triển xanh và bền vững, ngoài tài chính – được xem
là yếu tố cốt lõi quyết định sự chuyển đổi này – Việt Nam còn phải đối mặt với các
yếu tố và thách thức khác. Chúng tôi dự đoán với PDP8 mới, sẽ có thêm khoảng
20GW năng lượng tái tạo (từ mặt trời và gió so với năm 2020) dự kiến sẽ được lắp
đặt vào năm 2030. Dự báo về tài chính cần thiết để đạt được mục tiêu này trong khoảng
15-16 tỷ USD mỗi năm đến năm 2030. Đây là một con số lớn và yêu cầu sự hợp tác
giữa khu vực tài chính tư và công . Một cách đầy tham vọng, Việt Nam muốn tăng
trưởng xuất khẩu 5-6% hàng năm đến năm 2030. Đặc biệt khi nước này giao thương
với các quốc gia phát triển nằm ở phía Tây, các luật lệ và quy định ngày càng nghiêm
ngặt và chi tiết sẽ yêu cầu "ESG" là một trong những yếu tố quan trọng. Chương trình
phát triển xanh của Việt Nam tập trung vào việc tiêu dùng xanh, sản xuất xanh và
cuộc sống xanh sẽ hỗ trợ cho tham vọng này.

Đối với các dự án xanh, thách thức đến từ các chi phí đầu tư lớn và thời gian
hoàn vốn lâu hơn so với các dự án "tiêu chuẩn xanh thấp". Vì vậy, đối với các sản
phẩm tài chính/ tín dụng xanh của ngân hàng dành cho khách hàng, để đảm bảo lợi
nhuận và các tiêu chuẩn phát triển bền vững của các dự án xanh, việc giảm rủi ro
thông qua tài chính hỗn hợp đòi hỏi việc tổ chức tốt hơn, mức độ quản trị cao hơn và
minh bạch hơn.

Những cú sốc địa chính trị và kinh tế gần đây đang đẩy cam kết về biến đổi khí
hậu có nguy cơ sụp đổ. Các vấn đề vẫn còn đó chưa được giải quyết: Ukraine/Russia;
gián đoạn năng lượng; phục hồi sau COVID-19; khủng hoảng thực phẩm và gián đoạn
chuỗi cung ứng, trong khi các ngân hàng trung ương phải đối mặt với lạm phát và đối
phó với khả năng suy thoái kinh tế toàn cầu. Lãi suất cao sẽ làm hoạt động kinh tế
chậm lại.

Thị trường carbon và ESG của Việt Nam


Vào ngày 20 tháng 7 năm 2023, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, phối
hợp với Cục Biến đổi Khí hậu - Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tác động Khí hậu
X (CIX) đã tổ chức hội thảo về việc thành lập và vận hành một sàn giao dịch tín chỉ
carbon tự nguyện tại Việt Nam. Sự kiện đã thu hút đại diện từ Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Tài chính, các bộ ngành có liên quan khác, Trung tâm Lưu ký Chứng
khoán Việt Nam (VSD), Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và đại diện từ các tổ chức

193
tài chính khác và các công ty tư vấn kỹ thuật. Tại sự kiện, các thành viên đã trao đổi,
thảo luận và làm rõ các vấn đề liên quan đến việc xây dựng và vận hành sàn giao dịch
tín chỉ carbon tự nguyện, và lộ trình cho thị trường carbon ở Việt Nam. Theo lộ trình,
các quy định và nền tảng giao dịch sẽ được hoàn tất vào năm 2025. Đề xuất triển khai
một sàn giao dịch tín chỉ carbon tự nguyện thí điểm nhằm bổ sung thị trường bắt buộc.
Cơ chế giao dịch khí phát thải bắt buộc (ETS) sẽ được triển khai chính thức từ năm
2028 trở đi và các quy định sẽ cho phép tham gia theo Điều 6 của Hiệp định Paris.
Standard Chartered Bank và CIX đã chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động và cơ chế của
sàn giao dịch tín chỉ carbon tự nguyện tại Singapore và các bước chuẩn bị tiếp theo
để thành lập một sàn giao dịch tín chỉ carbon tự nguyện tại Việt Nam.
Buổi hội thảo này là kết quả của thỏa thuận Biên bản Ghi nhớ (MOU) được ký
kết trước đó vào ngày 05 tháng 9 năm 2022 giữa Standard Chartered Việt Nam và Bộ
Tài nguyên và Môi trường (MoNRE) liên quan đến việc hợp tác giữa hai bên trong
việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Lễ ký kết MOU đã được chứng kiến bởi ông Trần
Hồng Hà - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường lúc đó và hiện đang là Phó Thủ
tướng Việt Nam. Theo MOU, Standard Chartered sẽ hỗ trợ MoNRE trong việc xây
dựng năng lực và tương tác với tư nhân trong hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu
và phát triển các khung hỗ trợ tài chính xanh, bền vững và/hoặc chuyển đổi cũng như
phát triển thị trường carbon và trao đổi kiến thức.
Standard Chartered đã tích cực đóng góp cho các cam kết ESG với chính phủ
thông qua việc ký kết các MOU bao gồm 8,5 tỷ USD cho doanh nghiệp và nhiều hoạt
động ESG khác. Theo báo cáo ảnh hưởng tài chính bền vững 2022 của ngân hàng,
Việt Nam đã ghi nhận hơn 50 triệu USD vốn cho các dự án năng lượng tái tạo dành
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng cũng đã ra mắt các thẻ trung hòa carbon và
các khoản vay thế chấp xanh, cung cấp cho khách hàng của mình nhiều lựa chọn bền
vững hơn và áp dụng lối sống xanh hơn.

Những đề xuất
Việc đạt được sự phát triển xanh đòi hỏi sự thay đổi đáng kể trong đầu tư, đồng
thời phát hiện và tiếp cận nguồn tài chính mới về biến đổi khí hậu cũng như tích hợp
các vấn đề môi trường và khí hậu vào chiến lược tài chính doanh nghiệp. Trong thực
tế, điều này vẫn là một thách thức lớn đối với các Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức
đang tìm kiếm các chiến lược, kế hoạch và dự án để giảm lượng khí thải nhà kính. Đối
với Việt Nam, phát triển xanh là một sứ mệnh quan trọng hướng tới phát triển bền
vững và yêu cầu sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ môi trường.

Tiếp tục trên hướng phát triển tích cực đã đạt được cho đến nay, để trở thành nhà
máy dẫn đầu của thế giới, có hai khía cạnh cần thiết là:
(1) Một lộ trình nhanh chóng chuyển đổi sang năng lượng xanh;
(2) Một khung tài chính xanh bền vững cho các dự án được ngân hàng bảo
lãn.

194
Nếu đồng ý với ý kiến trên, các bước quan trọng mà chúng tôi đề xuất để thực
hiện điều này là như sau;

Phát triển các công cụ tài chính chuyển đổi: Việc đầu tư vào các thị trường
mới nổi là đặc biệt quan trọng nếu chúng ta muốn có một sự chuyển đổi công bằng để
không để lại bất kỳ quốc gia, khu vực hoặc cộng đồng nào phía sau. Thách thức này
đặc biệt rõ ràng tại châu Á, châu Phi và Trung Đông, là những khu vực dễ bị tổn
thương nhất bởi biến đổi khí hậu - và cũng là những nơi cần nhiều nguồn tài chính để
đảm bảo phát triển kinh tế có thể tiếp tục trong khi giải quyết vấn đề khủng hoảng khí
hậu. Các tổ chức tài chính và các tổ chức đa phương cần kịp thời hành động để đảm
bảo việc điền khoảng trống tài chính này.

Chuẩn bị cho báo cáo ESG: Các quốc gia khác trên toàn châu Á - Thái Bình
Dương đang nhanh chóng áp dụng một loạt yêu cầu quản lý rủi ro ESG. Dựa trên các
thực tiễn đang được áp dụng trên khắp khu vực này, các tổ chức tín dụng của Việt
Nam cần bắt đầu chuẩn bị báo cáo theo các tiêu chuẩn ESG toàn cầu mới nhất, đã và
đang phát triển mạnh mẽ trong hai năm qua. Các thực tiễn mới nổi lên bao gồm:

(1) Giá trị phi tài chính mà một tổ chức tạo ra cho các bên liên quan;
(2) Báo cáo tích hợp với biến đổi khí hậu xuất hiện trực tiếp trong báo cáo tài
chính;
(3) Yêu cầu Đảm bảo về tính bền vững

Bắt đầu chuyển đổi danh mục: Các tổ chức cũng cần đánh giá tiềm năng chuyển
đổi của danh mục của họ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần khuyến khích các tổ
chức tín dụng thực hiện công bố liên quan đến rủi ro khí hậu theo đề xuất của Lực
lượng đặc nhiệm về Công bố thông tin tài chính liên quan đến khí hậu (TCFD) và đặt
mục tiêu net zero.

Yếu tố trong chuyển đổi công bằng: các tổ chức tín dụng cần xem xét yếu tố
tác động xã hội trong đánh giá tài chính để đảm bảo việc chuyển đổi net zero diễn ra
một cách công bằng và bao hàm cho tất cả các bên liên quan

Cơ hội và thách thức để Việt Nam đạt được mục tiêu Net Zero rất lớn. Tầm quan
trọng của nhiệm vụ này không thể xem nhẹ - biến đổi khí hậu có thể là thách thức cấp
thiết nhất mà thế giới đang đối mặt ngày nay và Việt Nam, thông qua việc chuyển đổi
sang phát thải carbon ròng bằng 0, sẽ đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ tương lai
môi trường của chúng ta. Nếu chúng ta không nhanh chóng hành động ý nghĩa để
giảm lượng khí thải, chúng ta sẽ không thể ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của
biến đổi khí hậu. Chúng ta phải hành động ngay bây giờ và hành động cùng nhau:
doanh nghiệp, người tiêu dùng, chính phủ, nhà quản lý và ngành tài chính. Cùng nhau,
chúng ta sẽ tiếp tục phát triển và hoàn thiện các khung pháp lý cụ thể về tín dụng xanh
cũng như các dự án đầu tư kinh doanh có tác động đến môi trường, đặt tiêu chuẩn về
tín dụng xanh, một danh sách ngành nghề/lĩnh vực xanh cho việc áp dụng chung,
thống nhất - được sử dụng như cơ sở để ngân hàng thương mại đánh giá khi cấp tín

195
dụng xanh. Một cách khái quát, trong mọi việc chúng ta làm, chúng ta sẽ cần may
mắn, nhưng chúng ta - khu vực tư và công và chính phủ Việt Nam - cũng cần các tiêu
chí SMART với việc chuyển giao công nghệ và thực hiện kỹ thuật trong hành trình
này. Chúng ta cần hòa hợp và có tổ chức, vì chúng ta đều đồng lòng trong việc này.
Một lần nữa - Tín dụng xanh, được hỗ trợ bởi Chính phủ, cần được củng cố bằng sự
cam kết và hành động rõ ràng của khu vực tư nhân trong nước và thông qua tài chính
bên ngoài từ cả khu vực công và tư cho một Chuyển đổi Công bằng.

Trích dẫn
 Báo cáo về biến đổi khí hậu và phát triển đất nước của Nhóm Ngân hàng
Thế giới về Việt Nam
 Vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy con đường bền vững | EY - Toàn
cầu
 Thỏa thuận Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng với Việt Nam (JETP)

MICHELE WEE
Tổng giám đốc ngân hàng Standard Chartered Việt Nam

196
Đường mòn xanh: Đưa châu Á gần hơn tới mục tiêu
Net-zero
Tracy Wong Harris
Một câu chuyện rất phổ biến trong thế giới tài chính bền vững: các quốc gia và công
ty cần nhiều tiền hơn để đạt được mục tiêu net-zero. Trên thực tế thì thậm chí là còn
nhiều hơn nữa. Một nghiên cứu năm 2022 của McKinsey đã tính toán thế giới phải
chi 275 nghìn tỷ đô la Mỹ cho tài sản vật chất – trung bình khoảng 9 nghìn tỷ đô la
Mỹ hàng năm – để đạt mức net-zero vào năm 2050.
Thực tế này là lý do tại sao sự suy giảm của thị trường tài chính bền vững toàn cầu
vào năm 2022, mà là yếu tố quan trọng đối với tham vọng net-zero, là nguồn gốc
của thông tin đáng chú ý. Theo dữ liệu của BloombergNEF, nó đã giảm từ khoảng
1,76 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2021 xuống còn 1,5 nghìn tỷ đô la Mỹ, do môi
trường kinh tế toàn cầu khó khăn.
Tuy nhiên, có những điểm sáng giữa sự ảm đạm này. Một là các đợt phát hành ở
châu Á đã đi ngược xu hướng này, tăng gần 10% vào năm 2022 lên 391 tỷ USD, với
gần hai phần ba gồm các trái phiếu xanh và các khoản vay liên quan đến bền vững
(SLL).
Mục tiêu Net-zero: lý do để lạc quan
Mặc dù các con số toàn cầu của năm 2022 phản ánh sự suy giảm, nhưng một số yếu
tố cũng khiến tôi cảm thấy lạc quan. Đầu tiên, theo Climate Action Tracker, khoảng
140 quốc gia đã công bố hoặc đang xem xét các mục tiêu net zero kể từ tháng 11
năm 2022. Các nền kinh tế này chiếm gần 90% lượng khí thải toàn cầu.
Thứ hai, điều đó diễn ra song song với những thay đổi về chính sách và quy định
quốc gia mang đến cơ hội và cả áp lực. Chẳng hạn, đến năm 2025, tất cả các công ty
niêm yết ở Hồng Kông dự kiến sẽ phải tuân thủ các quy định báo cáo của Ban công
tác về Thông tin tài chính liên quan đến Biến đổi khí hậu (TCFD). Và tại Singapore,
tất cả các công ty niêm yết đều phải có báo cáo bền vững, trong khi các quỹ ESG
dành cho các nhà đầu tư cá nhân sẽ cần cung cấp chi tiết về chiến lược đầu tư của họ
.
Thứ ba là cơ hội đi kèm với việc đạt được mục tiêu net-zero. Đối với các nhà đầu tư,
các yếu tố thứ hai và thứ ba này sẽ ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng về rủi ro và
lợi nhuận: các công ty tôi đang đầu tư có tuân thủ không? Họ có được hưởng lợi từ
các cơ hội net-zero hay không
Và đặc biệt khi nói đến châu Á, điều nổi bật là khu vực này là nơi có một số nguồn
phát thải lớn nhất thế giới, vì vậy đó là nơi có cơ hội và nơi cần có vốn. Tốc độ tăng
trưởng cũng rất đáng chú ý: Châu Á bắt đầu hành trình tài chính bền vững của mình
muộn hơn so với phương Tây, nhưng nó đang bắt kịp.

197
Vượt ra ngoài phạm vi tài chính: Vượt qua những thách thức net-zero của châu
Á
Không điều gì trong số này làm giảm bớt những thách thức và các công ty ở châu Á
phải làm nhiều hơn nữa để đạt được các mục tiêu năm 2050 của họ. Nhưng điều đó
đòi hỏi phải khắc phục một số vấn đề quan trọng, trong đó khoảng cách tài chính là
vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất cần giải quyết.
Một điểm khác là phần lớn việc thiết lập tiêu chuẩn đã được thực hiện ở phương
Tây, đặc biệt là Liên minh châu Âu (EU), nhưng điều đó không nhất thiết phù hợp
với nhu cầu của châu Á. Ở châu Á, nhiều quốc gia có mục tiêu net-zero sau năm
2050: Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu trung tính carbon vào năm 2060; Ấn Độ
đến năm 2070. Sự khác biệt này cũng phù hợp với nguyên tắc phân loại: các quy tắc
của EU không chuyển trực tiếp sang châu Á khi được chia nhỏ theo ngành hoặc
ngưỡng, chẳng hạn như vậy..
Thách thức thứ ba là thế giới thiếu một thị trường carbon tự nguyện chất lượng cao
và hoạt động tốt, một thị trường có thể hoạt động giữa các quốc gia để chuyển nguồn
vốn cần thiết.
Giải quyết những vấn đề này sẽ không dễ dàng và không thể được thực hiện bằng
cách đơn giản là sao chép cách tiếp cận của phương Tây. Thành công đòi hỏi đánh
giá tình hình của khu vực và thị trường của nó, và áp dụng những giải pháp phù hợp
Tuy nhiên, thật đúng khi lưu ý rằng những thay đổi đang diễn ra. Climate Impact X ,
một liên doanh được thành lập tại Singapore vào năm 2021 với Standard Chartered
là đối tác sáng lập, là một ví dụ, cũng như Core Climate của Sàn giao dịch Hồng
Kông, được ra mắt vào năm 2022. Cả hai đều là nền tảng toàn cầu cho giao dịch tự
nguyện các tín dụng carbon chất lượng cao để thúc đẩy việc tiến tới mục tiêu net-
zero.
Một con đường ngắn hơn tới mục tiêu net-zero
Tuy nhiên, hành động về biến đổi khí hậu yêu cầu các công ty đặt ra mục tiêu. Tuy
nhiên, cuộc khảo sát toàn cầu gần đây của Standard Chartered cho thấy, phần lớn
các công ty chưa có mục tiêu. Dưới 30% trong số 300 doanh nghiệp lớn (doanh thu
trên 2 tỷ đô la Mỹ) và doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh thu dưới 500 triệu đô la Mỹ)
được khảo sát trên toàn thế giới có mục tiêu cải thiện bền vững chuỗi cung ứng của
họ - mặc dù 54% sẵn sàng chấp nhận lợi nhuận tài chính thấp hơn để bền vững hơn.
Khi được hỏi điều gì cản trở họ, khoảng 70% người châu Á được hỏi cho biết việc
huy động vốn cho ESG cũng như các chi phí và đầu tư liên quan đến tính bền vững
là một thách thức lớn, trong khi gần 60% cho biết những khó khăn trong việc truy
cập dữ liệu và báo cáo về các hoạt động ESG của nhà cung cấp.
Những khó khăn đó không phải là duy nhất, nhưng chúng cho thấy điểm quan trọng
lớn hơn: Phần lớn doanh nghiệp không biết cách bắt đầu con đường đến mục tiêu
net-zero. Đó là lý do tại sao tìm đối tác đúng là điều quan trọng. Hãy xem ví dụ về
công ty vận tải năng lượng MISC Berhad. Standard Chartered đã dẫn đầu khoản vay
198
vốn SLL trị giá 527 triệu đô la Mỹ đầu tiên của MISC, sẽ được sử dụng để tài trợ
cho sáu tàu chở etan rất lớn (VLECs) để giảm lượng khí nhà kính, và kết hợp các chỉ
số hiệu suất chính (KPI) vượt xa mục tiêu phát thải của Tổ chức Hàng hải Quốc tế.
Việc đáp ứng những KPI này sẽ giúp MISC hưởng lãi suất thấp hơn
Có một số bài học hữu ích ở đây cho các công ty đang tìm kiếm nguồn tài trợ SLL:
 Thiết lập KPI quan trọng, có liên quan với các mục tiêu đầy tham vọng phù
hợp với ngành của họ (ví dụ: hiệu quả năng lượng hoặc hiệu quả sử dụng
nước). Điều này đòi hỏi một chiến lược bền vững.
 Theo dõi và đo lường dữ liệu mục tiêu đó.
 Tiết lộ công khai dữ liệu và đảm bảo dữ liệu được xác thực từ bên ngoài.
 Việc thực hiện điều này là cần thiết để vượt qua rào cản đầu tiên (có được
nguồn tài chính bền vững) và sẽ buộc họ phải giải quyết vấn đề thứ hai - truy
cập dữ liệu.
Ở đây, việc có được đối tác đúng cũng có thể rất quan trọng. Chẳng hạn, các
nhóm tư vấn ESG của Standard Chartered có thể được coi là nguồn lực tuyệt vời
cho các khách hàng nhỏ hơn thiếu chiến lược bền vững hoặc thiếu kiến thức về
báo cáo, đo lường và công bố ESG. Cho đến nay, những công ty như vậy đã được
hưởng lợi từ chuyên môn của chúng tôi trong đánh giá rủi ro khí hậu, lộ trình
chuyển đổi và các giải pháp tài chính chuyển đổi và bền vững khác.
Bằng cách tận dụng các biện pháp này, các công ty ở châu Á, bất kể họ đang ở giai
đoạn nào trong hành trình chuyển đổi duy nhất của mình, đều có thể vượt qua những
thách thức đang cản trở họ đạt được mục tiêu net-zero và đóng góp hiệu quả cho
hành động khí hậu toàn cầu.

Tác giả là Giám đốc Tài chính Bền vững Châu Á, Standard Chartered

199
Bài tham luận đề xuất của lãnh đạo Tập đoàn Đầu tư Hà
tầng Tư nhân (“PIDG”) đến từ Châu Âu:
Giới thiệu về tập đoàn PIDG:
Private Infrastructure Investment Group, được viết tắt là “PIDG” là một tổ chức đa quốc
gia có trụ sở tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh và được thành lập bởi Chính phủ 6 nước
bao gồm Chính phủ Anh, Hà Lan, Úc, Thụy Điển, Đức, Thụy Sỹ và IFC (World Bank).
Sứ mệnh và mục tiêu chính của PIDG là đầu tư và cung cấp các dịch vụ tăng cường tín
dụng cho đầu tư hạ tầng tại các nước mới nổi và Châu Á, trong đó có Việt Nam là quốc
gia được ưu tiên và đứng đầu trong danh sách các thị trường mới nổi tại Châu Á.
PIDG đã hỗ trợ huy động tổng cộng 39,8 tỷ USD cho 211 dự án từ các nhà đầu tư tư
nhân và các định chế tài chính cho các dự án mà PIDG tham gia hỗ trợ tăng cường tín
dụng hoặc bảo lãnh tín dụng tại Châu Á và Châu Phi..
Việt Nam là quốc gia ưu tiên hàng đầu tại Châu Á và PIDG mong muốn được được tăng
cường sự hiện diện và hoạt động tại đây nhằm đóng góp vai trò của PIDG và các đơn vị
thành viên trong việc góp phần huy động vốn đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng và các lĩnh vực
đòi hỏi nguồn vốn lớn và kỳ hạn dài của Việt Nam.
Hoạt động của PIDG gắn với các công cụ hỗ trợ và tăng cường tín dụng bao gồm dịch
vụ bảo lãnh trái phiếu, do đó chúng tôi cũng tin tưởng sẽ hỗ trợ thị trường vốn và trái
phiếu của Việt Nam.
Liên quan đến thu xếp nguồn vốn xanh cho Green Growth của PIDG:
Vai trò chính của PIDG là đầu tư và cung cấp các dịch vụ tăng cường tín dụng bao gồm
bảo lãnh tín dụng hoặc bảo lãnh tín dụng và trái phiếu trên thị trường vốn cho các dự án
hạ tầng lớn trong đó phát triển xanh và các dự án hạ tầng xanh là ưu tiên hàng đầu của
PIDG. PIDG có đội ngũ chuyên gia nghiên cứu và đánh giá hướng đến các tiêu chuẩn
xanh cao nhất theo thông lệ quốc tế và các khoản đầu tư của mình.
Đối với nguồn vốn xanh cho hạ tầng tại Việt Nam, PIDG thông qua công ty thành viên
là GuarantCo đã thực hiện cam kết bảo lãnh tín dụng cho trái phiếu có giá trị 75 triệu
USD được phát hành bởi EVNFinance. Đây là khoản trái phiếu xanh đầu tiên tại Việt
Nam được xác nhận xanh theo chuẩn quốc tế của ICMA (Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc
tế).
Thông qua đơn vị thành viên của PIDG là GuarantCo, PIDG đã thực hiện cung cấp dịch
vụ bảo lãnh cho một số lô trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp Việt Nam,
bao gồm Tập đoàn Nam Long (NLG), Công ty Hạ tầng TP. HCMC (CII) và một số dự
án cảng và cấp nước tại Việt Nam với tổng số vốn cam kết hơn 344 triệu USD.
Với sự tham gia của PIDG, hầu hết các trái phiếu phát hành có kỳ hạn dài, góp phần thu
hút sự tham gia của các định chế đầu tư tư nhân và công ty bảo hiểm tại Việt Nam.
Đề xuất tham gia vào diễn đàn kinh tế lần thứ 4 của TP. HCM:

200
Đề xuất 1: Đại diện PIDG sẽ tham gia thuyết trình về giải pháp nguồn xanh cho việc
phát triển hạ tầng của TP. HCM và của Việt Nam, với chủ đề và nội dung chính như sau:
 Chủ đề thuyết trình: Giải pháp huy động nguồn vốn xanh cho phát triển và đầu tư
hạ tầng nhằm góp phần phát triển xanh tại Việt Nam.
 Người trình bày: Ông Philippe Valahu, Tổng Giám đốc, Tập đoàn PIDG.
Ông Philippe Valahu đã có hơn 30 năm kinh nghiệm quốc tế trong các dự án hạ tầng,
tài cính xanh tại Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Trước khi tham gia làm Tổng giám
đốc của PIDG, ông là đồng sáng lập công ty chuyên về tư vấn giải pháp tài chính cho
hạ tầng tại các thị trường mới nổi và trước đó là chuyên gia trong khối tài chính hạ
tầng của ngân hàng Depfa. Trước đó ông có 12 năm kinh nghiệm tại Cơ quan Bảo
lãnh Đầu tư Đa phương của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Washington và
Singapore. Ông tốt nghiệp MA của Harvard University và Kinh doanh Quốc tế và Cử
nhân tịa Đại học George Washington University
 Nội dung chi tiết dự kiến trình bày:
o Nhu cầu vốn phát triển hạ tầng tại Việt Nam nói chung và tại TP. HCM
o Xu hướng và yêu cầu của n và nhu cầu vốn xanh cho việc hiện thực hóa kế
hoạch này
o Bài học về thu xếp nguồn vốn xanh cho phát triển hạ tầng cho Việt Nam
o Kinh nghiệm thu hút nguồn vốn xanh tại các thị trường mới nối tại Châu Phi,
Chấu Á và Bài học cho Việt Nam

Đề xuất 2: Phái đoàn PIDG dự kiến có 5 người và mong muốn được diện kiến lãnh đạo
Chính phủ, lãnh đạo TP. HCM trong khuôn khổ của Diễn đàn.

Thông tin liên hệ về PIDG:


Ông Denesh Srishanker
Tổng Giám đốc, Khối Tăng cường Tín dụng
Email: Denesh.Srishanker@PIDG.org
Hoặc: đại diện đối tác của PIDG tại Việt Nam
Ông Nguyễn Quang Thuân
Tổng Giám đốc FiinRatings
Email: thuan.nguyen@fiingroup.vn
Số điện thoại: 0983890000

201
Đê cương tham luận của FiinGroup tại HEF 2023:
I) Chủ đề tham luận: “Đề xuất giải pháp nhằm khai thông nguồn vốn xanh nhằm
hỗ trợ tăng trưởng xanh cho TP. HCM”
II) Vì sao chủ đề này: phát triển xanh và hướng đến net zero là chủ trương và cam
kết của Chính phủ và hiện có sự quan tâm cao độ của các nhà đầu tư trong nước và
quốc tế. Một trong các nút thắt là vấn đề huy động nguồn lực tài chính cho cho
doanh nghiệp và các dự án hà tầng lớn của TP. HCM là vấn đề quan trọng nhằm
triển khai các mục tiêu của Thành phố, với vai trò là đầu tàu kinh tế của cả nước.
Bài thuyết trình của đại diện FiinGroup với tư cách là tổ chức xếp hạng tín nhiệm và
xác nhận trái phiếu xanh cũng như các hoạt động nhằm khai thông các kênh vốn bao
gồm trái phiếu doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng và đầu tư xanh phục vụ các định
chế tài chính trong và ngoài nước, sẽ tập trung vào các giải pháp cụ thể để nhằm
thảo luận và góp phần giải quyết vấn đề này của TP. HCM.
III) Nội dung chính:
1) Thực trạng và xu hướng trên thế giới và trong khu vực về nguồn vốn xanh, bao
gồm Trái phiếu xanh (cho chính quyền địa phương và cho doanh nghiệp), Tín dụng
doanh nghiệp xanh và nguồn vốn khác.
2) Những thay đổi chính sách quan trọng của Chính phủ hiện nay sau COP26 liên
quan đến thị trường vốn và tín dụng và những thách thức đang đặt ra.
3) Đề xuất và kiến nghị cho Việt Nam nói chung và cho TP. HCMC trong việc tận
dụng kênh huy động vốn xanh một cách hiệu quả và góp phần cho tăng trưởng xanh
hướng đến net zero.
IV) Về diễn giả:
Ông Nguyễn Quang Thuân là chủ tịch FiinGroup và FiinRatings – đơn vị đứng đầu
Việt Nam về các giải pháp thông tin và phân tích nhằm phục vụ các nhà đầu tư trong
và ngoài nước tại Việt Nam.
FiinGroup là đơn vị chuyên cung cấp các nền tảng phân tích thông tin tài chính,
thông tin kinh doanh và nghiên cứu thị trường nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư trên thị
trường Việt Nam và các doanh nghiệp trong việc phát triển và mở rộng kinh doanh
tại Việt Nam. Để biết thêm thông tin, vui lòng truy cập: https://www.fiingroup.vn
Công ty Cổ phần FiinRatings, là một thành viên của FiinGroup và là đối tác hợp tác
chiến lược với S&P Global Ratings. FiinRatings hoạt động trong lĩnh vực xếp hạng
tín nhiệm, được cấp phép bởi Bộ Tài chính, cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm và
các hoạt động liên quan cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư và bên cho vay trên thị
trường vốn. FiinRatings cũng là đơn vị được ủy quyền xác nhận trái phiếu xanh theo
chuẩn quốc tế của Tổ chức Khí Hậu Thế giới (Climate Bonds Initiative) tại Việt
Nam. Để có thêm thông tin, vui lòng truy cập: https://www.fiinratings.vn
V) thông tin liên hệ: bà Bùi Kim Thúy – Giám đốc Phát triển Kinh doanh
FiinRatings theo số máy: 0914 652 391 hoặc email: thuy.buikim@fiingroup.vn ; và
202
ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup, theo số máy 0983890000 hoặc
email: thuan.nguyen@fiingroup.vn

203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
Khái niệm Hệ thống Hỗ trợ Không khí Đô thị
(CASS©) và Ứng dụng của nó trong Quản lý Chất
lượng Không khí tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Chất lượng không khí đô thị là một vấn đề quan trọng ở hầu hết các thành phố siêu đô
thị trên khắp thế giới. Nồng độ ô nhiễm không khí gần đây, ví dụ như hàm lượng hạt
bụi trong khu vực Seoul và Incheon từ các nguồn phát khác nhau thường xuyên và
thậm chí vượt quá cả tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Hơn nữa, mức độ ô nhiễm PM
2.5 trong không khí ở hầu hết các thành phố châu Á đã tăng đáng kể do quá trình đô
thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng. Vì các chất gây ô nhiễm này có thể gây ra
ảnh hưởng lớn đối với sức khỏe con người, cần phải đặt ra chiến lược quản lý và
hướng dẫn giảm thiểu hiệu quả với các phương pháp thích hợp. Mặc dù chiến lược
quản lý chất lượng không khí quốc gia bao gồm kiểm soát và giảm thiểu khí thải đã
được áp dụng thành công ở cấp chính phủ cho đến nay, vẫn tồn tại các hạn chế trong
việc hỗ trợ việc cải thiện chất lượng không khí ở cấp khu vực, tức là cấp thành phố.
Mục đích của đề xuất hợp tác này là thiết lập chiến lược kiểm soát và cải thiện chất
lượng không khí ở cấp khu vực được phát triển tỉ mỉ bằng cách sử dụng Hệ thống Hỗ
trợ Không khí Đô thị (CASS©). Ý tưởng CASS© này bao gồm bốn quy trình chính
bao gồm giám sát chất lượng không khí, lập danh mục khí thải, mô hình phân tán và
chính sách quản lý cuối cùng mà có thể cung cấp bộ khung hữu ích để cải thiện chất
lượng không khí đô thị. Khác với việc thực thi cấp quốc gia, việc quản lý chất lượng
không khí cấp địa phương đòi hỏi góc nhìn cụ thể, xem xét cơ chế phân tán không khí
khu vực, đặc điểm địa lý và mức độ đô thị hóa (ví dụ: dân số, quy mô thành phố và
mật độ tòa nhà cao tầng). Do đó, việc xây dựng một khung pháp lấy khu vực làm trung
tâm cho việc quản lý chất lượng không khí ở cấp thành phố dựa trên mạng lưới giám
sát nhỏ gọn, dữ liệu danh mục đáng tin cậy và phương pháp mô hình hợp lý đóng vai
trò quan trọng để đạt được một xã hội bền vững. Bất kỳ cuộc thảo luận tiếp theo nào
cũng được hoan nghênh để chia sẻ bất kỳ kinh nghiệm liên quan nào và phát triển tiềm
năng hợp tác trong tương lai gần.

252
Tiến sĩ Heekwan Lee
Giáo sư Kỹ thuật Môi trường, Khoa Kỹ thuật Môi trường, Đại học Quốc gia
Incheon, Hàn Quốc, airgroup@inu.ac.kr
Giám đốc Viện I.NERGY, Viện Nghiên cứu Môi trường và Năng lượng Quốc tế
Giám đốc Cụm Đổi mới Incheon về Công nghệ Môi trường / Khí hậu

253
Tăng Trưởng Xanh tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Khám Phá Tiềm Năng của Hệ Thống Điện quang
nông nghiệp
Sung Yoon, Công Ty Envelops, Đại hàn Dân quốc
Ngày 26 tháng 7 năm 2023

Tóm Tắt: Bài viết này trình bày vai trò của hệ thống điện quang nông nghiệp trong
việc thúc đẩy tăng trưởng xanh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bằng cách tích hợp việc
sản xuất năng lượng mặt trời với các phương pháp nông nghiệp hiện có, điện quang
nông nghiệp đã cho thấy tiềm năng để cải thiện hiệu suất năng lượng, sản xuất thực
phẩm và sử dụng nước, đồng thời đóng góp vào một tương lai đô thị bền vững.

Từ khóa: Thành phố Hồ Chí Minh, Tăng trưởng xanh, Điện quang nông nghiệp/điện
nông, Bền vững, Năng lượng tái tạo, Đô thị hóa, Nông nghiệp.

Lời giới thiệu

Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế đang trỗi dậy và là thành phố lớn nhất
của Việt Nam, đang đứng trước một ngã ba trong quá trình tăng trưởng và phát triển
của mình. Khi thành phố tiếp tục mở rộng với tốc độ chưa từng có, tính bền vững trở
thành một vấn đề cấp thiết trong câu chuyện phát triển của nó.

Cốt lõi của thách thức này là hai vấn đề liên kết với nhau: nhu cầu năng lượng ngày
càng gia tăng và áp lực ngày càng tăng lên đất nông nghiệp. Vấn đề phức tạp này có
thể được quy về một số yếu tố. Trước tiên và quan trọng nhất, là quá trình đô thị hóa
nhanh chóng, đặc trưng bởi sự gia tăng đáng kể về dân số và mật độ đô thị, đã dẫn
đến sự gia tăng mạnh mẽ về tiêu thụ năng lượng. Nhu cầu tăng về năng lượng còn bị
đẩy lên bởi các ngành công nghiệp và thương mại ngày càng mở rộng của thành phố,
các ngành mà đã và đang tạo nên cột sống của nền kinh tế.

Đồng thời, quá trình mở rộ đô thị nhanh chóng của thành phố đã và đang gây áp lực
lên đất nông nghiệp. Vì ngày càng cần nhiều đất hơn để triển cơ sở hạ tầng, các khu
vực nông nghiệp của thành phố đang bị thu hẹp. Điều này nói lên hai vấn đề lớn: nó
đe dọa sự an ninh thực phẩm của thành phố và gây tổn hại đối với sinh kế của những
người phụ thuộc vào nông nghiệp.

Trước những thách thức cấp bách này, có một điều ngày càng rõ ràng rằng các chiến
lược phát triển đô thị truyền thống không bền vững trong dài hạn. . Cần có những giải
pháp sáng tạo và bền vững, và chính trong bối cảnh này, các chiến lược phát triển
xanh đang ngày càng trở nên phổ biến.

254
Các chiến lược tăng trưởng xanh đại diện cho một cách tiếp cận tích hợp về kế hoạch
và phát triển đô thị, tìm cách để đạt được sự hòa hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bền
vững môi trường. Các chiến lược này ủng hộ các mô hình phát triển giảm suy thoái
môi trường, tăng cường hiệu suất tài nguyên và thúc đẩy thịnh vượng kinh tế

Trong số những chiến lược này, điện quang nông nghiệp nổi lên như một giải pháp
sáng tạo và đầy triển vọng. Điện quang nông nghiệp kết hợp nông nghiệp và hiệu ứng
điện quang, là sự biến đổi ánh sáng thành điện năng bằng cách sử dụng các vật liệu
bán dẫn, để tối ưu hóa sử dụng đất. Bằng cách lắp đặt tấm pin mặt trời trên các vùng
đất nông nghiệp, hệ thống điện quang nông nghiệp có thể tạo ra năng lượng sạch, đồng
thời tăng cường nâng cao năng suất nông nghiệp.

<Figure 1> Agrivoltaic Concept

source: ENVELOPS CO., LTD.

Chức năng hai trong một này của điện quang nông nghiệp – nâng cao năng suất nông
nghiệp và tạo ra năng lượng tái tạo - mang lại một giải pháp tiềm năng cho thách thức
về bền vững của thành phố. Trong các phần tiếp theo của bài viết này, chúng tôi sẽ đi
sâu hơn vào khái niệm điện quang nông nghiệp, tiềm năng của nó trong việc thúc đẩy
tăng trưởng xanh tại Thành phố Hồ Chí Minh và các đề xuất chính sách để triển khai
thành công.

Tăng Trưởng Xanh: Sự Chuyển Đổi Thần Kỳ Hướng Đến Phát Triển Bền Vững

Tăng trưởng xanh chứa đựng một sự chuyển đổi cách mạng trong kế hoạch kinh tế và
tư duy phát triển. Nó nhấn mạnh sự cần thiết cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và
nguyên tắc của bền vững môi trường, kêu gọi một mô hình phát triển hạn chế các rủi
ro môi trường trong khi tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên. Sự chuyển đổi này được
thúc đẩy bởi việc công nhận tính hữu hạn của tài nguyên và nhu cầu cấp bách để đảm
bảo việc sử dụng chúng bền vững để đảm bảo lợi ích của các thế hệ tương lai.

255
Trong bối cảnh của Thành phố Hồ Chí Minh, tăng trưởng xanh không chỉ là một khái
niệm lý thuyết, mà là một nhiệm vụ cấp bách cho sự phát triển bền vững. Các mô hình
phát triển truyền thống của thành phố, phụ thuộc mạnh vào khai thác tài nguyên mạnh
mẽ và đô thị hóa nhanh chóng, đã bắt đầu đạt đến một mức bão hòa, khi giảm dần của
hiệu quả trở nên ngày càng rõ ràng. Điều này được thể hiện dưới hình thức suy thoái
môi trường, từ ô nhiễm không khí và nước đến việc cạn kiệt không gian xanh, và sự
khan hiếm tài nguyên, đặc biệt rõ ràng trong các lĩnh vực năng lượng và nông nghiệp.

Việc áp dụng mô hình tăng trưởng xanh tại Thành phố Hồ Chí Minh đòi hỏi một sự
đổi mới đáng kể trong cách thức triển khai kế hoạch đô thị, quản lý tài nguyên và
chính sách kinh tế. Phương pháp này tập trung vào việc bảo vệ cân bằng sinh thái,
giảm lượng khí thải carbon, tăng cường hiệu quả tài nguyên và quan trọng nhất, tích
hợp những nguyên tắc này vào khung kế hoạch phát triển kinh tế của thành phố.

Một yếu tố chính trong chiến lược tăng trưởng xanh cho Thành phố Hồ Chí Minh là
điện quang nông nghiệp - một hệ thống cộng sinh kết hợp giữa nông nghiệp và hiệu
ứng quan điện, là quá trình biến đổi ánh sáng mặt trời thành điện năng thông qua các
vật liệu bán dẫn. Nguyên tắc đằng sau điện quang nông nghiệp là tối ưu hóa việc sử
dụng đất bằng cách tạo ra một hệ thống đa năng: sản xuất năng lượng và sản xuất thực
phẩm.

Các hệ thống điện quang nông nghiệp đạt được điều này bằng cách lắp đặt tấm pin
mặt trời trên các vùng đất nông nghiệp. Những tấm pin này không chỉ tạo ra năng
lượng sạch và tái tạo, mà còn cung cấp bóng mát cần thiết cho một số loại cây trồng,
từ đó giảm thiểu quá trình bốc hơi nước - quá trình nước được chuyển từ đất lên khí
quyển thông qua quá trình bay hơi từ đất và các bề mặt khác và thông qua quá trình
tản nhiệt từ cây trồng.

Một kết quả kép đạt được từ việc lắp đặt này. Thứ nhất, nó giúp tăng năng suất cây
trồng khi một số loại cây hưởng lợi từ bóng mát do các tấm pin cung cấp và giảm hiện
tượng bốc hơi nước. Thứ hai, nó cải thiện hiệu suất sử dụng nước, khi lượng nước thất
thoát do bay hơn sẽ ít hơn dưới các tấm pin mặt trời, đây là lợi ích quan trọng trong
các khu vực dễ khan hiếm nước.

Thông qua sự kết hợp sáng tạo này, điện quang nông nghiệp có thể giải quyết hai vấn
đề quan trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh: nhu cầu tăng về năng lượng sạch và nhu
cầu về các thực tiễn nông nghiệp bền vững. Do đó, việc tích hợp điện quang nông
nghiệp vào chiến lược tăng trưởng xanh của thành phố mở ra một con đường hướng
tới tương lai bền vững và mạnh mẽ hơn.

Tiềm Năng của Điện quang nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh: Kết nối
đồng tương

256
Trong quá trình hướng tới phát triển đô thị bền vững, Thành phố Hồ Chí Minh tìm
thấy một giải pháp triển vọng trong việc áp dụng điện quang nông nghiệp. Tiềm năng
này chủ yếu bắt nguồn từ các đặc điểm địa lý, khí hậu và văn hóa xã hội độc đáo của
thành phố và các vùng lân cận của nó.

Nằm trong vùng nhiệt đới, Thành phố Hồ Chí Minh được ban tặng một khí hậu với
nhiệt độ cao và lượng mưa đáng kể, tạo điều kiện thích hợp cho nông nghiệp quanh
năm. Hơn nữa, thành phố có mức bức xạ năng lượng mặt trời cao, một yếu tố quan
trọng để tạo ra năng lượng điện từ ánh sáng. Sự kết hợp của những điều kiện thuận lợi
cho cả nông nghiệp và việc tạo năng lượng mặt trời tạo nên cơ sở cho tính khả thi của
điện quang nông nghiệp tại thành phố.

Hơn nữa, vùng ngoại ô nông thôn của thành phố, với truyền thống nông nghiệp có
chiều sâu, mang trong mình triển vọng lớn cho việc thiết lập hệ thống điện quang nông
nghiệp. Những người nông dân ngoại ô, có kỹ năng trong các thực hành nông nghiệp
truyền thống, có thể trở thành người giữ gìn công nghệ mới lạ này, từ đó tạo ra sự kết
hợp hài hòa giữa di sản và sự đổi mới. Việc triển khai điện quang nông nghiệp tại
những vùng này có thể kích hoạt một loạt lợi ích kinh tế - xã hội. Không chỉ giúp thúc
đẩy phát triển nông thôn bằng cách tạo ra cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người
nông dân, mà còn làm cầu nối khoảng cách đô thị - nông thôn bằng cách góp phần
vào sự phát triển cân đối của khu vực.

Việc tích hợp điện quang nông nghiệp vào bức tranh năng lượng và nông nghiệp của
thành phố hứa hẹn những bước tiến đáng kể đối với tham vọng tăng trưởng xanh của
thành phố. Bằng việc thiết lập một nguồn năng lượng tái tạo có nguồn gốc địa phương,
điện quang nông nghiệp có thể giảm sự phụ thuộc của thành phố vào nhiên liệu hóa
thạch. Sự chuyển đổi sang nguồn năng lượng thấp carbon này có vai trò quan trọng
trong việc giảm lượng khí nhà kính, điều này phù hợp với cam kết của thành phố trong
việc giảm thiểu biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, điện quang nông nghiệp mang lại một loạt lợi ích phụ quan trọng cho sự bền
vững đô thị. Bóng mát do tấm pin mặt trời tạo ra giảm quá trình bay hơi từ cây trồng,
dẫn đến việc bảo vệ nguồn nước - một lợi thế đáng kể trong các vùng có nguồn nước
khan hiếm. Hơn nữa, nó có thể tăng cường năng suất cây trồng bằng cách tạo ra một
môi trường nhỏ gọn thuận lợi cho một số loại cây trồng, qua đó tăng cường an ninh
lương thực địa phương.

Khi Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu hành trình điện quang nông nghiệp của mình,
việc học hỏi từ những người tiên phong toàn cầu về công nghệ này là rất quan trọng.
Các dự án điện quang nông nghiệp thành công trên khắp thế giới đem alị một kho tàng
kiến thức và kinh nghiệm mà có thể được khai thác. Việc xem xét cẩn thận những
nghiên cứu điển hình này có thể mang lại những thông tin về các thực tiễn tốt nhất,
257
thiết kế hệ thống tối ưu, sự tương thích của cây trồng và cơ chế chính sách hiệu quả.
Kin nghiệm rút ra từ những bài học này có thể giúp Thành phố Hồ Chí Minh tạo ra
một phương pháp điện quang nông nghiệp phù hợp với ngữ cụ thể, từ đó tối đa hóa
lợi ích trong khi đối mặt với những thách thức địa phương.

Bằng việc tích hợp điện quang nông nghiệp vào chiến lược tăng trưởng xanh của mình,
Thành phố Hồ Chí Minh có tiềm năng để chứng minh một mô hình thành công về
phát triển đô thị bền vững, truyền cảm hứng cho các thành phố khác đang đối mặt với
các thách thức bền vững tương tự.

Khuyến nghị về các Chính sách và Triển vọng Tương lai: Con đường tới Tích
hợp Điện quang Nông nghiệp

Sự tích hợp thành công của điện quang nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh đòi
hỏi nhiều hơn chỉ sự hiện diện của điều kiện môi trường thuận lợi và khả năng công
nghệ; nó yêu cầu một môi trường chính sách tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới, khuyến
khích áp dụng và loại bỏ những rào cản tiềm tang. Một khung chính sách toàn diện,
có cơ cấu tốt có thể là trụ cột cho sự phát triển, triển khai và tăng trưởng của điện
quang nông nghiệp tại thành phố.

Các yếu tố quan trọng của khung chính sách này cần bao gồm các chính sách và
chương trình khuyến khích đổi mới công nghệ trong lĩnh vực điện quang nông nghiệp.
Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển có thể thúc đẩy sự tiến bộ trong các hệ thống điện
quang nông nghiệp, tối ưu hóa hiệu suất và tích hợp tốt với điều kiện địa phương. Hơn
nữa, việc cung cấp các kích thích tài chính như trợ cấp, hỗ trợ tài trợ và giảm thuế có
thể kích thích cả đầu tư từ phía tư nhân và áp dụng từ phía người nông dân. Những
kích thích này có thể giảm ngưỡng chi phí ban đầu và cải thiện khả năng kinh tế của
các dự án điện quang nông nghiệp.

Các rào cản về pháp lý có thể gây trở ngại cho việc triển khai hệ thống điện quang
nông nghiệp cần được xác định và giải quyết. Điều này có thể bao gồm việc sửa đổi
luật quy hoạch, quy định xây dựng hoặc quy trình cấp phép để phù hợp với các đặc
điểm độc đáo của các hệ thống điện quang nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng cần thiết cho
việc tích hợp năng lượng mặt trời được sản xuất vào lưới điện cũng cần được xem xét
trong kế hoạch và dự án phát triển đô thị.

Vai trò của khu vực tư nhân trong việc thúc đẩy điện quang nông nghiệp không thể bị
đánh giá quá mức. Chính sách nên được xây dựng để thu hút sự tham gia của tư nhân,
có thể thông qua các đối tác công tư (PPP). PPP có thể tận dụng nguồn lực, chuyên
môn và hiệu quả của khu vực tư nhân trong khi đảm bảo sự giám sát của công chúng
và sự phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh rộng lớn của thành phố.
258
Bên cạnh những biện pháp can thiệp chính sách này, việc nâng cao nhận thức của
công chúng về lợi ích của điện quang nông nghiệp rất quan trọng. Điều này đòi hỏi
thực hiện các chiến dịch giáo dục và tạo nhận thức có mục tiêu để loại bỏ bất kỳ sự
hiểu lầm nào, nhấn mạnh các lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường của năng lượng
mặt trời nông nghiệp, và chứng tỏ sự phù hợp của nó với các mục tiêu bền vững của
thành phố. Gắn kết cộng đồng và các bên liên quan trong các nỗ lực nhận thức này có
thể tạo ra sự sở hữu và xây dựng sự chấp nhận công cộng, điều quan trọng cho việc
triển khai và thành công quy mô rộng của năng lượng mặt trời nông nghiệp.

Khi Thành phố Hồ Chí Minh đứng trước ngã ba giữa sự đô thị hóa nhanh chóng,
những thách thức môi trường ngày càng gia tăng và hạn chế về nguồn lực, đã đến lúc
cần tạo ra những giải pháp mạnh mẽ, đổi mới như năng lượng mặt trời nông nghiệp.
Với các chính sách và chiến lược đúng đắn, điện quang nông nghiệp có thể trở thành
một nền tảng cho sự phát triển xanh của thành phố, mở đường cho một tương lai bền
vững, hiệu quả năng lượng và kiên cố. Việc chuyển đổi này không chỉ tăng cường sức
khỏe kinh tế và môi trường của thành phố, mà còn đặt một tiền lệ cho các thành phố
phát triển nhanh chóng khác đang đối mặt với những thách thức bền vững tương tự

Nghiên cứu trường hợp: Những câu chuyện về Điện quang nông nghiệp của
ENVELOPS CO., LTD.

Sự triển khai thành công của một công nghệ mới lạ như điện quang nông nghiệp
thường liên quan đến việc học hỏi từ những người tiên phong thành công trong lĩnh
vực này. Một công ty điển hình về triển khai thành công điện quang nông nghiệp là
ENVELOPS, một start-up Hàn Quốc chuyên về các giải pháp điện quang nông nghiệp.
Hai dự án của họ - một dự án quy mô lớn tại Fiji và một dự án thử nghiệm tại Việt
Nam - cung cấp những bài học với những thông tin quý giá cho sự phát triển tiềm
năng của điện quang nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Dự án đáng chú ý đầu tiên là 4MWp Agrophotovoltaic tại Ovalau, Fiji, đã nhận được
sự phê duyệt từ Chương trình Quỹ Khí hậu Xanh vào năm 2020. Đối với dự án này,
ENVELOPS đã lắp đặt các tấm pin năng lượng mặt trời trên đất nông nghiệp hiện có,
cho phép sản xuất điện mặt trời đồng thời và tiếp tục hoạt động nông nghiệp. Thiết kế
của công ty đảm bảo các tấm pin mặt trời đủ cao để trồng trọt dưới đó, đồng thời cho
phép ánh sáng mặt trời tỏa nhiệt đủ đến các cây trồng.

259
<Hình 2> Fiji 4MWp Dự án Điện quang nông ngiệp tại Ovalau
Nguồn: ENVELOPS CO., LTD.
Hệ thống sử dụng kép này đã mang lại nhiều lợi ích. Trước hết, nó tạo ra một nguồn
thu mới cho những người nông dân, họ có thể kiếm tiền từ cả việc sản xuất điện mặt
trời và các phương pháp nông nghiệp truyền thống của họ. Nguồn thu nhập bổ sung
này rất quan trọng trong bối cảnh giá cả cây trồng biến đổi và sự bất ổn về kinh tế.
Thứ hai, dự án có thể tăng năng suất nông nghiệp. Các tấm pin mặt trời tạo ra một
microclimat cung cấp bóng mát, giảm quá trình bốc hơi và truyền hơi nước, từ đó tăng
năng suất cây trồng cho một số loại cây. Cuối cùng, bằng cách tạo ra năng lượng tái
tạo, dự án đóng góp vào việc giảm khí nhà kính và thúc đẩy việc sử dụng đất bền
vững

Trường hợp thứ hai là Dự án thử nghiệm Điện quang Nông nghiệp 32kW tại Đại học
Đà Lạt tại Việt Nam, được chạy thử vào ngày 13 tháng 7 năm 2023. Dự án này, mặc
dù nhỏ hơn về quy mô, nhưng là một bằng chứng quan trọng cho tính khả thi của điện
quang nông nghiệp tại Việt Nam. Nó sẽ chứng minh rằng điện quang nông nghiệp có
thể triển khai thành công trong các điều kiện địa lý và khí hậu khác nhau, cung cấp
thông tin địa phương quý báu mà có thể hướng dẫn việc triển khai các dự án tương tự
tại những nơi như Thành phố Hồ Chí Minh.

260
<Hình 3> Dự án thử nghiệm Q 32kW tại Đại học Đà Lạt, Việt Nam
Nguồn: ENVELOPS CO., LTD.
Những điểm chính bao gồm:

● Phương pháp hợp tác: Sự hợp tác giữa những người nông dân, nhà cung cấp giải
pháp điện quang nông nghiệp và các cơ quan chính phủ là vô cùng quan trọng. Nó
giúp đảm bảo rằng các lợi ích được chia sẻ bởi tất cả các bên liên quan, tăng khả năng
thành công của dự án.

● Thiết kế đổi mới: Những dự án này nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố thiết
kế như chiều cao và sắp xếp của tấm pin mặt trời, cần được tối ưu hóa cho điều kiện
địa phương để tối đa hóa cả việc trồng trọt và sản xuất năng lượng.

● Động lực tài chính: Thu nhập bổ sung từ việc sản xuất điện mặt trời cung cấp động
lực quan trọng để người nông dân áp dụng hệ thống điện quang nông nghiệp, nhấn
mạnh vai trò của động lực tài chính trong việc thúc đẩy hệ thống này.

● Khả năng mở rộng: Sự thành công của dự án thử nghiệm tại Đại học Đà Lạt cho
thấy giải pháp điện quang nông nghiệp có khả năng mở rộng và thích nghi với các bối
cảnh khác nhau tại Việt Nam.

261
Kết luận

Thành phố Hồ Chí Minh đứng trước một thời điểm quan trọng trong quá trình phát
triển. Khi thành phố ngày càng đô thị hóa nhanh chóng, nó đối mặt ngày càng nhiều
với các thách thức về môi trường và nguồn tài nguyên đi kèm với sự tăng trưởng như
vậy. Để ứng phó với những thách thức này, thành phố phải triển khai các chiến lược
phát triển bền vững thúc đẩy sự phát triển xanh. Điện quang nông nghiệp, sự kết hợp
sáng suốt giữa nông nghiệp và năng lượng mặt trời, nổi lên như một giải pháp thuyết
phục với tiềm năng xác định lại tương lai của thành phố.

Các điều kiện địa lý và khí hậu của Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với truyền thống
nông nghiệp của nó, tạo điều kiện lý tưởng cho việc triển khai điện quang nông nghiệp.
Khí hậu nhiệt đới và mức chiếu sáng mặt trời lớn của thành phố tạo điều kiện thuận
lợi cho cả nông nghiệp và sản xuất năng lượng mặt trời hiệu quả.

Việc tích hợp điện quang nông nghiệp vào chiến lược phát triển xanh của Thành phố
Hồ Chí Minh có thể mang lại nhiều lợi ích. Bằng cách tạo ra năng lượng tái tạo, nó
giúp giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và giúp giảm lượng khí nhà kính.
Khả năng tiết kiệm nước và tiềm năng tăng năng suất cây trồng ứng phó với vấn đề
an ninh thực phẩm. Hơn nữa, nó có thể kích thích sự phát triển nông thôn, tăng thu
nhập cho người nông dân và giảm bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn, tạo ra một
cách tiếp cận toàn diện đối với sự phát triển bền vững.

Việc hỗ trợ chính sách rất quan trọng cho sự thành công của điện quang nông nghiệp.
Một khung chính sách hỗ trợ khuyến khích sự đổi mới công nghệ, cung cấp động lực
tài chính, giải quyết rào cản pháp lý và thúc đẩy các đối tác công tư có thể đẩy mạnh
sự thụ đồng và khả năng mở rộng của điện quang nông nghiệp. Quan trọng không
kém là việc giáo dục công chúng và nâng cao nhận thức về lợi ích của điện quang
nông nghiệp, điều này có thể tạo dựng sự chấp nhận của công chúng và tạo cảm giác
sở hữu trong cộng đồng địa phương.

Những nghiên cứu tại ENVELOPS CO., LTD., một doanh nghiệp khởi nghiệp Hàn
Quốc, tiếp tục minh họa tiềm năng và khả năng thực hiện điện quang nông nghiệp.
Các dự án của công ty tại Fiji và Việt Nam có thể chứng minh những lợi ích đa dạng
của điện quang nông nghiệp, bao gồm thu nhập bổ sung cho người nông dân, tăng
năng suất cây trồng, giảm khí nhà kính và sử dụng đất hiệu quả. Những dự án này
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác, thiết kế đổi mới, khích lệ tài chính và khả
năng mở rộng trong việc thực hiện điện quang nông nghiệp thành công.

Khi Thành phố Hồ Chí Minh xác định con đường phát triển bền vững, điện quang
nông nghiệp đề xuất một giải pháp đổi mới và hứa hẹn. Với những chiến lược và chính
sách phù hợp, thành phố có thể tận dụng sức mạnh của điện quang nông nghiệp để

262
thúc đẩy sự phát triển xanh, nâng cao hiệu suất năng lượng và cải thiện khả năng
chống chịu. Điều này không chỉ góp phần đạt được mục tiêu bền vững của thành phố
mà còn tạo ra một ví dụ quý báu cho các trung tâm đô thị khác đang đối mặt với các
thách thức tương tự. Hành trình hướng tới sự phát triển xanh là một thách thức nhưng
cũng đầy đáng giá, và với điện quang nông nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh đã sẵn
sàng đi đầu.

VỀ CÁC TÁC GIẢ

Sung Yoon: Giám đốc điều hành, Envelops Co., Ltd., Seongdong-gu, Seoul, Đại hàn
Dân quốc Author’s Email: syoon@en-velops.com

263
Xu hướng tăng trưởng đô thị dựa trên Khu phức hợp
thân thiện với môi trường - Samsung
Cùng với sự tăng dân số và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của TP.HCM là vấn đề
ô nhiễm môi trường. Sự phát triển của đô thị và công nghiệp đã và đang gây ô nhiễm
nước, không khí và đất, và chất thải thì không ngừng gia tăng. Do đó, Samsung
Engineering, đơn vị đã cùng đồng hành trải qua quá trình phát triển mạnh mẽ và nhanh
chóng của Hàn Quốc trong giai đoạn trước đây, đề xuất một mô hình thân thiện với
môi trườnng của Samsung Engineering với mục đích hướng tới kinh tế tuần hoàn,
thân thiện với môi trường, tập trung vào xửg trong tương lai cho TP.HCM. Cụ thể mô
hình Khu phức hợp thân thiện với môi trườ lý nước và rác thải giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, gia tăng giá trị cuộc sống của người dân đô thị, cụ thể như sau:
Xử lý nước: Công nghệ giải quyết tình trạng khan hiếm nước sạch
Cùng với hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn hán và xây dựng các đập ở thượng
nguồn đã khiến tình trạng thiếu nước, đặc biệt là nước sạch ở miền Nam Việt Nam
trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh, ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Do đó, cần phải tích cực xem xét các cách giải quyết vấn đề thiếu nước sạch như xử
lý nước thải để tái sử dụng cho các nhu cầu cần thiết như phục vụ công nghiệp, nông
nghiệp, rửa đường…
Samsung Engineering đã phát triển thành công công nghệ tái sử dụng nước bằng
phương pháp thẩm thấu ngược, và đang thực hiện xử lý nước thải cho Thành phố
Asan, Hàn Quốc, qua đó nước thải được tái sử dụng và cung cấp cho nhà máy
Samsung Display, thành viên của Tập đoàn Samsung để sử dụng trong sản xuất công
nghiệp cho các nhà máy.
Xử lý nước thải: Công nghệ tiết kiệm năng lượng trong xử lý nước thải
Lượng điện năng tiêu thụ cho xử lý nước thải chiếm từ 1-3% tổng lượng điện tiêu thụ
của cả nước. Do đó, cần phải đạt được net-zero cho các cơ sở xử lý nước thải bằng
cách sử dụng các quy trình xử lý nước thải tiết kiệm năng lượng. Công nghệ bùn hạt
hiếu khí không chỉ có diện tích nhỏ hơn so với công nghệ xử lý nước bằng phương
pháp sinh học truyền thống mà còn có thể giảm 30% lượng năng lượng tiêu thụ trong
quá trình vận hành.
Ngoài ra Samsung Engineering cũng đang phát triển công nghệ Mainstream
Anammox mang tính đột phá trong việc giảm năng lượng trong xử lý nước. Thông
qua đó, hiện thực hóa việc xử lý nước thải zero energy không cần sự trợ giúp của các
nguồn năng lượng tái tạo khác.
Xử lý nước thải: Công nghệ tận thu tài nguyên từ chất thải
Chất thải hữu cơ như phân gia súc, bùn thải, rác thải thực phẩm và phụ phẩm nông
nghiệp là nguồn tài nguyên quý giá và có thể thu hồi năng lượng.
Do đó, nguồn carbon gây ô nhiễm trong nước thải phải được thu hồi thành các dạng
năng lượng thay vì xử lý đơn thuần.

264
Xử lý nước thải chắc chắn tạo ra bùn, tuy nhiên bằng cách áp dụng công nghệ nhiệt
phân và carbon hóa thủy nhiệt, trước hết sẽ giảm chi phí và ô nhiễm so với việc xử lý
bằng phương pháp chôn lấp truyền thống như hiện nay. Và sau đó, bằng việc sản xuất
và bán khí sinh học từ bùn, năng lượng được sử dụng cho các nhà máy xử lý có thể
thu hồi từ 25% tới 50%.
Ngoài ra, Samsung Engineering còn cung cấp giải pháp toàn diện giúp thu hồi cả năng
lượng và tài nguyên bằng cách áp dụng công nghệ để chuyển đổi bùn thành nhiên liệu
rắn và nguyên liệu phân bón.
Công nghệ thu hồi: công nghệ thu hồi tài nguyên từ chất thải
Chúng tôi tin rằng Thành phố Hồ Chí Minh có thể khởi xướng thay đổi mô hình từ
khái niệm chi phí sang khái niệm đầu tư bằng cách sử dụng công nghệ thu hồi tài
nguyên hiệu quả từ chất thải và tài nguyên rác.
Nếu rác thải thực phẩm và chất thải hữu cơ được công nhận như một nguồn tài nguyên
và áp dụng công nghệ carbon hóa thủy nhiệt thì nó có thể được chuyển hóa thành
nhiên liệu rắn như bùn thải.
Xử lý chất thải, chuyển đổi thành năng lượng: Công nghệ tiết kiệm năng
lượng và an toàn trong xử lý chất thải
Đốt rác phát điện sẽ thân thiện với môi trường hơn so với công nghệ chôn lấp truyền
thống. Hiệu suất là yếu tố quan trọng nhất trong việc chuyển hóa chất thải thành năng
lượng và nếu sử dụng công nghệ ORC có thể giảm thiểu mức tiêu thụ năng lượng
ngoài ra nhiệt dư từ các nhà máy đốt rác có thể được chuyển hóa thành năng lượng.
Ở Việt Nam, ngoài phương pháp xử lý rác bằng cách chôn lấp truyền thống, một phần
chất thải rắn đã và đang được xử lý bằng cách đốt rác phát điện, nhưng việc này vẫn
có thể dẫn đến một vấn khác liên quan đến môi trường, gây ô nhiễm không khí như
mùi hôi và khí độc hại.
Vì vậy, cần phải hết sức quan tâm và hạn chế tối đa tác động của mùi hôi, khí độc hại
từ các nhà máy đốt rác phát điện. Việc áp dụng giải pháp công nghệ tiên tiến, thân
thiện với môi trường để kiểm soát tối đa mùi hôi, khí độc hại từ các nhà máy đốt rác
phải được ưu tiên hàng đầu trong việc triển khai các hoạt động đốt rác phát điện, đặc
biệt tại đô thị lớn như Tp.HCM. Tại Samsung Engineering, chúng tôi đã phát triển và
áp dụng thành công các giải pháp công nghệ thân thiện với môi trường để kiểm soát
mùi hôi, khí độc hại do các hoạt động đốt rác phát điện này.

265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
Hitachi đồng hành với Việt Nam và Đông Nam Á trong
Hành trình Xanh
Đối với Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á, biến đổi khí hậu của trái đất có ý nghĩa rất
lớn. Việc tăng tốc độ chuyển đổi sang năng lượng sạch có thể thúc đẩy quỹ đạo tăng trưởng
kinh tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Để có thể thực hiện được việc
này, các quốc gia cần tăng gấp ba khoản đầu tư vào năng lượng tái tạo (lên hơn 7 tỷ đô la
Mỹ) để đáp ứng các mục tiêu về biến đổi khí hậu vào năm 2050. Theo “Kế hoạch Hành động
của ASEAN về Hợp tác Năng lượng Giai đoạn II”, ASEAN cam kết đạt được 23% tỷ trọng
năng lượng tái tạo trong tổng nguồn cung cấp năng lượng sơ cấp vào năm 2025.
Trên đường trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới, ASEAN đóng vai trò thiết yếu trong
cuộc đua toàn cầu nhằm khử cacbon và chống biến đổi khí hậu.
Tốc độ biến đổi khí hậu theo cấp số nhân ngày nay có thể chịu được thử thách của thời gian
và cho phép chúng ta mang đến một thế giới an toàn hơn cho các thế hệ tương lai không?

Theo đuổi Net Zero – ASEAN đang làm gì?

Trong số 10 quốc gia Thủ tướng Việt Nam phê Ngành năng lượng của
ASEAN, 8 quốc gia đã duyệt Quy hoạch điện Singapore tạo ra khoảng
cam kết trở thành nước VIII đặt mục tiêu phát 40% lượng khí thải của đất
đạt mức trung hòa carbon triển mạnh các nguồn nước đặt mục tiêu đạt mức
vào năm 2050, tương ứng năng lượng tái tạo phục tiêu thụ năng lượng ròng
với các mục tiêu 1,5°C do vụ sản xuất điện. Định bằng 0 vào năm
Ủy ban liên chính phủ về hướng đến năm 2050, tỷ 2050 bằng cách nhập thêm
biến đổi khí hậu đặt ra. lệ năng lượng tái tạo lên năng lượng sạch thông
đến 67,5-71,5%; Kiểm qua lưới điện khu vực,
soát mức phát thải khí nhà triển khai công nghệ sử
kính từ sản xuất điện đạt dụng nhiên liệu đốt sạch
khoảng 204-254 triệu tấn và mở rộng phân phối tấm
năm 2030 và còn khoảng pin mặt trời.
27-31 triệu tấn vào năm
2050.

288
Đi ngược lại mọi khó khăn: Một thoáng hy vọng về sự phục hồi xanh ở ASEAN.
Mặc dù một số người có thể tin rằng tăng trưởng kinh tế dẫn đến nhiều thiệt hại hơn đối với
môi trường, nhưng các quốc gia vẫn cần phải cùng tạo ra các giải pháp đổi mới và bền vững.
Khi làm như vậy, nó có thể tạo ra nhiều cơ hội kinh tế hơn và tiến bộ chung cho mọi người.
Ví dụ, ở ASEAN, khu vực này cam kết giảm các mức phát thải khí nhà kính (GHG) khác
nhau vào năm 2030. Tuy nhiên, liệu các yếu tố như thiếu chính sách phù hợp hoặc đầu tư
ban đầu cao hơn có cản trở con đường phục hồi xanh của khu vực? Các công ty có thể cung
cấp những gì để đóng vai trò của họ trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu?

Hitachi nỗ lực mang lại màu xanh cho khu vực ASEAN:
Sứ mệnh của công ty chúng tôi kể từ khi thành lập là “đóng góp cho xã hội thông qua việc
phát triển các sản phẩm và công nghệ nguyên bản, vượt trội”. Triết lý này đã hướng dẫn
chúng tôi sử dụng sự đổi mới để giải quyết vấn đề cấp bách của thời đại chúng ta. Thông
qua hoạt động Kinh doanh Đổi mới Xã hội, Hitachi hy vọng sẽ sử dụng dữ liệu và công nghệ
để hỗ trợ nắng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người và tạo ra một xã hội bền vững.

Hitachi, nhà cung cấp giải pháp hiểu tầm quan trọng của hành động tập thể trong nhiều lĩnh
vực khác nhau để tiến tới một tương lai không có mạng và vượt qua thách thức phục hồi
xanh.

Hitachi tại Singapore: Là một trong những nỗ lực của Hitachi nhằm đóng góp cho một xã
hội không carbon, Hitachi được Bộ Xây dựng Singapore ủy quyền phát triển một bộ công
cụ dễ sử dụng để đánh giá tòa nhà xanh nằm trong Tòa nhà có năng lượng siêu thấp Smart
Hub (SLEB). Bên cạnh việc là kho lưu trữ dữ liệu toàn diện, SLEB Smart Hub còn tận dụng
phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để dự đoán chi phí liên quan và tiết kiệm năng lượng
dựa trên tập dữ liệu hiện tại của tòa nhà và nhu cầu của người dùng. Hơn nữa, các công cụ
giúp đơn giản hóa quy trình và hỗ trợ các bên liên quan áp dụng thực hiện tài chính xanh ở
Singapore.

289
Cung cấp lãi suất Ủng hộ đầu tư vào Thúc đẩy phát
thấp cho các tòa nhà công trình xanh triển bền vững,
và ngôi nhà xanh thông qua hệ thống bao gồm giảm
hơn hóa các tiêu chuẩn thiểu tác động
công trình xanh bất lợi của biến
đổi khí hậu

Hitachi tại Thái Lan: Tiếp tục công việc của mình tại Thái Lan, Hitachi đã tạo ra tác động
thông qua việc phát triển The Bangkok Red Line. Tai tiếng với tình trạng ô nhiễm không khí
khiến gần 6.000 người thiệt mạng và phát sinh chi phí hơn 2,3 tỷ USD chỉ riêng trong năm
2020, việc đưa vào sử dụng The Bangkok Red Line sẽ giảm bớt tắc nghẽn giao thông tại
Bangkok bằng một hệ thống giao thông tiên tiến. Dự án này mang đến một phương thức vận
tải không chỉ bền vững hơn mà còn thân thiện với môi trường. Một lần nữa, Hitachi lại khẳng
định vị thế của mình, là nhà cung cấp giải pháp, góp phần đưa quốc gia tiến gần hơn tới mục
tiêu Thái Lan 4.0 thông qua các giải pháp sáng tạo.

Hitachi in Vietnam : Giống như các nước mới nổi khác, Việt Nam bắt đầu với các ngành
sử dụng nhiều lao động để tạo việc làm cho người dân. Bằng cách nắm bắt công nghệ, Việt
Nam đang mong muốn hiện thực hóa tiềm năng của mình để trở thành một trong những quốc
gia thú vị nhất ở Đông Nam Á. Chúng tôi xem xét hai thách thức đổi mới xã hội của Việt
Nam và khám phá cách Hitachi có thể hợp tác với chính phủ để cùng nhau tạo ra một tương
lai tốt đẹp hơn

 Hitachi được giao nhiệm vụ cung cấp hệ thống tàu điện ngầm đầu tiên cho Thành phố
Hồ Chí Minh. Được đặt tên là Tuyến 1, tuyến tàu điện ngầm này sẽ kết nối trung tâm
Thành phố Hồ Chí Minh với cửa ngõ Đông Bắc và dự kiến vận hành chính thức vào
đầu năm 2024. Là tuyến đầu tiên trong số nhiều tuyến tàu điện ngầm khác, Tuyến 1
sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm bớt ùn tắc ở Hồ Chí Minh Thành phố và
do đó giúp giảm lượng khí thải carbon trong thành phố.

 Hitachi cũng đã hợp tác với Bưu điện Việt Nam để số hóa thủ tục chi trả trợ cấp an
sinh xã hội. Việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu có thể tiếp cận dễ dàng không chỉ
mang lại sự tiện lợi đáng kể cho lối sống của người dân mà còn đóng vai trò định
hướng tổ chức hướng tới việc giảm lượng khí thải carbon bằng cách giảm thiểu việc
sử dụng giấy tờ và thời gian đi lại.

290
Động lực phục hồi xanh ở ASEAN:
Việc hỗ trợ tiếp cận phục hồi xanh được thể hiện rõ trong các chiến lược khu vực ASEAN.
Trong đó, chiến lược nhấn mạnh vào tính bền vững về kinh tế và môi trường như là nhân tố
chính trong khu vực. Một số động lực mạnh mẽ thúc đẩy phục hồi xanh trong khu vực
ASEAN bao gồm:

 Tiềm năng tạo ra 172 tỷ


USD cơ hội đầu tư hàng
năm, tạo ra hơn 30 triệu
việc làm vào năm 2030.
 Các chính sách của
chính phủ hướng tới
phát triển bền vững khi
ASEAN cam kết giảm
phát thải vào năm 2030.

Gợi ý và khuyến nghị của Hitachi:

Bằng việc nhấn mạnh vào việc tạo ra một hệ sinh thái chuyển đổi xanh trong ASEAN,
Hitachi ủng hộ mạnh mẽ rằng mỗi thực thể trong hệ sinh thái phải tạo ra mối quan hệ đang
phát triển và thích ứng với nhau nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả sử dụng năng lượng, tối
ưu hóa việc sử dụng nước và cải thiện quản lý chất thải.

Ở Đông Nam Á, một thành phố xanh và bền vững có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cho
các nhà đầu tư nước ngoài nhờ các cơ hội phát triển tuyệt đối của họ. Do đó, phục hồi xanh
là rất quan trọng đối với Đông Nam Á để chống biến đổi khí hậu và đáp ứng một số Mục
tiêu Phát triển Bền vững. Bây giờ là lúc để hành động, trách nhiệm chung của chúng ta là
bảo vệ Thế giới. Hãy làm tốt vai trò của chúng ta và làm chủ tương lai nhờ các công nghệ
xanh ngày nay.

291
Kinh tế tuần hoàn: Chính sách cho sản xuất và tiêu
dùng bền vững
TS. Trần Thị Hồng Minh
Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Kính thưa …,
Thưa các quý vị đại biểu,

Trước hết, tôi trân trọng cảm ơn Ban Tổ chức đã có lời mời tôi tham dự và phát biểu tại
Diễn đàn ngày hôm nay. Trong thời gian vừa qua, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương đã có nhiều nghiên cứu, thảo luận chính sách trong thời gian vừa qua về những ý
tưởng phát triển các mô hình kinh tế mới, gắn với cải thiện mức độ độc lập, tự chủ và sức
chống chịu của nền kinh tế. Trong đó, phát triển kinh tế tuần hoàn là một nội dung quan
trọng. Ngay từ năm 2020, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã chủ động đề
xuất thực hiện những nghiên cứu cơ bản, và tham vấn các chuyên gia, nhà đầu tư về kinh tế
tuần hoàn. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất với Chính phủ về
việc xây dựng Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam từ đầu năm 2021. Trên cơ sở
tham mưu của chúng tôi, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07 tháng 6 năm 2022 phê duyệt Đề án Phát
triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Hiện tại, chúng tôi đang chủ trì xây dựng Nghị định về
cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn, và đang lấy ý kiến các bộ, ngành, địa
phương về dự thảo hồ sơ Nghị định. Trong đó, sự quan tâm và chuẩn bị triển khai của
thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước - sẽ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Tại Diễn đàn ngày hôm nay, tôi xin chia sẻ một số nội dung như sau:
1. Một số cơ hội từ phát triển kinh tế tuần hoàn
Thứ nhất, phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ tạo cơ hội và động lực quan trọng nhằm cơ cấu lại
nền kinh tế, cải thiện năng suất lao động, đồng thời thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền
vững. Trong tư duy của chúng tôi khi tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ, bên cạnh việc
đóng góp vào các mục tiêu về giảm phát thải và bảo vệ môi trường, các mô hình kinh tế
tuần hoàn phải đóng góp trực tiếp vào thúc đẩy ứng dụng đổi mới sáng tạo, khoa học-công
nghệ. Các mô hình kinh tế tuần hoàn cũng phải tạo được động lực cho người lao động
thông qua cơ chế chia sẻ lợi ích phù hợp; theo đó, cải thiện năng suất lao động cũng là một
yếu tố quan trọng.
Thứ hai, phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ tạo điều kiện để khai thác hiệu quả hơn các hiệp
định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Cơ hội này
càng có ý nghĩa khi thành phố Hồ Chí Minh đang giữ vai trò quan trọng là trung tâm của
vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đồng thời là một đầu tàu xuất
khẩu của cả nước. Một nội dung quan trọng là liên kết vùng trong tổ chức sản xuất, xúc
tiến thương mại để phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương trong vùng. Tổ
chức được các mô hình sản xuất theo hướng tuần hoàn ở cấp vùng sẽ bảo đảm nguồn lực
“quay vòng” và “khép kín” hơn ở từng vùng, qua đó giúp bảo đảm nguồn đầu vào hiệu quả
cho quá trình sản xuất. Mặt khác, tổ chức sản xuất theo hướng tuần hoàn ở Việt Nam sẽ
giúp đáp ứng hiệu quả hơn quy tắc xuất xứ, và cam kết về thương mại và phát triển bền
vững trong các hiệp định thương mại tự do. Cần lưu ý, trong năm 2022, mức độ tận dụng
ưu đãi trong hiệp định CPTPP mới chỉ đạt 4,9% và trong EVFTA chỉ đạt 25,9%, tức là dư
địa để cải thiện còn rất nhiều.
292
Thứ ba, sớm có chủ trương và lộ trình phát triển kinh tế tuần hoàn cũng sẽ tạo điều kiện
cho Việt Nam tiếp cận nhanh và hiệu quả hơn đối với các nguồn tài chính xanh và nguồn
vốn hỗ trợ phát triển từ các đối tác. Ngay cả trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới như CPTPP và EVFTA đều có các Chương riêng về Hợp tác và nâng cao năng lực,
trong đó có cam kết của các đối tác ở trình độ phát triển hơn về việc cung cấp hỗ trợ kỹ
thuật cho Việt Nam, có thể bao gồm các lĩnh vực gắn với phát triển bền vững như mô hình
kinh tế tuần hoàn. Điều quan trọng lại là từ phía Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng: nếu có tư duy và bước đi phù hợp, thì các đối tác phát triển có thể cân nhắc
các hướng hỗ trợ kịp thời và hiệu quả hơn.
2. Một số thách thức đối với phát triển kinh tế tuần hoàn
Thứ nhất, những nhận thức đúng về kinh tế tuần hoàn cần được thực hiện từ khâu thiết kế
tới khâu triển khai đối với từng ngành, từng lĩnh vực, đối với từng doanh nghiệp và người
dân, và cần được sự đồng thuận, thống nhất từ lãnh đạo, các cấp quản lý vẫn là một thách
thức. Đặc biệt, kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải có sự phân loại, làm sạch chất thải trước khi
đưa vào tái sử dụng, tái chế, đây cũng là thách thức lớn đối với thực tiễn vận hành của kinh
tế Việt Nam và ý thức phân loại chất thải tại nguồn của người dân ở các đô thị lớn như
thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, công tác truyền thông giúp nâng cao hiểu biết về
kinh tế tuần hoàn còn hạn chế. Khi chúng tôi tổ chức tham vấn, cộng đồng doanh nghiệp,
nhà đầu tư thường chia sẻ lo ngại lớn nhất của họ là sản phẩm của mô hình kinh tế tuần
hoàn không được người tiêu dùng đón nhận chỉ vì người tiêu dùng thích các sản phẩm
truyền thống với giá cạnh tranh hơn.
Thứ hai, cách thức tiến hành, chuyển đổi từ “nền kinh tế nâu” và “kinh tế tuyến tính” sang
xây dựng mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn còn thiếu định hướng đủ cụ thể, kịp thời,
thiếu hệ thống tiêu chí đủ chi tiết và cơ chế ưu đãi phù hợp. Chẳng hạn, kinh tế tuần hoàn
gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, xây dựng xã hội carbon thấp, đầu tư khôi phục hệ sinh
thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường gắn chặt chẽ với yêu cầu đổi mới công
nghệ, v.v. Tuy nhiên, thực tế công nghệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay so với thế giới phần
lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn. Việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với
nền kinh tế tuần hoàn là thách thức không nhỏ nếu không có trợ giúp kịp thời, phù hợp về
vốn và công nghệ của các nước có công nghệ cao trên thế giới. Trong khi đó, nhiều đối tác
(như Liên minh châu Âu) đã và đang ban hành những tiêu chuẩn mới, dù cần thiết nhưng
không dễ đáp ứng liên quan đến phát triển bền vững. Theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng sẽ gặp thách thức không nhỏ trong việc
khai thác cơ hội từ thị trường EU và tích lũy để sớm chuyển đổi xanh, ứng dụng kinh tế
tuần hoàn.
3. Về tư duy chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn
Theo tham mưu của chúng tôi, việc thực hiện phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam phải
hướng tới tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động, góp phần thúc
đẩy tăng trưởng xanh gắn với quá trình phục hồi nền kinh tế (hay còn gọi là “phục hồi
xanh”). Quyết định số 687/QĐ-TTg mới chỉ là một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm xác
định lộ trình, yêu cầu và định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Tại Quyết
định này, Thủ tướng Chính phủ đã giao các nhiệm vụ giải pháp cụ thể, có tính “dài hơi” mà
các bộ, ngành cần phải thực hiện đồng bộ. Tuy nhiên, để tạo dựng “sức sống” cho các
chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn thì cách tiếp cận tuần tự, truyền thống là không đủ.
Bên cạnh đó, bối cảnh phục hồi kinh tế cần có thêm động lực từ chính nỗ lực thúc đẩy
“phục hồi xanh”. Mặc dù nhấn mạnh yêu cầu phát huy trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp cũng cần sớm có những “điển hình tốt” về xây dựng và
thực thi chính sách đến kinh tế tuần hoàn, để thay đổi nhận thức, tin theo, làm theo.
Doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ khó có thể chờ tới 5 năm, 10 năm để các bộ, ngành hoàn thiện

293
các chính sách trên nhiều lĩnh vực.
Theo đó, chúng tôi nhìn nhận một nhiệm vụ quan trọng để sớm cụ thể hóa các định hướng,
yêu cầu trên đây là xây dựng Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn.
Nghị định này sẽ góp phần cụ thể hóa các tiêu chuẩn, điều kiện phù hợp nhằm phát triển
kinh tế tuần hoàn, đồng thời tạo không gian pháp lý đủ an toàn, thuận lợi để nhà đầu tư
sớm hiện thực hóa các ý tưởng, dự án về kinh tế tuần hoàn. Hồ sơ dự thảo Nghị định đã
được gửi lấy ý kiến các bộ, ngành địa phương. Trong đó, 6 nhóm chính sách trong cơ chế
thử nghiệm bao gồm các chính sách về khu kinh tế, khu công nghiệp; phân loại xanh; tư
vấn công nghệ, chuyển giao công nghệ; tín dụng xanh, trái phiếu xanh; hỗ trợ phát triển
nguồn nhân lực; và chính sách đất đai. Nội dung các chính sách được đề xuất cũng có sự
liên kết: chẳng hạn, các dự án kinh tế tuần hoàn phù hợp theo chính sách phân loại xanh có
thể được hỗ trợ chính sách về tín dụng xanh.
Dự thảo Nghị định đề xuất tập trung thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn ở các ngành,
lĩnh vực như nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp; năng lượng; vật liệu xây dựng.
Các ngành này tạo không gian đủ rộng cho doanh nghiệp, nhà đầu tư đề xuất phát triển các
dự án kinh tế tuần hoàn có gắn với liên kết đầu vào-đầu ra giữa các ngành, ứng dụng đổi
mới sáng tạo và khoa học-công nghệ, tăng lợi nhuận, giá trị gia tăng và năng suất. Các
ngành này cũng cần động lực lớn từ mô hình kinh tế tuần hoàn để nhanh chóng thực hiện
cơ cấu lại và phục hồi tăng trưởng một cách hiệu quả trong thời gian tới. Điểm quan trọng
là tư duy về ngành, lĩnh vực cần tránh cứng nhắc, bởi các dự án kinh tế tuần hoàn trong
một ngành có thể có hoạt động thuộc ngành khác (chẳng hạn, dự án kinh tế tuần hoàn trong
công nghiệp chắc chắn cần có những hoạt động dịch vụ).
Dù đã trải qua những khó khăn, thách thức chưa từng có tiền lệ trong giai đoạn dịch
COVID-19, thành phố Hồ Chí Minh đang vươn mình và phục hồi mạnh mẽ. Tư duy đầy đủ
và tích cực hơn về triển khai cơ chế thí điểm theo Nghị quyết số 98/2023/QH15 của Quốc
hội sẽ giúp Thành phố “làm mới” vai trò động lực kinh tế đối với vùng và đối với cả nước.
Tôi tin tưởng rằng, nếu có thêm cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn, quá trình
phục hồi và cơ cấu lại kinh tế của Thành phố sẽ nhanh, hiệu quả và toàn diện hơn. Khi ấy,
thực tiễn triển khai của Thành phố chính là một cơ sở quan trọng để chúng tôi có những
kiến nghị sâu sắc, quan trọng hơn phục vụ quá trình chuyển đổi xanh của đất nước.
Trên đây là nội dung tham luận của tôi. Nhân dịp này, tôi xin chúc Hội nghị thành công tốt
đẹp. Chúc các quý vị thật nhiều sức khỏe, may mắn và thành công.

Xin trân trọng cảm ơn!

294
VAI TRÒ CỦA KHỐI TƯ NHÂN TRONG VIỆC
THÚC ĐẨY MÔ HÌNH KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TS. Lê Thái Hà
Quỹ VinFuture & Quỹ Vì Tương Lai Xanh
1. Bối cảnh
Mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu hướng quan trọng trên toàn cầu, đặc
biệt trong bối cảnh các vấn đề biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên ngày càng trở nên
thách thức. Với quá trình phát triển kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ và tình trạng đô thị hóa
nhanh chóng, TP. Hồ Chí Minh (HCM) cũng đặc biệt quan tâm đến xu hướng này. Tuy
nhiên, việc chuyển đổi sang một mô hình KTTH không đơn giản, và TP. HCM đối mặt với
nhiều thách thức đáng kể trong quá trình này.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất là quản lý rác thải. Việt Nam chưa thực
hiện việc phân loại rác thải tại nguồn một cách hiệu quả, và TP. HCM – địa phương có khối
lượng rác thải lớn nhất cả nước – đang gặp khó khăn trong việc thực hiện các biện pháp
hiệu quả để giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ chất thải. Dù đã ban hành Quyết định số
44/2018/QÐ-UBND về việc quy định phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, nhưng
việc thực hiện vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Ngay cả khi người dân tại một số địa bàn có ý
thức phân loại tại nguồn, rác thải lại trở thành “mớ hỗn độn” sau khi thu gom. Lượng rác
thải gia tăng, trong khi hoạt động tái chế và công nghệ xử lý còn hạn chế, dẫn đến phần lớn
rác thải vẫn phải chôn lấp.
Ngoài ra, việc phát triển năng lượng tái tạo cũng đối mặt với nhiều hạn chế, dù Việt
Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo. Hệ thống lưới điện truyền tải chưa phát triển
đồng bộ với tốc độ phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Thiếu nguồn dự phòng và hệ thống
tích trữ năng lượng làm hạn chế quá trình tích hợp năng lượng tái tạo ở quy mô lớn. Chính
sách phát triển năng lượng tái tạo thường không được áp dụng trong thời gian dài và chưa
có cơ chế thu hút đầu tư trong lĩnh vực này thông qua cơ chế đấu thầu. Đặc biệt, việc
nghiên cứu và phát triển các dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn chưa được thực
hiện một cách toàn diện.
Sự hiểu biết về KTTH của người dân và cơ quan chức năng cũng còn hạn chế. Công
tác tuyên truyền về KTTH cũng chưa được thực hiện một cách hiệu quả, dẫn đến thiếu sự
tham gia tích cực và nhận thức thấu đáo về việc tái sử dụng và tái chế sản phẩm.
Những thách thức này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền địa phương,
doanh nghiệp và cộng đồng để xây dựng mô hình KTTH bền vững tại TP. HCM. Để đảm
bảo sự tham gia đồng lòng của tất cả các bên liên quan, việc nâng cao nhận thức và tuyên
truyền về KTTH cần được đặc biệt chú trọng. Trong bối cảnh này, vai trò của khối tư nhân
trong việc thúc đẩy mô hình KTTH ở cả quy mô quốc gia và đặc biệt là tại TP. HCM là rất
cần thiết. Các tổ chức và doanh nghiệp tư nhân có vai trò đóng góp quan trọng vào việc phát
295
triển và thực thi các chiến lược, chính sách và dự án liên quan đến KTTH.
Bài tham luận này sẽ tập trung vào vai trò của khối tư nhân để góp phần giải quyết những
thách thức, từ đó thúc đẩy phát triển mô hình KTTH tại TP. HCM.
2. Vai trò quan trọng của khu vực tư nhân
Vai trò của khối tư nhân trong thúc đẩy mô hình KTTH ở mức độ quốc gia đã được phân
tích và thảo luận rộng rãi trong nhiều nghiên cứu. Nhìn chung, khu vực tư nhân có thể góp
phần đáng kể để thúc đẩy và định hình mô hình KTTH, bao gồm cả việc quản lý tài nguyên,
đầu tư vào công nghệ sạch, xây dựng hạ tầng tái chế, và thay đổi hành vi tiêu dùng. Nghiên
cứu của Kalmykova và cộng sự (2018)1, tổng hợp 45 chiến lược về KTTH và hơn 100
trường hợp trên thế giới, đánh giá vai trò quan trọng của khối tư nhân trong việc thúc đẩy
KTTH ở mức quốc gia thông qua các tiếp cận hệ thống nền kinh tế và nhóm ngành sản
phẩm.
Cụ thể, khu vực tư nhân có thể đóng góp vào việc phát triển hạ tầng cần thiết cho
KTTH, như xây dựng các trung tâm tái chế, nhà máy sản xuất sản phẩm tái chế, hoặc hệ
thống thu gom và xử lý chất thải tiên tiến. Các doanh nghiệp có thể đầu tư vào các dự án này
và thậm chí hợp tác với Chính phủ để xây dựng cơ sở hạ tầng hiệu quả cho việc tái chế và
tuần hoàn tài nguyên. Bên cạnh đó, khối tư nhân thường linh hoạt và có khả năng tìm kiếm cơ
hội kinh doanh trong lĩnh vực KTTH. Họ có thể phát triển các dự án kinh doanh mới liên
quan đến tái chế, sản xuất sản phẩm tái chế, hoặc cung cấp dịch vụ quản lý chất thải. Việc
này giúp tạo ra giá trị kinh tế và cơ hội việc làm cho cộng đồng.
Ví dụ, Walt Disney World Resort (khu phức hợp nghỉ dưỡng, giải trí nằm ở Bay
Lake và Lake Buena Vista, Florida, Mỹ) gửi chất thải thực phẩm, bao gồm dầu mỡ và thức
ăn thừa, từ các nhà hàng trong khu phức hợp của họ đến một cơ sở điện khí biogas 5,4 MW
gần đó, được quản lý bởi Harvest Power, một công ty chuyên về công nghệ xử lý chất thải
và sản xuất năng lượng tái tạo. Chất thải hữu cơ được chuyển đổi thành khí sinh học tái tạo
biogas, bao gồm khí carbon dioxide và metan, để sản xuất điện, và các vật liệu rắn còn lại
được xử lý thành phân bón. Năng lượng sản xuất được sử dụng để cung cấp điện cho trung
tâm Florida, bao gồm các khách sạn và công viên giải trí của Walt Disney Resort.2
Ngoài ra, khối tư nhân có thể tham gia vào việc xây dựng nhận thức về KTTH trong
cộng đồng thông qua việc tổ chức các chương trình giáo dục và tuyên truyền về quy trình và
lợi ích của KTTH. Đặc biệt, việc thúc đẩy phát triển các sản phẩm và dịch vụ tuần hoàn có
thể giúp thúc đẩy hành vi, ý thức từ phía khách hàng và đối tác kinh doanh. Khu vực tư
nhân còn có vai trò trong việc xây dựng cơ chế tài chính hỗ trợ cho KTTH. Họ có thể đầu
tư vào các quỹ đầu tư xã hội, hợp tác với ngân hàng và tổ chức tài chính để tạo ra các sản
phẩm tài chính hỗ trợ cho các doanh nghiệp và dự án liên quan đến KTTH. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp, tổ chức tư nhân có thể hợp tác chặt chẽ với Chính phủ và các tổ chức phi
chính phủ trong việc phát triển và thực thi chính sách và quy định liên quan đến KTTH.
Điều này sẽ giúp tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và khuyến khích đầu tư vào lĩnh
vực này.
Ví dụ, Quỹ Vì Tương Lai Xanh, thuộc Tập đoàn Vingroup, đã phát động 10 chương trình
hành động trọng điểm nhằm chung tay hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào
năm 2050 của Chính phủ. Những chương trình này có tiềm năng thúc đẩy KTTH ở TP.
HCM thông qua việc sử dụng tài nguyên xanh, giảm tác động đến môi trường, nâng cao ý
296
thức cộng đồng, tạo việc làm mới và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp và
dịch vụ xanh.
Ngoài ra, Quỹ đã ký kết Thỏa thuận hợp tác và phát động chương trình hành động
“Vì một Việt Nam xanh” với Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và Môi trường (Bộ Tài
nguyên – Môi trường) và Doanh nghiệp Xã hội Green Journey. Chương trình này tập trung
vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, thúc đẩy các hoạt động xanh về
kinh tế, văn hóa – xã hội và bảo vệ môi trường tự nhiên cho thế hệ tương lai. Quỹ cũng cam
kết lan tỏa lối sống xanh trong cộng đồng.
Tại TP. HCM, Quỹ đã cam kết tài trợ trồng 30.000 cây rừng tại Cần Giờ, tương
đương 6 tỷ đồng. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của Quỹ, nhóm thiện nguyện “Sài Gòn Xanh”
đang thực hiện hoạt động dọn rác tại Rạch Cầu Sơn (quận Bình Thạnh) với mục tiêu thu
gom 20 tấn rác, góp phần giảm ô nhiễm môi trường và mang lại cảnh quang sạch đẹp hơn.
Trên toàn quốc, các hoạt động xanh của Quỹ đã mang lại kết quả thiết thực chỉ sau 1 tháng
ra mắt. Cụ thể, Công ty VinBus đã giảm hơn 23 triệu kg CO2 thải ra môi trường và trồng
hơn 1 triệu cây xanh. Giải chạy trực tuyến “Giáo dục Vì Tương Lai Xanh” đã thu hút gần
1.000 thầy cô tham gia và mang lại nguồn kinh phí hỗ trợ lắp nước sạch và tu sửa nhà vệ
sinh cho 6 trường học. Quỹ cũng thu về gần 4 tỷ đồng từ sự ủng hộ của 500.000 khách hàng
sử dụng sản phẩm và dịch vụ của Công ty VinFast và Xanh SM để hỗ trợ các hoạt động vì
môi trường.
Nhiều bằng chứng quốc tế khác cũng đã cho thấy vai trò quan trọng của các doanh
nghiệp, tổ chức tư nhân trong việc xây dựng và thúc đẩy các chiến lược và dự án KTTH,
đóng góp vào việc bảo vệ môi trường và tạo ra giá trị kinh tế bền vững.
Ví dụ, chương trình tái chế và sáng kiến “Hợp tác Tái sử dụng” (Reuse Opportunity
Collaboratory (ROC)) của thành phố Detroit (thành phố lớn nhất của tiểu bang Michigan,
Hoa Kỳ) đã mang lại nhiều cơ hội đáng giá cho công ty ô tô General Motors (GM), nhờ nhìn
nhận chất thải như một nguồn tài nguyên.3 Triết lý này đã giúp GM thành lập thành công
122 cơ sở tái chế trên toàn cầu, đồng thời giảm thiểu sử dụng các bãi chôn lấp rác. GM đã
tái sử dụng lốp xe đã qua sử dụng từ cơ sở của họ để sản xuất các thiết bị cho Chevrolet
Volt, cũng như tái sử dụng bao bì nhựa từ nhà máy bằng cách kết hợp với các vật liệu khác
để sản xuất tấm che tản nhiệt cho Chevrolet Silverado. Chương trình này là một phần quan
trọng của việc hỗ trợ sáng kiến “Hợp tác Tái sử dụng” ROC của thành phố Detroit. Bên
cạnh việc hợp tác với GM trong lĩnh vực tái chế, sáng kiến ROC Detroit đang phát triển
những kế hoạch lớn hơn. Sáng kiến này kỳ vọng xây dựng một thị trường trực tuyến, nơi
các tổ chức có thể chia sẻ sản phẩm tái sử dụng của họ và tìm kiếm các mặt hàng thân thiện
với môi trường.
Một ví dụ khác là hợp tác của Dow trong việc giảm sử dụng nước và nhựa đã mang lại
những thành tựu đáng kể.4 Dow Terneuzen, nhà máy xử lý hóa chất lớn nhất của Dow
ngoài Hoa Kỳ, đặt tại Hà Lan, một khu vực gặp thiếu hụt nước ngọt do nhu cầu nước được
phân chia cho nhiều mục đích như nông nghiệp, công nghiệp và dân cư. Để hiệu quả hóa
việc sử dụng và tái sử dụng nước ngọt, Dow đã hợp tác với các công ty tư nhân và thành
phố Terneuzen (một đô thị ở Tây Nam Hà Lan). Theo chương trình này, Dow Terneuzen
thu nhận nước thải hàng ngày từ thành phố, sau đó được xử lý bởi bên thứ ba trước khi tái sử
dụng cho quy trình công nghiệp của họ. Kết quả là, nhà máy này đã tái sử dụng được 30.000
mét khối nước thải đô thị mỗi ngày và giảm 95% lượng năng lượng sử dụng, tương đương
297
với việc giảm 60.000 tấn khí thải CO2 hàng năm và tiết kiệm lượng nước tương đương việc
trồng hơn 1,5 triệu cây xanh trong suốt một thập kỷ. Bên cạnh đó, chương trình thí điểm “túi
năng lượng” được triển khai từ năm 2014 đã chứng minh khả năng thu gom và chuyển đổi
nhựa không tái chế thành nguồn năng lượng có thể sử dụng, như dầu thô tổng hợp. Trong
vòng ba tháng, cư dân tại Citrus Heights (thành phố thuộc quận Sacramento, tiểu bang
California, Hoa Kỳ) đã tham gia thu gom các sản phẩm nhựa không tái chế và đặt chúng
vào trong những chiếc “túi năng lượng” màu tím sáng để tham gia vào ngày thu gom tái chế
của họ. Nhờ vào chương trình và nỗ lực của Dow, khoảng ba tấn sản phẩm nhựa không tái
chế đã được chuyển hướng từ bãi chôn lấp và chuyển đổi thành 512 gallon dầu thô tổng
hợp.
1. Sự cần thiết của các chính sách hỗ trợ
Chính phủ có vai trò rất quan trọng để hỗ trợ sự tham gia của khối tư nhân trong việc thúc
đẩy phát triển KTTH ở TP. Hồ Chí Minh.
Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khối tư nhân bằng cách
đảm bảo rằng môi trường kinh doanh là minh bạch, dễ dàng tiếp cận, ít rủi ro, rào cản hành
chính và không gian cho sự sáng tạo. Việc cung cấp những hỗ trợ tài chính, chẳng hạn như
vay vốn với lãi suất thấp hoặc hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu cho các dự án liên quan đến
KTTH cũng rất cần thiết.
Ví dụ, kể từ năm 2016, Chính phủ Đài Loan đã phát động những chương trình tài trợ
quan trọng đối với KTTH từ các nguồn tài nguyên công nghiệp. Năm 2017, Chương trình
Phát triển Cơ sở Hạ tầng Hướng tới Tương lai (FLIDP) được triển khai, trong đó cơ sở hạ
tầng cho năng lượng xanh và môi trường nước được liên kết với vấn đề KTTH. Mục tiêu
của chính sách tài trợ KTTH này là nâng cao nhận thức về tái chế, giảm thiểu sử dụng tài
nguyên, và khuyến khích thiết kế bền vững, từng bước đẩy mạnh việc tái chế tài nguyên tại
Đài Loan để giảm bớt lượng rác thải.5
Ngân hàng Phát triển và Xây dựng Châu Âu (EBRD) đã xây dựng chuyên môn trong việc
xác định và tài trợ các cơ hội trong lĩnh vực KTTH. Từ năm 2014 đến năm 2019, Ngân
hàng đã tài trợ hơn 100 dự án thúc đẩy sản phẩm và mô hình kinh doanh tuân thủ nguyên
tắc KTTH, đónggóp hơn 1 tỷ euro. Vào tháng 11 năm 2021, EBRD đã khởi xướng Chương
trình Chuyển đổi KTTH (CERI) để giải quyết các rào cản cho sự chuyển đổi vào KTTH.
Chương trình hỗ trợ đầu tư trong khu vực tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, để
triển khai các công nghệ sáng tạo và hiệu quả sử dụng tài nguyên, cũng như thực hiện mô
hình kinh doanh tuần hoàn ở Albania, Bosnia và Herzegovina, Montenegro, Bắc
Macedonia, Serbia và Thổ Nhĩ Kỳ.6
Ngoài ra, từ kinh nghiệm của các quốc gia tiên phong về chuyển đổi số và chuyển đổi
xanh, cần sớm thiết lập một cơ chế thử nghiệm cho việc huy động vốn trong lĩnh vực
KTTH vì các phương thức truyền thống cung cấp vốn không còn phù hợp trong bối cảnh
mới.
Thực tế, tài chính xanh tại Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển đáng kể trong
những năm gần đây (xem Hình 1). Tín dụng xanh đã tăng trung bình 25% mỗi năm từ 2017
đến 2022, vượt xa tốc độ tăng trưởng tín dụng tổng thể của nền kinh tế. Sự tham gia của các
doanh nghiệp lớn như Vinpearl (thuộc Tập đoàn Vingroup), BIM Land (thuộc BIM Group)
và EVNFinance trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp bền vững trên thị trường
298
quốc tế là một tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, tỷ trọng tín dụng xanh vẫn còn rất khiêm tốn,
chỉ chiếm 4,32% tổng dư nợ trong toàn bộ nền kinh tế. Điều này cho thấy rằng nhận thức
về tài chính xanh ở Việt Nam vẫn còn hạn chế và cần được nâng cao.7
Hình 1 : Dư nợ tín dụng xanh của nền kinh tế Việt Nam – giai đoạn 2015-2022

500000
450000
400000
350000
Tỷ đồng

300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022
Năm

Nguồn : NHNN.
Thực trạng này cho thấy Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình hoàn thiện cơ chế và chính
sách, đặc biệt là cơ chế thử nghiệm cho các mô hình kinh doanh mới và thúc đẩy phát triển
thị trường trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh và tín dụng xanh. Đồng thời, cần phát triển và
hoàn thiện các hệ thống liên quan như sàn giao dịch tín chỉ carbon, sản phẩm giao dịch, các
thành viên thị trường và môi giới giao dịch, cũng như đối tượng giao dịch.
Tham khảo từ kinh nghiệm quốc tế, có thể cân nhắc việc thiết lập một ngân hàng
đầu tư xanh (GIB)8 tương tự như đã thực hiện ở nhiều quốc gia cấp quốc gia (ví dụ: Úc,
Nhật Bản, Malaysia, Anh), cấp tiểu bang (như California, Connecticut, Hawaii ở Mỹ), cấp
quận (như Quận Montgomery, Maryland, Mỹ) và cấp thành phố (như Masdar ở Các Tiểu
vương quốc Ả Rập Thống nhất)9. Hoặc xem xét việc tạo ra một quỹ tài chính-tín dụng xanh
để cung cấp vốn xanh cho các dự án quan trọng.
Tài chính xanh và tín dụng xanh sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
đổi sangKTTH. Vì vậy, các cơ chế thử nghiệm cần tập trung vào việc ưu đãi đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư vào các dự án KTTH và dự án xanh,
hỗ trợ tiếp cận nguồn lực để triển khai các giải pháp công nghệ mới.
Bên cạnh đó, cần đảm bảo rằng hạ tầng cơ sở cần thiết cho phát triển KTTH là đủ
hiện đại và có sức chứa để đáp ứng nhu cầu, chẳng hạn như hệ thống thu gom, xử lý và tái
chế rác thải. Ví dụ, Chính phủ Thụy Điển đã đặt mục tiêu để trở thành một trong những
quốc gia không sản xuất rác thải vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này, họ đã đầu tư
mạnh vào hệ thống tái chế và xử lý rác thải tiên tiến. Họ trao cơ hội cho các công ty tư
nhân để tham gia vào việc phát triển và vận hành các nhà máy tái chế và xử lý rác thải, và
hỗ trợ tài chính cho các dự án liên quan đến tái chế.
Tiếp theo, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực liên quan đến KTTH,
như công nghệ tái chế và quản lý tài nguyên, cũng không thể thiếu. Chính phủ có thể tăng
cường sự hợp tác giữa doanh nghiệp khối tư nhân và các cơ quan, tổ chức, viện, trường đại

299
học để thúc đẩy nghiên cứu và triển khai các giải pháp KTTH. Thêm vào đó, việc đặt ra quy
định và tiêu chuẩn nghiêm ngặt về quản lý chất thải, tiết kiệm năng lượng và tài nguyên
cũng quan trọng để khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động KTTH.
Ví dụ, để giải quyết vấn đề xử lý chất thải kỹ thuật điện tử và giảm thiểu tác hại của rác
thải điện tử đối với môi trường, Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai Chương trình Công
nghệ Tái chế (RTP) với mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy sự phát triển của công nghệ tái chế
kim loại quý từ rác thải điện tử và tạo động lực cho nền kinh tế với tỷ lệ tái chế cao ở Hàn
Quốc. Công nghệ tái chế ở Hàn Quốc được xem là một ví dụ tiêu biểu của công nghệ xanh.
Nhằm thúc đẩy tái chế ở Hàn Quốc, nhiều biện pháp đã được triển khai gần đây như thiết
lập tỷ lệ thu hồi mục tiêu, mở rộng danh sách trách nhiệm của nhà sản xuất, phân bổ trách
nhiệm giữa các nhà phân phối và nhà sản xuất, và tăng cường hệ thống tái chế ở địa
phương. Với sự phát triển của công nghệ tái chế chất thải tiên tiến, Chính phủ khuyến
khích các nhà sản xuất sử dụng các công nghệ bền vững với môi trường thông qua việc thiết
lập các quy định liên quan.10
Không chỉ vậy, Chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các
chương trình đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực của doanh nghiệp khối tư
nhân trong lĩnh vực KTTH, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp này tham gia vào các dự án
KTTH và đầu tư vào công nghệ hiệu suất cao từ các quốc gia có kinh nghiệm.
Tương tự, cần có các chính sách hỗ trợ để khuyến khích sự sáng tạo và sản xuất nội
địa của các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến KTTH. Sản xuất nội địa đòi hỏi sự tham gia
của lao động địa phương, từ việc thiết kế sản phẩm, sản xuất, quản lý chất thải, đến dịch vụ
liên quan. Điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm ở địa phương, giúp cải thiện tình hình
việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng. Bằng cách khuyến khích doanh nghiệp sản xuất
nội địa các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến KTTH, TP. HCM cũng trở nên độc lập hơn
về nguồn cung ứng. Điều này giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và giúp giảm rủi ro liên
quan đến biến động giá cả và tình hình thị trườngquốc tế.
Việc hỗ trợ việc xây dựng một cộng đồng KTTH và tạo ra chiến dịch truyền thông
để tăng cường nhận thức và thúc đẩy lối sống tuần hoàn cũng cần thiết. Ví dụ như sản xuất
các quảng cáo truyền hình và radio với thông điệp về lợi ích của KTTH và tái chế ; hay tổ
chức các sự kiện cộngđồng như hội chợ tái sử dụng – những sự kiện này không chỉ giúp tạo
cơ hội cho người dân tái sử dụng và mua sắm bằng cách thông qua việc trao đổi đồ đã qua
sử dụng, mà còn là dịp để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tái chế. Chính phủ
cũng có thể hợp tác với hệ thống giáo dục để tích hợp chương trình về tuần hoàn và bảo vệ
môi trường vào giảng dạy trong các trường học. Điều này giúp trẻ em nhận biết và phát triển
thói quen khởi đầu cho KTTH từ khi còn nhỏ.
3. Kết luận
Khối tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển KTTH ở cả cấp độ
quốc gia nói chung và TP. HCM nói riêng. Các doanh nghiệp tư nhân có thể đóng góp vào
việc xây dựng hạ tầng KTTH bằng cách đầu tư vào các trung tâm tái chế, nhà máy sản xuất
sản phẩm tái chế, hoặc hệ thống thu gom và xử lý chất thải tiên tiến. Họ cũng có khả năng
tạo ra các dự án kinh doanh mới liên quan đến tái chế và quản lý chất thải, đồng thời thúc
đẩy ý thức về KTTH trong cộng đồng thông qua các chương trình giáo dục và sản phẩm tái
sử dụng. Để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong phát triển KTTH, các chính
300
sách hỗ trợ từ chính phủ đóng vai trò quan trọng. Điều này bao gồm tạo điều kiện kinh
doanh thuận lợi, hỗ trợ tài chính, thiết lập chính sách và quy định, hỗ trợ nghiên cứu và
phát triển, đào tạo kỹ thuật, khuyến khích sáng tạo và sản xuất nội địa, cũng như tạo cơ chế
tài chính. Chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cơ chế truyền thông và
giáo dục để tăng cường nhận thức về KTTH trong cộng đồng. Sự hợp tác chặt chẽ giữa
Chính phủ, khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội là yếu tố quyết định để thúc đẩy hiệu quả
và tính bền vững trong việc thực hiện các chiến lược và dự án liên quan đến KTTH.
PHỤ LỤC : CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN TỚI KINH TẾ TUẦN HOÀN
Chính sách Mục tiêu & Nội dung
Nghị quyết 140/NQ- Nhiệm vụ số 9: Thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng
CP 2020 thực hiện gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Nghị quyết 55- và phát triển bền vững
NQ/TW phát triển
năng lượng quốc gia a) Bộ Công Thương
- (…) Hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ từ ngân sách đối với các dự án
đầu tư sản xuất kinh doanh sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi
trường. Cơ chế sản xuất công nghiệp phát thải thấp và gắn sản xuất
công nghiệp với cơ chế nền kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực công
thương để phế thải, phế phẩm và chất thải của sản phẩm này là đầu
vào của sản phẩm khác.
- Quy định cơ chế phân định các luồng chất thải và biện pháp quản lý, xử
lý tương ứng để một số loại chất thải công nghiệp (tro, xỉ nhà máy
nhiệt điện, chất thải trong ngành công nghiệp) có thể được sử dụng
làm nguyên liệu cho ngành sản xuất khác như xi măng, vật liệu xây
dựng, phân bón.

b) Bộ Khoa học và Công nghệ

- Đẩy mạnh triển khai hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ liên
quan đến tái chế, sử dụng chất thải từ quá trình sản xuất và sử dụng
năng lượng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, an toàn môi trường lồng ghép trong
các Chương trình khoa học và công nghệ có liên quan.

301
Nghị định số Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế tuần hoàn đối với các hoạt động
08/2022/NĐ- sau:
CP của
Nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản
Chính phủ: xuất thiết bị, đào tạo nhân lực để thực hiện kinh tế tuần hoàn;
Quy định chi
tiết một số Cung cấp nền tảng chia sẻ thông tin, dữ liệu về kinh tế tuần hoàn
điều của
Luật Bảo vệ Nhà nước khuyến khích các hoạt động phát triển kinh tế tuần hoàn sau:
môi trường –
Nghiên cứu, phát triển công nghệ, giải pháp kỹ thuật, cung cấp các dịch vụ
Điều 140
tư vấn, thiết kế, đánh giá thực hiện kinh tế tuần hoàn theo quy định của
pháp luật;

Phát triển các mô hình liên kết, chia sẻ việc sử dụng tuần hoàn sản phẩm
và chất thải; thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên
minh tái chế, các mô hình liên kết vùng, liên kết đô thị với nông thôn và
các mô hình khác theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động
đầu tư, sản xuất kinh doanh, dịch vụ đạt được tiêu chí của kinh tế tuần
hoàn;

Áp dụng các biện pháp cộng sinh công nghiệp theo quy định của pháp luật
về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế;

Phát triển thị trường tái sử dụng sản phẩm thải bỏ, tái chế chất thải;

Huy động các nguồn lực trong xã hội để thực hiện kinh tế tuần hoàn;

Hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm, kiến thức, công nghệ về kinh tế
tuần hoàn theo quy định pháp luật

302
Quyết định 687/QĐ-
a) Mục tiêu tổng quát
TTg 2022 Đề án phát
triển kinh tế tuần Phát triển KTTH nhằm tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện
hoàn ở Việt Nam – năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh gắn với cơ cấu lại
Phê Duyệt Đề Án nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường hiệu quả,
Phát Triển Kinh Tế tính gắn kết tuần hoàn giữa các doanh nghiệp và ngành kinh tế, nâng cao
Tuần Hoàn Ở Việt năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu của doanh nghiệp và chuỗi
Nam Của Thủ Tướng cung ứng trước các cú sốc từ bên ngoài, nhằm góp phần đạt được thịnh
Chính Phủ vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng
tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế
sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
b) Mục tiêu cụ thể
- Góp phần cụ thể hóa mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên
GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, hướng tới mục tiêu phát
thải ròng về “0” vào năm 2050.
- Tăng cường nhận thức, sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp, nhà
đầu tư trong và ngoài nước đối với mô hình KTTH; đẩy mạnh ứng dụng
mô hình KTTH thúc đẩy xanh hóa các ngành kinh tế. Đến năm 2025, các
dự án KTTH bước đầu đi vào thực hiện và phát huy hiệu quả kinh tế, xã
hội, công nghệ và môi trường; đóng góp vào phục hồi các tài nguyên tái
tạo được, giảm tiêu hao năng lượng, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trên
tổng cung cấp năng lượng sơ cấp, tỷ lệ che phủ rừng, tăng cường tỷ lệ tái
chế rác thải, tăng cường tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm nông, lâm,
thủy sản và công nghiệp xuất khẩu. Đến năm 2030, các dự án KTTH trở
thành một động lực chủ yếu trong giảm tiêu hao năng lượng sơ cấp, có
năng lực tự chủ phần lớn hoặc toàn bộ nhu cầu năng lượng dựa trên năng
lượng tái tạo, và trong tăng cường tỷ lệ che phủ rừng.
- Mô hình KTTH hỗ trợ xây dựng lối sống xanh, khuyến khích phân loại
rác thải và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Đến năm 2025, tái sử dụng, tái
chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm thiểu 50% rác
thải nhựa trên biển và đại dương so với giai đoạn trước đây; giảm dần
mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa
dùng một lần trong sinh hoạt. Tăng đáng kể năng lực tái chế rác thải hữu
cơ ở đô thị và nông thôn. Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, cộng đồng và người dân trong sản xuất, tiêu thụ, thải bỏ
chất thải nhựa, túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần
trong sinh hoạt. Đến năm 2030, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được
thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn thông qua các mô hình
KTTH đạt 50%; 100% rác thải hữu cơ ở đô thị và 70% rác thải hữu
cơ ở nông thôn được tái chế; không làm phát sinh việc chôn lấp trực
tiếp chất thải rắn sinh hoạt từ các mô hình KTTH ở đô thị; tối đa hóa
tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy
chuẩn theo quy định ở các khu đô thị.

303
Thông tin
Nhà Tài Trợ

292
NHÀ TÀI TRỢ

293
Ho Chi Minh City
Economic Forum 2023
“Green Growth: Towards Net Zero”

You might also like