Professional Documents
Culture Documents
Lý H - Nhóm 3
Lý H - Nhóm 3
Lý H - Nhóm 3
Giới thiệu chung: Lý Hạ tự là Trường Cát, người ở Phúc Xương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc thuộc dòng
tôn thất nhà Đường, sinh vào khoảng năm 789 và mất năm 816, khi mới 27 tuổi. Di cảo của Lý Hạ còn để
lại là một tập thơ gồm 4 tập do người bạn là Thẩm Minh sưu tầm và Đỗ Mục đề tựa năm Thái Hoà thứ 5
đời Đường Văn Tông.
1- Xuất thân:
+ Dòng dõi hoàng tộc từ lâu đời (gia tài của nhánh tộc Lý Hạ vốn đã bị suy vi từ sớm => cấp bậc thấp).
+ Cả hai bộ quốc sử triều Đường thường xem ông là "hậu duệ của Trịnh Vương".
+ Một vài học giả ủng hộ giả thuyết rằng gốc gác của Lý có liên quan đến Lý Lượng (sống dưới thời nhà
Tùy) là một người chú của Lý Uyên, hoàng đế nhà Đường đầu tiên. Có giả thuyết khác cho rằng dòng dõi
của vị thi sĩ có liên hệ tới Lý Nguyên Ý, con trai thứ 13 của Lý Uyên.
2- Những năm đầu đời:
+ Ngay từ khi lên 7 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng với những câu thơ làm kinh động giới văn sĩ
đương thời. Tương truyền hai nhà thơ nổi tiếng là Hàn Dũ và Hoàng Phủ Thực nghe tài năng xuất khẩu
thành thơ của cậu bé Lý Hạ tìm đến tận nhà xem mặt. Lý Hạ bèn đứng ngay trước cửa nhà viết bài Cao
Hiên Quá làm hai nhà thơ thành danh đã lâu phải ngỡ ngàng với hai câu :
“Điện tiền tác phú thanh ma không
Bút bổ tạo hóa thiên vô công”
(Trước nhà làm thơ trình thanh âm chạm cả vào bầu trời
Ngọn bút bổ sung chỗ khiếm khuyết của tạo hóa, không tốn công sức)
=> Văn tài, khí phách bao trùm trời đất ấy chỉ có ở những bậc thánh nhân kỳ tài và phải chăng giữa họ
mới có sự trùng lặp trong những miền giao cảm tuyệt vời mà người bình thường không thể thấy được.
Giống như Lý Bạch, ngay từ nhỏ Lý Hạ đã sớm bộc lộ tài năng thiên bẩm, những tố chất của nhà
thơ lớn và một ý chí hiên ngang quật khởi của kẻ sĩ theo chuẩn mực của xã hội phong kiến. Ông
cũng từng ôm mộng làm quan, có cơ hội đem tài năng ra cống hiến giúp dân, giúp đời. Những
tâm tình và khát vọng mà ông gửi gắm trong thời kỳ đầu sáng tác là một số bài thơ trong sáng,
biểu hiện tấm lòng trung quân, ái quốc, thương dân. NHÀ THƠ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG
TÁC
Với một chí hướng và hoài bão lớn lao, “cậu bé” Lý Hạ ngày đêm dốc mình khổ học làm bạn với
sách đèn. Tuy nhiên, mơ ước chính đáng ấy không tồn tại được lâu bởi ông đã sớm bộc lộ nỗi thất
vọng trên chính con đường chông gai, hoạn lộ của mình.
Trong thời gian ở nhà Hàn Dũ chờ đợi khoa thi, tiếp xúc với đủ các loại người tầng lớp những
người lao động đến trí thức, văn nhân, quan lại, Lý Hạ ngày càng nhận ra bản chất thối nát của
tầng lớp thống trị đương thời. Với ông quan trường chỉ là chỗ cho những kẻ hư danh, ăn không
ngồi rồi, vô tích sự, chỉ là chốn nhiễu nhương, mua quan bán tước, ghen ghét, đố kị, tìm cách hãm
hại người tài. Lý Hạ ngày càng trở nên chán ghét thời cuộc.
Bất lực và thương xót cho tài năng bị dập vùi, Lý Hạ đã từng cười nhạo, mỉa mai chính mình, ông
như một kẻ lênh đênh trong cuộc đời mà chẳng thể tìm được một hướng đi đúng. Tâm trạng buồn
thương, bi hận đeo đẳng một con người tài hoa, một thi nhân đa sầu, đa cảm. Giã từ giấc mộng
lớn của cuộc đời mình, Lý Hạ tìm đến với giấc mộng thi ca như trút cạn bầu tâm sự. NHÀ
THƠ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC: NHU CẦU GIẢI THOÁT NỘI TÂM.
3- Sự nghiệp chính trị:
+ Năm 20 tuổi, Lý Hạ cố gắng tham gia khoa cử, nhưng rồi bị cấm thi vì phạm vào húy kỵ: tên cha
ông, Lý Tấn Túc có từ "Tấn" đồng âm với từ "Tiến" trong Tiến sĩ, chức vị ông sẽ được sắc phong nếu đỗ
đạt.
+ Một danh sĩ nổi tiếng đương thời là Hàn Dũ vì mến tài ông mà viết bài Húy biện để dâng lên nhưng
vẫn không thể giúp Lý dự thi. Thế là ông chỉ giữ chức quan nhỏ Phụng lễ lang (trông coi về nghi lễ) trong
3 năm trước khi từ quan về quê nhà.
4- Giai đoạn cuối cuộc đời:
Là một người có ngoại hình rất ốm yếu, với thân hình mảnh khảnh
Ông mất năm 816 - 817 khi đang giữ chức quan nhỏ và gia cảnh nghèo khó (thọ 26-27t)
Cuốn Lý Hạ tiểu truyện kể rằng vào canh giờ mà Lý qua đời, ông được một nhân vật mặc áo lụa
đào ghé thăm; người này nói với vị thi sĩ rằng Thượng đế đã cho gọi ông lên thiên đàng để làm
thơ.
Bổ sung:
Danh tiếng và tên tuổi của Lý Hạ trong nền văn học Trung Quốc đã được lưu truyền suốt nhiều
thế kỷ. Vào thời nhà Thanh, các hậu bối tại Trung Quốc đã học theo phong cách thơ có một
không hai của ông. Dưới triều Thanh, danh tiếng làm thơ của ông đã vấp phải thay đổi lớn trong
thị hiếu văn học khi những tác phẩm của ông bị lược khỏi cuốn Đường thi tam bách thủ nổi tiếng,
tuy nhiên những người yêu thơ dần tái chú ý đến ông trong thế kỷ 20. Lý Hạ là một trong số
những nhà thơ Đường được Mao Trạch Đông ngưỡng mộ nhất.
Cuộc đời của Lý Hạ tuy ngắn ngủi, nhưng lại có quá nhiều nhãn mác và ký hiệu. “Thi Quỷ” là sự
khẳng định đối với thành tựu văn học của ông, cũng là sự nuối tiếc cho sự ra đi quá sớm của ông,
phong cách thơ ‘quỷ quyệt’ và diễm lệ của Lý Hạ đã khơi dậy những cuộc thảo luận sôi nổi và sự
học tập phong cách trong giới Đường thi.
Khi ông bị bệnh nặng, bỗng có một vị tiên mặc áo lụa đào, cưỡi con rồng màu đỏ bay đến bên
cửa, tay cầm một cuốn sách trao cho Lý Hạ và nói: Thượng đế đã cho xây xong lầu Bạch Ngọc,
xin mời ông lên gấp để viết cho bài ký (Đế thành Bạch Ngọc lâu/ Lập chiêu quân vi ký). Lát sau,
Lý Hạ mất (Theo tiểu truyện Lý Hạ - Lý Thương ẩn).
Khi bàn về cái chết kỳ dị của Lý Hạ, người đời cho rằng được Thượng đế mời lên trời thì Lý Hạ
là tiên. Còn những kẻ ngàn năm sợ hãi ngưu thần xà quỷ thì gán cho ông là quỷ. Do gia cảnh cơ
hàn, lại sống trong thời đại môn phiệt đang thịnh, nên dù có tài, ông vẫn phải chịu mọi sự rẻ rúng
và đả kích. Nỗi niềm phẫn uất của kẻ tài cao phận thấp, sinh bất phùng thời, nếu bị câu nệ vào
chữ nghĩa mà chỉ thấy hư ảo và quái đản, thì hậu thế chỉ có thể biết một Lý Hạ "quỷ tài" mà
không thấy được một Lý Hạ "quỷ thi".
Thời Nguyên Hòa bấy giờ đang thịnh hành thơ của hai ông Bạch Cư Dị (772 - 846) và Nguyên
Chẩn (779 - 813). Thơ của hai ông Nguyên Bạch gần như chi phối thi đàn và trở thành chuẩn
mực, được người đương thời gọi là Nguyên Hòa thể. Thế nhưng khi Nguyên Chẩn, dù là bậc đàn
anh danh tiếng, đem lễ vật đến tận nhà để xin kết giao với Hạ, thì Hạ lại chối từ không tiếp. Hạ
mang tiếng là kẻ kiêu ngạo, không hòa hợp với đời.
Thơ của Lý Hạ bỗng chốc trở nên phổ biến từ cuối triều Minh đến giữa triều Thanh. Một lượng lớn
tập thơ của Lý có kèm chú thích xuất hiện trong giai đoạn này, từ đó thơ của ông được nhiều người bắt
chước. Học giả Vương Kỳ đã viết một bài luận dài tới 5 tập để bàn về thơ của Lý. Dù thịnh hành vào giữa
triều Thanh, nhưng một bộ phận các văn sĩ có tiếng nói lại không ưa chuộng thơ của Lý Hạ. Nhà soạn thơ
Trần Đức Tiềm đã chọn ra 10 bài thơ của Lý Hạ để cho vào cuốn sách nổi tiếng Đường thi biệt tài tập.
Trần đã bị chỉ trích dữ dội vì bắt chước lối làm thơ của Lý. Thơ của Lý Hạ cũng vắng mặt trong cuốn
Đường thi tam bách thủ, một ấn phẩm về thẩm mỹ văn học ra đời vào cuối triều Thanh và đầu thế
kỉ 20.
Cho đến nay khoảng 240 bài thơ của Lý Hạ còn sót lại. Cuốn Tân Đường thư cho biết có rất ít bài thơ
của Lý được lưu trữ bởi những sáng tác đó đều mang màu sắc độc lạ cũng như do Lý mất sớm. Giai thoại
trong cuốn Thái bình quảng ký kể rằng một người anh họ của Lý được vị thi sĩ đề nghị biên soạn một tập
thơ cho ông, nhưng vì người này không ưa Lý nên đã bí mật vứt hết đống thơ đó đi.
Ngày nay có hai tập thơ của Lý Hạ còn sót lại, đó là Lý Hạ ca thi thiên và Ngoại tập. Lý Hạ tiểu
truyện miêu tả Lý là một nhà thơ chuyên cần. Ông luôn xách bên mình chiếc túi gấm cũ để mỗi khi nảy ra
một ý thơ trên đường du ngoạn, ông liền ghi chép lại nó và bỏ vào trong túi. Sau khi trở về nhà, ông sắp
xếp các câu thơ đã viết thành một bài thơ hoàn chỉnh.
SỰ SÁNG TẠO / TÀI NĂNG CỦA THI NHÂN Những tác phẩm của Lý Hạ luôn độc nhất vô nhị
với màu sắc kỳ dị và khác thường, do đó ông mới được gắn cho cái nghệ danh Thi Quỷ. Hầu như không
có bài thơ nào của Lý được viết theo lối cận thể, bên cạnh đó những sáng tác của ông thường xuyên dùng
những từ mang điềm gở như "lão" và "tử". Trong những bài thơ như "Thiên thượng dao" và "Mộng
Thiên", ông viết theo lối gợi lên thế giới của thượng đế và Đức Phật.
Lão thố hàn thiềm khấp thiên sắc,
Vân lâu bán khai bích tà bạch.
Ngọc luân loát lộ thấp đoàn quang,
Loan bội tương phùng quế hương mạch.
Hoàng trần thanh thuỷ tam sơn hạ,
Canh biến thiên niên như tẩu mã.
Dao vọng Tề Châu cửu điểm yên,
Nhất hoằng hải thuỷ bôi trung tả
(Mộng Thiên)
Dịch nghĩa
Thỏ già, cóc lạnh khóc tạo nên sắc trời
Lầu mây hé mở, tường bạc nghiêng nghiêng.
Bánh xe ngọc lăn sương, quầng sáng ướt,
Đeo ngọc bội chim loan, tương phùng trên đường toả mùi hoa quế.
Dưới ba quả núi, bụi vàng, nước trong,
Nghìn năm thay đổi tựa ngựa phi.
Nhìn từ xa, Tề châu chỉ là chín điểm khói,
Nước sâu một biển đổ vừa một cái chén.
Ngòi bút của Lý Hạ cũng mang đến những nét miêu tả kỳ lạ về thế giới ma quỷ trong các bài thơ
"Thu lai" và "Thần huyền khúc". Bút pháp tượng trưng tâm linh mà Lý dùng trong các bài thơ sau này
còn khiến cho nhiều độc giả "khó có thể lĩnh hội" được. "Thần huyền khúc" là tên của một ca khúc dân
gian nổi tiếng, xuất hiện sớm nhất vào thời Lục triều và Lý đã vay mượn tên của ca khúc này cho thơ của
ông. Ca khúc có xuất xứ tại ở vùng Nam Kinh, là một bài ca lễ nghi dùng trong các buổi lễ tôn giáo để
mời gọi các vị thần linh. Thơ của Lý miêu tả thế giới siêu nhiên nhưng không giống với nội dung trong
nguyên tác dân gian. Ông thường xuyên kết hợp những hình tượng màu sắc và cảm quan trong thơ của
mình. GIÁ TRỊ THẨM MĨ
Sự khó hiểu ở thơ ông là bởi tư duy thơ, cảm quan về vũ trụ và con người của nhà thơ đã vượt qua logic
thông tục. Vì thế tác phẩm mang tính bất thường, tính hoang đản. Không yên bình, bị thôi thúc bởi khát
vọng sáng tạo, luôn khắc khoải, mãi kiếm tìm ý nghĩa nhân vị trong cõi siêu hình là nét đặc trưng đặc sắc
ở thơ Lý Hạ.
Đã có nhà nghiên cứu xếp thơ Lý Hạ vào loại “thơ tắc tị/ thơ mê hoặc”. Hậu thế ca tụng ông là quỷ tài, và
gọi thơ ông là quỷ thi.
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ LÝ HẠ GIÁ TRỊ THẨM MĨ