Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 67

Câu 1: Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không

gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS).
Nhận định Sai.
Bản chất của tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS 2015 là dù hậu
quả có chết người hay không nhưng người phạm tội thấy trước được hậu quả chết
người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên sẽ xảy ra), nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã
thực hiện hành vi phạm tội hay người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có
thể nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể
xảy ra, nhưng để đạt được mục đích của mình, người phạm tội có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra cũng đều quy về tội giết người.
Cấu thành vật chất có 2 mô hình: hậu quả xác định dấu hiệu định tội và hậu quả xác
định tội phạm hoàn thành
Câu 2: Động cơ đê hèn là dấu hiệu định tội của Tội giết người (Điều 123 BLHS).
Nhận định Sai.
CSPL: Điểm đ Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015; Điểm q Khoản 1 Điều 123
BLHS 2015
Động cơ đê hèn được hiểu là người phạm tội thực hiện tội phạm với động cơ
rất xấu xa, thấp hèn, đáng khinh bỉ, không quan tâm đến danh dự, nhân phẩm, tư cách
của một con người. Theo Điểm đ Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 thì phạm tội vì động
cơ đê hèn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, do đó động cơ đê hèn dù có được
đề cập đến ở Điểm q Khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 thì cũng là tình tiết tăng nặng chứ
không phải là dấu hiệu định tội của tội giết người.
Động cơ đê hèn không phải dấu hiệu định tội mà chỉ là dấu hiệu định khung tăng nặng
Câu 3: Mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội
giết người (Điều 123 BLHS).
Nhận định Sai
Để quy vào tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015 thì cần phải thỏa mãn các
yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm khách thể, khách quan, chủ quan, chủ thể. Có thể
kể đến ví dụ về cố ý giết người nhưng không truy cứu trách nhiệm hình sự như thi
hành án tử hình, tước đoạt tính mạng người khác do phòng vệ chính đáng,…
Câu 4: Tình tiết “giết phụ nữ mà biết có thai” là trường hợp giết 02 người trở
lên.
Nhận định Sai
CSPL: Điểm c Khoản 1 Điều 123, Điểm a Khoản 1 Điều 123, Điều 30 BLDS
2015
“Giết phụ nữ mà biết có thai” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 123 và “giết
02 người trở lên” tại Điểm a Khoản 1 Điều 123 là hai hành vi hoàn toàn khác nhau.
Đối tượng tác động đến của từng hành vi phạm tội trên đều khác nhau. Căn cứ Điều
30 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền được khai sinh, khai tử như sau:
- Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh.
- Cá nhân chết phải được khai tử qua đó có thể hiểu thời điểm bắt đầu sự sống
của con người là kể từ lúc được sinh ra và tồn tại độc lập với người mẹ.

Câu 5: Tình tiết giết 02 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người
chết trở lên.
Nhận định Sai
CSPL: Điểm a Khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.
“giết 02 người trở lên” là trường hợp người phạm tội cố ý giết từ hai người trở
lên, có thể cùng một lần hoặc nhiều lần và không cần thiết phải đòi hỏi dấu hiệu hậu
quả chết người. “giết 02 người trở lên” không nhất thiết phải đòi hỏi dấu hiệu hậu quả,
tức là dấu hiệu hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tình tiết này khi xem xét áp
dụng. Nếu người phạm tội cố ý thực hiện hành vi giết hai người trở lên thì người đó sẽ
bị áp dụng ngay tình tiết “giết 02 người trở lên” mà không cần xem xét đến yếu tố hậu
quả xảy ra. Trong trường hợp hậu quả chết người chưa xảy ra thì sẽ áp dụng tình tiết
giết 02 người trở lên với giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
Câu 6: Sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý
làm chết người (Điều 128 BLHS).
Nhận định Sai.
CSPL: Mục 12 Phần I Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002
“Vô ý” là không ý thức được hành vi đó sẽ là hành vi có tính chất phạm tội
nhưng có đủ điều kiện ý thức được, do vậy tùy từng trường hợp sẽ có thể quy là tội
giết người hoặc là tội Vô ý làm chết người.
Căn cứ Mục 12 Phần I Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của
Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn:
“1. Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép đế chống trộm cắp mà làm chết
người thì người phạm tội phải bị xét xử về tội giết người
2. Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để diệt chuột, chống súc vật phá
hoại mùa màng thì cần phân biệt
+ Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có
làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính
mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xảy ra và thực tế
là có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội giết người
+ Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại,
có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nguy hiểm và tin rằng hậu quả chết người không
thể xảy ra…, nhưng hậu quả có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử
về tội vô ý làm chết người”.
Tham khảo công văn Công văn số 81/2002/TANDTC vì đây là văn bản hướng dẫn
cho BLHS 1999
Dựa vào mục đích và ý thức sử dụng của người thực hiện hành vi
Nếu dùng để chống trộm thì là lỗi cố ý gián tiếp( bỏ mặt bất chấp hậu quả) thì bị quy
vào tội giết người
Không hướng đến con người( trường hợp sử dụng điện trái phép để diệt chuột, chống
súc vật phá hoại mùa màng)thì nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc bất chấp hậu quả vẫn bị
quy vào tội giết người
Câu 7: Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội
giết con mới đẻ (Điều 124 BLHS)
Nhận định sai
CSPL: Điều 124 BLHS 2015
Đầu tiên, người thực hiện hành vi này phải là người mẹ thì mới có thể áp dụng
được Tội giết con mới đẻ nếu không phải thì sẽ áp dụng điểm b khoản 1 Điều 123
BLHS quy định về giết người dưới 16 tuổi. Thứ hai, việc áp dụng tội giết con mới đẻ
còn có điều kiện là người mẹ từ ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi vì thế
hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi là chưa đủ cơ sở để cấu thành tội
theo Điều 124 BLHS 2015.
Câu 8: Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124
BLHS)
Nhận định đúng
CSPL: khoản 2 Điều 124 BLHS 2015
Theo khoản 2 Điều 124 BLHS 2015 về tội vứt con mới đẻ có quy định về hậu
quả của hành vi phạm tội “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu
hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày
tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết”. Căn cứ theo quy định trên thì cấu thành tội phạm
của tội trên là cấu thành tội phạm hình thức có nghĩa là có quan tâm đến hậu quả của
hành vi. Vì thế, nạn nhân chết là dấu hiệu định tội vứt bỏ mới đẻ.
Khoản 2 là dấu hiệu giảm nhẹ đặc biệt
Nếu không có hậu quả là nạn nhân chết thì bị quy vào tội khác như cố ý gây thương
tích
Câu 9: Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều
125 BLHS)
Nhận định sai
CSPL: Điều 125 BLHS 2015
Để cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì cần
phải thỏa mãn hai điều kiện sau: người bị giết phải có hành vi phạm tội nghiêm trọng
đối người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của người bị giết và trạng thái tinh thần kích
động mạnh của người phạm tội. Từ đó, không phải mọi trường hợp giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều thỏa mãn hai điều kiện trên dẫn đến cấu
thành tội danh được quy định trong Điều 125 BLHS 2015.
Câu 10: Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp
pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người
trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS)
Nhận định sai
CSPL: Điều 127 BLHS 2015
Để được cấu thành tội làm chết người trong khi thi hành công vụ thì cần thỏa
mãn hai điều kiện gồm chủ thể thực hiện hành vi phải là người đang thi hành công vụ
và hành vi đó phải thông qua việc dùng vũ lực. Có thể thấy không phải mọi hành vi
làm chết người do dùng vũ lực trừ những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi
hành công vụ đều cấu thành tội làm chết người trong khi thi hành công vụ mà còn
phải xác định chủ thể có phải là người đang thi hành công vụ không và hành vi đó
phải xuất phát từ lợi ích chung chứ không phải do hống hách, coi thường tính mạng
của người khác, hoặc do tư thù thì đều không thuộc phạm vi của tội này mà thuộc
Điều 123 BLHS 2015 quy định về Tội giết người.
Nếu xuất phát từ động cơ cá nhân thì không áp dụng điều 127 mà áp dụng điều 123
Câu 11: Không phải mọi hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp đều cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
(Điều 129 BLHS)
Nhận định đúng
CSPL: Điều 129 BLHS 2015
Cấu thành tội phạm của Điều 129 quy định về Tội vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp cần phải thỏa mãn về chủ thể phải là người có nghĩa vụ
tuân thủ quy tắc nghề nghiệp đó và phải do vi phạm quy tắc nghề nghiệp dẫn đến chết
người và cuối cùng là hậu quả là phải có người chết. Vì thế, dù có hành vi làm chết
người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp thì phải xem chủ thể có đáp ứng được điều
kiện trên hay không.
Điều 315 liên quan đến sức khỏe cộng đồng vượt qua sức khỏe cá nhân
khac khach the cac truong hop lien quan den an toan cong cong thi thi se ap dung
chuong khac chuong nay chi ve khach the lien quan den pham vi nho hon
Câu 12: Nạn nhân từ vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS)
Nhận định sai
CSPL: Điều 130 BLHS 2015
Theo Điều 130 BLHS 2015 có quy định về hành vi phạm tội là “Người nào đối
xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm
người đó tự sát” mà không đề cập đến hậu quả là làm nạn nhân tử vong hay không.
Điều này đồng nghĩa với việc đây là tội phạm cấu thành ý thức không quan tâm đến
hậu quả. Từ đó, Nạn nhân tử vong không phải là dấu hiệu định tội của tội bức tử.
hau qua bien dang xu su cua nan nhan chi dung lai o nan nhan chet chu khong nhat
thiet tu sat
Câu 13: Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng
của chính họ thì cấu thành tội bức tử (Điều 130 BLHS)
Nhận định sai
CSPL: Điều 130,131 BLHS 2015
Nội dung cấu thành tội phạm của tội bức tử là “hành vi đối xử tàn ác, thường
xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát” và
nội dung này mang ý nghĩa khác với với hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người
khác tự tước đoạt tính mạng của chính họ. Chính vì thế các hành vi này không được
xem là cấu thành tội bức tử mà được quy định tại Điều 131 BLHS 2015 quy định về
tội xúi giục người khác tự sát.

Câu 14: Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại
là hành vi cấu thành tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS)
Nhận định này là sai
CSPL: Điều 131 BLHS 2015
Theo điểm b khoản 1 Điều 131 BLHS 2015, người tạo điều kiện tinh thần hoặc
vật chất cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ thì sẽ bị kết vào tội giúp người
khác tự sát. Hành vi trên mang ý nghĩa đóng vai trò tạo Điều kiện để nạn nhân sử
dụng các Điều kiện đó mà tự sát chứ Chủ thể tội phạm không trực tiếp tước đi tính
mạng của nạn nhân. Còn hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác dù có theo
yêu cầu của người bị hại hay không đều là hành vi khách quan của tội giết người. Như
vậy, cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại không là
hành vi cấu thành tội giúp người khác tự sát.

Câu 15: Hành vi đối xử tàn ác, làm nhục đối với người bị lệ thuộc nếu không dẫn
đến hậu quả nạn nhân tự sát thì không cấu thành tội phạm.

Nhận định Sai

CSPL: Điều 140 BLHS 2015

Hành vi đối xử tàn ác, làm nhục người khác đối với người lệ thuộc nếu không
dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì vẫn cấu thành tội phạm hình thức theo điều 140
BLHS 2015 cấu thành Tội hành hạ người khác.

Điều 185 BLHS; Điều 130 BLHS

Câu 16: Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội
hành hạ người khác (Điều 140 BLHS).

Nhận định Sai


CSPL: Điều 185, Khoản 1 Điều 140 BLHS 2015

Có trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thuộc các trường hợp tại
Điều 185 thì không phải mọi trường hợp đều là Tội hành hạ người khác.

Nếu dẫn đến người đó tự sát thì áp dụng Điều 130 BLHS 2015

Câu 17: Dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với
tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì có thể cấu thành Tội cố ý gây thương tích
(Điều 134 BLHS).

Nhận định Đúng

CSPL: Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015

Tại Khoản 1 điều này có quy định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại đến sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương dưới 11% được quy định tại Khoản 1
điều này thì có thể cấu thành Tội cố ý gây thương tích; tại điểm a Khoản này có đề
cập tới hành vi dùng vũ khí thì vũ khí ở đây có thể xem là gạch đá.

Câu 18: Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
dưới 11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).

Nhận định Sai:

CSPL: Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015

Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương dưới 11%
nhưng thuộc 1 trong các trường hợp được quy định tại Khoản 1 điều này vẫn có thể
cấu thành Tội cố ý gây thương tích theo điều 134 BLHS 2015.

Câu 19: Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố
ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).

Nhận định Đúng

CSPL: Điều 135 BLHS 2015; Điều 134,136 BLHS 2015

Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý gây
thương tích mà còn có thể cấu thành Tội phạm được quy định tại điều 135 BLHS khi
dấu hiệu định tội cơ bản ở tội này cũng có quy định về hành vi cố ý gây thương tích.

Cố ý gây thương tích nhưng chưa đạt mức độ hậu quả 11% thì không có tội

Câu 20: Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội vô
ý gây thương tích (Điều 138 BLHS).

Nhận định Đúng

CSPL: Điều 138, 139 BLHS 2015


Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác có thể cấu thành nhiều tội khác
nhau như 2 điều trên có quy định về hành vi vô ý gây thương tích.

Câu 21: Mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân
trái với ý muốn của họ đều cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS).

Nhận định Sai

CSPL Điều 142 BLHS 2015

Tại điểm a Khoản 1 điều này có quy định về hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ mà nạn nhân từ đủ 13 đến dưới 16 thì
cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Câu 22: Mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc mình phải
miễn cưỡng giao cấu đều cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi theo quy định tại Điều 144 BLHS.

Nhận định sai

Căn cứ vào Khoản 1, Điều 144, BLHS Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi:

“1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn
cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt
tù từ 05 năm đến 10 năm”.

Đối tượng tác động của tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi là đối
tượng đặc biệt - dưới 16 tuổi nhưng phải đủ 13 tuổi. Nên trong trường hợp dùng thủ
đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc mình phải miễn cưỡng giao cấu với mình
nhưng người đó lại dưới 13 tuổi thì lúc này hành vi trên sẽ không cấu thành Tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 mà cấu thành tội hiếp dâm người dưới mười sáu tuổi
theo điểm b khoản 1 Điều 142 BLHS 2015.

Câu 23: Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành
Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).

Nhận định sai.

CSPL: Điều 145, Điểm b Khoản 1 Điều 142 BLHS 2015

Không phải mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu
thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS). Hành vi giao cấu thuận tình với người dưới
16 tuổi cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS) khi chủ thể thực hiện hành vi giao
câu thuận tình với người dưới 16 tuổi là người thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) và đối
tượng tác động là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn trường hợp dưới 13 tuổi
(cũng dưới 16 tuổi) mà Người phạm tội có hành vi như trên thì sẽ bị kết tội tại điểm b
khoản 1 Điều 142 Tội hiếp dân người dưới 16 tuổi, dù có thuận tình hay không thuận
tình.

Nếu người từ 14 đến dưới 16 giao cấu với người dưới 13 tuổi thì không bị xử tội vì
chưa đủ tuổi chịu TNHS

Câu 24: Mọi hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS).

Nhận định sai

Theo Điều 146 BLHS thì người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện
các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

Bên cạnh đó Căn cứ khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP không xử


lý hình sự theo quy định tại Điều 146 Bộ luật Hình sự 2015 Tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi) nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người
tàn tật, có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của họ nhưng
không có tính chất tình dục (ví dụ: cha, mẹ tắm rửa, vệ sinh cho con dưới 10 tuổi;
giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ mầm non...);

- Người làm công việc khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế; người cấp cứu, sơ cứu
người bị nạn có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận
khác của người dưới 16 tuổi nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: bác sĩ khám,
chữa bệnh cho bệnh nhân; sơ cứu, cấp cứu người bị tai nạn, người bị đuối nước...).

Câu 25: Mọi hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu
dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức thì
cấu thành Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147
BLHS).

Nhận định sai

Căn cứ Khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự năm 2015, người nào đủ 18 tuổi trở
lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp
chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức thì phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm; và người phạm tội
này bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Như vậy, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội ở tội này phải từ đủ 18 tuổi trở
lên, còn ở độ tuổi dưới 18 tuổi không phạm tội.
Câu 26: Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của
nạn nhân.

Nhận định sai.

Không phải mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật chỉ là giao cấu trái với ý
muốn của nạn nhân.

Trong trường hợp giao cấu thuận tình với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (theo
Khoản 1, Điều 145, BLHS) hoặc giao cấu với người dưới 13 tuổi (dù thuận tình hay
trái ý muốn) (theo Điểm b, Khoản 1, Điều 142, BLHS) thì vẫn là giai cấu trái pháp
luật.

Không trái ý muốn nhưng giao cấu cùng huyết thống cũng là trái pháp luật theo điều
184

Mua dâm người dưới 18 tuổi dù thuận tình nhưng trái phái luật theo Điều 239

Câu 27: Mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho
người khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS).

Nhận định sai.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 148 quy định về Tội lây truyền HIV cho người khác:

“1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người
khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự
nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm”.

Theo đó, không phải mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây
truyền bệnh cho người khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều
148 BLHS). Trong trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị
HIV và tự nguyện quan hệ tình dục thì hành vi cố ý lây truyền bệnh cho người khác
của người nhiễm HIV không bị cấu thành tội lây truyền HIV cho người khác

Nếu lây HIV bằng con đường tình dục thì phải áp dụng từ 141 đến 145 và biết mình bị
HIV là dấu hiệu định khung tăng nặng
Câu 28: Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành tội mua bán người (điều 150
BLHS)
Nhận định sai
CSPL: Điều 150 151 BLHS 2015
Không phải mọi hành vi mua bán người nào cũng cấu thành tội mua bán người theo
Điều 150 BLHS 2015. Bởi lẽ nếu đối tượng bị tác động là người dưới 16 tuổi thì sẽ
cấu thành Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 BLHS 2015
Câu 29: Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản
thì cấu thành tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi ( điều 153 BLHS )
Nhận định Sai
Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản không
cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS. Theo quy
định tại Điều 153 BLHS, tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi cấu thành khi có hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người
khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi mà trong hành vi khách quan không có mục đích
nhằm chiếm đoạt tài sản. Còn hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm
chiếm đoạt tài sản sẽ cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS)
Câu 30: Mọi hành vi giữ người dưới 16 tuổi đều cấu thành tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi ( điều 153 BLHS )
Nhận định sai
CSPL : điều 153 BLHS 2015
Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi có mặt khách quan là dùng vũ lực và đe doạ dùng
vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người
dưới 16 tuổi do đó không phải mọi hành vi giữ người dưới 16 tuổi đều cấu thành tội
chiếm đoạt người dưới 16 tuổi mà chỉ khi người phạm tội thực hiện hành vi dùng vũ
lực , đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác . theo quy định tại khoản 3 điều 2 nghị
quyết 02/2019/NQ-HĐTP thì mới cấu thành tội phạm
Đ 157 xâm phạm quyền tự do thân thể của nạn nhân
Đ 153 cách ly hoàn toàn khỏi môi trường sống thông thường và xâm phạm đến quyền
nhân thân
Câu 31: Mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành tội mua bán
người dưới 16 tuổi ( điều 153 BLHS )
Nhận định này là sai.
Theo quy định tại Khoản 3, Chương 4, NQ 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986, Pháp luật
hình sự đã loại trừ đi một số trường hợp mà cha mẹ vì đông con hoặc vì khó khăn đặc
biệt mà phải bán con mình (dưới hình thức cho làm con nuôi và nhận một số tiền giúp
đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm muộn mà mua chính người có con đem bán để về
làm con nuôi thì không phạm tội.
Ka Đ1 Đ151
K3 Đ7 NQ 03/2017
NQ 02/2019
Trừ trường hợp tại khoản 1 điều 153 thì không bị cấu thành tội bán con đẻ
Câu 32: Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác chỉ cấu thành Tội chiếm
đoạt bộ phận cơ thể người (Điều 154 BLHS).
Nhận định sai
k1đ6 nghị quyết 02 . đ154
CSPL : Khoản 1 Điều 154 BLHS 2015
hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác không chỉ cấu thành tội chiếm đoạt bộ
phận cơ thể người theo điều 154 BLHS 2015. Theo quy định tại khoản 1 điều 153
BLHS 2015 thì trong trường hợp người phạm tội lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
nhưng không thuộc trường hợp lấy bộ phận quyết định sự sống thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 154 BLHS 2015.
Câu 33: Mọi hành vi mua bán mô hoặc bộ phận cơ thể người đều cấu thành tội
mua bán mô hoặc bộ phận cơ thể người ( điều 154 BLHS )
Nhận định đúng SAI ĐIỀU 150 151
CSPL: điều 154 BLHS 2015
Căn cứ vào quy định tại Điều 154, BLHS về Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ
phận cơ thể người
“1. Người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác, thì bị phạt tù
từ 03 năm đến 07 năm”.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể người khác còn cấu thành một tội phạm
riêng biệt đó là Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154,
BLHS)
Nhận định sai
Người nào tự mua bán mô của chính bản thân thì không cấu thành tội mua bán mô
theo điều 154 BLHS
Tội mua bán người để chiếm đoạt mô thì áp dụng điều 151 BLHS
Câu 34: Mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật đều
cấu thành tội vu khống ( điều 156 BLHS 2015 )
Nhận định này là sai.
CSPL: Điều 156 BLHS 2015
Không phải mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu
thành Tội vu khống (Điều 156 BLHS). Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 156,
BLHS thì hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác là dấu hiệu khách quan của Tội vu khống (Điều 156 BLHS). Do vậy, nếu
trong trường hợp bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhưng không xúc
phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác thì sẽ không là dấu hiệu khách quan của Tội vu khống (Điều 156
BLHS)
Nếu bịa đặt loan truyền những việc sai sự thật mà ảnh hưởng đến an ninh quốc gia
chống CQNN thì áp dụng điều 117
Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân áp dụng điều 331 (khách thể là an ninh
quản lý hành chính)
Câu 35: Chỉ có nam giới mới là chủ thể của Tội hiếp dâm ( Điều 141 BLHS)
Nhận định trên là Sai
CSPL: khoản 1 Điều 141 BLHS 2015
Theo khoản 1 Điều 141 BLHS 2015 quy định, chỉ cần người có dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng
thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn
của nạn nhân thì đều là chủ thể của Tội hiếp dâm chứ không phải chỉ nam giới
Câu 36: Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định là
dấu hiệu của định của khung Tội giết người ( điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS)
Nhận định trên là Sai
CSPL: điểm b khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 150 BLHS; điểm d khoản 3 Điều 151
BLHS
Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác không chỉ được quy định là dấu
hiệu của định của khung Tội giết người điểm b khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 150
BLHS mà còn được quy định ở Tội mua bán người tại và Tội mua bán người dưới 16
tuổi điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS
Câu 37: Hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà làm nạn nhân chết thì
không cấu thành Tội bắt, giữ hoặc giam người người trái pháp luật ( Điều 157
BLHS)
Nhận định trên là Đúng
CSPL: điểm a khoản 3 Điều 157 BLHS 2015
Hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà làm nạn nhân sẽ được xét vào Tội bắt,
giữ hoặc giam người người trái pháp luật với khung tăng nặng Làm người bị bắt, giữ,
giam trái pháp luật chết hoặc tự sát.
Câu 38: Hành vi bắt, giữ hoặc giam giữ người trái pháp luật không chỉ là dấu
hiệu định tội của Tội bắt, giữ hoặc giam người người trái pháp luật ( Điều 157
BLHS)
Nhận định trên là Sai
CSPL: khoản 1 Điều 301, điểm b khoản 1 Điều 302 BLHS 2015
Đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam giữ người trái pháp luật còn được quy định ở Tội
bắt cóc con tin tại khoản 1 Điều 301 BLHS
“Người nào bắt giữ, giam người khác làm con tin và đe dọa giết, làm bị thương hoặc
tiếp tục giam, giữ người đó nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc
tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để
thả con tin”
Và Tội cướp biển tại điểm b khoản 1 Điều 302 BLHS 2015
“Tấn công hoặc bắt giữ người trên tàu biển, phương tiện bay hoặc phương tiện hàng
hải khác quy định tại điểm a khoản này;”
Câu 39: Hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ Nhà
nước , tổ chức xã hội , các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu
quả nghiêm trọng thì cấu thành Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa
thải người lao động trái pháp luật ( Điều 162 BLHS )

Nhận định trên là đúng

Xét về mặt khách quan của tội phạm này để hành vi cưỡng bức, buộc người lao động
đang làm việc ở các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi
việc trái pháp luật được coi là tội nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng. Trường hợp chưa
gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý bằng các biện pháp khác. Trong câu nhận
định trên thỏa mãn dấu hiệu khách quan này nên hành vi đó cấu thành Tội buộc công
chức viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật theo Điều 162
BLHS 2015

Câu 40: Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa
thải người lao động trái pháp luật ( Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên chức
hoặc người lao động của cơ quan nhà nước.
Nhận định trên là Sai
CSPL: điểm b khoản 1 Điều 162 BLHS
Theo điểm b khoản 1 Điều 162 BLHS, đối với Tội buộc công chức, viên chức thôi
việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật chỉ cần đối tượng tác động là người lao
động bị sa thải trái pháp luật đều là đối tượng tác động của điều luật trên
Câu 41: Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS)
phải là người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Nhận định sai
CSPL: điều 12 BLHS 2015; điều 21 BLHS 2015; điểm a, b khoản 1 điều 166 BLHS
2015
Chủ thể của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo cũng phải đảm bảo các điều kiện
về: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, điều 21 BLHS
2015.
Chủ thể của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo là người có thẩm quyền trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo là chủ thể đặc biệt thuộc trường hợp được quy định tại
điểm b khoản 1 điều 166 BLHS 2015. Còn một trường hợp khác là chủ thể thường
cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm nếu thuộc trường hợp được điểm a khoản 1
điều 166 BLHS 2015.
Câu 42: Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan của Tội
xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS).
Nhận định đúng
CSPL: Điểm b khoản 2 điều 166 BLHS 2015
Trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan được quy định tại Điểm b khoản
2 điều 166 BLHS 2015. Đó là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn hoặc của
người khác vì bị khiếu nại, tố cáo hoặc tuy không bị khiếu nại tố cáo nhưng có liên
quan đến việc khiếu nại, tố cáo hoặc có liên quan đến người bị khiếu nại, tố cáo đã có
hành vi gây thiệt hại (làm hại) cho người đã khiếu nại, tố cáo mình hoặc người mà
mình quan tâm.
Câu 43: Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn (Điều
181 BLHS).
Nhận định đúng
CSPL: Điều 181 BLHS 2015
Điều 181 BLHS 2015 đã quy định người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự
tự nguyện của họ hoặc cản trở người khác kết hôn, duy trì quan hệ hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ… dù bằng các thủ đoạn nào thì đều là hành vi cấu thành Tội cưỡng ép
kết hôn.
Câu 44: Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều
cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS).
Nhận định đúng
CSPL: Khoản 1 Điều 182 BLHS 2015
Theo khoản 1 điều 182 BLHS 2015, vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy
định là hành vi của “Người đang có vợ, có chồng mà kết hồn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ”. Tội vi phạm
chế độ một vợ, một chồng xâm phạm một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hôn
nhân và gia đình là nguyên tắc một vợ, một chồng.
Do đó, mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều cấu
thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Câu 45: Chỉ giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ mới cấu thành Tội
loạn luân (Điều 184 BLHS).
Nhận định đúng
CSPL: Điều 184 BLHS 2015
Theo quy định tại Điều 184 Bộ Luật Hình sự 2015 người phạm tội loạn luân là người
giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ là hành vi cấu thành
Tội loạn luân.
Câu 46: Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi
chỉ quy định trong cấu thành Tội loạn luân (Điều 184 BLHS).
Nhận định sai
CSPL: khoản 2 mục 6 thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC; Điều 184 BLHS 2015, điểm c khoản 2 điều 145 BLHS 2015
Trong trường hợp mà hành vi giao cấu giữa những người nói trên là thuận tình, nhưng
nếu hành vi đó được thực hiện đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì không
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội loạn luân mà phải truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi có tính chất loạn luận theo điểm c khoản 2 điều 145 BLHS 2015.
Câu 47: Mọi hành vi hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình đều cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu
hoặc người có công nuôi dưỡng mình (Điều 185 BLHS).
Nhận định đúng
CSPL: Điều 185 BLHS 2015
Theo quy định tại điều 185 BLHS 2015 thì hành vi đối xử tồi tệ hay hành vi bạo lực
xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình là hành vi khách quan để cấu thành Tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình. Do đó, nhận định trên là đúng.
II. Bài Tập 6 19 22 36

Bài tập 1

Ông Nh và D cùng đi trên ghe biển (ghe cái) do ông H làm tài công. Vào khoảng 21
giờ ngày 01/09/2022, khi ghe đang neo đậu tại tọa độ 08024’N- 104001’E, thuộc vùng
biển C thì H, Ch, Nh, D, D1, S, T tổ chức uống rượu ở sau lái ghe. Đến khoảng 00 giờ
ngày 02/09/2022, tiệc nhậu chỉ còn D và ông Nh thì xảy ra mâu thuẫn trong việc dọn
rửa chén. Ông Nh chửi thề và nói: “Mày không rửa để tạo rửa”. Lúc này, D lấy một
chiếc đũa tre tại mâm nhậu đâm một cái vào lưng ông Nh (chiếc đũa bị gãy), D lấy
chiếc đũa thứ hai đâm vào lưng ông Nh (chiếc đũa bị gãy). Cả hai lần đâm không gây
thương tích. D tiếp tục đi vào chỗ bếp nấu ăn tại cabin tầng một lấy con dao (dao Thái
Lan cán nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 20 cm, mũi nhọn,
sắc, dao dùng để vá cào, xẻ mực và làm bếp) đi đến chỗ ông Nh ngồi, D đâm một cái
trúng vào lưng ông Nh rồi rút dao ra và ném xuống biển. Lúc này, D1, T, Ch đưa ông
Nh vào ca bin tầng một sơ cứu nhưng ông Nh đã tử vong.
Sau đó, T điều khiển ghe khác đưa D và Nh cùng các thuyền viên vào trình báo tại
Công an vào ngày 02/9/2022.
Biên bản khám nghiệm tử thi và Kết luận giám định pháp y đối với Nh ghi nhận và kết
luận:
Khám ngoài:
- Vùng đầu, mặt, cổ, gáy, ngực, bụng: không dấu vết thương tích.
- 01 vết thương cách bờ trái cột sống ngực D8 07cm, kích thước 02 cm x 0,5 cm, kéo
miệng 2,5 cm. Vết thương có bờ sắc hướng ra ngoài, bờ hơi tù hướng vào trong, theo
hướng từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới.
Khám trong:
- Khí quản: Có ít dịch bọt hồng trong lòng khí.
- Phổi phải sung huyết.
- Khoang màng trái chứa khoảng 3500ml máu loãng và máu đông. Phổi trái xẹp.
- Thủng đáy phổi trái, kích thước 02 cm, sâu 0,5 cm.
- Thủng động mạch chủ ngực, kích thước: 01 cm.
- Rách khoang liên sườn VIII-IX vùng lưng trái, kích thước 06 cm x 0,7 cm, thông với
vết thương cách bờ trái cột sống ngực D8 07 cm, kích thước 02 cm x 0,5 cm.
- Kiểm tra vết thương có độ sâu 9,5 cm.
- Các tạng trong ổ bụng không dập vỡ.
Cận lâm sàng:
- Độc chất (Hóa pháp): Kèm theo Bản kết luận giám định pháp y về Hóa pháp, ngày
14/9/2022 của Phân viện Pháp y Quốc gia: Trong mẫu máu vụ Nh, gửi tới giám định
ngày 09/9/2022 có tìm thấy Ethanol với hàm lượng 265,18 mg/100 ml và không tìm
thấy Methanol.
Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp/Vết thương thủng động mạch chủ ngực.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của D có phạm tội không? Tại sao?

Hành vi của ông D là có phạm tội.

Tội danh của ông D là Tội giết người quy định tại Điều 123 BLHS 2015

Khách thể: quyền được bảo vệ tính mạng, quyền được sống của ông Nh.

Đối tượng tác động: con người đang sống với ý nghĩa là một thực thể tự nhiên, ở đây
nạn nhân là ông Nh.

Khách quan:

- Hành vi: Ông D đã dùng dao đâm vào lưng ông Nh dẫn đến ông Nh tử vong.
Đây là hành vi nhằm mục đích tước bỏ tính mạng người khác một cách trái
pháp luật. Chủ thể lấy con dao (dao Thái Lan cán nhựa màu vàng, lưỡi bằng
kim loại màu trắng dài khoảng 20cm, mũi nhọn, sắc, dao dùng để vá cào, xẻ
mực và làm bếp) đâm vào ông Nh khiến ông Nh tử vong.
- Hậu quả: Nh chết do vết thương bị dao đâm dẫn đến vết thương thủng động
mạch chủ ngực. Ông Nh đã chết vậy nên đây là tội phạm đã hoàn thành.
- Mối quan hệ nhân quả: Hành vi “đâm một cái trúng vào lưng ông Nh rồi rút
dao ra” của D là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả đối với ông Nh là “Sốc
mất máu cấp/Vết thương thủng động mạch chủ ngực.” Đây là mối quan hệ
nhân quả đơn trực tiếp, chỉ có 1 hành vi trái pháp luật là hành vi ông D dùng
dao đâm vào lưng ông Nh đóng vai trò là nguyên nhân gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.

Công cụ, phương tiện gây thương tích: con dao (dao Thái Lan cán nhựa màu vàng,
lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 20cm, mũi nhọn, sắc, dao dùng để vá cào, xẻ
mực và làm bếp) được D sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Chủ quan: Ông D đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Đầu tiên ta
thấy có sự xô xát giữa ông D và ông Nh và không có sự ngăn cản, hoà giải. Theo động
cơ phạm tội đó mà ông D đã 2 lần dùng đũa đâm vào lưng ông Nh nhưng không gây
thương tích nên sau đó ông D dùng dao đâm và dẫn đến hậu quả là ông Nh chết. Sau
khi nhận thấy nạn nhân mất ý thức, D cố tình ném dao xuống biển nhằm phi tang
chứng cứ, đây không phải là hành động trong lúc trạng thái mất nhận thức.Ông D hạn
chế về mặt nhận thức do sử dụng rượu bia do đó Ông D lúc thực hiện tội phạm không
tự chủ được bản thân, D về ý chí thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả xảy ra.

Chủ thể: Chủ thể phạm tội là ông D là chủ thể thường (D đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự).

Bài tập 2
A làm rẫy trồng măng tre cho anh ruột là N và sinh sống tại đây. Trong quá trình sinh
sống, A mâu thuẫn với ông C về việc ông C nuôi heo xả nước thải gây hôi thối. A và
ông C đã nhiều lần tranh cãi với nhau nhưng không giải quyết được. Khoảng 19 giờ
ngày 07/01/2022 sau khi đi uống bia vệ thì ngửi thấy mùi hôi thối do nước thải từ trại
nuôi heo của ông C, A bực tức nảy sinh ý định đánh ông C nên lấy 01 (một) dao tự
chế kích thước dài 89 cm, cán tròn hình trụ đường kính 3,8 cm, lưỡi dài 20 cm bê rộng
nhất 9,7 cm, dùng để xắn măng tre và sử dụng xe mô tô đi sang trại heo của ông C
(cách chỗ ở của A khoảng 200 mét). Khi sang đến trại heo, A thấy ông C đang cởi trần
đứng tại khu vực nhà tắm cạnh trại heo. A dùng hai tay cầm dao tự chế xông tới để
chém ông C. Thấy vậy ông C bỏ chạy về phía ao rau muống gần đó thì A đuổi theo
kịp, A dùng hai tay cầm dao chém liên tiếp 03 (ba) cái theo hướng từ trên xuống, từ
trái qua phải vào vùng ngực phải – bụng trái, hông, đầu – vai bên trái của ông C. Sau
khi chém ông C, A đến Công an xã đầu thú. Quá trình điều tra, A đã khai nhận toàn bộ
hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại Giấy chứng nhận thương tích, Bệnh viện đa khoa tỉnh T đối với ông C chuẩn đoán
như sau: Vết thương thấu ngực bụng đứt xương ức, sụn sườn 5-10 bên trái + thủng
màng tim, rách chân cơ hoành trái + rách gan hạ phân thùy II trái/bị chém.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích, Trung tâm Pháp y tỉnh T đối với
ông C kết luận như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương thấu ngực bụng (24 x 0,3) cm, đứt
xương ức, đứt sụn sườn 5, 6, 7, 8, 9, 10, thủng màng tim, rách chân cơ hoàng trái, rách
gan hạ phân thùy II trái, đã phẫu thuật khâu cơ hoành, khâu sụn sườn, vết mổ đường
giữa bụng trên dưới rốn (15 x 0,2) cm, vết mổ dẫn lưu vùng bụng phải (1 x 0,3) cm,
sẹo lành.
2. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 59% (năm mươi chín
phần trăm).
3. Cơ chế hình thành vết thương: Vết thương thấu ngực bụng (24 x 0,3) cm, đứt xương
ức, đứt sụn sườn 5, 6, 7, 8, 9, 10, thủng màng tim, rách chẵn cơ hoành trái, rách gan hạ
phân thùy II trái: Chiều từ trên xuống chếch từ phải qua trái, hướng từ trước ra sau, bờ
sắc gọn, khả năng do vật sắc gây ra.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?

Hành vi của A là có phạm tội

Tội danh của A là Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015

Khách thể: A đã xâm phạm đến quyền quyền được sống của ông C.

Khách quan:

- Hành vi: A dùng dao tự chế chém ông C nhiều lần dẫn đến ông C bị thương tật
với tỉ lệ 59%. Đây là hành vi nhằm mục đích tước bỏ tính mạng người khác
một cách trái pháp luật. Chủ thể sử dụng hung khí là dao tự chế chém liên tiếp
03 (ba) cái theo hướng từ trên xuống, từ trái qua phải vào vùng trọng yếu của
ông C.
- Hậu quả: Ông C có nhiều vết thương nặng trên cơ thể với tỷ lệ thương tật là
59%
- Mối quan hệ nhân quả: Hành vi “chém liên tiếp 03 (ba) cái theo hướng từ trên
xuống, từ trái qua phải vào vùng ngực phải – bụng trái, hông, đầu – vai bên
trái” của A trực tiếp dẫn đến hậu quả “Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích
gây nên hiện tại là 59%” của ông C

Chủ quan: Động cơ phạm tội của A mâu thuẫn cá nhân của A đối với ông C, do là
ông C nuôi heo xả nước thải gây hôi thối ảnh hưởng đến A. Từ mâu thuẫn đó dẫn tới
A có ý định ban đầu là đánh ông C. Nhưng sau khi hoàn thành được mục đích đánh
ông C bằng gậy sắt, A lại liên tục chém vào phần trọng điểm của ông C với ý định
muốn ông C thiệt mạng. A hoàn toàn tự chủ được bản thân, nhận thức được rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả xảy ra nhưng sau đó vì lý do của cá nhân đã không hoàn thành và đi đầu thú
và ông C bị thương tích tỷ lệ 59%. Đây là phạm tội chưa đạt theo Điều 15 BLHS
2015.

Chủ thể: Chủ thể phạm tội là ông A là chủ thể thường (nếu A đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 và có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự) .

Bài tập 3

Chị N sinh con nhưng đứa bé sinh ra bị dị tật bẩm sinh, không có chân tay. Lần đầu
nhìn thấy con, chị N đã bị sốc và ngất xỉu. 10 ngày sau khi sinh, do không làm chủ
được mình, chị N lấy tay chùm chăn, bịt mặt đứa bé cho đến khi không còn thấy nhịp
tim đập nữa mới bỏ ra. Hậu quả đứa bé chết.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của N có phạm tội không? Tại sao?

Sau khi sinh con, do thấy con mình không lẳn lặn như các đứa trẻ khác nên chị N đã
nghĩ quẩn, thực hiện hành vi giết chính đứa con của mình. Thời điểm hành vi phạm tội
được thực hiện là 10 ngày sau khi sinh, do đó không thỏa cấu thành về mặt khách thể
Khoản 1 Điều 124 BLHS 2015

Do hành vi giết con của chị N được thực hiện sau 07 ngày tuổi nên sẽ không phải giết
con mới đẻ mà chuyển thành Tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015.

Khách quan:

Bởi lẽ tội giết người của chị N là CTTP vật chất nên bao gồm hành vi, hậu quả và mối
quan hệ nhân quả.
Hành vi: chị N lấy tay chùm chăn, bịt mặt đứa bé cho đến khi không còn thấy nhịp tim
đập nữa mới bỏ ra.

Hậu quả: Đối tượng tác động là đứa trẻ đã chết

Mối quan hệ nhân quả: Hành vi lấy tay chùm chăn bịt mặt đứa trẻ cho đến khi không
còn thấy nhịp tim nữa mới bỏ ra của chị N đã trực tiếp gây nên cái chết cho đứa trẻ.

Chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Chị N nhận thức được
hành vi của mình, thấy trước được hậu quả là đứa bé sẽ chết và mong muốn hậu quả
ấy xảy ra.

Chủ thể: Đây là chủ thể thường, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự đối với tội danh này là 14 tuổi trở lên

Khách thể: Quan hệ xã hội bị xâm phạm ở đây là tính mạng là quyền nhân thân của
đối tượng bị tác động cụ thể là đứa bé do chính chị N sinh ra.

Kết luận: Hành vi của chị N phạm tội giết người với tình tiết tăng nặng dưới 16 tuổi
theo Điểm b Khoản 1 Điều 123 BLHS 2015

Bài tập 4

Chị H có chồng là anh B và có 02 con chung. Sau khi sinh bé thứ hai thì chị H và anh
B sống ly thân do không muốn có thêm con. Do thiếu thốn tình cảm, chị H có quan hệ
với anh T và dẫn đến có thai. Khi phát hiện thì thai đã lớn nên không thể bỏ thai được.
Chị H không nói cho ai biết về việc có thai và thường mặc quần áo rộng để che giấu.
Khoảng 23 giờ ngày 20/6, chị H đã tự sinh được một cháu bé gái tại nhà vệ sinh của
gia đình, lo sợ việc sinh con ngoài giá thú sẽ ảnh hưởng hạnh phúc gia đình và bị mọi
người chê cười, dị nghị nên ngay sau khi sinh cháu bé, chị H đã vứt bỏ con do mình
mới đẻ ra ở khu vực đất trồng rau muống, mé bờ sông gần nhà ông C. Khoảng 11 giờ
ngày 21/6, ông C phát hiện cháu bé và đưa đi sơ cứu tại Trạm y tế xã sau đó đưa đi
cấp cứu tại Bệnh viện nhi của tỉnh. Đến 0 giờ 35 phút ngày 8/7, cháu bé chết tại Bệnh
viện nhi do viêm phổi, mô da cơ viêm loét hoại tử và hoại tử đông vón do nhiệt độ
cao.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?

Lo sợ việc sinh con ngoài giá thú sẽ ảnh hưởng hạnh phúc gia đình và bị mọi người
chê cười, dị nghị nên ngay sau khi sinh cháu bé, chị H đã vứt bỏ con do mình mới đẻ
đây là ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hay trong hoàn cảnh khách quan khác.
Thời điểm chị H vứt bỏ con của mình là 23 giờ ngày 20/6, tức là ngay sau khi đứa con
được sinh ra. Hậu quả cháu bé chết là dấu hiệu xác định tội phạm đã cấu thành.
Do đó người mẹ phải chịu tội vứt bỏ con mới đẻ được quy định tại khoản 2 Điều 124
BLHS 2015.

Khách quan: Tội vứt bỏ con mới đẻ nà là CTTP vật chất, do đó mặt khách quan sẽ
bao gồm hành vi. hậu quả và mối quan hệ nhân quả

Hành vi: Ngay sau khi sinh cháu bé, chị H đã vứt bỏ con do mình mới đẻ ra ở khu vực
đất trồng rau muống, mé bờ sông gần nhà ông C

Hậu quả: Cháu bé chết tại Bệnh viện nhi do viêm phổi, mô da cơ viêm loét hoại tử và
hoại tử đông vón do nhiệt độ cao.

Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vứt bỏ cháu bé ra nơi có điều kiện ngoại cảnh xấu đã
khiến cháu bé tử vong do viêm phổi, mô da cơ viêm loét hoại tử và hoại tử đông vón
do nhiệt độ cao.

Chủ quan: Đây là lỗi cố ý gián tiếp. Chị H để cháu bé ở khu vực đất trồng rau muống
mé bờ sông gần nhà ông C, khu vực này khả năng cao có người qua lại và dễ dàng bị
phát hiện, càng rõ hơn với chi tiết “khoảng 11 giờ ngày 21/06 ông C phát hiện cháu và
đưa đi cứu.”. Do đó có thể thấy chị H tuy không mong muốn cháu bé chết nhưng thấy
được hậu quả mà vẫn để hậu quả đó xảy ra.

Chủ thể: Đây là chủ thể đặc biệt là chị H - người mẹ sinh đứa trẻ là nạn nhân

Khách thể: Chị H đã xâm phạm đến quyền được sống của đứa bé.

Phản biện: Nếu xác định đây là lỗi cố ý trực tiếp thì chẳng phải cho rằng ý định thực
sự của hành vi bỏ đứa con mình ra khu vực đất trồng rau muống của chị H là mong
muốn đứa trẻ chết? nếu vậy thì sẽ trở thành tội giết con mới đẻ theo Khoản 1 bởi tội
giết con mới đẻ có thể thực hiện dưới dạng hành động như đâm đánh đập con và
không hành động như bỏ mặc, không cho con bú,...

Bài tập 5

A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu, nhưng do gia đình ép gả nên
phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C - người yêu cũ của B. Biết vậy,
nên gia đình B khuyên A đưa vợ lên làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh. A nghe lời
đem vợ lên sống ở thành phố. Dù vậy, B vẫn lén lút quan hệ với C bằng cách viện lý
do đi khám bệnh và lưu lại bệnh viện để điều trị ít ngày, nhưng thực chất là 2 người
hẹn hò nhau tại một khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biệt được nên đã báo cho
A biết mối quan hệ giữa B và C, đồng thời cho A biết số xe Honda của C. Một hôm,
vì mất điện nên A về nhà sớm hơn thường lệ thì thấy B chuẩn bị quần áo nói là đi
chữa bệnh tại bệnh viện. A không tin nên chạy nhanh ra đường cái, cách nhà khoảng
200m thì thấy một thanh niên đang ngồi trên một chiếc xe Honda có biển số như gia
đình B đã báo trước. Quá tức giận, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay,
dài 60cm, phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát
cực mạnh khiến anh thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên đường cấp cứu tới
bệnh viện. Khi kiểm tra căn cước của người bị hại thì mới xác định được nạn nhân
không phải là C mà chính là bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh nhầm
người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?

A phạm lỗi Giết người theo Điều 123 BLHS 2015

Khách quan:

Cường độ tấn công: A phang nhiều phát cực mạnh

Vị trí tác động: Ở đầu đây là vị trí trọng yếu của cơ thể

Hung khí: khúc gỗ to bằng cổ tay, dài 60cm, đây có thể xem là vũ khí thô sơ nguy
hiểm.

Hành vi: A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm, phang thẳng vào
đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh

Hậu quả: Anh thanh niên chết

Mối quan hệ nhân quả: Hành vi nhặt khúc gỗ và phang thẳng vào đầu anh thanh niên
đang ngồi trên xe gắn máy của A đã khiến anh thanh niên tử vong.

Chủ quan: Đây là lỗi cố ý trực tiếp, A nhận thức được hành vi của mình, thấy trước
được hậu quả và mong muốn cho hậu quả xảy ra.

Chủ thể: Chủ thể của hành vi phạm tội này là anh A có đủ năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Khách thể: Quyền được sống của anh thanh niên mà anh A đánh nhầm.

Bài tập 6

Khoảng 18 giờ ngày 19/12, Đ đến nhà anh H ăn cơm, uống rượu cùng một số người
khác trong đó có T và S. Trong lúc ăn uống, S và T có lời qua tiếng lại với nhau. S gọi
T ra ngoài sân và tát T, T xin lỗi rồi cả hai quay vào tiếp tục uống rượu. Khoảng 10
phút sau, Đ đi ra ngoài thì S và T cũng đi theo ra bờ đê, S tát T một cái làm T ngã
xuống đất. Đ thấy thế chạy đến hỏi T có sao không thì T khóc và nói: “Bố mẹ em
không đánh em mà nó đánh em. Em giết nó”. Sau đó, T chạy tìm đồ vật đánh S. Đ
chạy theo ôm T và nói: “Em đã say chưa? Có nhận ra anh không?”, T trả lời: “Có anh
Hai ạ”. Lúc này, các anh C và D đi xe máy đến, anh D dừng xe lấy thuốc lá ra hút, anh
C nói với S: “Nó là cháu tao đấy, mày đánh nó tạo còn chưa nói đô tư”. Đ can ngăn,
đẩy T và S vào trong nhà anh H.

Đ thấy anh C nói với S như vậy nên bực tức vào trong sân nhà anh H lấy một con dao
nhọn rồi đi ra bờ đê chỗ anh C và anh D đang đứng. Đ nói: “Các ông thích đánh nhau
lắm à mà đổ thêm dầu vào lửa”. C nói: “Tao thích đánh nhau, thích đổ thêm dầu vào
lửa đẩy. Mày là thằng nào mà đến đây hổ báo”. Đ cầm dao chỉ vào mặt anh C nói:
“Mày thích đánh nhau à?” rồi đâm một nhát vào bụng anh C. Anh C bỏ chạy, Đ quay
lại túm cổ áo anh D và đậm một nhát vào người anh D. Anh D bỏ chạy, Đ và S đuổi
theo sau. Đ đuổi kịp, dùng tay túm cổ áo anh D, S dùng tay tát vào đầu, mặt anh D,
dùng chân đá vào người anh D. Đ cầm dao đâm nhiều nhát vào người anh D làm anh
D ngã sấp xuống đất. Đ dùng dao đâm tiếp 03 nhát vào người anh D làm anh D gục
hẳn, khi thấy anh D nằm bất tỉnh, Đ và S bỏ chạy.

Bản kết luận giám định pháp y tử thi kết luận: nguyên nhân chết của anh D là sốc do
mất máu cấp và suy hô hấp cấp. Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích kết
luận thương tích của anh C tại thời điểm giám định: sẹo vết thương phần mềm, gãy
xương sườn X bên trái, không gây tràn dịch, tràn khí màng phổi; nhiều khả năng các
thương tích do vật sắc gây nên; tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 05%. (Đây là thương tích
giám định sau 5 tháng xảy ra vụ án).

Trong vụ án này, Hội đồng xét xử xác định hành vi gây ra thương tích cho anh C của
Đ phạm vào Tội giết người (Điều 123 BLHS).

Theo Anh (chị), Toà án dựa vào những tình tiết, lập luận nào để kết luận tội
danh đối với Đ?

1.vị trí cơ thể bị tấn công (vị trí hông )

2.công cụ phương tiện sử dụng (dao)

3.sức mạnh sự mãnh liệt hành vi

4. ý thức chủ quan

Khách thể: Đ xâm phạm đến Quyền được sống của anh C.

Đối tượng tác động: anh C người đang sống.

Khách quan:

Đây là CTTP vật chất nên sẽ bao gồm các yếu tố hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân
quả.
Hành vi:

Vị trí tác động: Đ đâm vào bụng đây là vị trí trọng yếu trên cơ thể của con người,
trước đó anh Đ cầm dao chỉ thẳng mặt anh C xong mới hướng dao xuống phía dưới
chứng tỏ anh Đ hoàn toàn đủ nhận thức được hành động. Hành vi đâm vào vùng bụng
của anh C hoàn toàn xuất phát từ ý chí muốn giết người của Đ.

Hung khí: Dao

Cường độ, mức độ tấn công: Ý chí chủ quan của Đ là muốn thực hiện hành vi giết
người này đến cùng bởi mục tiêu của Đ là cả C và D: “...H lấy một con dao nhọn rồi
đi ra bờ đê chỗ anh C và anh D đang đứng. Đ nói: “Các ông thích đánh nhau lắm à
mà đổ thêm dầu vào lửa”. …” Trong khi D bị Đ đâm với cường độ liên tục thì C chạy
được nên chỉ bị đâm 1 nhát, do đó có thể xác định rằng nếu việc C chạy kịp ấy đã tạm
thời ngừng hành vi phạm tội của Đ khiến không được liên tục như ý chí của Đ.

Hậu quả: Anh C có nhiều vết thương trên cơ thể với tổng tỷ lệ thương tật sau 5 tháng
là 05%

Mối quan hệ nhân quả: Hành vi “ đâm một nhát vào bụng C” thực hiện bởi Đ trực
tiếp dẫn đến hậu quả “sẹo vết thương phần mềm, gãy xương sườn X bên trái, không
gây tràn dịch, tràn khí màng phổi; nhiều khả năng các thương tích do vật sắc gây
nên; tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 05%. (Đây là thương tích giám định sau 5 tháng xảy ra
vụ án).” cho anh C.

Chủ quan: Đây là lỗi cố ý trực tiếp. Đ nhận thức được hành vi của mình, thấy trước
hậu quả và mong muốn hậu quả ấy xảy ra. Hành vi của Đ được thực hiện với mong
muốn tước đoạt mạng sống của C, C bỏ chạy được khiến hành vi phạm tội của Đ
không được thực hiện tới cùng

Chủ thể: Chủ thể của hành vi phạm tội ở đây là Đ, đủ năng lực trách nhiệm hình sự,
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Hành vi của Đ tác động lên C nhằm tước đoạt tính mạng của C, hậu của C chết là
mong muốn của Đ nhưng không xảy ra do nguyên nhân ngoài ý muốn, do đó theo
Điều 15 BLHS 2015 Đ phạm tội chưa đạt và sẽ phải chịu trách nhiệm về tội phạm
chưa đạt đó, Đ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Giết người theo Điều 123
BLHS 2015.

Bài tập 7

Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K và cậu con trai
tên là H. Gia đình bên kia có ông cụ là A cùng hai con trai tên là B và C. Ban ngày các
con đều đi làm nên ông A thường hay qua nhà bà K chơi. Sau một thời gian, ông A
mang gạo góp với bà K nấu cơm chung. B và C không đồng ý vì cho là cha mình bị bà
K dụ dỗ, đem tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt quan hệ với bà K
nhưng ông A không nghe và vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là sự bất đồng
trong gia đình mình là do bà K gây ra nên quyết định gây án. Vào 3 giờ sáng, B cầm
đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà bà K. B và C châm lửa đốt nhà,
đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. Bà K và H chạy ra đến cửa thì thấy B
đang quơ đuốc xông tới, C cầm dao lao vào tấn công H. H xông tới C, giành được con
dao từ tay C và chém đứt bàn tay C. Ngay lúc đó, B dùng đuốc xông tới gần H. H
nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ, đồng thời H quay sang đối phó
với B thì bà con vừa kịp đến.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?

Hành vi của H là tội giết người giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
theo quy định Điều 125 BLHS 2015.

Các dấu hiệu pháp lý mà hành vi của A gây ra đều cấu thành loại tội phạm này:

*Xét về khách thể, tính mạng con người, quyền được sống của C và có đối tượng tác
động là C.

*Về mặt khách quan, H đã chém đứt bàn tay của C và sau đó H chém tiếp vào đầu C
và dẫn đến C chết. Có thể thấy việc B đang phóng hỏa và C trước đó đang cầm dao
với ý định tấn công mẹ con H, với các dụng cụ trên tay và động cơ rõ ràng là tước
đoạt mạng sống của hai mẹ con K và H thì cả B và C đều đang có hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng. Ngoài ra, việc H và người thân thích của H là bà K trở thành đối
tượng của các hành vi trên cũng là một cơ sở để khẳng định bản thân H đang trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nên H thỏa mãn các điều kiện của Điều 125
BLHS 2015 quy định về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
mối quan hệ nhân quả giữa việc bị kích động tinh thần trước các hành vi của C sau đó
dùng con dao tấn công C dẫn đến cái chết của C

*Chủ thể của vụ án này là anh H và là chủ thể thường. do đề bài không nói đến nên
coi H là chủ thể thường

*Mặt chủ quan, hành vi của H được xem là cố ý trực tiếp bởi vì H nhận thức được hậu
quả của việc mình làm nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó và mong muốn hậu
quả xảy ra.

Bài tập 8

A là đối tượng không có việc làm ổn định, thường uống rượu, gây gổ, đánh nhau và bị
cha mẹ rầy la. Khoảng 17 giờ 30 phút, sau một chầu nhậu về, A bắt đầu chửi ông Th
(bố đẻ của A) với những lời lẽ hết sức hỗn láo: “Ngày trước tao còn nhỏ mày đánh
tao, bây giờ tao đã lớn, thằng nào há miệng tạo bóp cổ chết tươi”. Đúng lúc đó, B (anh
ruột của A) đi làm về nghe A chửi cha nên rất bực tức, đã chỉ mặt A răn đe: “Nếu còn
hỗn láo với cha mẹ, có ngày tao đánh chết”. Dù vậy, A vẫn tiếp tục chửi ông Th. Thấy
A hỗn láo quá mức, B bị kích động, chạy ngay vào bếp rút con dao lưỡi bầu mũi nhọn
(kích thước 25cm x 7cm) đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng A khiến A gục chết tại chỗ.
Khi định tội cho vụ án có 2 quan điểm:
a. B phạm Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125
BLHS).
b. B phạm Tội giết người (Điều 123 BLHS).
Theo anh (chị), B đã phạm tội gì? Tại sao?
Để cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh người phạm
tội phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 125 BLHS 2015 và cụ thể là:

+ Thứ nhất, nguyên nhân của tình trạng tinh thần bị kích thích mạnh là do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của chính nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân
của người phạm tội.

+ Thứ hai, phải có hậu quả là nạn nhân chết.

Ở tình huống trên việc A chửi mắng bố đẻ là ông H thì không có quy định nào
quy định trong luật đây là hành vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên trong trường hợp
B giết A sẽ không được xem là hành vi thuộc Điều 125 BLHS 2015.

Vì thế B đã phạm tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS 2015 dựa
trên các dấu hiệu pháp lý sau:

* Khách thể: B xâm phạm đến quyền nhân thân của A cụ thể là quyền được sống

* Khách quan: B dùng con dao lưỡi bầu mũi nhọn đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng A
dẫn đến cái chết của A có thể thấy độ quyết liệt của mình trong hành động, từ đó ta có
thể nhận thấy ý chí của B lúc này là muốn đâm chết B. Hậu quả là B tử vong. Mối
quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: hành động B cầm dao đâm liên tiếp 4 nhát
vào bụng A là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả A tử vong

* Chủ thể: B là chủ thể thực thường của hành vi trên

* Chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp bởi vì B nhận thức được hành vi của mình sẽ gây ra cái
chết của A nhưng vẫn phớt lờ thông qua việc đâm liên tiếp 4 nhát khiến A không qua
khỏi.

Bài tập 9
Bà X cho các con cất nhà ở riêng trên phần đất của nhà bà, cụ thể là: A (con ruột) ở
cuối hẻm, B (con rể) cất nhà ở phía trước nhà trong A. Tất cả sử dụng con hẻm chung
rộng 1,2m để làm lối đi vào nhà. Do B thưởng đê bếp lò trong đường hẻm nướng đồ
nhậu gây vướng đường đi lại, nên bà X nhiều lần kêu B dọn bếp vào 1 nhà. Ngày
14/8, bà X lại nhắc nhở B, B cho rằng A xúi bà X đến nói, B hét to: “Tao đâm chết mẹ
mày rồi về ngoài quê ở, xem ai làm gì tao”. Lúc này, A ở trong nhà đang cầm con dao
Thái Lan gọt trái xoài ăn. B cầm khúc cây tầm vông (dài 1m, đường kính 3,5cm, một
đầu vót nhọn) xông vào nhà đập A một cái từ trên xuống nhưng A đưa tay trái lên đỡ
nên trúng cổ tay bị thương nhẹ phần mềm. Ngay sau đó, B cầm chiếc ấm nhôm ném
trúng vào vai A rồi lao vào dùng tay chân đấm đá vào người A. A chụp được con dao
trên bàn, đâm một nhát chống trả, trúng vào ngực của B, rồi vứt con dao bỏ chạy. B
chết trên đường đi cấp cứu.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội hay không? Tại sao?

Tội danh mà A đã phạm là Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng theo Điều 126,132 BLHS 2015. Hành vi của A đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của Tội danh này:

*Khách thể: Xâm phạm quyền nhân thân cụ thể là quyền được sống của B. Đối tượng
tác động là B.

*Mặt khách quan: B dùng cây tầm vông dài 1m, đường kính 3,5cm, một đầu vọt nhọn
tấn công A không dừng lại ở đó B tiếp tục cầm ấm nhôm ném vào bả vai A và tiếp tục
đấm đá A. Có thể thấy rằng hành vi của B sẽ không dừng lại nếu A không làm gì.
Việc A chụp được con dao trên bàn, đâm một nhát trúng vào ngực của B hoàn toàn là
phòng vệ chính đáng. Hậu quả là B chết trên đường đi cấp cứu. Mối quan hệ nhân quả
giữa hậu quả và hành vi là Hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả B
tử vong.

phai tan cong vao nguoi dung va phai co dong co phong ve

dieu 125 blhs 2015

*Chủ thể A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ
năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định).

*Mặt chủ quan A thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, việc này thể hiện
qua A biết hành vi của mình là nguy hiểm cho tính mạng của B nhưng vẫn thực hiện
để phòng vệ cho bản thân.

Ngoài ra, việc thấy B hấp hối sau khi bị mình đâm trúng nhưng A lại bỏ trốn vì
thế A vi phạm Điều 132 BLHS 2015 quy định về Tội không cứu giúp người đang ở
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Bài tập 10

Thực hiện kế hoạch của Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố MT, về triệt xóa các
tụ điểm tệ nạn xã hội dưới hình thức đá gà ăn thua bằng tiền trên địa bàn xã MP, thành
phố MT. Lê Trần Duy Hữu H là trinh sát viên của Đội Cảnh sát hình sự Công an
thành phố MT được phân công tham gia cùng Đội Cảnh sát hình sự thực hiện kế
hoạch nêu trên.
Khoảng 10 giờ ngày 29/12/2022, Công an thành phố MT nhận được tố giác của quần
chúng nhân dân đối với việc tụ tập, tổ chức đá gà xảy ra tổ 14 ấp MT, xã MP, thành
phố MT, tỉnh Tiền Giang nên phân công thiếu tá Nguyễn Văn D - Trinh sát phụ trách
xã MP làm Tổ trưởng cùng với Nguyễn Văn Đ, Võ Thành L, Dương Minh T, Lê Trần
Duy Hữu H và 02 Công an viên xã MP là Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn X đến để xử lý
vụ việc.
Sau khi được phân công, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô chở H (xe H đứng tên
giấy chứng nhận đăng ký) đi trước đến khu vực có thông tin tố giác đá gà, do đây là
thời gian được phân công trực nên H có mang theo khẩu súng ngắn hiệu DUTY
CZ75P-07, mang mã số B170622 cùng 01 hộp tiếp đạn có 14 viên đạn bên trong được
giao quản lý trong ca trực, những người còn lại đi sau đến khu vực xảy ra đá gà.
Khi đến tổ 14, ấp MT, xã MP, thành phố MT cả hai dùng xe gửi tại nhà dân rồi đi đến
sân gà, D đi phía trước, H đi sau cách D khoảng 15 mét, tại khu vực sân gà lúc này có
Dương Quốc M, Nguyễn Thanh C, Nguyễn Văn L, Đồng Quốc Tr. Khi nghe tin có
Công an đến thì những người nêu trên đều bỏ chạy, chỉ còn lại C đang đứng cuối sân
gà nên D chạy đến nắm cổ áo của C. Cùng lúc này, H đang chạy phía sau D, rút khẩu
súng ngắn hiệu DUTY CZ75P-07, mang mã số B170622 từ trong người ra, lên đạn
nhưng do không quen địa hình nên H bị trượt làm súng bị cướp cò nổ 02 viên đạn
không trúng ai. H tiếp tục chạy vào cuối sân gà mặt quay về hướng tây - khu vực có
vườn cây che khuất tầm nhìn, H nổ 03 phát súng chỉ thiên theo hướng đưa nòng súng
từ dưới lên trên để các đối tượng tham gia đá gà sợ, không quay lại tấn công anh D và
H. Tuy nhiên, thời điểm này có Nguyễn Văn L và Đồng Quốc Tr đang chạy trong
vườn cây cách đó 25,5m nên bị trúng đạn từ súng của H, làm L bị thương ở vùng cổ,
Tr bị thương ở các ngón tay bàn tay phải nên cả hai được đưa đến bệnh viện cấp cứu.
Nguyễn Văn L bị thương được đưa đến Bệnh viện Chợ Rẫy cấp cứu, điều trị và tử
vong ngày 10/01/2023.
Tại Biên bản khám nghiệm tử thi ngày 10/01/2023, ghi nhận như sau:
Vết thương vùng sau cổ phải khoảng đốt sống C5, C6 có kích thước (0,7 x 0,5) cm.
Mở da vết thương vùng cổ ghi nhận: Cắt chỉ vết khâu vết thương ở sau cổ phải có kích
thước (02 x 15) cm. Vết thương xuyên thẳng vào cột sống cổ kích thước 45cm. Hướng
vết thương từ dưới lên trên, từ phải qua trái, từ sau ra trước.
Gãy nát gai và mỏm ngang C5, C6 bên trái. Bao bọc tủy cổ còn nguyên.
Mở bao bọc tủy cổ dập, tụ máu đoạn tủy C5, C6. Kiểm tra đường đi vết thương xuyên
xuống xương hàm trái.
Kiểm tra vết mổ trong miệng, bên trái: Vết mổ mặt trong xương hàm trái. Tại Bản kết
luận giám định pháp y về tử thi của Trung tâm pháp y tỉnh TG, kết luận nguyên nhân
tử vong của Nguyễn Văn L như sau: Vết thương xuyên thấu C5, C6, dập tủy cổ. Sung
huyết, xuất huyết tụ máu nhu mô não và đoạn tủy dập. Thiểu dưỡng cơ tim cấp. Sung
huyết phổi cấp.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?

Tội danh mà H đã phạm là Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo
Điều 127 BLHS 2015. Hành vi của H đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của

Điều 127 Hvi khách quan là quan trọng nhất

Tội danh này:

*Khách thể: Xâm phạm quyền nhân thân cụ thể là quyền được sống của Nguyễn Văn
L (gọi tắt là L). Đối tượng tác động là L.

*Mặt khách quan: H bắn 3 phát súng chỉ thiên đưa từ dưới lên trời vô tình bắn vào góc
khuất tại vườn cây nơi có L và Tr đang chạy trốn trong đó vô tình gây ra cái chết của
L từ vết thương ở cổ. Hành vi của H được xem là đang vì lợi ích chung vì đây là
những tội phạm tổ chức đá gà trái phép vì hành vi này được thực hiện trong khi H
đang thi hành công vụ và không thuộc các trường hợp được pháp luật cho phép nên
thỏa mãn các điều kiện của Điều 127 BLHS quy định về Tội làm chết người trong khi
thi hành công vụ. Hậu quả là L tử vong. Mối quan hệ nhân quả là Hành vi bắn súng
của H là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của L.

*Chủ thể H thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể là người đang thi
hành công vụ.

*Mặt chủ quan H thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý làm chết người khi đang thi
hành công vụ, việc này thể hiện qua A biết hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vì
lợi ích chung H buộc phải thực hiện hành vi này và vô tình dẫn đến cái chết của L.

bắn chỉ thiên là phải bắn theo phương thẳng đứng từ dưới lên

Nơi bắn là vườn cây có nguy cơ cao bắn trúng người

Bài tập 11:

Khoảng 06 giờ, ngày 01/5/2022, Hoàng Văn H đến nhà Triệu Văn Q hộ ông Q thịt
lợn. Đến 11 giờ cùng ngày H cùng một số người khác ăn cơm, uống rượu tại nhà ông
Q; khoảng 14 giờ thì H cùng Đàm Văn H1, Đặng Văn Th, Hoàng Thế H2, Phạm
Mạnh L về nhà H hát karaoke. Khi mọi người hát được khoảng một giờ thì có ông
Nông Văn T trú cùng thôn với H đến hát cùng mọi người. Lúc này ông T đã có biểu
hiện say do uống rượu. Lúc sau, H đi vệ sinh; khi quay lại H thấy H1 và ông T đang
cãi nhau; H1 đứng đối diện ông T; ông T một chân bước trên phần hiên nhà, một chân
đứng dưới sân dùng tay túm cổ áo H1 nên H1 nói: “Anh làm gì vỗ em mạnh thế”.
Thấy H1 và ông T chuẩn bị đánh nhau nên H vào can ngăn và chui vào giữa hai người
đồng thời dùng hai tay gạt đẩy H1 và T ra làm cho H1 đi vào nhà, còn ông T bị ngã
ngửa, đầu đập xuống nền sân làm bằng bê tông. Đúng lúc này thì có Đặng Văn Th,
Nông Minh Khang (Khang đang đến đón H2) đứng trước cổng nhà của H, cách vị trí
ông T bị ngã do H gạt tay đẩy là 9,1m không bị che khuất tầm nhìn, chứng kiến toàn
bộ sự việc xảy ra. Sau khi bị ngã, T không bị chảy máu hay bị thương tích gì ở ngoài
cơ thể nên Th, H2 và L cùng đưa ông T về nhà ông T cách nhà H khoảng hơn 100m
và mọi người đều nghĩ ông T say rượu nên đi về. Đến sáng ngày 02/5/2022, gia đình
phát hiện ông T bị nôn nên đưa đến trung tâm y tế Huyện NR cấp cứu, sau đó chuyển
đến Bệnh viện đa khoa tỉnh B. Đến chiều cùng ngày ông T bị tử vong.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi đối với nạn nhân Nông Văn T lập hồi 19 giờ 00 phút
ngày 02/5/2022 thể hiện:

Vùng đầu: T bộ vùng đầu không có vết rách da, chảy máu…

Mổ tử thi: Vùng đầu. Tổ chức dưới da đầu vùng trán đỉnh bị tụ máu (Kích thước 19cm
x 10cm). Điểm tụ máu cách trên giữa cung lông mày hai bên là 8cm. Xương hộp sọ bị
nứt vỡ ở giữa xương trán lên xương đỉnh, đường vỡ dài 19cm, khe vết vỡ nhỏ dưới
0,1cm. Xuất Huyết lan tỏa ngoài màng não hai bên. Tổ chức não không bị dập nát.…

Theo hồ sơ bệnh án vào viện số: 832 ngày 02/5/2022, của bệnh viện đa khoa tỉnh B
thể hiện: Ông Nông Văn T vào viện hồi 11 giờ 01 phút ngày 02/5/2022, ra viện hồi 14
giờ ngày 02/5/2022 do xuất huyết não diện rộng.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 57/KL-KTHS ngày 10/5/2022 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Nguyên nhân chết của nạn nhân Nông Văn T,
sinh năm 1973, trú tại Thôn KN, thị trấn YL, Huyện NR, tỉnh B bị xuất huyết màng
não 3 không hồi phục gây trụy tuần hoàn và hô hấp dẫn đến tử vong. Cơ chế gây ra
xuất huyết màng não là do nạn nhân bị chấn thương vùng đầu (Vùng đỉnh ra vùng
chẩm) với vật tày, cứng có bề mặt tương đối rộng, phẳng, không có ụ, gờ, cạnh sắc và
lực tác động không quá mạnh gây ra.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?

Tội danh mà H đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS 2015. Hành
vi của H đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội danh này:

*Khách thể: Xâm phạm quyền nhân thân cụ thể là quyền được sống của T. Đối tượng
tác động là T.

*Mặt khách quan: H vì muốn can ngăn cuộc ẩu đả có thể xảy ra giữa T và H1 nên đã
có hành vi dùng tay gạt đẩy H1 và T ra vô tình làm ông T té ngã ngửa đập đầu xuống
nền sân làm bằng bê tông.Ngoài ra, H sau khi thấy ông T bị ngã đã kiểm tra ông T và
không phát hiện ra bất cứ thương tích hay vết thương nào trên người ông T. Tối hôm
sau ông T bị tử vong do xuất huyết màng não 3 (xuất phát từ việc té đập đầu dẫn đến
nứt vỡ sọ). Hậu quả là ông T tử vong. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là
hành vi H làm ngã ông T khiến đầu ông T bị va đập mạnh xuống đất dẫn đến cái chết
của ông T.

*Chủ thể H thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này (chủ thể thường)

*Mặt chủ quan H thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý vì quá tự tin việc này thể
hiện thông qua H biết hành vi của mình là nguy hiểm nhưng nhưng nghĩ rằng hậu quả
sẽ không xảy ra, không mong muốn gây ra những tổn hại về vật chất và tinh thần cho
nạn nhân nhưng thực tế hành vi ấy đã gây ra cái chết cho T. cẩu thả không nhận thức
được hành vi của mình sẽ gay ra hau qua vi trong luc say xin thi tac dong đến 2 người
là như nhau nhưng 1 người lại vô nhà được vì thế cẩu thả ở đây là việc kiểm tra nạn
nhân nhưng không thấy các dấu hiệu bị thương tích nên không nghĩ hậu quả sẽ có

Bài tập 12:

Anh S và anh P cùng làm việc tại công ty BĐ. Ngày 15/4, P uống rượu say trong giờ
làm việc, bị anh S dùng điện thoại di động chụp ảnh, báo cáo lãnh đạo nên P có ý
định trả thù anh S. Ngày 14/6, P gọi điện thoại cho bạn là Đ nói việc mâu thuẫn nêu
trên và thuê Đ đánh trả thù. Đ nói sẽ giới thiệu người khác thực hiện. Tối ngày 17/6, P
gặp Đ và M (bạn Đ) kể lại việc mâu thuẫn và thuê Đ, M đánh anh S, bằng cách dùng
dao đâm vào chân, tay nạn nhân. P trả cho Đ và M 03 triệu đồng.

Khoảng 19 giờ ngày 20/6, M gặp P thống nhất là sẽ đánh anh S vào ngày 21/6.
Khoảng 09 giờ ngày 21/6, P dẫn M đến đen đường anh S sẽ đi qua để đi họp vào đầu
giờ buổi chiều cùng ngày và cung cấp số điện thoại của anh S cho M. Sau đó P quay
về Công ty. 14 giờ cùng ngày. M gọi điện thoại hẹn gặp anh S, khi anh S đến, M đã
dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đậm 02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh S chết.
Tại Bản giám định pháp y kết luận: Nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải,
vết phía trên xuyên vào cơ đùi 03cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi
sau gây chảy mất nhiều máu, Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp không hồi phục do
và thương động mạch. t thương Trong vụ án này, Hội đồng xét xử xác định tội danh là
Tội cố ý gây thương tích (khoản 4 Điều 134 BLHS). Theo Anh (chị), Toà án dựa
vào những tình tiết, lập luận nào để kết luận tội danh như trên?

Hội đồng xét xử xác định tội danh là Tội cố ý gây thương tích (Khoản 4 Điều
134 BLHS) dựa trên các tình tiết, lập luận sau:
*Khách thể: Xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người. Đối
tượng tác động là S.

*Mặt khách quan: Dựa trên hành vi của M là việc dùng dao nhọn để đâm 2 nhát vào
mặt sau đùi phải làm anh S chết do mất nhiều máu nên hành vi đó là hoàn toàn là cố ý
và mong muốn hoặc để mặc cho anh S bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không
mong muốn anh S chết và hậu quả là nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải,
vết phía trên xuyên vào cơ đùi 03cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi
sau gây chảy mất nhiều máu. quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là hành vi của
anh M đã gây ra các thương tổn về sức khỏe và gây ra cái chết của anh S.

*Chủ thể M thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này (chủ thể thường)

*Mặt chủ quan M thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý gián tiếp vì ý định ban đầu
của M bàn với P là sẽ đánh S vào chân và tay chứ không có ý định giết nhưng vì sốc
mất máu cấp không hồi phục do vết thương động mạnh nên đã chết.

Ngoài ra, tòa có thể áp dụng tình tiết tăng nặng cho M tại điểm a khoản 4 ĐIều 134
BLHS 2015 vì tuy là cố ý gây thương tích nhưng hậu quả mà anh M gây là cái chết
của anh S

Bài tập 13:

Chị H là người mồ côi mẹ từ nhỏ. Bố chị lấy vợ khác là bà Y. Trong cuộc sống
thường ngày, bà Y thường có hành vi ngược đãi, ức hiếp đối với chị H. Vì vậy, H đã
sớm yêu một thanh niên. Do nhẹ dạ nên H đã có thai với anh thanh niên này. Khi biết
được tình trạng trên, người yêu của H lánh mặt không gặp H nữa và tìm cách chối bỏ
trách nhiệm làm cha. Quá thất vọng vì bị bội tình, H viết thư tuyệt mệnh rồi tự sát.

Trong tình huống này có hành vi phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì và ai
phải chịu TNHS? Tại sao?

Trong cuộc sống thường ngày, bà Y thường có hành vi ngược đãi, ức hiếp đối
với chị H nhưng hành vi của bà Y không là nguyên nhân dẫn đến việc chị H tự sát. Do
vậy, bà Y không phạm tội này.Nguyên nhân chị H tự sát là do bị bội tình, khi người
yêu của H lánh mặt không gặp H nữa và tìm cách chối bỏ trách nhiệm làm cha. Tuy
nhiên đây không là hành vi khách quan của Tội phạm tại Điều 130, cụ thể là hành
động lánh mặt và tìm cách chối bỏ trách nhiệm làm cha gần giống với hành vi khách
quan là bị làm nhục nhưng Điều 130 BLHS có quy định là “làm nhục người bị lệ
thuộc” mà chị H lại không phải là người lệ thuộc anh thanh niên này.

Nên không ai phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này

Bài tập 14:


A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía trước nhà mình
để diệt chuột vì mía đã lên cao khoảng 0,80m - 1m, nhưng bị chuột cắn phá rất nhiều
ở phần ngọn. Xung quanh ruộng mía có tường bao quanh cao 1m40 đến 1m50 và
không có lối đi tắt. Thường thường, A cầm điện vào lúc 22 giờ. đêm và ngắt điện vào
05 giờ sáng. Việc cắm điện đã được A thông báo cho bà con trong xóm biết. Những
con chuột bị chết do điện giật, A thường đem cho những người trong xóm nấu cho heo
ăn Khoảng 24 giờ, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào vườn mía và bị
điện giật chết.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?

Hành vi của A đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội vô ý làm
chết người theo Điều 128 BLHS 2015

*Khách thể: tính mạng, quyền được sống của thanh niên khác xã bị chết. Đối tượng
tác động là thanh niên khác xã

*Mặt khách quan: Hành vi A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong
vườn mía trước nhà mình là rất nguy hiểm và có khả năng làm chết người. Khoảng 24
giờ, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào vườn mía và bị điện giật. Hậu
quả là thanh niên khác xã bị điện giật chết. Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và
hành vi: hành vi dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía
trước nhà mình là vi phạm quy tắc chung dẫn đến hậu quả làm thanh niên xã bên chết
vì điện giật. Hậu quả làm chết người là dấu hiệu bắt buộc của Tội vô ý làm chết người.

*Chủ thể A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).

*Mặt chủ quan có lỗi vô ý (lỗi vô ý vì quá tự tin). A giăng dây điện trần xung quanh
vườn mía nhà mình là hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe con
người. A thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được vì A nghĩ rằng
xung quanh luống mía có tường bao quanh, không có lối đi tắt, đi qua cho hàng xóm
và A đã thông báo cho bà con trong xóm biết việc mình cắm điện.

Bài tập 15

A, B và H là ba người bạn kết thần từ thời còn học ở Đại học Cảnh sát nhân dân.
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/8, A, B, C và D (đã uống rượu) rủ nhau ra Nhà Bè
nhậu tiếp. Trên đường đi, A và B ghé vào cơ quan để rủ H cùng đi. B và C đứng ngoài
cổng trông xe, còn A và B lên phòng để tìm H. Gặp H ở hành lang, A liền đùa, rút
súng K54 mang theo và cười lớn. H cũng đùa lại, và nấp vào cánh cửa. Anh T ở cùng
phòng thấy vậy bảo: “Không được đùa với súng”. A tháo băng đạn, kéo quy lát, lấy
nốt viên đạn trong nòng súng ra. B đi vào phòng H. A lắp lại băng đạn vào nòng súng
rồi cũng đi vào phòng theo. A và B rủ H đi chơi nhưng H từ chối vì đã có hẹn. Nghe
vậy, B bảo A: “Đưa súng đây để tạo ép nó đi”. A lấy súng đưa cho B. Vì nghĩ rằng
súng không có đạn (B đã thấy A lấy viên đạn ra ở hành lang) nên B cầm súng bằng tay
trái, kéo quy lát rồi rẽ nòng súng về phía H, ngón tay vẫn còn đặt trong vòng có thì bất
ngờ súng nổ. Viên đạn bắn trúng vào trán II làm H chết ngay tại chỗ. Anh (chị) hãy
xác định hành vi của B có phạm tội không? Tại sao?

A, B và H là ba người bạn kết thân từ thời còn học ở Đại học Cảnh sát nhân dân.
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/8, A, B, C và D (đã uống rượu) rủ nhau ra Nhà Bè
nhậu tiếp. Trên đường đi, A và B ghé vào cơ quan để rủ H cùng đi. B và C đứng ngoài
cổng trông xe, còn A và B lên phòng để tìm H. Gặp H ở hành lang, A liền đùa, rút
súng K54 mang theo và cười lớn. H cũng đùa lại, vờ nấp vào cánh cửa. Anh T ở cùng
phòng thấy vậy bảo: “Không được đùa với súng”. A tháo băng đạn, kéo quy lát, lấy
nốt viên đạn trong nòng súng ra. B đi vào phòng H. A lắp lại băng đạn vào nòng súng
rồi cũng đi vào phòng theo. A và B rủ H đi chơi nhưng H từ chối vì đã có hẹn. Nghe
vậy, B bảo A: “Đưa súng đây để tao ép nó đi”.

A lấy súng đưa cho B. Vì nghĩ rằng súng không có đạn (B đã thấy A lấy viên đạn ra ở
hành lang) nên B cầm súng bằng tay trái, kéo quy lát rồi rê nòng súng về phía H, ngón
tay vẫn còn đặt trong vòng cò thì bất ngờ súng nổ. Viên đạn bắn trúng vào trán H làm
H chết ngay tại chỗ.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của B có phạm tội không ? Tại sao?

- B đã đủ điều kiện của cấu thành tội phạm:

* Khách thể: B đã xâm phạm đến quyền được sống của H cụ thể là làm cho H chết
ngay tại chỗ

* Khách quan: Hành vi sử dụng súng để đùa giỡn và bắn chết H (vi phạm quy tắc
nghề nghiệp, Gặp H ở hành lang, A liền đùa, rút súng K54 mang theo và cười lớn, )

Hậu quả: Làm cho H chết ngay tại chỗ (B cầm súng bằng tay trái, kéo
quy lát rồi rê nòng súng về phía H, ngón tay vẫn còn đặt trong vòng cò thì bất ngờ
súng nổ. Viên đạn bắn trúng vào trán H làm H chết ngay tại chỗ.)

Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: chỉ có 1 hành vi dùng súng bắn vô đầu H là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả H chết

* Chủ thể: B là chủ thể gây ra tội này (đủ 18t đủ năng lực chịu TNHS)

* Chủ quan: Lỗi của B theo như dữ kiện đề bài là Vô ý vì quá tự tin; Hành vi dùng
súng để đùa giỡn của B là rất nguy hiểm về lý trí B không thấy trước được hậu quả
của hành vi mình gây ra nhưng phải thấy trước và có thể thấy trước được nó bởi lẽ
hành vi dùng súng đùa giỡn ép H đi chơi là hành vi vô cùng nguy hiểm và đã được
cấp trên nhắc nhở trong dữ kiện trên (Gặp H ở hành lang, A liền đùa, rút súng K54
mang theo và cười lớn. H cũng đùa lại, vờ nấp vào cánh cửa. Anh T ở cùng phòng
thấy vậy bảo: “Không được đùa với súng)

- Hành vi của B là có phạm tội theo Điều 129 BLHS 2015

Bài tập 16

A, B, C và D chơi bài tại nhà ông T. Cá bọn chơi bài đến khoảng 12 giờ thì chị L (vợ
của B) đến gọi B về. Thấy chồng đang đánh bài, chị L đã nói lời xúc phạm khiến B
nổi cáu, đứng lên đá chị L. Thấy B đánh vợ, chị A vội vào can ngăn thì bị B đá 1 cái
Chị A té ngửa xuống sân nhà và ngất xỉu. Mọi người đưa chị A đi cấp cứu nhưng chị
A đã chết sau đó. Biên bản giám định kết luận A chết là do chấn thương sọ não.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của B có phạm tội không? Tại sao?

- Hành vi của bà L theo Điều 54 Nghị định 144/2021/NĐ-CP là xúc phạm đến ông B
khiến ông B lâm vào tình trạng kích động mạnh

- Hành vi của B có phạm tội theo quy định tại điểm (b) Khoản 2 Điều 135 BLHS
2015:

* Khách thể: B xâm phạm đến quyền nhân thân của A

* Khách quan: Hành vi cố ý gây thương tích đến A cụ thể là B dùng chân tấn công A
khiến A chấn thương cấp cứu không kịp dẫn đến chết

Hậu quả là bà A ngất xỉu sau đó chết vì chấn thương sọ não.

Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: hành vi đánh vợ của B cụ thể là đá chị A khiến
chị té xuống sàn ngất xỉu sau đó dẫn đến chết vì chấn thương sọ não.

* Chủ thể: B là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội này (B có đủ năng lực chịu TNHS)

* Chủ quan: Lỗi cố ý gián tiếp:

+ Về lý trí thì B nhận thức rõ được tính nguy hiểm do hành vi của mình gây ra cũng
như nhận thức được hậu quả nguy hiểm đó.

+ Về ý chí thì B không hề mong muốn hậu quả đó xảy ra cụ thể là hậu quả khiến cho
bà A tử vong.

+ thái độ: bàng quang bỏ mặt bất chấp hậu quả

Tử vong do điều kiện hoàn cảnh và nằm ngoài phán đoán của người phạm tội

định tội theo khoản khoản 4 điều 134


Bài tập 17

A và B là đồng nghiệp và có mâu thuẫn với nhau. Do tính cách khác biệt nên hai
người không mấy ưa nhau. Trong một cuộc nhậu, A và B cãi nhau, A cầm cổ chai bia
đập bể một phần, dùng phần còn lại đâm vào người của B. B bị thương nặng đưa vào
bệnh viện cấp cứu và phải điều trị ở bệnh viện mất 15 ngày. Khi ra viện, B mua một
con dao có chiều dài 15cm và rộng 1,5cm. Sau 3 ngày tìm kiếm, B phát hiện ra A
đang ngồi uống cà phê cùng với hai người bạn, lưng ngồi quay ra đường. B lao đến
bất ngờ đâm một nhát vào bả vai A rồi bỏ chạy. A được cấp cứu vào bệnh viện nhưng
sau 5 ngày thì chết. Kết luận giám định pháp y xác định A chết do bị tràn khi phổi vì
mũi dao đâm vào đầu đỉnh phổi phải.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của B có phạm tội không? Tại sao?

Hành vi giết người của B được cấu vào tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015:

-Khách thể: quyền được bảo vệ tính mạng cụ thể là quyền được sống của A

-Khách quan: * Hành vi dùng dao dài 15cm rộng 15cm đã chuẩn bị sẵn của B để đâm
vào bả vai A

* Hậu quả A chết do tràn khí phổi vì mũi dao đâm vào đầu đinh phổi
phải

-Chủ thể: B là chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, B có đủ năng lực chịu
TNHS

-Chủ quan: Lỗi của B là cố ý trực tiếp (nhận thức được tính nghiêm trọng của hậu quả
và mong muốn hậu quả đó xảy ra)

Bài tập 18

A và B cùng đi săn. A nhìn thấy một con gà rừng liền giơ súng lên ngắm bắn. B thấy
gần đó có một người đang bẻ măng nên ngăn đừng bắn và nói rằng: “Thôi đừng bắn
nữa, nhờ trúng người ta thì chết”. A tiếp tục rẽ súng theo con gà rừng và đáp lại: “Mày
chưa biết tài bắn của tao à! Chưa bao giờ tao bắn trượt cả”. Nói xong, bóp cò, không
ngờ đạn trúng vào người bẻ măng.

Anh (chị) hãy xác định A phạm tội gì nếu:

a. Nạn nhân chết

Nếu nạn nhân chết thì A sẽ thuộc trường hợp tại Điều 128 BLHS 2015 vì tội vô ý làm
chết người:
- Khách thể: A đã xâm phạm đến quyền được pháp luật bảo vệ tính mạng của nạn
nhân

- Khách quan: Hành vi bóp cò để bắn gà rừng nhưng lại vô ý bắn trúng nạn nhân
(người bẻ măng) và hậu quả là nạn nhân chết

- Chủ thể: chủ thể phạm tội là A có đủ năng lực chịu TNHS

- Chủ quan: Lỗi vô ý vì quá tự tin:

*Về lý trí: Biết trước được hậu quả nguy hiểm do hành vi của mình gây ra

* Về ý chí: Không mong muốn hậu quả xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được

b. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 41%.

Nếu nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 41% thì A được cấu thành tội Vô
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cụ thể là K1 Điều
138 BLHS 2015

-Khách thể: A xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng của người bẻ măng

-Khách quan: + Hành vi vô ý bắn trung người bẻ măng gây thương tích cho nạn nhân

+ Hậu quả là nạn nhân bị thương hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể 41%

-Chủ thể: Chủ thể thực hiện tội phạm này là A (đủ năng lực chịu TNHS)

-Chủ quan: Lỗi của A là lỗi vô ý vì quá tự tin (như cách giải thích ở trên)

c. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%.

Nếu nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21% thì A chưa đủ điều kiện để
cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 138 BLHS 2015 với tỷ lệ tổn thương cơ
thể được quy định ở điều này là từ 31% đến 60% tức là hậu quả chưa đạt đủ điều kiện
nên A chưa phải là tội phạm.

Bài tập 19

Anh T chị A kết hôn, có 02 con chung là M và N. Sau hai năm chung sống, mỗi khi
uống rượu say về, T đều tìm cơ lấy lý do tiền bạc thiếu hụt trong gia đình và ghen
tuông để mắng chửi và đánh đập A, có nhiều lần A không chịu đựng nổi phải bỏ về
nhà chị ruột để sống nhưng chỉ khoảng 1 - 2 tuần thì T đến năn nỉ rước về chung sống.
Khoảng 08 giờ ngày 07/7, T uống rượu cùng anh rể là ông S tại nhà minh đến 11 giờ
thì nghỉ. Sau khi ông S ra về bị cáo T lấy lý do tiền bạc thiếu hụt trong gia đình
dùng lời lẽ thô tục xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bà A. Trong lúc T chửi bà
A thì bà C (mẹ ruột của T) nghe được sự việc nên qua can ngăn, sau đó T đi ngủ. Đến
khoảng hơn 14 giờ cùng ngày, T thức dậy và tiếp tục, chửi bà A bằng nhiều lời lẽ
thô tục, bà C lại tiếp tục qua can ngăn, khi bà C vừa đến thì T đứng dậy bước
đến chỗ bà A đang ngồi dùng chân đá vào mông bà A 01 cái, thấy vậy N bước đến
kéo bà A lên giường trước nhà ngồi. T ngồi trên võng ở nhà sau tiếp tục dùng lời lẽ
thô tục để chửi, sau đó T đi lên nhà trước dùng tay đánh vào vùng vai của bà A 01
(một) cái, bà C ôm T lại căn ngăn thì T vùng vẫy làm bà C té xuống nền nhà. Bà A bỏ
đi xuống nhà sau dùng xăng đổ lên người và châm lửa tự thiêu, T phát hiện la lớn
nhiều tiếng “cháy rồi, cháu N nghe thấy chạy xuống nhà sau thì thấy T đứng ôm bà A
trong tình trạng bốc cháy toàn thân. T nhảy xuống sông sau nhà cho ướt người, bà A
chạy ra nhà trước và năm xuống nền nhà, T lên bờ tiếp tục ôm bà A nhằm dập lửa. Bà
A bị bất tỉnh nên đưa đi cấp cứu tại bệnh viện và tử vong sau đó. Tại bản kết luận
giám định pháp y về tử thi của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế HG kết luận nguyên
nhân từ vong của A là do bị bỏng độ I, II. III 96% diện tích cơ thể.

Anh (chị) hơi xác định hành vi của T có phạm tội không? Tại sao?

-Hành vi của T có phạm tội bức tử theo quy định tại Điều 130 BLHS 2015 .

- khách thể: Quyền nhân thân của A cụ thể là quyền được bảo vệ về sức khỏe của A
(quyền bất khả xâm phạm về tính mạng của chị A.

trong trường hợp này T là chồng của A, do đó T và A có mối quan hệ lệ thuộc đó là bị


ràng buộc quan hệ hôn nhân

(T đều tìm cơ lấy lý do tiền bạc thiếu hụt trong gia đình và ghen tuông để mắng chửi
và đánh đập A; T đứng dậy bước đến chỗ bà A đang ngồi dùng chân đá vào mông bà
A 01 cái; T đi lên nhà trước dùng tay đánh vào vùng vai của bà A 01 (một) cái )

- Khách quan:

Hành vi: anh T có hành vi đối xử tàn ác như đánh đập gây đau khổ về thể chất , uống
rượu về lấy lý do nhà thiếu thốn tiền bạc, ghen tuông để đánh chị A. Hành vi đối xử
tàn ác này cho dù mới xảy ra một lần thì vẫn có thể làm cho nạn nhân tự sát . Trong
trường hợp này hành vi ngược đãi diễn ra nhiều lần , dày vò nạn nhân thường xuyên
khiến nạn nhân cảm thấy bế tắc mà tự sát

(Không cần đọc: Ngoài đối xử tàn ác về thể chất như đánh đập chị A thì T còn dùng
lời lẽ thô tục , xúc phạm danh dự và nhân phẩm của chị A nhiều lần khiến chị A không
chịu đựng nổi phải bỏ về nhà chị ruột để sống)

Không cần đọc ( Mối quan hệ nhân quả là hành vi thường xuyên ngược đãi tàn ác,
làm nhục vợ mình của T đã khiến A tự sát )
(CÔ HỎI THÌ ĐỌC: T đứng dậy bước đến chỗ bà A đang ngồi dùng chân đá vào
mông bà A 01 cái; T đi lên nhà trước dùng tay đánh vào vùng vai của bà A 01 (một)
cái ). Hành động mắng chửi, đánh đập này xảy ra lâu dài và ảnh hưởng đến thể chất, tinh
thần của A)

Hậu quả: Hành vi của T đã khiến A bỏ đi xuống nhà sau dùng xăng đổ lên người và
châm lửa tự thiêu. (Tự sát)

- Mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp: Hành vi vi phạm của T khiến bà A tự sát không chỉ
bao gồm 1 hành vi mà là bao gồm một chuỗi sự kiện của ông T trong bài khiến bà A tự
sát. Hành vi của T trực tiếp dẫn đến hành vi tự sát của bà A. Ở loại tội phạm này
không yêu cầu về hậu quả có chết hay không.

- Chủ thể: T là chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, T đủ năng lực chịu
TNHS. Giữa T và A còn mối quan hệ lệ thuộc là quan hệ vợ chồng.

- Chủ quan: Lỗi vô ý vì quá tự tin về lý trí thì ông T nhận thức rõ hành vi đối xử tàn ác
thường xuyên ngược đãi vợ minh (bà A) có tính nguy hiểm nhưng về ý chí thì không
mong muốn hậu quả xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nhưng vẫn thực hiện và kết
quả là hậu quả bà A tự sát xảy ra.

(CÔ HỎI THÌ ĐỌC: T cho rằng hậu quả có thể ngăn ngừa được qua chi tiết “Sau
hai năm chung sống, mỗi khi uống rượu say về, T đều tìm cơ lấy lý do tiền bạc thiếu
hụt trong gia đình và ghen tuông để mắng chửi và đánh đập A, có nhiều lần A
không chịu đựng nổi phải bỏ về nhà chị ruột để sống nhưng chỉ khoảng 1 - 2 tuần thì
T đến năn nỉ rước về chung sống.“ rằng lần này cũng như vậy, chỉ cần qua năn nỉ là
lại đâu vào đấy nhưng không ngờ bà A lại tự thiêu, T phát hiện la lớn nhiều tiếng
“cháy rồi, cháu N nghe thấy chạy xuống nhà sau thì thấy T đứng ôm bà A trong tình
trạng bốc cháy toàn thân. T nhảy xuống sông sau nhà cho ướt người, bà A chạy ra
nhà trước và năm xuống nền nhà, T lên bờ tiếp tục ôm bà A nhằm dập lửa T cũng đã
cố gắng ngăn ngừa hậu quả ấy không để mặc hậu quả xảy ra)

Bài tập 20

Ông M và bà H lấy nhau đã được 30 năm nhưng hai người không có con chung. Ông
M thường xuyên vắng nhà, có khi nhiều ngày không hề về nhà. Quan hệ của M và H
cứ như thế đã nhiều năm. Cuộc sống tẻ nhạt của bà H thật sự trở thành địa ngục khi bà
biết ông M lừa dối bà; ông M đang có vợ bé và đang có một con chung với người vợ
này. Đúng vào ngày sinh nhật thứ 53 của bà H, ông M trở về nhà chìa vào mặt bà H tờ
đơn xin ly hôn. Bà H buồn rầu nói qua hai hàng nước mắt: “Ông thật tàn ác, hôm nay
là sinh nhật tôi cơ mà Tôi hận ông đã lừa dối tôi suốt bấy nhiêu năm. Không cần đơn
cho hết. Tôi sẽ chết cho ông rảnh nợ mà đi lấy người ta. Ông đừng có cản tôi, tôi đã
quyết vậy rồi”. Ông M buông lời lạnh lùng: “Bà làm gì mặc xác bà. Tôi cần một chữ
ký của bà vô tờ đơn gửi tòa thôi”. Nghe vậy bà H leo lên thành cửa sổ (đang mở sẵn),
ông M vẫn ngồi yên ở ghế salon mà không nói gì thêm. Khoảng cách giữa chỗ ông M
ngồi và thành cửa sổ là 5 m. Bà H nhảy xuống, đầu đập xuống nền xi măng, vỡ hộp sọ
và chết (Nhà ông M và bà H ở tầng 5 chung cư T). Theo tin báo của nhân dân, công an
đã tạm giữ ông M để làm rõ cái chết của bà H.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của M cỏ phạm tội không? Tại sao?

Hành vi của M đủ điều kiện cấu thành tội Bức tử theo Điều 130 BLHS 2015:

-Khách thể: M xâm hại đến sức khỏe của H

-Khách quan: Hành vi thường xuyên ức hiếp ngược đãi vợ, chồng mà không có nghĩa
vụ yêu thương chăm sóc sống chung đưa đơn ra thì kèm theo lời lạnh lùng khiến bà H
dày vò bế tắc dẫn đến tự sát

-Chủ thể: ông M đủ năng lực chịu TNHS

-Chủ quan: Cố ý gián tiếp

Bài tập 21

H và B là chiến sĩ công an nghĩa vụ công tác tại đội A vệ binh thuộc Ban tham mưu
Trung đoàn cảnh sát cơ động – Công an tỉnh X. Theo sự phân công của đơn vị, ngày
21/8, H và B được giao nhiệm vụ trực bảo vệ đơn vị từ 4 giờ đến 6 giờ sáng. H và B
tự phân công nhau: B trực từ 4 giờ đến 5 giờ, H trực từ 5 giờ đến 6 giờ. Sau khi trực
xong, B vào gọi H dậy để bàn giao ca trực. B giao cho H một khẩu súng ngắn loại
K54 và băng đạn gồm 08 viên. Theo quy định, súng và hộp tiếp đạn được để riêng
trong bao da, chung một dây thắt lưng, khi nhận bàn giao phải kiểm tra súng đạn. Khi
nhận súng, H không kiểm tra theo quy định mà đeo súng vào và ra cổng trực gác. Đến
5 giờ 45 phút H đánh kẻng báo thức đơn vị dậy tập thể dục rồi vào gọi C (là người phụ
trách ca trực tiếp theo) dậy để bàn giao việc trực. C tỉnh dậy xếp chăn màn xong
nhưng không ra trực. H từ ngoài trở vào thấy C vẫn ngồi xếp bằng hai chân trên
giường, bèn tiến lại đứng ngay đầu giường C và rút súng K54 ra cầm trên tay phải,
kZo súng lên đạn rồi chĩa nòng súng vào nách trái của C vừa cười đùa, đồng thời bóp
cò làm đạn nổ. C ôm ngực ngã ngửa xuống giường. H hoảng hốt la lên: “Ai bỏ đạn
vào súng?”. Thấy máu trên người C ra nhiều, H đưa C đến bệnh viện cấp cứu, nhưng
C đã chết trên đường đi.

Kết luận giám định pháp y là: “C chết do đạn bắn ở tầm kề, xuyên ngực và hai lá phổi,
từ hõm nách phía trước bên trái đến vùng lưng phải, gây choáng mất máu cấp”.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội
gì? Tại sao?

Tội danh mà H đã phạm là Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
theo Điều 129 BLHS 2015.
Hành vi của H đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết
người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp:

Mặt khách thể

Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của

- Đối tượng tác động: C - con người đang sống

Mặt khách quan

Hành vi: Theo quy định, súng và hộp tiếp đạn được để riêng trong bao da, chung một
dây thắt lưng, khi nhận bàn giao phải kiểm tra súng đạn. Khi nhận súng, H không
kiểm tra theo quy định mà đeo súng vào và ra cổng trực gác. Khi H đánh kẻng báo
thức đơn vị dậy tập thể dục rồi vào gọi C dậy để bàn giao việc trực. Chưa thấy C ra
nên H từ ngoài trở vào thấy C, bèn tiến lại đứng ngay đầu giường C và rút súng K54
ra cầm trên tay phải, kéo súng lên đạn rồi chĩa nòng súng vào nách trái của C vừa
cười đùa, đồng thời bóp cò làm đạn nổ. Như vậy, H đã vi phạm những quy tắc nghề
nghiệp khi sử dụng súng.

- Hậu quả: C tử vong

Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của H là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả C tử vong.

Mặt chủ thể

H thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định)

Mặt chủ quan

H thực hiện hành vi của mình với lỗi vô ý trực tiếp (do cẩu thả)

Bài tập 22

M cùng vợ là N đi bộ từ nhà mẹ ruột về nhà trọ. Khi ra đến đầu đường thì N ngất xỉu.
Hay tin, mẹ M từ trong nhà chạy ra chạy đến chăm sóc chị N; còn M chạy đi tìm
người nhờ phụ chở vợ đi bệnh viện cấp cứu. Lúc này, M nhìn thấy anh T là người
chạy xe ôm đang ngồi trong quán nhậu gần đó liền đến năn nỉ anh này chở vợ mình đi
cấp cứu nhưng bị từ chối. Thấy vợ mình đang trong tình trạng nguy kịch mà anh T
không thèm quan tâm nên M lớn tiếng với anh T dẫn đến cãi nhau rồi M dùng tay
đánh T. Sau đó, anh T bỏ đi ra đến lề đường thì bị M chạy theo dùng tay nắm cổ áo
đẩy ra đường. Lúc đó, anh K đi xe máy (không bật đèn xe) đã tông phải anh T làm T
chết.

Anh (chị) hãy xác định hành vi của M có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội
gì? Tại sao?
Tội danh mà M đã phạm là Tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS 2015

Hành vi của M đã thoả mãn các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội vô ý làm chết
người:

Mặt khách thể

Khách thể: M xâm phạm đến quyền được sống, quyền được pháp luật hình sự bảo hộ
về tính mạng của con người của T.

- Đối tượng tác động: T – con người đang sống

Mặt khách quan

Hành vi: M nhờ anh T chở vợ mình đi cấp cứu nhưng bị từ chối. Thấy vợ đang trong
trạng thái nguy kịch mà T lại không thèm quan tâm, M lớn tiếng với anh T dẫn đến
cãi nhau rồi M dùng tay đánh T. Sau đó, M chạy theo dùng tay nắm cổ áo của T đẩy ra
đường mà không thấy xe trên đường.

- Hậu quả: Anh K đi xe máy (không bật đèn xe) đã tông phải anh T khiến T tử vong.

Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi đẩy anh T ra đường của M là
tuy không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến T tử vong. Nhưng lại là nguyên nhân
dẫn đến anh K đi xe máy ( không bật đèn) tông phải T khiến T thiệt mạng.

Mặt chủ thể

M thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường (nếu đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định)

Mặt chủ quan

Đây là lỗi vô ý do cẩu thả. Anh M khi đẩy T ra đường không thấy trước được rằng
hành vi của mình gây ra được cái chết của anh M, mặc dù thế vẫn thấy trước được hậu
quả anh M có thể chết nếu bị xe tông trên đường.

Bài tập 23

A và B là vợ chồng có một đứa con chung là C (8 tháng tuổi) Cuộc sống gia đình khó
khăn, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. A thường nhậu nhẹt say xỉn về đánh đập mẹ
con chị B. Đêm 29/7, sau khi đi nhậu về, A tiếp tục đánh đập, chửi bởi chị B rồi vứt
quần áo đuổi hai mẹ con ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bão. Chị B khóc van
xin A mở cửa nhưng A kiên quyết không chịu. Quá tuyệt vọng, chị B bế con ra bờ
sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát. Lúc này, ông X đi ngang qua thấy vậy nhảy
xuống sông cứu hai mẹ con nhưng chỉ cứu được chị B, cháu C chết do ngạt nước.

Trong tình huống trên, ai phạm tội? Nếu có phạm tội gì? Tại sao?

1. Trong tình huống trên, A phạm tội bức tử theo Điều 130 BLHS 2015.
Giải thích: Vì hành vi trái pháp luật của A đáp ứng đủ điều kiện để cấu thành tội bức
tử.

• Khách thể:

Quyền được sống của chị B và cháu C.

Đối tượng tác động: chị B và cháu C.

Chủ thể: Chủ thể thường A là người đủ tuổi chịu TNHS theo Điều 12 BLHS 2015 và
đủ NLTNHS vì không trường hợp Điều 21 BLHS 2015.

Mặt khách quan:

* Hành vi: A có hành vi đối xử tàn ác (đánh đập), làm nhục (chửi bới), ngược

đãi (vứt quần áo đuổi hai mẹ con chị B ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bão)
đối với mẹ con chị B - những người có quan hệ lệ thuộc (quan hệ gia đình) với A.

Hậu quả: chị B bế cháu C ra bờ sông tự sát.

Mối quan hệ nhân quả: đơn trực tiếp vì chỉ những hành vi của A là nguyên nhân trực
tiếp làm cho chị B ôm con tự sát.

2. Trong tình huống trên, B phạm tội giết người theo Điều 123 BLHS 2015 Giải
thích: Vì những hành vi của B đủ điều kiện để cấu thành tội giết người

Mặt chủ quan: lỗi cố ý gián tiếp.

Khách thể: Quyền được sống của cháu C.

Đối tượng tác động: cháu C

Chủ thể: Chủ thể thường B là người đủ tuổi chịu TNHS theo Điều 12 BLHS 2015 và
đủ NLTNHS vì không trường hợp Điều 21 BLHS 2015.

Mặt khách quan:

Hành vi: ôm cháu C nhảy xuống sông tự sát.

. Hậu quả: làm cháu C chết.

* Mối quan hệ nhân quả: đơn trực tiếp vì chỉ một hành xuống sông của chị B là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của cháu C

Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp theo Điều 10 BLHS 2015 vì chi B nhận thức được
hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả cả hai mẹ con sẽ chết và chị B mong muốn
hậu quả đó xảy ra.

Bài tập 24
A và B yêu nhau nhưng bị cha mẹ B phản đối vì cho rằng không môn đăng hộ đối.
Sau nhiều lần thuyết phục nhưng cha mẹ vẫn không thay đổi ý kiến, thất vọng, A và B
bàn nhau cùng tự sát. Họ chuẩn bị sẵn hai sợi dây thừng rồi cùng nhau đến khúc sông
vắng người. A giúp B trói người lại, sau đó tự trói mình để cùng nhau nhảy xuống
sông.

Hãy xác định A có phải chịu TNHS hay không trong các tình huống sau và nếu
có thì phạm tội gì?

1. A và B cùng nhảy xuống sông sau khi đã bị trói. Do A tự trói nên dây thừng
trói A lỏng ra nên A không chết.

Tội danh mà A đã phạm là Tội giúp người khác tự sát (Điều 131, BLHS).

Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội giúp người khác tự sát
(Điều 131, BLHS):

Khách thể

Khách thể: tính mạng, quyền được sống của B

- Đối tượng tác động: B con người đang sống

Khách quan

Hành vi: A đã trói tay của B lại để giúp B tự sát. A đã có hành vi tạo điều kiện về vật
chất cho B tự tước đoạt tính mạng của mình.

- Hậu quả: B tử vong.

- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A trói tay B và cả hai cùng
nhảy xuống sông là nguyên nhân trực tiếp khiến B tử vong

Chủ thể

A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này- chủ thể thường ( có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định)

Chủ quan

A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. A nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho B và thấy được hậu quả là B sẽ tử vong nhưng vẫn mong muốn thực hiện

2. Do bị trói quá chặt, B không thể tự nhảy được nên đã nhờ A đẩy mình xuống
sông trước. Kế đến A cũng nhảy xuống sông. B chết, A được cứu sống.

Tội danh mà A đã phạm là Tội giết người (Điều 123, BLHS).

Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người
Khách thể

Khách thể: tính mạng, quyền được sống của B

Đối tượng tác động: B – con người đang sống

Khách quan

Hành vi: A đã có hành vi trói tay B và đẩy B xuống sông.

- Hậu quả: B có hành động tự sát và vì tự sát nên B tử vong.

- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi trói tay và đẩy B xuống
sông của A là việc tạo điều kiện cho B tự sát, và việc B tự sát là nguyên nhân trực tiếp
khiến B tử vong

Chủ thể

A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).

Chủ quan

Hành vi trói tay B của A là hành vi cố ý, A biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm đến
tính mạng của B, thấy trước được hành vi của mình sẽ dẫn đến hậu quả là B tự sát
nhưng A mong muốn việc tự sát đó diễn ra. Ở đây hành vi của A không phải là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của B, nên ta không nên xét lỗi của A đối với
cái chết của B

Bài tập 25

Ông K mắc bệnh hiểm nghèo nằm liệt giường gần 1 năm. Ông mong cho cái chết sớm
đến nhưng không biết làm cách nào. Ông đem tâm sự của mình than thở với B là một
y tá thường chăm sóc sức khỏe cho ông. Sau đó ông đề nghị B giúp ông sớm kết thúc
sự sống của mình. B đồng ý và thống nhất cùng với ông K về việc chích cho ông một
liều thuốc độc. Sau khi nhất trí, B mang xi-lanh và hai ống thuốc đến tiêm cho ông K.
Sáng hôm sau, ông K chết do bị chích thuốc độc.

Hãy xác định hành vi của B có phải là tội phạm không? Nếu có là tội gì?

Tội danh mà B đã phạm là Tội giết người (Điều 123, BLHS). Hành vi của B đã đủ các
dấu hiệu pháp lí đặc trưng của Tội giết người:

Khách thể

- Khách thể: tính mạng, quyền được sống của K

- Đối tượng tác động: ông K – con người đang sống


Mặt khách quan

- Hành vi: B mang xi-lanh và hai ống thuốc đến tiêm một liều thuốc độc cho ông K.
Mặc dù là ông đề nghị B giúp ông sớm kết thúc sự sống của mình nhưng pháp luật
Việt Nam không cho phép thực hiện hành vi này. Do vậy, B đã có hành vi giết người,

- Hậu quả: K tử vong.

- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của chị B là nguyên nhân
trực tiếp khiến K tử vong.

Chủ thể

B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này- chủ thể thường ( có năng lực TNHS
và đạt độ tuổi luật định)

Mặt chủ quan

B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp

Bài tập 26

A là người thường dậy sớm mang cây gậy dài có gắn vợt đi vợt ốc nhồi ở các ao bèo.
Một hôm A đang đi vợt ốc như thế thì phát hiện B là người hàng xóm đang sắp chết
đuối dưới ao. Tuy A biết rõ B là người không biết bơi (lội) nhưng vì trong cuộc sống
B thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau với gia đình A, thậm chí có lần B đã ném cả
phân vào bể nước ăn nhà A nên khi thấy B sắp chết đuối A không thò gậy xuống cứu
B.

Hãy xác định tội danh cho hành vi của A trong các tình huống sau:

a. A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi. Theo kết quả
giám định pháp y B chết do bị ngạt nước.

Tội danh mà A đã phạm là Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng (Điều 132, BLHS).

Khách thể khách thể xâm phạm đến nghĩa vụ bảo vệ tính mạng của B mà quy tắc đạo
đức trong cuộc sống và pháp luật đòi hỏi mọi người phải tuân theo.

- Đối tượng tác động: B – con người đang sống

Mặt khách quan

Hành vi: A phát hiện B là người hàng xóm đang sắp chết đuối dưới ao. Tuy A

biết rõ B là người không biết bơi (lội) nhưng vì trong cuộc sống B thường xuyên
mâu thuẫn, cãi nhau với gia đình A nên khi thấy B sắp chết đuối A không thò gậy
xuống cứu B. Như vậy, A đã có hành vi (không hành động) không cứu giúp người bị
nạn trong trường hợp nhìn thấy người đó đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng. Nghĩa là mặc dù người phạm tội đã nhìn thấy có người bị tai nạn hoặc trong
trường hợp khác đang bị nguy hiểm có thể dẫn đến bị chết nhưng đã không thực hiện
(không có hành động gì) việc cứu giúp nạn nhân.

Hậu quả: B tử vong

Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân trực
tiếp khiến B tử vong.

Chủ thể A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định) nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
định).

Mặt chủ quan A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp

b. Ngay lúc B gần chìm (A vẫn đứng trên bờ ao) thì có anh C (chủ ao) nhảy
xuống vớt B lên và B đã được cứu sống.

Không phạm tội. Vì tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng có cấu thành vật chất nên hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc,
nhưng B được cứu sống

Bài tập 27.


Khách thể : xác định tội phạm xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con
người, cụ thể trong tình huống là quyền được bảo hộ về sức khỏe của đứa bé.
Chủ thể: T là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự - thoả mãn điều kiện về chủ
thể của tội Điều 12 BLHS 2015 thì phạm tội thuộc khoản 4 Điều 134 thì người từ
đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS.
Chủ quan :ông T thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho đứa bé lỗi cố ý với mục
đích để kiếm tiền.
Khách quan : T có những hành vi tác động vào cơ thể của đứa bé làm cho đứa bé bị
tổn hại đến sức khỏe như bé bị chấn thương sọ não,bị gãy chân , bị rạch mặt nhiều
nơi.

=>>> Hành vi phạm tội cụ thể là tội phạm quy định tại Khoản 4 Điều 134 BLHS
2015.
Để xác định đúng hành vi không cứu giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng tuy có điều kiện dẫn đến hậu quả người đó chết, cần làm rõ một
số chi tiết:

Người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là người mà tính mạng của họ
đang trực tiếp bị đe dọa, tình trạng nguy hiểm đang diễn ra hết sức khẩn cấp, tự thân
nạn nhân không khắc phục được đòi hỏi phải có sự cứu giúp kịp thời của người khác.
Nếu không có sự cứu giúp hoặc không cứu giúp kịp thời thì có thể dẫn đến sự nguy
hại cho tính mạng của nạn nhân.
=>> Hành vi của N có vi phạm vì trong trường hợp này N đã được nhờ giúp đỡ để cứu
đứa bé nhưng N nghĩ là mình bị lừa nên không ra tay cứu giúp
CSPL: “Điều 132. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng

1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy
có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo,
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm:

a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;

b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ
phải cứu giúp.

3. Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Bài tập 28

Hoàng Văn L là Công an thường trực thuộc Công an xã H, huyện C, tỉnh D.


Chiều ngày 16/7/2022, ông Đ (trong tình trạng đã uống rượu) đến Ủy ban nhân dân
xã H để hỏi về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do biết Ủy ban nhân
dân xã đang có cuộc họp, ông Đ đi thẳng vào phòng họp làm cuộc họp phải tạm
dùng. Thấy ông Đ có biểu hiện say rượu nên ông Nguyễn Tiến A là Trưởng công an
xã mời ông Đ xuống phòng Công an xã làm việc. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng
ngày, ông Đ tiếp tục vào phòng làm việc của Cán bộ địa chính xã chửi bới, gây mất
trật tự. Ông A đã chỉ đạo ông Nguyễn Văn Tr là Phó trưởng công an xã và Hoàng
Văn L đưa ông Đ ra khỏi trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Ông Tr và L khuyên bảo ông
Đ về nhưng ông Đ không ra về mà còn nhặt 01 viên gạch trên hòn non bộ tại khu
vực giữa sân Ủy ban nhân dân xã định ném về phía L và Tr thì bị L hất viên gạch
ra. Ông Đ dùng tay phải đấm vào miệng L thì L dùng hai tay đấm, tát nhiều nhát
vào vùng mặt ông Đ, dùng cùi trỏ thúc vào lưng ông Đ rồi đưa ông Đ ra khỏi trụ sở
Ủy ban. Ông Đ ngồi ngoài cổng Ủy ban nhân dân xã chờ L về để đánh lại nhưng
được mọi người can ngăn nên ông Đ đi xe mô tô đến quán bia ngồi uống bia.
Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi ông Đ đang ngồi uống bia thì bất tỉnh, được
mọi người đưa về nhà nghỉ ngơi. Gia đình ông Đ nghĩ ông Đ mệt ngủ nên không
đánh thức. Sáng ngày 17/7/2022, ông Đ được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa
tỉnh rồi chuyển lên Bệnh viện VĐ điều trị từ ngày 17/7/2022 đến ngày 07/8/2022 thì
ra viện. Sau đó ông Đ tiếp tục điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh và Bệnh viện VĐ
nhiều Sau khi bị ông Đ đấm vào vùng miệng, L không điều trị tại cơ sở y tế nào. Tại
Kết luận giám định ngày 03/12/2022, Phòng Giám định pháp y Bệnh viện đa khoa
tỉnh D, kết luận: Ông Đ bị chấn thương sọ não gây máu tụ dưới màng cứng bán cầu
trái, đã mổ xử lý. Hiện di chứng liệt cứng nửa người phải mức độ vừa, để lại sẹo mổ
kích thước lớn; còn tụ máu dưới màng cứng mỏng thái dương trái, còn mảnh ghép
xương hộp sọ bên trái, khuyết một phần xương thái dương, trán, đỉnh trái kích
thước 41 mm, 11 mm và 14 mm (theo chiều trước sau). Tổn thương trên có đặc
điểm do vật dày gây ra, L tác động đủ mạnh làm vỡ tĩnh mạch vỏ não vùng thái
dương trái. Việc Hoàng Văn L dùng tay đấm vào vùng đầu, mặt ông Bùi Hữu Đ nếu
tác động đủ mạnh thì có thể gây ra tổn thương trên (ông Đ có tiền sử nghiện rượu
10 năm thì thành mạch máu yếu, khi bị tác động vừa phải vẫn có thể gây ra vỡ
mạch mà người bình thường sẽ không bị). Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích
gây nên hiện tại là 73%.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của L có phạm tội không? Tại sao?
- Theo quan điểm của nhóm, hành vi của L cấu thành Tội gây thương tích cho
người khác trong khi thi hành công vụ theo điểm b khoản 2 Điều 137 BLHS. - Về
chủ thể, do không có tình tiết nào khác, L là một Công an thuộc Công an xã do đó
có thể xác định L là chủ thể thường, có đủ khả năng và độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự.
- Về khách thể, hành vi phạm tội của L xâm phạm đến quyền được bảo vệ về
sức khỏe của ông Đ.
- Về mặt khách quan:
+ Đối với dấu hiệu hành vi, L đã có hành vi đấm, tát, thúc cùi trỏ liên tục vào
phần đầu của ông Đ trong khi thi hành công vụ tuy nhiên nằm ngoài những trường
hợp pháp luật cho phép.
+ Đối với dấu hiệu hậu quả, hành vi của ông L dẫn đến hậu quả ông Đ bị tổn
thương cơ thể 73%.
+ Hành vi của L là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tổn thương của thể của ông
Đ. - Về mặt chủ quan: Hành vi của ông L phát sinh trong quá trình thi hành công vụ
do được cấp trên chỉ đạo. Lỗi của L được xác định là lỗi cố ý trực tiếp do L nhận
thức được hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra đối với ông Đ phát sinh từ hành vi của
mình tuy nhiên L cố ý, mong muốn hậu quả đó xảy ra.

Bài tập 29

T là kẻ sống lang thang. Ngày 01/7, T đã cho kẹo để rủ một cháu bé 3 tuổi đi
theo và đưa cháu vào TP HCM. Để có thể xin tiền được nhiều, T đã dùng tay đánh
vào đầu cháu bé cho đến khi chảy máu rồi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bệnh viện
Chợ Rẫy xác định cháu bị chấn thương sọ não. Sau khi bệnh viện băng bó và cấp
thuốc cho cháu, T đã bế cháu ra khỏi bệnh viện rồi đưa đi ăn xin trên các phố. Ngày
19/7, T lại bẻ gẫy chân trái của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng I bó bột rồi
tiếp tục dẫn cháu đi ăn xin. Ngày 13/8, T lại bẻ gãy tay cháu, đồng thời rạch mặt
nhiều nơi, cắt môi trên của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng II bó bột, sau đó lại
tiếp tục đưa cháu đi ăn xin. Đến ngày 15/8, thấy cháu bé bị T đánh đập rất dã man
trên đường phố, nhiều người dân đã báo công an bắt giữ.
Qua giám định kết luận: “Cháu bé bị gãy kín các xương đoạn 1/3 dưới xương
cánh tay phải và trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu trên xương chày trái, di
chứng cứng gối trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ tổn thương cơ thể mà cháu bé phải gánh
chịu là 55%”.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của T có phạm tội không? Tại sao?

- Chủ thể: là chủ thể thường (T là người có đầy đủ năng lực hành vi)

- Chủ quan : T thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho đứa bé là lỗi cố ý nhằm
mục đích để kiếm tiền.

- Khách quan :

+ Đối với dấu hiệu hành vi, T có hành vi dụ dỗ cháu bé đi theo lên thành phố để cùng
ăn xin và gây thương tích cho cháu bé với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 55%.

+ Đối với dấu hiệu hậu quả, cháu bé đã chịu những hậu quả nặng nề về thể chất, tâm
lý với tỷ lệ tổn thương cơ thể phải chịu là 55%.
+ mối quan hệ nhân quả :hành vi của T là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thương tích,
tổn hại về sức khỏe của cháu bé 3 tuổi.
- Khách thể : có thể xác định tội phạm xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của
con người, cụ thể trong tình huống là quyền được bảo hộ về sức khỏe của cháu bé 3t

=>>Hành vi của T phạm 2 tội cụ thể là: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến
sức khoẻ của người khác theo Điều 134 BLHS 2015 và Tội chiếm đoạt người dưới 16
tuổi theo Điều 153 BLHS 2015

Bài tập 30

Do có mâu thuẫn từ trước , A điều khiển xe máy chở B thì bị một số thanh niên chặn
xe, dùng mũ bảo hiểm đánh vào đầu. A và B bỏ chạy về nhà lấy một cái ná cao su rồi
đến chỗ bị đánh lúc nãy tìm đám thanh niên để trả thù. Lúc này thấy X đang điều
khiển xe chạy ngược chiều, A hô to "dừng xe lại" rồi A và B cùng chạy ra và chặn xe
với mục đích là nếu đúng người trong đám thanh niên kia thì đánh. X không dừng xe
mà bỏ chạy. Thấy vậy A dùng ná cao su bắn trúng vào đầu X. Còn B đã dùng một
viên gạch ném trúng vào ngực X làm X loạng choạng và gục xuống. Sau đó X được
đưa đi cấp cứu nhưng vết thương quá nặng nên đã chết. Pháp y kết luận nguyên nhân
tử vong là trụy tim mạch cấp do vỡ tim. Ngoài ra còn có vết thương ở đỉnh trán với tỉ
lệ thương tật là 12% .

Xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Tại sao ?

Hành vi của A và B là hành vi cố ý gây thương tích tại khoản 1 điều 134 BLHS 2015

Khách thể là quyền được bảo vệ sức khoẻ của X

+ Đối tượng tác động X


+ Khách quan
+ Hành vi dùng ná cao su bắn vào đầu X
+ Hậu quả : X có vết thương đỉnh trán với tỉ lệ thương tật cơ thể là 12%
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi : Hành vi của A là nguyên nhân
trực tiếp gây tổn hại sức khoẻ của X
+ Chủ thể : thoả mãn điều kiện về tội danh này - chủ thể thường
+ Mặt chủ quan : A thực hiện hành vi có lỗi vô ý trực tiếp . A dùng ná cao su
bắn trúng vào đầu X . A nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho X ,
thấy trước được hậu quả là làm X bị thương . Muốn hậu quả xảy ra bằng việc
lấy ná cao su bắn vào đầu X
- Tội cố ý gây thương tích có tình tiết tăng nặng dẫn đến hậu quả gây chết người
của anh b
+ khách thể : quyền được bảo vệ sức khoẻ của x
+ Đối tượng tác động : X
+ Mặt khách quan :
+ Hành vi của B nhặt một viên gạch ném trúng vào ngực X khi X chạy xe
qua làm X loạng choạng ngã xuống . Sau đó X được mọi người đưa đi
cấp cứu tại bệnh viện X nhưng đã chết
+ Hậu quả : tử vong vì truỵ tim mạch cấp do vỡ tim
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi : Hành vi của B là
nguyên nhân trực tiếp khiến X bị tổn hại sức khoẻ nhưng đối với hậu
quả chết người thì hành vi của b là nguyên nhân gián tiếp .
+ Chủ thể : B thoả mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể
thường
+ Mặt chủ quan : B thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp . B dùng viên
gạch ném trúng vào ngực X . B nhận thức được hành vi đó có thể dẫn tới
X bị thương . Tuy không muốn X chết nhưng vẫn có ý thức để cho hậu
quả xảy ra .

Bài tập 31

A chở vợ là B (đang mang thai 2 tháng) đi công việc về. Đến một hẻm nhỏ thì A bị
T và H chặn lại gây sự do hai bên có mâu thuẫn trước đó. T và H cầm nón bảo hiểm đập
vào đầu A làm A ngã gục ngay bờ tường cạnh lối vào của một dãy nhà trọ. Thấy chồng
bị đánh nhiều, B lao đến đỡ đòn cho chồng. T và H dùng nón bảo hiểm đánh luôn B.
Thấy vậy, A hét lên: “Chạy!” và chạy vào trong một phòng trọ. A nhìn lại thấy vợ mình
không chạy kịp mà đang bị T và H đấm đá. Xót vợ, A lấy con dao lao từ phòng trọ ra
đâm vào lưng H. Kết quả, H chết trên đường đi cấp cứu do vết dao đâm trúng phổi trái.
T chạy thoát. Chị B được đưa đi cấp cứu nhưng đã bị sẩy thai do bị T và H đánh (tỷ lệ
tổn thương cơ thể 27%).
Trong tình huống trên, ai phạm tội? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?

Hành vi của A đã phạm tội giết người trong trạng thái kích động mạnh

Theo Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích
của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

- Khách thể: quyền được sống, tính mạng của H


+ Đối tượng tác động: H
- Khách quan
+ A nhìn thấy vợ mình không chạy kịp mà bị T và H đánh. Xót vợ nên lấy con
dao lao từ phòng trọ ra đâm vào lưng H .

=>> Hành vi này của A đã đáp ứng điều kiện giết người trong trạng thái kích động
mạnh
+ Hành vi của A bị kích động từ hành vi trái pháp luật của T và H, hành vi này
nhằm vào vợ chồng A
+ Hậu quả: H tử vong do vết dao đâm vào phổi
+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi của A trực tiếp dẫn đến cái chết của H
- Xét về mặt chủ quan: A thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp. Khi thực hiện
hành vi đâm H. A nhận thức được hành vi là nguy hiểm cho xã hội và thấy
trước hậu quả của hành vi đó và để cho hậu quả đó xảy ra

T và H phạm tội cố ý gây thương tích theo điều 132 BLHS

Hành vi của T và H đủ yếu tố để cấu thành tội cố ý gây thương tích

- Khách thể: tính mạng và quyền được sống của B


+ Đối tượng tác động: B
- Khách quan
+ T và H đánh chị B, đây là hành vi gây thương tích cho B
+ Hậu quả: B bị thương tích 27%, đủ yếu tố để cấu thành tội cố ý gây thương tích
+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi của T và H là nguyên nhân trực tiếp làm B bị
sảy thai

=>> chủ thể T và H thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này

T và H thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp. Khi thực hiện hành vi đánh chị B. T và
H đều nhận thức rõ được hành vi của mình gây ảnh hưởng cho xã hội và biết trước
được hậu quả. Tuy không muốn chị b sảy thai do không biết chị B có thai (vì mới 2
tháng) nhưng vẫn có ý thức để biết được hậu quả mà vẫn để nó xảy ra.

Bài tập 32

A (20 tuổi) là sinh viên đại học quen với B (15 tuổi) là học sinh lớp 9. Trong quá
trình yêu nhau, A đã quan hệ tình dục với B và làm cho B có thai khi B mới 15 tuổi 6
tháng. Sự việc trên bị ông C là cha của B phát hiện và C yêu cầu A phải cưới B, nếu A
không đồng ý thì sẽ tố cáo. A đã nói lại yêu cầu của C với cha mẹ mình là ông D và bà E
và hai người đã đồng ý. Sau đó, C, D, E đã tổ chức đám cưới cho A và B.
Trong tình huống trên, ai phạm tội? Nếu có thì phạm tội gì? Tại sao?
- Khách thể: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm của trẻ em, thể chất, sinh lý và tình dục của trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi.

- Chủ thể: người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

-Khách quan: là hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

-Chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp

A biết hành vi của mình trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và vẫn để

hậu quả xảy ra.

Các yếu tố trên đủ điều kiện cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi quy định tại Điều 145.

Tuy nhiên A làm nạn nhân có thai ( đây là tình tiết tăng nặng ) quy định tại điểm d
khoản 2 Điều 145.

C, D, E là đã biết về hành vi phạm tội của A nhưng lại không tố giác. Tuy nhiên

C, D, E là cha mẹ của A và B nên căn cứ khoản 2 điều 19 BLHS, C, D, E không

phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều

390 BLHS.

Bài tập 33

A (nam, 17 tuổi) và B yêu nha. A có quan hệ tình dục và khiến B có thai. Gia
đình B khiếu nại về sự việc trên.

Anh( chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không, nếu phạm tội thì là tội
gì trong các trường hợp sau:

a. B 12 tuổi

b. B 15 tuổi

c. B 17 tuổi
Vì anh A đã 17 tuổi, theo khoản 1 Điều 12 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có
quy định khác. nên anh A phải chịu mọi trách nhiệm đối với hành vi của mình
trừ những quy định khác nếu có.

a. Với trường hợp B 12 tuổi

Hành vi của A có phạm tội

Tội danh của A là “Tội hiếp dâm người 16 tuổi” Điều 142 BLHS 2015

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của B

- Đối tượng tác động: B là người 12 tuổi.

Mặt khách quan: A đã có hành vi “có quan hệ tình dục với B”. Vì đây là tội
phạm hình thức nên chỉ cần có hành vi đã cấu thành tội phạm.

Mặt chủ quan: Đây là lỗi cố ý trực tiếp vì A nhận thức rõ hành vi của mình là xâm
hại đến danh dự, nhân phẩm và sẽ phát triển bình thường của B, nhưng vẫn mong
muốn thực hiện.

Chủ thể: A (17 tuổi) là chủ thể thường (đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 12 BLHS 2015 và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự)

b. Với trường hợp B 15 tuổi

Ta sẽ chia làm 2 trường hợp

Trường hợp 1: B bị A ép buộc quan hệ tình dục

Hành vi của A có phạm tội

Tội danh của A là “Tội hiếp dâm người 16 tuổi” Điều 142 BLHS 2015

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của B

- Đối tượng tác động: B người 15 tuổi

Mặt khách quan: A có hành vi “có quan hệ tình dục với B”và dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của B hoặc thủ đoạn
khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của. Vì
đây là tội phạm hình thức nên chỉ cần có hành vi đã cấu thành tội phạm.
Mặt chủ quan: Đây là lỗi cố ý trực tiếp vì A nhận thức rõ hành vi của mình là xâm
hại đến danh dự, nhân phẩm và sẽ phát triển bình thường của B, nhưng vẫn mong
muốn thực hiện.

Chủ thể: A (17 tuổi) là chủ thể thường (đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 12 BLHS 2015 và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự)

Trường hợp 2: B tự nguyện quan hệ tình với A

A không có tội trong trường hợp này

Lúc này hành vi của A sẽ là có quan hệ tình dục với người từ 13 đến dưới 16 tưổi
do lúc này em B 15 tuổi. Nhưng theo khoản 1 Điều 145 BLHS, chủ thể phạm “Tội
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi” phải là người đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục. Nên A sẽ không có hành vi phạm tội nào.

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của B

- Đối tượng tác động: B là người 15 tuổi

Mặt khách quan: A có hành vi quan hệ tình dục với người với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi là B 15 tuổi.

Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì A nhưng chưa đủ tuổi nhận thức
rõ về hành vi của mình.

Chủ thể: A (17 tuổi) không thoả mãn được điều kiện về chủ thể của tội này – chủ
thể không thoả mãn.

c. Với trường hợp B 17 tuổi

Ta chia làm 2 trường hợp

Trường hợp 1: B bị A ép buộc quan hệ tình dục

Hành vi của A có phạm tội

Tội danh của A là “Tội hiếp dâm” theo Điều 141 BLHS

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của B

- Đối tượng tác động: B người 17 tuổi


Mặt khách quan:

- Hành vi: A có hành vi “có quan hệ tình dục với B”và dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của B hoặc thủ đoạn khác
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của. Vì đây là
tội phạm hình thức nên chỉ cần có hành vi đã cấu thành tội phạm.

Chủ thể: A (17 tuổi) thoả mãn được điều kiện về chủ thể của tội này – chủ thể
thường.

Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì A nhận thức rõ hành vi của mình
là xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của B, nhưng vẫn mong muốn thực hiện

Trường hợp 2: B tự nguyện quan hệ tình với A

Do lúc này cả A và B đều 17 tuổi, với độ tuổi trên 16 tuổi thì cả 2 đều đủ độ tuổi
để quan hệ tình dục. Nên A sẽ không phạm nội nào cả.

Bài tập 34:

Ngày 12/9, V (20 tuổi) sử dụng điện thoại di động đăng nhập vào tài khoản mạng
xã hội Zalo “Ck SX” được lập từ số điện thoại và vào trò chơi điện tử trực tuyến có quen
biết với cháu H sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo "N.H”. Khi nói chuyện qua lại hàng
ngày, V biết được cháu H (12 tuổi) còn nhỏ tuổi nên đã dụ dỗ cháu H tự chụp hình ảnh và
quay đoạn ghi hình bộ phận sinh dục và khỏa thân của H để gửi cho V, V dụ dỗ cháu H
dưới hình thức hứa hẹn đưa cháu H đi chơi. Nếu cháu H đồng ý thì V sẽ dùng tài khoản
game online của V để kéo tài khoản game của cháu H lên cấp nhanh hơn. Cháu H đồng ý
yêu cầu của V nên đã tự chụp ảnh khỏa thân và hình ảnh bộ phận sinh dục của mình gửi
qua Zalo cho V xem. Hàng ngày, V thường xuyên nhắn tin gọi điện qua Zalo ép buộc
cháu H phải quay lại video khỏa thân hoặc gửi kèm hình ảnh khỏa thân của cháu H gửi
cho V xem. Nếu cháu H không gửi thì V dọa sẽ nói với bố mẹ cháu H hoặc dọa cháu H
sẽ đăng ảnh nhạy cảm của cháu H lên mạng xã hội cho nhiều người biết. Mục đích V ép
buộc cháu H nhằm để thỏa mãn nhu cầu tình dục bản thân. Ngày 21-11, anh L (bố đẻ của
cháu H) kiểm tra điện thoại của cháu H và phát hiện trong điện thoại di động có những
nội dung hình ảnh V dụ dỗ, đe dọa và ép buộc cháu H chụp ảnh, quay video khỏa thân
nên đã đến cơ quan điều tra trình báo sự việc.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của V có phạm tội không? Tại sao?

Hành vi của A có phạm tội.

Tội danh của A là “Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm”
theo Điều 147 BLHS 2015.
CSPL: khoản 4 Điều 3 NĐ 06/2019/NQ-HĐTP, 147 BLHS 2015

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của H

- Đối tượng tác động: cháu H 12 tuổi

Mặt khách quan:

- Hành vi: V đã có hành vi “ dụ dỗ” và “ thường xuyên nhắn tin gọi điện qua
Zalo ép buộc cháu” H phải quay lại video khỏa thân hoặc gửi kèm hình ảnh khỏa thân
của cháu H gửi cho V xem. Đây đều là những hành động bắt ép nạn nhân trình diễn
khiêu dâm theo tại khoản 4 Điều 3 NĐ 06/2019/NQ-HĐTP. Vì đây là tội phạm
hình thức nên chỉ cần có hành vi đã cấu thành tội phạm.

Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì V nhận thức rõ hành vi của
mình là xâm hại đến đến danh dự, nhân phẩm của H, nhưng vẫn mong muốn thực
hiện.

Chủ thể: chủ thể phạm tội V (20 tuổi) (đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định tại Điều 12 BLHS 2015 và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự).

Bài tập 35:

A (công dân Việt Nam) có quen biết với B (công dân Trung Quốc) do A thường
sang Trung Quốc mua vải của B. Sau đó, B sang Việt Nam nhờ A tìm người giúp việc
tại tiệm cắt tóc của mình ở cửa khẩu và nếu khách có nhu cầu thì bán dâm. A nhận lời
giúp. B thỏa thuận nếu A tìm được phụ nữ Việt Nam trẻ đẹp khoảng 16 đến 17 tuổi thì A
sẽ được trả công 10 triệu đồng một người.
Tối ngày 01/8, A đã rủ hai cháu X (15 tuổi) và Y (16 tuổi 3 tháng) nói là đi làm thuê ở
thị xã, tiền công mỗi ngày được 150.000 đồng nên cả hai đều đồng ý. Sáng hôm sau, A
cho xe ôm chở X và Y đi lên cửa khẩu, rồi sang Trung Quốc qua đường rừng đến nhà của
B. A được trả công 20 triệu đồng. Sau đó, B đã tổ chức cho X và Y hành nghề mại dâm.
Đến ngày 01/9, X và Y đã trốn về Việt Nam và tố cáo hành vi phạm tội của A và B.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội hay không? Tại sao?

Hành vi của A và B có phạm tội

Đói với A

Lỗi của A là Tội mua bán người (Điều 150 BLHS 2015).
- Khách thể của tội phạm:

+ Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là nhân phẩm, danh dự của con người.

+ Đối tượng tác động của tội phạm này là người từ 16 tuổi trở lên không phụ thuộc
vào giới tính, mà cụ thể ở vụ án này là Y 16 tuổi 3 tháng.

- Mặt khách quan: Tội mua bán người là tội phạm có cấu thành hình thức nên chỉ cần
một dấu hiệu là hành vi khách quan thì cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này, A
đã sử dụng thủ đoạn lừa gạt để dẫn dụ Y, rồi sau đó chuyển giao Y cho B và nhận tiền
từ B (theo điểm a khoản 1 Điều 150 thì cấu thành tội phạm này).

- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý.

- Chủ thể của tội phạm: A là người thực hiện hành vi phạm tội, là người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Đối với X là người 15 tuổi,
A đã phạm Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 BLHS 2015). Tội phạm này có
dấu hiệu như Tội mua bán người, chỉ khác nhau ở dấu hiệu đối tượng tác động của tội
phạm. Nếu mua bán người dưới 16 tuổi thì cấu thành tội phạm này. Cụ thể trong vụ án
này, X 15 tuổi, A đã dẫn dụ và chuyển giao X cho B để nhận tiền từ B.

Đối với B

Lỗi của B là “Tội chứa mại dâm” theo Điều 327 BLHS, Đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi đối với em Y ( 16 tuổi 3 tháng) theo điểm đ khoản 2 Điều
327 BLHS và Đối với người trở lên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với em X 15
tuổi theo điểm a khoản 3 Điều 327 BLHS

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hoá và
trật tự trị an xã hội và xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của X
và Y

- Đối tượng tác động: Đối tượng tác động của tội phạm này là người từ 16 tuổi
trở lên không phụ thuộc vào giới tính, ở đây là X (15 tuổi) và Y (16 tuổi 3 tháng).

Mặt khách quan:

- Hành vi: B đã có hành vi “ đã tổ chức cho X và Y hành nghề mại dâm” khi cà X
và Y đều bị ép buộc phải thực hiện. Đây là tội phạm có cấu thành hình thức nên chỉ
cần hành vi không quy định hậu quả.

Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì A và B nhận thức rõ hành vi của
mình là xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của X và Y cũng như xâm phạm đến trât
tự công công bị pháp luật cấm nhưng vẫn tìm mọi cách thực hiện.
Chủ thể: B là công dân Trung Quốc thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh
này – chủ thể thường (có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).

Bài tập 36: Do có nhu cầu bán 01 quả thận của mình để lấy tiền nên Tr đăng tin
bán thận trên mạng xã hội. L thấy Tr đăng tin có nhu cầu bán thận nên L nảy
sinh ý định sẽ mua thận của Tr rồi bán lại cho người có nhu cầu mua thận để
ghép tạng mục đích kiếm tiền chênh lệch. L liên lạc với Tr rồi trao đổi và thống
nhất mua 01 quả thận của Tr với giá 260.000.000 đồng. L gặp và đưa Tr đến nhà
trọ của L, cho Tr ăn ở, nghỉ ngơi tại đó. Khoảng 8h ngày 25/02, L đưa Tr đến
Phòng khám MT để khám và thấy đạt yêu cầu nên L đưa Tr đến bệnh viện VĐ
đăng ký hiến thận (do việc mua bán thận không được pháp luật cho phép nên L
đã hướng dẫn anh Tr làm các thủ tục pháp lý, viết đơn tự nguyện hiến thận và
làm hồ sơ hiến thận để hợp thức hóa việc mua bán thận). Mọi chi phí cho Tr
trong quá trình khám, xét nghiệm trước khi bán thận đều do L bỏ ra. Trong quá
trình ăn ở, nghỉ ngơi chờ kết quả và làm các thủ tục xét nghiệm tiếp theo, L đã
cho Tr ứng trước số tiền bán thận là 40.000.000 đồng để Tr chi tiêu cá nhân và
gửi trước về cho gia đình. Cuối tháng 3, L tìm được người có nhu cầu mua thận
là chị N có chồng là ông C bị bệnh suy thận và đã phẫu thuật cắt bỏ hai quả thận
tại bệnh viện VĐ. Qua trao đổi với L, N đồng ý mua của L 01 quả thận (của anh
Tr) để ghép cho chồng. Việc L giao dịch bán thận cho bà N với giá 450.000.000
đồng thì anh Tr không được biết. Đến ngày 20/05, Tr mỗ ghép thận với ông C. N
gọi điện cho L hẹn gặp tại Ngân hàng để thanh toán như đã thỏa thuận. Sau khi
ông C được ghép thận thành công, N có đến thăm Tr tại bệnh viện và cho Tr
thêm 20.000.000 đồng để Tr bồi dưỡng sức khỏe. L trả cho Tr số tiền còn lại là
220 triệu đồng. Tại bản Kết luận giám định pháp y kết luận: anh Tr bị tổn hại
sức khỏe là 48% từ việc phẫu thuật cắt đi 01 quả thận. Anh (chị) hãy xác định có
tội phạm xảy ra trong trường hợp trên không? Nếu có thì ai phạm tội và là tội
gì? Tại sao ?

Có hành vi phạm tội trong trường hợp này.

L phạm tội “Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người” theo Điều 154
BLHS.

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe của anh Tr
- Đối tượng tác động:bộ phận cơ thê người cụ thể là thận của anh Tr.

Mặt khách quan:

Đây là tội CTTP hình thức nên chỉ cần Tội phạm hoàn thành khi có hành vi mua bán,
chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác. Dấu hiệu hậu quả không phải dấu
hiệu bắt buộc, dù người phạm tội có mua bán, chiếm đoạt mô, bộ phận cơ thể thành
công hay chưa thì tội phạm cũng sẽ hoàn thành khi có hành vi mua bán, chiếm đoạt
mô, bộ phận cơ thể xảy ra.

- Hành vi: L liên lạc với Tr giao dịch thống nhất mua 1 quả thận với giá
260.000.000 đồng rồi cho Tr đến nhà trọ của mình cho Tr ăn ở, nghỉ ngơi tại
đó. Sau đó tìm được người có nhu cầu mua thận là chị N có chồng là ông C bị
bệnh suy thận, giao dịch bán thận cho bà N với giá 450.000.000 đồng còn anh
Tr không được biết về giá trị chênh lệch.
- Hậu quả: anh Tr bị tổn hại sức khỏe là 48% từ việc phẫu thuật cắt đi 01 quả
thận

Mặt chủ quan: L đã chủ động liên lạc với anh Tr về bán thận , cho anh Tr ở và nghỉ
ngơi tại trọ của mình trong thời gian chờ người đến mua thận là chị N và tiến hành
giao dịch. Hành vi của L là lỗi cố ý trực tiếp, L thấy trước được hành động của mình
là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi tội, biết hậu quả
xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra.

Chủ thể: Chủ thể của hành vi phạm tội ở đây là L, đủ năng lực trách nhiệm hình sự,
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Bài tập 37:

Hành vi của A là có tội

Hành vi dùng thủ đoạn để chiếm người dưới 16 tuổi mà người bị hại ở đây là đứa
con 3 tháng tuổi của chị C. Hành vi của A được quy vào Tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều 153 BLHS

Khách thể

- Khách thể : quyền trẻ em, quyền được sống cùng bố mẹ, quyền được nhận sự
chăm sóc, nuôi dưỡng từ bố mẹ và sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm của người
dưới 16 tuổi

- Đối tượng tác động: em bé 3 tháng tuổi

Mặt khách quan:

- Hành vi: bắt cóc cháu bé 3 tháng tuổi

Chủ thể: A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).

Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì V nhận thức rõ hành vi của mình
gây nguy hiểm cho xã hội , thấy trước hậu quả của hành vi đò và mong muốn sảy
ra.
Bài tập 38:

Hành vi của T có phạm tội

Tội cuat T là “Tội vu khống” căn cứ vào Điều 156 BLHS 2015.

Khách thể

- Khách thể : xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của A và gia
đình N ( mẹ anh A) và chị H ( chị gái anh A)

- Đối tượng tác động: A và gia đình N ( mẹ anh A) và chị H ( chị gái anh A)

Mặt khách quan:

- Hành vi: có hành vi nhục mạ, đăng tải những thông tin bịa đtặ sai sự thật về
anh A cũng như gia đình bà N ( mẹ anh A) và chị H ( chị gái anh A) lên mạng xã
hội .

- Hậu quả: ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm gia đình bà N, chị
H; đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc làm ăn, kinh tế gia đình chị H.

Chủ thể: T thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).

Mặt chủ quan: T biết rõ hành vi của mình xúc phạm danh dự, nhân phẩm người
khác nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội để hạ thấp danh dự, nhân phẩm anh A
cũng như gia đình anh A

Bài tập 39
H (nam, 25 tuổi) chạy xe trên đường ĐTH, quận X thì gặp M (nam, 14 tuổi) đi xe
đạp cùng chiều, H bắt chuyện làm quen và xin số điện thoại. Sau đó 1 tuần H gọi
điện và hẹn M đi chơi, ăn uống. Buổi tối M đến chỗ ở của H chơi. Tại đây H đã
dụ dỗ M cho quan hệ tình dục và được M đồng ý. Hành vi của H sau đó bị phát
hiện. Anh (chị) hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Tại sao?
Đối với trường hợp của này, H là người đã đủ tuổi thành niên, giao cấu với M là trẻ
em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tuy mang tính chất tự nguyện nhưng hành vi của H
vẫn có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự. H phạm Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo khoản 1 điều 145
BLHS 2015.
Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này:
Khách thể:
- Khách thể: quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến
sức khoẻ và sự phát triển bình thường của M.
- Đối tượng tác động: M (14 tuổi, đáp ứng được điều kiện về đối tượng tác động của
tội này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi).
Mặt khách quan:
- Hành vi: Tại đây H đã dụ dỗ M cho quan hệ tình dục và được M đồng ý. Như vậy, H
đã có hành vi giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.
Chủ thể: H (25 tuổi) thoả mãn được điều kiện về chủ thể của tội này – chủ thể thường.
Mặt chủ quan: H thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Bài tập 40: X thực hiện vụ gây rối và hủy hoại tài sản tại khu phố K. Sau đó, A
và B là tổ viên bảo vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự. Thay vì xử lý vụ
việc đúng quyền hạn, thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không
báo cơ quan có thẩm quyền biết. Tiếp đó, A và B đã đánh X chấn thương, 1 tiếng
đồng hồ sau thấy X bất tỉnh, A gọi người nhà của X lên đưa đi bệnh viện. Gia
đình X làm đơn tố cáo và hành vi của A và B. Anh (chị) hãy xác định tội danh
của A và B nếu:
1. X bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15%.
A và B phạm vào Tội bắt, giữ người trái pháp luật (Điều 157, BLHS) và Tội cố ý gây
tổn hại sức khoẻ của người khác (Điều 134, BLHS)
+ Hành vi của A và B đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội bắt, giữ
người trái pháp luật:
Khách thể:
- Khách thể: xâm phạm đến quyền tự do thân thể X được pháp luật bảo vệ.
- Đối tượng tác động: X.
Mặt khách quan:
- Hành vi: X gây rối và hủy hoại tài sản tại khu phố K. Sau đó, A và B là tổ viên bảo
vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự. Tuy nhiên, thay vì xử lý vụ việc đúng
quyền hạn, thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không báo cơ quan có
thẩm quyền biết. Như vậy, A và B đã có hành vi bắt và giữ người trái pháp luật.
Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).
Mặt chủ quan: A và B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
+ Hành vi của A và B đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội cố ý gây tổn
hại sức khoẻ của người khác:
Khách thể:
- Khách thể: quyền được bảo vệ sức khoẻ của X.
- Đối tượng tác động: X.
Mặt khách quan:
- Hành vi: A và B đã đánh X chấn thương, 1 tiếng đồng hồ sau thấy X bất tỉnh, A gọi
người nhà của X lên đưa đi bệnh viện. Như vậy, A và B đã có hành vi cố ý gây tổn hại
sức khoẻ của X.
- Hậu quả: X bị thương tích với tỷ lệ tổn thương là 15% (trên 11%).
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A và B là nguyên nhân
trực tiếp khiến X bị thương.
Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).
Mặt chủ quan: A và B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
2. X bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%.
A và B phạm vào Tội bắt, giữ người trái pháp luật (Điều 157, BLHS) và Tội cố ý gây
tổn hại sức khoẻ của người khác (Điều 134, BLHS)
+ Hành vi của A và B đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội bắt, giữ
người trái pháp luật:
Khách thể:
- Khách thể: xâm phạm đến quyền tự do thân thể X được pháp luật bảo vệ.
- Đối tượng tác động: X.
Mặt khách quan:
- Hành vi: X gây rối và hủy hoại tài sản tại khu phố K. Sau đó, A và B là tổ viên bảo
vệ dân phố được cử đến để giải quyết trật tự. Tuy nhiên, thay vì xử lý vụ việc đúng
quyền hạn, thì A và B đã đưa X về Văn phòng khu phố K mà không báo cơ quan có
thẩm quyền biết. Như vậy, A và B đã có hành vi bắt và giữ người trái pháp luật.
Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).
Mặt chủ quan: A và B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
+ Hành vi của A và B đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội cố ý gây tổn
hại sức khoẻ của người khác:
Khách thể:
- Khách thể: quyền được bảo vệ sức khoẻ của X.
- Đối tượng tác động: X.
Mặt khách quan:
- Hành vi: A và B đã đánh X chấn thương, 1 tiếng đồng hồ sau thấy X bất tỉnh, A gọi
người nhà của X lên đưa đi bệnh viện. Như vậy, A và B đã có hành vi cố ý gây tổn hại
sức khoẻ của X.
- Hậu quả: X bị thương tích với tỷ lệ tổn thương là 35%
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A và B là nguyên nhân
trực tiếp khiến X bị thương.
Chủ thể: A và B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này – chủ thể thường (có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định).
Mặt chủ quan: A và B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

Bài tập 41
A kết hôn với X, có hai con chung. Một thời gian sau, X bỏ đi mà không làm thủ tục
ly hôn với A. X đến địa phương khác mua nhà, sống như vợ chồng với Y. 2 năm sau
khi X mất, A cùng hai con đến nhà nơi X và Y sinh sống về bắt Y phải giao nhà. Y
xin được chia một phần nhưng mẹ con A không đồng ý. Y gửi đơn ra tòa, trong thời
gian chờ tòa xét xử thì A và hai con là B và C huy động hàng chục người kéo tới và
đuổi Y ra đường.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong tình huống trên.
Tội danh mà A và hai con là B và C cùng với hàng chục người khác đã phạm là Tội
xâm phạm chỗ ở của người khác (cụ thể là Điểm b, Khoản 1, Điều 158, BLHS).
+ Hành vi của A và hai con đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này:
Khách thể:
- Khách thể: Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của Y.
- Đối tượng tác động: Y.
Mặt khách quan:
- Hành vi: A và hai con là B và C huy động hàng chục người kéo tới và đuổi Y ra
đường. Như vậy, A và hai con đã có hành vi đuổi Y ra khỏi chỗ ở của Y trái pháp luật.
- Hậu quả: làm cho Y bị mất chỗ ở, ảnh hưởng đến cuộc sống, đến sinh hoạt bình
thường của Y.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi đuổi Y ra khỏi chỗ ở Y của
A và hai con là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc Y bị mất chỗ ở.
Chủ thể: A và hai con là B và C cùng hàng chục người khác (có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định) thoả mãn chủ thể của tội này – chủ thể thường.
Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, A và hai con (B và C) cùng những
người khác nhận thức rõ hành vi xâm phạm chỗ ở của Y là trái pháp luật, thấy trước
được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra, thể hiện ở chỗ A và hai
con đã huy động hàng chục người kéo tới và đuổi Y ra đường.

Bài tập 42
B bị bố mẹ ép lên xe để anh A chở đến UBND phường X đăng ký kết hôn. Sau khi A
và B đã đăng ký kết hôn, bố mẹ B đồng ý cho A về ở luôn trong nhà mình cho tiện
sinh hoạt. Vì không đồng ý với cuộc hôn nhân nên A và B thường xuyên mâu thuẫn,
A đã nhiều lần đánh đập B. Trong một lần cãi vã, A dùng dao lam rạch lên người B
rồi đổ cồn lên đốt làm cho B bị nhiều vết bỏng ở vùng lưng và vùng hông đã nhiễm
trùng với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 20%.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không? Tại sao?
Tội danh mà A đã phạm là Tội hành hạ vợ (Điều 185, BLHS).
+ Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này:
Khách thể:
- Khách thể: quyền được bảo vệ về sức khoẻ của B.
- Đối tượng tác động: B.
Mặt khách quan:
- Hành vi: A đã nhiều lần đánh đập B. Trong một lần cãi vã, A dùng dao lam rạch lên
người B rồi đổ cồn lên đốt. Do vậy, A đã có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể
của vợ mình là chị B.
- Hậu quả: B bị nhiều vết bỏng ở vùng lưng và vùng hông đã nhiễm trùng với tỷ lệ
tổn thương cơ thể là 20%.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Hành vi của A là nguyên nhân
trực tiếp khiến B bị thương.
Chủ thể: A thoả mãn được điều kiện về chủ thể của tội này – chủ thể thường.
Mặt chủ quan: A thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Bài tập 43
A (21 tuổi) và B (17 tuổi) là anh em cùng cha khác mẹ. Bà Y là mẹ ruột của B
thấy những biểu hiện khác thường của con gái nên đưa B đi đến bệnh viện khám
bệnh thì phát hiện B có thai được gần 4 tháng. Bà Y tra hỏi B thì B khai nhận
rằng do có tình cảm với A nên cả hai đã có quan hệ tình dục từ 2 năm nay và cả 2
đều hoàn toàn tự nguyện. Bà Y hỏi A thì A cũng thừa nhận hành vi của mình và
khai nhận lần đầu tiên quan hệ là ngày B đã đủ 15 tuổi.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Tại sao?
A có tội trong trường hợp này.
Tội danh mà A đã phạm là Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145, BLHS) và có 2 tình tiết định
khung tăng nặng là làm nạn nhân có thai (Điểm d, Khoản 2, Điều 145) – B đã có thai
gần 4 tháng và có tính chất loạn luân (Điểm c, Khoản 2, Điều 145) – vì A và B là anh
em cùng cha khác mẹ.
Hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này:
Khách thể:
- Khách thể:
- Đối tượng tác động: B (lần đầu tiên quan hệ là lúc 15 tuổi, đáp ứng đối tượng
tác động của tội này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi).
Mặt khách quan:
- Hành vi: A có hành vi giao cấu với B (lần đầu tiên quan hệ là lúc 15 tuổi), hành vi
này có sự tự nguyện, không ép buộc từ phía B.
Chủ thể: A (21 tuổi) thoả mãn được điều kiện về chủ thể của tội này – chủ thể thường.
Mặt chủ quan: Thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì A nhận thức rõ hành vi của mình là
xâm hại đến danh dự, nhân phẩm và sẽ phát triển bình thường của B, nhưng vẫn mong
muốn thực hiện.
Còn B thì không có tội vì khi xảy ra quan hệ lần đầu B chỉ vừa 15 tuổi và chưa đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 12 BLHS 2015.
Bài tập 44
Anh Đ và chị T kết hôn có 01 con chung. Sau khi chị T sinh con thì Đ thường
xuyên phải đi làm xa nhà nên không có thời gian quan tâm, chăm sóc vợ con, từ
đó giữa hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị T đã bỏ về nhà mẹ đẻ của mình sinh
sống. Trong khoảng thời gian chị T bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống thì Đ có quen biết
với S. khi Đ bị tai nạn lao động, phải nằm điều trị tại nhà riêng thì S đến thăm Đ,
thấy Đ đang điều trị bệnh mà không có ai chăm sóc nên S đã tự nguyện ở lại
chăm sóc Đ. Trong khoảng thời gian này giữa Đ và S đã nảy sinh tình cảm và sau
đó S chuyển đến chung sống như vợ chồng với Đ và có một con chung. Do Đ chưa
ly hôn với chị T nhưng có hành vi sống với nhau như vợ chồng cùng S nên Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện C đã ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với Đ về hành vi “Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống
như vợ chồng với người khác như vợ chồng” và S bị xử phạt về hành vi “Chưa có
vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ
là đang có chồng hoặc đang có vợ”. Sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi trên, Đ và S vẫn tiếp tục chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà Đ.
Chị T làm đơn tố cáo mối quan hệ của Đ và S và đề nghị cơ quan chức năng xử lý
theo quy định của pháp luật.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của S và Đ có phạm tội không? Tại sao?
Anh Đ và chị S phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (điều 182 BLHS 2015)
Hành vi của cả anh Đ và chị S đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này:
Khách thể:
- Khách thể: xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
- Đối tượng bị tác động: chị T
Mặt khách quan:
- Hành vi: anh Đ là người đang có vợ mà chung sống với người khác như vợ chồng;
chị S là người chưa có vợ mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là
đang có vợ.
Chủ thể: anh Đ và chị S đều thỏa mãn được điều kiện về chủ thể của tội này – chủ thể
thường.
Mặt chủ quan: anh Đ và chị S thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Dù nhận thức rõ hành vi
của mình xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và là hành vi trái pháp
luật nhưng anh Đ và chị S vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đó, thể hiện qua việc dù đã bị
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện C đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đối với Đ và S về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (điều 182 BLHS
2015) nhưng sau khi bị xử phạt, Đ và S vẫn tiếp tục chung sống với nhau như vợ
chồng tại nhà Đ.

You might also like