Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT QUỐC TẾ

LỚP QUỐC TẾ 47

Môn học: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Giảng viên: ThS. Lê Thị Diễm Phương

Nhóm : 04

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI: VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 Lê Thanh Thúy 2253801015314
2 Trần Lê Thanh Thúy 2253801015317
3 Lê Thị Bích Thủy 2253801015320
4 Nguyễn Thị Ngọc Trâm 2253801015328
5 Doãn Ngọc Bảo Trân 2253801015331
6 Nguyễn Hoàng Ngọc Trân 2253801015335
7 Nguyễn Võ Hương Trúc 2253801015351
8 Đinh Thị Cẩm Tú 2253801015355
9 Lê Nguyễn Đăng Vy 2253801015386
10 Tô Thảo Vy 2253801015395
II. VẤN ĐỀ 1: ĐỀ NGHỊ VÀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG..............1
 Tóm tắt Bản án số 886/2019/LĐ-PT ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí
Minh......................................................................................................................................1
 Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng?........................................................................................................................1
 Việc Tòa án áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho phép hiểu
rằng đã có đề nghị giao kết hợp đồng. Theo anh/chị, thông tin nào trong Bản án có thể
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng? Vì sao?....................................................................2
 Hướng áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của Tòa án như trên
có thuyết phục không? Vì sao?..............................................................................................3
III. VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG..........3
 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết hợp
đồng?.....................................................................................................................................3
 Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống pháp luật
nước ngoài.............................................................................................................................3
 Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận việc tách đất cho con trong
Quyết định số 02 nêu trên có thuyết phục không? Vì sao?...................................................4
IV. VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC......4
 Tóm tắt quyết định số 20/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao................................................................................................................4
 Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 21/2022/DS-GĐT về việc tranh chấp quyền sở
hữu nhà và quyền sử dụng đất...............................................................................................5
 Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS
2005 về chủ đề đang được nghiên cứu..................................................................................5
 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực hiện
được được xác định như thế nào? Vì sao?.............................................................................7
 Đối với Quyết định số 20, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do
đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?......................................7
 Đối với Quyết định số 21, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do
đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?......................................8
V. VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI SẢN......9
 Vụ việc thứ nhất.................................................................................................................9
 Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu
Một tỉnh Bình Dương về Vụ việc: “V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”...............................................................................................................................9
 Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?.....................................................................10
 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị
che giấu................................................................................................................................11
 Vụ việc thứ hai.................................................................................................................12
 Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu
Một tỉnh Bình Dương..........................................................................................................12
 Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả
tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?...........................................................12
 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án ( giả tạo để trốn tránh nghĩa
vụ)........................................................................................................................................13
 Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh
nghĩa vụ...............................................................................................................................13
I.
II. VẤN ĐỀ 1: ĐỀ NGHỊ VÀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG
 Tóm tắt Bản án số 886/2019/LĐ-PT ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân TP.Hồ
Chí Minh.
Nguyên đơn: ông Trần Viết H

Bị đơn: Công ty N

Nội dung vụ án:

Công ty N ký hợp đồng thử việc với ông H (thử việc 2 tháng). Hết thời gian thử việc,
nguyên đơn vẫn tiếp tục làm, đề nghị thăng chức kiêm nhiệm quyền Chánh văn phòng và
tăng lương, cũng như nhận thêm chế độ ưu đãi. Ông H yêu cầu ký hợp đồng lao động với
công ty N để đảm bảo quyền lợi của mình. Nhưng sau đó, công ty N có gửi cho ông H văn
bản thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động, thể hiện không muốn tiếp tục ký hợp đồng lao
động với ông H. Công ty N gửi cho ông H đơn bản dự thảo hợp đồng lao động có các điều
khoản không giống như thỏa thuận trong hợp đồng thử việc trước đó. Ông H không đồng ý
theo bản dự thảo của hợp đồng nên yêu cầu bị đơn chỉnh sửa lại theo thỏa thuận đã ký nhưng
công ty N không đồng ý. Sau đó bị đơn đã có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật đối với ông H nên ông H khởi kiện.

Quyết định của Tòa án: sau khi chấm dứt hợp đồng thử việc, ông H và công ty N
không thực hiện giao kết hợp đồng lao động do ông H không đồng ý ký kết Hợp đồng lao
động. Công ty N cũng không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái phép với ông H.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, đình chỉ giải quyết
yêu cầu phản tố của công ty N.

 Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng?
Đoạn Nhận định của Tòa án có ghi nhận việc Tòa án đã áp dựng quy định về chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng như sau: “Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 394 Bộ luật
Dân sự năm 2015 về Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì “1. Khi bên đề nghị
có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện
trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn
trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời...”. Với các tình tiết
nói trên, giữa người lao động và người sử dụng lao động đã 3 lần ấn định thời hạn trả lời
về việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng lao động hay không. Do ông H không trả lời
chấp nhận giao kết trong thời hạn ấn định, cần xác định ông H không chấp nhận giao kết
hợp đồng lao động với Công ty N. Việc Công ty N có Văn bản số 03/2017/CV-KNE ngày
03/11/2017 gửi đến ông H yêu cầu ông H không có mặt tại Công ty kể từ sau 12 giờ 00 phút
ngày 04/11/2017 là phù hợp.”

 Việc Tòa án áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho phép
hiểu rằng đã có đề nghị giao kết hợp đồng. Theo anh/chị, thông tin nào trong Bản
án có thể được coi là đề nghị giao kết hợp đồng? Vì sao?
Việc Tòa án áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị gao kết hợp đồng cho phép hiểu
rằng đã có đề nghị giao kết hợp đồng. Thông tin trong Bản án có thể được coi là đề nghị
giao kết hợp đồng: “…Nhưng ông Trần Viết Hlại hẹn cụ thể là trước 4 giờ 00 phút chiều
ngày 31/10/2017 mới trả lời là có ký Hợp đồng lao động hay không. Vào lúc 8 giờ 33 phút
ngày 02/11/2017, ông H nhận Văn bản số 01/2017/CV-KNE ký ngày 01/11/2017 yêu cầu ông
Trần Viết H trả lời lần cuối bằng văn bản về việc ký hợp đồng lao động, gửi về địa chỉ Công
ty chậm nhất là 17 giờ 00 phút ngày 02/11/2017, nội dung văn bản ghi rõ “Nếu không có
phản hồi nào bằng văn bản trong thời hạn nêu trên có nghĩa là ông không đồng ý ký kết hợp
đồng lao động với Công ty”. Sau đó, vào lúc 17 giờ 37 phút, ông H có văn bản trả lời Công
văn số 01/2017/CV-KNE ngày 01/11/2017, lần này, ông H lại yêu cầu Công ty cung cấp bản
thảo Hợp đồng Lao động và Phụ lục hợp đồng lao động có đóng dấu Công ty. Ngày
02/11/2017, Công ty N tiếp tục có văn bản số 02/2017/CV-KNE yêu cầu ông H “trả lời lần
cuối về việc ký hợp đồng lao động chậm nhất vào lúc 16 giờ 00 phút giờ ngày 03/11/2017 để
nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên theo đúng quy định pháp luật. Nếu quá
thời hạn trên mà chúng tôi không nhận được trả lời bằng văn bản của ông về việc này, có
nghĩa là ông không đồng ý ký kết hợp đồng lao động với Công ty”. Ngày 03/11/2017, ông H
có văn bản trả lời là sẽ phản hồi sau ba ngày làm việc kể từ ngày 03/11/2017. Cùng ngày
03/11/2017, Công ty N có Văn bản số 03/2017/CV-KNE ngày 03/11/2017 thông báo yêu cầu
ông H “Không có mặt tại Công ty từ sau 12 giờ 00 phút ngày 04/11/2017” do ông H đã trì
hoãn việc thực hiện hai Công văn Thông báo với nội dung “Nếu quá thời hạn trên mà chúng
tôi không nhận được trả lời bằng văn bản của ông về việc này, có nghĩa là ông không đồng
ý ký kết hợp đồng lao động với Công ty”.
 Hướng áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của Tòa án như
trên có thuyết phục không? Vì sao?
Căn cứ theo khoản 1 điều 394 BLDS 2015 thì ông H đã không trả lời chấp nhận trong
thời gian đã ấn định. “Ông H có ý kiến là cần xem xét hợp đồng và sẽ trả lời về việc giao kết
hợp đồng trước 04 giờ 00 phút ngày 31/10/2017. Thời điểm 04 giờ 00 phút ngày 31/10/2017
theo đề xuất của ông H tại cuộc họp ngày 26/10/2017, ông H không có trả lời về vấn đề
giao kết hợp đồng lao động.”. Ông H đã không trả lời đúng hạn vậy nên tòa tuyên giữa bên
sử dụng lao động (công ty N) và bên lao động (ông H) đã không có giao kết hợp đồng là hợp

III. VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết
hợp đồng?
BLDS 2005 có ghi nhận vai trò của im lặng nhưng không nêu trong phần chấp nhận
giao kết hợp đồng mà lại nêu trong phần thời điểm hợp đồng được giao kết tại khoản 2 Điều
404 quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự: “ 2. Hợp đồng dân sự cũng xem như
được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả
thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.”. Và BLDS 2015 đã khắc phục được vấn đề
này trong quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo khoản 2 Điều 393: “2.Sự
im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.”

BLDS 2015 đã bổ sung thêm quy định mới chưa từng xuất hiện ở BLDS 2005, quy
định về sự im lặng trong giao kết hợp đồng ở BLDS 2015 theo hướng im lặng không là chấp
nhận giao kết hợp đồng, nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ là theo thỏa thuận hoặc thói
quen, khác với BLDS 2005 quy định im lặng là chấp nhận khi các bên có thỏa thuận. Ở đây,
BLDS 2015 đã quy định chi tiết hơn vấn đề về sự im lặng trong giao kết hợp đồng nhằm hạn
chế những trường hợp xuất hiện rủi ro không đáng có trong việc im lặng. Như vậy, BLDS
2015 đã làm rõ hơn vai trò im lặng trong giao kết hợp đồng so với BLDS 2005.

 Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống pháp
luật nước ngoài.
Trong hệ thống pháp luật của Cộng hòa Pháp, Điều 1120 quy định: “Le silence ne
vaut pas acceptation, à moins qu'il n'en résulte autrement de la loi, des usages, des relations
d'affaires ou de circonstances particulières.” Theo bản dịch có nghĩa là: “Im lặng không
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật, thông lệ, quan hệ
kinh doanh hoặc hoàn cảnh đặc biệt dẫn tới có quy định khác.”

Theo đó có thể thấy, vai trò im lặng trong hệ thống pháp luật của Cộng hòa Pháp có
nét tương đồng so với BLDS 2015 Việt Nam là im lặng không là chấp nhận giao kết hợp
đồng trừ những trường hợp ngoại lệ theo luật định.

 Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận việc tách đất cho con trong
Quyết định số 02 nêu trên có thuyết phục không? Vì sao?
Theo nhóm em, việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận việc tách đất
cho con trong Quyết định trên là thuyết phục. Vì theo Án lệ 04, trường hợp nhà đất là tài sản
chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó
cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên
chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết
và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và
quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có
ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.

Trong trường hợp của Quyết định trên, mặc dù bà Còi không ký vào Đơn xin tách đất
cho con nhưng bà Còi biết về việc ông Lạc cho đất vợ chồng ông Nhất, bà Phương nhưng
quá trình ông Nhất, bà Phương sử dụng đất, xây dựng nhà kiên cố thì bà Còi là người biết
nhưng không phản đối. Từ đó, có cơ sở xác định bà Còi đã đồng ý với việc cho ông Nhất
thửa đất số 22 là tài sản chung của vợ chồng ông Lạc, bà Còi.

IV. VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC
 Tóm tắt quyết định số 20/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
Ngày 12/4/2011 vợ chồng bà Hẹ và ông Mật ký hợp đồng mua bán nhà, đất (hợp đồng
viết tay) với bà Nếch với nội dung chuyển nhượng một phần thửa đất của mình cho bà Nếch.
Sau đó vợ chồng bà Hẹ tiếp tục chuyển nhượng cho bà Nếch một phần đất nữa (không lập
thành văn bản). Do bà Nếch cần căn cứ để sang tên diện tích đất đã nhận chuyển nhượng nên
đề nghị bà Hẹ ký lại hợp đồng có công chứng. Đến năm 2015 bà Nếch lại đề nghị hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên để ký lại hợp đồng khác cùng nội dung nhưng
giảm số tiền chuyển nhượng xuống để giảm tiền nộp thuế. Tại quyết định giám đốc thẩm,
Tòa án nhận định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là không đủ điều kiện để
tách thửa theo quy định nên đối tượng giao dịch của các bên không thể thực hiện được dẫn
đến hợp đồng vô hiệu theo Điều 411 BLDS năm 2005. Tại bản án dân sự sơ thẩm và phúc
thẩm tòa án tuyên hợp đồng mua bán nhà đất ngày 12/4/2011 và hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Hẹ và bà Nếch vô hiệu là có căn cứ. Tòa giám đốc thẩm
nhận định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng đúng quy định,
theo hợp đồng thì vợ chồng bà Hẹ đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất cho bà Nếch chứ
không phải chuyển nhượng một phần, nên không vi phạm điều kiện tách thửa do đó hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không vô hiệu từ đó hủy bản án dân sự sơ thẩm và
phúc thẩm là không có căn cứ. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy quyết định
giám đốc thẩm, giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh.

 Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 21/2022/DS-GĐT về việc tranh chấp quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Thửa đất xảy ra tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng cụ Bình, cụ Nhồng. Theo di
ngôn của cụ Bình thì khi cụ chết sẽ giao lại nhà đất cho cụ Khiêm (em trai cụ Bình) quản lý.
Nhưng khi cụ Bình chết không để lại di chúc; tộc họ Trần đã bầu cụ Khiêm làm trưởng tộc
và chịu trách nhiệm trong việc xây dựng lại từ đường. Tuy nhiên sau khi cụ Bình chết, bà
Sương quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản nhà đất của cụ Bình. Tộc họ Trần yêu cầu bà
Sương trả lại toàn bộ nhà đất nhưng bà không đồng ý. Bà Sương đã chuyển nhượng nhà đất
nêu trên cho ông Ải và ông Ải lại tiếp tục chuyển nhượng nhà đất cho ông Khang. Tòa án
nhận định: việc chuyển nhượng nhà đất giữa các bên trong khi nhà đất đang có tranh chấp đã
làm hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Sương với ông Ải và giữa ông Ải với ông
Khang đều vô hiệu do vi phạm điều kiện mua bán, chuyển nhượng; mặt khác, trên phần đất
tranh chấp còn có căn nhà từ đường do tộc họ Trần xây dựng nên các hợp đồng chuyển
nhượng trên còn bị vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

 Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.
Về vấn đề áp dụng thời hiệu khi hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực
hiện được thì Điều 408 BLDS 2015 đã có những sự sửa đổi tích cực so với Điều 411 BLDS
2005.

Cụ thể, Điều 411 BLDS 2005 quy định:


“1. Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.

2. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết nên
bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên
kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.

3. Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có
một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng
vẫn có giá trị pháp lý.”

Và Điều 408 BLDS 2015 quy định:

“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được
thì hợp đồng này bị vô hiệu.

2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia
đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết
hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.

3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp
hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại
của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”

Thứ nhất, Điều 408 BLDS 2015 đã nêu rõ hợp đồng chỉ bị vô hiệu khi có đối tượng
không thể thực hiện được “ngay từ khi giao kết” còn Điều 411 BLDS 2005 sử dụng thuật
ngữ “ngay từ khi ký kết” khiến cho phạm vi áp dụng của điều luật này bị thu hẹp và gây
tranh cãi bởi lẽ “ký kết” chỉ phù hợp với hợp đồng được xác lập bằng hình thức văn bản.i

Thứ hai, về thời điểm để xác định đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được:
khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 để cập tới hai điều kiện đối tượng hợp đồng không thể thực
hiện được phải xảy ra vào trước thời điểm “ký kết” hợp đồng. Điều này được hiểu là cho đến
khi hợp đồng được giao kết, thì đối tượng của hợp đồng là không thể thực hiện được. Cũng
theo điều này, tùy trường hợp mà hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được xác định
vô hiệu tương ứng. Ở khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 cũng tiếp tục quy định về thời điểm xác
định đối tượng hợp đồng không thể thực hiện được là khi “hợp đồng được giao kết”. Trong
trường hợp hợp đồng có đối tượng không còn sau khi hợp đồng được giao kết thì hợp đồng
chấm dứt chứ không vô hiệu.

Thứ ba, ở khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 trước đây quy định lý do làm cho đối tượng
hợp đồng không thể thực hiện được “vì lý do khách quan”. Điều này gây ra những vướng
mắc trong thực tiễn, đó là các trường hợp không thực hiện được hợp đồng không chỉ vì lý do
khách quan, mà còn vì các lý do khác, bao gồm cả lý do chủ quan của các bên tham gia,
hoặc đó là một thực tế, nhưng do sự sơ suất chủ quan của bên bị thiệt hại mà hợp đồng
không thể thực hiện được. Do đó, khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 không còn quy định lý do
khách quan. Điều này có nghĩa đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được có thể vì
lý do khách quan hoặc do ý thức chủ quan của một hoặc các bên. ii Như vậy, theo tinh thần
của BLDS 2015 thì khi hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng bị vô
hiệu bất kể việc đó xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan.

 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực
hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 quy định “Trường hợp ngay từ khi giao
kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.” Không
như những quy định chung về giao dịch dân sự vô hiệu, Điều 408 BLDS 2015 không quy
định rõ ràng về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Do đó, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được có thể được xác định theo quy định tại Điều 429 BLDS 2015 về thời hiệu
khởi kiện chung cho lĩnh vực hợp đồng là 3 năm. Không thể áp dụng quy định về thời hiệu
theo khoản 1 Điều 132 vì các trường hợp áp dụng thời hiệu 2 năm để yêu cầu tuyên bố hợp
đồng vô hiệu tại Điều 132 của Bộ luật dân sự 2015 không bao gồm Điều 408 của Bộ luật
dân sự 2015, và không áp dụng thời hiệu cũng là không có căn cứ pháp lý bởi các trường
hợp không áp dụng thời hiệu tại khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 cũng không bao gồm Điều
408. Vì vậy, chỉ có thể áp dụng Điều 429 BLDS 2015 về thời hiệu khởi kiện chung cho lĩnh
vực hợp đồng đối với vấn đề về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối
tượng không thể thực hiện được.
 Đối với Quyết định số 20, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu
do đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do đối
tượng không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
Đối với quyết định số 20, đoạn thứ 3 phần Nhận định của Tòa án cho thấy Tòa án theo
hướng hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được. Theo đó, Tòa án nhận định
rằng: “Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/8/2011cấp cho bà Hẹ, ông Mật thể
hiện thửa đất 829, 830 có mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm. Tại văn bản số
675/TNMT ngày 5/11/2019, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Nhà Bè cho biết: Căn
cứ theo điểm a khoản 2 Điều 5 Quyết định số 60/2017/QĐ-UBND ngày 05/12/2017 của Uỷ
ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đất
nông nghiệp như sau: Trường hợp thửa đất thuộc khu vực quy hoạch, để sản xuất nông
nghiệp: được phép tách thửa, thửa đất mới hình thành và thửa đất còn lại phải đảm bảo diện
tích tối thiểu là 500m2 đối với đất trồng cây hàng năm, đất nông nghiệp khác và
1.000m2 đối với đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối. Như vậy vợ
chồng bà Hẹ thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Nếch một phần đất trồng cây lâu năm thuộc
thửa 829, 830 với diện tích 142,5m2 là không đủ điều kiện để tách thửa theo quy định của
Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nên đối tượng giao dịch của các bên không thực
hiện được. Do đó, Hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005.”

Hướng xác định hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được là thuyết
phục căn cứ theo khoản 1 Điều 408 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Trường hợp ngay từ
khi giao kết hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu .”
vì theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/8/2011cấp cho bà Hẹ, ông Mật thể hiện
thửa đất 829, 830 có mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm. Tại văn bản số 675/TNMT
ngày 5/11/2019, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Nhà Bè cho biết: Căn cứ theo điểm
a khoản 2 Điều 5 Quyết định số 60/2017/QĐ-UBND ngày 05/12/2017 của Uỷ ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đất nông nghiệp như
sau: “Trường hợp thửa đất thuộc khu vực quy hoạch, để sản xuất nông nghiệp: được phép
tách thửa, thửa đất mới hình thành và thửa đất còn lại phải đảm bảo diện tích tối thiểu là
500m2 đối với đất trồng cây hàng năm, đất nông nghiệp khác và 1.000m2 đối với đất trồng
cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối”. Như vậy vợ chồng bà Hẹ thỏa thuận
chuyển nhượng cho bà Nếch một phần đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 829, 830 với diện
tích 142,5m2 là không đủ điều kiện để tách thửa theo quy định của Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh nên đối tượng giao dịch của các bên không thực hiện được. Do đó, Hợp
đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005.

 Đối với Quyết định số 21, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu
do đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do đối
tượng không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
Đối với quyết định số 21, đoạn thứ 6 phần Nhận định của Tòa án cho thấy Tòa án theo
hướng hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được. Theo đó, Tòa án nhận định
rằng: “Do đó, hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Sương và ông Ải, hợp đồng chuyển
nhượng nhà đất giữa vợ chồng ông Ải với ông Khang đều vô hiệu do vi phạm điều kiện mua
bán, chuyển nhượng quy định tại khoản 1 Điều 91 Luật nhà ở năm 2005; khoản 1 Điều 188
Luật đất đai năm 2013. Mặt khác, trên thửa đất số 852 còn có căn nhà từ đường do tộc họ
Trần xây dựng từ năm 2004 nên các hợp đồng chuyển nhượng nhà đất nêu trên còn bị vô
hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự
năm 2005…”

Hướng xác định hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được là thuyết
phục. Khoản 1 Điều 408 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Trường hợp ngay từ khi giao kết
hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.”. Hiện nay
cũng chưa có bất kỳ văn bản nào làm rõ khái niệm “đối tượng không thể thực hiện được”,
nhưng ta có thể hiểu có thể là tài sản không thể chuyển giao được, công việc phải làm nhưng
không thể thực hiện được, hoặc nếu có thực hiện thì cũng không mang lại kết quả. Như vậy,
trên thửa đất số 852 còn có căn nhà từ đường do tộc họ Trần xây dựng từ năm 2004, mặc dù
căn nhà ấy không thuộc phần thế chấp nhưng nó gắn liền với mảnh đất. Tòa án nhận thấy vì
căn nhà không thuộc quyền sở hữu của bà Sương nên có thể coi như bà Sương chưa hoàn
toàn làm chủ sở hữu của mảnh đất và không có quyền đem mảnh đất đi chuyển nhượng cho
ông Ải. Vậy nên việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Sương và ông Ải
vô hiệu của Tòa án là thuyết phục.

V. VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI SẢN
 Vụ việc thứ nhất
 Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ
Dầu Một tỉnh Bình Dương về Vụ việc: “V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Diệp Thúy
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh Trang

Bà Thúy khởi kiện yêu cầu bị đơn là bà Trang giao quyền sử dụng đất cho bà Thúy
theo hợp đồng đã kí kết. Sau đó nguyên đơn thay đổi nội dung khởi kiện yêu cầu bị đơn trả
lại cho nguyên đơn số tiền vay 95.000.000 đồng. Bà Thúy cho bà Trang vay 100.000.000
đồng, trả góp 1.000.000 đồng/ngày trong vòng 6 tháng (tổng số tiền phải trả là 180.000.000
đồng). Hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá chuyển nhượng
200.000.000 đồng. Tuy nhiên, cả hai đều thừa nhận đây là giao dịch giả tạo nhằm che giấu
giao dịch vay tài sản. Về giao dịch vay tài sản, Bà Thúy cho rằng bà Trang chỉ mới trả
5.000.000 đồng; còn bà Trang thì cho rằng bà đã trả hết cho bà Thúy tổng số tiền
180.000.000 đồng, nhưng bà Thúy không thừa nhận và bà Trang cũng không cung cấp được
chứng cứ để chứng minh. Do đó, Tòa cấp sơ thẩm cho rằng nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả
lại 95.000.000 đồng là có căn cứ, đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc
không yêu cầu tính lãi suất đối với bị đơn. Ngoài ra, Tòa cấp sơ thẩm còn ra quyết định
tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn là vô hiệu

 Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?


Giao dịch giả tạo được xác lập trên cơ sở hành vi gian dối và thực hiện khi các bên
xác lập giao dịch đó. Giao dịch giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che dấu việc thực
hiện một hợp đồng khác mà các bên thật sự mong muốn thực hiện. Giao dịch giả tạo mà các
bên “tự nguyện” tham gia những mục đích giao dịch được thể hiện không phù hợp với mục
đích các bên thực sự quan tâm, hướng tới, mong muốn đạt được. Yếu tố giả tạo thông qua
dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để tạo nên sự thiếu thống nhất giữa ý chí và tuyên bố
ý chí của các bên xác lập giao dịch.

Theo Điều 124 BLDS 2015 có hai loại giao dịch dân sự giả tạo đó là giao dịch dân sự
nhằm che dấu một giao dịch khác và giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba. Đặc điểm chung của hai loại giao dịch này đó là sự nhất trí, thông đồng từ trước của
các bên xác lập giao dịch giả tạo nhằm tạo nên cái nhìn sai lầm cho người khác đối với giao
dịch đó. Bên cạnh đó hai loại giao dịch này cũng có sự khác biệt cơ bản như sau:

+ Đối với trường hợp thứ nhất thì có hai loại giao dịch dân sự song song cùng tồn tại
đó là giao dịch giả tạo và giao dịch bị che giấu. Giao dịch dân sự giả tạo sẽ bị vô hiệu và
giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp lý (một số trường hợp nếu vi phạm điều kiện có
hiệu lực của giao dịch vẫn có thể bị vô hiệu cùng giao dịch giả tạo).
+ Đối với trường hợp thứ hai thì trên thực tế hoàn toàn không có một giao dịch nào
cả,các bên xác lập giao dịch tưởng tượng, hư cấu nên các quy định, điều khoản trong giao
dịch giả tạo. Thông thường thì trường hợp này thể hiện ở: Bản thân chủ thể tham gia giao
dịch đã tồn tại nghĩa vụ dân sự với chủ thể khác,nhưng để trốn tránh nghĩa vụ đó đã thực
hiện một giao dịch khác với người thứ ba. Khi tham gia giao dịch chủ thể phải thực hiện một
nghĩa vụ nhất định với nhà nước nhưng không muốn thực hiện nên đã xác lập giao dịch với
người thứ ba.

Tóm lại, đối với giao dịch được xác lập do giả tạo thì dấu hiệu nhận biết đặc trưng
nhất đó là yếu tố thông đồng từ trước của các bên tham gia giao dịch, các bên cố tình thực
hiện một cách tự nguyện nhưng không đúng như ý chí, suy nghĩ thực tế của bản thân mình.
Mặt khác, không phải giao dịch nào thể hiện ý chí giả tạo cũng được coi là giả tạo mà chỉ có
những giao dịch có sự nhất trí từ các chủ thể khi tham gia xác lập giao dịch. Và nếu như giao
dịch được xác lập do giả tạo thì luôn vô hiệu, giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực pháp luật
và hậu quả pháp lí của nó được giải quyết theo

 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng
bị che giấu.
Hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che dấu là phù hợp với
quy định của pháp luật. Trong bản án có đề cập việc cả hai bên đều thừa nhận hợp đồng
chuyển nhượng ngày 21/3/2013 là hợp đồng giả tạo để che giấu cho việc nguyên đơn cho bị
đơn vay số tiền 100 triệu đồng. Căn cứ vào Điều 131 và Khoản 1 Điều 124

BLDS 2015: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu
một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật
này hoặc luật khác có liên quan”, hợp đồng chuyển nhượng ngày 21/3/2013 là hợp đồng giả
tạo nên bị vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che dấu là hợp đồng cho vay trả góp giữa bà
Thúy và bà Trang vẫn còn hiệu lực. Đồng thời vì bà Thúy không tính lãi suất 95.000.000
đồng đối với bác Trang nên quyết định của Toà là hợp lý.

2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng?
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích

Theo đoạn xét thấy:“Nguyên đơn và bị đơn thống nhất ngày 23/11/2013 giữa nguyên
đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất số AP 154638, số vào sổ H53166 do UBND thi xã
(nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp ngày 30/7/2009, tọa lạc tạo phường Chánh Nghĩa,
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, giá chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai bên
đều thừa nhận đây là giao dịch giả tạo để che giấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số
tiền 100.000.000 đồng.

Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích: che giấu việc cho vay mượn với số
tiền 100.000.000 đồng

3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.

Đối với hợp đồng giả tạo: tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác
lập giữa Trần Thị Diệp Thúy và Nguyễn Thị Thanh Trang theo hình thức “ giấy thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là vô hiệu (theo Điều 124 BLDS)

Đối với hợp đồng bị che giấu: giao dịch vay tài sản số tiền 100.000.000 đồng có hiệu
lực.

 Vụ việc thứ hai


 Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ
Dầu Một tỉnh Bình Dương
Nguyên đơn: Võ Thị Thu

Bị đơn: Đặng Thị Kim Anh

Năm 2009, bà Anh vay của bà Thu 3 lần tiền tổng cộng 3,7 tỷ đồng. Bà Thu đòi tiền
bà Anh nhiều lần nhưng bà không trả, bà Anh hứa sẽ trả hết nhưng mới trả được 600 triệu
đồng. Vợ chồng bà Anh đề nghị cấn trừ đất ở Bình Dương để trừ nợ, nhưng vợ chồng không
thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng ông
Vượng với giá không phù hợp với thực tế và cũng chưa hoàn tất chuyển nhượng. Bà Thu
yêu cầu khởi kiện.

Tòa giám đốc thẩm cho rằng: Trường hợp này phải xác định chuyển nhượng nhà đất
giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Phượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ với bà Thu, tuyên giao dịch đó vô hiệu và phong tỏa đất của bà Anh.

Quyết định: Hủy toàn bộ bản án phúc thẩm, giao toàn bộ hồ sơ bản án cho Tòa án
nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử phúc thẩm lại theo quy định pháp luật.
 Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là
giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu vì: “trong qúa trình giải quyết vụ án thì vọ
chồng bà Anh thừa nhận còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thười vợ chồng bà Anh không
thực hiện cam kết với bà Thu mà làm hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên cho ông Vượng.
Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng không phù hợp
với thực tế vì giá thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển
nhượng chỉ với 680 triệu đồng và thực tế các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng

 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án ( giả tạo để trốn tránh
nghĩa vụ)
Hướng xác định trên của tòa án là hợp lý và phù hợp với luật định.: Khoản 2 Điều 124
Bộ Luật dân sự 2015 “ Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

Tòa án có nhận định rằng: “Quá trình giả quyết vụ án thì vợ chồng bà Anh thừa nhận
còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất
(đang có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết
với bà Thu làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng. Thỏa
thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng không phù hợp thực tế
vì giá thực tế nhất đất gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thảo thuận chuyển nhượng chỉ với giá
680 triệu đồng và thực tế các bên chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng”. Hành vi này cho
thấy vợ chồng bà Anh chủ đích muốn trốn tránh phần nợ đối với bà Thu.

 Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn
tránh nghĩa vụ.
Hợp đồng giả tạo thường được xác lập bởi mong muốn các bên nhưng lại được tạo ra
nhằm mục đích che giấu ý chí thực sự của các bên. Vì thế, xét đến cùng thì hợp đồng này
được tạo ra không hoàn toàn do sự tự nguyện của các bên. Vì điều kiện của các bên không
được đáp ứng nên hợp đồng giả tạo sẽ bị coi là vô hiệu kể từ thời điểm xác lập. Theo điều
124 BLDS 2015 quy định: “ Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che
giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu còn giao dịch dân sự bị
che gấu vẫn còn hiệu lực” và được kế thừa trong BLDS 2005 với phần bổ sung “ Trường
hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch
dân sự đó vô hiệu” .
Khi hợp đồng giả tạo lúc này đã bị vô hiệu thì việc xử lý hậu quả phải tuân theo quy
định Điều 131 BLDS năm 2015. Theo đó: “ Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác
lập.” Vì vậy, quyết định của tòa án yêu cầu vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc và lãi cho bà Thu,
đồng thời tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu, tuyên giao dịch giữa vợ
chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng là vô hiệu.
i

ii

You might also like