Professional Documents
Culture Documents
bai giảng Mỹ học ĐHVH
bai giảng Mỹ học ĐHVH
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
Chương 1. Nhập môn mỹ học 3
1.1 Đối tượng nghiên cứu của mỹ học 3
1.1.1 Cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận để xác lập đối tượng nghiên cứu 3
1.1.2 Quá trình xác lập đối tượng nghiên cứu 4
1.1.3 Đối tượng nghiên cứu của mỹ học theo quan điểm mỹ học Marx - Lenin 5
1.2 Mối quan hệ giữa mỹ học với một số bộ môn khoa học khác 6
1.3 Ý nghĩa của việc tìm hiểu, nghiên cứu mỹ học 7
1.3.1 Đối với mỗi cá nhân 7
1.3.2 Đối với người cán bộ văn hoá 7
Chương 2. Quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực 9
2.1 Bản chất quan hệ thẩm mỹ 9
2.1.1 Khái niệm và bản chất của quan hệ thẩm mỹ 9
2.1.2 Cấu trúc của quan hệ thẩm mỹ 11
2.2 Những tính chất cơ bản của quan hệ thẩm mỹ 13
2.2.1 Tính chất xã hội 13
2.2.2 Tính chất cảm tính 14
2.2.3 Tính chất tình cảm 15
Chương 3. Khách thể thẩm mỹ 17
3.1 Khái niệm chung về khách thể thẩm mỹ 17
3.1.1 Khái niệm khách thể thẩm mỹ 17
3.1.2 Sự phân loại các hiện tượng thẩm mỹ 17
3.1.3 Một số cặp phạm trù mỹ học cơ bản 18
3.2 Một số phạm trù mỹ học cơ bản thuộc khách thể thẩm mỹ 18
3.2.1 Cái Đẹp 18
3.2.2 Cái Cao cả - cái hung 23
3.2.3 Cái Bi 25
3.2.4 Cái Hài 27
3.3 Vai trò của cái đẹp trong hệ thống các phạm trù mỹ học 30
4.2 Ý thức thẩm mỹ - phạm trù cơ bản của chủ thể thẩm 32
mỹ
4.2.1 Bản chất của ý thức thẩm mỹ 32
mỹ
4.3 Một số thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ 33
Chương 5. Nghệ thuật - hình thái biểu hiện tập trung quan hệ thẩm mỹ của con 43
người với hiện thực
5.1 Khái niệm nghệ thuật 43
5.2 Nguồn gốc của nghệ thuật 43
5.2.1 Điểm qua quan điểm của một số trường phái mỹ học 43
5.2.2 Quan điểm của Mỹ học Marx - Lenin về nguồn gốc của nghệ thuật 44
5.3 Quá trình hoạt động nghệ thuật là quá trình các quan hệ thẩm mỹ kế tiếp nhau 44
5.4 Bản chất, đặc trưng và ưu thế của nghệ thuật bắt nguồn từ những tính chất cơ bản 45
của quan hệ thẩm mỹ
5.4.1 Điểm qua quan điểm của một số trường phái mỹ học 45
5.4.2 Nghệ thuật là hình thái biểu hiện tập trung nhất mối quan hệ thẩm mỹ của con người 46
đối với hiện thực
5.5 Giá trị và ý nghĩa xã hội của nghệ thuật 47
5.5.1 Giá trị nghệ thuật 47
5.5.2 Ý nghĩa xã hội của nghệ thuật 48
Chương 6. Tác phẩm nghệ thuật - khách thể thẩm mỹ đặc biệt 52
6.1 Hình tượng nghệ thuật - tế bào cơ bản của tác phẩm nghệ thuật 52
6.1.1 Bản chất của hình tượng nghệ thuật 52
6.1.2 Phân loại hình tượng nghệ thuật 54
6.2 Nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật 55
6.2.1 Nội dung của tác phẩm nghệ thuật 55
6.2.2 Hình thức của tác phẩm nghệ thuật 56
6.2.3 Sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức trong một tác phẩm nghệ thuật 56
6.3 Đặc trưng ngôn ngữ loại hình của tác phẩm nghệ thuật 57
6.3.1 Điểm qua quan điểm của một số trường phái mỹ học về các loại hình nghệ thuật 57
6.3.2 Những căn cứ khách quan dẫn tới sự phân chia nghệ thuật thành các loại hình, loại thể 57
khác nhau
6.3.3 Đặc trưng của một số loại hình nghệ thuật cơ bản 58
Chương 7. Hoạt động nghệ thuật - dạng thức điển hình của hoạt động thẩm mỹ 68
7.1 Hoạt động nghệ thuật là một quá trình 68
7.1.1 Tương quan giữa hoạt động thẩm mỹ và hoạt động nghệ thuật 68
7.2.2 Hai giai đoạn cơ bản của quá trình hoạt động nghệ thuật 69
7.2 Các hình thức hoạt động nghệ thuật 70
7.2.1 Hoạt động sáng tạo nghệ thuật 70
7.2.2 Hoạt động cảm thụ nghệ thuật 72
7.2.3 Hoạt động phê bình nghệ thuật 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
LỜI NÓI ĐẦU
Chương trình môn học Mỹ học đại cương là tài liệu nội bộ, dùng làm học
hiệu bắt buộc cho sinh viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, nhằm chuẩn hóa và
thống nhất nội dung học tập - giảng dạy, nâng cao tính tự giác cho sinh viên, giúp sinh
viên nắm được những kiến thức cơ bản của môn học một cách có hệ thống, đáp ứng
yêu cầu của đào tạo tín chỉ.
1. Mục đích yêu cầu của môn học
Về kiến thức: Môn học cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản sau:
Những vấn đề lý luận cơ bản của đời sống thẩm mỹ, quan hệ thẩm mỹ và nghệ thuật -
dưới góc độ thẩm mỹ.
Về kỹ năng: Sinh viên nắm được một cách hệ thống các vấn đề của mỹ học, có
kỹ năng làm việc cá nhân và làm việc nhóm trong nghiên cứu, phân tích, trình bày
một số vấn đề thực tế, trên cơ sở hiểu được những kiến thức cơ bản về đời sống thẩm
mỹ, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ nói chung,
nghệ thuật nói riêng, có khả năng vận dụng những hiểu biết về môn học gắn với
chuyên ngành nghiệp vụ văn hoá được đào tạo.
Về thái độ: Góp phần xây dựng cho sinh viên có tình cảm thẩm mỹ tinh tế, thị
hiếu thẩm mỹ lành mạnh, lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp và nhu cầu thẩm mỹ trong sáng,
góp phần đào tạo và xây dựng những con người phát triển hài hoà cả về Trí - Đức -
Thể - Mỹ.
2. Đối tượng nghiên cứu của môn học
Môn Mỹ học đại cương xác định đối tượng nghiên cứu chính là những quy luật
chung của đời sống thẩm mỹ, thể hiện trên hai cấp độ: quan hệ thẩm mỹ trong đời
sống hàng ngày và trong nghệ thuật.
3. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp cơ bản được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: phân
tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, logic và lịch sử, phương pháp hệ thống cấu
trúc…
4. Tóm tắt nội dung cơ bản của môn học
Môn Mỹ học đại cương (với thời lượng 02 đơn vị tín chỉ) sẽ cung cấp cho
người học những tri thức nền tảng và có hệ thống về những quy luật cơ bản của đời
sống thẩm mỹ của con người.
Ngoài phần mở đầu tìm hiểu về đối tượng nghiên cứu, vấn đề đời sống thẩm
mỹ sẽ được triển khai qua hệ thống bài giảng, theo cách tiếp cận trên hai cấp độ:
Cấp độ chung: Mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực.
Cấp độ đặc biệt: Nghệ thuật - với tư cách là hình thái biểu hiện tập trung nhất
các mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực.
Ở mỗi cấp độ, đời sống thẩm mỹ đều được phân tích từ góc độ tổng thể và phân
nhánh:
Ở cấp độ chung, trên cơ sở khẳng định bản chất, đặc trưng của mối quan hệ
thẩm mỹ của con người với hiện thực, tìm hiểu hai vấn đề lớn là khách thể thẩm mỹ
và chủ thể thẩm mỹ, với một hệ thống các phạm trù mỹ học cơ bản.
Ở cấp độ đặc biệt, trên cơ sở phân tích và chứng minh bản chất, đặc trưng của
nghệ thuật - hình thái biểu hiện tập trung nhất mối quan hệ thẩm mỹ của con người
với hiện thực, sẽ bước đầu xem xét tác phẩm nghệ thuật như một khách thể thẩm mỹ
đặc biệt và hoạt động nghệ thuật (bao gồm sáng tạo, cảm thụ và phê bình) như một
dạng thức điển hình của hoạt động thẩm mỹ.
5. Cấu trúc môn học
(gồm 07 chương)
Chương 1: Nhập môn mỹ học
Chương 2: Quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực
Chương 3: Khách thể thẩm mỹ
Chương 4: Chủ thể thẩm mỹ
Chương 5: Nghệ thuật - hình thái biểu hiện tập trung quan hệ thẩm mỹ của con
người với hiện thực
Chương 6: Tác phẩm nghệ thuật - khách thể thẩm mỹ đặc biệt
Chương 7: Hoạt động nghệ thuật - dạng thức điển hình của hoạt động thẩm mỹ
(Tập bài giảng có sự tham khảo của một số nguồn tài liệu trong đó có cuốn giáo
trình “Mỹ học” của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, do hai tác giả - nhà giáo
Nguyễn Hồng Mai - Đặng Hồng Chương, viết và xuất bản năm 2004. Người biên
soạn xin trân trọng cảm ơn các tác giả!)
NỘI DUNG
Chương 1
NHẬP MÔN MỸ HỌC
Ý niệm về thẩm mỹ và các tư tưởng mỹ học đã xuất hiện ngay từ buổi bình
minh của nền văn minh nhân loại. Bởi vì từ khi đứng được trên đôi chân của mình,
con người đã cảm thấy đòi hỏi về cái đẹp như một nhu cầu không thể thiếu được,
đồng thời với đòi hỏi về sự thật và đạo đức.
Lúc đầu, mỹ học chỉ được coi như là phần "kiêm nhiệm" của triết học, được
nghiên cứu bên lề triết học. Người ta thường gọi đó là thời “Văn - Sử - Triết” bất
phân. Mãi đến đầu thế kỷ 18, nó vẫn chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi triết học để
khẳng định vị trí độc lập của nó...
Tên gọi môn khoa học này do nhà triết học Đức Baumgarten đặt ra vào giữa
thế kỷ 18. Trong khoảng tám năm từ 1750 đến 1758, Baumgarten cho xuất bản cuốn
sách gồm hai tập lấy tên là Mỹ học. Ông là người đầu tiên xác lập mỹ học như một
khoa học độc lập.
Từ đó về sau, thuật ngữ “mỹ học” ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Mỹ học là môn khoa học về các quan hệ thẩm mỹ. Đây là một trong những bộ
môn khoa học mới mặc dù ra đời đã được mấy trăm năm.
Ở Việt Nam, mỹ học là một môn khoa học mới mẻ, được nghiên cứu muộn.
Chương 2
QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI HIỆN THỰC
Tương ứng với mỗi loại quan hệ là một trục đánh giá khác nhau, nhưng đều
thống nhất với nhau về phương hướng tư tưởng. Các loại quan hệ này mang tính độc
lập tương đối, không hòa tan vào nhau, không thay thế được cho nhau. Tùy theo từng
trường hợp cụ thể mà người ta sử dụng trục đánh giá này hay trục đánh giá khác.
Để đánh giá thẩm mỹ, người ta dựa trên trục đánh giá đẹp - xấu. Từ sự đánh giá
này, các hiện tượng thẩm mỹ được chia ra thành hai tuyến đối lập: tích cực - tiêu cực.
Những hiện tượng thẩm mỹ tích cực là những hiện tượng phù hợp với sự phát triển
tiến bộ của xã hội, mang lại cho con người một khoái cảm thẩm mỹ trong sáng, lành
mạnh. Ngược lại, những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực ngăn cản sự phát triển tiến bộ
của nhân loại và khiến con người căm giận, khinh ghét.
Giá trị thẩm mỹ là kết quả được nảy sinh từ sự đánh giá thẩm mỹ của chủ thể
trước đối tượng. Giá trị thẩm mỹ được nảy sinh từ quan hệ thẩm mỹ: khi đối tượng
đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của chủ thể thì giá trị thẩm mỹ ra đời.
Giá trị thẩm mỹ tuy là của sự vật nhưng là giá trị đối với chủ thể đánh giá. Con
người có thể phát hiện thấy hoặc không thấy, không đúng giá trị. Đánh giá thẩm mỹ
của họ là đúng khi quan niệm của họ được nhiều người trong xã hội chấp nhận. Khi họ
phát hiện ra giá trị của sự vật thì đó là giá trị cụ thể, thực tiễn. Còn khi không phát
hiện thấy, không phát hiện đúng, giá trị ấy vẫn chỉ là giá trị lý thuyết, trừu tượng.
Đặc trưng cơ bản của giá trị thẩm mỹ:
Giá trị thẩm mỹ có ý nghĩa xã hội, khách quan rộng lớn. Giá trị này được hình
thành khi con người tiến hành các hoạt động xã hội, dựa trên lợi ích xã hội để đánh
giá. (Cái đẹp phải đứng cùng tuyến với cái thiện, cái hợp quy luật...).
Giá trị thẩm mỹ thuộc loại giá trị tinh thần - tình cảm, vì nó đáp ứng nhu cầu
tình cảm của con người (khác với loại giá trị tinh thần - lý tính).
Giá trị thẩm mỹ là giá trị đánh giá về đối tượng một cách toàn diện cả nội dung
lẫn hình thức, cả bên ngoài lẫn bên trong, cả bản chất lẫn hiện tượng.
Giá trị thẩm mỹ là một loại giá trị đa diện (nhiều mặt).
Giá trị thẩm mỹ bao giờ cũng là giá trị bao gồm hai lượng thông tin cơ bản:
thông tin về giá trị của sự vật và tình cảm của con người dành cho sự vật.
Giá trị nghệ thuật: Là giá trị của tác phẩm nghệ thuật khi được chủ thể đánh
giá về mặt thẩm mỹ. Nó là một bộ phận của giá trị thẩm mỹ nhưng không đồng nhất
với giá trị thẩm mỹ, mà là giá trị thẩm mỹ được kết tinh, nâng cao và hoàn thiện hơn.
Do đó, giá trị nghệ thuật có khả năng tác động mạnh mẽ tới con người. Có thể coi, giá
trị nghệ thuật là giá trị thẩm mỹ đặc biệt. Giá trị nghệ thuật cũng mang đầy đủ những
đặc trưng cơ bản của giá trị thẩm mỹ.
* Quan hệ thẩm mỹ là loại quan hệ được con người tiến hành trên nguyên tắc
tôn trọng tính toàn vẹn - hài hòa - biểu cảm của thế giới
Tính toàn vẹn: Lĩnh vực của quan hệ thẩm mỹ rất rộng, chủ thể thẩm mỹ đa
dạng, khách thể thẩm mỹ tồn tại toàn vẹn - không chia cắt.
Tính hài hòa: Không phải hài hòa kiểu toán học mà là hài hòa giữa con người và
thế giới, giữa mục đích xã hội và sự hợp lý của các quy luật tự nhiên.
Tính biểu cảm: Là sự thể hiện độc đáo quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập. Chính sự vận động, đan xen giữa chúng đã tạo ra ở con người
những ấn tượng đa chiều, phức điệu về thế giới.
Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ có tính tự do nhất. Từ góc độ triết học, tự do là
nhận thức được quy luật tất yếu của tự nhiên, từ đó có sự hài hòa giữa quy luật ấy với
mục đích của mình. Do vậy, con người cảm thấy khoan khoái, thích thú, thoát khỏi
những toan tính vụ lợi, trực tiếp và thuần túy.
Kết luận: Quan hệ thẩm mỹ là một loại quan hệ xã hội của con người, được
hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn “nhân hóa tự nhiên”. Đây là loại quan
hệ đồng hóa thế giới về phương diện thẩm mỹ, tôn trọng tính hài hòa, toàn vẹn, biểu
cảm của thế giới và biểu hiện sự phát triển tự do các năng lực bản chất của con người.
2.1.2 Cấu trúc của quan hệ thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ bao gồm hai thành tố: Chủ thể thẩm mỹ và Khách thể thẩm
mỹ.
2.1.2.1 Điều kiện của chủ thể thẩm mỹ
Chủ thể thẩm mỹ là chủ thể tiến hành các hoạt động cảm thụ, đánh giá, cải biến
các sự vật hiện tượng về phương diện thẩm mỹ.
Chủ thể thẩm mỹ là con người xã hội và có điều kiện tâm sinh lý thuận lợi. Về
sinh lý: con người phải có các giác quan thẩm mỹ (thị giác và thính giác - là hai giác
quan quan trọng nhất để cảm nhận, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ). Về tâm lý: Con
người phải ở trong trạng thái vô tư, không vụ lợi. (“Con người cùng khổ bị những nỗi
lo lắng giày vò nên không có cảm giác ngay đối với cả một vở kịch tuyệt tác” - Marx).
Chủ thể phải có ý thức thẩm mỹ phát triển, luôn luôn khát khao “cải biến cuộc
sống theo quy luật của cái đẹp”. Ngoài ra, chủ thể thẩm mỹ (đặc biệt là nghệ sỹ), cần
phải có ý thức thẩm mỹ chuyên biệt để có thể cảm nhận, đánh giá một cách sâu sắc về
từng loại đối tượng.
Con người đang tiến hành đánh giá đối tượng về mặt thẩm mỹ. Chỉ khi nào con
người thiết lập mối quan hệ trực tiếp, quan tâm đến tính toàn vẹn - hài hòa - biểu cảm
của sự vật, hiện tượng, coi chúng như khách thể thẩm mỹ của mình thì lúc đó họ mới
mang tư cách của chủ thể thẩm mỹ.
2.1.2.2 Điều kiện của khách thể thẩm mỹ
Khách thể thẩm mỹ là đối tượng tiếp nhận sự cảm thụ, đánh giá, cải biến của
chủ thể thẩm mỹ.
Sự vật, hiện tượng chỉ có thể trở thành khách thể thẩm mỹ khi nó tồn tại cụ thể,
khách quan, cảm tính mà con người có thể cảm nhận được bằng các giác quan.
Sự vật, hiện tượng phải có sức hấp dẫn thẩm mỹ. Sức hấp dẫn ấy bắt nguồn từ
nhiều yếu tố: cấu trúc đặc biệt của hình thức - nội dung, mối tương quan giữa nó với
môi trường mà nó tồn tại, sự tương hợp giữa sự vật ấy với nhu cầu, năng lực của chủ
thể cảm thụ…
Sự vật phải gây rung cảm, xúc cảm cho con người.
Sự vật phải đang được con người quan tâm tới về phương diện thẩm mỹ.
2.1.2.3 Điều kiện hình thành, duy trì và phát triển quan hệ thẩm mỹ
Quan hệ thẩm mỹ chỉ hình thành khi có sự tiếp xúc trực tiếp của con người đủ
điều kiện là chủ thể thẩm mỹ với sự vật, hiện tượng đủ điều kiện trở thành khách thể
thẩm mỹ. Thiếu một trong hai bộ phận đó thì quan hệ thẩm mỹ không diễn ra.
Sau khi quan hệ thẩm mỹ hình thành, cần có điều kiện bên trong và điều kiện
bên ngoài thuận lợi cho sự duy trì và phát triển quan hệ thẩm mỹ.
2.2. NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
2.2.1 Tính chất xã hội
2.2.1.1 Căn nguyên của tính chất xã hội
Quan hệ thẩm mỹ là một loại quan hệ xã hội. Quan hệ này chỉ được nảy sinh,
tồn tại và phát triển trong xã hội loài người, do chính con người xã hội tiến hành.
Trong xã hội loài vật không có quan hệ thẩm mỹ.
Con người luôn đứng trên lập trường, lợi ích xã hội để đánh giá. Chính vì xuất
phát từ lợi ích xã hội mà cái đẹp thường gắn với các giá trị xã hội khác như: thiện -
đúng - tiến bộ... bởi vì nó gắn liền với quy luật tiến bộ xã hội.
Tính xã hội của quan hệ thẩm mỹ thể hiện trên hai phương diện: xã hội và cá
nhân.
2.2.1.2 Biểu hiện của tính chất xã hội
Cá nhân bao giờ cũng thuộc về một cộng đồng xã hội lớn nhỏ khác nhau: đó có
thể là những cộng đồng được hình thành một cách tự nhiên như: (gia đình, dòng tộc,
dân tộc...), cũng có thể là cộng đồng của sự tự giác lựa chọn: (giai cấp, chính đảng,
nghề nghiệp...). Do đó, những người trong cùng một cộng đồng, cùng chịu ảnh hưởng
bởi những điều kiện sống chung, lại gắn bó với nhau về lợi ích chung nên thường gần
gũi nhau trong quan điểm, tâm lý, tính cách...dẫn đến quan điểm thẩm mỹ của họ
cũng thường gần gũi với nhau.
* Tính cộng đồng của quan hệ thẩm mỹ (tính giai cấp, dân tộc, thời đại...)
Tính dân tộc: Mỗi dân tộc khác nhau có điều kiện kinh tế, trình độ văn hóa,
nguồn gốc sinh thành, vị trí địa lý, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán…khác
nhau. Những sự khác biệt ấy đã chi phối trực tiếp tới cách nhìn nhận và đánh giá
thẩm mỹ của họ, tạo nên sự khác biệt trong đời sống văn hóa giữa các dân tộc. Kết
quả là quan hệ thẩm mỹ luôn mang đậm tính dân tộc.
Tính giai cấp: Từ sự phân biệt giàu nghèo dẫn đến sự phân chia giai cấp là
hiện tượng khách quan của lịch sử. Mỗi giai cấp khác nhau có điều kiện kinh tế, trình
độ văn hóa, địa vị chính trị...khác nhau đã chi phối tới quan niệm thẩm mỹ của họ, tạo
ra sự khác biệt trong đánh giá. Cùng một hiện tượng thẩm mỹ, giai cấp này cho là
đẹp, giai cấp khác lại cho là xấu. Các giai cấp khác nhau vẫn có sự ảnh hưởng lẫn
nhau. Chỉ có giai cấp nào là đại biểu cho xu thế tiến bộ và đang đi lên của lịch sử, thì
quan hệ thẩm mỹ ở họ mới có khả năng tiếp cận chân lý.
Tính thời đại: Lịch sử là dòng chảy liên tục của các thời đại nối tiếp nhau. Ở
mỗi thời đại có trình độ kinh tế, lao động sản xuất, khoa học kỹ thuật…khác nhau nên
cách nhìn nhận và đánh giá thẩm mỹ của mỗi thời đại cũng khác nhau.
Tính thời đại của quan niệm thẩm mỹ biểu hiện tập trung, thể hiện rõ qua hiện
tượng mốt và thời trang. Ở mỗi thời đại khác nhau xuất hiện hiện tượng mốt và thời
trang khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm thẩm mỹ của từng thời đại ấy.
Tính nhân loại: Nếu tính dân tộc, tính giai cấp, tính thời đại nói lên những sự
khác biệt trong cách nhìn nhận, đánh giá thẩm mỹ, thì tính nhân loại lại biểu hiện một
thuộc tính chung, biểu hiện sự thống nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá thẩm mỹ của
con người. Dù ở đâu, con người cũng khát khao vươn tới cái đẹp. Cho nên, khi đánh
giá thẩm mỹ là các hiện tượng tự nhiên, thế giới đồ vật, hay các tác phẩm nghệ thuật
mà ở đó thấm đượm giá trị nhân văn, thì con người thường có sự đồng cảm với nhau.
* Tính cá nhân của quan hệ thẩm mỹ
Tính cá nhân không phải là khái niệm đối lập với tính xã hội, vì tính cá nhân
nào cũng là một con người xã hội và xã hội nào cũng được tập hợp bởi những cá
nhân. Ngay cả những nét độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân cũng có căn chuyển sâu
sa từ những điều kiện xã hội cụ thể. Có thể nói tính xã hội đã được tích đọng trong
từng cá nhân. Tính cá nhân là biểu hiện cụ thể của tính cộng đồng, mặt khác, tính cá
nhân làm cho tính cộng đồng thêm phong phú.
* Quá trình xã hội hóa các giác quan: từ các giác quan sinh học đến các giác
quan thẩm mỹ của con người là nhờ quá trình hoạt động xã hội, thực tiễn.
Kết luận: Tính chất xã hội là tính chất nói lên bản chất cốt lõi của quan hệ
thẩm mỹ và cũng được phản ánh tập trung trong nghệ thuật.
2.2.2 Tính chất cảm tính
2.2.2.1 Căn nguyên của tính chất cảm tính
Tính chất cảm tính bắt nguồn từ phương thức diễn hành của quan hệ thẩm mỹ.
Nếu các quan hệ xã hội khác có thể tồn tại dưới dạng lý thuyết, trừu tượng thì quan hệ
thẩm mỹ luôn đòi hỏi phải cụ thể, cảm tính. Chủ thể thẩm mỹ cảm thụ cảm tính, trực
tiếp sự vật hiện tượng qua các giác quan. Sự vật, hiện tượng luôn tồn tại cụ thể, toàn
vẹn mà con người có thể nhận thức và đánh giá được về phương diện thẩm mỹ.
2.2.2.2 Biểu hiện của tính chất cảm tính
Trong số các giác quan, thị giác và thính giác được lựa chọn là giác quan thẩm
mỹ “linh hoạt nhất, tế nhị nhất, phong phú nhất”, “có cảm hứng nhiều nhất” và theo
Marx “đó là những giác quan có khả năng đem lại những khoái cảm mang tính chất
Người”.
Bên cạnh độ tinh, độ thính sinh học, còn cần đến độ tinh, độ thính tinh thần của
các giác quan. Đây là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài của con người,
mà qua đó các giác quan sinh học đã trở thành các giác quan xã hội, có khả năng
mang lại những cảm xúc mang tính Người.
Tuy nhiên, những khoái cảm thẩm mỹ ở chủ thể dù được nảy sinh trên cơ sở
thụ cảm cảm tính thì vẫn có sự tham gia của lý trí ở những mức độ khác nhau, thể
hiện ở những liên tưởng, tưởng tượng mang tính lôgic. Chính vì thế, yếu tố cảm tính
trong quan hệ thẩm mỹ thực chất là cảm tính đã được tích đọng lý tính. Tính chất cụ
thể, cảm tính trong quan hệ thẩm mỹ cũng quy định đặc trưng cơ bản của tác phẩm
nghệ thuật: tính hình tượng.
Kết luận: Đây là tính chất đặc trưng của quan hệ thẩm mỹ, tạo nên sự khác biệt
với các quan hệ xã hội khác và cũng là tính chất đặc trưng của nghệ thuật.
2.2.3 Tính chất tình cảm
2.2.3.1 Căn nguyên của tính chất tình cảm
Tính chất tình cảm bắt nguồn từ phương thức diễn hành của quan hệ thẩm mỹ
và sức hấp dẫn của cấu trúc hình thức - nội dung của khách thể thẩm mỹ.
2.2.3.2 Biểu hiện của tính chất tình cảm
Khi đánh giá thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ bao giờ cũng biểu lộ ngay lập tức thái
độ, tình cảm của mình trước đối tượng. Tình cảm không chỉ đóng vai trò quan trọng
trong quá trình tiến hành quan hệ thẩm mỹ, mà còn in đậm dấu ấn trong kết quả của
quan hệ thẩm mỹ (giá trị thẩm mỹ). Tình cảm không tách rời lý trí. Trí tuệ, học vấn,
năng lực tư duy có ảnh hưởng rất lớn tới độ nông sâu của cảm xúc. Tình cảm cá nhân
vừa phụ thuộc lại vừa tự do đối với tình cảm xã hội. Tình cảm cá nhân tạo nên sự
phong phú cho tình cảm xã hội và tình cảm cá nhân là một tình cảm xã hội mà nó đã
chọn lọc, kế thừa trong quá trình sinh thành. Sức mạnh to lớn của nghệ thuật bắt
nguồn từ tính chất tình cảm của quan hệ thẩm mỹ.
Kết luận: Đây là tính chất biểu hiện sức mạnh, ưu thế đặc biệt của quan hệ
thẩm mỹ và nghệ thuật.
Chương 4
CHỦ THỂ THẨM MỸ
Tồn tại trong suốt quá trình lịch sử của loài người, nghệ thuật không phải là cái
gì bí ẩn hay xa lạ. Nó là sản phẩm sáng tạo của tâm hồn, tài năng và trí tuệ của con
người trước hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên, trả lời câu hỏi: “nghệ thuật là gì” lại có
nhiều lập trường, quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về nguồn gốc, đặc
trưng và bản chất của nghệ thuật. Các quan điểm triết học khác nhau trong các hệ
thống triết học là cơ sở của các cách lý giải khác nhau.
Ở đây, chúng ta chủ yếu xem xét nghệ thuật dưới góc độ thẩm mỹ, trong khuôn
khổ của đời sống thẩm mỹ.
5.1 KHÁI NIỆM “NGHỆ THUẬT”
Trong ngôn ngữ hàng ngày, khái niệm nghệ thuật được sử dụng rất nhiều
nghĩa. Những nghĩa này có lịch sử lâu đời trong văn hoá các dân tộc.
Thời cổ đại xưa đến hiện đại, nghĩa thứ nhất của nghệ thuật là chỉ sự khéo léo.
Từ nghệ thuật có một nghĩa thứ hai là phương tiện dùng những cách thức nhất
định để biểu đạt và lưu giữ tình cảm, suy nghĩ của con người. Người ta thường gọi là
các loại hình, loại thể nghệ thuật.
Ý nghĩa bao trùm nhất là ý nghĩa nhận thức. Nghệ thuật là một trong ba hình
thức nhận thức của con người: khoa học, tôn giáo, nghệ thuật. Khác với hai hình thức
nhận thức trên, nghệ thuật nhận thức bằng hình tượng. Khoa học nhận thức thế giới
bằng khái niệm, tôn giáo nhận thức thế giới bằng biểu tượng, còn nghệ thuật nhận
thức thế giới như cái nó đang tồn tại.
Ý nghĩa hẹp nhất của từ nghệ thuật là chỉ một tác phẩm nghệ thuật cụ thể.
Theo quan điểm mỹ học Marx - Lenin, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã
hội, ra đời từ lao động và chiến đấu, từ các nhu cầu miêu tả, tín ngưỡng, tôn giáo và
rút ra những bài học về cuộc sống. Vì thế, nghệ thuật có một vai trò ý nghĩa xã hội rất
sâu sắc và rộng lớn…
5.2 NGUỒN GỐC CỦA NGHỆ THUẬT
5.2.1 Điểm qua quan điểm của một số trường phái mỹ học
5.2.1.1 Thuyết “du hí”
Họ giải thích rằng nghệ thuật là một thứ trò chơi để giải quyết một phần sinh
lực thừa của con người.
5.2.1.2 Thuyết bắt chước
Họ cho rằng nghệ thuật ra đời do con người có nhu cầu bắt chước tự nhiên
hoặc tái hiện cuộc sống của mình.
5.2.1.3 Thuyết “bản năng tính dục” - (S. Freud)
Theo ông, nghệ thuật chỉ là sự “thăng hoa tính dục”, là sự giải thoát những ẩn
ức của con người. Rõ ràng đây không phải là lý do phổ biến để các nghệ sĩ tìm đến
việc sáng tạo nghệ thuật.
5.2.1.4 Thuyết ma thuật
Theo quan điểm này, họ cho rằng nghệ thuật có nguồn gốc từ tôn giáo vì nhiều
tác phẩm nghệ thuật ra đời từ hoạt động tín ngưỡng (những nhà thờ, đồ tế tự mang
tính nghệ thuật rất cao, những khúc thánh ca, những vở kịch thần bí về sự ra đời của
Chúa)…
5.2.2 Quan điểm của Mỹ học Marx - Lenin về nguồn gốc của nghệ thuật
Mỹ học Mác xít khẳng định rằng: nghệ thuật ra đời từ thực tiễn đời sống, từ
lao động sáng tạo, từ sự đòi hỏi được thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người xã
hội. Chính lao động sáng tạo đã sản sinh ra con người (vừa là chủ thể sáng tạo vừa là
chủ thể cảm thụ nghệ thuật), đã sản sinh ra xã hội loài người (môi trường thẩm mỹ của
hoạt động nghệ thuật). Quá trình sáng tác nghệ thuật của người nghệ sĩ cũng chính là
quá trình lao động: lao động nghệ thuật, tạo ra sản phẩm. Lao động đã tạo ra các quan
hệ thẩm mỹ, nảy sinh từ nhu cầu thẩm mỹ. Nhu cầu thẩm mỹ là nhân tố trực tiếp dẫn
đến sự ra đời của nghệ thuật. Nghệ thuật chiếm lĩnh vị trí cơ bản và quan trọng nhất
trong cấu trúc của đời sống thẩm mỹ và là phương tiện hữu hiệu nhất trong việc thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người.
5.3 QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT LÀ QUÁ TRÌNH CÁC QUAN
HỆ THẨM MỸ KẾ TIẾP NHAU
Cách nhìn biện chứng là cách nhìn nghệ thuật như một dạng vận động liên tục.
Toàn bộ quá trình hoạt động nghệ thuật diễn ra trong đời sống xã hội có thể miêu tả
khái quát theo những chu trình sau: Hiện thực cuộc sống nghệ sĩ tác phẩm nghệ
thuật công chúng nghệ thuật hiện thực cuộc sống mới. Trong quá trình này diễn
ra nhiều mối quan hệ: quan hệ giữa nghệ sĩ và tác phẩm nghệ thuật, quan hệ giữa tác
phẩm nghệ thuật và công chúng, quan hệ giữa công chúng và hiện thực đời sống mới,
đây đều là những quan hệ thẩm mỹ.
Đối tượng phản ánh của nghệ thuật là đời sống thẩm mỹ. Nghệ sỹ là chủ thể
thẩm mỹ quan tâm tới đối tượng đó.
Tác phẩm nghệ thuật tồn tại như một hiện tượng thẩm mỹ khách quan, mang
giá trị thẩm mỹ mới mà trước đó chưa từng tồn tại trong tác phẩm, được chính tác giả
và công chúng quan tâm, có khả năng thỏa mãn nhiều nhất nhu cầu thẩm mỹ của con
người…
5.4 BẢN CHẤT, VAI TRÒ, SỨC MẠNH CỦA NGHỆ THUẬT BẮT NGUỒN TỪ
NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ
5.4.1 Điểm qua quan điểm của một số trường phái mỹ học
5.4.1.1 Quan điểm của mỹ học duy tâm
Mỹ học duy tâm khách quan
Platon quan niệm rằng nghệ thuật là biểu hiện của ý chí thần linh, của tinh thần
tuyệt đối. Platon coi cái đẹp là ý niệm tồn tại ở đâu đó trong “thế giới ý niệm”, nghệ
thuật chỉ là cái bóng, là “bản sao của bản sao” nên nó không thể là hình ảnh chân thực
của bản thân đời sống. Theo ông, nghệ thuật không có giá trị nhận thức.
Hegel coi nghệ thuật là “biểu hiện của tinh thần tuyệt đối”. Nghệ thuật là sự cụ
thể hoá của ý niệm dưới dạng hình tượng. Khi “ý niệm” vận động đến trình độ cao
hơn (đạt tới dạng biểu tượng và khái niệm) thì nảy sinh tôn giáo và triết học, và khi
đó, nghệ thuật sẽ bị triệt tiêu. Như vậy, theo Hegel, nghệ thuật là hình thức tồn tại thấp
nhất của ý niệm tuyệt đối.
Mỹ học duy tâm chủ quan
Kant quan niệm rằng: thế giới nghệ thuật là thế giới của các cảm giác chủ quan,
là năng lực phản tỉnh tiên nghiệm vươn tới những ý niệm hoàn thiện. Ông thừa nhận
tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm tinh thần của cái tôi, nhưng là cái tôi siêu nghiệm,
tức là cái nằm ở bên kia ý thức và nhận thức, thế giới của vật tự nó (ý chí tự do, linh
hồn bất tử, thượng đế), cái mà con người không thể biết được. Ngược lại với Hegel,
Kant cho rằng nghệ thuật là đỉnh cao nhất của lý trí, là sự kết thúc của triết học.
Các nhà mỹ học phương Tây hiện đại cũng đưa ra nhiều tuyên ngôn, nhiều luận
điểm khác nhau khi lý giải về bản chất của nghệ thuật, song đều thống nhất quan điểm
chung: nghệ thuật không phải là sự phản ánh hiện thực, không liên quan gì đến vấn đề
xã hội, nó là sự phản ánh tự do, bằng cách riêng, nó tạo ra thế giới riêng của nó - nghệ
thuật là thế giới riêng của nghệ thuật.
5.4.1.2 Quan điểm của mỹ học duy vật
Các nhà triết học duy vật thời cổ đại, (tiêu biểu là Arixtotles) quan niệm nghệ
thuật bắt nguồn từ giới tự nhiên, có nguồn gốc từ đời sống hiện thực của con người.
Arixtotles quan niệm nghệ thuật đơn giản chỉ là sự bắt chước tự nhiên. Bằng
sự mô phỏng hiện thực, nghệ sỹ tạo nên những “vật phẩm” cao hơn, đẹp hơn những
gì mà tự nhiên đã có.
Những nhà tư tưởng lớn thời Phục hưng như Leonardo da Vinci,
Michelangelo, Raphael, W. Shakespeare... đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa
nghệ thuật với cuộc sống. Họ cho rằng giá trị thẩm mỹ là thuộc thiên nhiên và là niềm
vui cảm thụ thiên nhiên.
Các nhà Khai sáng thế kỷ XVIII như Voltaire, Diderot, J. Goethe đã tạo ra
bước tiến quan trọng trong quan niệm khoa học về nghệ thuật. Họ đã nhấn mạnh tính
nhân bản, tính thực tiễn lớn lao của nghệ thuật.
Các nhà dân chủ cách mạng Nga thế kỷ XIX như Bielinxiky, Đobroliubov,
Secnusevxky đã tiến xa hơn nữa trong việc gắn nghệ thuật với đời sống. Họ quan
niệm nghệ thuật biểu hiện mối quan hệ thẩm mĩ không thể tách rời giữa con người và
hiện thực. Tuy nhiên, họ vẫn bị hạn chế trong cách nhìn máy móc, siêu hình về nghệ
thuật. Trong khi tìm cách nhấn mạnh vị trí to lớn của thực tiễn xã hội trong nghệ
thuật, họ đã coi giá trị cao nhất của nghệ thuật là “bản sao cuộc sống”- nghệ thuật
chính là cuộc sống!
Với sự ra đời của triết học Marx, của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, mỹ học đã có được cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng
đắn, khoa học để lý giải về các hiện tượng thẩm mĩ nói chung cũng như về nghệ thuật
nói riêng.
5.4.2 Nghệ thuật là hình thái biểu hiện tập trung nhất mối quan hệ thẩm mỹ
của con người đối với hiện thực. (Mỹ học Mác - xít)
* Do có nhu cầu thẩm mỹ mà trong cuộc sống hàng ngày, con người đã tiến
hành những hoạt động thẩm mỹ cần thiết để tạo ra các giá trị thẩm mỹ đáp ứng cho
nhu cầu đó. Bên cạnh những giá trị thẩm mỹ được hình thành từ thực tiễn sản xuất vật
chất thì nghệ thuật được coi là giá trị thẩm mỹ mang tính đặc thù.
Giá trị nghệ thuật chính là kết tinh của giá trị thẩm mỹ, cái đẹp trong nghệ thuật
chính là cái đẹp trong đời sống được cô đọng và nâng cao qua tài năng sáng tạo của
người nghệ sĩ.
Giá trị thẩm mỹ được “vật chất hoá” dưới dạng các hình tượng nghệ thuật cụ
thể, cảm tính, có khả năng tác động trực tiếp tới các giác quan thẩm mỹ của con người
để từ đó dấy lên trong họ những rung cảm, cảm xúc thẩm mỹ. Trong nghệ thuật, quan
hệ thẩm mỹ đã được chuyển hoá thành quan hệ nghệ thuật.
* Khảo sát nghệ thuật, chúng ta thấy nó mang đầy đủ những tính chất cơ bản
của quan hệ thẩm mỹ. Chính những tính chất cơ bản của quan hệ thẩm mỹ đã qui định
và chi phối những tính chất cơ bản của nghệ thuật; ngược lại, đến lượt mình những
tính chất cơ bản của nghệ thuật lại là bằng chứng khách quan xác nhận nghệ thuật
chính là sự biểu hiện tập trung của quan hệ thẩm mỹ.
Nếu quan hệ thẩm mỹ mang tính xã hội thì nghệ thuật cũng mang tính xã hội.
Nghệ thuật là sản phẩm duy nhất chỉ nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài
người, do con người xã hội làm ra, dành cho con người xã hội hưởng thụ. Dù phản
ánh những đề tài khác nhau, nhưng đối tượng phản ánh của các tác phẩm nghệ thuật
xưa nay vẫn không nằm ngoài con người và đời sống xã hội của con người. Nghệ
thuật cũng mang những thuộc tính xã hội như: tính dân tộc, tính giai cấp, tính thời
đại…
Nếu quan hệ thẩm mỹ mang tính chất cụ thể, cảm tính thì tính chất cụ thể, cảm
tính cũng là dấu ấn đặc trưng của nghệ thuật. Nghệ thuật không phản ánh hiện thực
bằng các khái niệm trừu tượng mà bằng các hình tượng nghệ thuật cụ thể, sinh động,
hấp dẫn. Đây là đặc trưng trong phương thức diễn hành của quan hệ thẩm mỹ, phương
thức tư duy và hình thức biểu hiện của nghệ thuật.
Nếu quan hệ thẩm mỹ mang tính chất tình cảm thì tính chất tình cảm được
biểu hiện rất đậm nét trong nghệ thuật. Khi sáng tác, nghệ sĩ bao giờ cũng muốn gửi
gắm không chỉ tư tưởng mà cả tình cảm của mình vào tác phẩm. Tác phẩm nghệ thuật
bao giờ cũng mang trong bản thân nó và truyền đạt cho con người những cảm nghĩ cá
nhân, những tình cảm của nhân vật và nghệ sĩ. Tình cảm thôi thúc người nghệ sĩ sáng
tạo và thôi thúc công chúng hướng đến việc cảm thụ. Tình cảm tạo nên phản ứng “dây
chuyền” trong công chúng, lan truyền từ người sáng tác đến người thưởng thức.
5.5 GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA XÃ HỘI CỦA NGHỆ THUẬT
5.5.1 Giá trị của nghệ thuật
Thưởng thức nghệ thuật bao giờ cũng bao hàm nội dung đánh giá. Giá trị nghệ
thuật nảy sinh từ sự đánh giá nghệ thuật. Cũng như giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật
được nảy sinh từ quan hệ giữa tác phẩm và người thưởng thức nó. Tiêu chuẩn khách
quan dể đánh giá nghệ thuật là khả năng đáp ứng của nó đối với cuộc sống, đối với sự
phát triển, tiến bộ xã hội.
Khi đánh giá nghệ thuật, người ta phải đánh giá trên cả hai bình diện: nội dung
và hình thức của tác phẩm.
Đánh giá về nội dung của tác phẩm, người ta thường đánh giá về giá trị hiện
thưc, giá trị nhân đạo.
Đánh giá về hình thức của tác phẩm, người ta thường đánh giá về mức độ thành
công của hình thức đối với việc biểu đạt nội dung.
Công chúng cần có quan điểm lịch sử, cụ thể và sự am hiểu về ngôn ngữ đặc
trưng của các loại hình nghệ thuật khi đánh giá một tác phẩm nghệ thuật cụ thể.
Một tác phẩm nghệ thuật đẹp là tác phẩm có nội dung tư tưởng lành mạnh, tiến
bộ và hình thức lôi cuốn, hấp dẫn.
Kèm theo sự đánh giá tác phẩm nghệ thuật là sự đánh giá của người thưởng
thức đối với nghệ sỹ.
Giá trị nghệ thuật cũng mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của giá trị thẩm mỹ…
5.5.2 Ý nghĩa xã hội của nghệ thuật
Bàn về vị trí, ý nghĩa, vai trò của nghệ thuật hay là nói tới năng lực nội sinh,
năng lực vốn có của nghệ thuật đã được vận hành trong đời sống xã hội.
Cùng một lúc, vừa là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, vừa là sự biểu hiện tập
trung của quan hệ thẩm mỹ nên nghệ thuật có nhiều chức năng, nhiều ý nghĩa. Sau
đây là một số ý nghĩa cơ bản của nghệ thuật.
5.5.2.1 Ý nghĩa nhận thức thẩm mỹ
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội (mà ý thức xã hội luôn luôn phản
ánh tồn tại xã hội), do đó, thông qua sự phản ánh hiện thực, nghệ thuật giúp con người
nhận thức về hiện thực, một sự nhận thức có chọn lọc và mang tính định hướng. Nghệ
thuật phản ánh mặt thẩm mỹ của đời sống nên nó có khả năng mang lại nhận thức cho
con người về mọi mặt.
Nghệ thuật mang lại cho con người nhận thức về thế giới khách quan. Nghệ
thuật đã biến kinh nghiệm trực tiếp của người nghệ sỹ được trình bày trong tác phẩm
thành kinh nghiệm gián tiếp cho người nghe, người xem, người đọc để mở rộng tầm
nhìn, khả năng hiểu biết của họ về thế giới. Đây là lượng tri thức đã thấm đượm niềm
tin của tác giả nên có tính thuyết phục cao. Ai càng thưởng thức nhiều tác phẩm nghệ
thuật thì hiểu biết càng phong phú.
Nó không chỉ giúp ta nhận thức về hiện thực đang diễn ra trước mắt mà còn
nhận thức về quá khứ cũng như chiều hướng phát triển của hiện thực trong tương lai.
Nó không chỉ giúp ta nhận thức về thế giới khách quan bên ngoài mà còn nhận
thức cả thế giới tâm hồn, tình cảm phong phú của con người.
5.5.2.2 Ý nghĩa cảm hóa, cải tạo thẩm mỹ
Nghệ sỹ sáng tạo dưới sự chỉ đạo của lý tưởng thẩm mỹ và họ luôn muốn
khẳng định lý tưởng thẩm mỹ ấy trong tác phẩm. Chính vì thế, khuôn mẫu lý tưởng
này là một tấm gương mà công chúng cảm thụ có thể soi mình, từ đó đi đến đối thoại,
tranh luận với nghệ sỹ về những điều mà họ đã đưa ra. Do đó, nghệ thuật có khả năng
cảm hoá con người.
Khác với các ngành khoa học, chính trị, đạo đức…, nghệ thuật tác động đến
tình cảm, cảm xúc của con người, hướng họ đến việc yêu cái đẹp, ghét cái xấu, từ đó
tác động đến lý trí, hành động của con người, giáo dục con người.
Trên cơ sở nhận thức hiện thực, nghệ thuật giúp con người tham gia tích cực
vào quá trình cải tạo hiện thực cũng như cải tạo bản thân mình.
Bằng nội dung tư tưởng của nó, mỗi tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng mang
lại cho con người những bài học về triết lý nhân sinh, phương châm đối nhân xử thế,
vì thế, nghệ thuật từng bước giúp con người hoàn thiện về nhân cách.
Nghệ thuật không giáo dục con người bằng những triết lý khô khan cứng nhắc
mang tính áp đặt, mà nó cảm hoá con người bằng những hình tượng nghệ thuật cụ thể,
sinh động, hấp dẫn. Vì vậy, hiệu quả tác động của nó rất lớn.
5.5.2.3 Ý nghĩa rèn luyện, bồi dưỡng các năng lực thẩm mỹ
Tác phẩm nghệ thuật là kết quả chưng cất tài năng, phản ánh cái đẹp, nhằm
thỏa mãn các nhu cầu thẩm mỹ của nghệ sỹ. Chính vì thế, đến với công chúng, nó góp
phần rèn luyện, nâng cao ý thức thẩm mỹ cho con người. Nghệ thuật là phương tiện
cơ bản và quan trọng nhất có khả năng làm thoả mãn con người xã hội với những trình
độ, tuổi tác, nghề nghiệp, sở thích...khác nhau. Nghệ thuật còn định hướng nhu cầu
thẩm mỹ và khơi dậy năng lực hoạt động thẩm mỹ tiềm ẩn trong con người.
Ý nghĩa thẩm mỹ là ý nghĩa bao trùm, thẩm thấu các ý nghĩa xã hội khác của
nghệ thuật.
5.5.2.4 Ý nghĩa thông tin - giao tiếp thẩm mỹ
Bất cứ tác phẩm nào cũng tồn tại dưới dạng những ký hiệu thông tin: ngôn từ,
đường nét, màu sắc, giai điệu...Mỗi loại hình nghệ thuật có một hệ thống ký hiệu
thông tin riêng. Do những tư tưởng, tình cảm của con người được vật chất hoá bằng
các ký hiệu, mà con người có thể thông tin giao tiếp rộng rãi với nhau, dù thuộc dân
tộc, lãnh thổ nào.
Thông tin giao tiếp bằng nghệ thuật có ưu thế hơn hẳn so với thông tin giao
tiếp bằng các ký hiệu khác, vì hệ thống ký hiệu này là kết quả của sự sáng tạo, chọn
lọc của người nghệ sỹ nên chúng mang tính điển hình, biểu cảm và tinh tế hơn. Thông
tin giao tiếp bằng nghệ thuật có tính hàm súc: vỏ kí hiệu thì ít nhưng có nhiều tầng ý
nghĩa khác nhau.
Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu cơ bản và quan trọng của con người trong
cuộc sống (giúp họ trao đổi tư tưởng, tình cảm, truyền đạt, kinh nghiệm trong sản xuất
và đấu tranh). Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin - giao tiếp càng tăng.
Nghệ thuật là một phương tiện giao tiếp đầy hiệu quả. Giao tiếp bằng nghệ
thuật là hình thức giao lưu văn hoá, là tiếng nói của trái tim đến với trái tim, đến với
những tâm hồn đồng điệu.
5.5.2.5 Ý nghĩa giải trí - tái sáng tạo thẩm mỹ
Nhu cầu giải trí là chính đáng để giúp con người có thể tồn tại và phát triển
bình thường, về tâm hồn lẫn thể chất.
Về mặt nào đó, nghệ thuật là trò chơi, vì nói tới nghệ thuật là nói tới sự biến
hoá của ngôn ngữ. (vd: Ở âm nhạc là sự biến hoá về âm thanh, giai điệu, tiết tấu...).
Chính sự biến hoá ấy mang lại cho con người sự thích thú trước khả năng sáng tạo và
khích lệ tái sáng tạo ở con người.
Nghệ thuật là phương tiện giải trí tích cực: khi thưởng thức nghệ thuật, con
người được tiếp xúc với cái hay, cái đẹp, từ đó mang lại sự sảng khoái về tinh thần.
Nghệ thuật nâng cao năng lực nhận thức và đem lại niềm vui nhận thức cho con
người. Nghệ thuật kích thích tính tò mò khám phá, và khi đã “giải mã” được nghệ
thuật, con người có khoái cảm.
Từ chỗ thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người đến chỗ nghệ thuật giáo dục
con người.
Trong cuộc sống hiện đại, nhịp độ sản xuất tăng nhanh, sự căng thẳng về thần
kinh ngày càng bức xúc thì nghệ thuật càng phát huy ý nghĩa giải trí của nó. Nghệ
thuật càng không thể thiếu được trong cuộc sống hiện đại.
* Lưu ý:
Sự phân định, sắp xếp thứ tự các ý nghĩa cơ bản của nghệ thuật ở trên chỉ mang
tính tương đối và không có sự so sánh hay xếp hạng. Chúng bình đẳng, gắn bó, hỗ trợ
cho nhau và cùng tác động tới con người, không phải cái tác động trước, cái tác động
sau. Tất nhiên, trong những thời điểm lịch sử cụ thể, người ta có thể tập trung nhấn
mạnh một vài ý nghĩa cơ bản nào đó để phục vụ những nhiệm vụ tạm thời, trước mắt.
Có thể “hợp nhất” các ý nghĩa của nghệ thuật vào một ý nghĩa xã hội mang tính
đặc thù: ý nghĩa thoả mãn, bồi đắp và định hướng nhu cầu thẩm mỹ. Chính điều này
nói lên sự khác nhau căn bản giữa nghệ thuật và các hình thái ý thức xã hội khác,
đồng thời cũng xác định ưu thế của nghệ thuật trong sứ mạng thiêng liêng hướng con
người và cuộc sống vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ.
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN
1. Vì sao nghệ thuật mang tính dân tộc? Tính dân tộc thể hiện như thế nào
trong tác phẩm nghệ thuật?
2. Phân tích tính dân tộc biểu hiện trong một tác phẩm nghệ thuật cụ thể?
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái niệm, bản chất, các ý nghĩa xã hội của nghệ thuật?
Chương 6
TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT - KHÁCH THỂ THẨM MỸ ĐẶC BIỆT
6.1 HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT - TẾ BÀO CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM NGHỆ
THUẬT
Tác phẩm nghệ thuật là đơn vị tồn tại của nghệ thuật.
Tác phẩm nghệ thuật là đơn vị vận hành của nghệ thuật trong đời sống xã hội.
Tác phẩm nghệ thuật cũng tồn tại với đủ điều kiện của một khách thể thẩm mỹ.
Khái niệm: Hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù mà người nghệ sĩ sử
dụng để phản ánh, nhận thức và cải tạo hiện thực dưới dạng cụ thể, cảm tính nhưng có
ý nghĩa điển hình khái quát. Cùng một lúc, nó vừa là hình thức phản ánh, vừa là hình
thức đánh giá hiện thực.
Khái niệm hình tượng nghệ thuật thường được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, nó thường được dùng để chỉ “hình tượng nhân vật” mà người
nghệ sỹ miêu tả trong các tác phẩm nghệ thuật của mình.
Theo nghĩa rộng, nó nói lên phương thức phản ánh mang dấu hiệu đặc trưng
của nghệ thuật (để phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình thái ý thức xã hội
khác).
Ngoài ra, hình tượng nghệ thuật còn được hiểu là khái niệm dùng để chỉ hình
tượng tác phẩm. Mỗi tác phẩm, dù nhỏ hay lớn đều được coi là một đơn vị hình tượng.
6.1.1 Bản chất của hình tượng nghệ thuật
Hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù (vừa khái quát hóa cao - vừa cá thể hóa
sâu) của nghệ sỹ để phản ánh hiện thực:
6.1.1.1 Hình tượng nghệ thuật thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa cái riêng và
cái chung, giữa lí trí và tình cảm, giữa cái khách quan và cái chủ quan
Một trong những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật so với các hình thái ý thức
xã hội khác là ở phương thức phản ánh. Nếu các hình thái ý thức xã hội khác phản ánh
hiện thực bằng các khái niệm trừu tượng thì nghệ thuật lại phản ánh hiện thực bằng
các hình tượng nghệ thuật cụ thể, cảm tính.
* Sự thống nhất biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Cái riêng của hình tượng nghệ thuật là những đối tượng cụ thể riêng biệt mà
nghệ sỹ lựa chọn để phản ánh, cái riêng còn là phong cách riêng, dấu ấn cá tính của
nghệ sỹ khi xây dựng hình tượng nghệ thuật. Chính điều này làm nên sự riêng biệt độc
đáo của từng tác phẩm, của từng nghệ sỹ (một trong những nhân tố tạo nên sức hấp
dẫn của nghệ thuật).
Cái chung của hình tượng nghệ thuật là ở tính điển hình, tính khái quát của nó.
Thông qua những hiện tượng cụ thể, cá biệt được phản ánh trong các tác phẩm nghệ
thuật, người thưởng thức có thể thấy được bản chất và quy luật của cả một nhóm các
sự vật, hiện tượng cùng loại, thấy được cả đặc điểm, tính chất của một giai cấp, một
lực lượng xã hội nhất định.
Mức độ chân thực của hình tượng nghệ thuật phụ thuộc rất lớn vào sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa cái riêng và cái chung trong quá trình sáng tạo của người nghệ sỹ.
Trong hình tượng nghệ thuật, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung phải được thể
hiện thông qua cái riêng. (Điều này ngược lại so với khoa học và các hình thái ý thức
xã hội khác).
* Sự thống nhất biện chứng giữa lí trí và tình cảm
Hình tượng nghệ thuật là phương tiện bộc lộ lý tưởng thẩm mỹ của người nghệ
sỹ (lý tưởng biểu hiện ý chí, niềm tin của con người trong quá trình phấn đấu vươn tới
những mục tiêu cao đẹp, đồng thời cũng là niềm say mê, nhiệt tình, khát vọng của họ).
Do đó, tất yếu có sự thống nhất biện chứng giữa lý trí và tình cảm trong sáng tác hình
tượng nghệ thuật ở nghệ sỹ và trong quá trình cảm thụ nghệ thuật của công chúng.
Khi xây dựng hình tượng nghệ thuật, nghệ sỹ phải vận dụng lí trí sáng suốt để
phân tích, mổ xẻ hiện thực, nắm bắt bản chất và quy luật của hiện thực để phản ánh,
đồng thời hình tượng nghệ thuật lại bộc lộ thái độ của người nghệ sỹ gửi gắm trong
đó: lòng yêu thương, sự căm giận...
Tình cảm có mặt ở mọi giai đoạn của quá trình sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật.
Mỗi hình tượng nghệ thuật đều chứa đựng một sức nặng tình cảm.
Đây là tiêu chí để phân biệt nghệ thuật với khoa học, hình tượng với khái niệm.
Nếu trong khoa học, tình cảm chỉ đóng vai trò là động lực thúc đẩy quá trình nghiên
cứu, thì trong nghệ thuật, tình cảm có mặt trong mọi khâu của quá trình sáng tạo.
Hình tượng nghệ thuật còn là kết quả sáng tạo của lý trí sáng suốt, của sự nhận
thức sâu sắc về đời sống.
Rõ ràng, trong hình tượng nghệ thuật, tình cảm không những không đối lập với
lý trí mà chúng còn có quan hệ thống nhất chặt chẽ. Tình cảm bao giờ cũng được kiểm
tra bằng lý trí, được nghiền ngẫm thông qua lý trí. Nếu quá thiên về cảm xúc thì hình
tượng nghệ thuật sẽ trở nên uỷ mị, thiếu sức sống, còn nếu lí trí có phần trội hơn tình
cảm thì sẽ hạn chế sức hấp dẫn, truyền cảm, hình tượng trở nên khô khan, cứng nhắc.
* Sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan
Sự thống nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan bắt nguồn từ mối quan hệ
giữa cái phản ánh và cái được phản ánh.
Cái khách quan của hình tượng nghệ thuật là đối tượng miêu tả nằm ngoài tác
phẩm. Khi sáng tác, nghệ sỹ phải tôn trọng tính khách quan của chúng, nghĩa là phải
miêu tả như nó đang tồn tại mà không được xuyên tạc hay bóp méo (không tô hồng và
bôi đen hiện thực. Có như vậy, nghệ thuật mới đảm bảo tính chân thực sâu sắc). Tuy
nhiện khi xây dựng hình tượng nghệ thuật, nghệ sỹ không bê nguyên xi cái khách
quan vào tác phẩm mà cần có sự lựa chọn, đánh giá về đối tượng. Hiện thực cuộc sống
tồn tại độc lập, đó là cái khách quan, còn nghệ sỹ tái hiện nó, đó là cái chủ quan.
Cái chủ quan của hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức và đánh giá hiện thực,
là cá tính và phương pháp sáng tác của nghệ sỹ. Sự nhận thức và đánh giá này phụ
thuộc vào năng lực phán đoán, vào kinh nghiệm sống, vào lập trường chính trị, vào
đời sống tình cảm, hay nói cách khác, vào thế giới quan và nhân sinh quan của tác
giả.
Không được tuyệt đối hoá mặt chủ quan hay tuyệt đối hoá mặt khách quan
trong khi xây dựng hình tượng nghệ thuật.
6.1.1.2 Hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ
Nghệ thuật phản ánh cuộc sống, nhưng không phải là sự phản ánh dập khuôn
cuộc sống, mà nó phản ánh có sự chọn lọc nhờ hư cấu, nhờ trí tưởng tượng của nghệ
sỹ. Do hình tượng phản ánh khái quát cuộc sống cả chiều rộng lẫn chiều sâu mà vẫn
không phá vỡ tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động vốn có, nên nghệ thuật cần có sự ước lệ.
Muốn khám phá cuộc sống, khám phá những quy luật của hiện thực thì nghệ
thuật không thể không sắp xếp hiện thực theo một trật tự nào đó để có thể làm rõ hơn
bản chất của nó. Tuy vây, tính ước lệ cũng không mâu thuẫn với tính chân thực, là sự
tương quan hài hòa giữa cái thực với cái như thực rong nghệ thuật.
6.1.1.3 Hình tượng nghệ thuật mang tính đa nghĩa
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho hình tượng nghệ thuật trở thành
những mặt lưu giữ thông tin khác nhau. Tính đa nghĩa đó còn phụ thuộc vào sự khám
phá của công chúng.
Theo thời gian, hình tượng nghệ thuật có thể cũ đi về hình thức, nhưng vẫn mới
về nội dung, nó luôn là một ẩn số không có lời giải duy nhất và cuối cùng...
6.1.2 Phân loại hình tượng nghệ thuật
Có hai loại hình tượng nghệ thuật cơ bản (căn cứ vào đặc trưng thể loại):
Hình tượng tạo hình: là loại hình tượng mà qua đó người thụ cảm có thể “nhìn
thấy” những hình ảnh cụ thể, sinh động của bản thân hiện thực. (vd: hình tượng tạo
hình trong hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh...)
Hình tượng biểu hiện: là hình tượng không có khả năng trên nhưng nó lại gợi
lên trong người nghe, người xem, người đọc những suy ngẫm về hiện thực. Nó không
nhằm mục đích miêu tả mà chủ yếu nhằm mục đích gợi cảm. (vd: hình tượng biểu
hiện trong kiến trúc, âm nhạc, múa...)
Tất nhiên, sự phân biệt trên đây chỉ mang ý nghĩa tương đối, bởi lẽ, hình tượng
biểu hiện nào cũng chứa đựng tính tạo hình, và hình tượng tạo hình nào cũng mang ý
nghĩa biểu hiện.
Ngoài ra, cũng cần chú ý xem xét vấn đề hình tượng nghệ thuật so với nguyên
mẫu, trong tư tưởng của tác giả và trong suy nghĩ, cảm nhận của công chúng.
6.2 NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
6.2.1 Nội dung của tác phẩm nghệ thuật
Nội dung tác phẩm nghệ thuật là hiện thực đời sống đã được người nghệ sỹ lựa
chọn, đánh giá và phản ánh trong tác phẩm nghệ thuật nhằm thể hiện một ý đồ tư
tưởng nhất định.
Phân biệt nội dung tác phẩm với đối tượng phản ánh của nó. Đối tượng phản
ánh của tác phẩm nghệ thuật là hiện thực đời sống - cái nằm ngoài tác phẩm, là các
hiện tượng thẩm mỹ khách quan, các quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện
thực. Vì vậy, nội dung tác phẩm nghệ thuật bao gồm cả cái khách quan lẫn cái chủ
quan.
Những thành tố cơ bản của nội dung tác phẩm nghệ thuật là chủ đề và tư tưởng
chủ đề.
Chủ đề: Là vấn đề cơ bản, vấn đề mấu chốt được nghệ sỹ đặt ra và có ý định
giải quyết trong tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật nào cũng có chủ đề nhưng
ở tác phẩm lớn có thể có hai hay nhiều chủ đề mà trong đó bên cạnh chủ đề chính còn
có các chủ đề phụ xoay quanh. (Muốn tìm chủ đề tác phẩm, đặt câu hỏi: tác phẩm này
nhằm giải quyết vấn đề gì?).
Tư tưởng chủ đề: Là tư tưởng chủ đạo được toát lên từ chủ đề tác phẩm, từ ý
nghĩa khách quan của toàn bộ hệ thống hình tượng nghệ thuật, là lời kết luận được rút
ra sau khi cảm thụ, đánh giá tác phẩm. (Muốn tìm tư tưởng chủ đề, đặt câu hỏi: tác
phẩm này nói lên cái gì?).
Tư tưởng của tác phẩm được trình bày không khô khan, cứng nhắc mà thông
qua các hình tượng nghệ thuật cụ thể, sinh động, được hình thành dưới dạng cảm xúc
và được vận hành theo tuyến tình cảm.
Trong một tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng và chủ đề luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau.
6.2.2 Hình thức của tác phẩm nghệ thuật
Hình thức tác phẩm nghệ thuật là cơ cấu, cấu trúc, là cách tổ chức nội dung tác
phẩm, là phương tiện thể hiện nội dung tác phẩm. (Nội dung của từng tác phẩm nghệ
thuật luôn được biểu hiện dưới một hình thức nhất định)
Không nên nhầm lẫn hình thức của tác phẩm với phương tiện tạo hình -
phương tiện biểu hiện của nó.
Những thành tố cơ bản của hình thức tác phẩm là bố cục, cốt truyện.
Bố cục: Bố cục là cơ cấu, cấu trúc của một tác phẩm nghệ thuật, là sự phân bố,
sắp xếp các yếu tố, các bộ phận của tác phẩm thành một chỉnh thể thống nhất và duy
nhất có khả năng truyền tải nội dung tác phẩm. Tác phẩm nào cũng có bố cục. (Bố cục
non yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc thể hiện nội dung tác phẩm).
(vd: giai đoạn mở đầu, thắt nút, mở nút như thế nào trong một truyện ngắn)...
Cốt truyện: (thường có ở văn học). Cốt truyện là sự liên kết các sự kiện có liên
quan tới nội dung tác phẩm một cách hợp lôgíc, có khả năng giúp nghệ sỹ diễn tả toàn
bộ nội dung của tác phẩm một cách liền mạch.
6.2.3 Sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức trong một tác
phẩm nghệ thuật
Trong một tác phẩm nghệ thuật, nội dung và hình thức có quan hệ biện chứng
với nhau. Biểu hiện cụ thể của quan hệ này là: nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết
định đối với hình thức và hình thức là phương tiện tích cực để thể hiện nội dung của
tác phẩm.
Tính quyết định của nội dung đối với hình thức: khi sáng tác, nghệ sỹ bao giờ
cũng xuất phát từ yêu cầu thể hiện nội dung để đi tìm một hình thức thích hợp. Tính
tích cực của hình thức đối với nội dung: hình thức càng hoàn chỉnh, càng chặt chẽ bao
nhiêu thì nội dung càng được bểu hiện đầy đủ, rõ ràng và sâu sắc bấy nhiêu.
Nội dung và hình thức nương tựa, hoà trộn vào nhau. Không thể có một tác
phẩm nghệ thuật đẹp có nội dung hay mà hình thức dở và ngược lại. Nội dung và hình
thức phải mang tính nghệ thuật. Mỗi nội dung chỉ được thể hiện dưới một hình thức
nhất định. Khi hình thức thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của nội dung.
6.3 ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ LOẠI HÌNH CỦA TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
Ngay từ khi mới ra đời, mỗi tác phẩm nghệ thuật đã thuộc về một loại hình,
loại thể nhất định. Mỗi loại hình, loại thể nghệ thuật ấy lại có ngôn ngữ đặc trưng
riêng biệt của nó. Việc nắm vững ngôn ngữ đặc trưng của các loại hình nghệ thuật có
ý nghĩa quan trọng đối với cả nghệ sỹ và người thưởng thức nghệ thuật.
6.3.1 Điểm qua quan điểm của một số trường phái mỹ học về các loại hình
nghệ thuật
Mỗi hệ thống mỹ học đều cố gắng đưa ra những lời giải đáp về nguyên nhân
tồn tại của các loại hình nghệ thuật, về đặc trưng của chúng, về nguyên tắc phân loại
và tác động qua lại giữa chúng với nhau.
* Quan điểm của mỹ học duy tâm
Platon: thái độ của ông không công bằng khi cho rằng một nghệ thuật được
đánh giá cao khi nó xích gần tới thế giới của các ý niệm, ngược lại, khi nghệ thuật
càng gần thế giới vật thể, nguyên tắc phản ánh hiện thực được biểu hiện rõ thì nghệ
thuật càng ít có ý nghĩa.
Mỹ học Trung cổ: đánh giá cao âm nhạc và kiến trúc, coi chúng là những nghệ
thuật thể hiện đầy đủ nhất ý niệm cái cao cả, cái linh thiêng. Đây cũng chính là lý do
vì sao hai bộ môn nghệ thuật này được nhà thờ sử dụng triệt để vì nó làm tăng sự
trang nghiêm, tráng lệ.
Kant: phân biệt nghệ thuật thượng đẳng và nghệ thuật hạ đẳng. Nghệ thuật
thượng đẳng chủ yếu mang tính chất hình thức, đưa lại những khoái cảm thuần tuý
thẩm mỹ: âm nhạc, thơ ca.
Hegel: ông đã vận dụng quan điểm phát triển vào nghệ thuật. Theo ông, với các
loại hình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc, thơ ca - nghệ thuật phát triển theo
hướng đi lên. Hơn thế, loại hình nghệ thuật trước bị loại hình nghệ thuật tiếp sau đó
vượt qua. Ông đối lập gay gắt loại hình nghệ thuật “thượng đẳng” và “hạ đẳng”.
* Quan điểm của mỹ học duy vật: sự phong phú của các loại hình nghệ thuật
xuất phát từ đặc điểm của bản thân hiện thực, tính độc đáo của hình thức mà con
người sử dụng để phản ánh hiện thực, sự phong phú của các giác quan thẩm mỹ...
6.3.2 Những căn cứ khách quan dẫn tới sự phân chia nghệ thuật thành các loại
hình, loại thể khác nhau
Sự đa dạng, phong phú của đời sống hiện thực (đối tượng phản ánh) đòi hỏi
nghệ thuật (phương tiện phản ánh) cũng phải đa dạng, phong phú mới có khả năng
phản ánh được, phản ánh hết sự phong phú đó.
Sự phong phú của các giác quan thẩm mỹ của con người.
Sự phong phú của các phương tiện vật chất - kỹ thuật mà nghệ sỹ sử dụng để
xây dựng ngôn ngữ đặc trưng của các loại hình nghệ thuật. Khi sử dụng các phương
tiện vật chất - kỹ thuật khác nhau thì các loại hình nghệ thuật tất yếu cũng khác nhau.
Dựa trên cơ sở này có thể phân chia nghệ thuật thành mấy nhóm: nghệ thuật sử dụng
vật liệu tự nhiên (đất, đá, gỗ), nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật lấy bản thân con người
làm chất liệu...
6.3.3 Đặc trưng của một số loại hình nghệ thuật cơ bản
6.3.3.1 Nhóm nghệ thuật ứng dụng
Loại hình nghệ thuật này ra đời từ rất sớm, ngay trong buổi bình minh của lịch
sử nhân loại. Nhóm này gồm nghệ thuật trang trí (mỹ thuật ứng dụng) và kiến trúc.
Chúng vừa thuộc lĩnh vực sáng tạo tinh thần, vừa thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất; vừa
có công dụng thực tế, vừa mang tính thẩm mỹ.
* Mỹ thuật ứng dụng
Đặc trưng của loại hình này là hình trang trí hay hoa văn.
Hoa văn: đó là sự luân chuyển nhịp nhàng và sự kết hợp các đường nét hình
học cách điệu, hay các yếu tố tạo hình. Những bộ phận hợp thành hoa văn là hoạ tiết
(môtip) và nhịp điệu (rythme). Nếu hoạ tiết là sự kết hợp các đường nét hình học hay
các yếu tố tạo hình theo một kiểu cách nào đó, thì nhịp điệu lại nối các hoạ tiết với
nhau thành một khối thống nhất, lặp đi lặp lại nhiều lần trong một tác phẩm.
Trang trí có nghĩa là tô điểm. Một đối tượng mang tính trang trí nếu như nó
thực hiện chức năng tô điểm, phục vụ mục đích mang lại vẻ đẹp cho đối tượng khác.
Mỹ thuật ứng dụng ngày càng xâm nhập vào mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trong xã hội chưa có giai cấp, nó là một hình thái chủ đạo của việc sáng tạo nghệ
thuật. Trong những thời đại sau, mỹ thuật ứng dụng góp phần vào việc mỹ hoá nếp
sống, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ của xã hội, là một trong những hình thái sáng tạo
nghệ thuật cơ bản của quần chúng nhân dân. Các tác phẩm trang trí không chỉ đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ, còn lưu giữ những dấu vết tiến bộ của các thời kỳ lịch sử, nói lên
thị hiếu thẩm mỹ, trình độ kỹ thuật, tài năng sáng tạo của con người.
* Kiến trúc
Kiến trúc là nghệ thuật chiếm lĩnh không gian bằng phương pháp tạo hình, nó
bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của con người nhằm thoả mãn nhu cầu ở, đáp ứng cả
hai mặt: vật chất và tinh thần, thực dựng và thẩm mỹ. Khởi nguồn của nghệ thuật kiến
trúc là các công trình xây dựng, các công trình kiến trúc, chỉ khi nó đạt tới sự hoàn
thiện, hoàn mỹ thì nó mới được thừa nhận như một tác phẩm nghệ thuật thuộc loại
hình nghệ thuật kiến trúc.
Kiến trúc là một nghệ thuật nhằm kết hợp cái đẹp với cái thực dụng để sáng
tạo không gian sinh tồn cho con người.
Kiến trúc là một công trình nghệ thuật thể hiện tình cảm, tư tưởng và phong
cách đại diện cho một dân tộc, cho thời đại. Do đó, kiến trúc của châu Á, kiến trúc của
Thiên chúa giáo khác với kiến trúc của Hồi giáo, Phật giáo. Trong lịch sử kiến trúc đã
từng tồn tại nhiều phong cách khác nhau: Gôtích (Thiên chúa giáo), Barôcô (Hồi
giáo), Rôman (châu Âu), Hindu (Ấn độ giáo), đình, chùa (châu Á)... Các phong cách
kiến trúc đó thường được coi là những di tích lịch sử, văn hoá của một thời đại, một
nhân chứng lịch sử, thể hiện tâm lý, tư tưởng, cách sống của con người từng thời đại,
từng tôn giáo khác nhau. Cái đẹp trong kiến trúc được tạo dựng thông qua hình khối,
đường nét, các tỷ lệ cao thấp, các tiết diện rộng - hẹp, các vòng cong - thẳng, các nhịp
mau thưa....tạo nên ấn tượng không gian, sự hoà điệu giữa thiên nhiên và con người.
Những công trình kiến trúc là những đài kỷ niệm mang đậm sắc thái dân tộc, tinh thần
thời đại.
Sự cân đối, hài hoà trong chỉnh thể, sự hài hoà giữa kiến trúc với cảnh quan
môi trường, tạo ra tình cảm, xúc cảm mạnh mẽ: hoành tráng, cao cả, bé nhỏ, âm u,
tươi sáng, ấm cúng...
Sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc phụ thuộc vào nhu cầu, trình độ xã hội,
điều kiện tự nhiên, đặc điểm tâm lý dân tộc, thời đại, vật liệu xây dựng…Cũng như
mỹ thuật ứng dụng, kiến trúc vừa có công dụng thực tiễn, vùa có chức năng thẩm mỹ.
Ở những công trình kiến trúc lớn thường chứa đựng nhiều tác phẩm nghệ thuật
thuộc các loại hình nghệ thuật khác nhau: (hội hoạ, điêu khắc, trang trí...).Tuy nhiên
không nên bắt các công trình kiến trúc phải mang quá nặng những pho tượng điêu
khắc, những bích hoạ, chạm trổ...là sự lãng phí, biểu hiện thị hiếu thẩm mỹ tồi.
Để một công trình kiến trúc có khả năng trở thành một tác phẩm nghệ thuật
kiến trúc, khi thiết kế và thi công, cần quan tâm tới ba yêu cầu cơ bản sau: Cần có sự
kết hợp hữu cơ giữa tính thẩm mỹ và công dụng thực tiễn, phải xuất phát từ điều kiện
tự nhiên (nguồn vật liệu, khí hậu, vị trí địa lý...) và trình độ kỹ thuật cho phép, có sự
tương hợp giữa công trình với môi trường xung quanh để tạo nên một không gian
thẩm mỹ.
Kiến trúc Việt Nam ngày nay cần hướng đến phong cách dân tộc và hiện đại.
6.3.3.2 Nhóm nghệ thuật tạo hình
Điêu khắc, hội hoạ và đồ hoạ được gọi là nghệ thuật tạo hình vì chúng chủ yếu
sử dụng phương tiện tạo hình để phản ánh hiện thực, đáp ứng nhu cầu chủ yếu của thị
giác.
* Điêu khắc
Nhà điêu khắc sử dụng vật liệu tự nhiên (gỗ, đá, đất sét...) hay nhân tạo (thạch
cao, đồng, hợp kim...) để phản ánh con người và cảnh vật trong không gian ba chiều,
dùng kết cấu hình thức để thể hiện nội dung ý tưởng.Tạo hình thể sự vật, điêu khắc
không theo đuổi sự tương tự bên ngoài, mà phát hiện bản thân bên trong của đối
tượng, thể hiện những phẩm chất tiêu biểu của nó.
Như vậy ngôn ngữ cơ bản của điêu khắc là khối, mảng, nét để tạo nên hình thể
- thực thể trong không gian trực tiếp. Độc đáo của điêu khắc là xây dựng tư thế, động
tác điển hình có liên quan tới đặc trưng tính cách nhân vật.
Nếu hội hoạ vận dụng màu sắc và sự đối lập sáng tối để mô tả con người và
môi trường bao quanh con người trên mặt phẳng hai chiều của bức hoạ, thì điêu khắc
tái hiện con người qua một hình thái có ba chiều, có thể tích, hình tượng tồn tại cụ thể,
hoàn toàn có thể sờ mó được và tồn tại thực sự giữa không gian bao quanh nó. Hoạ sỹ
đặt những hình ảnh ấy vào một không gian tưởng tượng chứ không phải trong không
gian thực tại. Nhà điêu khắc đúc bằng đồng hoặc khắc vào khối đá một hình tượng và
sau đó đặt pho tượng của mình vào một môi trường không gian thực tại. Không gian
này không chỉ là không gian bao bọc pho tượng mà nó còn nhập vào bên trong pho
tượng, cả hai không gian này hoà vào một hình tượng thống nhất. Nhà điêu khắc đặt
pho tượng trong một phòng rộng hoặc ở một quảng trường thuận lợi cho moi người
cảm thụ, đánh giá. Do đấy mà pho tượng được nổi bật lên nhờ ánh sáng tự nhiên hoặc
ánh sáng nhân tạo của địa điểm hoặc của căn phòng nói trên. Còn hoạ sỹ thì vẽ lên các
hình tượng cùng với ánh sáng rọi vào chúng và môi trường không gian của chúng.
Tượng là sản phẩm chủ yếu của điêu khắc. Dựa vào hình dáng, người ta chia
tượng thành hai loại: tượng tròn (còn gọi là tượng toàn khối); tượng đắp nổi lên mặt
phẳng (còn gọi là phù điêu).
Dựa theo chức năng, quy mô, ta có:
Tượng đài: Đối tượng mô tả là các nhân vật lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối
với dân tộc và thời đại. Tượng đài thường to lớn hơn nguyên mẫu, được làm bằng các
vật liệu bền chắc, được đặt ở những vị trí trang trọng trong sinh hoạt văn hoá cộng
đồng. Nó mang ý nghĩa giáo dục truyền thống sâu sắc.
Tượng chân dung: đối tượng miêu tả là các anh hùng, vĩ nhân hoặc cả những
người bình thường. Chúng được dùng cho thờ phụng, cho các lễ nghi khánh tiết, trang
trí hoặc lưu giữ làm kỷ niệm.
Tượng trang trí: có đối tượng miêu tả rộng rãi nhất: con người, súc vật, cỏ cây,
hoa lá...Tượng trang trí yêu cầu về tính thẩm mỹ rất cao.
* Hội hoạ
Nhiệm vụ của hội hoạ là thể hiện thế giới hữu hình trên mặt phẳng nhờ hình vẽ
và màu sắc, đây là phương tiện chính của hội hoạ.
Hoạ sỹ sử dụng đường nét, hình khối, màu sắc để thể hiện con người và cảnh
vật trên mặt phẳng.
Thế mạnh của chúng là biểu hiện sự phong phú của cuộc sống về màu sắc, mô
tả con người và môi trường xung quanh con người, phát triển khả năng thưởng ngoạn
tối đa của thị giác và cảm quan cụ thể đối với hình tượng được tái hiện trrong tranh và
nó có sức mạnh khái quát hoá rộng lớn. Mặc dù hội hoạ chỉ có thể gợi nên quá trình
phát triển của các biến cố trong phạm vi khoảnh khắc duy nhất mà nó tái hiện nhưng
nó ra sức tận dụng mọi khả năng biểu hiện gián tiếp để làm cho người xem liên tưởng
tới quá khứ và tương lai. Vì biết sử dụng luật xa - gần (viễn cận), độ đậm nhạt của
màu sắc hay sự uyển chuyển của đường nét, hoạ sỹ vẫn tạo nên cho người xem độ sâu
của đối tượng được phản ánh, khả năng tạo hình lớn. Màu sắc và đường nét trong hội
họa gợi cho ta ấn tượng về sự vật vừa như thực vừa như gợi cho người ta về hiện thực.
Có các loại tranh cơ bản sau: tranh lịch sử, tranh phong cảnh (bao gồm quang
cảnh tự nhiên, tranh sinh hoạt, tranh chân dung, tranh tĩnh vật…Chia theo chất liệu có:
tranh sơn dầu, tranh sơn mài…
* Đồ hoạ
Đồ hoạ là một loại hình nghệ thuật tạo hình gần với hội hoạ. Màu sắc đối với
hội hoạ là phương tiện biểu hiện cơ bản và nó gắn bó không tách rời với đường nét.
Đường nét không phải bao giờ cũng rõ ràng, nó có thể nhạt nhoà đi do cách vẽ sáng
tối, đôi khi rất khó để nhận ra. Trong đồ hoạ thì đường nét dù vẽ thế nào, rõ ràng hay
đứt đoạn, vẫn là phương tiện biểu hiện cơ bản.
Màu sắc trong hình vẽ đồ hoạ thường hạn hẹp ở hai màu: đen và trắng. Màu sắc
chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Vì sử dụng đường nét là cơ bản, màu sắc đóng vai trò hỗ trợ
nên đồ hoạ bị hạn chế một phần về khả năng miêu tả so với hội hoạ. Mặt khác, những
phương tiện tạo hình rất gọn của đồ hoạ làm cho nó có khả năng miêu tả những nét
chủ yếu, tiêu biểu của hiện thực một cách sáng tỏ, có thể cảm thụ được ngay. Ưu thế
rất lớn của đồ hoạ khi được sử dụng vào loại tranh cổ động là có thể in rất nhiều bản
vẽ mà vẫn giữ được giá trị nghệ thuật đầy đủ của nguyên bản. Do đó, đồ hoạ có tính
chất quần chúng, tính chất thời sự, được sử dụng rộng rãi trong việc truyền bá kịp thời
những tư tưởng xã hội, chính trị cấp thiết.
Đồ hoạ được chia thành nhiều dạng: phổ biến nhất là đồ hoạ trên giá, minh hoạ
sách, đồ hoạ ứng dụng.
6.3.3.3 Nhóm nghệ thuật biểu hiện
Âm nhạc và múa: thuộc loại hình nghệ thuật mang tính biểu hiện vì chúng
không nhằm mục đích miêu tả hiện thực mà là bày tỏ tâm tư tình cảm, khát vọng của
con người trước hiện thực.
* Âm nhạc
Nói tới âm nhạc là nói tới nghệ thuật xử lý âm thanh theo nhịp điệu, tiết tấu để
biểu hiện sự rung động cảm xúc, tâm trạng của con người. Hai thuộc tính cơ bản của
âm thanh nói chung cũng như chất giọng của con người nói riêng là cao độ (độ trầm
bổng) và trường độ (độ dài ngắn). Trong việc truyền đạt thế giới tinh thần của con
người, âm nhạc dặc biệt tinh tế, uyển chuyển. Là loại hình nghệ thuật mang tính biểu
hiện, âm nhạc không nhằm tái tạo hiện thực mà giúp con người bày tỏ tâm tư, tình
cảm, khát vọng của mình trước hiện thực. Âm nhạc, “ngôn ngữ trực tiếp của tâm hồn”
phản ánh tình cảm và qua đó phản ánh hiện thực, giáo dục tình cảm con người.
Giai điệu, hoà âm, phối khí là những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ âm nhạc để
xây dựng hình tượng.
Là loại hình nghệ thuật vừa mang tính thời gian, vừa mang tính biểu diễn nên
chất lượng và hiệu quả của một tác phẩm âm nhạc phụ thuộc rất nhiều vào tài năng
diễn xuất của nhạc công hay ca sỹ. Yếu tố “đồng sáng tạo” thể hiện rõ.
Trong đời sống của một dân tộc thường hình thành hai dòng âm nhạc tồn tại
song song: âm nhạc dân gian và âm nhạc chuyên nghiệp (bác học).
* Múa
Là loại hình nghệ thuật lấy hình thể và động tác diễn xuất của con người làm
phương tiện xây dựng hình tượng. Tuy nhiên không có nghĩa đồng nhất giữa động tác
múa với động tác sinh hoạt đời thường. Động tác múa mang tính tượng trưng, ước lệ
và có giá trị biểu cảm rất cao. Cũng như âm nhạc, múa không nhằm phản ánh hiện
thực mà còn bày tỏ tư tưởng, tình cảm của mình trước hiện thực. Là loại hình nghệ
thuật mang tính biểu diễn, vừa có tính chất không gian vừa có tính chất thời gian, tác
động đồng thời đến cả thị giác và thính giác.
Múa và âm nhạc có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Động tác múa dựa trên nhịp
điệu của âm nhạc và qua đó bộc lộ những tính cách, tư tưởng và tình cảm của con
người. Âm nhạc ở đây không chỉ giữ vai trò “bắt nhịp” cho múa mà còn góp phần tạo
nên “linh hồn” cho các tác phẩm múa. Hình tượng của nghệ thuật nhảy múa phát triển
theo thời gian, truyền đạt trực tiếp sự vận động, sự phát triển và biến đổi của trạng thái
thế giới nội tâm con người, thông qua đó truyền đạt cả những hiện tượng khác của đời
sống.
Múa thường gắn với hoạt động lao động, với sinh hoạt văn hoá cũng như các lễ
hội mang tính chất tín ngưỡng của nhân dân.
Múa có hai dòng song song tồn tại: múa dân gian và múa chuyên nghiệp (múa
balê, múa tiết mục).
6.3.3.4 Nghệ thuật văn chương
Văn chương là loại hình nghệ thuật giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
các loại hình nghệ thuật. Người ta thường coi văn chương là loại hình nghệ thuật giữ
vị trí chủ đạo trong một nền nghệ thuật nói chung và xếp nó ngang bằng với tổng số
các loại hình nghệ thuật còn lại: văn chương - nghệ thuật.
Nhà văn, nhà thơ lấy tiếng nói và chữ viết (tức ngôn ngữ và văn tự) làm
phương tiện phản ánh hiện thực cũng như bày tỏ tư tưởng tình cảm của mình trước
hiện thực.
Trong đời sống nghệ thuật của một dân tộc, văn chương giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng, bởi lẽ, so với các loại hình nghệ thuật khác, nó có ưu thế nổi trội: Nó có
khả năng phản ánh hiện thực một cách sâu rộng nhất, nhanh nhạy nhất. Vì lấy ngôn
ngữ, văn tự làm phương tiện phản ánh lên sự phát triển của nghệ thuật văn chương có
ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của tư duy và ngôn ngữ. Nó có tác động tích cực
tới sự phát triển của các loại hình nghệ thuật khác. Các nghệ sỹ sáng tác ở các loại
hình nghệ thuật khác có thể tìm thấy ở văn chương nguồn đề tài vô tận cho sự sáng tạo
của mình. Văn chương thường đi trước trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc
của thời đại. Văn chương là loại hình nghệ thuật vừa mang tính tạo hình, vừa mang
tính biểu hiện nên có sức phản ánh rộng lớn và sâu sắc.
Dựa trên đặc điểm từ pháp và cấu trúc ngôn ngữ, người ta chia văn chương
thành hai loại cụ thể: văn vần và văn xuôi. Cách chia khác: Văn chương thành ba thể
loại: Tự sự, trữ tình, kịch.
6.3.3.5 Các loại hình nghệ thuật tổng hợp
Sân khấu và điện ảnh là những loại hình nghệ thuật tổng hợp. Tính tổng hợp
của chúng biểu hiện ở chỗ:
Trong sân khấu và điện ảnh dường như có mặt tất cả các loại hình nghệ thuật
khác. Sự có mặt của các loại hình nghệ thuật ấy không phải là số cộng giản đơn, là sự
lắp ghép tuỳ tiện mà chúng được kết nối với nhau trong một chỉnh thể thống nhất và
duy nhất nhằm tạo lên một tác phẩm nghệ thuật mới.
Ở đây có sự tham gia của cả một tập thể các nghệ sỹ sáng tác, từ các lĩnh vực
nghệ thuật khác nhau: kịch bản, diễn viên, hoạ sỹ, nhạc sỹ.... Tính tổng hợp làm cho
sân khấu và điện ảnh vừa mang tính tạo hình, vừa mang tính biểu hiện, vừa là nghệ
thuật thời gian, vừa là nghệ thuật không gian, vừa là nghệ thuật thị giác vừa là nghệ
thuật thính giác.
* Sân khấu
Phương tiện ngôn ngữ của sân khấu là hành động (hành động hình thể, hành
động tâm lý, hành động ngôn ngữ) thông qua diễn xuất của diễn viên. Hành động sân
khấu là hành động kịch nhằm biểu hiện tư tưởng của kịch chứ không phải bất kỳ hành
động ngẫu nhiên nào. Do đó, các hành động kịch phải nhất quán, nhằm biểu hiện một
tư tưởng nhất định. Đặc điểm quan trọng của sân khấu là hành động sáng tạo (việc
diễn viên xây dựng hình tượng) diễn ra ngay trước mắt người xem. Nhờ vậy, người
xem có thể đồng sáng tạo với diễn viên.
Sân khấu mang đậm dấu ấn tượng trưng, ước lệ: không gian, thời gian, hành
động.
Ưu thế và hạn chế của sân khấu: (so với một số loại hình nghệ thuật khác)
Nó có thể phản ánh cho người xem trông thấy trực tiếp quá trình đấu tranh,
xung đột giữa các nhân vật qua hành động của các nhân vật, thấy được sự va chạm
giữa các lực lượng đối kháng trong xã hội mà họ là tiêu biểu. Tính cụ thể, trực tiếp
trong việc tái hiện những xung đột của cuộc sống là ưu điểm chủ yếu nhất của sân
khấu.
So với các loại hình nghệ thuật khác: So với văn học, sân khấu tái hiện hiện
thực với tính cụ thể, trực tiếp, tác động vào thị giác. So với hội hoạ, nó phản ánh quá
trình phát triển của các biến cố và các tính cách, còn hội hoạ chỉ miêu tả một biến cố
trong một khoảnh khắc nhất định. Khác còn thể hiện ở chỗ, diễn xuất của một vở kịch
chỉ tồn tại trong một thời gian nó được những diễn viên thể hiện trên sân khấu còn hội
hoạ thì bức tranh sau khi đã hoàn thành rồi, trong bất cứ khi nào con người cũng có
thể nhìn ngắm thật lâu. Còn buổi biểu diễn sân khấu thì không thể biểu hiện các biến
cố theo lối tạo hình tường tận như thế. Những con người trông thấy trên sân khấu là
những diễn viên sống. Công chúng không chỉ trông thấy khảnh khắc của một biến cố
mà còn trông thấy sự phát triển của cả một chuỗi các biến cố. Công chúng có thể
ngắm tranh bao lâu tuỳ thích, trong một tiếng, hai tiếng...còn trong một buổi biểu diễn,
thì sau một khoảng thời gian ấy, hành động đã đi rất xa, đã biến chuyển liên tục.
Kịch bản được viết ra để diễn nên về một số phương diện nào đó có bị hạn chế
hơn so với loại hình văn học. Kịch không thể vận dụng rộng rãi những phương tiện
phản ánh và đánh giá hiện thực như tiểu thuyết. Tiểu thuyết có thể diễn tả, phân tích
cảm xúc của nhân vật không phụ thuộc nào việc nhân vật có phát biểu tư tưởng đó ra
không, còn trong sân khấu, tất cả phải được bộc lộ thông qua lời lẽ và tư thế của diễn
viên. Tiểu thuyết có thể đọc trong thời gian dài mà tính hoàn chỉnh tương đối của việc
cảm thụ hình tượng văn học vẫn không bị tổn hại, còn diễn xuất của một vở kịch thì
phải đảm bảo tính thống nhất liên tục của việc cảm thụ nên nó phải chịu sự hạn chế
trong thời gian.
Sức hấp dẫn có một không hai của sân khấu ở chỗ, nó là một sáng tạo đặc biệt,
diễn ra ngay trước mắt người xem. Nếu ở các loại hình nghệ thuật khác, người xem
cảm thụ tác phẩm đã xong xuôi của tác giả, thì ở sân khấu, người xem cảm thụ không
chỉ riêng kết quả sáng tạo mà cả bản thân hành động sáng tạo, quá trình sáng tạo. Điều
đó làm cho khoái cảm do buổi biểu diễn gây ra có sức hấp dẫn đặc biệt. Người xem
trở nên cùng sáng tạo với những người tham gia buổi diễn và có tác động trở lại đối
với diễn viên. Thái độ của khán giả ảnh hưởng tới hiệu quả của vở diễn.
Hạn chế của sân khấu so với điện ảnh là nó không có khả năng nhân bản buổi
diễn thành hàng trăm bản sao được. Việc quay phim các tiết mục sân khấu lại làm mất
đi sự tiếp xúc sinh động của diễn viên và người xem.
Sân khấu có ba thể loại chính: chính kịch, bi kịch, hài kịch.
* Điện ảnh
Là loại hình nghệ thuật non trẻ nhất, ra đời cuối thế kỷ XIX với tư cách là một
thú vui kỹ thuật đặc biệt. Nó mau chóng phát triển và trở thành một trong những loại
hình quan trọng nhất trong việc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của thời đại.
Ngôn ngữ của điện ảnh là hình ảnh. Ít bị hạn chế về không gian và thời gian,
điện ảnh có khả năng trình bày cuộc sống phong phú, nhiều mặt hơn sân khấu. Nếu
như thời gian và không gian trong sân khấu là ước lệ, thì không gian và thời gian
trong điện ảnh gần giống với hiện thực ngoài đời. Người ta có thể đưa lên sân khấu
hầu như mọi sự kiện, có quy mô, tầm cỡ khác nhau và thể hiện được quá trình vận
động, phát triển của chúng. (Trong sân khấu, thời gian trình diễn không dài, không
gian biểu diễn hẹp, các sự kiện của sân khấu đòi hỏi phải súc tích, ngắn gọn). Điện
ảnh có khả năng rộng lớn trong việc bao quát cuộc sống, cả quá khứ, hiện tại, tương
lai. Có nhứng bộ phim dài hàng trăm tập với nhiều sự kiện, biến cố).
Sân khấu và điện ảnh cùng dựa trên cơ sở văn học nhất định, nhưng trong sân
khấu là vở kịch thì kịch bản của điện ảnh là một loại tác phẩm văn học đặc biệt. (Nó
bao gồm cả những chi tiết yêu cầu về không gian, về trang phục, của chỉ của diễn
viên...Như vậy, kịch bản điện ảnh chi tiết, cụ thể hơn kịch bản sân khấu).
Nghệ thuật biểu diễn của sân khấu và điện ảnh có sự khác nhau: diễn xuất của
diễn viên sân khấu là phương tiện chủ yếu và duy nhất thì không thể nói như thế với
điện ảnh. Phim có thể hoàn toàn không có diễn viên còn vở diễn mà không có diễn
viên thì vô nghĩa. Diễn viên đóng vai trò trung tâm trong sân khấu còn trong điện ảnh,
ngoài diễn xuất của diễn viên còn có những phương tiện tạo hình biểu hiện khác hỗ trợ
đắc lực cho việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Diễn xuất của diễn viên sân
khấu mang tính quy phạm và ước lệ, còn ở điện ảnh, gần gũi với hành động của con
người trong cuộc sống đời thường.
Nhưng điện ảnh lại thiếu đi sự tiếp xúc trực tiếp giữa diễn viên và khán giả.
Sân khấu mang lại cảm xúc độc đáo không bao giờ lặp lại mà mỗi buổi biểu diễn
mang lại, điều này chỉ có ở sân khấu.
Ngôn từ trong sân khấu là một trong những phương tiện biểu đạt chính, trong
khi đó, ở điện ảnh, nó chỉ là một trong nhiều phương tiện. Ngôn từ trong điện ảnh có
nhiệm vụ chỉ biểu hiện cái không thể biểu hiện qua việc tái hiện trực tiếp hành động.
Nếu ngôn từ trong điện ảnh quá nhiều thì bộ phim thường trở nên dài lê thê và buồn
tẻ.
So với hội hoạ: tính chất động của điện ảnh là thế mạnh của nó nhưng lại
không cho phép dừng hành động lại trên màn ảnh để xem xét một cách kỹ lưỡng như
hội hoạ hay điêu khắc, vì nó phá huỷ tính hoàn chỉnh của bộ phim. Hình tượng điện
ảnh phải được cảm thụ trong sự vận động, phát triển của nó.
Điện ảnh bao gồm các loại thể: phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình,
phim khoa học...Chia theo đề tài: phim tâm lý xã hội, phim hài, phim trinh thám...Chia
theo phương diện kỹ thuật: phim đen trắng, phim màu, phim màn ảnh nhỏ, phim màn
ảnh rộng...
Kết luận:
Các loại hình nghệ thuật nói trên không chỉ chịu tác động của hoàn cảnh xã hội
lịch sử mà giữa chúng còn có sự tác động lẫn nhau. Chúng có ảnh hưởng tích cực tới
việc hoàn thiện của từng loại hình hay làm nảy sinh nhiều loại hình mới (vd: sân khấu,
điện ảnh, vô tuyến truyền hình). Chúng nương tựa, gắn bó hữu cơ với nhau.
Toàn bộ nghệ thuật với tất cả các loại hình gộp lại mới có khả năng phản ánh
đầy đủ và sâu sắc hiện thực đời sống. Một loại hình nghệ thuật nào đó, cho dù tổng
hợp hay giữ vai trò chủ đạo, vẫn không có khả năng gánh vác nhiệm vụ nặng nề trên.
Tuy chúng có sự ảnh hưởng và tác động lẫn nhau nhưng điều đó không làm
mất đi dấu hiệu riêng biệt, độc đáo của từng loại hình nghệ thuật độc lập.
Chương 7
HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT - DẠNG THỨC ĐIỂN HÌNH CỦA
HOẠT ĐỘNG THẨM MỸ
-----------------------------------------------------------