Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

Đề 1: Phân tích quan điểm: Tư tưởng HCM là 1 hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về những vấn

đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách
mạng VN, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, hệ thống đó bao gồm:
1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là mục tiêu giành độc
lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho nhân dân "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành". Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước
và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Người đã chỉ ra rằng: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản". Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức
xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con
đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh
đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự
của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến
quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của
nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh
công nông và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". CM là
đoàn kết dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản bản xứ,… ai có
lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu gom toàn lực đem tất cả ra giành độc lập tự
do, đánh tan giặc Pháp Nhật xâm lược nước ta.Tập trung mọi lực lượng trong mặt trận để chống cường
quyền, nhưng phải lấy công nông làmgốc. Đây là lực lượng đông đảo, nhưng lại bị 2, 3 tầng áp bức, là lực
lượng có tinh thần CMtriệt để nhất. * Khác Phan Bội Châu tập hợp 10 hạng người: phú hào, quý tộc, sĩ phu,
du đồ, hội đảng, nhi nữ, anh sỹ, thông ngôn, ký lục, bồi bếp mà không có công, nông.
4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.

Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách mạng XHCN. Thực hành
dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng
việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai
cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước là công bộc của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.
Hiến pháp 1959 điều 4 ghi: trong nước VN toàn bộ quyền lực đều thuộc về nhân dân lao động, người cầm
quyền trong bộ máy nhà nước (công chức) chỉ là người được uỷ quyền của dân để gánh vác công việc chung
của đất nước, họ là đầy tớ, công bộc của dân vì thế họ phải gần dân, hiểu dân, thương dân, tin dân, phải biết
sử dụng sức mạnh của dân, biết đòi hỏi dân, phải có 6 tư cách: óc nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm. Từ chủ tịch nước đến người công dân đều bình đẳng, như những người lính vâng mệnh quốc
dân ra mặt trận. (khi không còn đủ sức lực thì rút khỏi cương vị, không màng danh lợi).
5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo
lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp
giữa chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ
trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến tranh nhân dân với sức
mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là
quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân
chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng.
6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập
mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.

Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức
cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách "Người cách mệnh" và bản thân Người cũng là một tấm gương
sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức như là gốc của cây,
là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với
dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH. Ví dụ quán triệt tinh thần tiết kiệm Người đã từng
nói: sản xuất không tiết kiệm thì như gió vào nhà trống. . ., trong cuộc đời HCM đã thông qua án tử hình cho
hai cán bộ đảng viên tham nhũng trong đó có ông Trần Dụ Châu, là nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân
nhu, dù rất đau lòng nhưng Bác đã nói “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan,
nguy hiểm”.
8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết "Vì lợi ích
mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người". Người nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa "hồng" vừa "chuyên".
9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững cách mạng mới
thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như
la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu,
lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành tự
phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách
mạng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam, xứng đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân. Trong tư tưởng tự phê bình và phê bình nghĩa
là trước khi phê bình người khác phải xem xét bản thân mình trước, nếu bản thân tốt thì mới phê bình người
khác trên nguyên tắc tế nhị kín đáo chân thành giúp đỡ nhau cùng có lợi. Một câu chuyện khi phê bình một
cán bộ miền núi đi họp mà mặc một bộ quần áo mới đẹp trong khi nước ta còn nghèo Bác đã thực hiện phê
bình bằng cách bảo đồng chí đến ngủ với bác, khi chỉ có 2 người bác nói ngụ ý kín đáo cho đồng chí hiểu và
thay đổi một cách khéo léo tế nhị.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những vấn đề rất cơ bản
của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh tới cách mạng Việt Nam:
Tư tưởng HCM soi sáng cho con đường giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam:
Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam: tư tưởng HCM là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn bất
diệt và đã trở thành một bộ phận của văn hóa dân tộc, có sức hấp dẫn, lâu bền và phổ biến, là tài sản vô giá
của dân tộc ta. Bởi vì tư tưởng của người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa, tư
tưởng vĩnh cửu của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề
của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Tính sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ
vừa trung thành với những nguyên lí phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vừa sáng tạo cho phù hợp với điều
kiện lịch sử xã hội của Việt Nam. Một trong những ví dụ về sự sáng tạo trong tư tưởng của Người là khi
Người vạch ra đường lối cách mạng Việt Nam: vào những năm 30 của thế kỉ 20 trong xã hội Việt Nam tồn
tại hai mâu thuẫn đó là mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân VN với thực dân pháp và mâu thuẫn giai cấp giữa
nông dân và địa chủ phong kiến. Bác Hồ - người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN đã xác định rõ ràng phải giải
quyết mâu thuẫn dân tộc trước rồi mới đến giải quyết vấn đề mâu thuẫn giai cấp. Trong khi chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ tập trung giải quyết mâu thuẫn giai cấp thì Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ trong tình hình đất nước ta
phải giải quyết xong mâu thuẫn dân tộc mới giải quyết đến quyền lợi các giai cấp, vấn đề dân tộc phải được
đặt lên hàng đầu. Tư tưởng HCM đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của
dân tộc: đặt cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quĩ đạo cách mạng vô sản và là một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới. Người khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, có nhiệm vụ giải quyết triệt để các mâu thuẫn cơ bản ở thuộc địa nói chung và VN nói
riêng đó là mâu thuẫn dân tộc với thực dân, đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa công dân, nông dân với tư
sản, phong kiến. Tư tưởng HCM đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, ngày nay tư tưởng đó đang soi sáng
cho con đường cách mạng VN.
Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng VN: là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng, nền tảng tinh thần của xã hội, động lực và nguồn sức mạnh to lớn cho nhân dân ta
phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, xây dựng đất nước không ngừng phát triển. Trong suất chặng đường
hơn một nửa thế kỉ, tư tưởng HCM đã dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, soi
sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách mạng ở VN. Khi chưa có đảng, nhân dân ta sống
chìm đắm trong vòng nô lệ của chế độ thực dân phong kiến, tưởng như không có lối ra. Nguyễn Ái Quốc
tiếp thu chủ nghĩa mác thành lập đảng cộng sản việt nam, đề ra đường lối đúng đắn cho sự phát triển của
nước ta. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đảng đã đề ra đường lối đúng đắn lãnh đạo khối
đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đồng thời tận dụng thời cơ xóa bỏ chế
độ thực dân phong kiến làm nên cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đưa đất nước bước vào kỉ nguyên mới -
kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vào chủ nghĩa mác, tư tưởng HCM, VN từ một nước
thuộc địa trở thành một nước độc lập có chủ quyền, nhân dân việt nam từ thân phận nô lệ trở thành người
làm chủ đất nước. Qua 2 cuộc kháng chiến chống pháp và mĩ, đảng ta đứng đầu là chủ tịch hcm đã lãnh đạo
nhân dân đứng lên, kiên cường chiến đấu, đánh bại quân xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng, giải phóng
miền nam, thống nhất đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã xác định “đảng lấy tư tưởng hcm,
chủ nghĩa mác lê nin làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động” trong thời kì đi lên xhcn, tư tưởng hồ chí
minh tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới đất nước của dân tộc. Trong bối cảnh của thế giới hiện nay, tư
tưởng của người giúp ta nhận thức đúng đắn những vấn đề lớn có liên quan đến bảo vệ nền độc lập dân tộc,
phát triển xã hội, đảm bảo quyền con người. Tư tưởng HCM là nền tảng vững chắc để đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho cách mạng VN đi đến thắng lợi.

Đề 2: Phân tích nội hàm tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh tới cách mạng
Việt Nam
Nội hàm tư tưởng Hồ Chí Minh: (= phân tích nội dung khái niệm tư tưởng hồ chí minh, có thể nói câu này
là chắc nhất vì được thầy Triệu gợi ý rồi)
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
-Là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng VN: nhiều quan điểm
liên hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện rõ tính liên tục, nhất quán. “Toàn diện” là bao quát nhiều lĩnh vực. Đại
hội IX chỉ rõ, đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và
văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân,…
- Tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa mác vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Điểm mấu chốt ở đây là “điều kiện cụ thể của nước ta”. HCM từng cảnh báo: “nghe người ta nói giai
cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào
để làm cho đúng”. Điều kiện nước ta không giống các nước khác, ít nhất trên hai điểm: truyền thống lịch sử,
văn hóa, con người và nước thuộc địa thời cận đại. Hai điểm này không hoàn toàn tách bạch, mà có sự tiếp
nối. Nhưng cũng có nội dung chỉ có trong thời kì thuộc địa. Nhận thức như vậy để thấy rằng hồ chí minh
không viết lại, nói lại các bậc thầy và những gì trong truyền thống dân tộc; ngược lại, người đã khắc phục
những hạn chế của truyền thống và thiếu hụt trong chủ nghĩa mác.
Hạn chế lớn nhất của giá trị truyền thống là lý luận khoa học. Thiếu hụt lớn nhất của chủ nghĩa mác là tư
liệu lịch sử của các nước thuộc địa phương đông. HCM đã lấp đầy những khoảng trống đó.
Tư tưởng HCM kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, tư tưởng HCM không phải xuất hiện từ một mảnh đất trống không, mà trên nền dân tộc. Điều cần
nhấn mạnh là dưới ánh sáng cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa mác, HCM đã nâng cao các giá
trị truyền thống lên một chất mới, trình độ mới, tạo nên sức mạnh mới trong thời đại mới. HCM cũng tiếp
thu có chọn lọc văn hóa nhân loại. Người đã làm giàu trí tuệ của mình và trí tuệ dân tộc bằng những giá trị
văn hóa phương đông như đạo đức, chủ nghĩa tập thể, lòng từ bi hỷ xả,… Chúng ta cần nhận thức rẳng,
HCM không phủ nhận các nhân vật đã trở nên huyền thoại ngay khi còn sống.
-Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hượp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Về sức mạnh của nhân dân, của
khối đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân,
về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế, văn
hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; về đạo đức cách mạng cho đời sau;
về xây dựng đảng trong sạch vững mạnh.
Trong định nghĩa này, Đảng ta bước đầu làm rõ:
Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng HCM: đó là quan điểm lí luận, phản ánh những vấn đề có tính
qui luật của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Nguồn gốc tư tưởng, lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác – Lênin, giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa
văn hóa nhân loại.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề có liên quan trực tiếp tới cách mạng Việt
Nam.
Giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: soi đường thắng lợi cho cách
mạng Việt Nam, tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc.
Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh tới cách mạng Việt Nam:
Tư tưởng HCM soi sáng cho con đường giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam:
Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam: tư tưởng HCM là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn bất
diệt và đã trở thành một bộ phận của văn hóa dân tộc, có sức hấp dẫn, lâu bền và phổ biến, là tài sản vô giá
của dân tộc ta. Bởi vì tư tưởng của người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa, tư
tưởng vĩnh cửu của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề
của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Tính sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ
vừa trung thành với những nguyên lí phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vừa sáng tạo cho phù hợp với điều
kiện lịch sử xã hội của Việt Nam. Một trong những ví dụ về sự sáng tạo trong tư tưởng của Người là khi
Người vạch ra đường lối cách mạng Việt Nam: vào những năm 30 của thế kỉ 20 trong xã hội Việt Nam tồn
tại hai mâu thuẫn đó là mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân VN với thực dân pháp và mâu thuẫn giai cấp giữa
nông dân và địa chủ phong kiến. Bác Hồ - người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN đã xác định rõ ràng phải giải
quyết mâu thuẫn dân tộc trước rồi mới đến giải quyết vấn đề mâu thuẫn giai cấp. Trong khi chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ tập trung giải quyết mâu thuẫn giai cấp thì Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ trong tình hình đất nước ta
phải giải quyết xong mâu thuẫn dân tộc mới giải quyết đến quyền lợi các giai cấp, vấn đề dân tộc phải được
đặt lên hàng đầu. Tư tưởng HCM đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của
dân tộc: đặt cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quĩ đạo cách mạng vô sản và là một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới. Người khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, có nhiệm vụ giải quyết triệt để các mâu thuẫn cơ bản ở thuộc địa nói chung và VN nói
riêng đó là mâu thuẫn dân tộc với thực dân, đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa công dân, nông dân với tư
sản, phong kiến. Tư tưởng HCM đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, ngày nay tư tưởng đó đang soi sáng
cho con đường cách mạng VN.
Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng VN: là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng, nền tảng tinh thần của xã hội, động lực và nguồn sức mạnh to lớn cho nhân dân ta
phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, xây dựng đất nước không ngừng phát triển. Trong suất chặng đường
hơn một nửa thế kỉ, tư tưởng HCM đã dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, soi
sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách mạng ở VN. Khi chưa có đảng, nhân dân ta sống
chìm đắm trong vòng nô lệ của chế độ thực dân phong kiến, tưởng như không có lối ra. Nguyễn Ái Quốc
tiếp thu chủ nghĩa mác thành lập đảng cộng sản việt nam, đề ra đường lối đúng đắn cho sự phát triển của
nước ta. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đảng đã đề ra đường lối đúng đắn lãnh đạo khối
đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đồng thời tận dụng thời cơ xóa bỏ chế
độ thực dân phong kiến làm nên cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đưa đất nước bước vào kỉ nguyên mới -
kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vào chủ nghĩa mác, tư tưởng HCM, VN từ một nước
thuộc địa trở thành một nước độc lập có chủ quyền, nhân dân việt nam từ thân phận nô lệ trở thành người
làm chủ đất nước. Qua 2 cuộc kháng chiến chống pháp và mĩ, đảng ta đứng đầu là chủ tịch hcm đã lãnh đạo
nhân dân đứng lên, kiên cường chiến đấu, đánh bại quân xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng, giải phóng
miền nam, thống nhất đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã xác định “đảng lấy tư tưởng hcm,
chủ nghĩa mác lê nin làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động” trong thời kì đi lên xhcn, tư tưởng hồ chí
minh tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới đất nước của dân tộc. Trong bối cảnh của thế giới hiện nay, tư
tưởng của người giúp ta nhận thức đúng đắn những vấn đề lớn có liên quan đến bảo vệ nền độc lập dân tộc,
phát triển xã hội, đảm bảo quyền con người. Tư tưởng HCM là nền tảng vững chắc để đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho cách mạng VN đi đến thắng lợi.
Đề 3: Vai trò của các nhân tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố nào quan trọng nhất.
Vai trò các nhân tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam:
Là người con ưu tú nhất của dân tộc, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; quê hương gia đình có vai trò
quan trọng trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ Nghĩa yêu nước Việt Nam:
Tinh thần anh hùng bất khuất trong công cuộc dựng nước và giữ nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử, là
nhân tố đứng đầu, là giá trị tinh thần con người Việt Nam, là đạo lý làm người, là niềm tự hào dân tộc, là bản
sắc văn hóa tạo thành động lực, thành sức mạnh tồn tại và phát triển của dân tộc suốt 4000 năm.
ĐH 2 (2/1957) HCM khẳng định: “Dân tộc ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước”.
Truyền thống đoàn kết tương thân tương ái:
Nhân nghĩa, thủy chung, cưu mang đùm bọc, lá lành đùm lá rách,… truyền thống này bắt nguồn từ yêu cầu
chống thiên tai thường xuyên của dân tộc. Kế thừa nâng cao truyền thống này trong quá trình Cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, Đảng viên, Nhân dân ta phải thực hiện bốn chữ: Đồng lòng, Đồng sức,
Đồng tình, Đồng minh.
Truyền thống thông minh, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại:
Trong lao động sản xuất và chống xâm lược
Truyền thống hiếu học, cầu tiến, hòa hợp, lạc quan yêu đời:
Luôn sẵn sàng đón nhận những tinh hoa văn hóa của nhân loại, những tư tưởng bài ngoại, thủ cựu, hẹp hòi,
cực đoan đều xa lạ với truyền thống con người Việt Nam, Bác Hồ là biểu hiện sống động của truyền thống
tốt đẹp này.
Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc bắt đầu từ truyền thống quê hương, gia đình.
Nghệ Tĩnh, quê hương người là mãnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, là vùng địa linh,
nhân kiệt, nơi sản sinh nuôi dưỡng nhiều anh hùng dân tộc như Mai Thúc Loan (chống nhà Đường, xây
thành Vạn An 722), Nguyễn Biễu, tướng nhà Trần, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phạm
Hồng Thái, Trần Phú; nơi có thành quách, đại vạc, đại huệ do Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương xây dựng, có di
tích thành Lục Niên do Lê Lợi xây dựng.
Là nơi con người hiếu học: sự học như một nghề luôn được quan tâm, lo lắng, hãnh diện, tự hào, luôn hướng
tới sự thành đạt bằng nghề đèn sách, khoa bảng.
Nơi sinh đại thi hào, danh nhân Nguyễn Du, từ 1635 – 1901 có 193 người đậu tú tài, cử nhân, có một
Nguyễn Sinh Sắc đậu đại khoa phó bảng.
Truyền thống gia đình: Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn trước hết từ truyền thống gia đình bên nội, ngoại,
nhất là Tư tưởng, phong cách của Nguyễn Sinh Sắc_ Thân sinh Hồ Chí Minh.
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là người bị mồ côi cha, mẹ từ nhỏ, nhà nghèo, thông minh, có ý chí kiên cường,
nghị lực quả cảm phi thường, khắc phục mọi khó khăn quyết thực hiện bằng được chí hướng của mình,
chiếm lĩnh đỉnh cao của trí tuệ, là người sống gần gũi với dân, có lòng thương dân sâu sắc, ông chủ trương
dựa vào dân để thực hiện mọi cải cách Chính trị, xã hội, thường xuyên trăn trở con đường cứu nước, cứu
dân, luôn liên hệ với Phan Bội Châu, Nguyễn Thiệu Quý, Trần Thâu, … những người có tư tưởng yêu nước
mưu đại sự.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc lòng vị tha, nhân hậu, thủy chung cần mẫn của người mẹ, tình yêu
thương nhân hậu sâu nặng của ông bà ngoại,…
Tất cả những nhân cách gần gủi, thân thương đó là tác động mạnh mẽ tới việc hình thành nhân cách Hồ Chí
Minh từ tấm bé.
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:
Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Trước hết là Nho giáo: Hồ Chí Minh coi trọng kế thừa và phát triển những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là
thứ triết học hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, đề cao
văn hóa, đạo đức, lễ giáo, nhân nghĩa, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người phê phán những hạn chế,
tiêu cực của Nho giáo như tư tưởng đẳng cấp, quân tử, tiểu nhân, chính danh định phận, coi khinh phụ nữ,
lao động chân tay, thuế nghiệp doanh lợi,…
Với Phật giáo, người tiếp thu tư tưởng vị tha, chân, thiện, từ bi, cứu nạn, cứu khổ, thương người như thể
thương thân, lối sống đạo đức, trong sạch giản dị, chăm làm điều thiện (không nói dối, không tà dâm, không
sát sinh, không trộm cắp, không uống rượu,…)
Phật giáo Thiền tông vào Việt Nam đề ra luật chấp tác: Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực, thiền phái Trúc
Lâm Việt Nam chủ trương nhập thế gắn với dân chống kẻ thù xâm lược.
Người tiếp thu lòng nhân ái, hi sinh cao cả của Thiên chúa giáo.
Người tiếp thu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh
phúc)
Người viết:
Đức Phật là đấng từ bi cứu nạn cứu khổ.
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phép biện chứng.
Chủ Nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách Tam dân thích hợp với ta. Khổng Tử, Giê Su, Mác, Đức
Phật, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm đó sao? Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho
xã hội. Nếu các vị ấy còn sống trên cõi đời này, nếu các vị ấy hợp lại một chỗ, tôi tin rằng các vị ấy nhất
định sẽ sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân nhất.
Tôi nguyện là học trò nhỏ của các vị ấy.
Tinh hoa văn hóa Phương Tây:
Xuất thân từ gia đình khoa bảng, tư chất thông minh, trình độ quốc học, hán học vững vàng, người học hỏi
không ngừng khi bôn ba năm châu bốn biển, đã thông thái những ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của
nhân loại, người am tường văn hóa Đông, Tây, kim cổ, người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa
Đông Tây.
Ba mươi (30) năm sống ở nước ngoài, chủ yếu ở Châu Âu, người chịu ảnh hưởng sâu rộng những giá trị văn
hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây.
Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại Cách mạng Pháp ( Khi học ở Vinh, ở Huế, người đã
chủ tâm tìm hiểu những tư tưởng này, sau này khi trở lại Pháp 1917, người tiếp thu tận gốc những phương
pháp này trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp: Mông Teskiô, Rút xô, Vin Tie)
Nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ 1776, người tiếp thu tư tưởng tự do, nhân quyền. Trong tuyên ngôn độc
lập của Mỹ, người gia nhập công đoàn thủy thủ và tham gia các cuộc đấu tranh của chủ nghĩa chống Tư bản
(lần đầu bước vào hoạt động chính trị)
Cuộc sống, lao động và hoạt động Cách Mạng của Người gắn liền với những người lao động, giai cấp Công
nhân ở các nước chính quốc, thuộc địa đã mang lại cho Người tình yêu thương giai cấp, yêu thương những
người lao động, những người cùng khổ một cách sâu sắc.
Vận dụng những tư tưởng tiến bộ và Cách mạng của Cách mạng Pháp, Mỹ vào các cuộc sinh hoạt ở câu lạc
bộ “Gia cô Banh” (xuất hiện lúc đại Cách mạng Pháp 1789, ở đó người ta trao đổi đủ thứ: từ kinh tế đến
chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, thiên văn, địa lý, thôi miên, trồng cải soong, nuôi ốc sên,…, siêu
hình thuyết mộng du, luân hồi, Người thường lái những cuộc tranh luận đó sang vấn đề Việt nam, vấn đề
thuộc địa,..) ở câu lạc bộ “Phô Bua” (do Đảng xã hội Pháp tổ chức, là tổ chức duy nhất bênh vực các dân tộc
thuộc địa): Người phê phán Phong Kiến Việt Nam, khẳng định phê phán toàn quyền Đông Dương An Be Xa
Rô; Liôtây. Varen,… Thông qua sinh hoạt phong cách dân chủ của người điển hình trong thực tiễn, là cơ sở
để hình thành chính kiến trong Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua 1920 và trở thành người Cộng Sản.

Nhờ tiếp thu tư tưởng dân chủ Cách mạng, phương pháp, phong cách làm việc khoa học và được rèn luyện
trong phong trào CN, sinh hoạt ở Đảng xã hội, Đảng Cộng Sản Pháp, được sự dìu dắt của các nhà văn hóa,
khoa học, lịch sử, trí thức Pháp như M Ca Sanh, P.Cuturie, G Mông Mut Xê, Long Ghê, Lion Blum,…
Nguyễn Ái Quốc trưởng thành dần về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
3. Chủ nghĩa Mác Lê Nin – Thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng HCM
Chủ nghĩa Mác Lê Nin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu thành:
Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng, nhân sinh quan, khoa học,
Cách Mạng, thấy được những quy luật vận động phát triển của thế giới và xã hội loài người.
Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển gắn với quá trình sản xuất, thấy
được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với CN, xóa bỏ bốc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản
Chủ Nghĩa xã hội KH vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức, phương pháp của giai cấp CN, nhân
dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Người chuyển biến từ
Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với
chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp CN, liên minh công nông trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi
cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Hồ Chí Minh đã vận động sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lê Nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, giải đáp được
những vấn đề thực tiễn đặt ra, đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh:
Là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực
phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp sâu sắc.
Có sự khổ công học tập, rèn luyện nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức đồ sộ của nhân loại, tiếp thu kinh nghiệm,
bề dày của phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc.
Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người cùng khổ vô bờ bến, một chiến sĩ cộng sản
quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc, nhân dân, dân tộc và nhân loại.
Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp thu,
chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc, thời đại thành những tư tưởng đặc sắc độc đáo
của mình. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến việc hình
thành và phát triển tư tưởng của Người.
Nhân tố có vai trò quan trọng nhất :
Chủ nghĩa mác có vai trò quan trọng nhất trong hình thành tư tưởng HCM vì chủ nghĩa mác là nhân tố ảnh
hưởng và tác động quyết định đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng hcm. Đó là cơ sở hình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của HCM, nhờ đó mà người đã có bước phát triển về chất từ
một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính
trên cơ sở lý luận mác đã giúp người tiếp thu và chuyển hóa những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh
hoa văn hóa của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tưu tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của
lịch sử.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ
nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, "muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa
Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở thế giới quan, phương
pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.

Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất, của tư tưởng Hồ Chí Minh, là
một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí
Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền
tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng là giương cao chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Muốn bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách có
hiệu quả, phải bảo vệ, quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lô-gíc của
vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Hơn nữa, theo khái niệm, Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại".
Vì vậy trong quá trình hình thành tư tưởng hcm thì chủ nghĩa mác có vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ
yếu nhất.
Đề 4: Chứng minh vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam dựa vào quá trình đấu
tranh của nhân dân ta.
Vai trò tư tưởng HCM với cách mạng Việt Nam:
Trước khi có tư tưởng Hồ Chí Minh: năm 1958 nước ta bị thực dân Pháp xâm lược trở thành một nước thuộc
địa. Với truyền thống yêu nước anh dũng chống ngoại xâm, các cuộc khởi nghĩa của dân ta nổ ra liên tiếp,
rầm rộ nhưng đều thất bại. Từ 1858 đến cuối Thế kỷ 19, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra dưới
dự dẫn dắt của ý thức hệ Phong kiến nhưng đều không thành công như: như Trương Định, Đồ Chiểu, Thủ
Khoa Huân. Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ); Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Trần Tấn, Đặng Như Mai,
Nguyễn Xuân Ôn (Trung Bộ); Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quy Binh, Hoàng Hoa Thám (Bắc Bộ). Sang
đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: giai cấp CN, Tư sản dân tộc, tiểu tư sản ra đời, các
cuộc cải cách dân chủ tư sản ở Trung Quốc của Khang Hiểu Vi, La Khải Siêu (dưới hình thức Tân Thư, Tân
Sinh) tác động vào Việt Nam làm cho phong trào yêu nước chống Pháp chuyển dần sang xu hướng dân chủ
tư sản gắn với phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục
của Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Duy Tân của Phan Chu Trinh,… do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo.
Nhưng do bất cập với xu thế lịch sử nên đều thất bại (12/1907 Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, 4/1908
cuộc biểu tình chống thuế ở miền Trung bị đàn áp mạnh mẽ, 1/1909 căn cứ Yên Thế bị đánh phá; phong trào
Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu bị trục xuất khỏi nước 2/1909, Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi lãnh tụ
phong trào Duy Tân ở miền Tây bị chém đầu… Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng
Nguyên Cần bị đày ra Côn Đảo,… nhưng do bất cập với xu thế lịch sử nên đều thất bại, tình hình đất nước
đen tối như không có đường ra.
Tháng 2/1930 Người chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Do không sát tình hình Đông Dương, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của Đại hội 6 (1928) quốc tế
Cộng Sản đã chỉ trích đường lối Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội Nghị 3/2/ 1930 (Cải lương, dân tộc chủ
nghĩa dẫn tới hẹp hòi, không quan tâm đấu tranh giai cấp, không quan tâm cách mạng thế giới, không thành
lập liên bang Đông Dương) Vì thế Hội nghị Trung Ương 10/1930, ra “án Nghị quyết”, thủ tiêu văn kiện
3/2/1930, đổi tên Đảng; thời gian này, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở quốc tế Cộng Sản, nghiên cứu chủ
nghĩa Mác Lê Nin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định bảo vệ quyết định của mình. Đại hội 7 Quốc tế
cộng sản (1935) đã tự kiểm điểm, phê bình về khuynh hướng “Ta”, “Cô độc”, “hẹp hòi”, dẫn tới buông lơi
ngọn cờ dân tộc, dân chủ để cho các Đảng TTS của các nước nắm lấy chống phá Cách Mạng. Vì thế ĐH 7
chỉ đạo chuyển hướng chiến lược Cách mạng thế giới, tập trung thành lập mặt trận dân chủ chống phát xít,
chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
Đến 1936, Đảng ta càng thấy được những khuynh hướng biệt phái, cô độc, tả khuynh, hẹp hòi trước đây và
chuyển dần hướng chỉ đạo chiến lược, từng bước trở về với đường lối văn kiện 3/2 với tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo Cách Mạng, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, tháng 5/1941, chủ trì Hội Nghị Trung Ương 8 quyết định “tạm gác” khấu hiệu ruộng đất,
xóa bỏ vấn đề liên bang Đông Dương, thành lập mặt trận Việt Minh, đại đoàn kết dân tộc, cơ sở liên minh
công nông nhờ đó Cách Mạng Tháng 8 thành công. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của Hồ Chí Minh.
Ngay sau cách mạng tháng Tám 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, dựa vào tư tưởng
Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến thần thánh, chín năm trường kỳ gian khổ của toàn dân ta kết thúc vẻ vang
bằng chiến thắng lịch sử vĩ đại Điện Biên Phủ. Tư tưởng của Người: Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ mãi mãi vang vọng cùng với tâm nguyện sắt đá
của nhân dân ta trong lịch sử chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Sau
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam bị Đế quốc Mỹ xâm
lược, tư tưởng đánh giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc trên cả nước của Hồ Chí Minh một lần nữa được
phát huy cao độ. Theo tiếng gọi của Người: Không có gì quý hơn độc lập tự do, toàn Đảng, toàn dân ta vừa
xây dựng vừa bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa tiến hành chiến tranh đánh Mỹ ngụy giải phóng miền
Nam. Cả nước lên đường Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước (Tố Hữu). Sau 20 năm chiến đấu gian khổ, oanh
liệt; sau 6 năm Người qua đời, nhân dân ta đã làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975 oai hùng. Vai trò định
hướng của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đánh Mỹ, thống nhất đất nước của dân tộc ta trở thành hiện thực.
Vào những năm cuối của thập niên 70 và những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, dân tộc ta độc lập
nhưng trong tình trạng thù trong chưa hết, giặc ngoài lăm le xâm phạm lãnh thổ, nền kinh tế xã hội khủng
khoảng. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) Đảng ta
đã lãnh đạo nhân dân ta từng bước xây dựng đất nước phát triển. Những năm gần đây, Đảng ta khẳng định
lãnh đạo nhân dân ta theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Kết quả là
hiện nay đất nước ta đã đạt được thành tựu to lớn trong giữ gìn an ninh chính trị xã hội, từng bước tăng
trưởng về kinh tế, đưa đất nước hòa nhập với xu hướng phát triển của nhân loại tiên tiến trên thế giới. Thực
tế này khẳng định tư tưởng của Hồ Chí Minh đóng vai trò lớn lao trong cách mạng Việt Nam.

Đề 5: Phân tích độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt Nam
đã lựa chọn, là bài học lớn xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn
85 năm qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng
như ý nghĩa của nó với cách mạng Việt Nam. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng
chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự
lựa chọn của lịch sử, của nhân dân ta đi theo Đảng, Bác Hồ, làm nên những thắng lợi vĩ đại, đưa dân tộc lên
tầm cao mới của thời đại.
1. Sự lựa chọn khách quan của lịch sử Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên
tiếp đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa,
phong trào yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sỹ, trí thức, nông dân, binh lính yêu
nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nông
dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, các cuộc chiến
quyết tử bảo vệ thành Gia Định, thành Hà Nội của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, phong trào Cần
Vương, các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân; cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám,
Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học... Dù tràn đầy lòng yêu nước, đức hy sinh, nhưng các cuộc khởi nghĩa, các
phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn đề độc lập dân tộc không được giải
quyết, trước hết là do không có đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến,
khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước. Tháng 6 năm 1911 người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục, vừa lao
động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các nước, rút ra nhiều bài học quý báu
và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và
thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người là
khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin (1919), tác
phẩm lý luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong thời đại cách mạng vô
sản. Người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của
thực dân Pháp. Đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng
thế giới... Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản" 1 . Từ niềm tin đó, Người tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta,
sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Toàn dân ta luôn một lòng đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa
chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Căn cứ chủ yếu của sự lựa chọn đó thể hiện ở các
điểm sau: Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới
- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của
thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả
năng hiện thực này giúp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đang bế tắc về hướng đi.
Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động khỏi bóc lột, ách
áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động
trở thành những người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc.
"Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm
vững chắc cho độc lập dân tộc" như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ. - Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc,
quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế,
văn hóa. - Chủ nghĩa xã hội thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ, xóa bỏ tình trạng áp
bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác về chính trị, kinh tế và tinh thần. - Chủ nghĩa xã hội
tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau,
bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của
những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam.
Trong hơn 85 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy, mà cách
mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Một là, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp
của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết
Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Cách mạng
Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ba là, thắng lợi to
lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế,
đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh"; củng cố vững chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Bài
học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, là bài học phải "kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Đề 6: 1.Giá trị cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. 2. Ý nghĩa tư
tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam.
1. Giá trị cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội
Suốt đời Hồ Chí Minh đã lựa chọn và nhất quán đi theo con đường đã chọn. Dưới ngọn cờ tư tưởng ấy, cách
mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, mang tầm vóc thời đại. Cốt lõi của TTHCM là
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là để xây dựng thành công CNXH và ngược lại. Xây
dựng CNXH thực chất là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, con người.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Người khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc muốn thành công phải đi theo con đường cách mạng
vô sản – con đường của V.I Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga. Tháng 12 năm 1920, Người tham gia
sáng lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Từ thời điểm này, con đường
và định hướng phát triển cách mạng Việt Nam được Người từng bước phác thảo. Định hướng con đường
phát triển của cách mạng Việt Nam theo con đường vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Dân tộc Việt
Nam phải được độc lập, nhân dân Việt Nam phải dược hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Muốn vậy phải
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một sự phát triển tất yếu. Người đã từng viết: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết ấm no…”. Sự khẳng định này được Người củng cố khi đến Liên Xô (1923) và chứng kiến những
thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội của Đảng Cộng Sản và nhân dân Liên Xô trong công cuộc
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Người coi đó là tấm gương, là mô hình tương lai của dân tộc Việt Nam. Trong
nhiều thời kỳ cách mạng, cách diễn đạt, luận giải cảu Người và Đảng ta có nhiều cấp độ biểu hiện khác
nhau, song đều có sự nhất quán với quan điểm tư tưởng của Hội nghị thành lập Đảng: Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở Việt Nam sau khi thành công tất yếu phải phát triển thàn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Như Hồ Chí Minh đã viết, lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước đã khiến tôi tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba.
Rõ ràng là Người đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lòng yêu nước ý chí quyết tâm cứu nước và khát vọng giải
phóng dân tộc. Dần dần, từng bước một bằng nghiên cứu lý luận và thực tế, Hồ Chí Minh đã nhận thức được
lý luận Mác – Lênin đã luận giải rõ sự thống nhất, biện chứng quá trình từ giải phóng dân tộc đến giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Người coi đó là mục tiêu của cách mạng Việt Nam theo đúng bản chất của
chủ nghĩa Mác – Lênin điều như Người đã viết: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chru nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”. Người cũng đã nói rõ rằng: “không
có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được
thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát nạn bần
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc, là nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành. Chính vì vậy độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân
dân lao động làm chủ. Có độc lập dân tộc thì mới có một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động tối đa trí dân, sức dân, làm những việc ích lợi cho dân. Đó là
nhà nước của dân, do dân, vì dân, dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh
công, nông và trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo. Như Hồ Chí Minh đã bộc bạch: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tộc bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn đọc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Theo Hồ Chí Minh mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội là những gì gắn bó thường nhật, tác động trực tiếp đến người dân. Người đã từng nói: Dân chỉ biết đến ý
nghĩa của độc lập khi dân được ăn no, mặc ấm; nếu giành được độc lập dân tộc rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét,
vẫn bệnh, các cháu không được tới trường học thì độc lập dân tộc cũng chẳng có ý nghĩa gì. Phải không
ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được
nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ. Toàn Đảng toàn dân ta phải đoàn kết phấn đấu,
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thông nhất, độc lập dân chủ và giảu mạnh. Muốn được như vậy thì
độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội. Đây chính là điều cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam
Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh tới cách mạng Việt Nam:
Tư tưởng HCM soi sáng cho con đường giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam:
Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam: tư tưởng HCM là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn bất
diệt và đã trở thành một bộ phận của văn hóa dân tộc, có sức hấp dẫn, lâu bền và phổ biến, là tài sản vô giá
của dân tộc ta. Bởi vì tư tưởng của người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa, tư
tưởng vĩnh cửu của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề
của thời đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Tính sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ
vừa trung thành với những nguyên lí phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vừa sáng tạo cho phù hợp với điều
kiện lịch sử xã hội của Việt Nam. Một trong những ví dụ về sự sáng tạo trong tư tưởng của Người là khi
Người vạch ra đường lối cách mạng Việt Nam: vào những năm 30 của thế kỉ 20 trong xã hội Việt Nam tồn
tại hai mâu thuẫn đó là mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân VN với thực dân pháp và mâu thuẫn giai cấp giữa
nông dân và địa chủ phong kiến. Bác Hồ - người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN đã xác định rõ ràng phải giải
quyết mâu thuẫn dân tộc trước rồi mới đến giải quyết vấn đề mâu thuẫn giai cấp. Trong khi chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ tập trung giải quyết mâu thuẫn giai cấp thì Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ trong tình hình đất nước ta
phải giải quyết xong mâu thuẫn dân tộc mới giải quyết đến quyền lợi các giai cấp, vấn đề dân tộc phải được
đặt lên hàng đầu. Tư tưởng HCM đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của
dân tộc: đặt cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quĩ đạo cách mạng vô sản và là một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới. Người khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, có nhiệm vụ giải quyết triệt để các mâu thuẫn cơ bản ở thuộc địa nói chung và VN nói
riêng đó là mâu thuẫn dân tộc với thực dân, đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa công dân, nông dân với tư
sản, phong kiến. Tư tưởng HCM đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, ngày nay tư tưởng đó đang soi sáng
cho con đường cách mạng VN.
Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng VN: là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng, nền tảng tinh thần của xã hội, động lực và nguồn sức mạnh to lớn cho nhân dân ta
phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, xây dựng đất nước không ngừng phát triển. Trong suất chặng đường
hơn một nửa thế kỉ, tư tưởng HCM đã dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, soi
sáng quá trình nhận thức và giải quyết những vấn đề cách mạng ở VN. Khi chưa có đảng, nhân dân ta sống
chìm đắm trong vòng nô lệ của chế độ thực dân phong kiến, tưởng như không có lối ra. Nguyễn Ái Quốc
tiếp thu chủ nghĩa mác thành lập đảng cộng sản việt nam, đề ra đường lối đúng đắn cho sự phát triển của
nước ta. Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đảng đã đề ra đường lối đúng đắn lãnh đạo khối
đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đồng thời tận dụng thời cơ xóa bỏ chế
độ thực dân phong kiến làm nên cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đưa đất nước bước vào kỉ nguyên mới -
kỉ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vào chủ nghĩa mác, tư tưởng HCM, VN từ một nước
thuộc địa trở thành một nước độc lập có chủ quyền, nhân dân việt nam từ thân phận nô lệ trở thành người
làm chủ đất nước. Qua 2 cuộc kháng chiến chống pháp và mĩ, đảng ta đứng đầu là chủ tịch hcm đã lãnh đạo
nhân dân đứng lên, kiên cường chiến đấu, đánh bại quân xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng, giải phóng
miền nam, thống nhất đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã xác định “đảng lấy tư tưởng hcm,
chủ nghĩa mác lê nin làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động” trong thời kì đi lên xhcn, tư tưởng hồ chí
minh tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới đất nước của dân tộc. Trong bối cảnh của thế giới hiện nay, tư
tưởng của người giúp ta nhận thức đúng đắn những vấn đề lớn có liên quan đến bảo vệ nền độc lập dân tộc,
phát triển xã hội, đảm bảo quyền con người. Tư tưởng HCM là nền tảng vững chắc để đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho cách mạng VN đi đến thắng lợi.

You might also like