Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

Monetary Policy

1. Khái niệm chính sách tiền tệ.


Chính sách tiền tệ hay chính sách lưu thông tiền tệ (Monetary Policy) là quá
trình quản lý cung tiền (Money Supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng
trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (Targeting Interest Rate) để đạt
được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu
thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp
thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; quy định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên
thị trường ngoại hối và nhiều vấn đề khác.
Chính sách tiền tệ là một trong hai phương tiện chính (phương tiện còn lại là chính sách
tài khóa) mà các cơ quan quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường thường xuyên tác
động đến nhịp độ và hướng của hoạt động kinh tế tổng thể, quan trọng không chỉ bao gồm
mức tổng sản lượng và việc làm mà còn bao gồm cả mức tổng thể. tỷ lệ giá cả tăng hoặc
giảm. Thật vậy, xu hướng chủ yếu trong nửa thế kỷ qua là ngày càng chú trọng đến chính
sách tiền tệ (và tương ứng ít hơn về chính sách tài khóa) cho những mục đích này. Các
chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ, thường thông qua các cơ quan chuyên môn được
gọi là ngân hàng trung ương, bằng cách khai thác quyền kiểm soát của họ đối với việc cung
cấp một số loại khiếu nại chống lại ngân hàng trung ương - do đó được gọi là "tiền tệ" -
cho phép các doanh nghiệp, ngân hàng và cá nhân của một quốc gia thực hiện các vấn đề
kinh tế hàng ngày của họ. Trong hầu hết các hệ thống tài chính, các ngân hàng nói riêng
được yêu cầu về mặt pháp lý để giữ các khiếu nại đối với ngân hàng trung ương để tạo tiền
gửi và cho vay, và do đó, sự kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với việc cung cấp các
yêu cầu chống lại chính nó cũng mang lại cho nó một hình thức kiểm soát đối với nền kinh
tế. tiền và tín dụng theo một nghĩa rộng hơn. Bằng chứng từ kinh nghiệm, ở quốc gia này
đến quốc gia khác, cho thấy rõ ràng rằng việc thực hiện quyền kiểm soát này - chính sách
tiền tệ - ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế của một quốc gia, dù tốt hay xấu.
Chính sách tiền tệ được chia ra làm hai loại: chính sách tiền tệ mở rộng (Expainsionary
Monetary Policy) và chính sách tiền tệ thu hẹp (Contractionary Monetary Policy).
2. Chính sách tiền tệ mở rộng (Expainsionary Monetary Policy) và Chính sách tiền tệ
thu hẹp (Contractionary Monetary Policy).
2.1. Chính sách tiền tệ mở rộng (Expainsionary Monetary Policy).
Chính sách tiền tệ mở rộng còn được gọi là chính sách tiền tệ nới lỏng, chính sách mở
rộng làm tăng cung tiền và tín dụng để tạo ra tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng Trung ương
có thể triển khai chính sách tiền tệ mở rộng để giảm tỷ lệ thất nghiệp và thúc đẩy tăng
trưởng trong thời kỳ kinh tế khó khăn.
Ngân hàng Trung ương thường làm như vậy bằng cách giảm lãi suất quỹ liên bang chuẩn
của nó, hoặc lãi suất mà các ngân hàng sử dụng khi họ cho nhau vay tiền để đáp ứng bất kỳ
yêu cầu dự trữ nào. Mặc dù ở Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên bang không thể yêu cầu một tỷ lệ
quỹ liên bang nhất định, nhưng nó có thể đặt ra các hướng dẫn và tác động đến tỷ lệ mà các
ngân hàng tính phí lẫn nhau bằng cách thay đổi nguồn cung tiền. Đổi lại, điều này có thể
làm giảm các mức lãi suất khác, giống như các ngân hàng sử dụng khi họ cho người tiêu
dùng vay tiền, giúp thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng thông qua việc tăng cường tín
dụng và cho vay trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
Ví dụ: Khi hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ sụp đổ dẫn đến cuộc Đại suy thoái 2007-
2008, Cục Dự trữ Liên bang đã cắt giảm lãi suất xuống gần bằng 0 để khởi động nền kinh
tế Hoa Kỳ, do đó "mở rộng" tăng trưởng kinh tế. Gần đây, nó đã làm điều tương tự để kéo
đất nước ra khỏi cuộc suy thoái Covid-19 năm 2020.
2.2. Chính sách tiền tệ thu hẹp (Contractionary Monetary Policy).
Chính sách tiền tệ thu hẹp còn được gọi là chính sách tiền tệ thắt chặt, chính sách điều
chỉnh giảm cung tiền của một quốc gia để hạn chế lạm phát tràn lan và giữ cho nền kinh tế
cân bằng. Một ngân hàng trung ương có thể sẽ tăng lãi suất và cố gắng làm chậm sự tăng
trưởng của tiền và giá cả.
Ví dụ: Vào đầu những năm 1980, khi tỷ lệ lạm phát của Hoa Kỳ tăng vọt lên gần 15%,
Fed đã mạnh tay tăng lãi suất lên gần 20%. Trong khi động thái đó dẫn đến suy thoái toàn
quốc, nó cũng đưa lạm phát trở lại khoảng 3%, giúp tạo tiền đề cho một nền kinh tế Mỹ
vững mạnh trong phần còn lại của thập kỷ.
3. Đặc điểm của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ có thể có đặc điểm như tín dụng thắt chặt hoặc tín dụng nới lỏng. Khi
FED lo ngại nền kinh tế đang phát triển quá nhanh hoặc giá tăng quá nhanh, FED sẽ thắt
chặt các vị thế dự trữ bằng cách bán các chứng khoán chính phủ để thoát khỏi tinh trạng
này. Quá trình này được biết đến như rút nguồn dự trữ. Trái lại, nếu Fed thấy rằng nền kinh
tế tăng trưởng không đủ nhanh hoặc có nguy cơ suy thoái, thì Fed có thể bơm các khoản dự
trữ mới vào hệ thống ngân hàng, bằng cách mua chứng khoán từ những trung tâm giao dịch
chứng khoán. Bằng cách mua thay vì bán chứng khoán, FED sẽ mở rộng, thay vì thu hẹp
nguồn cung dự trữ ngân hàng, vì vậy sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các ngân hàng để
đáp ứng các yêu cầu dự trữ, và thực hiện các khoản vay mới.
Ngoài chính sách tiền tệ, FED cũng có một số kiểm soát tín dụng có lựa chọn để điều
chỉnh chi phí tín dụng. Những kiểm soát này bao gồm những yêu cầu bảo chứng đối với
những chứng khoán được mua thông qua nhà môi giới - thương nhân và sự thuyết phục tin
thần cao, nhờ đó, FED cố gắng thuyết phục các ngân hàng tiếp tục theo các khuyến nghị
của FED qua sức ép không chính thức. Mặc dù chính sách tiền tệ khác với Chính sách tài
khóa của chính phủ liên bang, được tiến hành bởi những chính sách chi tiêu và thuế, cả hai
đều chia sẻ một mục tiêu chung: cân bằng tổng cầu trong nền kinh tế so với tổng cung,
được đo bởi tổng sản phẩm quốc nội, việc làm và lãi suất, qua đó giữ lạm phát và thất
nghiệp ở mức kiểm soát.
4. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ gồm có 6 công cụ sau:
Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các
Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại
tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên
tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân
hàng thương mại.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy
tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh
hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng
cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng
tiền tệ.
Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách
tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi
hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải
pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín
dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của
Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín
dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân
hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối.
Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất
nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một
cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ,
cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá
không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ
trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển
đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Cơ quan có trách nhiệm về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định
kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái.
Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan
hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ.
Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khấu, thay đổi tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.
5. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
5.1. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền
Ngân hàng trung ương thông qua Chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng hay giảm
giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức
mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối
ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ).
Tuy vậy, Chính sách tiền tệ hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ
lạm phát bằng không, vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện
nền kinh tế trì trệ thì kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý (thường ở mức một con số) sẽ
kích thích tăng trưởng kinh tế trở lại.
5.2. Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm
phát gia tăng.
5.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn
định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính
phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem
xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt
tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì Ngân hàng trung
ương trong khi thực hiện Chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác. Phần lớn Ngân hàng trung ương các nước coi sự ổn định giá cả là mục
tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách tiền tệ.
6. Chính sách tiền tệ tác động lên nền kinh tế Việt Nam.
Theo số liệu của Oxfam công bố năm 2017, trong giai đoạn từ năm 1992 đến 2012 tại
Việt Nam, tỷ lệ Palma (tỷ lệ giữa phần thu nhập của nhóm 10% thu nhập cao nhất và nhóm
40% thu nhập thấp nhất) đã tăng 17%, từ 1,48 (năm 1992) lên 1,74 (năm 2012), cho thấy
chênh lệch giữa hai nhóm này ngày càng được nới rộng.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, các hộ gia đình được chia thành năm tầng lớp kinh tế dựa trên
mức tiêu dùng hàng ngày, bao gồm:
(1) Người nghèo cùng cực, sống dưới 1,9 USD/ngày
(2) Người nghèo vừa phải, tiêu dùng từ 1,9 - 3,2 USD/ngày
(3) Người dễ bị tổn thương kinh tế, tiêu dùng 3,2 - 5,5 USD/ngày
(4) An toàn về kinh tế, tiêu dùng 5,5 - 15 USD/ngày
(5) Tầng lớp trung lưu toàn cầu, tiêu dùng trên 15 USD/ngày.
Mức độ bất bình đẳng thu nhập còn được thể hiện qua chênh lệch giữa thu nhập của
nhóm nghèo cùng cực và nhóm trung lưu toàn cầu. Năm 2016 thu nhập bình quân đầu
người của nhóm 1 là 791.000 đồng, tăng bình quân 5,7% trong giai đoạn 2016 - 2019;
nhóm 5 là 7,8 triệu đồng, tăng cao hơn ở mức 6,8% khiến cho năm 2016, thu nhập của
nhóm 5 gấp 9,8 lần nhóm 1, và tới năm 2019 gấp 10,2 lần. Tuy nhiên đến năm 2020, do tác
động tiêu cực của dịch bệnh Covid -19 và hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội tới
các đối tượng là người nghèo, lao động thất nghiệp, gia đình chính sách nên nhóm thu nhập
thấp tăng 7,6% trong giai đoạn 2016 - 2020 nhanh hơn nhiều mức tăng 3,3% của nhóm thu
nhập cao nhất, điều đó đã kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa 2 nhóm này chỉ còn 8 lần.
Theo World Bank (2018), tình hình bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam có xu hướng gia
tăng trong những năm gần đây, xuất hiện hoàn toàn ở khu vực nông thôn, với hệ số Gini
tăng 0,8 điểm, trong khi không quan sát thấy sự thay đổi nào về bất bình đẳng ở khu vực
thành thị. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2010, hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5
và nhóm 1 ở khu vực nông thôn là 5,97 lần, thấp hơn so với khu vực thành thị.
Tuy nhiên, từ năm 2012 đến 2016, hệ số chênh lệch tăng lên mức 8,39 lần, cao hơn cả
khu vực thành thị. Mức chênh lệch tuyệt đối giữa thu nhập của hai nhóm cũng kéo giãn từ
mức 703,8 nghìn đồng lên mức 4,993 triệu đồng. Bên cạnh đó, tốc độ tăng thu nhập bình
quân hàng năm của nhóm 5 cũng đạt mức cao nhất (40,7 %), trong khi nhóm 1 chỉ đạt mức
tăng trưởng thấp nhất (33,4 %). Điều này cho thấy tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở
nông thôn đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn và là nhân tố chủ đạo làm tăng bất bình
đẳng thu nhập ở Việt Nam nói chung.
Qua nghiên cứu, chính sách tiền tệ ngoài ý nghĩa quan trọng ổn định giá trị tiền đồng còn
có thể tác động tới bất bình đẳng thu nhập trong xã hội. Vừa qua, khi Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam thực hiện một cú sốc về chính sách tiền tệ bằng việc tăng tốc độ cung ứng tiền,
tình trạng bất bình đẳng thu nhập có thể giảm trong ngắn hạn, cụ thể là từ tháng 2 đến
tháng 5/2020. Tuy nhiên, từ tháng 6/2020 trở đi, tác động này gần như bị triệt tiêu. Ngược
lại, cú sốc chính sách tiền tệ thắt chặt lại mang đến tác động tiêu cực khi làm tăng bất bình
đẳng thu nhập trong ngắn hạn.
Các biện pháp hỗ trợ người nghèo, người có thu nhập thấp mà Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam có thể thực hiện bao gồm: cần sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, xác định
giảm bất bình đẳng thu nhập là một trong số các mục tiêu của chính sách tiền tệ; điều hành
linh hoạt lãi suất theo xu hướng thu hẹp chênh lệch đầu vào đầu ra để giảm lãi suất cho vay
khuyến khích sản xuất, phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Cùng với đó, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung nguồn vốn đẩy mạnh cho vay nông
nghiệp, nông thôn nói chung và tích cực triển khai các chương trình tín dụng đặc thù như:
cho vay nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, cho vay hỗ trợ giảm tổn thất trong
nông nghiệp, cho vay lúa gạo, thủy sản, hướng tới cả các khu vực chưa có mạng lưới ngân
hàng; tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ về nguồn vốn nhằm khuyến khích các tổ chức tín
dụng đẩy mạnh cho vay nông nghiệp, nông thôn trên tinh thần tiếp cận bình đẳng; tiếp tục
đẩy mạnh phát triển tài chính vi mô và tăng cường thực hiện các chương trình tín dụng
chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội.
Bên cạnh đó, điều hành chính sách tiền tệ nhằm hướng tới giảm bất bình đẳng thu nhập
thông qua kết hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền lương với chính sách
tiền tệ, giúp giữ ổn định quan hệ cung cầu trong nền kinh tế đối với các hàng hóa quan
trọng, thiết yếu để tránh tăng giá sốc, nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực trong nền
kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện ở các lĩnh vực và cải thiện chất lượng
tăng trưởng.
7. Hoạt động của chính sách tiền tệ.
Các mục tiêu chính của chính sách tiền tệ trong thời hiện đại thường là duy trì sự ổn định
của mức giá chung của một quốc gia - nghĩa là ngăn chặn lạm phát hoặc giảm phát - và
thúc đẩy mức sản lượng và việc làm tối đa. Các mục tiêu thường được chấp nhận khác của
chính sách tiền tệ bao gồm duy trì sự cân bằng trong thương mại quốc tế của một quốc gia,
duy trì sự ổn định trên thị trường tài chính và thúc đẩy tăng đầu tư vốn để để nâng cao tốc
độ tăng trưởng kinh tế của nó theo thời gian. Ngoại trừ việc duy trì sự ổn định của thị
trường tài chính, vốn thường được coi là thứ yếu, tất cả các mục tiêu này đều liên quan đến
các khía cạnh của hoạt động kinh tế phi tài chính của một nền kinh tế. Ngược lại, các hoạt
động chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương chỉ diễn ra trên thị trường tài chính.
Do đó, để chính sách tiền tệ có hiệu lực đòi hỏi một số quá trình, thường được gọi là “cơ
chế truyền dẫn” chính sách tiền tệ, trong đó các hành động tài chính thuần túy do ngân
hàng trung ương thực hiện ảnh hưởng đến các quyết định phi tài chính của các hộ gia đình
và doanh nghiệp.
7.1. Nhu cầu về các khoản nợ của ngân hàng Trung ương (Demand for central bank
liabilities).
Mấu chốt của cách thức hoạt động của cơ chế này là, một phần vì lý do thuận tiện và một
phần là vấn đề luật pháp, những người tham gia vào nền kinh tế phi tài chính của một quốc
gia cần phải giữ các khiếu nại chống lại ngân hàng trung ương của nó - tổng số chưa thanh
toán thường được gọi là "cơ sở tiền tệ."
Ở cấp độ đơn giản nhất, tiền tệ thường là yêu cầu của ngân hàng trung ương của một
quốc gia.
Các cá nhân mua các vật dụng hàng ngày bằng tiền mặt và các doanh nghiệp mà họ giao
dịch, do đó cần phải nắm giữ và trao đổi các khoản nợ của ngân hàng trung ương. Trong
quá khứ, sự gia tăng đột ngột nhu cầu tiền tệ của công chúng, khi không được đáp ứng bởi
sự gia tăng tiền tệ do ngân hàng trung ương cung cấp, thường gây ra khủng hoảng tài chính
và hậu quả là suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, trong thời hiện đại - đặc biệt là kể từ Thế chiến
II - hầu hết các ngân hàng trung ương đã cung cấp một cách thụ động bất kỳ khối lượng
tiền tệ thay đổi nào mà công chúng tìm kiếm. Do đó, nhu cầu về tiền tệ thường không đóng
một vai trò quan trọng nào trong quá trình chính sách tiền tệ.
Thay vào đó, điều quan trọng là các tuyên bố mà các ngân hàng khu vực tư nhân của
quốc gia nắm giữ dưới dạng tiền gửi - thường được gọi là "dự trữ" - tại ngân hàng trung
ương. Vì một số lý do, nhu cầu của các ngân hàng đối với những khoản dự trữ này mở
rộng hoặc hợp đồng gần với mức độ hoạt động tổng thể đang diễn ra trong nền kinh tế phi
tài chính:
Thứ nhất, ở nhiều quốc gia, theo luật, các ngân hàng phải nắm giữ các khoản dự trữ đó
tương ứng với khối lượng tiền gửi (hoặc nếu không phải là tổng số tiền gửi của họ, sau đó
là một số hình thức tiền gửi) mà họ có số dư. Do đó, khả năng hệ thống ngân hàng tạo tiền
gửi cho các doanh nghiệp và hộ gia đình sử dụng để thực hiện các giao dịch mà họ không
thực hiện bằng tiền phụ thuộc vào số lượng dự trữ mà họ có thể có được. Khối lượng giao
dịch được thực hiện thông qua séc ngân hàng và do đó các ngân hàng cần phải dự trữ, thay
đổi rõ ràng theo hoạt động kinh tế tổng thể.
Thứ hai, khả năng cho vay của ngân hàng phụ thuộc vào khả năng tạo tiền gửi của ngân
hàng. Khoản vay là tài sản của ngân hàng, trong khi tiền gửi là trách nhiệm của ngân hàng.
Ngoài những thay đổi về vốn của ngân hàng do lợi nhuận để lại hoặc do phát hành chứng
khoán mới, tổng tài sản và tổng nợ phải trả của ngân hàng phải mở rộng hoặc hợp đồng với
nhau (nói cách khác, bảng cân đối kế toán phải luôn cân đối). Điều này cũng đúng đối với
toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Do đó, yêu cầu các ngân hàng phải dự trữ
tương ứng với tiền gửi của họ cũng có nghĩa là họ phải dự trữ để cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp hoặc hộ gia đình. Nhu cầu tín dụng cũng thay đổi theo mức độ hoạt động
kinh tế.
Thứ ba, mặc dù một số quốc gia (ví dụ: Canada, New Zealand, Vương quốc Anh) không
áp đặt các yêu cầu về dự trữ hợp pháp, các ngân hàng của họ giữ số dư tại ngân hàng trung
ương để sử dụng cho việc giải quyết các khiếu nại phát sinh bất cứ khi nào chủ tài khoản
tại một ngân hàng gửi séc được ký phát vào một ngân hàng khác. Hơn nữa, ngay cả ở một
số quốc gia có yêu cầu về dự trữ (ví dụ, Hoa Kỳ), kể từ đầu thế kỷ XXI, một phần lớn số
dư mà các ngân hàng nắm giữ tại ngân hàng trung ương cũng được giữ chủ yếu cho các
mục đích giải quyết các khiếu nại liên ngân hàng. Cách thức tiêu chuẩn để thực hiện việc
chuyển tiền như vậy là chuyển các khoản dự trữ trên sổ sách của ngân hàng trung ương từ
ngân hàng này sang ngân hàng khác. (Trong những năm gần đây một số quốc gia đã phát
triển các hệ thống cho phép các ngân hàng có yêu cầu bồi thường với nhau để bù đắp
chúng, một chống lại bên kia, mà không có sự tham gia của ngân hàng trung ương; nhưng
việc giải quyết số tiền ròng đến hạn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác vẫn diễn ra
bằng cách chuyển dự trữ tại ngân hàng trung ương.) Các ngân hàng trung ương, không có
rủi ro vì được chính phủ ủy quyền và hậu thuẫn, có lợi thế tự nhiên trong việc cung cấp
dịch vụ thanh toán liên ngân hàng. Mặc dù vậy, để đảm bảo rằng các ngân hàng có nhu cầu
về số dư tại ngân hàng trung ương, một số quốc gia không đặt ra yêu cầu dự trữ hợp pháp
đối với tiền gửi một cách hợp pháp yêu cầu ngân hàng của họ sử dụng ngân hàng trung
ương để thanh toán ròng.
Nhu cầu dự trữ của ngân hàng Trung ương theo hai hệ thống: nhu cầu dự trữ của ngân
hàng Trung ương theo hệ thống sàn (Demand for central bank reserves under a floor
system và nhu cầu dự trữ của ngân hàng Trung ương theo hệ thống hành lang (Demand for
central bank reserves under a corridor system.
Do đó, theo nhiều cách khác nhau, hoạt động hàng ngày của nền kinh tế hiện đại và hệ
thống tài chính của nó tạo ra nhu cầu về dự trữ ngân hàng trung ương (hoặc, bao gồm tiền
tệ, cho cơ sở tiền tệ). Hơn nữa, nhu cầu dự trữ tăng lên một cách hợp lý khi hoạt động kinh
tế mở rộng.
7.2. Ngân hàng Trung ương với tư cách là một nhà độc quyền.
Quyền lực của ngân hàng trung ương trong việc tiến hành chính sách tiền tệ bắt nguồn từ
vai trò của nó như là nguồn dự trữ duy nhất. Tóm lại, ngân hàng trung ương là nhà độc
quyền đối với việc cung cấp các khoản nợ phải trả của chính mình.
7.2.1. Nghiệp vụ thị trường mở (Open market operations).
Thủ tục phổ biến nhất mà các ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm cung dự trữ ngân
hàng còn tồn đọng là thông qua “nghiệp vụ thị trường mở” - nghĩa là mua hoặc bán chứng
khoán (thường là nghĩa vụ nợ của chính phủ ngân hàng trung ương) trên thị trường tự do.
Khi ngân hàng trung ương mua chứng khoán, ngân hàng trung ương thực hiện thanh toán
bằng cách tăng tài khoản dự trữ của ngân hàng bên bán. Làm như vậy sẽ tăng tổng số khối
lượng dự trữ mà hệ thống ngân hàng nắm giữ chung. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương
bán một chứng khoán, ngân hàng này sẽ nhận tiền bằng cách giảm tài khoản dự trữ của
ngân hàng người mua. Làm như vậy sẽ làm giảm tổng khối lượng dự trữ. Mặc dù các ngân
hàng khu vực tư nhân thường xuyên trao đổi các khoản dự trữ hiện có với nhau, nhưng
không ngân hàng nào hoặc bất kỳ bên tham gia thị trường nào khác có thể thêm vào hoặc
lấy đi từ tổng khối lượng dự trữ mà tất cả các ngân hàng cùng nắm giữ. Ngân hàng trung
ương là nhà cung cấp độc quyền (hoặc người rút) dự trữ cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Việc mở rộng hoặc thu hẹp tổng khối lượng dự trữ theo cách này rất quan trọng vì các
ngân hàng có thể trao đổi dự trữ với nhau và quan trọng là vì họ làm như vậy trên thị
trường tự do, trong đó họ trao đổi dự trữ lấy các tài sản khác. Các khoản dự trữ thường tốn
kém đối với các ngân hàng khi nắm giữ vì ngân hàng trung ương chỉ trả một mức lãi suất
thấp - thường bằng không - trên những số dư này. Do đó, bất kỳ ngân hàng nào có nhiều
khoản dự trữ hơn mức cần thiết thường sẽ cố gắng đổi chúng lấy một số tài sản chịu lãi
suất như tín phiếu Kho bạc hoặc công cụ nợ ngắn hạn khác. Tuy nhiên, nếu toàn bộ hệ
thống ngân hàng có lượng dự trữ dư thừa, sẽ có nhiều ngân hàng tìm cách mua các công cụ
đó hơn là bán chúng. Trong trường hợp không có một số lực lượng khác tác động lên thị
trường cùng lúc, kết quả là giá thầu các công cụ này tăng lên, do đó làm giảm lãi suất thu
được của các nhà đầu tư nắm giữ chúng. (Biến động giá của bất kỳ công cụ nợ có lãi suất
cố định nào đều tương ứng với những chuyển động theo hướng ngược lại với lãi suất mà
nó phải chịu.)
Do đó, lãi suất thấp hơn trên các công cụ thị trường ngắn hạn có nghĩa là giảm chi phí cơ
hội của việc nắm giữ các khoản dự trữ không lãi suất. Chỉ khi lãi suất thị trường giảm
xuống mức mà tại đó các ngân hàng chung sẵn sàng giữ tất cả các khoản dự trữ mà ngân
hàng trung ương đã cung cấp thì hệ thống tài chính mới đạt được trạng thái cân bằng.
Ngược lại, nếu các ngân hàng nói chung có ít dự trữ hơn mức họ cần, thì nhiều ngân hàng
sẽ tìm cách bán các hối phiếu (để đổi lấy dự trữ) hơn là mua chúng. Hệ quả là lãi suất thị
trường, và do đó, chi phí cơ hội đối với dự trữ, sẽ tăng lên đến mức mà các ngân hàng bằng
lòng chỉ làm với nguồn cung dự trữ hiện có (có lẽ bởi vì, trong quá trình này, họ đã thu hẹp
các khoản tiền gửi chưa thanh toán của mình và tín dụng).
Do đó, hoạt động thị trường mở “mở rộng” (trong đó ngân hàng trung ương mở rộng
nguồn cung dự trữ) tạo ra áp lực giảm đối với lãi suất ngắn hạn không chỉ vì bản thân ngân
hàng trung ương là người mua trên thị trường chứng khoán mà quan trọng hơn là về mặt
định lượng, bởi vì nó dẫn các ngân hàng cũng trở thành người mua chứng khoán. Và cũng
vì những lý do tương tự, hoạt động thị trường mở “co cụm” gây áp lực tăng lên đối với lãi
suất ngắn hạn. Bằng cách vận hành theo cách này, các ngân hàng trung ương có thể dễ
dàng tác động đến lãi suất đối với bất kỳ công cụ nợ ngắn hạn nào mà ngân hàng thường
xuyên đổi lấy dự trữ. Trong các điều kiện thông thường, một ngân hàng trung ương hoạt
động tốt theo các quy trình này có thể chọn một số lãi suất ngắn hạn (ở nhiều quốc gia,
ngân hàng trung ương tập trung vào lãi suất cho vay liên ngân hàng qua đêm) và thiết lập
lãi suất đó ở bất kỳ mức nào mà nó chọn.
7.2.2. Dự trữ bắt buộc (Reserve requirements).
Trong một hệ thống ngân hàng áp đặt các yêu cầu về dự trữ, một cách thay thế để ngân
hàng trung ương đạt được mục tiêu tương tự sẽ là điều chỉnh tỷ lệ phần trăm đã nêu cho
biết ngân hàng phải giữ bao nhiêu dự trữ liên quan đến số tiền gửi chưa thanh toán của họ.
Giảm yêu cầu dự trữ, và do đó giảm nhu cầu dự trữ, có tác động gần giống như hoạt động
thị trường mở mở rộng, làm tăng việc cung cấp các nguồn dự trữ; một trong hai hành động
này sẽ tạo ra áp lực giảm đối với lãi suất. Ngược lại, việc nâng cao yêu cầu dự trữ tương
đương với hoạt động thị trường mở tự do. Mặc dù về nguyên tắc, các ngân hàng trung
ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ bằng một trong hai cách, trên thực tế hầu hết các
ngân hàng trung ương hầu hết dựa vào hoạt động thị trường mở, thường chỉ sử dụng các
thay đổi trong yêu cầu dự trữ để đạt được các mục tiêu kỹ thuật hơn liên quan đến cơ cấu
nợ phải trả của hệ thống ngân hàng.
Nhu cầu dự trữ của ngân hàng Trung ương theo hai hệ thống: nhu cầu dự trữ của ngân
hàng Trung ương theo hệ thống sàn (Demand for central bank reserves under a floor
system và nhu cầu dự trữ của ngân hàng Trung ương theo hệ thống hành lang (Demand for
central bank reserves under a corridor system).
7.2.3. Khoản cho vay của ngân hàng Trung ương (Central bank lending).
Một cách khác mà các ngân hàng trung ương có thể thay đổi nguồn cung dự trữ là cho
ngân hàng nào đó vay dự trữ trực tiếp. Ở hầu hết các quốc gia có yêu cầu về dự trữ, việc
cho vay trực tiếp dự trữ (vì lý do lịch sử đôi khi được gọi là “tái chiết khấu”, hoặc cho vay
theo “thời hạn chiết khấu”) thường có quy mô nhỏ và nó chỉ đóng một vai trò nhỏ trong
tiền tệ. quy trình chính sách. Tuy nhiên, đặc biệt là ở các quốc gia không áp đặt yêu cầu về
dự trữ, việc cho vay trực tiếp đối với các ngân hàng là một phần quan trọng trong cách
ngân hàng trung ương cung cấp nguồn dự trữ, và nó cung cấp một cơ chế thay thế để kiểm
soát lãi suất.
Bởi vì không ngân hàng nào sẽ trả nhiều tiền hơn để đi vay ở nơi khác so với tỷ lệ mà
ngân hàng có thể tự do vay từ ngân hàng trung ương - và tương tự, sẽ không bán tín phiếu
Kho bạc có lợi suất cao hơn thay vì vay với tỷ lệ thấp hơn để tiếp tục nắm giữ - ấn định lãi
suất mà ngân hàng trung ương cho các ngân hàng vay dự trữ có hiệu quả thiết lập một mặt
bằng cho lãi suất thị trường ngắn hạn. Ở một số quốc gia (ví dụ: Canada và New Zealand),
ngân hàng trung ương giới hạn tỷ giá thị trường trên tín phiếu và các công cụ ngắn hạn
tương tự để giao dịch trong một phạm vi hẹp bằng cách áp đặt cả sàn và trần: đặt lãi suất
tại đó sẽ cho các ngân hàng vay cũng như một mức lãi suất (thấp hơn một chút) mà ngân
hàng sẽ trả cho các ngân hàng trên số dư dự trữ của họ.
7.2.4. Ảnh hưởng đến nền kinh tế phi tài chính (Effects on the nonfinancial economy).
Để chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu của nó đối với nền kinh tế phi tài chính, cần
phải có một số những thay đổi mà ngân hàng trung ương mang lại trong lãi suất ngắn hạn
lần lượt ảnh hưởng đến sản lượng và việc làm thực tế, hoặc giá cả và tiền lương, hoặc cả
hai. Lý thuyết kinh tế, cũng như quan sát thực nghiệm, gợi ý nhiều cách khác nhau về các
ảnh hưởng đó.
7.2.4.1. Ảnh hưởng đến cầu hàng hóa và dịch vụ (Influences on the demand for goods
and services).
Trong một nền kinh tế có thị trường tín dụng phát triển tốt, các hộ gia đình và doanh
nghiệp thường xuyên vay nợ để tài trợ cho chi tiêu của họ. Đầu tư của các công ty vào các
nhà máy và máy móc mới cũng như đầu tư của các hộ gia đình vào nhà ở và các mặt hàng
tiêu dùng lâu bền như ô tô và thiết bị gia dụng, đặc biệt có khả năng dựa vào nguồn vốn đi
vay. Sự biến động của lãi suất đương nhiên ảnh hưởng đến sự sẵn sàng thực hiện các khoản
chi tiêu đó. Mặc dù ngân hàng trung ương chỉ kiểm soát trực tiếp lãi suất đối với các công
cụ ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, nhưng lãi suất dài hạn áp dụng cho các khoản vay cho
các mục đích này hầu hết di chuyển cùng chiều với lãi suất ngắn hạn vì các ngân hàng và
các nhà đầu tư khác có thể thay thế giữa các công cụ nợ khác nhau trong danh mục tài sản
của họ. Do đó, chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng đến các tỷ giá khác này. Hơn nữa, bởi vì
khả năng tạo tín dụng của các ngân hàng phụ thuộc vào việc có dự trữ, bằng cách giảm
nguồn cung dự trữ, ngân hàng trung ương có thể khiến các ngân hàng nói riêng cắt giảm
cho vay theo những cách không chỉ đơn thuần tính lãi suất cao hơn, bao gồm cả phân bổ
tín dụng giữa các -là người đi vay.
Quá trình thay thế danh mục tương tự dẫn đến lãi suất dài hạn tăng (và do đó giá trái
phiếu dài hạn giảm) khi lãi suất ngắn hạn tăng cũng dẫn đến áp lực giảm giá thị trường của
các tài sản khác, nổi bật nhất là chứng khoán vốn và bất động sản. Do những tài sản nhạy
cảm với giá này chiếm số lượng rất lớn trong tổng tài sản nắm giữ của các hộ gia đình (và
đôi khi cả các doanh nghiệp) ở nhiều quốc gia, chính sách tiền tệ cũng do đó ảnh hưởng
đến mức tổng của cải của một nền kinh tế. Những thay đổi về sự giàu có cũng thường ảnh
hưởng đến nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ.
Tuy nhiên, việc mở rộng thêm quy trình thay thế danh mục đầu tư tương tự cho phép
chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền của một quốc gia trên thị trường quốc tế,
điều này rất quan trọng vì biến động tỷ giá hối đoái đến lượt nó cũng ảnh hưởng đến nhu
cầu về sản lượng của một quốc gia. Lãi suất thấp hơn ở một quốc gia, không phù hợp với
các quốc gia khác, thường dẫn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền của quốc gia đó giảm giá.
Tỷ giá hối đoái thấp hơn làm cho hàng hóa của quốc gia đó rẻ hơn so với hàng hóa được
sản xuất ở nơi khác, do đó kích thích nhu cầu ở nước ngoài đối với hàng xuất khẩu của
quốc gia đó trong khi làm giảm nhu cầu trong nước đối với hàng nhập khẩu nước ngoài. Cả
hai đều tính đến việc giảm giá tiền tệ làm tăng tổng cầu trong nước.
7.2.4.2. Ảnh hưởng đến cầu hàng hóa và dịch vụ (Influences on the demand for goods
and services)
Nếu chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương kích thích nhu cầu đối với hàng hóa và
dịch vụ của nền kinh tế và không có sự thay đổi ngay lập tức về nguồn cung, thì kết quả sẽ
là tạo ra áp lực tăng giá. Giá cao hơn (và trong một số trường hợp, chỉ xuất hiện nhu cầu về
sản phẩm của họ tăng lên) lại khiến các doanh nghiệp tìm cách sản xuất nhiều hơn. Trong
các ngành thâm dụng lao động, tăng sản lượng đồng nghĩa với việc thuê nhiều lao động
hơn. Do đó, chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng đến việc làm. Tuy nhiên, để thu hút nhiều
lao động, các doanh nghiệp thường phải trả mức lương cao hơn. Do đó, sự gia tăng sản
lượng và việc làm do chính sách tiền tệ mở rộng thường đồng nghĩa với việc tăng áp lực
lên cả giá cả và tiền lương - nói cách khác là lạm phát. Ngược lại, chính sách thắt chặt tiền
tệ làm giảm sản lượng và việc làm thường làm giảm lạm phát (hoặc, nếu ngay từ đầu, giá
cả và tiền lương không tăng sẽ gây ra giảm phát).
8. Chính sách tiền tệ trong kỷ nguyên kỹ thuật số (Monetary Policy in the Digital
Age).
8.1. Thực trạng về chính sách tiền tệ trong kỷ nguyên kỹ thuật số.
Sự phát triển của tiền điện tử đang đe dọa đến nhu cầu muốn gửi tiền vào ngân hàng của
người dùng và điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lượng dữ trữ bắt buộc trong ngân hàng
Trung ương.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và các gói cứu trợ của các tổ chức tài chính lớn đã
làm dấy lên sự hoài nghi trong một số quý về sự độc quyền phát hành tiền tệ của các ngân
hàng trung ương. Sự hoài nghi như vậy đã thúc đẩy việc tạo ra Bitcoin và các tài sản tiền
điện tử khác, thách thức mô hình tiền tệ được nhà nước hỗ trợ và vai trò thống trị của các
ngân hàng trung ương và các tổ chức thông thường trong hệ thống tài chính (He và những
người khác, 2016).
Hai mươi năm trước, khi Internet ra đời, một nhóm các nhà kinh tế học nổi tiếng và các
chủ ngân hàng trung ương tự hỏi liệu những tiến bộ trong công nghệ thông tin có làm cho
các ngân hàng trung ương trở nên lỗi thời hay không (King 1999). Trong khi những dự
đoán đó vẫn chưa thành hiện thực, sự gia tăng của tài sản tiền điện tử đã khơi lại cuộc tranh
luận. Những tài sản này một ngày nào đó có thể đóng vai trò là phương tiện thanh toán
thay thế và có thể là đơn vị tài khoản, điều này sẽ làm giảm nhu cầu về tiền tệ định danh
hoặc tiền của ngân hàng trung ương. Đã đến lúc xem lại câu hỏi, liệu chính sách tiền tệ có
còn hiệu quả trong một thế giới không có tiền của ngân hàng trung ương (Woodford
2000)?
Hiện tại, tài sản tiền điện tử quá biến động và quá rủi ro để có thể gây ra nhiều mối đe
dọa cho các loại tiền tệ fiat. Hơn nữa, họ không được hưởng mức độ tin tưởng như công
dân có được đối với tiền tệ fiat: họ đã bị ảnh hưởng bởi các vụ gian lận khét tiếng, vi phạm
an ninh, thất bại trong hoạt động và có liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp.
8.2. Thách thức trong thời kỳ kỷ nguyên số.
Các tài sản điện tử (tiền BITCOIN,…) định giá theo đơn vị tài khoản của riêng chúng và
có thể được chuyển ngang hàng mà không cần trung gian. Trong khi đó tiền pháp định
( Fiat Money) một loại tiền tệ không có giá trị nội tại được xác lập bằng tiền theo quy định,
được gán giá trị nhờ quyền lực của Chính phủ và không có khả năng chuyển ngang hàng
mà không cần trung gian.
Các tài sản điện tử (tiền BITCOIN,…) có tính rủi ro lạm phát thấp hơn do có nguồn cung
hạn chế, việc trao đổi tài sản điện tử cũng dễ dàng hơn so với chuyển tiền pháp định ( Fiat
Money) của ngân hàng như họ cung cấp phần lớn tính ẩn danh của tiền mặt đồng thời cho
phép giao dịch ở khoảng cách xa và đơn vị giao dịch có thể có khả năng phân chia nhiều
hơn. Những thuộc tính này làm cho tài sản tiền điện tử trở nên đặc biệt hấp dẫn đối với các
khoản thanh toán vi mô trong nền kinh tế kỹ thuật số dựa trên dịch vụ và chia sẻ mới. Và
không giống như chuyển khoản ngân hàng, các giao dịch tài sản tiền điện tử có thể được
xóa và giải quyết nhanh chóng mà không cần trung gian. Ưu điểm đặc biệt rõ ràng trong
các khoản thanh toán xuyên biên giới, vốn tốn kém, cồng kềnh và không rõ ràng. Các dịch
vụ mới sử dụng công nghệ sổ cái phân tán và tài sản tiền điện tử đã cắt giảm thời gian cần
thiết để các khoản thanh toán xuyên biên giới đến đích từ vài ngày xuống còn vài giây
bằng cách bỏ qua các mạng ngân hàng đại lý.
8.3. Giải pháp để khắc phục thử thách.
Đầu tiên, ngân hàng Trung ương nên tiếp tục cố gắng làm cho các loại tiền tệ fiat tốt hơn
và các đơn vị tài khoản ổn định hơn. Như Giám đốc điều hành IMF Christine Lagarde đã
lưu ý trong một bài phát biểu tại Ngân hàng Anh năm ngoái, "Phản ứng tốt nhất của các
ngân hàng trung ương là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả, đồng thời cởi mở
với những ý tưởng mới và nhu cầu mới, khi các nền kinh tế phát triển". Chính sách tiền tệ
hiện đại, dựa trên trí tuệ và kiến thức tập thể của các thành viên ủy ban chính sách tiền tệ
— và được hỗ trợ bởi sự độc lập của ngân hàng trung ương — mang lại hy vọng tốt nhất
cho việc duy trì các đơn vị tài khoản ổn định. Việc hoạch định chính sách tiền tệ cũng có
thể được hưởng lợi từ công nghệ: các ngân hàng trung ương có thể sẽ cải thiện các dự báo
kinh tế của họ bằng cách sử dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và máy học.
Thứ hai, các cơ quan chính phủ nên quy định việc sử dụng tài sản tiền điện tử để ngăn
chặn sự chênh lệch giá theo quy định và bất kỳ tài sản tiền điện tử nào có lợi thế cạnh tranh
không công bằng có thể xuất phát từ quy định nhẹ hơn. Điều đó có nghĩa là áp dụng
nghiêm ngặt các biện pháp để ngăn chặn rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, tăng cường bảo
vệ người tiêu dùng và đánh thuế hiệu quả các giao dịch tiền điện tử.
Thứ ba, các ngân hàng trung ương nên tiếp tục làm cho tiền của họ trở nên hấp dẫn để sử
dụng như một phương tiện thanh toán. Ví dụ: họ có thể làm cho tiền của ngân hàng trung
ương thân thiện với người dùng trong thế giới kỹ thuật số bằng cách phát hành mã thông
báo kỹ thuật số của riêng họ để bổ sung tiền mặt vật chất và dự trữ ngân hàng. Loại tiền kỹ
thuật số của ngân hàng trung ương như vậy có thể được trao đổi ngang hàng theo cách phi
tập trung, giống như tài sản tiền điện tử.
8.4. Cơ hội mới trong thời kỳ kỷ nguyên số.
Tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương là giải pháp có thể cạnh tranh với tài sản
điện tử ở thời điểm hiện tại. Có thể giúp chống lại sức mạnh độc quyền mà các bên ngoài
mạng lưới mạnh mẽ có thể mang lại cho các mạng thanh toán tư nhân. Nó có thể giúp giảm
chi phí giao dịch cho các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ có khả năng tiếp cận ít hoặc tốn
kém với các dịch vụ ngân hàng và cho phép thực hiện các giao dịch đường dài. Không
giống như tiền mặt, một loại tiền kỹ thuật số sẽ không bị giới hạn về số lượng mệnh giá
của nó. Từ góc độ chính sách tiền tệ, tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương mang lãi
suất sẽ giúp truyền lãi suất chính sách đến phần còn lại của nền kinh tế khi nhu cầu dự trữ
giảm. Việc sử dụng các loại tiền tệ như vậy cũng sẽ giúp các ngân hàng trung ương tiếp tục
kiếm được thu nhập từ việc phát hành tiền tệ, điều này sẽ cho phép họ tiếp tục tài trợ cho
hoạt động của mình và phân phối lợi nhuận cho các chính phủ. Đối với các ngân hàng
trung ương ở nhiều thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, seigniorage là
nguồn thu chính và là biện pháp bảo vệ quan trọng cho sự độc lập của họ.

[online] www.imf.org. Available at: https://www.imf.org/Publications/fandd/issues/2018/06/central-


. [online] www.nber.org. Available
7/w8057.pdf?fbclid=IwAR2ZKigVJXxX1l9BlGtHveGIQggcCoVTZ82Almaizp9bc2qp5k9Lmlhy-wo
tary Policy: How Central Banks Regulate The Economy. [online] www.forbes.com Available
y/?fbclid=IwAR1YTgPHv95f-JD1KQGfx20DKmY8-
monetary%20policy%2C%20a%20central,is%20responsible%20for%20monetary%20policy
w.nber.org Available at: https://www.nber.org/books-and-chapters/monetary-policy
bo-ba-bat-kha-thi-va-thuc-trang-bo-ba-bat-kha-thi-o-viet-nam.htm

ngan-hang-thuong-mai-dau-tu-va-phat-trien-vn
học Ngân hàng TP. Hồ Chí (2021). Các yếu tố tác động đến nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt
vn/ngan-hang/cac-yeu-to-tac-dong-den-no-xau-tai-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-
nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u%20cho,v%E1%BB%91n%20ch%E1%BB%A7%20s%E1%BB

You might also like