Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN

KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN

ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY

Họ và tên: Lê Phương Sang

Mã sinh viên: 11219790

Lớp tín chỉ: POHE Luật Kinh Doanh

GVHD: TS Nguyễn Văn Hậu

HÀ NỘI 2022
MỤC LỤC

MỤC LỤC .............................................................................................1


LỜI GIỚI THIỆU ................................................................................2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................3
- Tính tất yếu của việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

II. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................ 6

III. NỘI DUNG ...................................................................................11


- Là mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Lịch sử của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

- Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay

- Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa

- Các giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

IV. KẾT LUẬN ...................................................................................18


V. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................19

1
LỜI GIỚI THIỆU

Nước ta đi lên XHCN từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật thấp
kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa cao, quan hệ sản xuất mới cha hoàn thiện.
Vì vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hóa (CNH-HĐH) là một xu hướng khách quan, phù
hợp với xu thế của thời đại và hoàn cảnh đất nước. góp phần tạo dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội, hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Do CNH-HĐH có ý nghĩa vô cùng to lớn với nước ta nên đã có rất nhiều nhà khoa
học, nhà nghiên cứu, nhà kinh tế... và cả sinh viên nghiên cứu về đề tài này nhằm đa ra
giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH Trong số các công trình đó có không ít
những công trình có tác dụng lớn đối với quá trình CNH-HĐH ở nước ta.
Đối với tôi, được sinh ra và lớn lên đúng vào thời điểm đất nước bắt đầu đẩy nhanh
quá trình CNH-HĐH, tôi mong đóng góp phần nào đó công sức của mình vào sự
nghiệp chung của đất nước. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Công nghiệp hoá-hiện đại
hoá.Thực trạng và giải pháp ở nước ta hiện nay.”
Trong đề tài có sử dụng và tham khảo nhiều tài liệu và quan điểm của các nhà
nghiên cứu khác.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Văn Hậu đã giúp đỡ em hoàn thành đề
tài này!

2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính tất yếu của việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Công nghiệp hóa hiện đại hóa là một trong các nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng
lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào
tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao và tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt
động của đời sống xã hội (trước hết là hoạt động sản xuất vật chất).

Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để
tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá
trị truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng
tới một xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa
đã trở thành tất yếu của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các
quốc gia trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội.

Trước đây, nền công nghiệp của Việt Nam còn khá nhỏ và chưa hoàn chỉnh, hầu hết
các cơ sở sản xuất lớn đều là của tư bản Pháp, còn công nghiệp bản địa chủ gồm
những doanh nghiệp nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất hàng hóa tiêu dùng và
các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Do yêu cầu đặt ra là mỗi một phương
thức sản xuất xã hội nhất định phải có một cơ sở vật chất, kĩ thuật tương ứng. Do Việt
Nam chưa chú trọng vào việc phát triển cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nên năng suất lao
động không thể gia tăng. Cơ sở vật chất, kĩ thuật của một xã hội là hệ thống các yếu tố
vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực
lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Không chỉ vậy, Việt Nam vốn là một nước nhỏ bé, luôn bị các nước khác xâm
chiếm, nền kinh tế, kĩ thuật và công nghệ của Việt Nam vẫn còn quá lạc hậu so với thế
giới. Việt Nam là một nước có lợi thế về lương thực, thực phẩm nên vốn chỉ chú trọng
vào nông nghiệp, mức sống người dân vẫn còn khá thấp và cuộc sống còn nghèo nàn.

3
Nền kinh tế, kỹ thuật và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là việc tất yếu để đưa
Việt Nam tụt hậu so với các nước khác trên thế giới. Vò thế mà việc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là việc tất yếu để đưa Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách
so với thế giới. Bên cạnh mức sống thấp, năng suất lao động của Việt nam cũng chỉ ở
mức thấp. Vì thế để tạo ra mức sống cao hơn, bảo đảm cho sự tồn tài và phát triển của
xã hội và đất nước, Việt Nam buộc phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để gia
tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải, vật chất hơn, gia tăng mức sống của
người dân như vậy xã hội mới phát triển.

Tiếp thep, công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là hệ thống
các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với một trình độ kỹ thuật
mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để tiến hành quá trình lao động sản xuất. Mỗi
phương thức sản xuất có cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng đặc trưng cho xã hội đó.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học và công nghệ
hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.

Như vậy, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có trình độ xã hội quá cao
hơn cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Vì thế, từ chủ nghĩa tư bản hay
trước chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế phổ biến và được
thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đối với nước ta, từ một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thông qua công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho
nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của
người dân không ngừng được nâng cao, trên cơ sở đó từng bước nâng dần văn minh
của xã hội. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn làm cho khối liên minh công

4
nhân, nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố, đồng thời nâng cao
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Tóm lại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một điều cần thiết để phát triển
đất nước, đưa đất nước đi lên sánh ngang với các cường quốc trên thế giới, đồng thời
cũng để gia tăng mức sống của người dân, đảm bảo điều kiện phát triển của xã hội. Đó
còn là nhân tố quyết định thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì
thế, Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

2. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đem đến những tác dụng to lớn và toàn diện
cho nền kinh tế của một nước. Không chi vật còn giúp kích thích phát triển các yếu tố
khác như văn hóa, xã hội,...

Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo tiền đề thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vì trong khi xây dựng và phát
triển nền tảng vật chất và công nghệ thì năng suất lao động của con người sẽ tăng lên,
do đó năng suất lao động cũng tăng lên, lúc này điều kiện sống sẽ cao hơn, kinh tế tốt
hơn, đất nước phát triển hơn.

Thứ hai,công nghiệp hiện đại hóa cũng tạo tiền đề để củng cố các mối quan hệ sản
xuất của xã hội chủ nghĩa, giúp gia tăng vai trò của Nhà nước và cải thiện các mối
quan hệ công nhân, nông dân, trí thức. Khi đất nước phát triển,các ngành nghề sẽ thu
hẹp được khoảng cách với nhau, mỗi ngành nghề đều là sự cần thiết, là cơ sở để phát
triển của các ngành khác, đều là yếu tố quan trọng không thể thiếu của đất nước.Để đất
nước phát triển, các chính sách, sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình xây dựng đất
nước là điều không thể thiếu, Nhà nước phải đưa ra các chính sách cân bằng, đảm bảo
và tạo sự liên kết cho các ngành nghề với nhau.

Thứ ba, khi mức sống gia tăng, các nhu cầu của con người cũng vì thế mà tăng lên.
Lúc này các bản sắc văn hóa cũng là cơ sở để hình thành và phát triển ngành du lịch,

5
dịch vụ. Những nét văn hóa sẽ được giới thiệu rộng rãi không chỉ trong nước mà còn ở
ngoài nước. Những bản sắc dân tộc khi được khai thác sẽ trở nên đậm đà, rõ nét hơn
và ngày càng được phát triển, quảng bá rộng rãi, là niềm tự hào dân tộc.

Cuối cùng, việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ xây dựng được nền kinh tế độc
lập, tự chủ. Gắn liền với đó là sự chủ động trong việc hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đất
nước hội nhập và phát triển, vấn đề về quốc phòng và an ninh cũng được tăng cường
để đảm bảo sự an toàn cho đất nước.

Việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều tất yếu và đem lại nhiều ảnh hượng tích
cực cho thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

II. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lý luận triết học Mác - Lê nin


Nguyên lí mối quan hệ phổ biến
Tất cả các sự vật hiện tượng và quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua
lại, tác động lẫn nhau. Mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một
hiện tượng trong thế giới.
Các tính chất của mối liên hệ.
Mối liên hệ phổ biến có tính khách quan vì chỉ có duy nhất một thế giới vật chất nền
các mối liên hệ cũng là vật chất. Vì vậy, nó cũng phải tồn tại khách quan. Còn các mối
liên hệ tinh thần chỉ là sự phản ánh của các mối liên hệ vật chất vào trong con người.
Vì vậy, mối liên hệ phổ biến là tồn tại khách quan.
Mối liên hệ còn mang tính phổ biến do:
Thứ nhất: do bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác
và không có bất cứ một sự vật, hiện tượng nào không nằm trong mối liên hệ nào cả.
Mọi sự vật, hiện tượng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua các mối liên hệ với các
sự vật, hiện tượng khác.

6
Thứ hai: mối liên hệ biểu hiện bởi nhiều dạng riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện
nhất định. Song, dù biểu hiện dưới hình thức nào chúng chỉ biểu hiện mối liên hệ phổ
biến chung nhất.
Ngoài hai tính chất trong mối liên hệ này còn có tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Mối
liên hệ có thể phân ra các mối liên hệ khác nhau: có mối liên hệ bên trong và mối liên
hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ về bản chất, mối
liên hệ về nội dung và hình thức... Tỉnh đa dạng của các mối liên hệ là do tính đa dạng
của sự tồn tại, phát triển và vận động của sự vật và hiện tượng quy định. Mỗi sự vật,
hiện tượng là một cấu trúc mở bao gồm các các mối liên hệ bên trong nó và các mối
liên hệ bên ngoài nó. Trong các mối liên hệ trên thì mối liên hệ bên trong, mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ về bản chất, mối liên hệ tất nhiên... là các mối liên hệ giữ vai trò
quyết định. Song, tuỳ vào điều kiện cụ thể, hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ tổng ứng
với chúng có thể giữ vai trò quyết định.

Nguyên lý về sự phát triển.


Khác với các quan niệm trước đây, triết học theo quan điểm duy vật biện chứng đã
đưa ra quan điểm đúng nhất về sự phát triển: “phát triển là một phạm trù triết học
dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ
kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn”.
Sự phát triển có những đặc trưng sau:
Thứ nhất: phát triển không chỉ là sự biến đổi về lượng mà trên cơ sở những biến đổi
về lượng để thực hiện những biến đổi về chất ở trình độ cao hơn.
Thứ hai: phát triển còn là những biến đổi làm thay đổi cấu trúc, cơ chế hoạt động,
phong thức tồn tại, chức năng vốn có của sự vật, hiện tượng theo chiều hỏng ngày
càng hoàn thiện hơn.
Như vậy, sự phát triển là trong đó có sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, là quá
trình không ngừng trong tự nhiên và trong xã hội, trong bản thân con người, trong tư
duy... Nếu xét từng trong hợp cụ thể thì có cả vận động đi lên và vận động đi xuống,
vận động tuần hoàn. Nhưng xét cả quá trình vận động với thời gian dài và không gian
rộng thì vận động đi lên là xu hồng chung của mọi sự vật.

7
Các tính chất của sự phát triển:
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải
quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu,
khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và
trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến
đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù họp với quy luật
khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi hiện tượng,
mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại
ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng phát triển sẽ khác nhau.
Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện tượng còn chịu nhiều sự
tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều
kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự
vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể
dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện
của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.

2. Cơ sở thực tiễn
Các hình thức của thực tiễn
Có nhiều hình thức thể hiện sự biểu hiện của thực tiễn, tuy nhiên có ba hình thức cơ
bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực
nghiệm khoa học, cụ thể như sau:

+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực
tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác

8
động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của mình.

+ Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị xã hội để thúc đẩy xã
hội phát triển.

+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực
tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những
qui luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò
trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác
nhau,không thể thay thế cho nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua
lại lẫn nhau.Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là loại hoạt động có vai
trò quan trọng nhất,đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác.
Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác.

Các hình thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật
chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất. Tuy nhiên, các hình thức hoạt động
chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là không hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một
chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại,chúng có tác dụng kìm hãm hoặc
thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển. chẳng hạn,nếu hoạt động thực tiễn
chính trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động khoa học thực
nghiêm khoa học đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển.

Thực tiễn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Phát biểu tại Hội thảo, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc cho rằng: Qua 30 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế đất nước đã có sự chuyển
dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH. Sự hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện
của nền kinh tế đất nước vào kinh tế toàn cầu đã mang lại cho chúng ta những cơ hội

9
vô cùng to lớn trong phát triển nhưng cũng xen lẫn nhiều thách thức không hề nhỏ.
Đáng phấn khởi hơn, công cuộc CNH, HĐH đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội… Nhờ đó, đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm, chính trị-xã hội
ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, nâng cao tiềm lực và vị thế quốc tế của
đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, Phó Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc cho rằng công cuộc CNH, HĐH còn nhiều bất cập: Mô hình CNH, HĐH
chưa được định hình rõ nét; chưa phát triển có hiệu quả các ngành công nghiệp ưu tiên
và chưa tận dụng lợi thế về công nghệ và nguồn lực đầu tư nước ngoài để tạo tính lan
toả, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tương xứng. Đặc biệt, quá trình thực hiện
công nghiệp hóa chưa gắn chặt với hiện đại hóa, phát triển công nghiệp vẫn chỉ là gia
công, lắp ráp, giá trị thấp. Các chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn triển
khai còn chậm và chưa thật hiệu quả; chất lượng nguồn nhân lực thấp và kết cấu hạ
tầng yếu vẫn là điểm nghẽn, là nút thắt đang cản trở quá trình CNH, HĐH đất nước.
Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư để thực hiện công nghiệp hoá có nơi còn dàn trải, thiếu
trọng tâm, manh mún, không khai thác được lợi thế kinh tế theo quy mô. Nhiều vùng
kinh tế trọng điểm, khu kinh tế do quy hoạch không hợp lý hoặc duy ý chí nên không
phát huy được tiềm năng, thế mạnh của vùng. Điều đáng nói, đến nay chúng ta vẫn
chưa tìm được hướng đi và mô hình phát triển phù hợp để có thể tránh được bẫy thu
nhập trung bình mà kinh nghiệm của nhiều nước đi trước đang gặp phải.

10
III. NỘI DUNG

1. Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại
hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.

2. Lịch sử của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam được bắt đầu từ thời Pháp thuộc, tuy nhiên
quá trình này còn tiến triển chậm. Vì nền công nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé và chưa
được hoàn chỉnh. Các cơ sở sản xuất lớn đều là của tư bản Pháp, còn công nghiệp bản
địa chỉ là những doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng
và các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Công nghiệp từ thời Pháp thuộc đã
có môt số sản phẩm và kỹ thuật mới như điện, xi măng, diêm, bia, xà phòng, thuốc lá,
thủy tinh, ô tô, xe đạp, tàu điện, tàu hỏa, các sản phẩm cơ khí,... Một vài sản phẩm
quen thuộc được sản xuất theo quy trình mới như nước máy, giấy, vải, thuốc lá,... Lúc
này, nhờ có sự giao thương mà lần đầu tiên Việt Nam biêts đến các sản phẩm của
phương Tây như dầu hỏa và đèn dầu hỏa, thuốc lá điếu, sữa bò, kính mát, ô che mưa
nắng, giày dép,... đã làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng của người dân. Công nghiệp đã
góp phần mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, một số ngành nghề trong nước
có khả năng phát triển ra quốc tế như cà phê, lúa gạo,...

Công nghiệp thời Pháp thuộc sử dụng nhân công với giá rẻ nên dù tỷ suất lợi nhuận
có cao nhưng sản lượng lại thấp. Nền kinh tế Việt Nam lúc này vẫn phụ thuộc chủ yếu

11
vào nông nghiệp với phương thức sản xuất không hề có sự thay đổi hay cải tiến qua
hàng ngàn năm. Quan hệ sản xuất tại nông thôn vẫn là quan hệ địa chủ - tá điền như
thời Trung cổ, còn ở thành thị chỉ mới xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Mức sống người
dân Việt Nam cũng vô cùng thấp, tình trạng nghèo đói bao phủ toàn đất nước.

Năm 1945, Việt Nam giành độc lập và rơi vào tình trạng toàn bộ nền kinh tế trong
đó có công nghiệp bị ngưng trệ. Năm 1947, khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, nền
công nghiệp lúc này phải chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Các ngành công
nghiệp khai khoáng, chế biến, công nghiệp nhẹ đều bị ngưng phát triển, suy thoái.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Hiệp định Geneve năm 1954 thì Việt
Nam bị chia thành 2 vùng. Tại miền Bắc, việc khôi phục nền kinh tế trở nên vô cùng
khó khăn do các chiến dịch ném bom của Mỹ. Tại miền Nam, dưới sự lãnh đạo của
Ngô Đình Diệm, chính quyền Việt Nam đã thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm nhằm
phát triển công nghiệp để giảm nhập khẩu, tăng xuất khẩu, tiết kiệm ngoại tệ.

Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, Việt Nam tiếp tục thực hiện công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa để trở thành một nước công nghiệp hoá. Vì Việt Nam sao chép
mô hình kinh tế kế hoạch của Liên Xô mà chưa hiểu rõ nên nền kinh tế bị rơi vào tinh
trạng trì trệ, khủng hoảng.

Giữa những năm 30, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục gặp khó khăn. Sự sụp đổ của
Liên Xô khiến Việt Nam phải thực hiện đổi mới để chuyển hướng sang nền kinh tế
kinh trưởng Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường xấu dụng chủ nghĩa xã hội
bằng cơ chế thị trưởng có sự điều tiết của nhà nước và đặt mục tiêu đến năm 2020 Việt
Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp.

Và đến 2016, sau 30 năm, Việt Nam đã được những kết quả khả quan, tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao Giai đoạn đầu Đổi Mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm đạt 4,4%/năm, giai đoạn 1991-1995 GDP binh quân tăng
8,2%/năm, giai đoạn 1996-2000 GDP bình quân tăng 7,6%/năm, giai đoạn 2001-2005
GDP tăng bình quân 7,34%/năm, giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới,
Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Giai đoạn 2011-
2015, GDP của Việt Nam tăng châm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu

12
vực và thế giới. Quy mô nên kinh tế tăng nhanh. GDP bình quân đầu người năm 1991
chỉ là 188USD/năm. Đến năm 2003, GDP bình quân đầu người đạt 471 USD/năm và
đến năm 2015, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, GDP đầu người đạt gần
2.200 USD/năm. Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lương Tỷ
lệ nghèo đói giảm từ 58% năm 1992 xuống còn 7,6% cuối năm 2013.

Có thể thấy cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam đang có những bước đầu chuyển dịch
theo hướng hiện đại, giảm khu vực nông nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ Tuy
nhiên Việt Nam vẫn chưa có một nền công nghiệp hoàn chỉnh.

3. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoa của Việt Nam hiện nay

*Về khoa học công nghệ

Nhờ có sự quan tâm và đầu tư của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã có một tiềm
lực về khoa học công nghệ ngày càng được tăng cường và phát triển. Chúng ta đã đào
tạo được hơn 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với 30 nghìn
người có trình độ trên đại học và hơn 2 triệu công nhân kỹ thật, trong đó có khoảng
hơn 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KHCN thuộc khu vực nhà
nước. Đây chính là nguồn lực quan trọng cho KHCN nhà nước. Không dùng lại ở đó.
đất nước ta còn đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KHCN với trên 1.100 tổ
chức nghiên cứu và phát triển, trong đó có gần 500 tổ chứ ngoài nước, 197 trường đại
học và cao đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. ra, với cơ sở hạ tầng, các trung
tâm nghiên cứu, thi nghiệm, trung tâm khoa học công nghệ,... cũng đều được nâng cấp.

Bên cạnh đó các cơ chế quản lý khoa học và công nghệ cũng đang từng bước được
đổi mới. Hệ thống quản lý nhà nước về KHCN được tổ chức từ trung ương đến địa
phương đã thúc đẩy phát triển KHCN, thực hiện được các mục tiêu phát triển của kinh
tế xã hội của ngành và địa phương đó. Các cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì
nhiệm vụ KHCN đang dần được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai. Hơn
thế, việc phân công trong việc quản lý nhà nước về KHCN đang dần được hoàn thiện
thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của những bộ máy đó.
Các hoạt động KHCN ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.

13
*Về cơ cấu kinh tế

Cơ cấu cá thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch khá rõ. Đầu tiên là trong cơ cấu
GDP, tỷ trọng khu vực Nhà nước giảm còn nhỏ hơn 1/3, khu vực tập thể còn rất thấp
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất cao, gần 20% còn khu vực kinh tế tư nhân
chiếm trên dưới 11%. Sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế theo hướng khai
thác các nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.

Cơ cấu vùng kinh tế đã được xây dựng theo hướng hợp lý là phát huy lợi thế tùng
vùng. Hiện cả nước có sáu vùng KT – XH và bốn vùng kinh tế trọng điểm.

Cơ cấu các ngành kinh tế cũng dịch chuyển theo hướng tích cực, tỷ lệ ngành nông
nghiệp trong GDP đã giảm và ngành công nghiệp và xây dựng tăng lên đáng kể. Các
ngành đều gắn liền với các yêu cầu về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khai khác giảm và
công nghiệp chế biến lại tăng lên. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ gắn với công nghiệp
hoá hiện đại hoá ngày một tăng, làm gia tăng mức sống của người dân Cơ cấu lao động
cũng đã có sự chuyển đổi tích cực. Tỷ trong lao động ngành nông nghiệp đã giảm
mạnh còn ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ lại tăng cao. Và tỷ lệ các lao động
qua đào tạo cũng được tăng lên.

* Bên cạnh những thành tại Việt Nam đã đạt được thì quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam cũng có nhiều vấn đề đáng chú ý.

Đầu tiên là nền kinh tế chưa phát triển bền vững. Cụ thể là tốc độ tăng trưởng kinh
tế còn thấp so với tiềm năng và các nước trong khi vực. Tăng trưởng chủ yếu theo
chiều rộng.

Hai là Việt Nam có nguy cơ bị tụt hậu so với các nước trong khu vực đang hiện
hữu Đến nay, thu nhập bình quân của Việt Nam vẫn còn thấp và đang có sự chênh lệch
khá với với các nước khác trong khu vực.

Ba là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã
chứng lại nhưng lại chưa có sự điều chỉnh cho phù hợp. Nếu như trong giai đoạn đầu
của quá trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ chuyển dịch khá, cơ cấu ngành

14
nông nghiệp trong GDP giảm mạnh, từ mức 38% năm 1986 xuống 27% năm 1995 và
19,3% năm 2005, thi từ năm 2006 đến nay, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP
giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành nông nghiệp vẫn chiếm hơn 18% GDP, cao
hơn đáng kể so với tỷ trong ngành nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh
(tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của In-đô-nê-xi-a
là 14,4%, của Ma-lai-xi-a là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%).

Bốn là sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn đang yếu. Các vùng
kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu hiện đại, chưa
có sự liên kết chặt chẽ để tạo ra các tác động lan toả cho nền kinh tế và mức độ tập
trung kinh tế vẫn còn thấp.

Năm là sức cạnh tranh nền kinh tế vẫn còn thấp, năng suất lao động có khoảng
cách lớn so với nhiều nước và còn chậm trong việc cải thiện.

Cuối cùng là mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước và các chuỗi giá
trị toàn cầu còn đang bị hạn chế. Dù Việt Nam đã thực hiện cải cách và mở cửa trong
gần 30 năm, xuất khẩu ngày càng được mở rộng nhưng mức độ tham gia của các
doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn nhiều hạn chế.

4. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá

Việt Nam đang chú trọng vào việc thu hút vốn đầu tư nước thông qua nhiều chính
sách ưu đãi về thuế và đất đai. Nhà nước ta coi vốn đầu tư nước ngoài là nguồn lực
quan trọng để Việt Nam công nghiệp hoả, hiện đại hoá. Tuy nhiên, việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài không hề tạo ra nền tảng công nghiệp quốc gia vì các công ty nước
ngoài vào Việt Namn chỉ để tận dụng chi phí nhân công và môi trường thấp của Việt
Nam. Và rất có thể sau khi đã khai thác được hết các nguồn lực tại Việt Nam thì các
công ty nước ngoài sẽ rút khỏi nước ta. Do đó mà nhà nước cần có một chính sách
quốc gia có thể đem lại lợi ích chung cho nước nhà và các vốn đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, việc tiếp thu các chính sách của nước ngoài đòi hỏi các lực lượng lao
động phải có chất lượng cao, điều này lại phụ thuộc vào chất lượng giáo dục của nước

15
ta Do vậy nhà nước cũng cần phải có các chính sách, kế hoạch đào toa để nâng cao
chất lượng giáo dục trong nước.

Ngoài ra, một nền công nghiệp trưởng thành phải có khả năng phát triển công nghệ
chứ không thể phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài. Điều này lại đòi hỏi những khả
năng nghiên cứu, sáng tạo phát triển các khoa học kĩ thuật công nghệ mới. Có thể thấy
ở mảng này Việt Nam đang dần hình thành, chẳng hạn như tập đoàn Vin Group cho ra
đời những sản phẩm công nghệ như Vinfast, Vinsmart dần được thịnh hành ở trong
nước và được đưa ra nước ngoài.

Quá trình công nghiệp hoá cũng đòi hỏi sự đầu tư khổng lồ của nhà nước và xã hội
để tạo ra cơ sở hạ tầng. Việt Nam cần có một lộ trinh và một chiến lược cụ thể để các
chính sách được thực hiện nhanh gọn và hiệu quả.

Khả năng tập trung các nguồn lực của nền kinh tế vào khu vực sản xuất công nghiệp
cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá. Việt Nam cần chú ý hấp
thụ hết lượng vốn đã nhận được, phân bổ nguồn lực hợp lý để gia tăng năng suất và
chất lượng lao động và đem lại hiệu quả cho nền kinh tế nước nhà.

Một thách thức khác mà Việt Nam đang phải đối mặt trong quá trình công nghiệp
hoá là quá trình này kết thúc quá sớm và chuyển sang phát triển dịch vụ do hàng công
nghiệp bản địa không cạnh tranh với hàng công nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó còn
các nguyên nhân khác như chi phí nhân công tăng khiến cho việc đầu tư giảm và hàng
nội địa lại khó cạnh tranh với hàng nước ngoài, chất lượng lao động lại không đáp ứng
được.

Tuy vậy, làm chủ công nghệ là một quá trình học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi chứ không
thể nóng vội được. Vì thế nên Việt Nam cần có cái nhìn xa hơn, rộng hơn, học hỏi và
áp dụng được các kinh nghiệm của các nước phát triển như Mĩ, Trung Quốc,... và tỉnh
táo trong việc hợp tác để đem lại lợi ích cho nước nhà.

5. Các giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

16
Trước hết, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng hiện đại, hợp lí và hiệu quả Đây là giá trị cốt lõi của việc chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế quốc dân. Ta phải xác định rõ ràng định hướng của việc chuyển dịch, các
đặc trung phát triển và vị trí của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế. Trên cơ sở đó
để xác định các chính sách phát triển. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng
phải đảm bảo được khả năng thích nghi với các sự biến đổi trên thị trưởng trong nước
và quốc tế

Tiếp theo ta nên đẩy mạnh hoạt động liên kết vùng kinh tế. Bởi lẽ vùng kinh tế được
xác định là một bộ phận lớn của lãnh thổ quốc gia với các hoạt động kinh tế xã hội tiêu
biểu. Để phát huy hiệu quả các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước,
đồng thời khắc phục những tồn tại và hạn chế khi triển khai liên kết vùng trong tái cơ
cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ta cần coi quá trình tái cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo vùng là một bộ phận hữu cơ của tái cơ cấu kinh
tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng quốc gia, thứ hai ta cần xây dựng cơ chế điều
phối và quản lý vùng để tạo cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, các chương
trình phát triển và đầu tư. Thứ ba cần cân nhắc để ban hành các chính sách cạnh tranh
cho hợp lí và có hiệu quả. Thủ tư các nhà chuyên gia, khoa học cần tiếp tục nghiên
cứu, đề ra các giải phát thúc đẩy phân vùng hợp lý, phù hợp với thực tiễn.

Tiếp theo ta cần phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, nâng cao năng lực sáng
tạo và chất lượng nguồn nhân lực vì đây là các yếu tố then chốt để tạo ra sự phát triển
đột phá. Việc chú trọng đào tạo các đội ngũ có tay nghề sẽ đáp ứng được các yêu cầu
hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay, thu hút được các chuyên
gia vào Việt Nam.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều này giúp tạo ra một khuôn khổ pháp luật cho việc đổi mới cơ chế phát triển khoa
học công nghệ, giáo dục – đào tạo, đẩy mạnh xã hội hoá, thu hút các nguồn lực xã hội.

Cuối cùng Việt Nam cần chú trọng đổi mới quản trị nhà nước, xây dựng chính phủ
điện tử, quản trị thông minh. Trong đổi mới quản trị nhà nước thì vấn đề trực tiếp nhất,
quan trọng nhất là đổi mới quản trị của chính phủ, xây dựng chính phủ điện tử, chính
phủ quản trị thông minh. Trong bối cảnh mới, công chức, viên chức phải làm chủ được

17
các công cụ, phương tiến hiện đại trong hoạt động quản lý, nhạy bén với cáci mới, ủng
hộ các mới và có ý tưởng đổi mới, sáng tạo để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
của mình.

IV. KẾT LUẬN

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển với nhiều thành tựu to lớn góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ
tăng trưởng khá tốt. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đó vẫn còn các hạn chế cần
được thay đổi và hoàn thiện. Và để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
ở nước ta trong điều kiện cuộc cách mạng công nghệ 4.0, Việt Nam nên có những giải
pháp đồng bộ, hợp lí, hiệu quả, quyết liệt thực hiện quá trình chuyển đổi mô hình kinh
tế, huy động các nguồn lực, hoàn thiện các thể chế về tài chính, chú trọng quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế, góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh trên các cấp độ quốc gia, địa
phương, ngành và sản phẩm, hình thành các chính sách phù hợp để thúc đẩy các yếu tố
tiền để của quá trình công nghiệp hoả hiện đại hoá đất nước.

18
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin

https://luathoangphi.vn/tinh-tat-yeu-cua-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-o-nuoc-ta/

https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/tinh-hinh-the-gioi-khu-vuc-co-hoi-va-thach-
thuc-doi-voi-viet-nam-126709

http://tapchimattran.vn/kinh-te/cach-mang-cong-nghiep-40-co-hoi-va-thach-thuc-cua-
giai-cap-cong-nhan-viet-nam-hien-nay-43711.html

https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_nghi%E1%BB%87p_h%C3%B3a_t
%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam

https://www.nxbctqg.org.vn/cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-nen-kinh-te-viet-nam-
trong-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.html

19

You might also like