Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

Thực tiễn công tác lãnh đạo của Đảng về bảo vệ chủ quyền, lợi ích

quốc gia trên Biển Đông theo nguyên tắc của luật pháp quốc tế: Giai đoạn
2013-2023

Việt Nam là quốc gia ven biển với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ
Bắc xuống Nam. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có
biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Đối với Việt
Nam, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong lịch sử, hiện tại và cả tương lai. Công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo
là nhiệm vụ quan trọng, chiến lược. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong
nước, khu vực, quốc tế và xu thế của thời đại trong giai đoạn 2013-2023, Đảng ta
đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề tranh
chấp trên biển, đảo hiện nay theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế từ trong
văn kiện Đảng đến thực tiễn.
1. Chủ trương sử dụng luật pháp quốc tế bảo vệ lợi ích Việt Nam trên
Biển Đông trong các văn kiện của Đảng
Với vị trí địa chiến lược trọng yếu của Biển Đông trong cấu trúc an ninh khu
vực và thế giới, Việt Nam cần sử dụng luật pháp quốc tế để bảo về chủ quyền,
quyền chủ quyền và các lợi ích trên biển của mình. Những nét chính trong chủ
trương đường lối của Đảng về luật pháp quốc tế trong giai đoạn 2013-2013 được
phản ánh thông qua văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội IX, XII và XII. Trong
đó, luật pháp quốc tế có thể được đề cập trực tiếp khi văn kiện nhắc đến “nghĩa vụ
quốc tế”, “luật pháp quốc tế”, “quy định của pháp luật quốc tế” hoặc gián tiếp như
“cam kết quốc tế.”
* Luật pháp quốc tế trong văn kiện Đại hội XI năm 20111
Trong lĩnh vực đối ngoại, vai trò của luật pháp quốc tế được đề cập đậm nét
trong văn kiện Đại hội XI: “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song

1
Trần Hữu Duy Minh, “Luật pháp quốc tế trong các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế, số 3 (126), tháng 09/2021, tr. 221-242.
phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc,” 2 và “Hợp tác bình đẳng,
cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.”3
Đặc biệt, các văn kiện lần đầu tiên nhắc đến việc giải quyết các vấn đề biên
giới, lãnh thổ và biển giữa Việt Nam và các nước với vai trò nền tảng của luật pháp
quốc tế: “Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh
giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.”4
So với các kỳ đại hội trước, vai trò của luật pháp quốc tế có sự phát triển
trong văn kiện Đại hội XI. Thứ nhất, đây lại là lần đầu tiên, văn kiện đại hội Đảng
đề cập đến “các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”, và “Hiến chương Liên
Hợp Quốc”, và là lần thứ hai, “luật pháp quốc tế” được nhắc đến trực tiếp trong
văn kiện đại hội Đảng. Lần trước là trong văn kiện Đại hội VII. Thứ hai, đây là lần
đầu tiên văn kiện nhắc đến luật pháp quốc tế với tư cách cơ sở để giải quyết tranh
chấp biên giới, lãnh thổ và biển giữa Việt Nam với các nước. Văn kiện Đại hội XI
thể hiện nhận thức sâu sắc hơn của Đảng về vai trò quan trọng của luật pháp quốc
tế.
* Luật pháp quốc tế trong văn kiện Đại hội XII năm 20165
Trong văn kiện Đại hội XII, luật pháp quốc tế được đề cập nhiều trong lĩnh
vực đối ngoại. Báo cáo chính trị có nội dung quan trọng như sau: “Bảo đảm lợi ích

2
“Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện Đại hội XI của Đảng,” Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-xi/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-ve-cac-van-kien-dai-hoi-xi-cua-dang-
1529.
3
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),” Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-
uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-
sung-phat-trien-nam-2011-1528.
4
“Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng,” chú thích 27; “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 24/9/2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/
chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2011-2020-1527.
5
Trần Hữu Duy Minh, “Luật pháp quốc tế trong các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc
tế, số 3 (126), tháng 09/2021, tr. 221-242.
tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, bình đẳng và cùng có lợi.” 6 Quan điểm này hàm ý rằng các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế là khuôn khổ cho việc bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc.
Về việc giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ và biển tiếp tục được nhắc
lại: “Kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình
trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực,” 7 “Giải quyết
những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp
quốc tế,”8 và “Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải
quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và quy tắc ứng xử của khu
vực.” 9
* Luật pháp quốc tế trong văn kiện Đại hội XIII năm 202110
Điểm đặc biệt văn kiện Đại hội Đảng XIII năm 2021 là lần đầu tiên nhắc đến
yêu cầu phải đào tạo chuyên gia pháp lý trong lĩnh vực luật quốc tế: “Tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư
quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực
tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.” 11 Đồng
thời, “nghiên cứu giải pháp gia tăng sự hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt
Nam trong các thiết chế luật pháp quốc tế.”12
Nghị quyết Đại hội Đảng có đoạn quan trọng như sau: “Bảo đảm cao nhất
lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
6
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020. Đoạn tương tự cũng được nhắc lại trong “Báo cáo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng
7
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020
8
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng
9
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng
10
Trần Hữu Duy Minh, “Luật pháp quốc tế trong các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 3 (126), tháng 09/2021, tr. 221-242.
11
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng
12
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025
Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.” 13 Đây là lần đầu
tiên luật pháp quốc tế được đề cập đến trong một nghị quyết của đại hội Đảng.
Trước đó, tại Đại hội XI, quan điểm tương tự chỉ được nêu trong Báo cáo chính
trị mà không có trong Nghị quyết Đại hội XI. Điều đó cho thấy Đại hội XIII xem
trọng hơn vai trò của luật pháp quốc tế, xác định luật pháp quốc tế là một hệ quy
chiếu quan trọng, khung tham chiếu căn bản trong hoạch định chính sách đối ngoại
của Việt Nam nói chung và triển khai công tác đối ngoại nói riêng. Ngoài ra, quan
điểm trên hàm ý rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ theo đuổi việc mang
lại lợi ích cao nhất, nhiều nhất cho quốc gia – dân tộc trong khuôn khổ luật pháp
quốc tế.
Cũng trong lĩnh vực đối ngoại, lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng có nhận
định chung về luật pháp quốc tế: “Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn
cầu đang đứng trước những thách thức lớn.” 14 Nhận định này cho thấy Đảng ta đã
nhận thức được đây là thách thức lớn trong tình hình thế giới hiện nay, sẽ có tác
động lớn tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam những năm tới.
Điều đặc biệt đáng lưu ý ở văn kiện Đại hội XIII là đã nhắc đến việc vận
dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp biển đảo: “giải quyết các tranh
chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế,” 15 “tiếp tục thúc
đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ
sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm
1982,”16 và “theo dõi sát diễn biến tình hình Biển Đông, kiên trì, kiên quyết bảo vệ
các lợi ích chính đáng của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế.” 17 “Tiếp tục
đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu
13
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày
26/2/2021, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/nghi-
quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-3663. Quan điểm tương tự cũng có trong “Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
14
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng
15
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025
16
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025
17
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025
quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực
và quốc tế.” 18
So sánh với các kỳ đại hội trước, văn kiện Đại hội XIII thể hiện đậm nét
nhất vai trò của luật pháp quốc tế, với việc lần đầu tiên luật pháp quốc tế được ghi
nhận trong một nghị quyết đại hội Đảng.
Đại hội XIII có thể xem là kỳ đại hội mà vai trò của luật pháp quốc tế được
thể hiện rõ nét nhất trong văn kiện của Đảng: Thứ nhất, lần đầu tiên, luật pháp
quốc tế được đề cập trực tiếp đến trong Nghị quyết Đại hội Đảng. Với vai trò là
một trong những văn kiện có giá trị cao nhất trong hệ thống văn kiện Đảng, việc
được đề cập trong Nghị quyết đã cho thấy Đảng ta công nhận vai trò quan trọng
của luật pháp quốc tế. Hơn nữa, luật pháp quốc tế được đề cập đến trong lĩnh vực
đối ngoại nói chung chứ không bó hẹp trong một vấn đề hẹp: “Bảo đảm cao nhất
lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.” Luật pháp quốc
tế trở thành khung quy chiếu bắt buộc trong việc hoạch định và triển khai chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Thứ hai, nhận thức của Đảng về luật pháp quốc tế có
sự thay đổi về chất, từ việc nhấn mạnh đến thực thi và tuân thủ chuyển sang chủ
động vận dụng luật pháp quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam. Thứ ba,
với sự thay đổi về nhận thức, Đảng bắt đầu quan tâm hơn đến công tác đào tạo cán
bộ có chuyên môn sâu về luật pháp quốc tế, có đủ năng lực làm việc trong môi
trường quốc tế.
2. Sự lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo19
Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến
phức tạp, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, quân và dân
ta triển khai tích cực các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển. Đại hội XIII đã khẳng định, chúng ta đã: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ
18
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025
19
Đào Thị Hiền (2021), “Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình
mới”, Ban Tuyên giáo tỉnh Kom Tum, https://www.tuyengiaokontum.org.vn/ly-luan-chinh-tri/quan-diem-chu-
truong-cua-dang-ve-cong-tac-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-trong-tinh-hinh-moi-3769.html, truy cập ngày
01/10/2023.
quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia – dân tộc trên biển, trên không và trên bộ; hợp
tác quốc tế về biển, đảo được tăng cường, duy trì môi trường hòa bình, ổn định,
thúc đẩy quan hệ với các nước”. Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế
và lực của ta trên các vùng biển, đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” trên biển, đảo không ngừng được
củng cố, tăng cường. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được
xây dựng, phát triển ngày càng vững mạnh hơn. Trong đó, Hải quân nhân dân
Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên
biển. Hiện nay, Hải quân nhân dân Việt Nam đã có đủ các lực lượng cơ bản,
được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức
quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Trên mặt trận chính trị
- đối ngoại, chính sách của Việt Nam ở Biển Đông đã vận dụng thành công chủ
trương giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế.
Chúng ta đã giữ vững các đảo, điểm đóng quân, các bãi cạn không người...
Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông thời gian qua, Đảng và Nhà nước
ta đã thực hiện cơ bản chiến lược bảo đảm chủ quyền, an ninh; xử lý kịp thời các
tình huống trên biển, bảo đảm giữ vững được chủ quyền, mối quan hệ và môi
trường hòa bình trên biển.
Đảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các
lực lượng khai thác, phát triển kinh tế biển kết hợp chặt chẽ với bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, góp phần tạo môi trường hòa bình cho sự phát
triển bền vững đất nước. Sự lãnh đạo đó, được biểu hiện tập trung ở những vấn đề
cơ bản: Xác định đường lối, chủ trương, đổi mới phương thức lãnh đạo sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa; xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ, thực
thi pháp luật trên biển; xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá; phát triển khoa học, nghệ
thuật tác chiến biển, đảo; đảm bảo vũ khí, trang bị và tiến hành công tác đảng,
công tác chính trị trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, v.v.
Mỗi kỳ đại hội, Đảng ta đều đưa ra đường lối, chủ trương lãnh đạo đúng
đắn, bám sát thực tiễn, huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ
quốc. Trước yêu cầu mới của tình hình, nhiệm vụ, Đảng ta đã ra Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa X) về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030”; trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển,
làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên
biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm
cho đất nước giàu mạnh”. Đó là định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các
tổ chức, lực lượng trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình triển khai toàn diện,
đồng bộ, hiệu quả nhiệm vụ được phân công; gắn quy hoạch phát triển kinh tế
biển, đảo với xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh, bảo đảm xử lý kịp thời, hiệu
quả mọi tình huống trên biển, không để bị động, bất ngờ. Đặc biệt, trong bối cảnh
tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bất trắc, khó lường; nhất
là từ khi Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981
trong vùng biển Việt Nam (đến tháng 5-2014) thì sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển,
đảo, thềm lục địa của ta càng được tăng cường cả về phương châm chỉ đạo, tổ chức
lực lượng và biện pháp tiến hành. Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong giải
quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến vấn đề biển, đảo là bằng biện pháp
hòa bình, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế, nhất là
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên ở biển Đông (DOC) được ký giữa ASEAN và Trung Quốc, tiến tới Bộ Quy
tắc ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (COC) hiện đang xây dựng. Quan điểm đó là
sự kế thừa và phát triển tư tưởng, quan điểm: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Mệnh đề “dĩ bất biến” ở đây là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội – độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải luôn được đặt lên
hàng đầu. Đó là nguyên tắc chiến lược bất di bất dịch, dù trong hoàn cảnh, điều
kiện nào cũng phải giữ bằng được. Mệnh đề “ứng vạn biến” được hiểu là tùy tình
hình mà có đối sách xử lý phù hợp theo phương châm luôn tỉnh táo, bình tĩnh,
khôn khéo, không để bị cô lập, đối đầu hoặc bị kích động, xúi giục, xảy ra xung
đột vũ trang, chiến tranh. 20
20
Mai Quang Phấn (2015), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, http://tapchiqptd.vn/vi/van-de-chung/tang-cuong-su-lanh-
dao-cua-dang-doi-voi-su-nghiep-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-cua-to-quoc-tr/7123.html, truy cập ngày 01/10/2023.
Có thể thấy rằng, hệ thống quan điểm của Đảng ta về công tác đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Điều đó được
thể hiện rõ nhất qua các văn kiện của mỗi kỳ Đại hội Đảng. Gần đây nhất, Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ
bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng
đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên
biển hiện nay.
Thứ nhất là “thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng
của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Việt Nam là một quốc gia ven biển,
vùng biển của nước ta có diện tích gấp ba lần diện tích đất liền, chiếm gần 30%
diện tích biển Đông. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con
đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương; giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và
các nước trong khu vực. Vùng biển của chúng ta còn là vùng biển “giàu có” với
các tài nguyên, khoáng sản quan trọng như dầu khí, than, sắt, titan, muối.. và
hàng triệu tấn thủy sản. Chúng ta có đường bờ biển dài và đẹp, sinh vật biển
phong phú, đa dạng thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Đối với hoạt động an
ninh, quốc phòng, biển nước ta như mặt tiền, cửa ngõ quốc gia; biển làm tăng
chiều sâu phòng thủ hướng ra biển, củng cố tuyến phòng thủ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai là "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển đất nước". Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện
định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo
của Tổ quốc. Kiên quyết thể hiện quyết tâm dứt khoát, sự đồng thuận cao hơn
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về yêu cầu bảo vệ chủ quyền, lợi ích của
đất nước; kiên quyết giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, bảo vệ đến cùng
lợi ích quốc gia - dân tộc, với quyết tâm cao nhất. Chúng ta xác định, giải quyết
tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp
hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tôn
trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.
Thứ ba, Việt Nam “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp
tác cùng có lợi”. Với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước, chúng ta thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không
thụ động chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc
trở thành con bài trong tay các nước lớn. Bên cạnh đó, chúng ta thực hiện đối
ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định
cho phát triển.
Thứ tư, “Duy trì hòa bình, an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng không ở
Biển Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật
pháp quốc tế, công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982”. Lập trường của Việt
Nam về vấn đề Biển Đông là rõ ràng và nhất quán. Mọi hoạt động trên biển cần
được tiến hành trên cơ sở Công ước của LHQ về Luật Biển 1982, tôn trọng chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển tại các vùng
biển được xác lập phù hợp với Công ước. Khẳng định Việt Nam có đầy đủ cơ sở
pháp lý và bằng chứng lịch sử chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa,
cũng như các quyền hợp pháp khác trên các vùng biển của Việt Nam được xác
lập.
Thứ năm, “Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với
củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng
đặc biện khó khăn, biên giới, hải đảo”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác
định kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt
Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao. Chúng ta tập trung phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Tư tưởng này được hình thành dựa trên kinh nghiệm quốc tế, dự báo tình hình
trong nước và trên thế giới, thực tiễn Việt Nam và phù hợp với xu thế thời đại.
Các thành tựu ta đạt được trong thời gian qua đã cho thấy sự vận dụng đúng đắn
quan điểm, đường lối của Đảng trong phát triển bền vững kinh tế biển và bảo vệ
chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Tiếp nối truyền thống và trách nhiệm đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn được Đảng,
Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Mục tiêu mà Đảng ta luôn hướng tới trong giải
quyết các tranh chấp trên vùng biển, đảo là duy trì khu vực Biển Đông ổn định,
hòa bình, hợp tác và phát triển. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì
đấu tranh giải quyết các tranh chấp theo đúng đường lối, quan điểm, chính sách
của Đảng, Nhà nước dựa trên cơ sở phát huy nội lực và sức mạnh tổng hợp của
cả quốc gia. Việc nắm vững, tuyên truyền sâu rộng các quan điểm, đường lối của
Đảng đối với công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới là nhiệm
vụ của mỗi cán bộ, đảng viên.
3. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình mới21
“Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển.
Bờ biển ta dài và đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”, những lời căn dặn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh tuy ngắn, gọn, nhưng thể hiện sâu sắc tầm tư duy chiến lược, nhìn xa,
trông rộng của vị lãnh tụ thiên tài. Nó trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm
hành động không chỉ thôi thúc cả dân tộc quyết tâm đánh bại chủ nghĩa thực dân,
đế quốc xâm lược trong những năm tháng chiến tranh để giành và giữ vững độc
lập, bảo vệ bờ cõi, non sông, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn định hướng cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo,
thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong tình hình hiện nay. Bảo vệ vững chắc
21
Nguyễn Thanh Long (2021), “Một số giải pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, http://tapchiqptd.vn/vi/bien-dao-viet-nam/mot-so-giai-phap-bao-ve-chu-quyen-bien-dao-trong-tinh-
hinh-moi/17924.html, truy cập ngày 01/10/2023.
chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa là vấn đề chiến lược của đất nước; là nhiệm vụ
chính trị trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả
hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhất là bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, thềm lục địa đang đứng trước nhiều vấn đề mới, thách thức mới, tiềm ẩn
nhân tố mất ổn định rất khó lường. Tình hình tranh chấp trên biển, nhất là hoạt
động của nước lớn mở rộng các đảo đã chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa của
Việt Nam ngày một gia tăng, âm mưu độc chiếm Biển Đông vẫn hiện hữu, đe dọa
trực tiếp đến chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia. Nhiệm vụ phát triển kinh tế,
tăng cường quốc phòng – an ninh trên biển những năm qua tuy đã đạt được nhiều
kết quả khả quan, những cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Mật độ dân cư, ngư
dân trên biển, đảo và quần đảo còn mỏng, phương tiện, tàu thuyền công suất lớn
còn ít; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội các vùng ven biển, trên biển và trên các đảo
chưa hoàn thiện; khả năng bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển còn nhiều
hạn chế, v.v. Điều đó, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo
của Đảng mới đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Một là, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện,
có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia trong khu vực mạnh
về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Nghị
quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải
trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an
ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng,
an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”2. Để kinh tế phát triển
tương xứng với tiềm năng của biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo cần phải tổ chức lại hoạt
động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác xa
bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo
vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản và môi trường biển, nghiêm cấm các hoạt động khai
thác mang tính hủy diệt.
Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát
triển các ngành công nghiệp năng lượng, công nghiệp hàng hải, đóng tàu, nuôi
trồng, khai thác và chế biến hải sản chất lượng cao. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa,
xây dựng các trung tâm kinh tế ven biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát
triển đa dạng các ngành dịch vụ, xuất khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí, vận
tải biển, v.v. Phát triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dò,
khai thác, nuôi trồng thủy sản gắn với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng
quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Xây dựng các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án phát
triển kinh tế - xã hội trên biển, đảo; tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoạch định
cơ chế chính sách trong phòng, chống thiên tai, thảm họa, bảo vệ môi trường biển.
Hai là, xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi
mặt. Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các hoạt động
kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Dân quân tự
vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao là yêu cầu bức thiết hiện nay. Trong đó, Hải quân nhân dân Việt Nam là lực
lượng chuyên trách hoạt động trên biển, giữ vai trò quan trọng trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ các vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây
dựng theo hướng hiện đại hóa và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực
lượng thường xuyên tuần tra trên biển và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển
Việt Nam là lực lượng chuyên trách quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển,
cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị
hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Bộ đội Biên
phòng cần được đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cơ động, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và các
tệ nạn xã hội trên các vùng biển. Dân quân tự vệ biển được xây dựng theo phương
châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có tàu, thuyền, ngư dân hoạt động và dân cư
sinh sống trên đảo thì ở đó có dân quân tự vệ biển; lấy doanh nghiệp nhà nước, hợp
tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của từng địa phương,
bảo đảm thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực lượng hoạt động trên
biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức năng,
nhiệm vụ, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu thuyền nước
ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự và có vai trò quan trọng trong đấu
tranh bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Tổ quốc.
Ba là, kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện
pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Là thành viên của Liên hợp quốc, của
UNCLOS cũng như tuyên bố của các bên về cách ứng xử trên biển Đông (DOC),
Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải
quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau; thông qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ
bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế.
Theo tinh thần đó, những vấn đề còn đang bất đồng, tranh chấp song phương thì
giải quyết song phương; những vấn đề tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì giải
quyết đa phương và phải hết sức công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan.
Trong khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình,
cần kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên biển
với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm phạm”;
kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan kiềm chế,
không có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ
sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 05 nguyên tắc chung sống
hòa bình, tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an ninh biển,
nghiên cứu khoa học, chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh DOC,
hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đông thực sự là vùng biển
hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển không phải là
tranh chấp, hoàn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển,
Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của
UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng.
Bốn là, thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng. Đối ngoại quốc phòng
là vấn đề quan trọng diễn ra chủ yếu trong thời bình và cả khi có tình huống chiến
tranh, thực hiện tốt vấn đề này góp phần vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, hòa bình, ổn định trên Biển Đông, vừa duy trì sự ổn định chính trị -
xã hội trong nước và môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Thực hiện
tốt công tác đối ngoại quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, điều quan trọng
trước hết là hợp tác chặt chẽ trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt là giữa quốc phòng, an
ninh và đối ngoại. Các ngành chức năng, trọng tâm là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an
và Bộ Ngoại giao cần xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm là công
tác nghiên cứu cơ bản, phân tích dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu vực,
chiều hướng diễn biến của mối quan hệ quốc tế, về đối tác, đối tượng của cách
mạng. Từ đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối chiến lược và
các đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng
cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước, nhất là các nước trong
khu vực và các nước lớn trên thế giới để tăng sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hải
quân, Cảnh sát biển cần tăng cường giao lưu với các đối tác, tổ chức các hoạt động
phối hợp tuần tra chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên biển.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng
của Tổ quốc. Thực hiện tốt nội dung này, các đơn vị Hải quân, Cảnh sát biển, Biên
phòng đóng quân ở địa phương ven biển và các đảo cần kết hợp chặt chẽ với địa
phương và cơ quan Tuyên giáo xây dựng kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng báo cáo
viên, biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân
dân, nhất là cư dân sinh sống ở ven biển, trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, kiều
bào ta ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, công tác tuyên truyền về
chủ quyền biển, đảo cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa
phương và các phương tiện thông tin đại chúng, dưới sự chỉ đạo tập trung, thống
nhất của các cơ quan chức năng Trung ương. Đặc biệt, cần thông tin kịp thời, minh
bạch, chính xác để mọi người dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và
nhân dân thế giới hiểu cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và sự chiếm hữu thực tế của
Việt Nam trên các vùng biển, đảo ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của
Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây
dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo và các hoạt động kinh tế biển.
Cùng với công tác truyên truyền về biển, đảo, cần kết hợp với công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, làm cho ngư dân hiểu rõ các quy định trong luật biển Việt
Nam và pháp luật quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982,
làm cho ngư dân không chỉ chấp hành, mà còn kịp thời phát hiện các hành vi vi
phạm pháp luật của tàu, thuyền nước ngoài ở vùng biển Việt Nam. Cần sớm đưa
các nội dung về chủ quyền biên giới, lãnh thổ, biển, đảo vào chương trình giáo dục
phổ thông và đại học; phổ biến rộng rãi trong cộng đồng người Việt Nam và quốc
tế về chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên biển.

You might also like