Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 27

www.nghiencuubiendong.

vn

Bộ Ngoại giao Mỹ
Văn phòng đặc trách các vấn đề
Đại dương, Khoa học và Môi trường Quốc tế

Các Giới hạn trên Biển/


Limits in the Seas
Số 143
Trung Quốc:
Yêu sách Biển ở Biển Đông

1
www.nghiencuubiendong.vn

CÁC GIỚI HẠN TRÊN BIỂN


Số 143
TRUNG QUỐC
YÊU SÁCH BIỂN Ở BIỂN ĐÔNG
5/12/2014
Phòng các vấn đề Đại dương và Vùng cực
Văn phòng đặc trách các vấn đề Đại dương, Khoa học và Môi trường Quốc tế
Bộ Ngoại giao Mỹ

Báo cáo này nằm trong loạt báo cáo được ấn bản bởi Phòng các vấn đề Đại dương và
Vùng cực, Văn phòng đặc trách các vấn đề Đại dương, Khoa học và Môi trường Quốc tế,
Bộ Ngoại giao Mỹ. Mục tiêu của loạt báo cáo là nhằm xem xét các yêu sách và/hoặc biên
giới biển của một quốc gia ven biển và đánh giá mức độ phù hợp của các yêu sách/biên
giới này với luật pháp quốc tế. Báo cáo này thể hiện quan điểm của Chính phủ Mỹ đối
với các vấn đề được phân tích trong báo cáo. Báo cáo không phải là sự chấp nhận của
Chính phủ Mỹ đối với các ranh giới mà quốc gia yêu sách.
Báo cáo số 143 và các báo cáo tương tự trong loạt báo cáo này có thể tải về từ địa chỉ:
http://www.state.gov/e/oes/ocns/opa/c16065.htm. Các ý kiến bình luận và câu hỏi có thể
gửi về địa chỉ email: limitsintheseas@state.gov. Các nhà phân tích chịu trách nhiệm
chính trong việc soạn thảo báo cáo này là Kevin Baumert và Brian Melchior.

2
www.nghiencuubiendong.vn

Giới thiệu
Báo cáo phân tích các yêu sách của Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa trên Biển
Đông, cụ thể là yêu sách về “đường lưỡi bò” bao quanh các đảo và vùng biển tại Biển
Đông1.
Tháng 5/2009, Chính phủ Trung Quốc gửi hai công hàm lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc,
yêu cầu chuyển tới tất cả các nước thành viên2. Công hàm năm 2009 đưa ra phản đối của
Trung Quốc đối với đệ trình chung của Việt Nam và Malaysia và đệ trình riêng của Việt
Nam lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa, trong đó Trung Quốc tuyên bố rằng:
“Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và
các vùng biển liền kề, có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng
nước liên quan cũng như đáy biển và vùng đất dưới đáy biển (xem bản đồ đính
kèm). Lập trường này luôn được Chính phủ Trung Quốc duy trì, và được cộng
đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.”
Bản đồ được nhắc đến trong Công hàm của Trung Quốc (được mô phỏng như trong Bản
đồ 1 của bài này), thể hiện chín đường đứt khúc (đoạn) bao quanh các vùng nước, các
đảo và các thực thể khác tại Biển Đông. Việt Nam, Indonesia và Philippines sau đó đã
phản đối các nội dung trong Công hàm 2009 của Trung Quốc, trong đó các nước này
khẳng định rằng yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc là không có cơ sở dưới góc độ
luật pháp quốc tế.3 Năm 2011, Trung Quốc lại yêu cầu gửi một Công hàm khác tới các
nước thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó nhắc lại câu đầu tiên như trích dẫn ở trên, và
nói thêm rằng “chủ quyền và các quyền chủ quyền, quyền tài phán của Trung Quốc trên
Biển Đông dựa trên rất nhiều cơ sở lịch sử và pháp lý.”4
Trung Quốc chưa từng làm rõ cơ sở pháp lý cũng như bản chất yêu sách của mình liên
quan tới đường lưỡi bò, dù là qua hành động lập pháp, qua các tuyên bố hay phát biểu
chính thức. Do đó, báo cáo Các giới hạn trên Biển số 143 sẽ xem xét một số khả năng
diễn giải yêu sách đường lưỡi bò và mức độ phù hợp với luật biển quốc tế của các cách
giải thích này.

1
Yêu sách này được các nhà bình luận nhắc đến bằng nhiều tên gọi khác nhau, bao gồm "Đường chín đoạn”,
"Đường đứt đoạn”, "Đường lưỡi bò”, "Đường chữ U”. Trong bài này, nhóm dịch giả thống nhất sử dụng là "Đường
lưỡi bò".
2
Phái đoàn thường trực Trung Quốc, Công hàm CML/17/2009 and CML/18/2009, ngày 7/5/2009, có tại the UN
Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea (DOALOS) theo địa chỉ:
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf và
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/chn_2009re_vnm.pdf.
3
Có tại DOALOS theo địa chỉ:
http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm.
4
Phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, Công hàm CML/8/2011, ngày 14/4/2011 có tại DOALOS
theo địa chỉ: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2011_re_phl_e.pdf. Công
hàm này không kèm theo bản đồ đường lưỡi bò.

3
www.nghiencuubiendong.vn

Bản đồ 1: Bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc trong Công hàm năm 2009

4
www.nghiencuubiendong.vn

Các Bản đồ Đường lưỡi bò


Nguồn gốc và Sự phát triển
Mặc dù Trung Quốc chưa đưa ra một số liệu
chính thức nào, tuy nhiên giới học giả và các
nhà bình luận vẫn thừa nhận rộng rãi rằng
tấm bản đồ đường lưỡi bò đầu tiên được
công bố vào năm 1947 bởi Chính phủ Quốc
Dân Đảng, Trung Hoa Dân Quốc, trước thời
điểm nước CHND Trung Hoa được thành
lập.5 Tấm bản đồ đó thể hiện 11 đường đứt
đoạn, được mô phỏng lại trong Bản đồ 2 của
báo cáo này. Các tài liệu học thuật chỉ ra
rằng bản đồ 1947, được đặt tên là “Bản đồ
các Đảo trên Biển Đông”, có nguồn gốc từ
một phiên bản trước đó tên là “Bản đồ các
Đảo của Trung Quốc trên Biển Đông”
(Zhongguo nanhai daoyu tu) ấn hành bởi Ủy
ban Khảo sát các bản đồ Đất và Biển của
Trung Hoa Dân Quốc năm 1935, và các bản
đồ của Trung Quốc sau khi Nhà nước CHND
Trung Hoa thành lập năm 1949 cũng “có vẻ
dựa vào những tấm bản đồ cũ này.” 6 Tuy
nhiên, bản đồ được xuất bản bởi nhà nước
CHND Trung Hoa đã bỏ đi hai nét đứt trong bản gốc vốn được vẽ bên trong Vịnh Bắc
Bộ7. Mặc dù không thể hiện trong bản đồ năm 2009 (Bản đồ 1), tuy nhiên những bản đồ
gần đây của Trung Quốc, ít nhất là từ năm 1984, gồm cả các tấm bản đồ khổ dọc được
Trung Quốc xuất bản năm 2013 và 20148, có vẽ thêm một nét đứt thứ mười nằm ở phía
Đông Đài Loan.

5
Các tài liệu học thuật đưa ra thời gian ấn bản của bản đồ vào khoảng 1946-1948. Để đơn giản hóa, bài viết này gọi
đó là "bản đồ 1947”. Xem thêm, ví dụ, M. Sheng-Ti Gau, "The U-Shaped Line and a Categorization of the Ocean
Disputes in the South China Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 43:1, 57-69 tr. 58 (2012) (chỉ ra rằng bản đồ được "phát
hành lần đầu” bởi Nhà nước Trung Hoa Dân Quốc tháng 12/1946); K-H. Wang, "The ROC’s Maritime Claims and
Practices with Special Reference to the South China Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 41:237-252 at 243 (2010) (chỉ ra
rằng tấm bản đồ được "ra mắt”năm 1947); L. Jinming and L. Dexia, "The Dotted Line on the Chinese Map of the
South China Sea: A Note,” Ocean Dev’t & Int’l L., 34:287-95 at 290 (2003) (chỉ ra rằng tấm bản đồ được "in ấn”
năm 1947 và "phát hành” tháng 2 năm 1948).
6
Jinming and Dexia, chú thích 5, tr. 289-90 (2003). Xem thêm, N. Alfred Hu, "South China Sea: Troubled Waters or
a Sea of Opportunity?” Ocean Dev’t & Int’l L., 41:203-213 (2010).
7
Khu vực này cuối cùng được phân định một phần giữa Trung Quốc và Việt Nam. Hiệp định về Phân định lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa CHDCND Trung Hoa và CHXHCN Việt Nam, Bắc
Kinh, 25/12/2000, bắt đầu có hiệu lực từ 30/6/2004, Law of the Sea Bulletin Số 56, tr 137 (2004); V International
Maritime Boundaries 3745-3758 (2005).
8
Xem, ví dụ, "China’s New Weapon in the Battle for the South China Sea is … a Vertical Map,” Wall Street Journal,
ChinaRealTime blog, ngày 25/6/2014. Tấm "bản đồ chiều thẳng đứng” này được ấn bản lần đầu bởi Sinomaps năm
2013 và tái bản năm 2014 bởi Hunan Map Publishing House.

5
www.nghiencuubiendong.vn

Mô tả Địa lý9
Bản đồ đi kèm Công hàm năm 2009 của Trung Quốc gồm chín đoạn bao quanh các đảo,
vùng nước và các thực thể khác tại Biển Đông. Trung Quốc không công bố tọa độ địa lý
để xác định vị trí của các đoạn này. Do đó, tất cả các tính toán trong báo cáo này về các
đường lưỡi bò chỉ mang tính chất phỏng
đoán tương đối.10
Đường lưỡi bò trong bản đồ này bao quanh
khu vực biển rộng khoảng 2.000.000 km2,
tương đương khoảng 22% diện tích đất liền
của Trung Quốc. So với diện tích Biển
Đông, khu vực này chiếm một tỷ lệ rất
lớn. 11 Ngoại trừ Đài Loan và Đảo Pratas
(Trung Quốc gọi là Quần đảo Đông Sa),
tổng diện tích của các thực thể nằm bên
trong đường lưỡi bò là khoảng 13km2. 12
Phần diện tích đất này bao gồm ba nhóm
thực thể tại Biển Đông: (1) Quần đảo
Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Quần đảo
Tây Sa), (2) Quần đảo Trường Sa (Trung
Quốc gọi là Quần đảo Nam Sa), và (3) Bãi
cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là Bãi
Hoàng Nham). Trong số các đảo tại đây,
đảo lớn nhất là Đảo Phú Lâm (Woody
Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa, với diện
tích là 2,4 km2. Tương tự như vậy, đường
lưỡi bò cũng bao quanh rất nhiều các thực
thể chìm khác như Bãi Macclesfield (Trung
Quốc gọi là Quần đảo Trung Sa) và Bãi cạn James (Trung Quốc gọi là Bãi Tăng Mẫu).13

9
Các tính toán trong bài nghiên cứu này được thực hiện với phần mềm ESRI ArcMap 10. Các đoạn được sử dụng
cho các mô tả địa lý và các tính toán trong bài nghiên cứu này đã được số hóa từ các bản đồ có tỉ lệ 1:10.600.000
(2009) và 1:12.000.000 (tương đối) (1947) và sử dụng phép chiếu Mercator.
10
Các tính toán khác liên quan tới đường đứt đoạn trong bản đồ 1947 cũng chỉ là tương đối bởi CHND Trung Hoa
hay Trung Hoa Dân Quốc chưa công bố tọa độ của đường này.
11
Giới truyền thông cũng hay đề cập tới con số ước tính 80% hoặc lớn hơn. Con số chính xác phụ thuộc vào phạm
vi địa lý giả định của Biển Đông. Nếu sử dụng ranh giới được đưa ra bởi ấn bản S-23 Limits of the Oceans and Seas,
Tổ chức Thủy văn Quốc tế (IHO) (1953), thì vùng nước trong đường đứt đoạn có diện tích bằng 62% diện tích Biển
Đông. Xem trên website của IHO: http://www.iho.int/iho_pubs/IHO_Download.htm#S-23. Ấn bản S-23 mô tả các
ranh giới của Biển Đông là Eo biển Đài Loan, Vịnh Bắc Bộ, và khu vực đôi khi được gọi gọi là Biển Natuna.
12
Mục dành cho Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của CIA World Factbook, xem tại
https://www.cia.gov/library/publications/theworld-factbook/.
13
Bài nghiên cứu này hoàn toàn không có mục đích đưa ra quan điểm rõ ràng về những thực thể nào tại Biển Đông
là "đảo” theo như Điều 121 của UNCLOS hay những đảo này liệu có phải là "đá” theo Điều 121(3) hay không.

6
www.nghiencuubiendong.vn

Trong Bản đồ 3 của báo cáo này, để tiện cho việc mô tả, mỗi đoạn trong đường lưỡi bò
đều được đánh số bên cạnh. Cần phải lưu ý rằng Trung Quốc không đánh số cho các đoạn
này. Các đoạn này không được phân bố một cách đều đặn, và khoảng cách giữa chúng
nằm trong khoảng từ 106 hải lý (giữa đoạn 7 và đoạn 8) cho đến 274 hải lý (giữa đoạn 3
và đoạn 4). Các đoạn này được đặt ở vị trí tương đối gần với bờ biển lục địa và các đảo
ven bờ của các quốc gia ven biển tại Biển Đông. Đoạn 1 nằm cách bờ biển Việt Nam 50
hải lý và cách đảo ven bờ Lý Sơn của Việt Nam 36 hải lý. Đoạn 3 cách 75 hải lý so với
đảo gần nhất là Đảo Pulau Sekatung, Indonesia. Đoạn 4 cách 24 hải lý so với bờ biển của
Đảo Borneo, Malaysia. Đoạn 5 cách 35 hải lý so với đảo gần nhất là Đảo Balabac, nằm ở
phía Đông Nam của Philippines. Đoạn 9 cách 26 hải lý so với Đảo Y’Ami, đảo cực bắc
của Philippines thuộc Eo biển Luzon.

Như được thể hiện trong Bản đồ 4 của báo cáo, nhìn chung, các đoạn này nằm gần với bờ
biển các quốc gia láng giềng hơn là với các đảo gần nhất với chúng tại Biển Đông. Nói
cách khác, khoảng cách giữa các đoạn này tới các đảo gần nhất tại Biển Đông nhìn chung
là dài hơn so với khoảng cách giữa chúng với bờ biển lân cận của các quốc gia láng
giềng. Về khoảng cách của các đoạn đến những đảo gần nhất, các đoạn này cách đảo gần
nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa là 84 hải lý, (từ đoạn 1 tới Đảo Tri Tôn), cách đảo gần
nhất thuộc quần đảo Trường Sa khoảng hơn 46 hải lý (khoảng cách từ đoạn 5 tới Bãi
Trăng Khuyết), và cách Bãi cạn Scarborough gần 75 hải lý (đoạn 7). Một vài đoạn nằm
cách xa so với các đảo tại Biển Đông. Ví dụ, đoạn 3 cách đảo gần nhất là đảo Trường Sa
Lớn 235 hải lý. Đoạn 4 cách đá Hoa Lau 133 hải lý. Đoạn 8 cách đảo gần nhất nằm tại
Bãi cạn Scarborough 179 hải lý.

7
www.nghiencuubiendong.vn

8
www.nghiencuubiendong.vn

Việc mô tả địa lý đường lưỡi bò của Trung Quốc là công việc rất phức tạp bởi sự không
đồng nhất giữa bản đồ 2009 của Trung Quốc với các bản đồ khác của nước này, ví dụ
như bản đồ 1947. Các mô tả địa lý ở trên đúng với bản đồ 2009, tuy nhiên nó không đúng
với bản đồ 1947 hay thậm chí là các bản đồ của Trung Quốc bây giờ, bởi những bản đồ
này mô tả các đoạn theo kích cỡ và vị trí khác nhau. Bản đồ 5 trong bài nghiên cứu này
mô tả đường đứt đoạn từ cả hai bản đồ 2009 và 1947, và qua đó, ta thấy rằng khi so sánh
với các đoạn trong bản đồ 1947, các đoạn trong bản đồ 2009 nhìn chung là ngắn hơn và
có vị trí gần với bờ biển các quốc gia láng giềng hơn. Ví dụ đoạn 2 trong bản đồ 2009
gần bờ biển Việt Nam hơn 45 hải lý so với đoạn gần bờ biển Việt Nam nhất trong bản đồ
1947, và con số tương ứng này của đoạn 1 là 15 hải lý. Khoảng cách từ đoạn 4 tới bờ
biển của Malaysia cũng ngắn hơn (khoảng 8 hải lý), và tương tự như vậy, khoảng cách từ
đoạn 8 tới Đảo Luzon, khu vực phía bắc của Philippines, cũng ngắn hơn (khoảng 19 hải
lý). Ngoài ra, trong bản đồ 1947, khoảng cách từ đoạn 5 đến Đảo Pulau Sekatung của
Indonesia cũng ngắn hơn 15 hải lý so với khoảng cách này của đoạn 3 trong bản đồ 2009.
Mặc dù có độ uốn tương tự với đoạn 5 trong bản đồ 2009, nhưng đoạn 7 trong bản đồ
1947 dài hơn và gần hơn một chút với Đảo Palawan của Philippines, cũng như bờ biển
của Malaysia và Brunei trên Đảo Borneo. Khoảng cách giữa các đoạn trong bản đồ 1947
nhìn chung là ngắn hơn so với khoảng cách này trong bản đồ 2009, ngoại trừ trường hợp
giữa đoạn 8 và đoạn 9, với độ dài vào khoảng
290 hải lý. Còn lại, khoảng cách giữa mỗi
đoạn trong bản đồ 1947 nằm trong khoảng từ
31 hải lý (giữa đoạn 10 và đoạn 11) đến 225
hải lý (giữa đoạn 4 và đoạn 5).
Liên quan đến kỹ thuật vẽ bản đồ, bản đồ
đường lưỡi bò được Trung Quốc đưa ra trước
cộng đồng quốc tế vào năm 2009 cũng không
nhất quán với các bản đồ khác mà Trung
Quốc công bố. Vị trí địa lý của các đoạn
trong bản đồ 2009 không giống với các đoạn
trong các bản đồ năm 2013-2014 được
Sinomaps ấn hành và các bản đồ khác do cơ
quan tiền thân của đơn vị này - Nhà xuất bản
Bản đồ (Ditu Chubanshe) - xuất bản ít nhất
từ năm 1984. Bản đồ 6 trong bài nghiên cứu
này mô tả sự khác biệt đối với trường hợp đoạn 4.

9
www.nghiencuubiendong.vn

Căn cứ cho các phân tích


Theo luật quốc tế, khung pháp lý áp dụng cho các yêu sách vùng biển là luật quốc tế về
biển - được phản ánh trong Công ước 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển
(UNCLOS).14
Các vùng biển
Luật biển quốc tế - như được phản ánh trong UNCLOS - bao gồm các quy định về các
vùng biển mà quốc gia ven biển được hưởng.
Phần II của UNCLOS đưa ra các nguyên tắc về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải.
Đường cơ sở thông thường - được quy định trong Điều 5 Công ước - là ngấn nước thủy
triều thấp nhất chạy dọc quanh bờ biển. UNCLOS cũng cho phép sử dụng phương pháp
đường cơ sở thẳng ở "những khu vực mà bờ biển cắt sâu, lồi lõm hoặc ở những nơi có
chuỗi đảo nằm sát ngay, chạy dọc ven bờ" (Điều 7). Vùng nước bên trong đường cơ sở là
nội thủy (Điều 9). Phần IV của UNCLOS bao gồm các nguyên tắc liên quan đến đường
cơ sở quần đảo của các quốc gia quần đảo, ví dụ như Indonesia và Philippines.15
Phần II của UNCLOS cũng đưa ra các quy định về lãnh hải, được mở rộng đến 12 hải lý
(tính từ đường cơ sở), nơi mà quốc gia ven biển thực thi chủ quyền trên cơ sở tôn trọng
quyền qua lại vô hại và các quy định khác của luật quốc tế. Ngoài ra, Phần II cũng quy
định về vùng tiếp giáp lãnh hải, nằm bên ngoài lãnh hải, kéo dài tối đa đến 24 hải lý tính
từ đường cơ sở. Vùng tiếp giáp lãnh hải là nơi mà quốc gia ven biển có quyền thực thi
các biện pháp kiểm soát cần thiết nhằm ngăn chặn và xử phạt các hành vi vi phạm pháp
luật về hải quan, tài khoán, nhập cư và vệ sinh dịch tễ xảy ra trong lãnh thổ hoặc lãnh hải
của nước mình.
Phần V của UNCLOS bao gồm các quy định liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)
- khu vực có thể mở rộng tối đa 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Bên trong vùng EEZ, các
quốc gia có quyền thực thi một loạt quyền, đáng chú ý là "các quyền chủ quyền liên quan
đến việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên " và "quyền tài
phán như được quy định" trong UNCLOS liên quan đến "việc thiết lập và sử dụng các
đảo nhân tạo, các công trình và thiết bị" cũng như như "hoạt động nghiên cứu khoa học
biển" và "hoạt động bảo vệ, bảo tồn môi trường biển" (Điều 56). Trong khi đó, quyền tự
do hàng hải, tự do hàng không, tự do lắp đặt và duy trì các tuyến cáp ngầm và các biện

14
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Vịnh Montego, mở ký từ ngày 10/12/ 1982, có hiện lực từ ngày
16/11/1994, 1833 UNTS 397, xem tại trang web của Ủy ban các vấn đề đại dương và Luật Biển:
http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm. Trung Quốc đã phên chuẩn
UNCLOS ngày 7/6/1996. Mỹ quan điểm các điều khoản chủ yếu của UNCLOS, được chú thích trong nghiên cứu
này, phản ánh luật tập quán quốc tế, cũng như thực tiễn tòa án và trọng tài trên thế giới. Xem thêm, J.A. Roach,
"Today’s Customary International Law of the Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 45: 239-252 (2014).
15
"Quốc gia quần đảo" là quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo hoặc có thể bao gồm một
số hòn đảo khác nữa." UNCLOS, xem chú thích số 14, điều 46(a). Do đó quốc gia quần đảo không bao gồm các
quốc gia lục địa như Mỹ và Trung Quốc.

10
www.nghiencuubiendong.vn

pháp khác để thực thi những quyền tự do nói trên vẫn được duy trì trong vùng EEZ (Điều
58).
Phần VIII của UNCLOS định nghĩa một hòn đảo là "một vùng đất được hình thành tự
nhiên, có nước bao bọc, luôn nổi trên mặt nước khi thủy triều lên" (Điều 121(1)). Điều
khoản này quy định các đảo cũng có đầy đủ các vùng biển như đất liền, ngoại trừ "các đá
không thích hợp cho con người sinh sống hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không
có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa" (Điều 121(3)).
Những thực thể chìm, không nổi trên mặt nước khi nước thủy triều lên thì không phải là
"đảo" và do đó không thể có các vùng biển.16 Những thực thể này là một phần của đáy
biển và vùng đất dưới đáy biển và được hưởng quy chế tương ứng với vùng biển mà ở đó
các thực thể này tồn tại. UNCLOS cũng chỉ rõ rằng "các đảo nhân tạo, các thiết bị và
công trình không được hưởng quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự
hiện diện của các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển không có tác động gì đến
việc hoạch định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa" (Điều 60(8)). Các
đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển cũng bị điều chỉnh bởi quy chế của vùng
biển nơi mà các công trình đó được xây dựng.
Ranh giới trên biển
Các vấn đề về phân định biển sẽ phát sinh khi có sự chồng lấn vùng biển giữa hai nước
láng giềng. Điều 15, 74 và 83 của UNCLOS là các điều khoản quy định về phân định
biển giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện. Điều 15 về phân định lãnh hải
quy định "trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại", không quốc gia nào có quyền "mở rộng
lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất
của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia". Tuy nhiên điều
khoản này "không áp dụng trong trường hợp cần phân định lãnh hải theo phương thức
khác do sự tồn tại những danh nghĩa lịch sử hoặc hoàn cảnh đặc biệt."
Đối với việc hoạc định vùng EEZ và thềm lục địa, Điều 74 và 83 quy định việc hoạch
định "được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với luật pháp quốc tế, như đã
nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế, để đi đến một giải pháp công bằng." Trong
những năm gần đây các tòa quốc tế và tòa trọng tài thường phân định vùng EEZ và thềm
lục địa bằng một đường cách đều tạm thời, sau đó nếu cần thiết sẽ điểu chỉnh đường này
tùy theo cấu tạo bờ biển và các thực thể, bao gồm đá và các đảo nhỏ khác.17
Vịnh "lịch sử" và Danh nghĩa "lịch sử"
Có hai điều khoản trong UNCLOS nhắc đến vịnh "lịch sử" và danh nghĩa "lịch sử". Thứ
nhất là Điều 10 ("Vịnh") ghi nhận rằng các quy định đối với vịnh pháp lý sẽ không áp
dụng với "các vịnh được gọi là vịnh lịch sử". Những quy định này về cơ bản giống với

16
Tuy nhiên, Điều 13 UNCLOS quy định: "khi toàn bộ hoặc một phần bãi cạn đó ở cách lục địa hoặc một đảo một
khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên bãi cạn này có thể được
dung làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải". "Bãi cạn lúc nổi lúc chìm" được định nghĩa là "những vùng
đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều cao thì ngập nước."
17
Xem, ví dụ, Territorial and Maritime Dispute (Nicaragua v. Colombia), Phán quyết của Tòa ICJ ngày 19/11/2012.

11
www.nghiencuubiendong.vn

các quy định được ghi nhận trong Điều 7 và 12 của Công ước 1958 về Lãnh hải và Vùng
tiếp giáp lãnh hải.18
Nghĩa vụ chứng minh sự tồn tại của một vịnh lịch sử hoăc danh nghĩa lịch sử thuộc về
phía quốc gia yêu sách. Mỹ cho rằng, để chứng minh được sự tồn tại của một vịnh lịch sử
hoặc danh nghĩa lịch sử, một quốc gia phải chứng minh được (1) việc thực thi chủ quyền
một cách hiệu quả, rõ ràng và minh bạch đối với vùng nước đấy; (2) việc thực thi chủ
quyền diễn ra liên tục; và (3) các nước khác chấp nhận sự thực thi chủ quyền đó.19 Những
điều kiện này phù hợp với quan điểm của các cơ quan tài phán quốc tế có uy tín như Tòa
án Công lý Quốc tế và nghiên cứu năm 1962 về "Quy chế pháp lý của Vùng nước lịch sử,
bao gồm Vịnh lịch sử" được thực hiện theo yêu cầu của Hội nghị Luật biển lần thứ 2,
thông qua Công ước Geneva 1958 về Luật Biển.20 Các án lệ quốc tế liên quan đến các
yêu sách lịch sử cho đến nay chỉ giới hạn trong (1) các tranh chấp liên quan đến ranh giới
trên biển và chủ quyền đối với các đảo21 và (2) các tranh chấp khác liên quan đến vùng
nước ven bờ mà theo như luật biển hiện tại, có thể được giới hạn bởi đường cơ sở
thẳng.22
Điều 10 và 15 bị giới hạn nghiêm ngặt về mặt địa lý và về nội dung. Các điều khoản này
chỉ được áp dụng đối với các vịnh và các hình thái đường bờ biển ven bờ, không áp dụng
cho vùng EEZ, thềm lục địa hay biển cả. Trước khi có sự phân chia các vùng biển như
ngày nay, quy chế biển cả được áp dụng cho khu vực rất gần với ngấn nước thủy triều
thấp nhất chạy dọc theo bờ biển. Do đó, với mong muốn tăng cường bảo vệ lợi ích quốc
gia của các quốc gia ven biển, yêu sách "vùng nước lịch sử"23 và các yêu sách khác của
quốc gia ven biển đã được hình thành, bao trùm lên quy chế vùng biển cả cổ điển. Các
giới hạn địa lý và chế độ vùng biển được quy định trong UNCLOS đã đáp ứng được
những mong muốn kể trên, đặt ra khuôn khổ pháp lý điều chỉnh tất cả các vùng biển và
không cho phép bất cứ bảo lưu nào (Điều 309).

Phân tích
18
Công ước Geneva về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải, 29/4/1958, có hiệu lực từ ngày 10/9/1964, 516 UNTS
205, xem tại: https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/Volume%20516/v516.pdf.
19
Xem, ví dụ, Limits in the Seas No: 112: "United States Responses to Excessive National Maritime Claims,” Bộ
Ngoại giao Mỹ, 9/3/1992; Memorandum from Bernard H. Oxman, Tư vấn viên về các vấn đề pháp lý liên quan đến
đại dương (17/9/1973), được chú thích lại trong Digest of U.S. Practice in International Law 1973, tr. 244 (A.W.
Rovine ed.).
20
Fisheries Case (U.K. v. Norway), 1951 I.C.J. 116 (Dec. 18), p. 130, 133, 138, 142; Land, Island and Maritime
Frontier Dispute (El Salvador/Honduras), 1992 I.C.J. 350 (Sept. 11), paras. 384, 394; Int’l Law Comm’n, Juridical
Régime of Historic Waters, Including Historic Bays, [1962] 2 Y.B. Int’l L. Comm’n 1, U.N. Doc. A/CN.4/143
[hereinafter UN Study]. Xem thêm án lệ của Tòa án tối cao Mỹ, ví dụ, United States v. Louisiana, 394
U.S. 11, 23 (1969), và United States v. California, 381 U.S. 139, 172 (1965).
21
Xem, ví dụ, El Salvador/Honduras, chú thích số 20; Continental Shelf (Tunisia/Libya), 1982 I.C.J. 18 (ngày 24/2);
Eritrea/Yemen, Award in the First Stage of the Proceedings, (Perm. Ct. Arb. Oct. 9, 1998) and Award in the Second
Stage of the Proceedings, paras. 103, 107 (Perm. Ct. Arb. Dec. 17, 1999), http://www.pca-
cpa.org/showpage.asp?pag_id=1160.
22
Fisheries Case, chú thích số 20.
23
" 'Vùng nước lịch sử’ thường được hiểu là vùng nước được hưởng quy chế như nội thủy mà lẽ ra, nếu không nhờ
có sự tồn tại của một danh nghĩa lịch sử, sẽ không có những tính chất đấy." Fisheries Case, chú thích số 20, tr.130.

12
www.nghiencuubiendong.vn

Các yêu sách mà Trung Quốc có thể đưa ra dựa trên bản đồ đường lưỡi bò có thể phân ra
thành hai nhóm: yêu sách lãnh thổ và yêu sách vùng biển. Về yêu sách lãnh thổ, quan
điểm của Trung Quốc đã rõ ràng: nước này thể hiện ý định yêu sách chủ quyền đối với tất
cả các đảo nằm bên trong đường lưỡi bò. Công hàm năm 2009 của Trung Quốc nêu rõ
"Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông." Tuy bị
phản đối bởi các quốc gia láng giềng cũng có yêu sách chủ quyền đối với các đảo này, lời
tuyên bố này nhất quán với các tuyên bố chính thức trước đấy của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, ít nhất là kể từ khi ban hành Luật Lãnh hải năm 1992.24 Do đó, rõ ràng là
Trung Quốc định dùng bản đồ đường lưỡi bò để chỉ các đảo ở Biển Đông mà nước này
yêu sách chủ quyền lãnh thổ.25
Về yêu sách vùng biển, quan điểm của Trung Quốc là không rõ ràng. Vì vậy, báo cáo này
sẽ đánh giá ba khả năng diễn giải đường lưỡi bò và mức độ phù hợp với luật quốc tế của
các cách diễn giải này.26 Những cách giải thích này được đưa ra dựa trên việc tham khảo
các nguồn tài liệu chính thống, đặc biệt là các tuyên bố và hành động chính thức của
Trung Quốc.27
1. Đường lưỡi bò thể hiện yêu sách đối với các đảo
Thảo luận
Theo cách diễn giải này, đường lưỡi bò chỉ dùng để xác định các đảo mà Trung Quốc yêu
sách chủ quyền. Việc vẽ các đường thẳng lên bản đồ như một cách hiệu quả và thực tiễn
để xác định các nhóm đảo có yêu sách chủ quyền là điều rất bình thường. Nếu bản đồ
đường lưỡi bò chỉ miêu tả yêu sách đối với thực thể của Trung Quốc thì yêu sách vùng
biển của nước này, theo cách diễn giải trên, sẽ tuân theo các quy định của UNCLOS.
Tuyên bố của Trung Quốc trong Công hàm năm 2009 có thể được sử dụng để ủng hộ cho
cách hiểu này:
Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các
vùng nước liền kề, và có quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển
liên quan cũng như đáy biển và vùng đất dưới đáy biển đấy (xem bản đồ đính
kèm).

24
Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp ngày 25/2/1992, xem tại:
http://www.un.org/depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/CHN_1992_Law.pdf. Xem điều 2.
25
Nghiên cứu này không nhằm mục đích xem xét các yêu sách chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông của Trung
Quốc và các quốc gia khác. Mỹ đã nhiều lần tái khẳng định quan điểm không ủng hộ yêu sách chủ quyền với các
đảo của bất cứ bên nào trong tranh chấp Biển Đông. Xem, ví dụ, Tuyên bố của quyền phát ngôn viên Bộ Ngoại giao
Mỹ ngày 10/5/1995 ("Mỹ không có quan điểm ủng hộ bất cứ bên nào trong tranh chấp chủ quyền đối với các đảo,
đá, bãi đá san hô vòng và bãi cạn ở Biển Đông"). Quan điểm này tiếp tục được Mỹ duy trì và không điều gì viết ra
trong nghiên cứu này phản ánh quan điểm của chính phủ Mỹ ủng hộ bên nào trong tranh chấp chủ quyền của các
đảo ở Biển Đông. Chủ quyền của các đảo không phải là vấn đề được điều chỉnh bởi luật biển.
26
Như trên.
27
Khi tiếp cận quan điểm của chính phủ Trung Quốc về yêu sách vùng biển ở Biển Đông, nghiên cứu này tập trung
vào các quan điểm được được ra bởi chính phủ, không dựa trên các quan điểm hoặc nghiên cứu đến từ các nguồn
phi chính phủ, ví dụ như giới học thuật Trung Quốc hay học giả pháp lý.

13
www.nghiencuubiendong.vn

"Chủ quyền" đối với vùng biển "liền kề" của các đảo có thể được hiểu là vùng lãnh hải 12
hải lý, nơi mà theo luật quốc tế là khu vực mà quốc gia ven biển có "chủ quyền".28 Tương
tự như vậy, "quyền chủ quyền và quyền tài phán" có thể được hiểu là các quy chế pháp lý
về vùng EEZ và vùng thềm lục địa ghi nhận trong UNCLOS. UNCLOS cũng sử dụng
cùng thuật ngữ "quyền chủ quyền và quyền tài phán" để miêu tả quyền của quốc gia ven
biển trong các khu vực này.29 Ngoài ra, "vùng nước liên quan" và "đáy biển, vùng đất
dưới đáy biển" có thể được hiểu là cùng EEZ và thềm lục địa.
Những căn cứ ủng hộ cách giải thích này có thể được tìm thấy trong nội luật và các tuyên
bố của Trung Quốc. Điều 2 của Luật Lãnh hải 1992 tuyên bố một vùng lãnh hải 12 hải lý
bao quanh "nhóm đảo Đông Sa [Pratas], Tây Sa [Paracel], và Nam Sa [Spratly] và các
đảo khác thuộc chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa".30 Tuyên bố Lãnh hải
năm 1958 của Trung Quốc cũng yêu sách tương tự.31 Đối với vùng nước "liên quan" bên
ngoài lãnh hải, Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa năm 1998 quy định vùng
EEZ 200 hải lý và quy định các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc
trong vùng thềm lục địa.32 Trên thực tế, Công hàm năm 2011 của Trung Quốc đã làm rõ
quan điểm của nước này rằng "Quần đảo Trường Sa của Trung Quốc có đầy đủ các vùng
lãnh hải, EEZ và thềm lục địa" mà không đề cập đến các yêu sách vùng biển khác.33
Các bằng chứng dựa trên bản đồ và các phát biểu chính thức cũng ủng hộ cho cách giải
thích rằng đường lưỡi bò chỉ giới hạn các đảo mà nước này yêu sách chủ quyền, không
nhằm yêu sách vùng biển. Như đã nói ở trên, bản đồ đường lưỡi bò nguyên gốc hồi thập
niên 1930 - tấm bản đồ mà dựa vào đó các bản đồ đường lưỡi bò sau này được vẽ - có tên
gọi là "Bản đồ các đảo của Trung Quốc ở Biển Đông." Bản đồ này rõ ràng đã được sử
dụng trong nội bộ Đài Loan vào cuối thập niên 1940 khi mà luật quốc tế về các vùng biển
mà phần lớn các nước sử dụng chỉ quy định một vùng lãnh hải nhỏ hẹp. Thực vậy, Tuyên
bố lãnh hải năm 1958 của Trung Quốc viết:
Điều khoản này [về vùng lãnh hải 12 hải lý] áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc lục địa và các đảo ven bờ, cũng
như Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hổ và tất cả các đảo khác thuộc
chủ quyền của Trung Quốc mà bị ngăn cách với đất liền và các đảo ven bờ bởi
biển cả [in nghiêng được bổ sung để nhấn mạnh].34
Việc sử dụng "biển cả" - vùng biển không thuộc thẩm quyền của quốc gia nào - để ngăn
cách lục địa và các đảo ven bờ với "các đảo khác thuộc chủ quyền của Trung Quốc" cho

28
UNCLOS, chú thích số 14, Điều 2.
29
UNCLOS, chú thích số 14, Điều 56, 77, 79, 80 và 81
30
Luật lãnh hải, chú thích số 24.
31
Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, được in lại trong Limits in the Seas No. 43: "Straight Baselines: People’s
Republic of China,” Bộ Ngoại giao Mỹ, 1/7/1972.
32
Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa, thông qua ngày 26/6/1998, xem tại
http://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/chn_1998_eez_act.pdf. See Article 2.
33
Công hàm, chú thích 4.
34
Tuyên bố, xem chú thích 31, đoạn 1, tr.2.

14
www.nghiencuubiendong.vn

thấy vào năm 1958, Trung Quốc không có yêu sách đối với vùng toàn bộ vùng biển bên
trong đường lưỡi bò.
Đánh giá
Gác sang một bên các vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền đối với các thực thể và
các biên giới trên biển chưa được giải quyết, nếu như cách diễn giải như đã phân tích ở
trên về yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc là chính xác thì các yêu sách biển được
Trung Quốc đưa ra trong nội luật có thể được diễn giải là phù hợp với luật biển quốc tế
như sau:
1. Bờ biển từ lục địa và Đảo Hải Nam của Trung Quốc được phép có lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa bao gồm các khu vực
hướng ra phía ngoài Biển Đông35.
2. Các đảo khác, dựa trên định nghĩa Điều 121(1) UNCLOS mà Trung Quốc yêu
sách ở Biển Đông sẽ có thể có được các vùng biển như đã đề cập ở trên. Theo như
Điều 121(3) các đảo mà là ''đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hay cho
đời sống kinh tế riêng'' sẽ không được phép có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa36.
3. Các thực thể chìm, có thể kể tên như là các thực thể không nổi trên mặt nước
khi thủy triều cao thì không được phép yêu sách lãnh thổ và không có các vùng
biển của riêng nó37. Các thực thể này tuân theo quy chế của vùng biển mà nó cư
ngụ.
4. Các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình không có bất cứ vùng lãnh hải hay
các vùng biển khác38.
Đánh giá này có nhiều ý nghĩa pháp lý quan trọng
Thứ nhất, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo tại Biển Đông là có tranh
chấp.39
Thứ hai, Trung Quốc vẫn chưa làm rõ các yêu sách biển của mình đối với các thực thể ở
Biển Đông. Ví dụ, Trung Quốc vẫn chưa làm rõ các thực thể nào ở Biển Đông là ''đảo''
(hoặc là các thực thể chìm) và liệu có bất cứ ''đảo'' nào được xem là đảo đá, vốn không
được phép có vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa như được quy định ở đoạn 3
của Điều 121 UNCLOS. Liên quan đến Bãi Scarborough và các thực thể ở Trường Sa,

35
Các vùng biển này phải được vẽ từ đường cơ sở phù hợp với UNCLOS. Mỹ đã phản đối Trung Quốc sử dụng
đường cơ sở thẳng (bao gồm đại lục, đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa) là quá lớn và không phù hợp với Công
ước. J.A. Roach and R.W. Smith, Excessive Maritime Claims, 3rd ed. (Nijhoff, 2012), trang 98 và chú thích số 103.
Xem thêm, Limits in the Sea "Straight Baselines Claim: China,” Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 9/7/1996.
36
UNCLOS, như đã chú thích số 14, Điều 121. Liên quan đến quan điểm của Mỹ, xem chú thích số 13.
37
Xem chú thích số 16 đề cập đến việc đo các vùng biển từ ngấn thủy triều thấp nhất.
38
UNCLOS, chú thích số 14, Điều 60.
39
Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ. Xem chú thích số 25.

15
www.nghiencuubiendong.vn

các tranh chấp đang trong quá trình trọng tài giải quyết theo thủ tục trọng tài giữa
Philippines và Trung Quốc theo Phụ lục VII của UNCLOS.40
Thứ ba, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei đều có các vùng biển từ
đất liền hướng ra ngoài Biển Đông. Giả sử cho rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với
các đảo tại Biển Đông thì các các vùng biển tạo ra từ các đảo tại Biển Đông sẽ chồng lấn
với các vùng biển đối diện từ bờ biển của các quốc gia này.
2. Đường lưỡi bò là biên giới quốc gia
Phân tích
Theo như cách diễn giải này thì các đoạn nằm trên bản
đồ của Trung Quốc nhằm thể hiện biên giới quốc gia
giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng.
Như đã thể hiện ở bản đồ số 7 trong bài nghiên cứu
này, các bản đồ hiện đại của Trung Quốc sử dụng biểu
tượng biên giới để thể hiện đường lưỡi bò ở Biển Đông.
Trên thực tế các biểu tượng trên bản đồ của Trung
Quốc đối với biên giới đất liền cũng giống như biểu
tượng được sử dụng cho đường lưỡi bò và phần chữ
viết trong mục chú giải của các bản đồ đó được dịch là
''biên giới quốc gia'' hoặc là ''biên giới quốc tế''. Các
bản đồ này cũng sử dụng một biểu tượng biên giới khác
mà được dịch là biên giới quốc gia hay quốc tế ''không
xác định'' nhưng biểu tượng này không được sử dụng
để thể hiện cho đường lưỡi bò. Việc đặt đường lưỡi bò
nằm trong giữa đại dương có thể nhằm thể hiện biên
giới biển hoặc là giới hạn vùng biển.
Đánh giá
Điều 74 và 83 UNCLOS quy định việc hoạch định
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ''sẽ được thực
hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với luật
pháp quốc tế... để đi đến một giải pháp công bằng.''41 Do các ranh giới biển theo như luật
pháp quốc tế được hình thành thông qua thỏa thuận (hoặc là phán quyết của tòa án) giữa
các quốc gia láng giềng, một quốc gia không thể đơn phương thiết lập ranh giới trên biển
với một quốc gia khác. Giả sử là Trung Quốc có chủ quyền đối với các đảo đang có tranh
chấp, các ranh giới trên biển phân chia vùng chồng lấn sẽ cần phải được đàm phán giữa
Trung Quốc và các nước có bờ biển đối diện như Việt Nam, Philippines, Malaysia,

40
Xem, ví dụ như là, "Notification and Statement of Claim,” 22/1/2013, tại Bộ Ngoại giao Philippines truy cập tại
http://www.dfa.gov.ph/index.php/component/docman/doc_download/56-notification-and-
statement-of-claim-on-west-philippine-sea?Itemid=546. Tài liệu cũng có thể thể truy cập tại http://www.pca-
cpa.org/showproj.asp?pag_id=1529.
41
Nhấn mạnh. Xem thảo luận về cơ sở phân tích. Chú thích bên trên.

16
www.nghiencuubiendong.vn

Indonesia và Brunei. Các đoạn trong đường lưỡi bò cũng thiếu các chuẩn quan trọng khác
của ranh giới trên biển, ví dụ như việc phải công khai danh sách các tọa độ địa lý và
đường phân chia vùng biển của hai quốc gia phải là một đường liên tục không đứt gãy.
Ở mức độ mà đường lưỡi bò thể hiện quan điểm đơn phương của Trung Quốc về vị trí
ranh giới trên biển với các nước láng giềng, quan điểm đó sẽ trái ngược với thực tiễn
quốc gia và luật pháp quốc tế về ranh giới phân định biển. Đối với việc xác định vị trí của
các ranh giới phân định biển, các quốc gia và tòa án thường cho hiệu lực của các đảo xa
bờ biển từ đất liền giống như ở Biển Đông ít hiệu lực hơn so với bờ biển lục địa đối diện
vốn kéo dài và liên tục.42 (Bản đồ số 4 ở trên chỉ ra một số vị trí được lựa chọn trong các
đoạn tương đối gần với bờ biển của các quốc gia khác hơn là các đảo mà Trung Quốc yêu
sách ở Biển Đông.)
Nếu như đường lưỡi bò nhằm mục đích thể hiện yêu sách đơn phương về ranh giới biển,
cách diễn giải này cũng không giải quyết được câu hỏi liên quan về việc Trung Quốc
đang yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán nào bên trong đường lưỡi bò.
Đường lưỡi bò này, để phù hợp với luật quốc tế, không thể đại diện cho ranh giới lãnh hải
của Trung Quốc (và do đó, ranh giới chủ quyền của Trung Quốc) bởi các đoạn nằm ngoài
ranh giới tối đa 12 hải lý của lãnh hải tính từ các thực thể mà Trung Quốc yêu sách. Hơn
thế nữa, các đoạn số 2 và số 3 và số 8 không chỉ gần bờ biển của các quốc gia ven biển
khác mà toàn bộ hay một phần của các đoạn đó còn nằm ngoài phạm vi 200 hải lý của bất
kỳ thực thể nào mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông. Đường lưỡi bò do đó không thể
đại diện cho ranh giới vùng đặc quyền kinh tế Trung Quốc, mà theo Điều 57 của
UNCLOS quy định rằng chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế ''không thể được phép
vượt quá 200 hải lý'' tính từ đường cơ sở43.
3. Đường lưỡi bò là yêu sách lịch sử
Phân tích
Theo như cách diễn dịch này, đường lưỡi bò xuất hiện trên bản đồ của Trung Quốc nhằm
thể hiện yêu sách lịch sử. Một yêu sách lịch sử có thể là chủ quyền đối với vùng biển
(''vùng nước lịch sử'' hoặc là ''danh nghĩa lịch sử'') hoặc có thể là một nhóm các quyền
hạn chế hơn (''quyền lịch sử'') đối với vùng biển.
Một số tuyên bố và hành động của chính phủ Trung Quốc và đạo luật có thể được diễn
giải là nhằm cho yêu sách lịch sử này.44 Đáng chú ý là Luật Vùng đặc quyền kinh tế và

42
Xem, ví dụ như là, vụ Thềm lục địa (Libya/Malta), 1985 I.C.J.13, đoạn 73 (3/6) xem xét cả bối cảnh địa lý chung
mà các đảo của Malta là các thực thể tương đối nhỏ và sự chênh lệch lớn về chiều dài của các vùng biển tương ứng
của cả hai bên''). Xêm thêm vụ án Nicaragua v. Colombia, đã chú thích số 17. Về thảo luận thực tiễn quốc gia xem
V. Prescott and G. Triggs, "Islands and Rocks and their Role in Maritime Delimitation,” International Maritime
Boundaries, 3245-3280 (ASIL, 2005).
43
UNCLOS, chú thích số 14, Điều 76, đoạn 1, quy định rằng thềm lục địa có thể kéo dài bên ngoài 200 hải lý. Xem
xét địa lý của đáy biển ở Biển Đông và việc Trung Quốc không yêu sách thềm lục địa ngoài 200 hải lý ở Biển Đông,
nghiên cứu này đặt giả sử rằng Trung Quốc không cho rằng thềm lục địa có từ các đảo Trung Quốc yêu sách nằm
ngoài 200 hải lý.
44
Cho rằng bản đồ đường lưỡi bò có trước khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, quan điểm của Đài Loan cũng
đáng chú ý. Năm 1993, Đài Loan chính thức thông qua "Policy Guidelines for the South China Sea,” có quan điểm

17
www.nghiencuubiendong.vn

thềm lục địa của Trung Quốc năm 1998 đã quy định nhưng không giải thích rõ rằng ''các
điều khoản trong đạo luật này không ảnh hưởng đến quyền lịch sử của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa''.45 Công hàm năm 2011 của Trung Quốc nói rằng lập trường của Trung
Quốc về yêu sách ''chủ quyền và các quyền và quyền tài phán liên quan'' được ủng hộ với
"rất nhiều bằng chứng pháp lý và lịch sử". Mặc dù không phải là đại diện của chính phủ
Trung Quốc, một số cơ quan tổ chức và các nhà bình luận đã lập luận rằng bản đồ đường
lưỡi bò thể hiện danh nghĩa lịch sử hoặc là quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông.46
Hơn thế nữa, một số tuyên bố và hành động của Trung Quốc không phù hợp với
UNCLOS. Cho dù các tuyên bố và hành động đấy không đủ để khẳng định yêu sách lịch
sử, chúng cho thấy rằng Trung Quốc đang cân nhắc một lựa chọn thay thế khác - như là
danh nghĩa lịch sử hoặc là quyền lịch sử - đối với các yêu sách vùng biển ở Biển Đông.
Ví dụ, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố rằng Trung Quốc có "chủ quyền" với một số
khu vực hoặc thậm chí toàn bộ Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc
đã đề cập đến Bãi Scarborough là thuộc chủ quyền của Trung Quốc47 mặc dù vị trí của
Bãi Scarborough nằm ngoài giới hạn của bất cứ vùng lãnh hải nào Trung Quốc yêu sách.
Hơn thế nữa, một người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn tuyên bố rằng
''Tôi muốn khẳng định là Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với Biển
Đông và các đảo ở đây''48. Tương tự như vậy, các tàu hải quân của Trung Quốc được báo
cáo là đã thực hiện các hoạt động nghi lễ tuyên thệ theo định kỳ ở Bãi cạn James nhằm
thể hiện chủ quyền đối với bãi này. Mặc dù Bãi cạn James là một bãi chìm cách xa nhất
so với bất cứ đảo nào mà Trung Quốc yêu sách, Trung Quốc dường như muốn khẳng
định rằng thực thể này là ''cực nam lãnh thổ của mình''49. Không rõ liệu Trung Quốc sử
dụng cụm từ ''chủ quyền'' có theo đúng nghĩa đen của từ này không, nhưng nếu đúng là
như vậy thì cơ sở pháp lý của nó không thể dựa trên UNCLOS vì một quốc gia ven biển
có chủ quyền không được vượt quá giới hạn 12 hải lý của lãnh hải. Theo đó, có khả năng
Trung Quốc cho rằng cơ sở pháp lý cho yêu sách chủ quyền vùng biển của mình ở Biển
Đông là vùng nước lịch sử.

rằng các vùng nước bên trong đương lưỡi bò là ''giới hạn vùng nước lịch sử'' bên trong đó Đài Loan có toàn quyền
và lợi ích. Trích dẫn trong K-H. Wang, "The ROC’s Maritime Claims and Practices with Special Reference to the
South China Sea,” Ocean Dev’t & Int’l L., 41:237-252 (2010). Văn bản pháp lý sau đó của Đài Loan và các tuyên
bố công khai tuy nhiên, lại cho thấy rằng quan điểm này không phải là chính thức của Đài Loan. Xem Limits in the
Seas No. 127: "Taiwan’s Maritime Claims,” Bộ Ngoại giao Mỹ, 15/11/2005.
45
Đạo luật, chú thích số 32, Điều 14
46
Xem, Viện Biển Đông thuộc Đại học Hạ Môn, "New map boosts China’s claim in sea,” South China Sea Bulletin,
Vol. 2, No. 8, 1/8/2014, at 1-2; Z. Gao and B.B. Jia, "The Nine-Dash Line in the South China Sea: History, Status,
and Implications,” Am. J. Int’l L. 107:98-124, 124 (2013); và Keyuan, chú thích số 58 và 65.
47
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Tần Cương ngày 10/3/2014 tại
http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/xwfw_665399/s2510_665401/2511_665403/t1136288.shtml. "Tất cả thế giới
đều biết rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa và các vùng biển xung quanh, bao gồm Đá Nhân
Ái" (phần in nghiêng được thêm vào). Bãi Nhân Ái là tên tiếng Trung của Bãi Cỏ Mây.
48
"China warns on South China Sea oil,” Economic Times, Sept. 15, 2011. (phần in nghiêng được thêm vào)
49
"Chinese ships patrol southernmost territory,” Xinhua, Jan. 26, 2014. Xem thêm, B. Hayton, "How a non-existent
island became China's southernmost territory,” South China Morning Post, Feb. 9, 2013 và "Loss of James Shoal
could wipe out state’s EEZ,” Borneo Post, Feb. 5, 2014. Các nghi lễ này được tường thuật là bao gồm việc thả các
cột mốc bằng thép hoặc các hòn đá được chạm trổ bên cạnh mạn thuyền vào các bãi chìm. Như trên.

18
www.nghiencuubiendong.vn

Năm 2012, Tổng công ty Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã mời thầu các lô
dầu khí nằm đối diện với bờ biển miền trung của Việt Nam và cho là khu vực này nằm
trong ''vùng nước thuộc quyền tài phán của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa''50. Tuy nhiên,
như đã được thể hiện trên bản đồ số 8 của nghiên cứu này, theo như Điều 121 và các câu
hỏi về phân định biển, một số phần của những lô
này (BS16, DW04) nằm ngoài vùng nước 200 hải
lý của bất cứ các đảo nào mà Trung Quốc yêu
sách. Đây là yêu sách quyền tài phán vượt quá
quy định của UNCLOS.
Nội luật của Trung Quốc cũng cho thấy rằng
Trung Quốc yêu sách vùng biển không chỉ dựa
trên UNCLOS. Ví dụ, Luật về Bảo vệ Môi trường
Biển năm 1999 của Trung Quốc thể hiện phạm vi
áp dụng bao gồm ''các vùng nước nội thủy, lãnh
hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các
vùng biển khác thuộc quyền tài phán của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa''51. Do quyền tài phán
của các quốc gia ven biển quy định trong
UNCLOS chỉ giới hạn trong các vùng biển kể
trên, không rõ là khái niệm ''các vùng biển khác''
có phải là do Trung Quốc cố tình tạo và có thể ám
chỉ các vùng biển mà Trung Quốc cho rằng mình
có quyền lịch sử.
Đánh giá dưới đây sẽ xem xét liệu yêu sách vùng nước lịch sử hay quyền lịch sử đối với
các vùng nước nằm trong đường lưỡi bò của Trung Quốc có căn cứ trong luật quốc tế hay
không.
Đánh giá thứ nhất - Trung Quốc đã đưa ra yêu sách lịch sử chưa?
Như phần phân tích phía trên đã chỉ ra, xét về mặt tiêu chí, Trung Quốc chưa thực sự đưa
ra yêu sách rõ ràng về ''vùng nước lịch sử'' hay ''quyền lịch sử'' đối với các vùng nước của
Biển Đông nằm trong đường lưỡi bò.
Một quốc gia có yêu sách lịch sử phải thông báo cho cộng đồng quốc tế về yêu sách đó52.
Như đã được đưa ra trong nghiên cứu toàn diện gần đây về vùng nước lịch sử, ''thông báo

50
CNOOC, "Notification of Part of Open Blocks in Waters under Jurisdiction of the People’s Republic of China
Available for Foreign Cooperation in the Year of 2012,” tại: http://en.cnooc.com.cn/data/html/news/2012- 06-
22/english/322127.html. CNOOC là công ty quốc gia hoạt động trực tiếp quản lý của Hội đồng Nhân dân Trung
Quốc. Như trên.
51
Luật bảo vệ Môi trường biển năm 1999, Điều 2 và 39. Tương tự đề cập đến các vùng biển khác thuộc quyền tài
phán của Trung Quốc có thể được tìm thấy trong Luật về khảo sát và vẽ bản đồ của CHND Trung Hoa năm 2002
(Điều 2, 7, 32, 41, và 51) và Các quy định của CHND Trung Hoa về việc quản lý các nghiên cứu khoa học biển liên
quan đến yếu tố nước ngoài năm 1996. (Điều 2, 4, 9 và 10).
52
Xem, Nghiên cứu của Liên Hợp Quốc, chú thích số 20, đoạn 125-130 (kết luận rằng có lý do việc thông báo sự

19
www.nghiencuubiendong.vn

chính thức của yêu sách lịch sử là cần thiết để mà ít nhất các quốc gia khác có thể có cơ
hội phản đối bất kỳ sự ngầm công nhận nào đối với yêu sách.''53
Đối với Biển Đông, gần như không có văn bản pháp luật, tuyên bố hay các phát biểu
chính thức của Trung Quốc trước cộng đồng quốc tế về yêu sách lịch sử đối với các vùng
nước nằm trong đường lưỡi bò. Ngôn từ ''quyền lịch sử'' trong luật vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa năm 1998 của Trung Quốc, dưới góc độ thuật ngữ pháp lý, là một ''cụm
từ có tính cài cắm''; lời tuyên bố không tự đưa ra một yêu sách và nội luật cũng không đề
cập đến bản đồ đường lưỡi bò54. Mặc dù một số luật và quy định của Trung Quốc có đề
cập đến ''các vùng biển khác thuộc quyền tài phán của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa'',
nhưng không hề có bất cứ chỉ dẫn nào về mặt bản chất, cơ sở hay là vị trí địa lý của
quyền tài phán đó, và các luật đó cũng không đề cập đến "yêu sách lịch sử'' dưới bất cứ
hình thức nào. Mặc dù Công hàm năm 2011 của Trung Quốc tuyên bố rằng ''các bằng
chứng lịch sử và pháp lý'' củng cố cho ''yêu sách chủ quyền, các quyền liên quan và
quyền tài phán'' của Trung Quốc nhưng Công hàm năm 2011, cũng giống như Luật vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa năm 1998 của Trung Quốc, tự bản thân nó không phải
là một tuyên bố yêu sách. Hơn thế nữa, cụm từ ''bằng chứng lịch sử...'' có thể ám chỉ yêu
sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo, chứ không phải đối với các vùng biển.55
Việc Trung Quốc xuất bản bản đồ đường lưỡi bò năm 1947 không phải là thông báo
chính thức của một yêu sách biển. "Bản đồ các đảo ở Biển Đông" của Trung Quốc không
hề nhắc gì đến yêu sách vùng biển và việc xuất bản bản đồ trong nước bằng tiếng Trung
không đủ là một hành động thông báo cộng đồng quốc tế về một yêu sách kể cả nếu như
trước đó nước này đã từng khẳng định yêu sách56. Các bản đồ khác nhau do Trung Quốc
xuất bản cũng thiếu độ chính xác, rõ ràng và nhất quán trong việc truyền tải bản chất và
phạm vi của các yêu sách biển. ''Tuyên bố về nguyên tắc'' của Tòa án Công lý Quốc tế
(ICJ) trong vụ tranh chấp biên giới giữa Burkina Faso và Mali đã miêu tả sức nặng pháp
lý của bản đồ như sau:
Mặc dù là trong phân định biên giới hay là tranh chấp lãnh thổ quốc tế, bản đồ chỉ
mang tính thông tin và độ chính xác của nó thay đổi theo từng trường hợp; chỉ riêng
sự tồn tại của bản đồ thôi không thể cấu thành một danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ
dưới dạng là một tài liệu mà theo luật quốc tế có giá trị pháp lý để tạo ra chủ quyền

tồn tại của chủ quyền lãnh thổ là cần thiết....'' và đoạn 96.
53
C.R. Symmons, Historic Waters in the Law of the Sea: A Modern Re-Appraisal (Nijhoff, 2008), tr. 145. In
nghiêng trong bản gốc.
54
Đạo luật, chú thích số 32, Điều 14 "Các điều khoản của Đạo luật này sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lịch
sử...'' (phần in nghiêng được thêm vào)
55
Thực tế, bằng chứng lịch sử liên quan theo như luật quốc tế áp dụng cho các tranh chấp chủ quyền đối với lãnh
thổ đất liền và phần này của luật quốc tế tách rời và khác với với luật biển. Xem vụ Nicaragua v. Colombia, chú
thích số 17, đoạn 66-84 (áp dụng các khái niệm "thời điểm kết tinh tranh chấp" và "hành xử chủ quyền" đối với
tranh chấp chủ quyền đối với các đảo).
56
Xem thêm, E. Franckx and M. Benatar, "Dots and Lines in the South China Sea: Insights from the
Law of Map Evidence,” Asian J. of Int’l L., 2 (2012), 89-118 (cho rằng "bản đồ đường lưỡi bò bị nghi ngờ về giá trị
làm bằng chứng khi xét đến nhiều yếu tố trong án lệ quốc tế liên quan đến các bằng chứng bản đồ'').

20
www.nghiencuubiendong.vn

lãnh thổ. Tất nhiên, trong một số trường hợp bản đồ có thể có giá trị pháp lý nhưng
giá trị pháp lý đó không phát sinh đơn thuần từ bản chất nội tại của nó: phải là do bản
đồ nằm trong sự thể hiện hữu hình mong muốn của một hay các quốc gia liên quan.
Ví dụ như khi bản đồ được đính kèm với một văn bản chính thức mà nó là một phần
không thể tách rời. Ngoại trừ trong trường hợp rõ ràng này, bản đồ chỉ là bằng chứng
ngoại lai có độ đáng tin cậy tùy theo hoàn cảnh hoặc không đáng tin cậy, có thể được
sử dụng cùng với các bằng chứng khác cùng một bối cảnh để cấu thành nên hoặc tái
lập nên các dữ kiện thực tế.57
Tuyên bố về Lãnh hải năm 1958 của Trung Quốc cũng mâu thuẫn với quan điểm cho
rằng Trung Quốc đã yêu sách ''vùng nước lịch sử'' hay ''quyền lịch sử'' bên trong đường
lưỡi bò. Tuyên bố này đề cập đến ''biển cả'' chia tách Trung Quốc đại lục và các đảo ven
bờ với ''tất cả các đảo khác của Trung Quốc''. Khái niệm "biển cả" rất khác biệt về mặt
pháp lý so với các vùng biển mà các quốc gia được hưởng và không phải là đối tượng để
quốc gia chiếm hữu hay độc quyền sử dụng. Đây là một nguyên tắc pháp lý đã được xác
lập trong nhiều thế kỷ trước Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc. Hơn thế nữa, giả sử
Tuyên bố 1958 của Trung Quốc có cấu thành một yêu sách lịch sử đi nữa thì nó áp dụng
với một vùng nước khác - đó là Bố Hải, một vịnh phía đông bắc Trung Quốc58. Nếu
Trung Quốc thực sự cho rằng từ năm 1958 các vùng nước bên trong đường lưỡi bò đã
được công bố trên bản đồ là vùng nước lịch sử của Trung Quốc thì nhẽ ra họ phải nhắc
đến nó trong tuyên bố này cùng với yêu sách Bố Hải. Tuy nhiên, nội dung của Tuyên bố,
đặc biệt là việc đề cập đến cụm từ ''biển cả'' ám chỉ rằng Trung Quốc không xem các
vùng nước bên trong đường lưỡi bò là vùng nước lịch sử.
Khi đánh giá bản đồ đường lưỡi bò, phần lớn cộng đồng quốc có quan điểm giống với
nhận định trên. Thực tế là, một nghiên cứu toàn diện về vùng nước lịch sử được xuất bản
năm 2008 thậm chí còn không thảo luận về đường lưỡi bò của Trung Quốc59, cũng như
không được ghi nhận trong các tài liệu trích yếu của Mỹ về các yêu sách vùng nước lịch
sử được công bố rộng rãi60. Các phản đối quốc tế đối với đường lưỡi bò chỉ xuất hiện sau
khi Trung Quốc đưa ra yêu sách này vào năm 2009 trong Công hàm đã nói ở trên.61

57
Frontier Dispute (Burkina Faso/Republic of Mali), 1986 I.C.J. 554 (22/12), đoạn 54. Đánh giá gần đây nhất của
Tòa án về giá trị bằng chứng của bản đồ có trong vụ Nicaragua v. Colombia, chú thích số 17, đoạn từ 96-102.
58
Fu Chu, Concerning the Question of Our Country’s Territorial Sea (in Chinese), Peking, 1959, bản dịch được
cung cấp trong J.A. Cohen and H. Chiu, People’s China and International Law: A Documentary Study, Princeton
Univ. Xuất bản (1974), 470-79, 483-84 (cho rằng "nếu như các vịnh có lợi ích về quốc phòng và kinh tế đối với
quốc gia ven biển và trong một thời gian dài quốc gia ven biển đã liên tục thực hiện quyền tài phán đối với vịnh thì
có thể được xem là vịnh lịch sử... Vịnh Bố Hải là... vịnh lịch sử của Trung Quốc.) Keyuan xem các tài liệu của Fu
Chu là "một tài liệu giải thích chính thức được xuất bản ở Trung Quốc nhằm lý giải cho tuyên bố lãnh hải của Trung
Quốc''. Z. Keyuan, "Historic Rights in International Law and in China’s Practice,” Ocean Dev’t & Int’l L., 32:149-
168, tr. 156 (2001).
59
Chú thích số 53.
60
Xem thêm, ví dụ, Limits in the Seas No. 112, xem chú thích 19, từ tr. 8-21. Phán quyết trong vụ U.S. v. Alaska
(545 U.S. 75) cho rằng "việc thiếu vắng các ấn phẩm [được niêm yết] cũng có vai trò trong xem xét các bất đồng
quốc tế về yêu sách vùng nước lịch sử.” No. 128 Original: Report of the Special Master on Six Motions for Partial
Summary Judgment and One Motion for Confirmation of a Disclaimer of Title, Mar. 2004, tr. 111.
61
Chú thích số 3 và văn bản kèm theo

21
www.nghiencuubiendong.vn

Đánh giá số 2 - Liệu một yêu sách lịch sử có giá trị pháp lý hay không?
Trung Quốc chưa đưa ra một yêu sách lịch sử rõ ràng đối với chủ quyền vùng biển bên
trong đường lưỡi bò ("vùng nước lịch sử" hoặc "danh nghĩa lịch sử") hay yêu sách một
nhóm quyền hạn chế hơn ("quyền lịch sử") trong vùng biển đó. Tuy nhiên nếu Trung
Quốc coi đường lưỡi bò như thể hiện trên bản đồ đại diện cho một yêu sách lịch sử thì
yêu sách này sẽ trái với luật quốc tế.
Các quan điểm ủng hộ yêu sách lịch sử của Trung Quốc thường lập luận rằng UNCLOS
ghi nhận những loại yêu sách này.62 Tuy nhiên, yêu sách của Trung Quốc về vùng nước
lịch hoặc quyền lịch sử bên trong đường lưỡi bò sẽ không được UNCLOS công nhận.
Ngôn ngữ và lịch sử biên soạn của UNCLOS cho thấy rõ ràng là, ngoại trừ một nhóm
nhỏ các "vịnh lịch sử" gần bờ (Điều 10) và "danh nghĩa lịch sử" trong bối cảnh phân định
biển (Điều 15), luật biển quốc tế hiện đại không công nhận lịch sử như là một căn cứ cho
thẩm quyền đối với vùng biển. Yêu sách lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ bao
gồm các vùng biển nằm cách xa các thực thể mà Trung Quốc yêu sách chủ quyền và sẽ
liên quan đến các điều khoản trong UNCLOS về vùng EEZ, thềm lục địa và có thể là cả
vùng biển cả. Khác với Điều 10 và 15, các điều khoản trong UNCLOS liên quan đến
những vùng biển nói trên không bao gồm bất cứ ngoại lệ nào cho phép yêu sách lịch sử
xâm phạm các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển hoặc các quyền
tự do của chung tất cả các quốc gia. 63
Bởi vì các điều khoản của UNCLOS liên quan đến vùng EEZ, thềm lục địa và biển cả
không bao gồm các ngoại lệ về quyền lịch sử, các điều khoản của UNCLOS sẽ có giá trị
cao hơn bất cứ tuyên bố yêu sách lịch sử nào trong các khu vực này. Nghiên cứu năm
1962 về vùng nước lịch sử được thực hiện theo yêu cầu của Hội nghị thông qua Công
ước Geneva 1958 cũng đã có kết luận như vậy trong việc giải thích Công ước năm 1958
về Lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải.64 UNCLOS duy trì cách tiếp cận này bằng cách
giữ lại gần như nguyên vẹn nội dung các điều khoản liên quan đến vịnh lịch sử và danh

62
Xem, ví dụ., Viện Biển Đông thuộc Đại học Hạ Môn, chú thích số 46 (miêu tả bản đồ của Trung Quốc là "nhấn
mạnh các danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc. Cuối cùng, việc sử dụng danh nghĩa lịch sử được quy định trong
UNCLOS")
63
Trong các phần liên quan đến vùng biển, UNCLOS có một số quy định về các phương thức sử dụng biển có từ lâu
đời hoặc có tính lịch sử. Điều 62(3) yêu cầu các quốc gia tính đến "sự cần thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu các
rối loạn kinh tế trong các quốc gia nào có công dân thường xuyên đánh bắt thủy sản" ở trong vùng EEZ. Điều 51
cũng quy định rằng quốc gia quần đảo thừa nhận "các quyền đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động
chính đáng khác" của quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo. Những điều khoản này là
căn cứ cho một quốc gia ven biển có quyền đánh cá trong vùng biển của một quốc gia khác dựa trên việc khai thác
đã có từ trước đấy. Tuy nhiên, các điều khoản này không phải là căn cứ để xác lập chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán.
64
Nghiên cứu của Liên Hợp Quốc, chú thích số 20, đoạn 72-76, thảo luận về "'vùng nước lịch sử' như là một trường
hợp ngoại lệ được liệt kê trong công ước 1958", bao gồm cách giải thích Công ước 1958 "trong trường hợp danh
nghĩa lịch sử không được chính thức bảo lưa trong Công ước." Nghiên cứu kết luận rằng " nếu các quy định của một
điều khoản bị phát hiện ra là mâu thuẫn với danh nghĩa lịch sử của một vùng biển, không câu nào trong điều khoản
đấy có thể được sử dụng để ủng hộ danh nghĩa lịch sử, các quy định của điều khoản đấy phải có giá trị loại trừ".
Điều này có vẻ là một cách khác để diễn đạt thực tế là các Điều 7 và 12 (của công ước 1958) có những quy định trực
tiếp về bảo lưu quyền lịch sử, đối với các điều khoản khác của công ước mà không có loại quy định này thì quyền
lịch sử sẽ không được coi là một ngoại lệ." Như trên, đoạn 75.

22
www.nghiencuubiendong.vn

nghĩa lịch sử đã được ghi nhận trong Công ước 1958. Nếu như các nhà biên soạn
UNCLOS có ý định cho phép các yêu sách lịch sử của một quốc gia có giá trị cao hơn
những quyền đã quy định rõ ràng của các quốc gia khác thì văn bản của UNCLOS nhẽ ra
phải phản ánh điều đó. Thay vào đó, tương tự như Công ước 1958, UNCLOS giới hạn
yêu sách lịch sử chỉ áp dụng cho vịnh và trong phân định lãnh hải.
Do đó, đối với khả năng Trung Quốc yêu sách "quyền lịch sử" ở Biển Đông,65 bất cứ các
quyền nào trong số đó cũng phải phù hợp với các điều khoản của UNCLOS quy định về
các hoạt động tương ứng. Các quy định về hàng hải đã được quy định trong UNCLOS và
những quy tắc này phản ánh việc sử dụng biển vào mục đích hàng hải từ lâu đời. Các quy
tắc liên quan đến khai thác dầu khí cũng được đặt ra trong UNCLOS mà không bao gồm
các ngoại lệ về quyền lịch sử trong bất cứ hoàn cảnh nào. Các quy định về đánh cá cũng
được đưa ra trong UNCLOS, bao gồm các quy định ngặt nghèo về đánh cá truyền thống
nhưng đấy không phải là một căn cứ cho chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán.66 Trong vụ kiện Vịnh Maine, Viện giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý Quốc
tế (ICJ) đã chỉ ra trong phán quyết năm 1984 rằng quy định đặc quyền tài phán của quốc
gia ven biển đối với hoạt động đánh cá bên trong phạm vi 200 hải lý tính từ bờ biển của
quốc gia đó có giá trị cao hơn những quyền và việc sử dụng biển có từ trước đấy của các
quốc gia khác trong vùng biển đó. 67
Cũng có quan điểm cho rằng "danh nghĩa lịch sử" và "quyền lịch sử" là "những vấn đề
không được điều chỉnh bởi UNCLOS [và do đó] tiếp tục được điều chỉnh bằng các quy
định và nguyên tắc của pháp luật quốc tế nói chung", nằm ngoài phạm vi của UNCLOS.68
Quan điểm này không được ủng hộ bởi luật quốc tế và đã hiểu sai về tính toàn diện của
UNCLOS. UNCLOS đã đặt ra những quy chế pháp lý cho tất cả các bộ phận của đại
dương. Như đã nói ở trên, những vấn đề như hàng hải, khai thác dầu khí và đánh bắt cá là
những vấn đề, trên thực tế, "được điều chỉnh bởi UNCLOS." Vì vậy, một quốc gia không
thể loại bỏ các quy định của UNCLOS trong các vấn đề nói trên bằng cách yêu sách vùng
nước lịch sử hay quyền lịch sử dựa trên "pháp luật quốc tế nói chung". Mặc dù chúng ta

65
Xem thêm, ví dụ, quan điểm về quyền lịch sử của Z.Gao and B.B. Jia, chú thích số 46, tr.124 (cho rằng đường
lưỡi bò "bảo vệ các quyền lịch sử của Trung Quốc trong khai thác hải sản, giao thông hàng hải,và các hoạt động trên
biển khác như khai thác dầu khí ở vùng biển và thềm lục địa....” ) và Keyuan, chú thích số 58, tr. 162 (viết rằng
"quyền lịch sử thuyết phục nhất mà Trung Quốc có thể có là quyền đánh cá").
66
Xem chú thích số 63 và 64 cùng văn bản đính kèm.
67
Delimitation of the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of America), 1984 I.C.J.
tr. 246 (ngày 12/10), đoạn. 233, 235. Trước "yêu cầu về quyền lịch sử, cho dù yêu cầu đấy không được Mỹ trực tiếp
đưa ra …", Viện đã cho rằng "khi vùng biển mà Mỹ có quyền đánh cá truyền thống đã trở thành vùng đặc quyền
đánh cá của một quốc gia khác, quyền đánh cá đấy không còn được tồn tại. Rõ ràng là, cho dù trước đây Mỹ ở vị trí
được ưu tiên khai thác trong khu vực đấy, điều này không thể là căn cứ để Mỹ dựa vào và yêu sách quyền hoạt động
trong vùng đặc quyền đánh cá mà nay, theo luật đã là của Canada."
68
UNCLOS, chú thích số 14, Lời nói đầu ("Khẳng định rằng các vấn đề không được quy định trong Công ước sẽ
tiếp tục được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của luật pháp quốc tế nói chung.") Xem thêm, ví dụ, Gao và Jia,
chú thích số 46, tr. 123 (cho rằng UNCLOS "chưa bao giờ có ý định, ngay cảvào thời điểm được thông qua, muốn
loại trừ luật quốc tế. Trái lại, UNCLOS đã tạo ra một không gian rộng cho luật tập quán quốc tế có thể được thực thi
để trám những lỗ hổng mà bản thân UNCLOS không thể giải quyết vào năm 1982. Điều này được xác nhận trong
Lời nói đầu của UNCLOS, theo đó khẳng định rằng 'các vấn đề không được quy định trong Công ước sẽ tiếp tục
được xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của luật pháp quốc tế nói chung.'")

23
www.nghiencuubiendong.vn

có thể cần đến "pháp luật quốc tế nói chung" để xác định ý nghĩa của một số thuật ngữ
trong UNCLOS - ví dụ cách giải thích vịnh lịch sử và danh nghĩa lịch sử trong Điều 10
và Điều 15 - UNCLOS không cho phép một quốc gia viện dẫn "pháp luật quốc tế nói
chung" như một căn cứ thay thế để biện hộ cho yêu sách vùng biển trái các quy định cụ
thể trong UNCLOS.
Ngay cả khi giả định rằng yêu sách lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông được điều chỉnh
bởi "pháp luật quốc tế nói chung", thay vì bởi UNCLOS, yêu sách này vẫn cần phải đáp
ứng được các quy định của pháp luật quốc tế nói chung. Ở đây, yêu sách vùng nước lịch
sử của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ không thể thỏa mãn được ba phép thử đã được nêu ở
phần Căn cứ cho các phân tích trên:
(1) Không có sự thực thi quyền lực hiệu quả, rõ ràng và minh bạch đối với Biển
Đông. Trung Quốc đã không thể hiện được tính chất của yêu sách đường lưỡi bò
trong suốt quá trình khi mà nước này có thể đã có ý muốn thiết lập một yêu sách
lịch sử. Thực ra, bản chất của quyền lực mà Trung Quốc yêu sách bên trong đường
lưỡi bò vẫn chưa được làm rõ. Tương tự như vậy, Trung Quốc vẫn chưa đưa ra
được sự nhất quán và chính xác về mặt địa lý cho yêu sách của mình. Vì vậy, yêu
sách của nước này không thể thỏa mãn yêu cầu về "tính minh bạch" và "rõ ràng"
để một yêu sách vùng nước lịch sử có hiệu lực.
(2) Không có sự thực thi quyền lực liên tục ở Biển Đông. Các quốc gia yêu sách
khác ở Biển Đông đã sử dụng vùng biển này một cách rộng rãi và trong thời gian
dài. Điều này phủ nhận chủ quyền hoặc đặc quyền tài phán của Trung Quốc ở khu
vực này. Rất nhiều đảo và các thực thể khác ở Biển Đông bị chiếm đóng, không
chỉ bởi Trung Quốc, mà còn bởi Malaysia, Philippines, Việt Nam và Đài Loan.
Các yêu sách vùng biển tính từ đất liền của các quốc gia như Malaysia,
Philippines, Indonesia, và Việt Nam đều hướng ra Biển Đông. Tất cả các quốc gia
này đã tiến hành các hoạt động, ví dụ như đánh cá và khai thác dầu khí trong các
vùng biển mà họ yêu sách. Điều này phủ nhận tính "hiệu quả" và "liên tục thực
thi" chủ quyền hay đặc quyền tài phán của Trung Quốc ở Biển Đông.
(3) Các quốc gia khác không mặc nhiên chấp nhận sự thực thi quyền lực của
Trung Quốc ở Biển Đông. Không quốc gia nào chấp nhận giá trị của yêu sách lịch
sử đối với vùng nước bên trong đường lưỡi bò của Trung Quốc. Bất cứ sự chấp
thuận ngầm nào của các quốc gia như Trung Quốc xưa nay vẫn cáo buộc đều có
thể bị bác bỏ bởi sự không rõ ràng trong các yêu sách lịch sử của Trung Quốc, như
đã phân tích ở trên. Vì vậy, một quốc gia có yêu sách lịch sử không thể chỉ dựa
trên các yêu sách không công khai và rất mơ hồ để lập luận rằng các nước khác đã
ngầm chấp thuận. Thay vào đó, quốc gia phải công khai yêu sách lịch sử một cách
minh bạch và đủ rõ ràng để các quốc gia khác có thể thực sự nhận biết được bản
chất và phạm vi của các yêu sách này.69 Trong trường hợp của đường lưỡi bò, khi

69
Symmons, chú thích số 53, tr. 245 ("Để nhận được sực chấp nhận của các quốc gia khác, các hoạt động thực thi
chủ quyền của quốc gia yêu sách phải được các nước khác biết đến.”). Xem thêm, Nghiên cứu của Liên Hợp quốc,
chú thích số 20 và 52.

24
www.nghiencuubiendong.vn

lần đầu tiên bản đồ đường lưỡi bò được công bố chính thức trước cộng đồng quốc
tế năm 2009, nhiều quốc gia bị ảnh hưởng ngay lập tức đã phản đối một cách
chính thức và công khai.70 Trong vấn đề thiếu sự chấp nhận của các quốc gia khác,
thực tiễn của Mỹ cũng rất đáng chú ý. Mặc dù chính phủ Mỹ luôn tích cực trong
việc phản đối các yêu sách lịch sử mà Mỹ cho là quá đáng trên khắp thế giới
nhưng Mỹ vẫn chưa phản đối đường lưỡi bò trên khía cạnh là một yêu sách lịch sử
vì Mỹ không tin là Trung Quốc sẽ biện hộ cho đường lưỡi bò theo cách này. Thay
vào đó, Mỹ đã yêu cầu chính phủ Trung Quốc làm rõ yêu sách đường lưỡi bò của
mình.71
Việc yêu sách của Trung Quốc được đưa ra trước khi có UNCLOS cũng không phải là
căn cứ dựa trên UNCLOS hay luật quốc tế để vi phạm các quy định của UNCLOS.72 Lời
nói đầu của UNCLOS nêu rõ công ước được hình thành nhằm "giải quyết…tất cả các vấn
đề liên quan đến luật biển" và thiết lập một trật tự pháp lý giúp tăng cường sự ổn định và
việc sử dụng hòa bình các vùng biển.73 Đối tượng và mục đích của Công ước là nhằm xây
dựng một quy chế pháp lý toàn diện, minh bạch và dễ dự đoán cho các quyền và nghĩa vụ
của các quốc gia liên quan đến biển. Việc cho phép các quốc gia vi phạm các điều khoản
của UNCLOS bằng những yêu sách có từ trước khi quốc gia đấy chấp nhận sự ràng buộc
của UNCLOS là làm trái và tổn hại đến đối tượng và mục đích của UNCLOS. Cũng
giống như việc một quốc gia yêu sách chủ quyền hơn 200 hải lý đối với lãnh hải vào thập
niên 1950 không thể tiếp tục duy trì yêu sách đấy đến ngày nay, Trung Quốc hay bất cứ
quốc gia nào khác không thể duy trì yêu sách vùng nước lịch sử hoặc các quyền lịch sử
đối với các vùng biển quá xa so với bờ biển của họ. UNCLOS không cho phép những
loại yêu sách như vậy. Và trừ những chỗ câu chữ trong UNCLOS chấp nhận yêu sách
lịch sử - ví dụ như Điều 10 quy định về "vịnh"- thì các điều khoản trong UNCLOS có giá
trị cao hơn các yêu sách lịch sử đấy. Sự xuất hiện của UNCLOS, với tư cách vừa là điều
ước quốc tế vừa phản ánh luật tập quán quốc tế, đòi hỏi các quốc gia phải làm cho các
yêu sách vùng biển của mình trở nên tương thích với luật pháp quốc tế.

70
Các tuyên bố phản đối, chú thích 3 và văn bản đính kèm.
71
Xem, ví dụ, Điều trần trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện của Scot Marciel, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn
đề Đông Á và Thái Bình Dương ngày 15/7/2009, Digest of U.S. Practice in International Law 2009, tr. 460-
63 ("Nếu Trung Quốc làm rõ nội dung các yêu sách của nước này thì sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các bên”) và Điều
trần trước Quốc hội của Daniel Russel, Trợ lý Ngoại trưởng về châu Á - Thái Bình Dương ngày 5/2/2014 ("Trung
Quốc có thể nhấn mạnh sự tôn trọng của nước này đối với luật pháp quốc tế bằng cách làm rõ hoặc điều chỉnh yêu
sách của nước này…").
72
Quan điểm đấy được phản ánh trong, ví dụ, Gao và Jia, chú thích số 46, tr. 123 (cho rằng "đường lưỡi bò thể hiện
yêu sách danh nghĩa lịch sử và quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông được đưa ra trước khi có UNCLOS nên
vẫn giữ được vai trò của mình”).
73
UNCLOS, chú thích 14, Lời nói đầu.

25
www.nghiencuubiendong.vn

Kết luận
Trung Quốc vẫn chưa làm rõ yêu sách vùng biển bên trong đường lưỡi bò theo cách phù
hợp với luật quốc tế. Nội luật, tuyên bố, hành động và phát ngôn chính thức của Trung
Quốc là các bằng chứng mâu thuẫn nhau về tính chất và phạm vi của yêu sách đường lưỡi
bò. Những bằng chứng hiện có cho thấy có ít nhất ba cách giải thích cho đường lưỡi bò
mà Trung Quốc có thể sử dụng, bao gồm (1) đường quy thuộc các đảo mà Trung Quốc
yêu sách chủ quyền và các vùng biển mà các đảo này tạo ra dựa trên UNCLOS; (2)
đường ranh giới quốc gia trên biển và (3) ranh giới của cái gọi là yêu sách lịch sử với rất
nhiều cấp độ khác nhau.
Với cách diễn giải thứ nhất, nếu các đường đứt đoạn trong các tấm bản đồ của Trung
Quốc chỉ nhằm mô tả các đảo mà Trung Quốc yêu sách chủ quyền, khi đó, để phù hợp
với luật biển, các yêu sách vùng biển bên trong đường lưỡi bò phải được thiết lập dựa
trên UNCLOS, bao gồm lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng EEZ và thềm lục địa
được xác định từ lục địa Trung Quốc và các đảo thỏa mãn định nghĩa về "đảo " trong
Điều 121 UNCLOS. Bởi vì chủ quyền của các đảo ở Biển Đông đang bị tranh chấp, các
vùng biển liên quan đến những đảo này cũng bị tranh chấp. Hơn nữa, ngay cả khi Trung
Quốc có chủ quyền đối với các đảo này, các vùng biển được tạo ra từ các đảo đấy (theo
Điều 121) sẽ là đối tượng phân định ranh giới biển giữa Trung Quốc và các nước láng
giềng.
Đối với cách diễn giải thứ hai, nếu các đoạn đứt khúc trong bản đồ của Trung Quốc có
mục đích diễn tả đường ranh giới giữa các quốc gia thì các đường đấy không có căn cứ
pháp lý thích đáng trong luật biển. Theo luật quốc tế, ranh giới trên biển phải được hoạch
định thông qua một thỏa thuận giữa các quốc gia láng giềng; một quốc gia không thể đơn
phương thiết lập một đường ranh giới trên biển với một quốc gia khác. Hơn nữa, một
đường ranh giới như vậy cũng không phù hợp với thực tiễn quốc gia và án lệ quốc tế, vốn
chưa bao giờ trao cho các đảo nhỏ, hẻo lánh như các đảo ở Biển Đông nhiều giá trị hơn
đường bờ biển đối diện kéo dài và liên tục trong việc xác định vị trí của đường ranh giới
biển. Hơn nữa, đoạn số 2, 3 và 8 trong tấm bản đồ năm 2009 của Trung Quốc không chỉ
nằm gần các bờ biển đất liền của các quốc gia khác mà tất cả hay một số phần của đoạn
đứt khúc còn vượt quá phạm vi 200 hải lý tính từ các thực thể mà Trung Quốc yêu sách
chủ quyền.
Cuối cùng, nếu các đoạn đứt khúc trong bản đồ của Trung Quốc dùng để chỉ các khu vực
mà Trung Quốc yêu sách cái gọi là "vùng nước lịch sử" hay "quyền lịch sử" đối với vùng
nước thuộc đặc quyền của Trung Quốc, những yêu sách này không thuộc vào nhóm nhỏ
các yêu sách lịch sử được ghi nhận trong Điều 10 và Điều 15 UNCLOS. Biển Đông là
một biển nửa kín lớn với rất nhiều quốc gia ven biển có vùng EEZ và thềm lục địa phù
hợp với các quy định của UNCLOS; luật biển không cho phép những vùng biển được
hưởng một cách chính đáng này bị xâm phạm bởi các yêu sách vùng biển dựa trên căn cứ
"lịch sử" của một quốc gia khác. Ngược lại, mục tiêu và thành quả lớn nhất của UNCLOS
đó là đem lại sự minh bạch và thống nhất đối với các vùng biển mà quốc gia ven biển

26
www.nghiencuubiendong.vn

được hưởng. Thêm vào đó, nếu áp dụng các phép thử pháp lý về vùng nước lịch sử,
đường lưỡi bò không thỏa mãn được bất kỳ một yếu tố nào.
Vì những lý do nói trên, trừ khi Trung Quốc tuyên bố rằng đường lưỡi bò chỉ phản ánh
yêu sách chủ quyền đối với các đảo nằm bên trong đường lưỡi bò và các vùng biển tính
từ các đảo đấy được thiết lập dựa trên luật biển quốc tế - như đã được ghi nhận trong
UNCLOS, thì đường lười bò không phù hợp với luật biển quốc tế.

27

You might also like