Professional Documents
Culture Documents
Cái này ổn nhất
Cái này ổn nhất
*Định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại định
hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới cần thực hiện những nội dung cơ bản sau:
Một là, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng phát huy sức mạnh của
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội.
Bốn là, đào tạo bồi dưỡng nâng cấp trình độ mọi mặt cho công nhân không ngừng trí thức hóa giai cấp công
nhân là một nhiệm vụ chiến lược.
Năm là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị của toàn xã hội
vẫn nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân.
*Về kết bài:
Khẳng định phát hiện đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. (xóa bỏ, giải phóng, xây dựng).
Khẳng định tính đúng đắn của giai cấp công nhân hiện nay trong việc đi đầu, tiên phong lãnh đạo đất nước
- thông qua Đảng cộng sản Việt Nam vượt qua biết bao thử thách của lịch sử, đồng thời trong thời bình vẫn
tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Thách thức của giai cấp công nhân hiện nay trong bối cảnh, tình hình mới
Thách thức đối với Đảng Cộng sản trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thách thức trước âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch,...
Câu 2. Quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản, nhất là thời kỳ quá độ và đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội. Liên hệ với thời kỳ quá độ và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
*MỞ BÀI: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng nhất của chủ
nghĩa duy vật về lịch sử. Trong đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra những quy luật vận
động chung nhất của xã hội loài người. Trong đó, có đề cập đến hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng
sản là một xu thế tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử loài người.
Vậy hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là gì?...
*Quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản:
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Là một chế độ xã hội phát triển cao nhất hiện nay, là chế độ có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình
độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở hạ tầng đó có kiến trúc thượng tầng tương
ứng thực sự là của nhân dân.
Các giai đoạn:
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp
lên cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, con người
thực hiện nguyên tắc phân phối "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
C.Mác còn khẳng định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ từ
xã hội nọ sang xã hội kia, là thời kỳ cải biến cách mạng một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Sau này, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, trên cơ sở diễn đạt tư tưởng của C.Mác,
V.I.Lênin đã phân tích quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa qua
các giai đoạn:
1. "Những cơn đau đẻ kéo dài" (thời kỳ quá độ).
2. Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
3. Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là
hợp quy luật. Sự thay thế đó có nguồn gốc kinh tế- xã hội sâu xa, đó là miếng đất hiện thực tư bản chủ
nghĩa. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Thứ nhất, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, dựa trên sự phát triển của khoa học – kỹ thuật
và công nghệ hiện đại làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng với trình độ xã hội hóa ngày
càng cao, vượt khỏi giới hạn chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Mâu thuẫn này dẫn đến mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được giữa giai
cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản.
Thứ hai, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất, đối lập nhau về lợi ích cơ
bản, đó là giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa ngày càng cao và giai
cấp tư sản thống trị xã hội đại biểu cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp này mâu thuẫn với
nhau ngày càng rõ rệt, sâu sắc và gay gắt. Các cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai
cấp tư sản áp bức, bóc lột phát triển từ thấp đến cao.
Thứ ba, trong xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện những tai họa cho cả giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và cho cả nhân loại cũng như môi trường thiên nhiên,...
Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội phải được tạo ra bởi một nền sản xuất công nghiệp hiện đại
Hai là, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đồng thời tiền hành thiết lập chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu
Ba là, tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao
Bốn là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc cơ bản nhất
Năm là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp
công nhân vừa mang tính nhân dân rộng rãi
Sáu là, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng và phát triển con người toàn diện.
*Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống
xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Quá độ trực tiếp
từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các nước tư bản trung bình lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên
cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Chủ nghĩa xã hội
được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn các giai cấp đối kháng,
không còn tình trạng, áp bức, bóc lột.
Hai là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng
là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở
trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã
hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Ba là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, phải cần có thời gian để
giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tễ - xã hội khác nhau có thể diễn
ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau.
Những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế:
Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội. Cải tạo quan hệ sản xuất cũ,
xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ
ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Trong lĩnh vực chính trị:
Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo
đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động. Xây dựng
các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Xây dựng
Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn
xã hội. Khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế
giới.
Trong lĩnh vực xã hội:
Phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại. Từng bước khắc phục sự chênh lệch
phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội.
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều
kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của
xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế
quốc dân thống nhất, trong đó thành phần kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động tất yếu
ngày càng giữ vai trò chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã
hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân,
nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tùy
theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên
cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông,...
Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều
bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng
thường xuyên đấu tranh với nhau.
Liên hệ với Việt Nam
*Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Cơ sở lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả
nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu “đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn
tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước nghèo nàn lạc hậu, chậm phát
triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó
cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam,
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta:
Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao động nước ta khi theo Đảng làm
cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân không có
con đường nào khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện
thực sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con
đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó
không chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành
nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là
cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách
mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi.
Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất
tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm
trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
*Chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam:
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
1. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh
2. Do nhân dân làm chủ
3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại về quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất
4. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện
6. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ
7. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản
8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đai
hoá đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu.
Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng
cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
Bốn là, xây dựng phát triển văn hóa, con người. Quản lý và phát triển xã hội. Thực hiện tiến bộ công bằng
xã hội.
Năm là, đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Sáu là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế.
Bảy là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tám là, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tiếp tục cải cách sâu rộng thủ tục hành chính. Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu.
Chín là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Về kết bài:
Khẳng định tính đúng đắn, tính tất yếu, khách quan của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn đi lên con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Biểu hiện
qua thành quả: Giành thắng lợi trong 2 cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, chiến tranh bảo vệ biên giới,...
Liên hệ bản thân: Xem xét bản thân mình cần phải làm gì để bảo vệ thành quả đó hay xã hội đó sẽ được cái
gì mà chúng ta phải kiên trì theo đuổi,…
Câu 3. Quan niệm về dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ Việt Nam.
MỞ BÀI: Dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản trong lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thiết lập một xã
hội mới tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản, thiết lập một nền dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động,
một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người.
*Quan niệm về dân chủ:
Trong nền dân chủ sơ khai của Aten, Hy lạp, thuật ngữ dân chủ được ghép từ chữ nhân dân và quyền lực,
với nghĩa là quyền lực của nhân dân.
Lịch sử phát triển của dân chủ:
Nhưng trong các thời kỳ khác nhau của xã hội có phân chia giai cấp, dân chủ không còn giữ nguyên nghĩa
ban đầu của nó là quyền lực thuộc về nhân dân, mà bị chi phối bởi quan điểm lập trường, thái độ chính trị
của giai cấp cầm quyền trong xã hội.
Bằng chứng là trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước, lấy tên là nhà nước dân chủ,
tức nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp nô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô
mới chính thức sử dụng danh từ “dân chủ”, tiếng Hy Lạp còn gọi là “demos”, là “dân” của “Kratos”, là
“quyền lực” hoặc “sức mạnh”. Có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nô có quyền lực của dân. Nhưng “dân” lúc
này theo quy định của pháp luật gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn
đại đa số nhân dân trở thành nô lệ thì không được coi là dân.
Đến chế độ phong kiến, mặc dù khát vọng về dân chủ của người dân vẫn cháy bỏng nhưng chế độ phong
kiến không được thừa nhận là một chế độ dân chủ mà đó là một chế độ quân chủ.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn, có mang tên chế độ dân chủ, nhà
nước dân chủ thì về thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân mà chỉ
là nhà nước của giai cấp tư sản.
Chỉ đến khi chủ nghĩa xã hội ra đời, nhân dân lao động giành lại chính quyền và tư liệu sản xuất thì quyền
lực thực sự của dân mới trở lại với nhân dân. Tức là nhà nước xã hội chủ nghĩa đã thiết lập nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân. Vì vậy dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao
nhất, đầy đủ nhất.
Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có quan niệm về dân chủ và quan niệm đó là việc thực thi quyền lực của
nhân dân.
*Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ:
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ thể hiện ở những quan điểm sau:
Thứ nhất, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình thái hay hình
thức nhà nước, là chỉnh thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
Thứ hai, về phương diện quyền lực, dân chủ là thuộc về quyền lực của nhân dân, nhân dân là chủ của nhà
nước.
Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lí xã hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc dân chủ.
Thứ tư, trên phương diện tư tưởng, dân chủ là một quan niệm - quan niệm về dân chủ, về tinh thần dân
chủ. Do nó là một quan niệm, chính vì thế nó chịu sự quy định của điều kiện lịch sử cụ thể, điều kiện kinh
tế - xã hội hay bối cảnh lịch sử của xã hội.
Thứ năm, dân chủ với những tư cách đó, phải được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là phương tiện để
vươn tới tự do, giải phóng con người, giải phóng giai cấp và xã hội.
Như vậy, dân chủ gắn với tư cách là một hình thức tổ chức chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước,
nó sẽ làm một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn với nhà nước đó và sẽ mất đi khi nhà nước tiêu
vong. Còn dân chủ nếu xét với tư cách là một giá trị xã hội thì nó sẽ là một phạm trù vĩnh viễn bởi vì nó
tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người.
Quan niệm về dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Khái niệm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân
chủ mà ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm trong
mối quan hệ biện chứng, được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Về chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về dân nhân, là nền dân chủ
có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị
của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện
quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì
bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân…chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa…Do đó, về thực chất là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân.
Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào
công việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Về kinh tế, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu của toàn xã hội. Thực hiện dân chủ trong kinh tế là tiền đề, cơ sở để thực hiện dân chủ về chính trị và
văn hóa – tư tưởng.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế của các chế độ tư hữu, áp
bức, bóc lột nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nó cũng là sự kế thừa và phát triển mọi
thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của
các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột…
Về văn hóa - tư tưởng, các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi hoạt động trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành Hiến
pháp và pháp luật, thành hệ thống chính trị, thành nguyên tắc, mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Về xã hội, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi
ích của toàn xã hội. Ra sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, đồng thời kế thừa, phát
huy những tinh hoa văn hóa, tư tưởng của nhân loại. Do đó, đời sống tư tưởng – văn hóa của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố hàng đầu, thành
mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi nó phát huy cao độ tính tự giác và sức
sáng tạo to lớn của con người trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa:
*Bản chất:
Về chính trị, Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp
với lợi ích chung của nhân dân lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản giữ địa vị thống trị
về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản khác về chất so với sự thống trị của giai cấp bóc lột
trước đây, bởi vì đây là sự thống trị của đại đa số với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm tự giải phóng mình và
các tầng lớp nhân dân lao động.
Về kinh tế, chịu sự quy định của cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu. Do đó quan hệ này không tồn tại hình thức bóc lột.
Về văn hóa - xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh thần là lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang bản sắc riêng
của dân tộc.
*Chức năng:
Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các chức năng khác
nhau:
Nếu căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, nó được chia thành chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động, có chức năng chính trị, chức năng kinh tế, văn hóa, xã hội,...
Nếu căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, có chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ
chức và xây dựng).
*Khái niệm:
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp vô sản cách
mạng - giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã
hội phát triển cao - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt động của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Bởi vì chỉ trong nhà nước này thì:
Một là, người dân mới có đủ điều kiện cho việc thực hiện ý chí thông qua việc lựa chọn công bằng, bình
đẳng những người đại diện của mình vào bộ máy nhà nước
Hai là, kiểm soát một cách có hiệu quả quyền lực của nhà nước, ngăn chặn sự tha hóa của quyền lực nhà
nước,...
Ra đời trên cơ sở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ quan trọng
cho việc thực thi quyền làm chủ của người dân. Điều này thể hiện bằng việc, thể chế hóa ý chí của nhân
dân thành các hành lang pháp lí, phân định một cách rõ ràng quyền và trách nhiệm của mỗi công dân; đồng
thời là công cụ bạo lực để ngăn chặn có hiệu quả các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân; và bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ.
LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
*Quan niệm về dân chủ:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung và khi coi dân chủ là một
giá trị xã hội mang tính toàn nhân loại, Người khẳng định: dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Và khi coi
dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội. Người khẳng định: Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
nhân dân là chủ, nước ta là nước dân chủ thì dân chủ là “dân làm chủ”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định:
Dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội mà ở đó “đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân”, “Nhà
nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân” và “dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”, “của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”.
*Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Bản chất dân chủ ở Việt Nam là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân.
Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong XH với tư cách công nhân, tư cách của người làm chủ.
Quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm chủ.
*Các hình thức thể hiện dân chủ:
Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do nhân dân “ủy quyền”, giao
quyền lực của mình cho các tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra. Ví dụ, Đại biểu quốc hội sẽ thay nhân
dân nói lên tiếng nói của mình về các vấn đề bức thiết mà nhân dân quan tâm.
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân bằng hành động trực tiếp của mình thực
hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Ví dụ, tại các buổi họp khu phố bàn về vấn đề làm đường, nhân
dân cùng bàn bạc để tìm ra phương án tối ưu.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
*Quan niệm về nhà nước pháp quyền:
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật, nhà nước hướng tới những
vấn đề về phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực
của chính mình.
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã đưa ra mấy nội dung về nhà nước pháp quyền như sau: Đề cao vai trò tối thượng của Hiến
pháp và pháp luật, đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Tổ chức bộ máy nhà nước đảm bảo tập
trung, thống nhất. Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của nhân dân. Tổ chức và quản lí bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
*Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, Nhà nước tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp và luật pháp.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế phối hợp nhịp nhàng của các
cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, do Đảng cộng sản lãnh đạo, hoạt động của Nhà nước thì được giám sát bởi nhân dân với phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng quyền con người, coi con người là chủ
thể, là trung tâm của sự phát triển.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và
kiểm soát lẫn nhau nhưng đảm bảo quyền lực thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
*Phát huy dân chủ ở Việt Nam và tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam:
Đối với việc phát huy dân chủ:
Một là, xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh với tư cách điều kiện tiên quyết để xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với tư cách để thực thi dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Ba là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bốn là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện xã hội để phát huy quyền làm
chủ của dân nhân.
Đối với việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Một là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Ba là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Bốn là đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
*Về kết bài:
Khẳng định lại tầm quan trọng của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định lại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Liên hệ bản thân: Xem xét bản thân mình đã thực hiện được dân chủ chưa, cần làm gì để tiếp tục phát huy
dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Câu 4. Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Liên hệ Việt Nam.
*MỞ BÀI: Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc luôn là một vấn đề có vị trí chiến lược quan trọng đối với
một quốc gia. Những năm gần đây, với những biến động lớn trong đời sống chính trị - xã hội trên thế giới,
hàng loạt vấn đề dân tộc đã và đang đặt ra ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam
hết sức đa dạng và phức tạp.
*Khái niệm dân tộc:
Theo nghĩa rộng, dân tộc là chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ
quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với
nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc. Ví
dụ, dân tộc Việt Nam, dân tộc Thái Lan,...
Theo nghĩa hẹp, dân tộc chỉ các cộng đồng người của một quốc gia, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn
ngữ riêng, có văn hóa đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc
gia – quốc gia nhiều dân tộc. Ví dụ: Dân tộc Tày, Nùng, Mông, Ê đê, Bana…
*Đặc trưng chung nhất của dân tộc :
Thứ nhất, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, cơ bản nhất, là cơ
sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Thứ hai, có chung một vùng lãnh thổ nhất định, trên lãnh thổ đó các thành viên gắn bó với nhau, cùng nhau
lao động để tồn tại và phát triển.
Thứ ba, có tiếng nói chung làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,
tình cảm …
Thứ tư, có tâm lý riêng tạo nên bản sắc của nền văn hóa dân tộc.
*Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc:
Khi nghiên cứu các vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, Lênin đã phát
hiện ra xu hướng khách quan:
Thứ nhất, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để lập
các cộng đồng dân tộc độc lập.
Thứ hai, là liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và
công nghệ. Tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích nhất
định và nhằm tập trung vào việc giải quyết những vấn đề chung của nhân loại như: Chống ô nhiễm môi
trường, sinh thái, dịch bệnh… có nguy cơ lan rộng trên toàn thế giới.
*Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin:
Trong chủ nghĩa tư bản do mục tiêu của mọi chính sách trước hết là phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản,
do vậy mà hai xu hướng khách quan trên không được giải quyết. Vì vậy, Lênin cho rằng một cương lĩnh
dân tộc đúng đắn phải phù hợp với mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Đồng
thời tạo ra môi trường cho sự vận động của hai xu hướng khách quan trong một tiến trình thống nhất. Đặc
biệt Lênin đã nêu ra Cương lĩnh về vấn đề dân tộc gồm có ba nội dung chính:
Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên phải tự đặt ra cho bản thân
mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước, mình đã, đang và sẽ làm gì để góp phần đưa đất
nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân
những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích
chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản
lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Câu 5. Quan điểm về nguồn gốc, bản chất, tính chất tôn giáo. Các nguyên tắc ứng xử của Đảng Cộng
Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo.
*Mở bài: Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa
Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch
sử của học thuyết này. Vậy tôn giáo là gì?...
*Khái niệm tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con
người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng của họ, tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự
nhiên, thần bí,...
*Bản chất của tôn giáo:
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo
hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực và tích cực nhất định.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo vì
mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng sáng tạo ra tôn
giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế
giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc
trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mà luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo tôn giáo của nhân dân.
*Nguồn gốc của tôn giáo:
Nguồn gốc kinh tế xã hội:
Do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, xã hội để giải quyết các yêu cầu, các mục
đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc sống của bản thân họ. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị,
sự hiện diện của những bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, con người có điều kiện
hơn trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh. Đây cũng là
nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và xuất hiện những loại hình tôn giáo
mới.
Nguồn gốc nhận thức:
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình
là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa
giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề
đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn
giáo ra đời, tồn tại và phát triển.
Nguồn gốc tâm lý:
Từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát triển của thiên nhiên và xã hội đã dẫn con người đến nhờ cậy đến thần
linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng,… trong mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.
*Tính chất của tôn giáo:
Tính lịch sử của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, bởi vì nó có sự hình thành, tồn tại và phát triển trong
những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học và giáo dục
giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội
thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi
người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài
người.
Tính quần chúng của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu luc, không một quốc gia
nào, dân tộc nào không có một hay nhiều tôn giáo.
Tính quần chúng biểu hiện của số lượng tín đồ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ
phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Tính chính trị của tôn giáo:
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về
lợi ích kinh tế, chính trị.
*Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thứ nhất, tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân:
Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Tôn trọng tự do tín
ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng. Quần chúng là nguồn gốc của mọi sức mạnh, là
động lực phát triển của lịch sử. Đoàn kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng
tôn giáo là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới:
Chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng lao động.
Phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học,… cũng như
những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
và trí tuệ con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hội.
Thứ ba, phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo trong
vấn đề tôn giáo:
Là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề
tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc hữu trong quá trình
quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến một bộ phận quần chúng trong xã
hội (những người theo tôn giáo).
Thứ tư, quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng:
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và biến đổi không
ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau,
vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần phải có quan
điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối
với từng tôn giáo cụ thể.
*Quan điểm, chính sách Đảng Cộng Sản, Nhà nước đối với vấn đề tôn giáo:
Khái quát đôi nét về tôn giáo ở Việt Nam:
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Nước ta hiện nay có 13 tôn giáo đã được công nhận.
Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hoà bình, không có xung đột, chiến tranh tôn giáo
Các tôn giáo ở Việt Nam nói chung luôn đồng hành cùng dân tộc, có nhiều đóng góp quan trọng trong quá
trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là do nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
Đảng và Nhà nước ta đã xác định cho mình những quan điểm và chính sách như:
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Thứ năm, về vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở
thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Kết bài, liên hệ cho bản thân:
Vì vậy, học tập, nghiên cứu vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩ xã hội, sinh viên chúng ta
cần chú ý một số vấn đề có phương pháp luận sau:
Một là, luôn đứng trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
nghiên cứu, xem xét tổng thể vấn đề tôn giáo, cũng như từng khía cạnh của nó.
Hai là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải gắn với thực tiễn tồn tại, vận động của chính vấn đề tôn giáo. Ba là,
nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải kết hợp với việc phê phán các quan điểm không đúng về vấn đề tôn giáo.
Bốn là, kết hợp, kế thừa các phương pháp, thành quả nghiên cứu về tôn giáo của các ngành khoa học khác.