Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: Quy luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật giá trị. Hãy thử đặt
mình ở vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để cho
doanh nghiệp của mình sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường.

Họ và tên sv : Phạm Thùy Linh

Lớp học phần : LLNL1106(123)_19

Mã SV : 11223731

GV hướng dẫn : PGS.TS. Đào Thị Phương Liên

HÀ NỘI, NĂM 2023

Hà Nội. 2023 [Type here] [Type here] [Type here]


Mục lục
Lời nói đầu
Nội dung
1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam………………...4

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam ………………………………………………….…………………………..5

3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam……………6

3.1. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam…………..6

3.2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế……………………………………………...7

3.2.1 Về quan hệ sở hữu……………………………………………………………………7

3.2.2 Kinh tế nhiều thành phần……………………………………………………………..8

3.3. Về quan hệ quản lý…………………………………………………………………….8

3.4. Về quan hệ phân phối………………………………………………………………….8

3.5. Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội……………………….9

4. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam………………………………………………………...…………………..10

4.1. Tình hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày nay..10

4.2. Một số hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

và so sánh với các nền kinh tế thị trường khác…………………………………………….11

4.3. Một số định hướng giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam…………………………………………………………………………..12

Kết luận
Lời cảm ơn
Danh mục tham khảo
Lời mở đầu
Sau hơn 30 năm đổi mới, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã khẳng định được
vai trò và hiệu quả của mình, góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Từ một nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình. Quy mô, tiềm lực nền kinh tế tăng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đây thực sự là một thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, quá trình vận hành mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đang phơi bày những hạn chế cần được khắc phục.
Một số vấn đề như: sự yếu kém của kinh tế nhà nước, sự bất cập trong cơ chế phân phối, tình
trạng chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm môi trường... đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn
thiện mô hình kinh tế này. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực
tiễn về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Bài tiểu luận này được thực hiện với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng để đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nội dung
1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại; không có mô hình kinh tế thị
trường chung cho mọi quốc gia và mọi giai đoạn phát triển. Mỗi nước có những mô hình kinh
tế thị trường khác nhau phù hợp với điều kiện của quốc gia đó. Mỗi nền kinh tế thị trường vừa
có những đặc trưng tất yếu không thể thiếu của nền kinh tế thị trường nói chung vừa có những
đặc trưng phản ánh điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu nền kinh tế thị trường phù hợp với
Việt Nam, phản ánh trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam.
Khái niệm: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở
đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thực chất, giá trị dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị
của xã hội tương lai mà loài người còn tiếp tục phải phấn đấu. Bởi lẽ, nhìn từ thế giới hiện nay
mà xét, có quốc gia rất giàu nhưng nước chưa mạnh, xã hội thiếu văn minh, có quốc gia nước
rất mạnh, dân chủ song lại thiếu công bằng.
Như vậy, một hệ giá trị toàn diện gồm cả dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh là hệ giá trị của xã hội tương lai mà loài người còn cần phải phấn đấu mới có thể đạt
được một cách đầy đủ trên hiện thực xã hội. Do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là
hướng tới các giá trị cốt lõi của xã hội mới ấy. Nền kinh tế thị trường mà trong các hoạt động
kinh tế của các chủ thể, hướng tới góp phần xác lập được các giá trị xã hội thực tế với hệ giá
trị toàn diện như vậy là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được hệ giá trị như vậy, nền kinh tế thị trường Việt Nam cần có sự điều tiết của nhà
nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa vừa phải bao hàm các đặc trưng chung vốn có của nền kinh tế thị trường nói
chung, vừa có những đặc trưng riêng của Việt Nam. Đây là kiểu mô hình kinh tế thị trường
phù hợp với đặc trưng lịch sử, trình độ phát triển, hoàn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam.
Muốn thành công phải do nhân dân nỗ lực xây dựng mới có thể đạt được.

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Có rất nhiều lý do dẫn đến tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ nhất, việc phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phù hợp với quy luật phát triển kinh tế khách quan và hoàn cảnh của Việt Nam. Như đã tìm
hiểu, ta hiểu rằng nền kinh tế hàng hóa khi đạt đến một trình độ nhất định tất yếu sẽ chuyển
thành nền kinh tế thị trường. Vì thế cho nên đây là mô hình kinh tế không thể tránh khỏi trong
quá trình quá độ lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, là yếu tố khách quan, không chịu tác
động của suy nghĩ chủ quan của con người. Tuy nhiên, dù là biểu tượng của nền tư bản chủ
nghĩa, từ thực tế các mô hình kinh tế thị trường tại các quốc gia khác nhau trên thế giới, chúng
ta cũng lưu ý rằng kinh tế thị trường ở mỗi hình thái kinh tế xã hội cụ thể sẽ phải chịu sự chi
phối của quan hệ sản xuất thống trị, có nghĩa là nó sẽ phát triển theo định hướng của Nhà nước
thống trị. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể điều khiển mô hình kinh tế thị trường đi theo
đường lối đảm bảo phù hợp với không chỉ xu thế thời đại mà còn cả đặc điểm phát triển riêng
của đất nước. Đây cũng là cách làm chung của các nước đang quá độ lên xã hội chủ nghĩa trên
thế giới.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang nhiều đặc điểm ưu
việt giúp thúc đẩy kinh tế Việt Nam. Kinh tế thị trường là một thành tựu của nền văn minh
nhân loại với khả năng phân bổ nguồn lực hiệu quả dưới tác động của quy luật cạnh tranh, quy
luật cung-cầu. Không chỉ thế mà kinh tế thị trường còn buộc lực lượng sản xuất phải phát triển
năng động không ngừng, kích thích tiến bộ kỹ thuật-công nghệ, nâng cao năng suất lao động,
chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Đây đều là những yếu tố chẳng những không
mâu thuẫn mà còn đẩy nhanh tốc độ đạt đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, thị
trường luôn mang trong mình những khuyết tật như độc quyền, ô nhiễm môi trường, cạnh
tranh không lành mạnh, hàng giả hàng nhái,... rất cần sự can thiệp, điều tiết kịp thời của Nhà
nước.
Cuối cùng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân Việt Nam về một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây là một sự tất yếu khách quan mang đậm tính xã hội. Có thể rút ra từ quan sát ở nhiều
nước có nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng tư bản chủ nghĩa: do được hình thành
từ cuộc cách mạng tư bản, nhà nước của họ sẽ hướng đến bảo vệ quyền lợi, thực hiện ước
muốn của giai cấp này, từ đó tạo ra mâu thuẫn xã hội không thể khắc phục. Nhà nước Việt
Nam ta thì khác là nhà nước hình thành từ cuộc cách mạng của nhân dân, là nhà nước của dân,
do dân và vì dân. “Vì dân” cho nên phải có những bước đi về chính sách giúp đạt được
nguyện vọng của đông đảo người dân lao động mà trong đó phát triển kinh tế đóng vai trò
then chốt. Một mô hình kinh tế thị trường vừa giúp phát triển kinh tế và cũng vừa thực hiện
được ý chí, mong ước của nhân dân, là bước quan trọng trong quá trình quá độ lên xã hội chủ
nghĩa của nước ta.
Tóm lại, xét về nhiều khía cạnh, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là con đường đúng đắn nhất đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là cách
thức vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng, vừa phù hợp với định hướng
xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước.
3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.1. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Đại hội XII đã có bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cụ thể là:
Thứ nhất là mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để có thể phân biệt nền kinh tế thị trường của nước ta so với nền kinh tế thị trường khác
phải nói đến mục đích chính trị mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và nhân dân đã chọn. Mục
tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhằm thực hiện dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người
tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được
thu hẹp .
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho
ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia
về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay
trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội,
ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao
về văn hóa, xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân
làm mục tiêu. Phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng mạnh
mẽ lực lượng sản xuất; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống nhân
dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Kinh tế thị trường bản
thân nó là nội lực thúc đẩy tiến trình kinh tế - xã hội. Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát
triển kinh tế thị trường là vì con người, nâng cao đời sống nhân dân, mọi người điều được
hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
3.2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
3.2.1 Về quan hệ sở hữu
Sở hữu được hiểu là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương
ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định. Khi đề
cập tới sở hữu hàm ý trong đó có chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu và lợi ích từ đối tượng sở
hữu. Mục đích của chủ sở hữu là nhằm thực hiện những lợi ích từ đối tượng sở hữu.
Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý.
Về nội dung kinh tế, sở hữu là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Nội dung kinh tế của sở hữu
biểu hiện ở khía cạnh những lợi ích, trước hết là những lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu sẽ
được thụ hưởng khi xác định đối tượng sở hữu đó thuộc về mình trước các quan hệ với người
khác.
Về mặt pháp lý, sở hữu giả định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật pháp. Khi đó, những lợi
ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ hưởng sẽ không bị các chủ thể khác phản đối. Khi đó
việc thụ hưởng được coi là chính đáng và hợp pháp.

3.2.2 Kinh tế nhiều thành phần


Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
động lực quan trọng, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để
phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo
pháp luật. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ
củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân coi
đó là động lực quan trọng, thực hiện sự liên kết giữa các loại hình công hữu - tư hữu sâu rộng
ở cả trong và ngoài nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ
đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Với vai trò của mình kinh tế nhà nước không đứng độc lập, tách rời mà luôn có mối quan
hệ gắn bó hữu cơ với toàn bộ nền kinh tế và trong suốt cả quá trình phát triển.

3.3. Về quan hệ quản lý


Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, nhà nước đều phải can
thiệp (điều tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm khắc phục những hạn chế,
khuyết tật của kinh tế thị trường và định hướng chúng theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, quan
hệ quản lý và cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam có đặc trưng riêng đó là: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính
sách và các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc của thị trường, khắc phục những
khuyết tật của kinh tế thị trường và phù hợp với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt Nam.
3.4. Về quan hệ phân phối
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân phối công bằng
các yếu tố sản xuất tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ đề kinh
tế phân phối đầu vào để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều giàu có đồng thời phân phối
kết quả làm ra đầu vào chủ yếu theo kết quả lao động hiệu quả kinh tế theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội phúc lợi xã hội.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về 4 liệu sản xuất nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần với sự đa dạng hóa
các loại hình sở hữu và do vậy thích ứng với nó là các loại hình phân phối khác nhau cả đầu ra
và đầu vào của các quá trình kinh tế thực hiện nhiều hình thức phân phối thực chất là thực
hiện các lợi ích kinh tế ở nước ta sẽ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội
góp phần cải thiện và nâng đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội đảm bảo công
bằng xã hội trong sử dụng các nguồn lực kinh tế và đóng góp của họ trong quá trình lao động
và sản xuất kinh doanh.
Trong các hình thức phân phối đó phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế phân phối
theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường.
3.5. Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện gắn tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa xã hội thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách chiến lược quy hoạch kế hoạch và
từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường.
Đây là đặc trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam bởi tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện bảo đảm cho
sự phát triển bền vững của quyền nền kinh tế vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế
độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phải thực hiện hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội xuống thăm ngày nay ở các nước 4 bản chủ nghĩa người ta cũng đặt ra vấn đề
giải quyết công bằng xã hội song thực chất nó chỉ được đặt ra khi tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội tạo ra bùng nổ vấn đề xã hội đe dọa sự tồn vong
của chế độ 4 bản vì thế họ giải quyết vấn đề xã hội chỉ trong khuôn khổ tính chất 4 bản chủ
nghĩa cách thức để duy trì sự phát triển của chế độ 4 bản chủ nghĩa còn trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa giải quyết công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để
duy trì sự tăng trưởng ổn định bền vững mà còn là mục tiêu phát hiện thực hoá do đó ở bất cứ
giai đoạn nào mỗi chính sách kinh tế cũng đều phải hướng đến mục tiêu phát triển xã hội và
mọi chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phải coi đầu 4 cho
các vấn đề xã hội như giáo dục văn hóa y tế thể dục thể thao là đầu 4 cho sự phát triển bền
vững không đợi tới khi có nền kinh tế phát triển cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
và càng không thể hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần.
Tuy nhiên thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không phải là cao bằng hay kiểu bình quân
chia đều các nguồn lực và của cải làm ra bất chấp chất lượng hiệu quả sản xuất kinh doanh và
sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng không dồn mọi
nguồn lực cho phát triển xã hội vượt quá khả năng của nền kinh tế ngày nay thực hiện công
bằng xã hội ở nước ta không chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu nhập an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội mà còn phải tạo ra những điều kiện tiền đề cần thiết để đảm bảo cho mọi người dân
đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội 4 bản như giáo dục y tế việc làm
để họ có thể tự lo liệu và cải thiện đời sống của bản thân gia đình đồng thời góp phần xây
dựng đất nước cần kết hợp sức mạnh của cả nước và cộng đồng và mỗi người dân trong các
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ừ nhà nước phải quan tâm đầu 4 thỏa đáng vừa phải coi
trọng huy động các nguồn lực trong nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội và mỗi
người.
Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự
kết hợp những mặt tích cực ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa
xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại văn minh tuy nhiên kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển tất sẽ
có một lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.
4. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam

4.1. Tình hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày
nay.
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và
hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ,
gắn với thị trường khu vực và thế giới”(2). “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”(3). Đường lối đổi
mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc
đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình;
hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập
trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP
bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%(4), thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã
đạt 8,2%/năm(5). Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 -
2019 đạt mức bình quân 6,8(6). Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng
trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành
công nhất(7). Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm
hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn
tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình
5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền
kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng
343 tỷ USD(8). Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần, năm 2020,
thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ
- tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm… tiếp tục được
bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô. Tính theo chuẩn nghèo chung,
tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm 2018(9); hơn 45 triệu
người thoát nghèo trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn
cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng
mức thu nhập(10). Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016
lên thứ 49 năm 2020(11), cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
Dưới đây là một số điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam với các nước khác:
 So với Trung Quốc: Việt Nam chú trọng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiểm soát
chặt chẽ hơn đối với kinh tế tư nhân.
 So với các nước Đông Âu: Kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao hơn, ổn định
hơn. Việt Nam duy trì vai trò kinh tế nhà nước, không thực hiện cổ phần hóa nhanh.

4.2. Một số hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
và so sánh với các nền kinh tế thị trường khác
Tuy nhiên, các yếu tố xã hội chủ nghĩa hoặc xuất hiện nhưng không có hiệu quả, hoặc chưa
rõ nét. Cụ thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng
hiệu quả thấp. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm vào tình trạng mất vốn, phá
sản, nợ nần (nợ của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu tỷ đồng).
Hợp tác xã còn yếu kém hơn, đặc biệt là không hấp dẫn nông dân. Nhà nước quản lý nền kinh
tế chủ yếu theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các vấn đề về lũng đoạn thị
trường, gian lận, hàng giả… diễn ra phổ biến. Nhà nước làm mất dần niềm tin ở nhân dân do
quản lý nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả và công bằng, do “lợi ích nhóm” chi phối nền nhiều
chính sách kinh tế chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung của quảng đại nhân dân lao động.
Sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, tệ quan liêu, lãng phí và tham nhũng chưa được
ngăn ngừa hiệu quả. Số đông người dân làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó
thoát nghèo.
Tất cả những vấn đề đó một lần nữa lại đặt ra câu hỏi: tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường ở đâu? Mặc dù từ Đại hội XI đã nhấn mạnh, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế, coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một trong ba đột phá chiến lược…, nhưng nhiều năm đã trôi qua mà chủ trương ấy vẫn chưa
đem lại thành quả như mong muốn: Kinh tế vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc,
còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện
tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa
đáp ứng được yêu cầu. Những kết quả bước đầu của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa
đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mô hình tăng trưởng. Chất lượng tăng
trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách bền vững. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội
còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn nhiều bất cập. Công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng
bước đẩy lùi. An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định; bảo vệ
chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức; trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc (2).
Thực tiễn cũng cho thấy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự khác biệt
với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, thể hiện chính là ở chỗ ai làm chủ sức mạnh kinh
tế và sức mạnh chính trị trong một nước. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: đó là
giới chủ; trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: đó là đông đảo nhân dân
lao động.Đó là sự khác biệt duy nhất. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn lại của kinh tế thị
trường như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát nền kinh tế thị trường, kỹ thuật tổ
chức quản lý để nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức kinh tế nói riêng hoạt động ở
trạng thái hiệu quả đều có thể chung nhau giữa hai loại nước (kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) vì đó là thành quả tiến hóa mang tính
nhận thức và khoa học của loài người.

4.3. Một số định hướng giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và
căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm
vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Một là, tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý
trong hệ thống luật pháp, các thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân,
gây phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên những rào cản
cản trở sự phát triển đất nước. Đồng thời, bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách thể chế hóa
đầy đủ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, hấp dẫn, công khai, minh bạch, thông thoáng để thu hút đầu tư, thuận lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là việc tạo môi trường thuận lợi cho
hình thành, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo doanh
nghiệp; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực, những mô hình sản xuất
kinh doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng; cơ cấu lại nền
kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, từng bước
thực hiện chuyển đổi số cho các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số, kinh thế tuần hoàn, kinh
tế chia xẻ, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.
Hai là, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý, sử dụng
đất đai, tài nguyên, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để việc phân bổ các nguồn lực của Nhà
nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự
tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Ba là, hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường.
Thực hiện nhất quán cơ chế giá trị thị trường với các hàng hóa, dịch vụ, kể cả giá các dịch vụ
công cơ bản, thu hẹp giá do nhà nước quyết định. Phát triển đồng bộ, với cơ sở hạ tầng và
phương thức giao dịch hiện đại, các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính, tiền
tệ, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản để các thị
trường vận hành thông suốt, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phát huy đầy đủ vai trò của thị
trường trong phân bổ các nguồn lực sản xuất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều
tiết hoạt động của doanh nghiệp và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời, tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước; tập trung vào nâng cao chất lượng xây
dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; đẩy mạnh cải cách
hành chính; giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiến tạo phát triển. Tạo điều kiện và phát huy vai trò
của các tổ chức chính trị xã hội bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên, hội viên, phản
biện, góp ý luật pháp, chính sách của nhà nước, giám sát các doanh nghiệp, các cơ quan và đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức của nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý
nợ xấu, thoái vốn, cổ phần hóa cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ
công nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Đồng thời, kiểm tra giám sát
chặt chẽ không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích
phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ
trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư
nhân, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Phát triển
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động, và
tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện các trách nhiệm xã hội. Nâng cao
hiệu quả các dự án đối tác công tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự
án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, sẵn sàng chuyển giao công nghệ, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Sáu là, xây dựng, cụ thể hóa hệ tiêu chí xác định những đặc trưng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nội dung: Về cơ cấu sở hữu và
thành phần kinh tế: là nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần; doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Về cơ chế vận hành: là nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về trình độ phát triển: Có lực lượng sản xuất
phát triển ngày càng hiện đại; cơ cấu hợp lý; tăng trưởng theo chiều sâu; có năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; là nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế….
Kết luận
Tóm lại, qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
khẳng định được những ưu việt của mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, mô
hình này cũng đang phơi bày những hạn chế cần khắc phục. Để hoàn thiện và phát triển mô
hình kinh tế phù hợp với điều kiện Việt Nam, cần tập trung vào một số giải pháp chính như:
 Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách cho phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
 Tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà
nước.
 Phát triển đồng bộ các loại thị trường, hoàn thiện cơ chế phân phối cho công bằng.
 Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
 Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường.
Nếu được quan tâm triển khai đồng bộ và hiệu quả, các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Lời cảm ơn
Lời cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thầy giáo Nguyễn
Văn Hậu. Em xin cảm ơn Thầy đã đồng hành và hướng dẫn em suốt quá trình nghiên cứu và
viết bài tiểu luận trong lĩnh vực Kinh Tế Chính Trị. Sự giúp đỡ tận tâm và những chỉ dẫn từ
Thầy đã mang lại cho em cái nhìn khách quan, sâu sắc và đánh thức trong em niềm đam mê và
hứng thú với môn học này.
Dù em đã cố gắng hết sức để hoàn thiện bài tiểu luận, nhưng do trình độ và kinh nghiệm còn
hạn chế, không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và
đóng góp từ Thầy để em có thể nâng cao chất lượng và hoàn thiện bài viết của mình, đồng thời
củng cố kiến thức và hiểu biết về Kinh Tế Chính Trị sâu hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Thầy và chúc mừng Thầy luôn có sức khỏe dồi dào,
niềm đam mê không nguôi và đạt được nhiều thành công trong công việc giảng dạy và nghiên
cứu. Sự hướng dẫn và động viên từ Thầy sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho những thế hệ học
viên sau này. Em xin kính chúc Thầy luôn hạnh phúc và thành công trên con đường truyền đạt
tri thức.
Danh mục tham khảo:
- Giáo trình Kinh Tế Chính Trị Mác – Lênin
- Tạp chí cộng sản(18-07-2021): Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam-PGS, TS. ĐẶNG QUANG ĐỊNH
- Tư liệu văn kiện Đảng trên trang Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
- Tạp chí cộng sản (22-01-2007): Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan
niệm và giải pháp phát triển - NGUYỄN PHÚ TRỌNG
- Trang thông tin điện tử của Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

You might also like