Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 169

vietmessenger.

com

Phan Hồng Trung

Kim Cổ Kỳ Quan

Dịch giả: Phan Hồng Trung

Lý Thái Bạch

Tại huyện Châu Cẩm tỉnh Tứ Xuyên, đời vua Huyền Tôn nhà Đường có một người đàn bà nằm mộng thấy
sao Trường Canh sa vào mình, thọ thai sanh đặng một đứa con trai giòng họ Là. Vì sao Trường Canh có tên
là Thái Bạch, cho nên bà đặt tên con bà là Là Bạch, hiệu là Thái Bạch.

Là Bạch mới lên mười tuổi mà dung nhan phong nhã, cốt cách phi phàm, lại có tinh thông thư sử, xuất khẩu
thành thơ, ai ai đều cho Là Bạch là một vì tiên giáng thế. Do đó mọi người gọi Là Bạch là Là Trích Tiên ; và
Là Bạch cũng tự đặt cho mình biệt hiệu là Thanh Tiên cư sĩ.
Con người đã vậy, thích gì đến công danh phú quà, Là Bạch trọn đời ngâm thơ, uống rượu, du ngoạn khắp
nơi, nghe chỗ nào có rượu ngon thì lần tới.

Tại Hồ Châu, quận Ô Tình đồn có rượu rất ngon, Là Bạch chẳng quản đường xa ngàn dặm, lần tới, lên lầu
gọi rượu đến uống say mèm.

Lúc đó, Tư mã Hồ Châu tên Già Diệp đi qua, nghe trên lầu có giọng ngâm thơ ran rản, bèn cho người dò hỏi
xem ai ?

Là Bạch đáp lại bằng 4 câu thơ như vầy :

Thanh Tiên cư sĩ trích tiên nhân,


Tửu tứ đào danh tam thập xuân
Hồ Châu Tư Mã hà tu vấn... ?
Kim túc như lai thị hậu thân

Nghĩa là :

Thanh Tiên cư sĩ ấy người tiên,


Với tuổi ba mươi rượu lại ghiền.
Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi...?
Hậu thân kim túc chớ nên phiền.

Tư Mã Hồ Châu nghe mấy câu thơ giật mình hỏi :

­ A ! Té ra là Là Bạch người đất Thục mà tôi không biết xin túc hạ hỉ xả cho.

Nói xong Hồ Châu mời Là Bạch về công đường đã đằng mười ngày thơ rượu rất hậu.

Hồ Châu Tư Mã hỏi :

­ Túc hạ là người có tài cao học rộng, dễ mà đoạt lấy đai vàng mũ bạc, tại sao túc hạ không đến trường an
mà ứng thi ?

Nét mặt thản nhiên, Là Bạch đáp :

­ Cuộc thế đang hỗn loạn, chạy theo tiền tài xua bợ, kẻ nào có tiền lo lót thì được đỗ cao. Chính con mắt đệ
thấy thế nên đệ đành ngao du đây đó, uống rượu ngâm thơ, để tránh cái bực mình khi thấy bọn khảo quan
dốt nát, tự cho mình là thần thánh, nhai đi nhai lại vài phuông sáo ngàn đời của cổ nhân. Họ nằm trong một
đáy giếng mà họ những tưởng họ đang ở trong bể cả. Nực cười thay !

Tiếc vì tài năng quán thế mà không có chỗ dùng nên Tư Mã Hồ Châu tỏ lời an ủi :

­ Danh tiếng của túc hạ lâu nay đã lừng lẫy, nếu túc hạ chịu xuống Trường an thì lo gì không có người tiến
cử.

Cảm động trước tấm thịnh tình của Tư Mã Hồ Châu, Là Bạch nghe theo, lên đường về Trường an ứng thí.

Khi về đến Trường an, Là Bạch vào cung Tử Cục để du ngoạn lại gặp được Hạ Tri Chương đang giữ chức
Hàn Lâm tại Triều.

Tuy mới gặp nhau, song hai người đã nghe danh nhau nên rất hâm mộ. Hạ Tri Chương mời Là Bạch về nhà
kết làm anh em, cả ngày đàm đạo, lúc thi ca, lúc tiểu nguyệt rất là tương đắc.

Chuỗi ngày thoăn thoắt trôi chẳng mấy lúc mùa thi đã đến.

Hạ Tri Chương bảo Là Bạch :


­ Mùa thi năm nay quan Chủ khảo Nam Tỉnh là Thái sư Dương Quốc Trung, anh ruột của Dương Qùa Phi,
còn quan giám sát lại là thái úy Cao Lực Sĩ, cả hai người này thuộc về bọn tham ô, nhũng lạm. Hiền đệ tánh
khẳng khái, không chịu luồn cúi kẻ tiểu nhân, lại không có vàng bạc để đút lót cho chúng thì dầu có tài xuất
quỷ nhập thần đi nữa cũng khó mà chiếm được bảng vàng. Nhân tiện tôi có quen với hai người đó, vậy để
tôi viết cho hiền đệ một bức thơ giới thiệu, may ra hiền đệ có thể đem cái thiên tài lỗi lạc của mình tạo thành
sự nghiệp, vẻ vang thanh danh để thỏa cái chí bình sinh.

Trước lời tâm huyết, Thái Bạch không nỡ từ chối, đành để cho Hạ Tri Chương viết bức thơ giới thiệu, đem
đến dâng cho thái sư Dương Quốc Trung, và thái úy Cao Lực Sĩ.

Hai người này xem thơ rồi cười lạt, bảo nhau :

­ Chẳng biết cái lão Hạ Tri Phương đã mắc nợ Là Bạch bao nhiêu vàng bạc mà ân cần viết thơ giới thiệu với
chúng ta, lại nói miệng tày, không dâng một lễ vật gì cả. Đời nay những đứa thi nhân mơ mộng không hiểu
lấy một chút nhân tình. Họ làm thơ thì hay thật, song xử thế thì rất vụng về. Há dễ họ không biết đời nay tiền
tài phải đi trước nhân nghĩa sao ? Vậy thì hễ đến ngày tựu trường, chúng ta thấy tên Là Bạch cứ việc đánh
hỏng ngayđ ể cho họ một bài học kinh nghiệm đời vậy.

Rồi ngày thi đến... Khoa thi mở rộng để chọn nhân tài. Bọn khảo quan tham ô đã đồng à sẵn, nêu ra câu thi
sấm như vầy :

“Bất nguyện văn chương quán thiên hạ, chỉ nguyện văn chưrơng trúng khảo quan”.

Nghĩa là : “Chẳng mong văn chương hơn mọi người, chỉ mong văn chương hợp à quan trường”.

Dĩ nhiên, Là Bạch văn chương lỗi lạc, sức lực có thừa, chỉ trong chốc lát đã làm xong thi quyển đem nạp cho
quan trường.

Dương Quốc Trung tiếp lấy, xem qua thấy tên Là Bạch bèn lấy bút son gạch tréo, đánh hỏng, rồi chỉ vào mặt
Là Bạch nói :

­ Chỉ đáng mài mực để hầu người...

Cao Lực Sĩ cũng a dua nói :

­ Hạng thí sinh ấy chỉ đáng tháo giày, xỏ tất mà thôi.

Nói xong, đuổi cổ Là Bạch ra khỏi trường thi.

Là Bạch uất hận tràn đầy, trở về nội phủ than ngắn thở dài, thầm trách những kẻ tham ô, tật đố và nói với Hạ
Tri Chương rằng :

­ Nếu sau này mà tôi có đắc lộc, quyết sẽ bắt thái sư Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho
đền lại những ngày nhục nhã.

Hạ Tri Chương thế cũng đau lòng, vội vàng khuyên giải :

­ Hiền đệ chớ có nản lòng, hãy cứ ở lại tệ xá, chờ ba năm nữa đến kỳ thi, may ra gặp những khảo quan
thanh liêm chánh trực, chừng ấy hiền đệ được bảng hổ đề tên cũng chưa muộn.

Là Bạch nghe theo. Từ đó hai người tri kỷ, lúc vịnh nguyệt, lúc mơ trăng không nhắc gì đến chuyện thi cử
nữa cả.

Bỗng một hôm, sứ giả nước Phiên đem thơ đến triều. Vua Huyền Tôn giáng chiếu sai Hạ Tri Chương ân cần
tiếp đãi sứ giả.
Rạng ngày hôm sau, vua Huyền Tôn lâm triều, truyền cho sứ giả dâng thơ, và khiến Hạ Tri Chương mở ra
xem trước long án.

Hạ Tri Chương mở bức thơ ra không biết một chữ nào cả.

Vua Huyền Tôn tức giận cho đòi cả triều thần văn ban, võ bá đến, hỏi xem có ai biết được thứ chữ riêng của
nước đó không ? Cả triều thần đều mù tịt.

Huyền Tôn đập long án hét :

­ Trong triều có bao nhiêu người lãnh bảng vàng bia đá, lộc cả quyền cao, lúc bình thường thì múa môi khua
mép, đến lúc hữu sự lại nín tiếng câm hơi. Chẳng lẽ chừng ấy, cẩm bào, chừng kia hốt bạc mà không được
lấy một người học rộng tài cao để đọc bức thơ của Phiên quốc ? Nếu thơ không đọc được thì biết đâu mà
trả lời, và như thế còn gì thể diện của Thiên Triều nữa. Trẫm hạn cho các khanh 6 ngày nếu không đọc được
bức thơ của Phiên quốc thì Trẫm sẽ cách chức hết.

Các quan văn võ, ai nấy mặt mày tợ nhuộm chàm, đứng ngơ ngẩn nhìn nhau như những bức tượng đá.

Lúc bãi triều, Hạ Tri Chương buồn bực trở về nhà kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Là Bạch nghe. Là Bạch
tủm tỉm cười rồi ngao ngán nói :

­ Nếu khoa thi trước kia mà không có những bọn gian thần tham nhũng thì ngày nay triều đình đâu có cái
nhục đó !

Hạ Tri Chương nghe Thái Bạch nói, giật mình hỏi :

­ Thế ra hiền đệ có thể đọc được chữ của nước Phiên sao ?

Là Bạch khiêm tốn đáp :

­ Có lẽ...

Hạ Tri Chương mừng rỡ vô cùng. Sáng hôm sau, Hạ Tri Chương vào triều thật sớm, ngồi đợi nơi viện Đãi
Lâu.

Ba hồi chuông Cảnh dương nổi dậy, tiếp theo ba hồi trống Long Phụng rung lên, vua Huyền Tôn vội vã từ giã
các cung phi lâm triều.

Triều thần bái yết xong, Hạ Tri Chương quỳ tâu :

­ Muôn tâu Bệ hạ, muốn đọc bức Phiên thư, hạ thần nhắm đi nhắm lại trong nước chỉ có một người. Người
ấy họ Là tên Bạch, một kẻ học rộng tài cao, thiên tư lỗi lạc, ngoài ra không còn ai nữa.

Vua Huyền Tôn phán hỏi :

­ Là Bạch hiện nay ở đâu ?

­ Tâu Bệ hạ, Là Bạch hiện đang ở nhà hạ thần.

Vua Huyền Tôn chuẩn tấu cho người đến tư dinh Hạ Tri Chương để thỉnh Là Bạch.

Sứ giả đi một lúc trở về tâu :

­ Tâu Bệ hạ, hạ thần đã đến mời Là Bạch nhưng Là Bạch không chịu yết kiến, viện lẽ là kẻ vô tài kém đức,
không đáng mặt triều kiến Bệ hạ.

Nhà vua hỏi lại Hạ Tri Chương :


­ Là Bạch không chịu phụng chiếu vì lẽ nào vậy ?

Hạ Tri Chương đáp :

­ Tâu Bệ hạ, Thái Bạch vì hiện có cái nhục năm trước vào trường thi bị khảo quan đánh hỏng đuổi ra trường.
Nay áo vải vào triều nên hổ thẹn, vậy xin Bệ hạ rộng lượng ban ơn huệ, thì thế nào y cũng phụng chiếu.

Huyền Tôn y tấu, sai người đến phong chức tiến sĩ cập đệ cho Là Bạch, lại cấp đai vàng, bào tía, hốt ngà,
mão gấm để cho vẻ vang nhà thơ “tửu hứng tiên thơ...”

Hạ Tri Chương còn sợ Là Bạch không khứng, nên trở về nhà bảo Bạch :

­ Nay Thiên Tử đã có lòng ái mộ hiền nhân, vậy hiền đệ đừng vì hiềm tˇ lũ tham quan mà phụ lòng Thiên Tử,
bỏ lỡ dịp may.

Bạch vâng lời, mặc triều phục, theo Hạ Tri Chương vào triều bái yết.

Huyền Tôn thấy Là Bạch cốt cách đoan trang, phong lưu tuấn tú như vị tiên giáng thế, trong lòng thầm phục,
và phán rằng :

­ Nay có thư Phiên quốc đưa đến, cả triều thần không ai đọc nổi, vậy trẫm triệu khanh đến để cùng trẫm chia
lo.

Thái Bạch tâu :

­ Tâu Bệ hạ, tài năng của hạ thần chưa đủ làm vừa à khảo quan thì dám đâu mong làm vừa lòng Bệ hạ.

­ Khanh đừng tự hạ mình như thế, xem tướng mạo của khanh, trẫm đã biết tài của khanh đến bực nào rồi.

Nói xong, Huyền Tôn sai thị vệ đòi Phiên sứ đến.

Là Bạch mở thư trước mặt sứ thần đọc to :

“Đại Khả Độc nước Bột Hải gởi Đường Triều khẩn khán :

Từ khi người chiếm cứ nước Cao Ly đến nay, hai biên giới tiếp liền, binh sĩ hai bên nhiều lần gây hấn. Bản
quốc không thể nhẫn nại trước hành động của quân gia Đường quốc nữa, nên sai sứ đến Đường triều, nếu
thuận thời đem tất cả một trăm bảy mươi sáu thành Cao Ly nhường lại cho bản quốc, sẽ có những tặng
phẩm sau đây phụng tặng : nai Hạnh sơn, vóc Nam Hải, trống Bành thành, hưu Phù dư, lợn Trịnh hiệc, ngựa
Suất Tân, lục ốc châu, cá Vị Đà, mận Cửu Lộ, lê Lạc Ty.

Nếu kháng à, bản quốc sẽ cho binh biến, chừng ấy máu rây ngàn dặm, ăn năn thì đã muộn, chớ trách bản
quốc không cho biết trước”.

Huyền Tôn nghe xong bức thư mặt mày biến sắc, hỏi văn võ bá quan :

­ Nay Phiên vương ngạo mạng Thiên Triều lại hăm chiếm đoạt Cao Ly, vậy các khanh có cách gì chế ngự
không ?

Cả đình thần đều im bặt.

­ Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ hỏi thử Thái Bạch có à kiến gì hay chăng ?

Huyền Tôn hỏi Là Bạch, Là Bạch tâu :

­ Việc này không có gì đáng để Thánh Thượng phải nhọc tâm. Ngày mai, xin Bệ hạ cho đòi Phiên sứ vào
triều, hạ thần sẽ viết một phong thư bằng chữ Phiên bang mà trả lời, cho chúng nó một bài học thích đáng
thì chúng nó phải phục tòng.

Huyền Tôn hỏi :

­ Trong thư tự xưng là Khả Độc, vậy Khả Độc là người nào ?

Là Bạch tâu :

­ Khả Độc là tên vua nước Bột Hải.

Thấy Là Bạch đối đáp thông suốt, vua Huyền Tôn bèn phong cho Bạch chức Hàn Lâm học sĩ, lại truyền tứ
yến tại Kim Loan, cho phép Là Bạch tự do chè chén, không phải bó buộc vào nghi lễ.

Bạch uống rượu đến say tít cung trăng, không còn biết đất trời gì cả. Nhà vua sai thị vệ đỡ Bạch lên nằm ở
Điện tiền.

Hôm sau, đầu trống canh năm vua Huyền Tôn đã lâm triều còn Là Bạch say mèm chưa tỉnh.

Bọn nội thị lay gọi, Là Bạch vẫn nằm ỳ ra đấy. Nhà vua thấy thế bèn bắt ngự trù nấu canh cho Là Bạch ăn để
giải rượu.

Lúc thị vệ dâng canh lên nhà vua thấy canh còn nóng bèn tự mình cầm thìa khuấy cho nguội để cho Là Bạch
dùng.

Là Bạch tạ Ơn, dùng xong mấy thìa canh thấy trong người tỉnh mỉnh, ma men bay đâu mất.

Một lúc sau, Phiên sứ vào triều kiến, Là Bạch đứng bên ngự tọa, tay cầm bức thư của Phiên sứ đọc rất to,
không lầm lộn một chữ nào.

Phiên sứ thấy thế sợ sệt vô cùng.

Là Bạch thay vua phán rằng :

­ Nhà ngươi là sứ một tiểu quốc lại dám vô lễ với thiên triều, lẽ ra phải xử tội; tuy nhiên, thánh thượng dùng
lượng cả bao dung, vậy nhà ngươi hãy phục sẵn dưới thềm để chờ lời phê chiếu.

Vua Huyền Tôn truyền đặt văn kỷ thất bảo bên Ngự Tọa, dùng nghiên Bạch Ngọc, bút ngà, mực Long Yên,
giấy Kim hoa tiên và nhắc cẩm đôn đến đặt bên Ngự tọa để cho Là Bạch thảo chiếu.

Là Bạch tâu :

­ Giày của hạ thần không được thanh khiết cho lắm, e phạm đến Thánh thể, vậy xin Bệ hạ cho phép hạ thần
được cổi giày đi tất không, để lên điện ngọc.

Vua Huyền Tôn nghe nói, toan truyền bọn nội thị tháo giày cho Là Bạch, nhưng Là Bạch đã tâu thêm :

­ Hạ thần có một lời, xin Bệ hạ tha cho hạ thần cái tội cuồng vọng này.

­ Được, khanh muốn gì cứ việc tâu, dù khanh có lầm lỗi đến đâu, trẫm hứa không chấp trách.

Là Bạch tâu :

­ Ngày trước hạ thần vào thi bị thái sư Dương Quốc Trung và thái úy Cao Lực Sĩ đánh hỏng. Nay hai người
có mặt làm cho văn khí hạ thần bị bế tắc. Vậy muốn cho văn à của hạ thần được phấn khởi, rửa nhục cho
quốc vương, xin Bệ hạ truyền cho thái úy tháo giày và thái sư mài mực để cho hạ thần thảo chiếu.
Vua Huyền Tôn nghe qua sững sốt, nhưng không biết phải làm sao, đành truyền chỉ bắt Dương Quốc Trung
mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho Là Bạch. Hai người này tự biết không thể cãi lịnh đành phải cúi đầu trơ
mặt tuân hành trước văn ban võ bá.

Là Bạch đắc à, ngạo nghễ ngồi trên cẩm đôn, một tay vuốt râu, một tay múa bút.

Thảo xong tờ chiếu, Là Bạch đứng lên long án.

Vua Huyền Tôn thấy tự tích không khác gì bức thư của Phiên bang, tuy không nói ra, lòng rất đẹp à, nghĩ
thầm : “Con người tài cao học rộng như vầy, dầu ta có bắt thái sư mài mực, thái úy tháo giày cũng là việc
phải”.

Nghĩ xong, truyền cho Phiên sứ phục chỉ.

Là Bạch đến trước Ngự tọa, cao giọng đọc bức chiếu thư :

“ Hoàng đế Thiên triều chiếu dụ cho Khả Độc nước Bột Hải biết : trước đây Thạch Nhoãn đầu phục, Đà Long
lai hàng, bản triều ứng theo mệnh trời mà lập ngôi Hoàng đế, lấy đức vỗ bốn phương, lấy oai trị thiên hạ,
binh hùng tướng mạnh, các nước lân cận thảy khiếp oai. Điệt Lợi bội thề nên bị bắt, Tán Phổ khiếp vía phải
hàng đầu; Tân La, Thiên Trúc, Ba Tư hằng năm dâng cống lễ; Lâm ấp, Cốt Lợi, Nê Rà La, đều sợ thế chẳng
dám giở đao binh.

Cao Ly vì trái à Thiên trièu, nên bị Thiên triều vấn tội. Tấm gương ấy đáng cho nước nhà ngươi soi. Nay
nước Bột Hải chỉ là một nước phụ thuộc của Cao Ly, sánh với Trung Quốc chẳng quá là một quận bé nhỏ,
binh tướng, lương thực có bao nhiêu mà dám châu chấu đá voi. Nếu nghịch mạng trời ắc là không tránh khỏi
tội.

Nay Thiên triều đức trọng ơn dày, lấy lời nhơn nghĩa mà dung thứ cho kẻ cuồng si ; vậy khuyên Khả Độc
mau sớm tỉnh ngộ, xưng thần nộp cống, cãi lịnh, xương phơi thành núi, máu chảy thành sông, mua cười cho
thiên hạ”.

Nay dụ.

Vua Huyền Tôn nghe đọc, khoan khoái vô cùng, truyền nội giám trao lời chiếu cho Phiên sứ.

Phiên sứ cũng thất kinh không dám nói một lời, cúi đầu bái mạng, rồi bước ra.

Hạ Tri Chương đưa Phiên sứ ra đến cửa ngọ môn, Phiên sứ hỏi :

­ Người thảo chiếu làm chức chi trong triều mà lại khiến thái sư mài mực, thái úy tháo giày như thế ?

Hạ Tri Chương đáp :

­ Người ấy tên Bạch họ Là, được phong làm chức Hàn Lâm học sĩ. Đấy là một bậc thần tiên trên cung trời
trích giáng để giúp Thiên triều. Thái sư, thái úy bất quá là một người phàm, há đi mài mực cho ông ta không
đáng sao ?

Phiên sứ ghi nhớ mọi điều, về đến kinh đô tâu lại đầu đuôi cho vua xứ Bột Hải rõ. Khả Độc nghe nói có thần
tiên giáng trần giúp sức nên khiếp đởm, bao nhiêu à tưởng khinh dễ điều tiêu tan cả, vội vã viết hàng thư sai
người đem lễ vật triều cống như trước.

Vì vậy, vua Huyền Tông trọng đãi Là Bạch vô cùng, muốn gia phong cho Là Bạch thêm chức tướng nhưng
Là Bạch một mực từ chối :

­ Tâu Bệ hạ, bạc tiền, châu báu, chức tước đối với hạ thần không thích thú bằng tiêu dao nhàn hạ, xin Bệ hạ
cứ cho giữ tước Học sĩ du ngoạn, hễ gặp rượu ngon thì uống, đủ vậy.
Biết Là Bạch là bực thanh cao không dám làm phật lòng. Từ đấy cứ lâu lâu nhà vua lại mở yến diên thết đãi
và thỉnh thoảng triệu Là Bạch vào cung nội để bàn việc quốc sự.

Một hôm, Bạch cỡi ngựa thẩn thơ trước trường an, bỗng gặp một bọn đao phủ dẫn một chiếc tù xa đến pháp
trường. Hỏi ra mới biết đó là viên tướng phạm tội, từ Tinh Châu giải về sắp hành quyết. Người ấy họ Quách
tên Tử Nghi.

Là Bạch thấy Tử Nghi mày ngài hàm én, biết là một tên kiện tướng có thể làm rường cột cho quốc gia sau
này, bèn vội vã ra lệnh cho đao phủ thủ tạm ngưng việc hành quyết.

Dặn xong, Là Bạch cỡi ngựa về triều cầu xin một đạo chỉ ân xá tội nhơn, rồi lại phi ngựa ra pháp trường, mở
tù xa, thả Tử Nghi ra mà khuyên nhủ nên gắng sức đoái công phục tội để khỏi phụ lòng mong ước của Bạch.

Tử Nghi lạy tạ Ơn cứu mệnh, hỏi tên họ Là Bạch rồi từ giả.

Lúc bấy giờ nơi hoàng cung đến mùa hoa mẫu đơn đua nở, khoe sắc đủ màu. Giống hoa này là giống hoa
Mộc thược dược của nước Dương Châu đem cống hiến, gồm có 4 thứ là : Đại Hồng, Thâm Tử, Thiển Hồng
và Thông Bạch.

Vua Huyền Tôn truyền dời những hoa ấy đến điện Trầm Hương để ngắm cung phi, thưởng hoa dưới nguyẹt,
lại đòi bọn đệ tử Lê Viên đến đó hòa nhạc cho vui.

Tuy nhiên, vì chán nghe những bản nhạc cũ, nên nhà vua phán rằng :

­ Ngắm cung phi, thưởng danh hoa, không nên nghe những khúc cổ nhạc nhàm tai mãi.

Vua truyền cho một con hát có danh tên là Là Quy Niên đến triệu thỉnh Là Bạch vào cung.

Là Quy Niên tìm mãi mới gặp Là Bạch đang say mèm trong quán rượu, và đang ngâm thơ :

Tam bôi thông đại đạo


Nhất đẩu họp tự nhiên
Đản đắc tửu trùng thú
Vật vi tỉnh giả truyền

Nghĩa là :

Ba chung rành đạo lớn


Một đấu hợp tánh thiêng
Say sưa trong thú rượu
Còn hơn kẻ tỉnh điên

Giọng thơ ran rản bên ngoài, Là Quy Niên biết đúng là Là Bạch, vội lần vào quán và truyền mệnh lệnh của
Huyền Tôn :

­ Thưa học sĩ, Thánh thượng va Qùa Phi hiện đang ngự tại điện Trầm Hương, dạy đòi học sĩ đến để đàm
đạo, xin học sĩ đi ngay cho.

Là Bạch không đáp, trợn đôi mắt đỏ ngầu nhìn Là Quy Niên rồi ngâm tiếp một đoạn thơ của Đào Uyên Minh,
cùng một giòng ma rượu :

Ngã túy dục miên, quân thả khứ

Nghĩa là :

Ta say thích ngủ, đừng ai đến


Ngâm xong, Là Bạch nhắm mắt ngủ li bì, chẳng kể gì đến lệnh vua chúa gì hết...

Là Quy Niên thấy thế cười ngặt nghẽo, gọi năm bảy tên tùy tùng leo lên lầu khiêng Là Bạch xuống, đặt lên
yên ngựa, đỡ hai bên, để cho ngựa chở thẳng về lầu Ngũ Phượng. Xong vào báo cho vua Huyền Tôn rõ.

Vua Huyền Tôn đặc cách cho phép Là Bạch được đi ngựa thẳng vào Trầm Hương, rồi cùng với Phi Tử lên
lầu nhìn xuống thấy Là Bạch ngồi ngất ngưỡng trên lưng ngựa, xiêu bên này, vẹo bên kia, ai trông thấy cũng
phải tức cười.

Vào đến điện Trầm Hương, Là Bạch nằm vật trên long khảm mắt nhắm híp, miệng chảy đầy nước dãi... Nhà
vua xem thấy động lòng, vội lấy áo long bào lau cho đứa con cưng của “Nàng thơ”.

Phi Tử tâu :

­ Muôn tâu, thần thiếp nghe người ta nói nước lạnh có thể dùng giải rượu được.

Vua nghe nói liền sai thị vệ đem nước lạnh đến giải rượu cho Là Bạch. Quả nhiên, vừa uống cạn ly nước, Là
Bạch tỉnh rượu ngay, vội vàng quà mọp xuống đất tạ tội.

Nhà vua đỡ Là Bạch dậy và nói :

­ Nay trẫm cùng Phi Tử thưởng hoa, muốn có một khúc nhạc tân kỳ, vậy nên triệu khanh đến để viết khúc ca
chương thanh bình điệu.

Thấy văn phòng tứ bảo đã đặt sẵn trước mặt, Là Bạch liền cầm bút thảo ngay :

Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung


Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng
Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng giao đài nguyệt hạ phùng;

Dịch :

Mây vờn như áo, hoa như mặt


Sương đượm hơi xuân, lướt bóng hoa.
Quần ngọc đầu non bằng chẳng thấy,
Cung giao ngỡ tưởng bóng trăng tà...

Nhất chi hồng diểm lệ ngưng hương,


Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán Cung thùy đắc tự ?
Khả lân Phi yến ỷ tân trang !

Dịch :

Một cành hồng thắm đượm hơi hương,


Mưa gió non vu luốn đoạn trường.
Hỏi thử Hán Cung ai dám sánh ?
Khá thương Phi Yến chốn Tân trang !

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,


Tường đắc quân vương đới tiếu khan...
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm hương đình bắc ỷ lan can.

Dịch :
Hương trời, sắc nước gợi vui tươi,
Tửu mến quân vương hé nụ cười...
Gió thoảng hơi xuân vô hạn hận,
Trầm hương đứng ngắm tựa lan can.

Là Bạch viết xong dâng lên, Huyền Tôn xem thấy tình à tuyệt trần, trong lòng phơi phới, truyền cho Là Quy
Niên theo điệu mà hát.

Qùa Phi lạy tạ Ơn vua đã chiếu cố đến mình.

Huyền Tôn ói :

­ Không phải tạ Ơn trẫm, khanh nên tạ Ơn Học sĩ mới phải.

Qùa Phi lấy ve vàng chén ngọc rót đầy ly rượu, sai cung nữ đưa mời Là Bạch.

Từ đó trong cung lúc nào có yến tiệc cũng mời Là Bạch đến. Qùa Phi yêu mến Là Bạch khác thường, mối
tình tài tử giai nhân chớm nở cũng như sợi dây oan nghiệt nghìn đời ràng buộc mãi với kiếp người tài hoa.

Lẽ ra có thể làm đổ nước nghiêng thành đi được, song Là Bạch lại là người chỉ thích có rượu thơ, đâu có
tham vọng những mùi vinh hoa phú quà. Nhà thi sĩ tài hoa kia lạnh nhạt trước mối tình thầm kín của Qùa
Phi. Còn Qùa Phi yêu mà không được người ta yêu lại, bực tức đến nỗi sanh ra thù oán. Sự đời là thế, chữ
yêu đổi ra chữ oán không mấy hồi.

Lúc bấy giờ trong triều có Cao Lực Sĩ là hạng rắn độc, trong lòng ấp ủ mối thù với Là Bạch bắt y tháo giày
thuở nọ, nên thăm dò biết được mối tình tuyệt vọng của Đào Qùa Phi có thể dùng làm lợi khí cho hắn phun
độc dược, liền thừa cơ hội ấy dèm pha rằng :

­ Theo ngu à của kẻ hèn này thì ba bài bình điệu của Là Bạch lẽ ra Nương Nương phải oán ghét lắm mới
phải, cớ sao Nương Nương lại ngợi khen đến thế ?

Qùa Phi hỏi :

­ Tại sao mà nhà ngươi lại cho là phải oán ghét ?

Cao Lực Sĩ rót nhẹ ly rượu vào gói thuốc độc rồi nói :

­ Tâu lệnh bà, câu : “Khả lân Phi Yến ỷ tân trang” nó hàm một nghĩa châm biếm vô cùng.

Chắc Nương Nương cũng rõ nàng Triệu Phi Yến thuở xưa là bậc Hậu Phi của vua Thành Đế, được nhà vua
quà chuộng hơn cả. Phi Yến lại sai mê Sích Phượng và cùng người ấy tư thông. Chẳng may vua Thành Đế
biết được, bắt gặp Sích Phượng trong tủ áo, đem giết ngay trước mặt Phi Yến. Nay Là Bạch đem Phi Yến
sánh với Nương Nương thì đó là một lời nhạo báng rất bóng bẩy. Xin Nương Nương xét k˛ !

Thuở ấy Qùa Phi có nuôi chàng An Lộc Sơn làm con nuôi trong tư cung. An Lộc Sơn với Qùa Phi ngang tuổi
nhau, thế mà Qùa Phi ngày hai ba lần thân hành tắm rửa cho đứa “con cưng” ấy trước mặt vua Huyền Tôn,
mà vua Huyền Tôn cũng không nói gì cả. Thật Qùa Phi còn tệ hơn nàng Phi Yến thuở trước.

Cao Lực Sĩ khéo châm ngòi, đốt lửa, gây vào lòng Qùa Phi một mối hận thù với Là Bạch, nên Qùa Phi tâu
với Huyền Tôn rằng Là Bạch ngạo nghễ, không giữ lễ quân vương.

Bắt đầu từ đó, các cuộc yến ẳm trong cung không mời Là Bạch vào nữa. Và Huyền Tôn cũng không hỏi Là
Bạch về việc triều chính nữa.

Là Bạch cảm thấy lòng yêu chuộng của Huyền Tôn mỗi lúc một lạt lẽo lần, đoán biết Cao Lực Sĩ mưu hại, và
Qùa Phi cố báo thù, nên nhiều lần tâu xin đi nơi khác, nhưng vua Huyền Tôn cố cầm ở lại.
Là Bạch buồn bã, càng ngày càng dầm mình sống trong bể rượu, không thiết tha đến việc đời nữa. Cả đến
người vợ của Là Bạch ở tại Cẩm Thành là Hứa phu nhơn, cũng không bao giờ được Bạch tưởng đến. çi
“Phòng không lặng ngắt như tờ, ngựa ai thấp thoáng lờ mờ hơi sương”. Hứa phu nhơn trông tin mòn mỏi mà
chẳng thấy Là Bạch đâu !

Trong các bợm rượu thân tín với Là Bạch thời ấy là Hạ Tri Chương, Là Thích Chi, Nhữ Dương, Vương Kiến,
Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Bậc, Tiêu Thại, thường hay say sưa ngả ngớn mà người ta gọi là “ẳm trung
bát tiên”.

Một hôm tốt trời, vua Huyền Tôn truyền đòi Là Bạch vào cung để phóng thích con “Phượng Hoàng muôn
thưở” ấy về với đồng nội cỏ hoa cho thỏa lòng ao ước.

Huyền Tôn có đôi lời an ủi :

­ Trẫm thấy khanh tài năng lỗi lạc, tánh tình lại thanh bạch nên đem dạ mến yêu. Nay trẫm tạm cho khanh
được vinh quy, vậy khanh có cần thứ gì trẫm sẽ ban cấp cho.

Là Bạch tâu :

­ Hạ thần không cần gì cả, ngoài một món tiền để uống rượu thôi.

Vua Huyền Tôn hạ chiếu, truyền rao khắp nơi, cho phép Là Bạch đến đâu uống rượu không phải trả tiền. Số
tiền ấy sẽ do ngân khố thanh toán.

Nhà vua lại ban thêm vàng bạc, đai y và cấp 12 đứa tùy tùng theo hầu Là Bạch.

Là Bạch cúi lạy tạ Ơn và nghĩ rằng :

“Vì vua này quả có đôi mắt xanh tương đối vậy”.

Huyền Tôn lại thân cắm hai đóa hoa vàng trên mũ Là Bạch rồi truyền nội thị đỡ Bạch lên ngựa trước ngai
vàng, đưa ra khỏi triều môn. Đó là một ân huệ đặc biệt đối với các vua nước Tàu thời ấy.

Các quan đưa đón, rượu tiễn lời chào từ Trường An đến mười dặm đường chưa dứt.

Chỉ có thái sư và thái úy, hai người lánh mặt, ngồi nhà hả hê sung sướng, khen ngợi diệu kế của mình đã
khéo “tống cổ” được tên “thi sĩ cứng đầu” ra khỏi triều để dễ bề thao túng.

Hạ Tri Chương và cả bợm rượu đều đưa Là Bạch ngoài trăm dặm, viết đến hơn trăm bài thơ tống biệt mà
vẫn chưa cạn tâm tình.

Là Bạch đi rồi, Hạ Tri Chương cảm thấy lòng mình hiu quạnh như mất một cái gì không bao giờ còn tìm thấy
nữa.

Có lẽ trong đời nghệ sĩ của Là Bạch, chỉ có Hạ Tri Chương là người yêu Bạch nhứt.

Trên đường về, tuy Bạch cảm thấy vui với cỏ nội, mây ngàn, tìm lại những cái gì xa xưa đã mờ khuất, song
cũng không khỏi bồi hồi, nhớ đến Hạ Tri Chương người bạn tâm giao, cảm nghĩa cùng nhau nhưng yêu
nhau không trọn.

Ngày kia, Là Bạch về đến Cẩm Châu, gặp lại Hứa phu nhơn, vợ chồng tương mến, duyên cầm sắt lại giao
hòa, nối lại tiếng đàn xưa trong tâm hồn thi sĩ.

Các bè bạn xa gần trên đất Thục, chiều sớm lân la, rượu thơ túy lúy. Thật là một cảnh an nhàn.

Thế mà : “Nửa năm hương lửa đang nồng, trượng phu thoắc đã động lòng bốn phương”. Cho hay con chim
trời không bao giờ chịu đậu một nơi, dù nơi đó là nơi cảnh đẹp hoa tươi, suối ca, gió hát.
Một sớm tinh sương, Là Bạch tỏ à với vợ muốn đi du ngoạn sơn thủy. Mặc dầu Hứa phu nhơn nghe nói
cũng buồn lòng, nhưng nàng đâu phải là chiếc lòng son có thể nhốt được loài chim trời cuồng vọng ấy được,
đành sửa soạn cuộc chia phôi.

Lần này ra đi, Là Bạch không xúng xính mũ cao, áo rộng của chức Học sĩ nữa, mà chỉ ăn mặc theo lối thư
sinh, hay nói cho đúng hơn là một gã học trò nghèo, chỉ đem theo một thằng đồng tử con con và cỡi một con
ngựa ôm ốm, và như thế cũng đã phong lưu chán rồi.

Một hôm, Là Bạch đi đến huyện Hoa Ñm. Tiếng đồn quan huyền này là một vị quan tham ô nhũng lạm, mọt
nước, hại dân. Là Bạch định à “sửa lưng” tên quan chức mục nát ấy.

Bạch đến trước huyện, cho ngựa đi thẳng vào cổng, đánh ba hồi trống làm như không biết huyện quan đang
xét việc nơi công đường.

Huyện quan nghe có tiếng trống đổ hối hả thất kinh tưởng là giặc đến, dớn dác muốn tìm đường tẩu thoát.
Sau biết rõ giận lắm, sai lính lệ xuống lôi cổ Là Bạch lên công đường hạch hỏi.

Là Bạch giả say, không đáp. Quan huyện truyền đem tống cổ tên bợm rượu ấy vào lao để chờ truy cứu.

Khi Là Bạch vào lao được một lúc thì thấy một tên lính lệ mang mực, giấy đến vất vào mặt bảo phải cung
khai đầu đuôi câu chuyện, nếu không thì đánh chết.

Là Bạch mỉm cười, cầm bút viết một hồi :

“Ta là Là Bạch, quê ở Cẩm Châu, nhỏ tuổi, rộng văn chương vung bút giết loài nịnh, Trường An gọi bát tiên,
Trúc Khê xưng Lục Dật; thảo chiếu trừ Phiên quốc, Điện ngọc tự do vào uống rượu mà giải trí, Kim loan chỗ
nghỉ ngơi, canh nóng có vua khuấy, dãi chảy áo vua lau, Dương thái sư mài mực, Cao thái úy tháo giày.
Trước sân rồng Hoàng Đế còn cho ta cỡi ngựa, huống chi tại huyện Hoa Ñm các ngươi lại buộc ta không
được cỡi lừa ư ?”

Viên chủ ngục xem xong lời cung, mình mẩy rụng rời, tay chân run lập cập, vội vã quỳ xuống tạ tội.

Là Bạch nói :

­ Việc này không can hệ gì đến nhà ngươi đâu. Nhà ngươi hãy mau đến công đường nói cho quan huyện
biết rằng ta vâng chỉ Hoàng Thượng đến đây để tra xét tội tham ô của hắn, sao hắn lại dám bắt ta hạ ngục ?

Viên chủ ngục vội vã mang tờ cung khai đến trình lên tri huyện và thuật lại những lời Là Bạch vừa nói.

Tri huyện khiếp vía nắm tay tên chủ ngục chạy thẳng đến lao xá, bắt từ bên ngoài lạy vào, rên rỉ xin Là Bạch
dung tha cho đứa ngu hèn.

Các phủ huyện quanh vùng nghe tin lập tức đến nơi chào mừng Học sĩ và mời Học sĩ thăng thính đường để
xin những lời chỉ giáo.

Là Bạch lấy lời liêm chánh răn dạy mọi người, ai nấy đều vui vẻ nghe theo.

Từ đấy Là Bạch đi đến đâu, các tham quan, ô lại nể mặt không dám hành hạ dân lành như trước nữa.

Kế một thời gian sau đó An Lộc Sơn ­ đứa con nuôi của Qùa Phi ­ nổi loạn, tụ tập một số cường đố cướp
bóc Trường An. Vua Huyền Tôn phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục, giết thái sư Dương Quốc Trung trước
mặt ba quân, và thắt cổ Qùa Phi tại gò Mã Ngôi; mặc dầu những giòng lệ chảy ước long bào, ông vua đa
tình kia cũng phải buộc lòng dứt bỏ lời thề trong đêm thất tịch “tại thiên nguyện tác tị dự điểu, tại địa nguyện
vi liên là chí” : “Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”.

Khúc trường hận của Huyền Tôn đã được nói lên trong lời văn thiết tha bi đát của nhà thi sĩ áo xanh “Giang
Châu Tư Mã” với nỗi hận lòng gởi gắm niềm riêng.

Là Bạch lúc ấy tránh loạn ẩn tại Lư Sơn. Vĩnh Vương Lân lúc bấy giờ lại làm Tiết độ sứ quản thủ cả vùng
đông nam nước Tàu.

Vì thấy Huyền Tôn rời bỏ kinh đô, thiên hạ đại loạn, nên à cũng muốn “thừa cơ một thưở” bèn sai sứ giả đến
triệu Là Bạch về giữ lại trong quân để bàn việc “đại kế”.

Chẳng bao lâu con trai của Huyền Tôn là Túc Tôn lên ngôi kế vị, phong Quách Tử Nghi làm nguyên soái
thống lãnh đại lịnh. Túc Tôn nghe Vĩnh Vương Lân có à tạo phản bèn xuống chiếu sai Quách Tử Nghi đến
vấn tội.

Khi ấy nội bộ của An Lộc Sơn bị nổi loạn : An Lộc Sơn bị đứa con trai giết đi để tiếm ngôi rồi chẳng bao lâu,
đứa con trai của An Lộc Sơn lại bị một tên cận thần phản phúc giết đi để đoạt quyền; do đó, chỉ trong một
thời gian ngắn bọn loạn quân này tan rã, và nhà Đường thu lại được cả hai tỉnh.

Được rảnh tay, Quách Tử Nghi đem quân đánh Vĩnh Vương Lân. Tên phản phúc này bị cô thế bỏ trốn, bị
một tên quân canh bắt được giải đến viên môn.

Còn Là Bạch thì gặp lại được Quách Tử Nghi, đưa Là Bạch về triều tâu cùng vua Túc Tôn, nói rõ tài năng lỗi
lạc của Là Bạch và xin Túc Tôn trọng dụng.

Túc Tôn liền xuống chiếu phong cho Là Bạch làm Tã thập di, nhưng Là Bạch một mực từ chối không nhận.

Từ đó, Là Bạhc một thuyền một lá, thửng thờ sớm bãi chiều gành, rồi đến Kim Lăng, than thở cho những sự
phế hưng diễn biến không ngừng :

“Trùng thu viễn cận thiên quan chủng, hòa thử cao đê lục đại cung”.

Trong óc nhà thơ say ấy có những mối cảm hoài gì trong thế sự ?

Một đêm, khi thả thuyền đến ven sông Thái Thạch, trăng tỏ sao thưa gió hòa nhè nhẹ, vàng trăng lơ lửng
trên không như gieo vào lòng người một mối vô tư, xóa nhòa những cái gì còn nặng vấn vương trong trần
tục, Là Bạch đắm mình trong khung cảnh ấy, ngồi trầm lặng nơi đầu thuyền, uống rượu, uống cả vừng trăng,
“rượu say, say cả vừng trăng dịu hiền”.

Vừng trăng rung rinh đáy nước, rung rinh trong lòng chén, thấm sâu vào tiềm thức siêu thần, Là Bạch thấy
mỗi sợi tóc mình biến thành một vành trăng ngời ngợi sáng... trong phút mê ly, Là Bạch nhảy xuống dòng
sông, ôm mảnh trăng rung rinh tan vở... để trở về nơi cảnh tiên bồng...

Thôi thế là hết một đời tài hoa trên trần tục.

Bạch ra đi... đi mãi không bao giờ còn trở về với Hứa phu nhơn nữa.

Từ đấy Hứa phu nhơn thẩn thơ với gió sớm mây chiều, ôm nửa vầng trăng vạn thuở mà nằm mơ trong giấc
mộng hồn...

Bá Nha

Thời Xuân Thu Chiến Quốc, tại kinh đô, nước Sở (nay thuộc về phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng) có một
người danh sĩ họ Du tên Thụy, hiệu là Bá Nha.

Bá Nha tuy người nước Sở, nhưng lại làm quan nước Tấn đến bực Thượng đại phu. Tấn và Sở thời đó hai
nước giao hảo nhau.

Một hôm Bá Nha phụng mệnh vua Tấn sang nước Sở để gắn liền giây thân hữu giữa hai nước cho bền
vững thêm.

Bá Nha được vua nước Sở trọng đãi, truyền bày yến tiệc đãi đằng rất hậu.

Tuy nhiên, Bá Nha không lấy thế làm vui, vì đã bao năm xa cách đất tổ quê hương, nay lại được trở về, tấm
lòng nhung nhớ những kỷ niệm thân yêu xa xưa lâng lâng vao tâm não. Từ mái gia đình đến những cây
tòng, cây bá, mới ngày nào mà nay đã vừa một người ôm, cái định luật biến chuyển không ngừng đã phủ
một màu tang trên dòng đời xa cũ.

Sau các yến tiệc, Bá Nha đi thăm viếng mộ phần, họ hàng, bè bạn, tấm lòng quyến luyến quê hương càng
thấy thiết tha hơn lúc nào hết.

Nhưng vì nhiệm vụ chưa thành, Bá Nha không dám vì thế mà lưu lại nơi đất tổ, phải đành vào triều để từ giã
quốc vương trở về nước Tấn.

Vua Sở ban khen rất nhiều vàng bạc, lụa là, gấm vóc, và truyền đem ra một chiếc thuyền rất lớn để đưa Bá
Nha về nước.

Bá Nha là một khách phong lưu, lỗi lạc, trong tâm hồn chứa đựng một nguồn tình cảm thanh cao, coi cảnh
vật thiên nhiên như một món ăn tinh thần bất tận.

Một hôm, thuyền đến cửa sông Hán Dương, gặp lúc trăng thu vằng vặc, trời rộng sao thưa, Bá Nha truyền
cắm thuyền dưới chân núi để vui với cảnh đẹp hãi hồ. Mặt nước sông lúc bấy giờ trong vắc như miếng thủy
tinh, gió lộng trăng ngàn bập bềnh sóng vỗ. Bá Nha truyền cho đồng tử đốt lư trầm và lấy túi đàn đặt lên
trước án.

Bá Nha mở tới gấm, nâng cây Dao cầm đặt ngay ngắn rồi thử giây.

Hơi trầm quyện gió, réo rắc đưa tiếng đàn vút tận trên không.

Trong lúc đang hứng thú, bỗng tơ đồng đứt mất một dây, Bá Nha thất kinh tự nghĩ : “Dây đàn đứt ắc có
người quân tử đang nghe nhạc đâu đây ?” Bèn truyền tả hữu lên bờ xem thử kẻ nào đã nghe đờn mà không
ra mặt ?

Tả hữu vâng lịnh vừa toan bước vào bờ, thì từ bên trên có tiếng người nói vọng xuống :

­ Xin Đại nhân chớ lấy làm lạ, vì kẻ tiểu dân kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây nghe tiếng đàn tuyệt dịu
nên chân bước không đành đó thôi.

Bá Nha vừa cười vừa nói :

­ Người tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đờn trước mặt ta, thật là kẻ cuồng vọng. Nhưng thôi, hãy
cho hắn đi !

Từ bên trên lại có tiếng vọng xuống đáp :

­ Đại nhân nói như thế là sai ! Đại nhân nghe câu : “Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín” đó sao ? (Trong cái
ấp mười nhà ắc có người trung tín). Trong nhà có người quân tử ở thì ngoài cửa có người quân tử đến. Vả
lại nếu Đại nhân khinh rằng trong chốn núi non quê mùa không có người biết nghe nhạc, thì tiếng đàn tuyệt
diệu của Đại nhân cũng không nên gảy lên ở đây làm gì ?

Nghe câu trả lời ấy Bá Nha hơi ngượng, biết mình đã lỡ lời, liền vội vã bước ra trước mũi thuyền hỏi :

­ Nếu kẻ trên bờ quả thật là một người biết nghe đờn thì đây ta hỏi thử, vậy chớ ta vừa khảy khúc gì đó ?

Giọng nói trên bờ vẫn bình thản vọng xuống :


­ Đó là khúc “Khổng Vọng Vi” than cái chết của Nhan Hồi, nhưng vì bị đứt dây nên mất một câu chót. Khúc
ấy như vầy :

Khả tích Nhan Hồi mệnh tảo vương


Giáo nhân tư tưởng, mấn như sương !
Chỉ nhân lậu hạng, đan, biểu lạc,

Còn khúc chót như vầy :

Lưu đắc hiền danh vạn cổ cương

Dịch :

Khá tiếc Nhan Hồi sớm mạng vong


Tóc sương rèn đúc lấy nhơn tâm !
Đan, biểu ngõ hẹp vui cùng đạo,
Danh tiếng lưu truyền vạn cổ niên.

Bá Nha nghe xong lòng mình phất phới, vội vã sai kẻ tùy tùng bắc cầu lên bờ để triệu thỉnh người lạ mặt
xuống thuyền tâm sự.

Bọn đầy tớ tuân lệnh, song bọn này là những đứa phàm tục, những con mắt thịt ấy đâu phân biệt được kẻ
quà người hiền, chúng quen thói xua bợ, hễ thấy người sang trọng thì thưa bẩm, thấy kẻ nghèo kó thì khinh
khi, thấy chủ mình sai đòi một người tiều phu nón lá, áo vả, tay cầm đòn gánh, lưng giắt búa cùn, chân đi
giày cỏ, chúng lên mặt hống hách, nạt nộ :

­ Hãy đi xuống thuyền ngay, và phải giữ lễ. Hễ thấy lão gia phải sụp lạy, lão gia có hỏi gì thì phải lựa lời mà
nói kẻo mất đầu đó !

Người tiều phu vẫn thản nhiên như không nghe lời nói của chúng, từ từ bước xuống thuyền, bỏ đòn gánh và
chiếc búa cùn nơi mũi thuyền, rồi bước vào yết kiến Bá Nha.

Trông thấy Bá Nha, người tiều phu chỉ xá dài mà không lạy.

Bá Nha thấy thế cũng ngạc nhiên, song cũng đưa tay chào đón, nói :

­ Thôi, xin quà hữu miễn lễ cho.

Rồi như muốn thử tài năng người tiều phu xem thực chất đến đâu, Bá Nha sai đồng tử nhắc ghế mời tiều
phu ngồi lại bên mình và hỏi :

­ Hiền hữu biết nghe đờn chắc là biết ai chế ra cây Dao cầm, và biết chơi đàn có những thú gì chớ ?

Gã tiều phu mỉm cười đáp :

­ Đại nhân đã hỏi đến, chẳng lẽ tiểu dân không nói ra những cái mình biết. Xưa kia vua Phục Hy thấy có năm
sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng, và chim Phượng Hoàng đến đó đậu, nhà vua biết ngô đồng là thứ gỗ quà,
hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng nó chế làm nhạc khí được, liền sai người hạ xuống cắt làm ba
đoạn. Đoạn ngọn tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa
đục, có thể dùng được.

Vua bèn đem ngâm nơi giữa dòng nước chảy bảy mươi hai ngày, đoạn đem phơi trong mát chờ cho thật
khô, lựa tay thợ khéo là Lưu Tử Kỳ chế thành cây Dao cầm.

Dao cầm dài ba thước, sáu tấc, một phân, án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám
tấc án theo tám tiết; mặt sau rộng bốn tấc, án theo bốn mùa; bề dày hai tấc án theo lưỡng nghi.
Đàn ấy gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong một năm, lại có một phím nữa, tượng
trưng cho tháng nhuần, trên mắc năm dây án theo ngũ hành, trong tượng ngũ âm : cung, thương, dốc, vũ,
chủy. Trước kia vua Thuấn khảy đàn ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Châu Văn Vương ở tù Dũ Là, Bá ấp
Khảo thương nhớ, thêm một giây oán gọi là dây văn huyền (dây văn). Lúc Vũ Vương đánh vua Trụ, trước
ca, sau múa thêm một dây

phẩn kích để phấn khởi gọi là dây vũ huyền (dây vũ). Như vậy trước kia có năm dây, sau thêm hai dây nữa
là thất huyền cầm.

Đàn ấy có sáu “kỵ” và bảy “không”. Sáu “kỵ” là kỵ rét lớn, nắng lớn, gió lớn, tuyết rơi lớn; gặp lúc ấy người ta
không dùng, còn bảy “không” là không đàn đám tang, không đàn trong lúc lòng nhiễu loạn, không đàn trong
lúc bận rộn, không đàn trong lúc thân thể không sạch, không đàn trong lúc y quan không tề chỉnh, không đàn
trong lúc không đốt lò hương, không đàn trong lúc không gặp tri âm.

Lại còn có thêm tám “tuyệt” là : thanh, kỳ, u, nhã, li, tráng, lu, trường. Trong tám tuyệt ấy gợi đủ cả các tình
cảm, vì vậy tiếng đàn có thể đi đến tuyệt vời vậy.

Bá Nha nghe nói biết người tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính trọng hỏi :

­ Hiền hữu quả là một người tinh thông nhạc là. Trước kia Khổng Tử đang gảy đờn Nhan Hồi bước vào
thoảng nghe có tiếng u trầm, biết lòng Khổng Tử có à tham sát, nên lấy làm lạ hỏi ra mới biết Khổng Tử
đang đờn, thấy một con mèo bắt chuột nên à niệm ấy xuất lộ ra tiếng tơ đồng. Vậy thì trước kia Nhan Hồi
nghe tiếng đờn mà biết lòng người, còn hiền hữu ngày nay nghe ta đờn có biết lòng ta đang tư lự gì chăng ?

Người tiều phu đáp :

­ Xin Đại nhân cứ khảy cho tôi nghe một khúc, nếu may ra có cảm thông được thì đó cũng là điều may mắn.

Bá Nha nối dây đờn, gảy khúc “à tại non cao”.

Tiều phu mỉm cười nói :

­ Tuyệt thay ! à chí cao vút ! à tại non cao...

Bá Nha nghe nói ngưng đàn, lấy lại tâm hồn gảy thêm khúc : “à tại lưu thủy”.

Tiều phu cũng cười và nói :

­ Bao la trời nước, thật là một khúc : à tại lưu thủy ! tuyệt hay !

Thấy tiều phu biết rõ lòng mình, Bá Nha thất kinh, khâm phục khôn cùng, mời người tiều phu ngồi lên trên,
khiến kẻ tả hữu dâng trà, rồi bày tiệc rượu hai người đối ẳm.

Trong lúc uống rượu, Bá Nha cung kính, chấp tay hỏi :

­ Dám hỏi tiên sinh, quà danh và quà quán ?

Người tiều phu cũng đứng lên đáp lễ, rồi nói :

­ Tiểu dân họ Cung tên Tử Kỳ, ngụ tại thôn Tập Hiền gần núi Nhã Yến. Còn Đại nhân chẳng hay cao danh,
quà tánh, và hien trấn nhận nơi nào ?

Bá Nha kính cẩn đáp :

­ Tiện quan họ Du tên Thụy, tự Bá Nha, nhân vì có công vụ nên đến nơi này. Xét mình tài hèn đức thiếu
không xứng đáng với lộc nước ơn vua, còn tiên sinh tài năng xuất chúng, học vấn cao siêu, lẽ ra phải xuất
thân đoạt lấy công danh, phò vua giúp nước, lưu danh muôn thuở sao tiên sinh lại cam ẩn dật nơi chốn núi
non này mà làm gì ?

Tử Kỳ nói :

­ Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo đến chữ hiếu, dẫu cho công hầu bá tước cũng
không thể đổi lấy một ngày hiếu dưỡng của tôi được.

à ! Ra tiên sinh là người chí hiếu, trong đời khó có ai mà sánh kịp như vậy. Chẳng hay tiên sinh năm nay
được bao nhiêu tuổi ?

Tử Kỳ đáp :

­ Tiểu dân hai mươi bảy tuổi.

Bá Nha vồn vã nói :

­ Tiện quan hn tiên sinh một tuần (mười tuổi), nếu tiên sinh không chê đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh
em để khỏi phụ cái nghĩa tri âm mà đời tôi chưa từng được gặp.

Tử Kỳ khiêm nhượng đáp :

­ Thưa Đại nhân, Đại nhân là một bậc công khanh thượng quốc, còn tôi là kẻ áo vải quê mùa, năm tháng ra
vào nơi sơn lâm cùng cốc, đâu dám cùng với đại quan so vai, kết bạn, xin đại quan miễn cho.

Bá Nha nghe Tử Kỳ nói vậy, lòng bồi hồi mặt buồn rười rượi năn nĩ :

­ Giá trị con người không phải ở chỗ giàu sang phú quà, mà là chỗ đức hạnh tài năng, nay nếu tiên sinh chịu
nhận làm anh em với tôi thì thực là vạn hạnh, còn như giàu nghèo, sang hèn, chúng ta không nên nói tới.

Nói xong Bá Nha sai kẻ tả hữu gây lại lò hương, rồi cùng Tử Kỳ lạy tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ.

Bá Nha lớn tuổi hơn, làm anh. Hai người vui vẻ ngồi kề nhau đối ẳm. Nỗi lòng tâm sự của một khách phong
trần với một người chung đỉnh được hoàn toàn cởi mở vượt qua những cái giả dối đê hèn của cuộc sống
loài người, để trở lại với cái thiên chân thuần túy.

Hai người chuyện trò mãi mà không biết chán, đến khi ánh trăng đã lạt màu, sao trên trời chỉ còn sót lại một
vài đóm trắng, tiếng gà eo óc đầu thôn dục bóng bình minh, hai người vẫn còn như đắm say trong tình giao
cảm, quên hẳn cả thời gian.

Khi tên thủy thủ đến gần xin lệnh cho thuyền lên đường, Tử Kỳ đứng dậy cáo biệt.

Bá Nha giọng run run, nhìn Tử Kỳ nói :

­ Lòng tôi quá cảm mộ, chưa nỡ rời hiền đệ, vậy mời hiền đệ cùng đi với tôi qua một đoạn đường, để du sơn
du thủy và trò chuyện cùng nhau cho cạn mối tâm tình.

Tử Kỳ bùi ngùi đáp :

­ Lẽ ra tiểu đệ phải đưa tiễn hiền huynh vài dặm mới phải, ngặt vì cha mẹ của tiểu đệ Ở nhà đang trông, xin
hiền huynh thứ lỗi.

Bá Nha nói :

­ Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua Tấn Dương thăm chơi, chắc bá phụ và bá mẫu cũng không
nỡ từ chối.

Tử Kỳ nói với giọng luyến tiếc :


­ Tiểu đệ không dám phụ lời hiền huynh, song việc này không dám hứa chắc ; vì vạn nhất, nếu tiểu đệ không
xin phép được thung đường thì thành ra thất hứa với hiền huynh, ấy là tội của tiểu đệ rất lớn !

Cảm lòng hiếu thảo của Tử Kỳ, Bá Nha nói :

­ Hiền đệ thực là một bậc quân tử ; nếu vậy thì thôi để tôi sẽ tìm cách đến thăm tiểu đệ.

Tử Kỳ hỏi :

­ Bao giờ hiền huynh sẽ ghé lại thăm tiểu đệ ?

Bá Nha tính đốt tay một lúc rồi nói :

­ Sang năm, cũng đúng vào ngày này.

Tử Kỳ nói :

­ Nếu vậy thì sang năm cũng đúng vào ngày này tiểu đệ xin đợi hiền huynh nơi gành đá.

Tử Kỳ nói xong, toan cáo biệt, Bá Nha giữ lại, và nói :

­ Hãy khoan, hiền đệ thư thả một chút đã.

Dứt lời, Bá Nha quay lại sai đồng tử lấy ra hai nén vàng ròng, rồi hai tay nâng cao lên trước mặt, nói :

­ Đây là món lễ mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ và bá mẫu, tấm tình cốt nhục, hiền đệ chớ nên chối
từ.

Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không dám từ chối, nghẹn ngào cầm hai nén vàng, lệ tràn khóe mắt, bùi ngùi ra đi.

Bá Nha tiễn đến đầu thuyền nắm tay Tử Kỳ không nỡ rời.

Xưa nay có cuộc chia ly nào mà không ngậm ngùi giữa kẻ ở, người đi, huống chi tình bạn tâm giao, nỗi lòng
chưa cạn, Bá Nha cứ nhìn theo, nhìn mãi cho đến lúc Tử Kỳ đi khuất mới cho nhổ neo.

Dọc đường Bá Nha lâng lâng nhớ tiếc, đăm đăm đôi mắt về một phương trời, nên mặc dầu trời trong gió
mạt, cảnh đẹp muôn vàn mà đối với Bá Nha lúc ấy như thờ ơ lạnh nhạt.

Về đến kinh đô, Bá Nha vào yết kiến vua Tấn để nhận lấy những lời ban khen của cửu trùng.

... Thời gian lặng lẽ trôi như một dòng sông êm ả...

Mới ngày nào, gió thu rào rạc tiếng sáo biệt ly còn văng vẳng bên tai, thế mà thoắc đã một năm qua; ngọn
gió heo may từ miền bắc cực thổi về báo hiệu lại một mùa thu nữa, đến...

Bá Nha nhớ lại ngày mình ước hẹn, vội vã vào triều xin vua Tấn cho nghỉ phép về Sở thăm nhà.

Vua Tấn nhậm lời. Bá Nha sửa soạn cây đờn, đem vài tên đồng tử rồi lặng lẽ xuống thuyền ra đi...

Khi đến Hán Dương, vừng kim ô đã ngã bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút.

Bọn thủy thủ vào báo cho Bá Nha biết thuyền đã đến núi Mã Yên. Bá Nha lập tức ra đứng nơi mũi thuyền
xem cùng bốn phía, nhận ra nơi đây, quả là nơi đã gặp Tử Kỳ năm trước.

Sau khi hạ lệnh cắm thuyền, Bá Nha vẫn đứng trông về phía núi Mã Yên, đỉnh núi cao hun hút, mịt mờ trong
màn sương xám của hoàng hôn gợi lên một cái gì xa vắng.
Bá Nha nghĩ bụng :

­ Năm ngoái vì tiếng đàn mà gặp được tri âm, năm nay ta đờn một khúc nhạc nữa hẳn Tử Kỳ nghe tiếng
phải lần đến.

Tối hôm ấy, Bá Nha sai tiểu đồng lấy cây Dao cầm ra, đốt lò hương vặn phím, đem hết tinh thần nhớ nhung
xây thành một khúc nhạc tâm tư. Khi đan đờn bỗng thấy trong tiếng đờn mình có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha
thất kinh, dừng tay lại, suy nghĩ : “Cung thương có tiếng ai oán thê thảm như thế, hẳn Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi.
Sáng mai ta phải lên bờ dò hỏi mới được”.

Đêm ấy, Bá Nha nằm thổn thức với ngọn đèn mờ, suốt canh trường không chợp mắt ; nỗi lòng nhớ nhung
bồi hồi rào rạc dâng lên như nhịp sóng trầm bất tận của mặt tràng giang.

Trời chưa sáng, Bá Nha đã truyền cho đồng tử theo mình lên bờ, đem theo cây đàn và mười thẻ vàng, nhắm
chân núi Mã Yên thẳng tới.

Ra khỏi triền núi, hai bên cây cối um tùm, và có mấy con đường băng ngang rất lớn ; Bá Nha không biết đi
con đường nào, bèn ngồi nghỉ chân nơi một tảng đá, đợi có người nào đi ngang qua sẽ hỏi thăm.

Một lúc sau, có một ông lão tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc xăm xăm đi tới.

Bá Nha cúi mình thi lễ.

çng già thấy thế hỏi :

­ Tiểu sinh có điều gì cần hỏi han chăng ?

Bá Nha cung kính đáp :

­ Thưa lão trượng, trong mấy con đường này, đường nào về Tập hiền thôn ?

çng già đáp :

­ Cả hai con đường, đường nào cũng về Tập hiền thôn cả. Con đường tay phải về Thôn thượng Tập hiền,
còn con đường bên trái về thôn hạ Tập hiền. Vậy tiên sinh cần đến thôn nào ?

Bá Nha hỏi :

­ Thưa lão trượng, Chung Tử Kỳ ở về thôn nào ?

Vừa nghe nhắc đến ba tiếng Chung Tử Kỳ, ông già kia bỗng sa sầm nét mặt, đôi mắt sâu ngòm động đầy cả
lệ, thứ lệ đặc và mặn chầm chậm tràn ra trên đôi má nhăn nheo, ông ta sụt sùi kể :

­ Chung Tử Kỳ chính là con của lão. Năm ngoài cũng vào ngày này tháng này nó đi đốn củi về muộn, có gặp
một người nước Tấn là Bá Nha tiên sinh. Vì chỗ đồng thanh tương ứng hai người kết nghĩa anh em. Lúc ra
đi, Bá Nha tiên sinh có tặng cho con tôi hai nén vàng; con tôi về nhà dùng tiền ấy mua sách đọc, bất kể giờ
khắc. Vì ban ngày đốn củi mệt nhọc, tối đến lại lo học hành nên chẳng bao lâu bị bịnh lao mà qua đời rồi.

Chưa kịp nói hết câu, đôi dòng nước mắt của Bá Nha đầm đìa trào ra như hai dòng suối. Bá Nha nghẹn
ngào không nói được nửa lời.

Chung lão thấy thế lấy làm lạ hỏi tên tiểu đồng :

­ Tiên sinh đây là ai vậy ?

Tiểu đồng đáp :


­ Thưa lão trượng, đây là quan Thượng đại phu nước Tấn, Du Bá Nha đó !

Chung lão nghe nói thốt ra hai tiếng “ối trời” rồi cũng nghẹn ngào không nói gì được nữa. Cả hai người chỉ
nhìn nhau, và thông cảm nhau bằng những giòng nước mắt, hai thứ nước mắt khác nhau nhưng chảy cùgn
một nhịp chung nhau một mối đau đớn.

Cuối cùng, Chung lão gượng gạo thi lễ và nói :

­ Mong ơn Đại nhân không chê cảnh bần tiện. Con lão lúc lâm chung có dặn, vì lúc sống không tròn được
đạo làm con, lúc chết xin chôn nơi chân núi Mã Yên để trọn nghĩa tâm giao với lời ước hẹn cùng quan Đại
phu nước Tấn. Vì thế theo lời trăn trối, lão đã đem chôn nói nơi bên ven đường ở chân núi. Con đường tiên
sinh đi đến, bên mặt có nấm đất con, đó là ngôi mộ của con tôi đó. Nay mới vừa đúng một trăm ngày, lão
mang vàng hương đến thăm mộ, mới gặp tiên sinh ở đây.

Bá Nha lau nước mắt nói :

­ Sự đời biến đổi, may rủi khó lường, nay đã đến nỗi này, tôi xin theo lão trượng đến trước mộ phần, để lạy
vài lạy cho thỏa tình mong nhớ.

Nói xong, Bá Nha sai tiểu đồng xách giỏ cho Chung lão, rồi cùng nhau kẻ trước người sau, trở lại nơi chân
núi.

Khi đến nơi, Bá Nha thấy nấm đất bên đường cỏ xanh chưa kín, lòng gợi lên một mối thê lương. Bá Nha vừa
khóc vừa lạy, tuy miệng không nói được nửa lời mà trong lòng như đã nói tất cả nỗi hờn biệt ly.

Lạy xong, Bá Nha truyền đem cây đờn đến rồi ngồi trên một tảng đá, tấu lên một khúc nhạc “thiên thu trường
hận”.

Bỗng thấy gió nhàn rít mạnh, ánh sáng u buồn, mấy tiếng chim kêu u uất vọng lên từ xa như những hồn ma
bóng quế dật dờ khi say khi tỉnh.

Bản nhạc ngưng, gió ngừng thổi, trời lại sáng dần.

Bá Nha nói với Chung lão :

­ Có lẽ hồn Tử Kỳ đã hiện về đó ! Chẳng hay lão bá có biết cháu đờn khúc gì đó không ?

Chung lão đáp :

­ Lúc nhỏ lão cũng có biết chút ít về cầm tháo, nhưng nay tuổi đã già, tâm thần hỗn loạn không có thể phân
định được khúc gì.

Bá Nha nói :

­ Cháu vừa đờn khúc đoản ca để viếng người tri âm, tài hoa mệnh yểu.

Bá Nha bỗng hai tay cầm câu đờn đưa lên cao đập mạnh xuống tảng đá. Cây đờn vỡ ra từng mảnh, trục
ngọc, phím đồng rời rã tơi bời.

Chung lão hoảng kinh hỏi :

­ Sao tiên sinh giận gì mà lại đập cây đờn đi vậy ,

Bá nha đọc luôn bốn câu thơ để đáp lời ông lão :

Dao cầm đập nát đau lòng phượng,


Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai ?
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.
Muốn tìm tri âm, thật khó thay !

Chung lão thở dài nói :

­ Chỉ vì không có người biết nghe mà kẻ đờn hay phải đành thất vọng !

Bá Nha hỏi :

­ Lão bá ở thôn Tập hiền nào ?

Chung lão đáp :

­ Tệ xá ở nơi thôn Tập hiền thượng, vậy mời đại nhân, nếu không chê nghèo nàn, xin đến đó nghỉ ngơi.

Bá Nha nói :

­ Hạ quan xin cảm ơn lão bá, nay nếu hạ quan có trở về đó cũng chỉ gợi thêm nhiều mối nhớ nhung mà thôi.
Nhân dịp hạ quan có đem theo mười nén vàng, xin dâng cho lão bá dùng một nửa trong việc cung dưỡng
tuổi già, còn một nửa mua mấy mẫu ruộng để làm tự cho Tử Kỳ. Mai hạ quan về triều dâng biểu cáo quan
trở về quê cũ, chừng ấy hạ quan sẽ rước bá phụ, bá mẫu về sống chung để yên hưởng những ngày tàn. Tôi
tức là Tử Kỳ và Tử Kỳ cũng tức là tôi vậy.

Nói xong Bá Nha hai tay dâng mười nén vàng cho Chung lão, sụp xuống đất lạy mấy lạy rồi ra đi. Chung lão
đứng nhìn theo, lòng bùi ngùi luyến ái...

Trang Tử

Cuối đời nhà Chu, tại ấp Mông, nước Tống, có một người họ Trang tên Chu, tự Tử Hưu, làm quan dưới triều
nhà Chu. Trang Tử thờ vị thánh Lão Đam, vị thánh này trước tác bộ “Đạo Đức Kinh” và người đương thời
tôn xưng là Lão Tử.

Trang Chu ngủ ngày thường nằm mộng thấy mình hóa bướm, bay nhởn nhơ trong không trung bèn đem
việc ấy hỏi thày.

çng thày đó là một vị chân nhân, thông hiểu cả vũ trụ, nên nghe xong, ông ta giảng giải :

­ Nguyên thuở trời đất mới phân, âm dương vừa định, thì có một con bướm trắng hút hết tinh túy của các
loài hoa, đoạt khí thiên của nhật nguyệt, tạo thành một nguyên tố trường sanh bất tử.

Con bướm trắng ấy một hôm lại đến cung Dao Trì hút nhụy hoa bàn đào của Tây Vương Mẫu, nên bị con
chim thanh loan giữ vườn mỗ chết, hồn dật dờ xuống cõi trần mà đầu thai ra ngươi đó.

Trang Chu nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, đầu óc cởi mở, quan niệm được những nét huyền diệu của vũ
trụ, bèn đóng cửa tu hành, về sau trở thành một nhà đạo học cao siêu.

Lão Tử thấy học trò đã giác ngộ, nên đem bộ học thuyết kinh năm ngàn chữ và tất cả sở đắc của đời mình
truyền lại cho Trang Tử.

Trang Chu được truyền dạy, gắng tu luyện, nên thể nhập được lẽ biến hóa của thiên nhiên, thông suốt định
luật sanh khắc của ngũ hành.

Tuy theo đạo “Thanh tỉnh vô ri” nhưng Trang Chu không bỏ cái thuyết “âm dương thuần nhứt” nghĩa là vũ trụ
phải có âm có dương thì loài người phải có vợ có chồng.
Trang Chu lấy ba đời vợ : người thứ nhất bị bịnh chết, người thứ hai vì phạm lỗi bị bỏ, người thứ ba là họ
Điền.

Trang Tử sang du lịch nước Tề, Điền Tôn là một người rất trọng học vấn, thấy Trang Tử thông minh đem
lòng yêu mến gả con gái mình cho Trang Tử. Điền thị là một nàng tuyệt thế giai nhân, tuy Trang Tử không
phải là người háo sắc song cũng yêu thương vợ lắm.

Thời ấy Sở vương nghe tiếng đồn Trang Tử là bậc tài danh, nên cho người đến thỉnh về triều, gia phong
tước lộc, ngõ hầu cứu dân độ thế.

Tuy nhiên, là bậc tu hành, Trang Tử đâu có thiết tha gì đến bả vinh hoa phú quà, nên từ chối ngay, và dẫn vợ
về trú ngụ nơi Nam Họa Sơn thuộc địa phận Tào Châu, để sống một cuộc sống an nhàn ẩn dật.

Một hôm, thẩn thơ nơi sườn núi, Trang Tử gặp một thiếu phụ mặc tồ đang, đang ngồi cầm cây quạt, quạt
một nấm mồ mới đắp, đất chưa ráo.

Trang Tử lấy làm lạ hỏi :

­ Tại sao nàng lại ngồi quạt nấm mồ ấy làm gì thế ?

Thiếu phụ đáp :

­ Chồng thiếp không may chết sớm, nắm xương tàn chôn cất nơi đây. Lúc sinh tiền đang nồng duyên hương
lửa, chồng thiếp có dặn rằng nếu rủi ro mà chồng thiếp có mất sớm thì hãy đợi cho nấm mồ lên cỏ đã, rồi
hãy tái giá. Nay chồng thiếp rủi mất mà gió mưa tơi tả biết bao giờ nấm đất nầy khô để cho loài cỏ mọc lên
được. Mà ba thu đằng đẵng; đêm xuân một khắc ngàn vàng, tiện thiếp chờ sao được ! Vì vậy thiếp mới quạt
cho đất khô, để cỏ mau mọc, chừng ấy dẫu thiếp có tái giá thì cũng khỏi phụ lòng người chín suối.

Trang Tử nghe dứt lời, thở ra một hơi dài não nuột, trách cho lòng người đời sớm bạc tình, và nói :

­ Nếu nương nương muốn cho đất khô ngay không có gì cả. Kẻ bất tài này xin quạt giùm cho.

Thiếp phụ nghe nói mừng rở, trao chiếc quạt the cho Trang Tử.

Trang Tử vận dụng hết “bản ngã” hướng vào nấm mồ, dùng phép quạt mấy cái, nấm mồ tự nhiên khô ráo,
đồng thời cỏ xanh lấm tấm nảy chồi.

Thiếu phụ mỉm cười, mặt tươi như đóa hoa buổi sáng, quỳ xuống tạ Ơn Trang Tử và nói:

­ Tiện thiếp mang ơn tiên sinh rất trọng, nơi đây biết lấy gì đền ơn. Vậy xin tặng tiên sinh chiếc quạt này.

Vừa nói, thiếu phụ hai tay vừa nưng chiếc quạt lên ngang mày, rồi hớn hở ra đi.

Trang Tử cầm cây quạt che ngấm nghía, lòng nao nao một nỗi buồn khó tả. Cho hay sự đời chỉ là một bức
màn thưa, ân tình chỉ là một lớp vỏ che đậy những bản năng dục vọng kinh tởm của con người.

Về đến nhà, Trang Tử vẻ mặt lạnh lùng, trước khi bước vào mái hiên, ngâm mấy câu :

Bất thị Oan gia bất tụ đầu


Oan gia tương tụ kỷ thời hưu ?
Tảo tri tử hậu vô tình nghĩa
Tựu bả sinh tiền ân ái câu.

Dịch :

Nếu chẳng oan gia đâu gặp nhau


Oan gia ràng buộc được bao lâu ?
Nếu hay lúc chết không tình nghĩa
Thì sống thà đừng ân ái nhau

Thấy mặt chồng bước vào nhà rầu rầu, lại vừa ngâm thơ, vừa cầm cây quạt the, Điền thị ngạc nhiên hỏi :

­ Tại sao chàng đi chơi về lại buồn bã như thế. Chiếc quạt kia ở đâu vậy ?

Trang Tử đem chuyện thiếu phụ quạt mồ kể lại đầu đuôi cho vợ nghe, và nói thêm rằng :

­ Đây là cây quạt bạc tình, mà thiếu phụ ấy đã tặng cho ta.

Điền thị nghe chồng kể đầu đuôi nổi giận, mắng rằng :

­ Cái thứ đàn bà quỷ sứ ấy, chồng chết nấm mồ chưa xanh cỏ đã toan bề ân ái, thật là khốn kiếp, lẽ ra thứ
ấy phải giết đi rồi đem thả trôi sông để khỏi làm nhơ cho giới phụ nữ.

Trang Tử nghe vợ nói, chỉ cười không đáp, buồn bã ngâm tiếp mấy câu thơ :

Sinh tiền cá cá thuyết ái ân,


Tử hậu nhân nhân dục phiến văn
Họa hổ họa bì nan họa cốt,
Tri nhân tri diện bất tri tâm.

Dịch :

Khi sống người người khoe ân ái


Lâm chung kẻ kẻ muốn quạt mồ
Vẽ cọp, vẽ da xương khó vẽ,
Biết người, biết mặt, biết lòng mô ?

Điền thị nghe mấy câu thơ càng thêm cáu tiết, hơi giận phừng phừng, trách chồng sao lại đem những hạng
đàn bà mất nết ấy mà so sánh với mình. Dễ thường tất cả đàn bà trong xã hội ai cũng thuộc vào loại đó sao
?

Trang Tử mỉm cười, nói :

­ Thôi đừng có làm giận làm hờn mà chi. Tôi giả thử, nếu mai kia mốt nọ, rủi tôi mà có bất hạnh đi rồi, liệu
đóa hoa hải đường kia đang độ phơi phới hơi xuân, có thể phong kín nhụy hương mà chờ quá hạng thiều
quang chín chục đó không ?

Điền thị cắn môi, phì cười nói :

­ Nếu đã là trung thần thì không bao giờ thờ hai chúa, gái tiết trinh bất sự nhị phu. Nếu bất hạnh mà chàng
có rủi ro điều gì thiếp xin cam phận đến già, chứ không bao giờ nghĩ đến những chuyện đê hèn như vậy.

Trang Tử nghe vợ nói, cười xòa tỏ à khó tin.

Điền thị tức giận chụp cây quạt xé nát rồi nói :

­ Để làm gì cái đồ phụ bạc này, nhìn thêm nhơ mắt. Chỉ có lúc chàng chết đi mới rõ bụng người đàn bà này
tiết hạnh dường nào !

Trang Tử nói :

­ Thôi ! nàng đừng giận dữ làm gì ! đó là ta thử lòng nàng đó thôi, nếu quả nàng có lòng trinh tiết như vậy thì
còn gì quà hóa bằng.
Tuy nói thế, nhưng nét mặt Trang Tử từ đó vẫn không phai màu chán ngán !

Chẳng bao lâu, Trang Tử lâm bịnh, mỗi ngày một trầm trọng thêm. Điền thị cả ngày sùi sụt bên giường.

Một hôm, Trang Tử gọi vợ đến nói :

­ Bịnh tôi đã nguy ngập, không thể sống được lâu, rất tiếc là cây quạt mồ không còn để nàng dùng mà quạt
cho nấm mồ tôi xanh cỏ, để nàng sớm được tái giá cho khỏi tiếng tăm người đời dị nghị.

Điền thị vừa khóc vừa nói :

­ Xin chàng cứ tịnh dưỡng chớ có buồn bã như thế mà tổn hại tinh thần. Thiếp là một người có học, biết chữ
“Tùng nhất chi chung”, lẽ đâu lại làm được chuyện đê hèn như thế, nếu chàng không tin, thiếp xin tử tiết
trước mặt chàng để chàng trông thấy tấm lòng chung thủy.

Trang Tử hổn hển nói :

­ Lòng nàng đã như thế thì dẫu có nhắm mắt, tôi cũng an lòng.

Nói xong, Trang Tử tắt thở. Điền thị lăn lóc than khóc rất não nề, bi ai, thống thiết.

Nàng mặc đồ tang, lo việc khăn liệm, quàng quan tài nơi giữa nhà để phúng điếu.

Qua mấy ngày, Điền thị khóc sướt mướt, bỏ ăn bỏ ngủ. Đến ngày thứ bảy, bỗng có một chàng thư sinh, mặt
như dồi phấn, môi tợ thoa son, áo tía, quần đen, phong nghi tuấn tú, có giắt theo một người lão bộc đến tự
xưng là Vương Tôn nước Sở. Ngày trước có đính ước cùng Trang Chu theo đòi học tập, nay đến nơi mới
hay Trang Chu đã chết, nên Vương Tôn cảm nghĩa xin vào phúng điếu.

Điền thị phải ra tiếp kiến.

Khi Vương Tôn khóc lạy linh cữu xong, Điền thị mời Vương Tôn vào nhà khách để dùng trà.

Thấy một gã thư sinh trẻ đẹp như thế, Điền thị thoắt động lòng, tuy bên ngoài giữ lễ, nhưng bên trong cũng
muốn kiếm cách làm quen để tiện bề gần gũi.

Vương Tôn nói :

­ Trang tiên sinh đã ra người thiên cổ, nhưng lòng ngưỡng một của tôi vẫn còn. Nay tiểu tử muốn xin lưu lại
nơi đây một trăm ngày, trước là trọn đạo cư tang, sau mượn sách vở của tiên sinh để học đòi được phần
nào hay phần ấy.

Vớ được dịp may, Điền thị tủm tỉm cười, cung kính đáp :

­ Tình nghĩa thầy trò, xin Vương Tôn đừng ngại gì cả.

Nói xong, nàng xuống bếp lo sửa soạn cơm nước đãi đằng rất hậu.

Thảo đường gồm có ba gian, gian giữa quàng linh cữu, gian bên phải Vương Tôn ở. Điền thị đêm đêm lấy
cớ đến khóc chồng nhìn ngắm Vương Tôn, mắt liếc, lòng mơ, mối tình mỗi ngày một tha thiết.

Tuy nhiên, hình như có một giòng sông ngăn cách, Điền thị không biết làm sao để vượt qua bờ sông ân ái;
một hôm nàng đánh liều gọi người lão bộc của Vương Tôn đến hỏi :

­ Chủ nhân của ông đã có vợ con chưa ?

Người lão bộc đáp :


­ Thưa phu nhân, chủ tôi lâu nay lo trau dồi kinh sử chưa có thì giờ để nghĩ đến việc đó.

Điền thị mỉm cười hỏi tiếp :

­ çng liệu xem những người đàn bà như thế nào mới hợp à Vương Tôn ?

Người lão bộc nói :

­ Mấy hôm nay chủ nhân tôi ước mong sao được có người nhan sắc như phu nhân mới vừa à.

Điền thị không dè dặt nữa, nói thẳng :

­ çng có thể tác thành cho hai bên chúng tôi được không ?

Người lão bộc làm ra vẻ e ngại, nói :

­ Điều đó chủ tôi còn gì mong ước hơn, song sợ e tiếng thầy trò, thiên hạ dị nghị chăng?

Điền thị dẫn giải :

­ Vương Tôn tuy trước kia có lời nguyện ước, song chưa từng học với chồng tôi một ngày nào thì sao gọi là
nghĩa thầy trò ? Vậy ông là một người lão bộc trung thành, tôi nhờ ông giúp đỡ, nếu việc được thành công
tôi sẽ trọng thưởng.

Người lão bộc tỏ à thuận tình bước đi. Điền thị còn căn dặn theo :

­ Nếu ngày nào xong việc, ông nhớ tin cho tôi biết liền đi nhé !

Một ngày trôi qua, thời khắc đối với Điền thị như dài dằn dặc, trong lòng mơ ước không yên.

Sáng hôm sau, Điền thị nóng ruột quá mới gọi lão bộc đến phòng hương hỏi chuyện.

Vừa mới gặp mặt Điền thị, người lão bộc đã nói :

­ Nương Tử ôi ! Công việc bất thành rồi.

Điền thị nghe nói, trong mình lạnh toát, mồ hôi rướm ướt áo, hỏi vội :

­ Sao ? Sao thế ?

Lão bộc chậm rãi đáp :

­ Chủ tôi nói cũng có là. Theo người thì sắc đẹp của Nương Tử tuyệt lắm rồi, tình sư đệ cũng không đáng
kể, duy chỉ có ba việc này thực là khó khăn lắm.

Điền thị nóng lòng, hỏi :

­ Việc gì ? çng cứ nói mau đi !

­ Điều thứ nhứt : Chiếc quan tài còn quàng nơi giữa nhà, thây người chết chưa lạnh, nếu bàn tính đến cuộc
hôn nhân e bất nghĩa lắm. Điều thứ hai : Trang tiên sinh cùng Nương Tử thuở nay ân ái đậm đà, tình chăn
gối không gì thương tổn. Vả lại, Trang tiên sinh lại là một bậc tài hoa lỗi lạc, còn chủ nhân tôi, học mọn tài
sơ, e không xứng đáng với Nương Tử chăng. Điều thứ ba : chủ tôi đến đây không có mang theo tiền bạc
bao nhiêu, lấy gì mà lo sính lễ. Vì các lẽ đó mà công việc không thành.

Điền thị nghe xong cười nói :


­ Cả ba điều ấy rất dễ giải quyết :

Sau nhà còn một cái phòng trống, tôi sẽ thuê người khiêng cái quan tài kia đem ra để tạm sau đó.

Vong phu có gì đáng gọi là đạo đức và tài năng đâu. Trước kia đã có hai đời vợ nhưng vì dạy không được
nên phải bỏ đi, thiên hạ đều cho là bạc bẽo. Sau đó Sở vương hâm mộ hư danh nên mời về làm tướng, y tự
biết mình bất tài nên lánh mặt nơi thôn dã, sống ẩn dật nơi chốn núi non. Hôm trước đây hơn một buổi dạo
chơi, y có gặp một thiếu phụ quạt mồ, liền giở trò trêu hoa ghẹo nguyệt, đoạt cây quạt của thiếu phụ đem về
đây. Tôi nổi giận xé chiếc quạt ấy ra từng mảnh. çng coi đó ! như vậy mà còn tình nghĩa yêu đương gì nữa
chứ !

Việc tiền bạc Vương Tôn nói đó cũng không khó khăn gì. Tôi là chủ rồi, còn ai mà đòi sính lễ nữa. Đến như
tiệc tùng thì tôi còn của cải hơn mười lượng vàng lại không đủ chi dùng sao ! Nếu Vương Tôn mà có cố tình
kết tóc trăm năm với tôi thì chúng ta làm một cái lễ mọn để động phòng hoa chúc cũng đủ lắm rồi.

Nói xong Điền thị lấy vàng giao cho lão bộc đem về đưa cho Vương Tôn và hẹn đêm hôm ấy làm lễ hợp cẩn.

Tối hôm đó, Điền thị được tin Vương Tôn khứng chịu một bề, rất mừng rỡ, mượn người khiêng chiếc quan
tài của Trang Tử để ra phía nhà sau, rồi thay đổi đồ tang, mặc áo gấm, quần hồng, thắt hoa, kết lá trước
thảo đường muôn màu sặc sở.

Sửa soạn xong, Điền thị ngồi chờ Vương Tôn đến.

Mãi đến quá 9 giờ đêm, Vương Tôn mới qua thảo đường. Điền thị nóng lòng như đốt, đôi mắt long lanh, hai
má ửng hồng, nhìn Vương Tôn khôi ngô tuấn tú, trong chiếc áo cẩm bào màu lục.

Hai người làm lễ xong, men rượu hiệp cẫn nuốt chưa trôi qua nửa cổ, Điền thị phút động hương tình, dục
Vương Tôn vào phòng nghỉ sớm...

Bỗng Vương Tôn mặt mày nhăn nhó, chàng lăn dưới đất la ôi ối. Không rõ việc gì, Điền thị hoảng kinh đến
ôm Vương Tôn vào lòng.

Người lão bộc nghe tiếng chạy đến, thấy vậy nói với Điền thị :

­ Chủ tôi trở lại bệnh đau bụng trước kia rồi đó. Bịnh này thì không có thuốc nào chữa nổi, chỉ trừ có được
một vật ấy mà thôi.

Điền thị lo lắng hỏi :

­ Vật gì thế ?

Người lão bộc giải thích :

­ Trước kia, bình nhật cứ mỗi lần bịnh ấy phát lên thì vua nước Sở phải giết một tù nhân, lấy bộ Óc ngâm
rượu cho Vương Tôn uống thì khỏi ngay. Nay bịnh ấy tái phát mà ở nơi chốn sơn lâm cùng cốc này tìm đâu
ra được thứ đó, chắc là chủ tôi phải chết mà thôi.

Điền thị sốt ruột hỏi :

­ Thế thì óc của người chết có dùng được hay không ?

Người lão bộc nói :

­ Người chết chưa quá một trăm ngày thì bộ Óc vẫn dùng làm thuốc ấy được. Trước kia tôi có nghe quan
Thái y nói như vậy.

Điền thị hớn hở nói :


­ Vong phu chết chưa quá hai mươi ngày, vậy thì ta nạy quan tài mà lấy vật ấy.

Người lão bộc làm ra vẻ ngần ngại nói :

­ Chỉ sợ Nương Tử không nỡ làm như thế.

Điền thị bỉu môi nói :

­ Ta cùng Vương Tôn kết nghĩa đá vàng, cho đến răng long bạc đầu, thân của ta còn không tiếc, huống chi
một nắm xương tàn kia mà ăn nhằm vào đâu.

Nói xong, Điền thị gởi gắm cho người lão bộc ở lại săn sóc Vương Tôn, còn mình thì chạy thẳng xuống nhà
dưới tay cầm một cây búa, tay nắm một con dao mò sang bên phòng có để linh cữu của chồng.

Vừa đến nơi, Điền thị không cần nghĩ ngợi gì nữa cả, hai tay hươi búa bổ vào quan tài mấy cái, nắp quan tài
bật tung ra. Bên trong nghe có tiếng rên rồi bỗng thấy Trang Tử lồm cồm ngồi dậy.

Điền thị hoảng kinh, đứng cứng ngắt như trời trồng, hai tay rụng rời, rơi lưỡi búa và con dao xuống đất.

Trang Tử nói :

­ May phước nhà ta, trời không nỡ để tuyệt mạng, tôi chết đã hơn mười ngày mà còn sống lại được, vậy thì
chúng ta cùng về phòng nói chuyện cho vui.

Trang Tử đi trước, Điền thị nối gót theo sau, mồ hôi toát ra như tắm, da mặt cắt không còn chút máu, chỉ sợ
về đến phòng gặp người lão bộc và Vương Tôn ở đó nàng sẽ không biết nói làm sao với chồng.

Chưa tìm được lời lẽ nào để nói dối, thì hai người đã đến nơi. May thay, người lão Bộc và Vương Tôn lại
biến đi đâu mất.

Điền thị vững lòng, lấy hết can đảm nói :

­ Từ hôm phu quân mất đến nay, suốt ngày đêm tôi khóc mãi, không ăn, không ngủ gì được cả. Bỗng nghe
trong quan tài có tiếng rên, tôi sực nhớ đến cổ nhân có chuyện hoàn hồn nên vội vã bửa nắp quan tài để
xem chàng có sống lại chăng !!!

Trang Tử mỉm cười nói :

­ Phu nhân có lòng như vậy, ta rất cảm ơn, song ta chết chưa quá hai mươi ngày, lẽ ra phải cư tang thủ tiết,
chứ sao lại mặc áo tía quần hồng làm gì vậy ?

Điền thị không biết nói sao, đành làm lơ, dở trò vuốt ve hàng ngày để làm cho phai sự bẽn lẽn của mình.
Thôi thì mắt liếc, miệng cười, đủ trò nghệ thuật.

Trang Tử chỉ cười, và cũng chỉ biết cười thôi, chứ không còn nói được lời nào nữa. Sai lấy rượu uống, uống
đến say mèm, rồi trèo lên giường ngủ, rồi lại chợt dậy lấy bút viết :

Tòng tư liễu khước oan gia trái,


Nhĩ ái chi thời... ngã bất ái.
Nhược kim nhĩ tố phu thê,
Phạ nhĩ phủ phách thiên linh cái !...

Dịch :

Từ đây nguyệt đứt dây oan trái,


Người yêu ta lắm... ta tê tái
Nay dầu giữ mãi nghĩa phu thê,
Búa kia sẽ bửa đầu ta bễ !...

Điền thị nghe xong bốn câu thơ thẹn đỏ mặt lòng như chết điến, chưa kịp biện bạch lời nào thì Trang Tử đã
ngâm bồi thêm bốn câu thơ nữa :

Phu thê bách nhật hữu hà ân ?


Kiến liễu tân nhân vong cựu nhân !
Phủ đắc cái quan tao phủ phách,
Như hà đẳng đãi phiến can phần ?

Dịch :

Trăm ngày tình nghĩa có gì ơn ?


Được mối duyên tình cựu nghĩa nhơn !
Nhát búa nạy quan còn thấy đó,
So người quạt mộ, gái nào hơn ?

Ngâm dứt bốn câu thơ, Trang Tử nói với Điền thị :

­ Để ta gọi thầy trò Vương Tôn đến đây cho phu nhân xem nhé !

Liền lúc đó, ngoài cửa quả có Vương Tôn và người lão bộc thấp thoáng trước rèm, bên trong Trang Tử lại
biến đi đâu mất. Điền thị biết chồng mình hóa phép để thử lòng mình, nên quá hổ thẹn, thắt cổ mà chết.

Trang Tử đem thây vợ xuống, đặt vào chiếc quan tài bị phá vỡ rồi lấy chiếc chậu vàng vừa gõ vừa ca :

Ngã tai, nhĩ nhoa khẩu


Ngã tử nhĩ bất giá
Thê bị tha nhân hữu
Ngã bị tha nhân khóa
Ngã nhược chân cá tử,
Nhất trường đại tiếu thoại

Dịch :

Ta sống nàng khoe khoan


Có chết nguyện thủ tiết
Nhưng rồi lại thay chồng
Ngựa hồng người khác cỡi
Nếu mà ta chết thực
Trò cười thật mỉa mai !

Ca xong đập vỡ cái chậu, rồi nổi lửa đốt ngôi nhà. Tất cả đều cháy rụi. Từ đó Trang Tử ngao du trong thiên
hạ, sớm chiều bạn với trăng sao, cây cỏ, chán cái mời tục lụy nên chân hồ hải với hai bộ kinh “Đạo Đức” và
“Nam Hoa” truyền cho những người hiếu học sau này.

Tô Tiểu Muội

Tại Châu Mi, thuộc Tứ Xuyên có một người họ Tô tên Tuần, tự là Minh Doãn biệt hiệu là Lão Tuyền. çng ta là
một nhà thông thái, có tiếng là học giỏi cho nên được người thời đó kính trọng và tôn là Lão Tô.

Lão Tô sinh được ba con, hai trai, một gái.

Đứa con trai lớn là Đại Tô, tên Thức, tự Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha. Đứa con trai kế là Tiểu Tô, tên
Triệt, tự Tử Do, biệt hiệu là Dĩnh Tấn. Cả hai đều nổi tiếng hay chữ, kinh luân nặng túi, thi phú đầy lòng. Anh
em cùng đậu Tiến sĩ một khoa làm đến chức Hàn lâm học sĩ, nổi tiếng nơi triều đình.

Còn người con gái, tuy phận liễu bồ, song chữ nghĩa cũng không kém.

Nàng tên là Tiểu Muội, tánh hay đọc, làm thơ, ngoài ra không còn dự vào công việc gì khác cả.

Năm Tiểu Muội lên 16, Lão Tô cố kén rễ đông sàn, nhưng lựa mãi mà không có ai đáng mặt làm chồng cái
cô nữ thi sĩ ấy.

Bỗng một hôm, Tể tướng Kinh quốc công Vương An Thanh sai người mời Lão Tô sang dinh để uống rượu
chơi.

An Thanh là một người nổi tiếng bậc đại hiền song có tánh kỳ dị, hàng tháng không rửa mặt, giặt áo, do đó
Lão Tô cho là một kẻ “bất cận nhân tình” và đoán rằng lão này lúc đắc à sẽ trở nên một gian thần phản quốc.
Vì thế Lão Tô đã từng viết quyển “Biệt gian luận” để châm biếm.

Lão An Thanh vẫn nuôi hận trong lòng, chờ cơn trả oán, nhưng về sau thấy hai đứa con của Lão Tô đều đổ
tiến sĩ, làm đến chức Hàn lâm học sĩ nên đổi oán thành thân.

Còn Lão Tô, thấy An Thanh nắm trong tay trọng quyền, nếu gây chuyện sợ hại đến đường tiến thủ của hai
con mình nên cũng làm lành trong việc giao du.

Hôm ấy Lão Tô đến dinh. Tô Thanh hai người đang đối ẳm với nhau rất tương đắc, thì An Thanh khoe rằng
ông ta có một đứa con trai, đọc sách chỉ đọc qua một lần đã thuộc lòng ngay.

Lão Tô đang lúc hứng chí, không nín được bèn nói :

­ Hai đứa con trai tôi cho việc ấy là thường sự, cả đến đứa con gái tôi, coi qua một lần sách vở đều nhớ
không sót một chữ nào.

An Thanh nghe nói mặt buồn dàu dàu nghĩ rằng :

­ Như vậy tức là bao nhiêu tú kà My Sơn đã ung đúc vào nhà họ Tô cả.

Tô lão nói lỡ lời, trong lòng cũng hối hận, nên nói thêm qua loa vài câu nữa rồi cáo biệt ra về.

An Thanh sai tiểu đồng vào phòng học công tử lấy một quyển vở, thân đệ đến trước mặt Lão Tô nói :

­ Đây là bài của cháu nó học, vậy hiền đại nhân chấm xem nếu có chỗ nào sơ suất phiền đại nhân chỉ bảo
cho.

Tô Lão không từ chối, cất tập vở vào tay áo rồi ra về.

Về đến nhà ông ta cởi áo vào phòng ngủ khì. Khi tỉnh rượu mới sực nhớ đến câu chuyện ấy, và nghĩ rằng :

­ An Thanh đưa vở của con trai y cho ta chấm, như thế là có à cầu thân. Nhưng làm thân với người ta không
muốn thực là một tai hại.

Tuy nghĩ thế, Tô Lão cũng lấy vở ra xem, quả trong đó văn chương tuyệt tác, thật là một đấng tài hoa.

Phúc động lòng vài tài năng, Tô Lão nảy ra một à kiến, muốn thử lòng đứa con gái mình xem sao, bèn kêu a
hườn đến bảo :

­ Bài vở này của một chàng trai trình đệ ta phê chấm, nhưng ta bận việc, đưa nhờ tiểu thư của mi duyệt xem,
xem xong phê vào đó rồi mang ra đây ngay.

Vừa nói, Tô Lão vừa rọc bỏ cái tên Vương Nu trên mặt sổ, rồi trao cho a hườn.
Liễu hoàn, tên con a hườn của Tiểu Muội, cầm vở đi thẳng vào phòng thuật lại đúng như lời Tô Lão đã dặn.

Tô Tiểu Muội, tay cầm bút son, chấm phá một lúc rồi than rằng :

­ Văn chương tuyệt tác song tú khí phát tiết đến tận cùng, e khó bề mà trường cửu.

Bèn cầm bút son phê trên mặt quyển :

­ Tài này dùng để chiếm đoạt cao khoa có thừa xong hưởng tuổi trời chẳng đủ.

Tiểu Muội phê xong giao cho Liễu Hoàn kính trình thân phụ.

Tô Lão thoáng thấy lời phê của con gái mình, thất kinh, nói :

­ Lời phê thế này nếu An Thanh mà trông thấy thì bất tiện lắm.

Nghĩ đi nghĩ lại, Tô Lão xé mặt quyển, đổi giấy, và viết lại một câu để làm vừa lòng An Thanh, rồi cho gia
đinh đem sang nhà trả lại.

Chiều hôm sau, có một sai quan của Vương phủ đến thưa rằng :

­ An tướng công, vì một tài đức của Tiểu thơ, nên cho tôi đến đây cậy lời mai mối, chẳng biết tôn à ra sao ?

Tô Lão lựa lời từ chối khéo :

­ Tướng phủ hạ cố cầu thân, tôi đâu chẳng dám tuân lời, song tiện nữ của tôi tài sơ, trí thiển, lại xấu xa,
không xứng đáng với công tử đâu.

Sai quan về bẩm lại. An Thanh thấy mặt quyển đã đổi giấy, lại từ chối như thế, trong lòng không vui, song
cũng bỏ qua câu chuyện hôn nhân.

Trong thời đó, ai ai cũng biết rằng nhà họ Tô, anh em trong nhà hay dùng văn chương thi phú mà trêu ghẹo
lẫn nhau, cái tiếng ấy vang dội khắp cả vùng đều biết tiếng.

Ví dụ như Đông Pha râu rậm, Tiểu Muội nhạo rằng :

Khẩu đốc kỷ hồi vô mịch xứ,


Hốt văn mao là hữu thanh truyền

Dịch :

Mồm mép nơi đâu không thấy rõ


Bỗng nhiên râu vẳng tiếng truyền ra

Tiểu Muội trán dồ, Đông Pha nhạo lại rằng :

Vị xuất đồng trung tam ngũ bộ,


Ngạnh đầu trên đáo họa đường tiền

Dịch :

Trong sân chưa quá năm ba bước


Trước cỗng đã nhô chiếc trán dồ

Tô Đông Pha mặt dài, Tiểu Muội nhạo rằng :


Khứ niên nhất điểm tương tư lệ,
Chí kim lưu bất đáo tư liên

Dịch :

Giọt lệ tương tư xưa chảy mãi


Đến nay gò má vẫn chưa qua

Tiểu Muội mắt sâu, Đông Pha nhạo lại :

Kỷ hồi thức lệ thâm nan đáo


Lưu thuốc uống dương lưỡng đạo truyền

Dịch :

Mắt sâu lệ chảy lau không tới


Linh láng đôi giòng mãi chẳng thôi

Các sĩ phu hay được tin Tướng công An Thanh cầu hôn bất thành nên tấp nập đem văn đến cửa nhà họ Tô
bán rao ầm ĩ.

Tô Lão truyền bắt bọn cầu thân xuất tĩnh văn bài đệ cho Tiểu Muội tự à lựa chọn người chồng là tưởng.

Trong số bài vở rất đông, nhưng chỉ có một quyển Tô Tiểu Muội phê :

­ Ngày nay tuy tú tài ngày kia sẽ học sĩ. Rất tiếc hai Tô đồng thời nếu không hoàng bàng một thưở.

Tô Lão xem quyển, biết con gái mình vừa à, bèn dở bìa quyển ấy xem thấy đề tên Tú tài Tần Quán.

Tô Lão lập tức truyền cho bọn gia nhân, hễ thấy tên Tần Quán đến thì mời vào.

Nhưng khốn thay, cái gã Tần Quán kia người quận Cao Đưu đất Dương Châu ­ tuy tài cao học rộng ­ cũng
theo đòi thiên hạ, đem ngọc bán rao, song lại sợ tổn thương đến danh dự nên không cùng với mọi người
đến ngưỡng cửa họ Tô chầu chực.

Tô lão thấy Tần Quán không đến, đành sai người đến ngọ sở tìm đón.

Tần Quán tuy trong lòng hí hửng muốn chọc ghẹo khách anh tài, nghe Tô Tiểu Muội tiếng tăm lừng lẩy, cũng
muốn được cầu thân, song chưa thấy được dung nhan, lại nghe đồn trán nàng cao như núi, mắt thẳm tợ
sông, trong lòng cũng ngan ngán, muốn kiếm dịp nào để gặp mặt, coi hơn thiệt thế nào rồi sẽ định.

Vừa lúc ấy chàng lại nghe tin đúng ngày mồng một tháng hai Tiểu Muội đến chùa dâng lễ.

Thế là dịp tốt. Ngày hôm đó thấy Tần Quán dậy thật sớm, ăn mặc nâu sòng, trá hình một tăng sĩ du phương,
cổ đeo chuỗi hộc, đầu thắt khăn vải.

Trông vào gương, chàng ta mỉm cười tự nghĩ :

­ Nếu mình đi tu thật thì chắc làm cho các bà vãi si mê không ít.

Chàng ta lấy làm tự đắc cho sắc đẹp của mình, ung dung bước đến chùa Đông Nhạc.

Giữa lúc đó, kiệu hoa của Tiểu Muội cũng vừa đi đến. Tần Quán trông thấy nàng, tuy mặt nàng không phải
bực “chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, lỉnh da trời nhạn ngẩn ngơ sa”, nhưng chứa đựng một cái gì uy nghi, đoan
chính.

Muốn thử chút tài năng, Tần Quán đứng đợi dâng hương xong, mới bước đến nói :
­ Tiểu thư hữu phúc, hữu thọ, nguyện phát từ bi... (Tiểu thư có phúc, có thọ, xin mở lòng từ bi).

Biết chàng trai kia có à ghẹo mình, Tô Tiểu Muội nối lời đáp :

­ Đạo nhân hà đức, hà năng cảm cầu bố thí ? (Đạo nhân có đức, có tài gì mà dám xin bố thí ?)

Tần Quán nói tiếp :

­ Nguyện tiểu thư, thân như được thụ, bách bệnh bất sinh... (Cầu chúc tiểu thư mình như cây thuốc, trăm
bịnh không sinh).

Tiểu Muội vừa bước đi, vừa quay đầu lại đáp :

­ Tùy đạo nhân khâu thổ liên hoa, bán văn vô cả (Dù đạo nhân miệng nở hoa sen, nửa đồng không có).

Trần Quán nói thêm :

­ Tiểu nương tử nhất thiên hoan hỷ, như hà triết thủ bảo sơn ? (Tiểu nương tử một trời hoan hỉ, tại sao lại
khép non vàng ?)

Tiểu muội bồi thêm một câu :

­ Phong đạo nhân điểm địa tham si, ma đắc tùy thân kim huyệt (Phong đạo nhân lắp đất tham si, đâu được
thâu vào hang bạc).

Đáp xong câu ấy, Tiểu Muội bước lên kiệu.

Các nhà sư trong chùa đi theo đưa Tiểu Muội được nghe các lời đối đáp ấy, lấy làm lạ, chẳng hiểu tên đạo
nhơn nào, từ đâu đến mà lại sỗ sàng như vậy.

Vừa định quay lại để trách cứ thì tên đồng tử đến bên người đạo nhân kia, kính cẩn nói :

­ Xin công tử về nhà thay áo.

Chờ người đạo nhân đi khỏi, người giữ chùa hỏi nhỏ đồng tử :

­ Người đó là ai thế ?

Đồng tử đáp :

­ Đó là công tử Tần Quán, tự là Thiếu Du, một danh tài ở đất Dương Châu, ai ai mà chẳng biết...

Người giữ chùa nghe nói thất kinh, đem chuyện ấy thuật lại với một người trong chùa. Và chẳng bao lâu,
tiếng ấy đồn khắp đó đây.

Thiếu Du thấy nhan sắc Tiểu Muội không đẹp nhưng mặn mà, đem lòng kính mến, liền đến nhà Tô Lão để
cầu thân.

Tô Lão nhận lời. Thiếu Du lập tức đem nạp đồ sính lễ.

Lúc bấy giờ, vào đầu tháng hai. Tần Thiếu Du nóng thành hôn, nhưng Tiểu Muội xem văn, đoán biết khoa thi
này, thế nào Thiếu Du cũng đậu tiến sĩ, muốn rằng vị tân lang của mình, ít ra ngày họp cẩn cũng có bào gấm
hia thêu, nên thưa với Tô Lão xin hoãn cuộc thành hôn lại đã.

Kịp đến mồng ba tháng ba, triều đình mở khoa thi kén chọn nhân tài, Tần Thiếu Du quả nhiên thi đậu, bảng
vàng đề tên.
Khoa thi đã đỗ, Tần Quán lại càng nóng lòng cưới vợ, vội vã đến xin làm lễ cưới ngay ngày hôm ấy.

Tô Lão thấy chàng rễ mình quá bôn bức, cười xòa, và nói :

­ Ngày hôm nay yết bảng ắc là ngày lành, vậy ta cho nghĩa tế thành hôn tại tệ xá trong đêm nay có được
chăng ?

Còn gì mừng rỡ hơn nữa. Tần Thiếu Du lạy tạ đền ơn...

Đêm ấy trời trăng vằn vặc, bầu trời trong suốt, gieo vào lòng người một tâm hồn man mác, như muốn giúp
cho đôi tình nhân văn học một nguồn cảm giác xa xuôi.

Sau khi dự tiệc, Thiếu Du toan bước vào động đào để xem hoa nở, thì thấy cửa phòng tiểu thơ đóng kín,
trước cửa có để một bàn án nhỏ, đủ cả văn phòng từ bửu, lại có thêm ba phong thơ và ba cái chén : một
chén ngọc, một chén vàng, và một chén bằng sứ.

Thấy con Liễu Hoàn đứng lấp ló, Tần công tử tưởng nó chực mở cửa cho mình, bèn nói :

­ Vào báo cho tiểu thơ biết, tân lang đã đến sao không chịu ra mở cửa ?

Liễu Hoàn cung kính đáp :

­ Tiện tỳ tuân lệnh tiểu thơ ra đây để nhắc cho công tử rõ rằng trên án thư có ba đề mục, nếu đáp trúng cả
ba, tôi xin mở cửa ngay.

Thiếu Du nói :

­ Ba cái chén ấy dùng đựng gì thế ?

Nữ tỳ đáp :

­ Chén ngọc đựng rượu, chén vàng đựng trà, chén sứ đựng nước lã. Nếu trúng cả ba đề mục tôi sẽ dùng
chén ngọc dâng ba lần rượu trước khi mở cửa vào phòng ; nếu chỉ đáp trúng

hai đề mục thì tôi dùng chén trà dâng một chén nước để công tử giải khát, chờ đến đêm mai sẽ lại ; còn nếu
đáp trúng một đề mục thì tôi sẽ dâng cho công tử một chén nước lã và phạt ở ngoài hiên đọc sách ba tháng.

Thiếu Du nghe xong, trong lòng hậm hực, nhưng không biết phải làm sao, chẳng lẽ từ chối cuộc chơi ấy thì
còn gì là một trượng phu, nên gượng cười đáp :

­ Nơi chốn trường thi, ngàn vạn anh tài tranh đoạt, thế mà ta còn chưa sợ thay, huống chi ở đây chỉ là một
đề thi thử thách, đâu có đáng kể !

Liễu Hoàn cũng không vừa, nghe Tần Quán tự phụ như vậy, vội nói ngay :

­ Tiểu thơ của tôi không thể ví với các khảo quan, chỉ lôi những sáo cũ ra mà lòe thí sinh. Ở đây có ba đề
mục. Thứ nhất là bốn câu, công tử phải trả lời bằng 4 câu thơ ẩn nghĩa của bài thơ xướng là đúng. Thứ hai
cũng là bốn câu thơ, trong đó có bốn danh nhân thời cổ, công tử biết đặng bốn tên ấy, mà trả lời thì đúng.
Thứ ba, đề tài này dễ hơn, công tử chỉ phải đối một vế câu đối bảy chữ mà thôi.

Nói xong, Liễu Hoàn kính cẩn dâng cho Tần Quán một phong thư. Tần Quán bóc thư ra, thấy bốn câu thơ
viết trên một tờ hoa tiên.

Đồng thiết đầu hồng dã


Lâu nghĩ thướng phấn tường
Âm dương vô nhị là
Thiên địa ngã trung ương...

Đồng thiết quặn lò lớn : ẩn nghĩa chữ “hóa”


Ong kiến lên tường vôi : ẩn nghĩa chữ “duyên”
Âm dương không hai đường : ẩn nghĩa chữ “đạo”
Giữa trời đất có ta : ẩn nghĩa chữ “nhân”

Thiếu Du xem xong mỉm cười và nghĩ thầm :

­ Theo người khác thì khó thực, nhưng ta, ta là người đã giả đạo nhân để ghẹo nàng trước kia, nay nàng lại
làm một đề thơ có hàm à chữ “hóa duyên đạo nhân” thì chẳng khó khăn gì, à nàng muốn trêu ta về câu
chuyện ở chùa hôm nọ.

Nghĩ xong, bèn lấy bút viết bài thơ trả lời :

Hóa công hà à bả xuân thôi


Duyên đáo danh vên hoa tự khai
Đạo thị xuân phong chân hữu chu?
Nhân nhân bất cảm thướng hoa đài

Dịch :

Hóa công sao khéo giục xuân hoài


Duyên đến vườn thơm hoa tự khai
Đạo ấy, giờ xuân đà có chu?
Nhân nhân, ai dám tới hoa đài

Liễu Hoàn thấy Thiếu Du viết xong, vội vã tiếp lấy đem vào trình cho Tiểu Muội.

Tiểu Muội xem qua mỉm cười nói :

­ “Hóa duyên đạo nhân” à ! ra cũng giỏi đấy.

Thiếu Du lại giở phong bì thứ hai, thấy trong đó cũng một bài thơ đề :

Cường gia thắng tổ hữu thi vi


Tạc bích thâu quang dạ độc thư
Phùng tuyến lộ trung thường ức mẫu
Lão ông chung nhật ỷ môn lư

Dịch :

Con lại hơn cha chẳng kẻ bì,


Dục tường mượn sáng đọc bài thi
Vá may buồn bã thường trông me.
Tựa cửa lão ông đợi suốt ngày

Câu “Cường gia thắng tổ” nghĩa là “Tôn Quyền”

“Tạc bích thâu quan” nghĩa là “Khổng Minh”

“Thường ức mẫu” nghĩa là “Tử Tư”

“Lão ông tựa cửa” nghĩa là “Thái Công Vọng”

Thiếu Du xem xong lấy bút đền liền bốn tên ấy với những lời chú giải.
Liễu Hoàn lại tiếp lấy đem vào dâng cho Tiểu Muội xem, Tiểu Muội cũng chắc lưỡi khen thầm.

Đã trả lời được hai đề thi khó khăn rồi, bây giờ đến đề thi thứ ba là một câu đối. Thiếu Du thở ra khoan
khoái, tưởng chừng như mình sắp được vào phòng rồi, mặt mày hớn hở, bóc đề bài thứ ba ra xem; trong ấy
viết :

Bế môn, suy xuất song tiền nguyệt

Khi mới đọc xong, Thiếu Du cho là một vế đối rất dễ, nhưng lòng anh chàng lúc này đã quá nóng nảy, à tứ
không còn tập trung nữa, tâm hồn như đang lạc loài trong cõi mộng thần tiên, thành thử nghĩ hoài mà không
ra à.

Giữa lúc đó Đông Pha chưa ngủ, biết rằng đêm hợp cẩn thế nào đứa em gái mình cũng “chơi ác” để làm
khốn vị tân lang, bèn đến gần khuê phòng nghe ngóng. Vừa đến nơi, thấy Thiếu Du chắp tay thơ thẩn mãi
trong sân, miệng lẩm bẩm câu :

Bế môn, suy xuất song tiền nguyệt

Đông Pha mỉm cười, tự bảo :

­ Đúng rồi ! Cô em gái mình đang đưa vế đối ấy để làm khó dễ vị tân lang của hắn ; à muốn giúp đỡ cho
Thiếu Du một chút cho xong chuyện, xong sợ Thiếu Du tự ái, chẳng biết phải làm sao. Đông Pha suy nghĩ
một lúc rồi lượm một hòn đá nhỏ ném vào mặt hồ gần đấy.

Nước trong hồ đang im lìm trong giấc ngủ, bỗng cau mày, vừng trăng tan rã ra từng mảnh, nước bắn vào
mặt Thiếu Du.

Như chiêm bao sực tỉnh, Thiếu Du hội à, chạy vào án thư cầm bút đối rằng :

Đầu thạch xung khai tỉnh để thiên


(Ném đá vỡ trời tung đáy nước)

Để đối với câu của Tiểu Muội :

Bế môn suy xuất song tiền nguyệt


(Đóng cửa đùa trăng ra trước sân)

Liễu Hoàn vừa nạp bài thi chót vào cho Tiểu Muội chưa bao lâu, thì bỗng “kẹt” một tiếng, cánh cửa “động
đào” mở rộng, một tên tùy nữ từ bên trong bước ra, tay dâng chén ngọc đầy rượu và nói :

­ Thật là một đấng tài hoa. Tiểu thơ tôi xin mời công tử cạn ba chén.

Thiếu Du đắc à uống liền. Uống xong, bên trong lại có hai con tùy nữ khác bước ra, kính cẩn đưa chàng vào
phòng huê chúc.

Mối tình giai nhân tài tử thấm thía vô cùng...

Một thời gian sau, vì tài năng lừng lẫy, Thiếu Du được triều đình bổ nhậm đến chức Hàn Lâm học sĩ. Còn Tô
Tiểu Muội thanh danh càng ngày càng lừng lẫy, được Hoàng thái hậu mời vào cung để xướng họa suốt ngày
đêm.

Về sau, Tiểu Muội mất sớm, Thiếu Du thương tiếc quá, không tục huền, giữ mãi mối tình thơ, gói trong niềm
ân ái, đến chết vẫn chưa phai.

Tả Bá Đao
Cuối đời Xuân Thu Chiến Quốc, nước Tàu loạn lạc, gần bốn mươi chư hầu lăm le thôn tính lẫn nhau. Vua
Nguyên Vương nước Sở là người trọng đạo, sùng nho, muốn khôi phục sự hùng cường cho đất nước và
chiếm lại những đất đai đã bị mất để chống đối với nước Tần tàn bạo.

Thuở ấy, tại núi Tích Thạch, thuộc xứ Tây Phương, có một vị ẩn sĩ, họ Tả, tên Bá Đao, tuy mồ côi cha mẹ,
song có chí học hành, nên sớm trở thành một người có tài trị thế an bang.

Đã gần bốn mươi tuổi, Tả Bá Đao không chịu ra làm quan, nay nghe Nguyên Vương nước Sở mến nghĩa
cầu hiền, đem lòng hoài bảo thi thố tài năng của mình.

çng ta lần đến kinh đô nước Sở để yết kiến.

Khi đi đến xứ Ung, gặp lúc trời mưa tuyết đổ dầm dề, đường sá trơn trợt, mình mẩy ướt dầm, không thể đi
được nữa, nên phải tìm nơi tạm trú.

Lần mò mãi quanh chân núi, bốn bề đều vắng tanh không có một nhà cửa làng mạc nào cả. Trong cơn bối
rối, màn đêm lại rủ xuống, gió lạnh rít từng cơn. May thay, trước mặt xa, trông thấy lấp loáng một ánh đèn,
Tả Bá Đao lần đến thấy một ngôi nhà cỏ, bốn bề phủ một giậu trúc, trông có vẻ thanh cao và u nhã.

Bá Đao bước vào gõ cửa, bên trong chủ nhân ra mở cửa, và mời vào.

Nhà tuy chật hẹp, song rất sạch sẽ, ngăn nắp; giữa nhà kê một chiếc giường mây, trên treo mấy bức họa
thời cổ, chung quanh chất đầy sách vở.

Biết là nhà của một nho sĩ ẩn dật, Bá Đa cúi chào và nói :

­ Tiểu sinh là người Tây Phương, tên Tả Bá Đao, định sang nước Sở, chẳng may giữa đường gặp nước
dầm, tuyết lạnh, vậy xin tiên sinh cho tá túc một đêm.

Chủ nhân lễ mễ đáp :

­ Ngài không chê tệ xá mà đến đây thực là quà hóa lắm.

Nói xong, tìm trúc đốt lửa lên cho ấm và sửa soạn cơm, rượu dọn lên đãi khách.

Trong lúc ăn uống, Bá Đao hỏi họ tên thì chủ nhân đáp :

­ Tiểu sinh họ Dương, tên Dốc Ai, ham việc sách đèn, nay may gặp tiên sinh hạ cố đến đây thực là may mắn
lắm !

Bá Đao nói :

­ Trong cơn mưa dầm tuyết đổ, được tiên sinh cho tạm trú, lại ân cần thết đãi như vầy, ơn ấy ngàn ngày
không quên !

Đêm ấy hai người nằm gác chân nhau chuyện trò vui vẻ đem hết tài năng kinh lược ra bàn với nhau, tâm
tình mỗi lúc một thêm khắn khít.

Sáng hôm sau, mưa tuyết vẫn dằng dai không ngớt, Dốc Ai cầm Bá Đao lại không cho lên đường.

Bá Đao nóng lòng nói :

­ Nay Nguyên Vương nước Sở chiêu đãi hiền sĩ, tôi tính xuống đó để lập công, còn hiền đệ có tài đồ vương
định bá sao không đi cùng tôi xuống đó để lập nghiệp, lại sống ẩn dật nơi đây làm gì cho uổng đời tài hoa
như thế ?

Tuy Dốc Ai lâu nay vẫn tính sống cảnh thanh nhàn, nhưng nay trước thâm tình không nỡ từ chối bèn sửa
soạn hành trang cùng đi.

Đường xá xa xuôi dịu vợi, lại gặp lúc trời mưa mỗi lúc một thêm, phần thì cả hai người lâu nay sống trong
cảnh nghèo nàn thanh đạm, hành là không có bao nhiêu, chỉ dồn vào một bao thay phiên nhau mà vác.

Gió càng ngày càng thổi mạnh, mưa mỗi lúc một thêm, bầu trời lạnh lẽo rủ xuống một màu trắng đục như
một màu tang chìm trong cảnh hoang vu quạnh quẽ.

Qua khỏi vùng núi Lương Sơn, đường sá lại càng gay go hơn nữa.

Hỏi thăm thổ dân họ cho biết rằng con đường này, hơn trăm dặm đều là núi sâu, rừng rậm, các thú dữ đi
từng đoàn khó mà vượt qua khỏi.

Hai người nhìn nhau thở ra, tuy không ai nói với ai câu gì, nhưng lòng mỗi người đều lo lắng.

Bá Đao nói :

­ Xưa nay sống thác đều có số mệnh, chúng ta đi đến đây chẳng lẽ trở về. Người anh hùng phải tìm cái sống
trong cái chết !...

Đến một ngày kia, núi rừng u tịch, đường sá tuyết đọng trắng phau, lương thực trong hồ bao đã gần cạn,
sức người có hạn làm sao chống lại với thiên nhiên trong cảnh nguy nan.

Tả Bá Đao nói với Dốc Ai :

­ Tôi nghĩ từ đây phải đi qua hơn trăm dặm trên con đường núi vắng vẻ, không có làng mạc nhà cửa. Tính
số lương thực thì một người đi may ra tới nước Sở được. Vậy ta trao lương thực và áo quần cho hiền đệ cố
gắng mà đi. Còn ta, ta đã kiệt sức rồi, đành nằm chết ở nơi đây, đợi hiền đệ về đến kinh đô nước Sở, bái yết
xong sẽ trở về đây đắp một cho ta cũng được.

Dốc ai nghe Bá Đao nói đau lòng, đáp :

­ Chúng ta đã kết nhau làm anh em, thì sống thác có nhau, sao hiền huynh lại nghĩ như thế ?

Bá Đao nói :

­ Nếu như thế rồi đây chúng ta sẽ bỏ thây cả hai nơi chốn rừng thâm này phỏng có ích gì không ?

Dốc Ai nhất thiết không chịu, thấy Bá Đao có vẻ hơi mệt nhọc, bèn dìu bạn đến một gốc cây dâu bên mé
đường, bẻ cành khô đốt lên để sưởi lửa cho ấm.

Thấy lửa đã gần tàn, và tuyết vẫn rơi như đổ, Dốc ai vội vả rảo bước quanh vùng để kiếm thêm củi khô đem
về đốt.

Vừa mới về đến nơi, thấy Bá Đao cởi bỏ hết quần áo, nằm chèo queo, Dốc Ai thất kinh hỏi :

­ Anh định làm gì thế ?

Bá Đao chỉ đống quần áo nói :

­ Hiền đệ hãy mặc thêm quần áo cho đỡ lạnh, rồi mang lương thực ra đi, tôi nhứt định chết ở đây !!!

Dốc Ai ôm quần áo đem đắp lên mình Bá Đao và nói :

­ Nếu anh làm như thế, tôi cũng nguyện chết theo anh cho trọn nghĩa đệ huynh.

Vẻ mặt đầy nét hy sinh và khẳng khái, Bá Đao nói :


­ Tôi bình sanh nhiều bệnh tật. Hiền đệ còn trẻ trung, khỏe mạnh, tài học lại hơn tôi bội phần, do đó nên tôi
quyết nhường lương thực cho hiền đệ đi tới nước Sở mà lập nghiệp, hiền đệ đừng câu chấp như thế mà hai
đứa phải chết cả nơi đây thì vô ích lắm.

Nói xong, thần sắc Bá Đao biến hẳn, rồi chỉ trong chốc lát, con người hy sinh ấy tắt thở.

Dốc Ai thương khóc thảm thiết, muốn tự tử chết theo, song sợ như thế sẽ phụ lòng Bá Đao, làm cho vong
hồn Bá Đao không toại chí, bèn vái rằng :

­ Em nguyện xin tuân à anh ra đi và cầu xin vong linh anh phò hộ cho em sớm được thành công để về đây
chôn cất cho anh, ấy là nguyện vọng của đời em.

Nói xong, Dốc Ai lấy áo quần mặc, vác bao lương thực còn lại ra đi.

Trải qua bao nhiêu ngày đói rét, Dốc Ai mới lần mò đến kinh đô nước Sở.

Quan Giám khảo là Thượng đại phu Bùi Trọng trông thấy Dốc Ai quần áo rách rưới, nhưng vẻ mặt thông
minh, dĩnh ngộ, liền đem tất cả những nghĩa là trong điển kinh ra bàn hỏi. Dốc Ai ứng đáp như nước chảy,
Bùi Trọng mừng lắm, vào tâu lại với Sở Vương.

Sở Vương tức khắc cho triệu Dốc Ai đến để bàn việc quốc sự. Dốc Ai dâng mười điều sách lược rất cần yếu
cho sự tồn vong của nước Sở.

Nguyên Vương cả mừng, thiết đãi yến tiệc và phong cho Dốc Ai làm Trung đại phu.

Dốc Ai lạy tạ Ơn vua, nhưng đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng.

Nguyên Vương ngạc nhiên hỏi :

­ Trẫm đã mến tài khanh, trọng dụng như thế cớ sao khanh lại còn buồn bã là à gì vậy ?

Dốc Ai đem chuyện Tả Bá Đao kết nghĩa thâm giao và hy sinh liều chết nơi chốn núi non, để cho mình đủ
lương thực đến kinh đô nước Sở bái yết.

Sở Vương nghe nói, động lòng rơi lụy thán phục tinh thần hy sinh cao cả của Tả Bá Đao, và phong cho Tả
Bá Đao chức Trung đại phu, ban tứ đồ khâm liệm rất hậu, ủy thác cho Dốc Ai đến đó để dốc táng.

Dốc Ai lạy từ Nguyên Vương trở về đường cũ, tìm đến gốc bụi dâu nơi chân núi Dương Sơn, thấy thi thể Tả
Bá Đao vẫn còn tốt tươi như người còn sống.

Dốc Ai khóc lóc một hồi, tẩn liệm theo nghi lễ, rồi xây tường bao quanh mộ, xây đền thờ kỷ niệm, lập bia ghi
lại nỗi lòng hy sinh hiếm có ấy.

Bên cạnh ấy lại có xây một ngôi nhà riêng để cắt đặt người ở trông nom việc tế lễ hằng năm.

Công việc hoàn thành, thì tối hôm ấy Dốc Ai chong đèn ngồi trầm tư mặc tưởng ở hưởng đường, nhớ lại tấm
lòng thâm khiết cao vời của bạn.

Bỗng nhiên một trận gió thổi đến ào ào làm cho ngọn đèn lờ đi rồi tỏ lại. Dốc Ai nhìn ra trước nhà thấy Bá
Đao đứng sừng sững trước mặt, thất kinh vội hỏi :

­ Đại huynh hiện hồn về đây chắc có điều gì dạy bảo đệ chăng ?

Vong hồn Bá Đao buồn bã đáp :

­ Cảm nghĩa hiền đệ tận tâm chiếu cố đến nắm xương tàn của anh, anh không bao giờ quên được. Song có
một điều là phần mộ của anh, em đem táng gần ngôi mã của Kinh Kha, một vong hồn cực kỳ uy mãnh. Đêm
đêm vong hồn ấy thường đến kêu anh mắng nhiếc, nói :

­ Mày là tên quỷ chết đói sao dám xâm phạm đến phần đất của ta. Nếu không dời đi nơi khác, ta quyết quật
thây mi đó.

Vì vậy cho nên anh phải hiện hồn báo cho hiền đệ biết để dời ngôi một ta đem táng một nơi khác cho yên
thân.

Hồn Bá Đao vừa nói dứt tiếng thì trận cuồng phong lại nổi lên làm cho ngọn đèn lay động. Dốc Ai trông ra đã
không thấy bóng hình của Bá Đao đâu nữa.

Lấy làm lạ, Dốc Ai đợi trời sáng tìm đến hỏi vài người thổ dân trong vùng ấy.

Người người đều nói :

­ Trong rừng tùng trước mặt có mả của Kinh Nha, và có miếu thờ vong ấy.

Dốc Ai lại hỏi :

­ Người ấy trước kia vì Thái tử Đan ở nước Yên đến hành thích Tần Thủy Hoàng, nhưng việc không thành,
tại sao lại lập miếu mà thờ.

Thổ dân giảng giải :

­ Nguyên Cao Tiệm Ly là người xứ này, biết Kinh Kha sau khi bị giết thế nào thây cũng bị ném ra đồng
hoang, mới lần sang Tần quốc lén trộm thây bạn đem về an táng ở đây. Sau vong hồn ấy linh hiển lắm, nên
chúng tôi phải lập miếu mà thờ.

Dốc Ai nghe xong lập tức tìm đến miếu Kinh Kha.

Thấy trong đó có một tượng thần, Dốc Ai nổi giận, chỉ vào mặt lớn tiếng mắng rằng :

­ Ngươi là một kẻ lưu vong ở nước Yên, thờ phụng Thái tử Đan, đáng lẽ phải đem tài an bang tế thế, mưu
đồ cho nước ấy được phú cường, diệt cái uy lực của nhà Tần. Ngươi chẳng làm được, về sau được ủy thác
của Thái tử Đan, giắt con dao ôm sang Tần quốc để thích khách vua, ngươi lại cũng không làm được gì để
đến nỗi cha con vua nước Yên phải thác bao nhiêu sanh linh vong mạng, thế mà mi không biết hối ngộ tài
năng và tội lỗi của mình, mê hoặc lòng dân, bắt dân chúng tôn sùng thờ phụng. Anh của ta là Tả Bá Đao một
bực danh nho tài đức, nghĩa trọng thiên kim, đáng cho mi kính phục, mi lại đem lòng ganh ghét xua đuổi,
mắng nhiếc nhiều điều, cậy thế cậy thần mà bức bách. Nếu mi còn hống hách như thế ta sẽ phá miểu, quật
mồ ngươi lên đó.

Mắng xong, Dốc Ai trở về mộ Tả Bá Đao, van vái rằng :

­ Nếu đêm nay mà Kinh Kha còn đến quấy rầy hiền huynh nữa mong hiền huynh hiện hồn về báo mộng cho
em rõ.

Đêm ấy lúc Dốc Ai ngồi tựa hưởng đường, thì lại có một trận cuồng phong thổi đến nữa. Lần này không thấy
bóng của Tả Bá Đao hiện ra, chỉ nghe giọng nói bi ai não nùng từ bên ngoài vang lại :

­ Cảm lòng em chu đáo. Song Kinh Kha hung dữ lắm, lại có thêm Cao Tiệm Ly trợ giúp, cứ đến xỉ vả anh
hoài; nay mai, thây anh sẽ bị quật lên khỏi mộ. Mong hiền đệ dời gấp đi nơi khác để anh khỏi tủi lòng.

Dốc Ai nói :

­ Chúng dám lăng mạ anh như thế thì em nhất định giúp anh để đối phó với chúng.
Giọng nói bên ngoài buồn rầu đáp lại :

­ Em là người dương thế làm thế nào mà chiến đấu với kẻ âm phủ cho được.

Dốc Ai hằn học đáp :

­ Anh cứ yên tâm. Sáng mai em sẽ liệu cách.

Sáng hôm sau, Dốc Ai đến mộ Kinh Kha, mặt hầm hầm giận dữ, muốn đập phăng pho tượng và quật mã lên,
song thổ dân trong vùng theo năn nỉ cầu xin đừng phá phách, vì thế cho nên Dốc Ai nuốt hận trở về.

Về đến hưởng đường Dốc Ai ôm đầu suy nghĩ, rồi viết một đạo biểu chương dâng lên Sở Vương nói rõ mối
thâm tình của ông ta với Tả Bá Đao. Trước đây, Tả Bá Đao đã hy sinh cho mình được sống, vì thế mới tao
phùng Thánh Chúa, mong đội ơn sâu, nay xin hẹn lại kiếp sau mới đáp đền ơn Thánh Thượng.

Lời lẽ trong tờ biểu rất bi thiết.

Viết xong, Dốc Ai khóc lớn, rồi giao tờ biểu chương cho bộ hạ đem về triều phục mạng.

Còn mình thì đến trước mộ Bá Đao van vái rằng :

­ Anh bị vong hồn Kinh Kha bức bách, em muốn đốt miểu và quật mồ để rửa hận cho anh, song dân chúng
ngăn cản, vậy em tự nghĩ, em còn có cách là chết theo anh cho có bạn để họp nhau mà trừ loài quỷ hung
hăn ấy.

Vái xong, Dốc Ai rút gươm tự vận.

Thổ dân thấy đôi tình thân thiết như vậy bèn đem xác Dốc Ai chôn gần nơi mộ Tả Bá Đao.

Đêm ấy, một trận cuồng phong nổi dậy, sấm sét ầm ầm, trong rừng thông vi vút như tiếng gươm giáo choảng
nhau, lại có những tiếng hò hét như thiên binh ngàn tướng.

Trời sáng, mộ Kinh Kha bị bật tung, xương cốt ném đầy trước mộ. Tượng đá, miếu thờ đều bị gió cuốn đi
đâu mất biệt.

Bọn tùy tùng trở về nước Sở, tâu lại đầu đuôi công việc.

Sở Vương bùi ngùi thương xót, tiếc cho những kẻ chân thành đã vùi thân trong nắm đất.

Muốn lạm rạng tình nghĩa thiết tha của đôi bạn ấy, vua Sở truy phong cho hai người lên chức Thượng đại
phu, lập miểu tôn thờ, và làm bia ghi sự tích ly kỳ ấy.

Mãi đến nay, hương khói còn lưu truyền mãi mãi. Quanh vùng đó, những ai muốn kết nghĩa tử sanh với
nhau đều dắt đến đó để thề nguyền.

Tấm gương yêu mến của hai người truyền tụng mãi đến muôn đời.

Các bậc sĩ phu đi ngang qua đó thường cảm kích đề vịnh, và đây là một bài :

Cổ kim đại nghĩa bao thiên ha.


Chỉ tại nhân tâm phương thốn gian
Nhị sĩ miếu tiền thu khí túc
Anh hồn thường bạn nguyệt quang hàn

Dịch :

Xưa nay nghĩa lớn trùm trời đất


Chỉ tại lòng người một chút nhân
Thu khí hắc hiu lồng trước miếu
Tình vươn thương bạn bóng trăng trong.

Đỗ Thập Nương

Về đời Vạn Lịch, nhà Minh Nhật Bản khởi binh xâm lấn Triều Tiên. Quốc vương Triều Tiên dâng biểu cáo
cấp. Trung Quốc phái binh cứu ứng.

Vì thời đó, binh lương thiếu hụt, nên triều đình Trung Quốc ra một định lệ hễ ai muốn vào học trường Quốc
Tử Giám phải nộp tiền bổ sung vào qu˛ quân lương.

Học trò theo trường Quốc Tử Giám cũng khá đông, trong số đó có người họ Là, tên Giáp, tự Tu Tiên, quê ở
phủ Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, là con của Là Bồ Chính. Có ba người con trai, nhưng Giáp là lớn nhứt, từ
thuở nhỏ vẫn theo học ở trường Tường, mà vẫn chưa đậu.

Nay, theo lệ nộp tiền, lại rủ thêm người bạn cùng làng tên Liễu Ngộ Xuân tùng học nơi Quốc Tử Giám.

Đôi bạn là cà nơi Đế đô, lại kết liên với một danh k˛ họ Đỗ tên Ty, đứng hàng thứ mười trong k˛ viện, mọi
người gọi là Đỗ Thập Nương.

Đỗ Thập Nương tuy tuổi mới lên 19 mà cặp má đào phơi phới hương xuân ấy đã làm tan nhà nát cửa không
biết bao nhiêu vương tôn, công tử nơi chốn Đế đô.

Là Giáp cũng là tay phong lưu công tử, mặt mũi khôi ngô, tác phong nho nhã, ra mặt con nhà thế phiệt đoan
trang.

Từ khi vàng đá gặp nhau, hai bên trao tình ân ái, càng ngày mối tình của chàng thư sinh với nàng ca k˛ càng
thắm đượm sâu xa.

Mà con người lúc đã yêu nhau thì ai còn có thể sống mãi trong cảnh hỗn độn như thế được, nàng Thập
Nương bắt đầu chán với cuộc sống nơi k˛ viện, muốn trở lại cuộc sống thanh bạch của ngày nào. Hơn nữa,
thấy Là Giáp là người trung thực, đáng mặt trượng phu, có thể sống gởi nạc, thác gởi xương được.

Một hôm, Đỗ Thập Nương đem à mình tỏ với Là Giáp biết. Là Giáp tuy trong lòng cũng muốn vớt đóa hoa
tươi, sớm rơi giữa giòng nước, nhưng ngại vì thung đường chẳng khứng, còn chần chừ chưa quyết. Mặc dù
thế, nhưng tình ân ái vẫn đậm đà.

Bà chủ k˛ viện thấy mối tình của cặp tình nhân ấy càng ngày càng khắn khít, ban đầu Là Giáp tiền bạc còn
nhiều, bà ta tiếp đón rất nồng hậu, nhưng sau coi đà Là Giáp chỉ còn bàn tay trắng, mụ liền trở mặt... Vả lại
mụ nghe Là Bồ Chính ở nhà hay tin con du đãng không gởi tiền nữa, từ đó mụ ra mặt khinh khi, không còn
giữ chút gì lễ độ nữa.

Vì mối tình chân thật, Đỗ Thập Nương khác hẳn, thấy Là Giáp hết tiền, trong lòng bức rức, nhất là thấy mụ
chủ hất hủi chàng ta, lòng làng không nỡ.

Một hôm mụ chủ nói với Đỗ Thập Nương :

­ Nhà này là chỗ rước khách, hễ kẻ nào có tiền thì được trọng đãi, kẻ nào không có tiền đừng có léo tới làm
rầy. Nếu cứ chiều chuộng mãi cái bọn túi rỗng kia thì cả nhà này phải chết đói sao ?

Cố nhẫn nhục, Thập Nương đáp :

­ Trước kia công tử đâu phải là kẻ túi rỗng đến đây sao ?

Mụ chủ cười xòa nói :


­ Trước kia ta cũng không bạc đãi nó vì nơi đây nuôi con em là để rước khách lấy tiền, chứ đâu phải để
thương yêu nhau bằng cái lối “chung thủy” ấy. Nếu mày thấy nó quả thật yêu mày thì mày bảo nó đem tiền
đến chuộc mày ra, để tao lấy tiền mua đứa khác cho k˛ viện.

Đỗ Thập Nương thấy mụ chủ mở lời như vậy trong lòng mừng rỡ, hỏi lại :

­ Quả bà bằng lòng như thế sao ? Hay bà thấy Là Giáp hết tiền đặt điều đuổi khéo ?

Mụ chủ mỉm môi, đáp :

­ Ta chưa bao giờ nói sai lời với ai cả !

Đỗ Thập Nương chưa tin, hỏi thêm :

­ Bà định giá bao nhiêu ?

­ Người khác thì phải đủ ngàn vàng, nhưng đối với Là Giáp nghèo khổ, ta chỉ lấy ba trăm lạng thôi. Nội trong
ba ngày, nếu có đủ số ấy thì tốt, bằng không mà còn lân la đến đây thì đừng trách ta có ác à.

Thập Nương suy nghĩ một lúc rồi nói :

­ Bắt một người không tiền phải có ba lượng vàng trong ba ngày e gấp quá ! Xin hạn cho mười hôm.

Mụ chủ biết Là Giáp lúc này không đào đâu ra tiền nữa, nên làm ra mặt dễ dãi nói :

­ Được rồi, ta cho một thời hạn mười ngày đó.

Thập Nương trong lòng vẫn e ngại, nên hỏi tiếp :

­ Nếu trong mười ngày, người ta có đủ số tiền mà bà không y lời hứa thì sao ?

Mụ chủ đôi mắt tròn xoe, tỏ à bất bình :

­ Nếu ta nói sai, ta sẽ là một con thú vật.

Đêm ấy Là Giáp đến, Đỗ Thập Nương nói tỉ tê với chàng. Là Giáp buồn bã phân trần :

­ Tôi có à ấy đã lâu ngặt vì tay trắng, không kiếm đâu ra tiền, biết làm sao ?

Đỗ Thập Nương nói :

­ Chàng nên tìm vay mượn nơi bạn bè thân thích, chúng ta sẽ cùng nhau chung sống suốt đời. Thoát khỏi
cảnh cá chậu chim lồng này, thiếp xin nguyện làm thân trâu ngựa để báo đền ơn ấy.

Là Giáp phàn nàn :

­ Bạn bè thân thích hiện nay thấy tôi tới lui nơi k˛ viện đều lánh mặt, khó mà mượn được, chỉ có cách là ngày
mai tôi giả vờ mượn đỡ một ít tiền hồi hương, may ra có được ít nhiều.

Hôm sau, Là Giáp đến các bạn học cáo biệt và hỏi mượn một ít bạc tiền làm lộ phí về quê. Các bạn bè đều
một mực từ chối, không ai cho mượn cả.

Là Giáp chạy luôn ba ngày như vậy mà không tìm đâu ra được một đồng một chữ nào, xấu hổ quá, không
dám đến k˛ viện nữa, mới lén qua ngủ nhờ nơi nhà người bạn học cùng làng là Liễu Ngộ Xuân.

Liễu Ngộ Xuân thấy mặt bạn dàu dàu, bèn hỏi thăm duyên cớ. Là Giáp đem câu chuyện Đỗ Thập Nương
đầu đuôi kể lại.

Liễu Ngộ Xuân nói :

­ Chưa hẳn là nàng Thập Nương đã thật dạ yêu anh đâu. Nàng là danh ca đệ nhất của k˛ viện, tôi e mụ chủ
tìm cách để gạt gẩm anh đấy thôi, chứ là nào mụ ấy lại chịu buông cái con “bò sữa” ấy.

Là Giáp nói :

­ Không, nàng quả thật tình yêu tôi, và nói mụ chủ hứa chắc như vậy.

Liễu Ngộ Xuân trầm lặng một lúc rồi nói :

­ Mà dầu nàng có yêu anh thật, dù mụ chủ có thật tình như thế thì bây giờ anh kiếm đâu ra tiền. Bè bạn hiện
giờ anh hỏi vay ba lạng vàng cũng không có nữa, đừng nói đến ba trăm lạng. Anh nên chia tay với nàng ấy
là hơn.

Là Giáp thở ra, đáp :

­ Phải, anh nói rất có là.

Tuy miệng nói thế chứ trong lòng nóng như bào, Là Giáp không ăn uống gì được, qua sáu ngày liền vẫn
không hỏi mượn ai được một đồng xu nhỏ.

Thập Nương mấy ngày không thấy Là Sinh đến, trong lòng buồn bực, chẳng biết công việc ra sao, bèn cho
người tiểu bộc đi tìm.

Người tiểu bộc gặp Là Giáp đang thơ thẩn trên đường, liền kể lại nỗi lòng nhớ nhung của Thập Nương đang
ngóng đợi.

Vì xấu hổ, Là Giáp không dám trở lại k˛ viện, nay có tin nàng Thập Nương mong đợi, bất giác chàng liều lĩnh
theo chân tên tiểu bộc.

Khi thấy mặt Thập Nương, Là Giáp cuối đầu e thẹn, đôi dòng nước mắt rươm rướm, không nói năng gì cả.

Thập Nương biết Là Giáp vì không tìm được tiền nên xấu hổ không đến, bèn làm ra vẻ ân cần nói :

­ Việc ấy không nên thố lộ đến tai mụ chủ. Đêm nay công tử ở lại đây, thiếp có việc cần bàn luận.

Nói xong, Thập Nương đi sửa soạn cơm nước, rượu thịt đãi đằn.

Là Giáp buồn bã uống đến say vùi rồi vào phòng nằm nghỉ.

Khi chàng thức giấc dậy, Thập Nương đã đứng bên màn nói :

­ Trong chiếc nệm của thiếp nằm có hơn một trăm năm mươi lạng vàng vụn. Bây giờ trời đã mờ sáng, vậy
chàng cứ mang số vàng ấy về và lo thêm cho đủ số. Xin chàng lưu tâm cố gắng đừng để lỡ việc.

Nói xong, Thập Nương lại sai người tiểu bộc cuốn nệm mang theo Là Sinh đến nhà Liễu Ngộ Xuân.

Về đến nhà, Là Giáp xé đệm ra, đem cân số vàng quả đúng y một trăm năm mươi lượng.

Liễu Ngộ Xuân thấy vậy nói :

­ Người con gái này thật hiếm có, một tấm chân tình đáng cho anh quà mến.

Là Giáp hỏi :
­ Thế thì anh liệu cách giúp cho tôi, để tác thành việc này được chăng ?

Liễu Ngộ Xuân gật đầu. Và hai ngày sau, chàng ta tìm đến các bạn bè hỏi mượn được số vàng giao cho Là
Giáp và bảo :

­ Tôi đi vận động việc này thật là vì tấm lòng của Thập Nương chứ không phải vì anh đâu.

Là Giáp mặt mày hớn hở, cảm tạ tấm thịnh tình của bạn rồi mang đủ ba trăm lạng vàng đến k˛ viện.

Thấy Là Giáp đem vàng đến, Thập Nương mừng rỡ, hỏi ra mới biết Liễu Ngộ Xuân đã giúp. Nàng chấp hai
tay lên trán nói :

­ Chúng ta mà đạt được nguyện vọng, một phần lớn cũng nhờ ở tấm tình hiếm có của Liễu sinh vậy. Hôm
nay chàng đã có tiền rồi, thân thiếp như con én sổ lồng, bay bổng lên từng mây diễm ảo để tìm một định
hướng của đời mình.

Hai người còn đang ríu rít ngợi khen tấm tình bạn của Liễu Ngộ Xuân thì mụ chủ đã xô cửa bước vào.

Nhìn thấy cặp uyên ương, mụ chủ hỏi :

­ Sao ? Hôm nay đã đúng mười ngày, hẳn Là sinh có mang tiền theo đó chứ ?

Là Giáp vội vã trao túi vàng cho mụ chủ trước mặt Thập Nương.

Mụ chủ vì lâu nay tưởng Là Giáp không kiếp đâu ra tiền, nay Là Giáp lại đem số tiền trao hẳn hòi, mụ ta
sững sốt nhưng vì đã hứa lỡ không biết nói sao, đành cứng cổ tiếc con chim hoàng anh thoát ra lồng sắt.

Thập Nương nói :

­ Tôi ở nhà bà lâu nay, vàng bạc bà đã nhờ tôi mà thu vô khá nhiều, nay bà lại cho tôi được giải thoát, thì
công ơn tôi thế là bà đã trả. Từ nay xin chúc bà làm ăn phát đạt.

Nói xong cặp tình nhân dắt nhau ra đi.

Thập Nương nói nhỏ với Là sinh :

­ Chị em hàng viện, thường ngày đi lại với tôi, mối tình rất thiết tha. Chị em đã góp nhau một số tiền lộ phí để
tiễn tôi, vậy trước khi đi, chúng ta nên đến cảm ơn và giã biệt họ.

Hai vợ chồng dắt nhau vào viện.

Giữa lúc ấy các bạn của Thập Nương là Tạ Nguyệt Lãng, Từ Tố Tố đang ngồi trông đợi. Thấy Thập Nương
đến, hai bạn nhảy đến ôm Thập Nương vào lòng, lại lấy cả quần áo và đồ trang sức của mình đem biếu cho
Thập Nương nữa.

Tạ Nguyệt Lãng nói :

­ Nay chị Thập Nương đã bỏ chúng ta theo chồng, đường xa ngàn dặm, vậy chúng ta phải sửa sẵn hành là
để tiễn nhau gọi là một chút tri kỷ của kiếp phấn son.

Mọi người đều hoan h˛.

Đêm ấy Là Giáp và Thập Nương nghỉ tại phòng của Tạ Nguyệt Lãng.

­ Hai ta dẫn dắt nhau trở về, chàng thấy có gì bất tiện chăng ?
Là Giáp đáp :

­ Cha tôi lâu nay nghe tin tôi hoang đàng nơi chốn lầu xanh, nên đem lòng giận dữ, nếu nay mà tôi lại dắt
một nàng ca k˛ trở về e lụy đến nàng.

Thập Nương nói :

­ Tình cha con là trọng, không thể làm mất lòng. Vậy thì chúng ta đến Hàn Châu tạm trú ở đó, chàng về nhà
trước cầu cứu với thân bằng, cố hữu đến khuyên dụ cha già, nếu cha già chấp thuận thì lúc đó em sẽ về ở
với anh cũng không muộn.

Là Giáp khen phải.

Hôm sau, hai người dậy sớm đến nhà Liễu Ngộ Xuân để sắp sửa hành trang và chào tiễn biệt.

Thập Nương nói :

­ Vợ chồng tôi ngày nay mà được sắt cầm hòa hợp thật là nhờ ở tấm lòng hiếm có của ngài.

Ngộ Xuân lễ phép nói :

­ Cô nương là người chung tình có một, chẳng vì nghèo ngặt mà đổi lòng, thực là một kẻ đáng noi gương tốt
chốn hồng lâu, một chút ít tiền của tôi giúp đỡ đâu có gì gọi là quà giá.

Chưa cạn lời, trước hiên kiệu ngựa thuê đã dục lên đường.

Hai người phải chia tay cùng Liễu Ngộ Xuân.

Ra đến cổng, Thập Nương khiến người đưa tin cho Tạ Nguyệt Lãng và Tử Tố Tố hay giờ xuất hành.

Hai người này ra đến vài dặm đường đưa đón.

Nguyệt lãng nói :

­ Này chị Thập Nương, nay chị ra lấy chồng, đối với chúng tôi thế là từ nay quan san cách trở, không thể nào
tâm tình với nhau được như xưa, vậy chúng tôi dâng chút lễ mọn để chúc đôi tân hôn giữ mãi mối tình nồng
thắm.

Nói xong, gọi người khiêng ra một cái rương thật lớn, phong khóa kiên cố, chẳng hiểu bên trong đựng những
thứ gì.

Thập Nương không từ chối, cũng không cần mở ra xem, cảm tạ mọi người rồi lên kiệu khởi hành.

Là Giáp cùng Thập Nương đi đến Lộ Hà thì gặp được chuyến sai thuyền trở lại Qua Châu. Hai người xuống
thuyền đi cho đỡ vất vả.

Là Sinh buồn rầu lo cho số tiền lộ phí của mình thiếu hụt. Thập Nương nói :

­ Xin chàng chớ lo. Chị em ở kỹ viện đã tặng cho chúng ta chiếc rương ấy, ắc không phải là những vật không
quà giá.

Nói xong Thập Nương rút khóa mở ra một ngăn kéo thấy có vô số vàng bạc vụn. Còn các ngăn khác đựng
gì, Thập Nương hình như không cần biết đến.

Nàng nói :

­ Tặng vật của chị em kỹ viện chẳng những giúp ta đủ tiền lộ phí mà còn có thể giúp ta ngao du khắp miền
trong một thời gian lâu nữa.

Đêm ấy thuyền tới Qua Châu, đậu nơi cửa sông. Trên trời trăng vằn vặt, gió thổi rạc rào, các gợn sóng lăn
tăn như những chiếc vảy vàng rung động.

Trước cảnh vật nên thơ ấy, Thập Nương thấy hào hứng vô cùng, nói với Là Giáp :

­ Chúng ta lâu nay yêu nhau trong đau khổ, nay mới được có phút tự do, ngồi bên nhau nơi đầu thuyền tâm
tình ngoài những con mắt của vật chất, vậy thì đêm nay chúng ta đồng đối ẩm cho say sưa để thỏa lòng
mong ước.

Hai người đối diện nhau, nâng chén.

Là Giáp nói :

­ Đã lâu, anh vắng nghe giọng oanh réo rắc của em, tiện đây em hát lên vài khúc để nhớ lại những đêm tình
tự xa xưa.

Thập Nương chiều chồng, cất giọng thanh tao hát lên réo rắc, âm thanh vang trong cảnh tịch mịch u huyền,
trong như những giọt sương thánh thót.

Gần đó có chiếc thuyền buôn của một thanh niên họ Tôn tên Phúc. Chàng này người quận Tân An, chuyên
nghề buôn muối, là một phú thương giàu có, nổi tiếng khắp vùng.

Thoạt nghe tiếng hát véovon, chàng ta nhìn ra cảnh vật mung lung, lòng đắm chìm theo nhạc điệu.

Tiếng hát đêm trăng quả là một mãnh lực hảo huyền. Tôn Phúc không thể chịu nổi nữa, bèn sai đầy tớ hỏi
xem thuyền ai hát như thế.

Bọn đầy tớ bỏ thuyền con ra bơi lội một hồi rồi trở về báo lại :

­ Thuyền ấy là thuyền của Là công tử, còn người ca hát là ai không rõ.

Tôn nghĩ thầm :

­ Giọng hát này không phải là kẻ khuê môn, hẳn là một nàng ca sĩ. Vậy ta phải tìm cách gặp mặt mới được.

Đêm ấy Tôn nằm trằn trọc mãi không sao ngủ được. Giọng hát nhặc khoan cứ reo réo vào lòng.

Đến sáng, trời bỗng nổi mưa, tuyết rơi lả tả, bao nhiêu thuyền bè buộc phải tập trung vào bến tìm chỗ ẩn
núp.

Lợi dụng cơ hội ấy, Tôn Phúc cho thuyền mình ghét sát thuyền Là Giáp rồi tìm cách lân la chuyện vãn.
Nhưng Là Giáp ở mãi trong khoang thuyền cùng với tình nhân say sưa men rượu không ra ngoài.

Tôn Phúc đứng mãi đầu thuyền chờ đợi.

Lâu lắm, chàng mới thấy bóng một thiếu nữ, vẻ đẹp chim sa cá lặn, đứng chải đầu bên thuyền Là Giáp,
bóng lồng trên mặt sông.

Thôi quả là nữ ca sĩ đây rồi, lòng Tôn Phúc bỗng nổi sóng tương tư, nhưng biết làm sao dụ được Là Giáp
qua thuyền mình để trò chuyện.

Ngẫm nghĩ hồi lâu chàng sanh ra một kế để dụ Là Giáp.

Chàng ngâm nhỏ hai câu thơ :


Tuyết mãn sơn trung cao sĩ ngọa,
Nguyệt minh lâm hạ m˛ nhân lai...

Nghĩa là :

Tuyết phủ núi ngàn cao sĩ ngự,


Trăng soi rừng thẳm m˛ nhân về...

Quả nhiên Là Giáp nghe ngâm hai câu thơ ấy liền ra khỏi thuyền để xem người nào. Tôn Phúc được dịp vội
vàng thi lễ, rồi làm quen mời Là Giáp qua thuyền mình. Là Giáp thật tình, đâu hiểu những lời đường mật
cám dỗ của Tôn Phúc. Do đó, chẳng mấy chốc hai người trở nên thân mật nhau.

Tôn Phúc lại khiến đầy tớ bày tiệc rượu trong thuyền, hai người đối ẩm.

Thừa lúc vắng người, Tôn Phúc hỏi nhỏ Là Giáp :

­ Người nào ca hát trong thuyền đại huynh thế ?

Là Giáp thật tình, đem câu chuyện mình với nàng ca k˛ yêu đương nhau, nhưng vì cha già nghiêm khắc
không dám đường đột đem nhau về, phải cho thuyền đậu nơi đây để tôi về trước thương lượng đã.

Tôn Phúc rõ được ngọn nghành, cười híp mắt nói :

­ Đại huynh tính như thế sai rồi. Quyền cha già là quyền tuyệt đối, mà tình cha già cũng là tình thiêng liêng,
nếu đại huynh làm như thế e bá phụ giận dữ thì nguy. Vả chăng nàng ca k˛ xưa nay mấy ai mà chân thành
với nghĩa đá vàng đâu. Chẳng qua thấy đại huynh say mê nên giả vờ để gạt đại huynh đó. Một thời gian đại
huynh sẽ thấy, tình nghĩa không bền. Thói đời “ngựa quen đường cũ”, chi bằng trả nàng ấy lại với đời son
phấn cho trọn tình nghĩa với cha già.

Là Giáp trong lòng đang lo lắng, nghe Tôn Phúc nói như vậy ngồi thừ ra không biết phải trả lời sao cả.

Thấy mình đã chinh phục được, Tôn Phúc bồi thêm một lời :

­ Tôi với đại huynh tuy mới quen mà thân; cảm hoàn cảnh của đại huynh tôi mới nói như vậy. Bây giờ tôi có
một à nữa, chẳng biết đại huynh nghĩ thế nào ?

Là Giáp nói :

­ Được, xin cứ nói.

Tôn Phúc làm ra vẻ dè dặt :

­ Đại huynh trôi nổi hơn một năm trời, tôn đường giận dữ, cho đại huynh là kẻ đắm sắc say hoa chẳng kể
đến phần nghiêm huấn. Bây giờ nếu đại huynh trở về với hai tay trăng làm sao nghiêm đường không nghi kˇ.
Chi bằng sẵn tôi đây là người giàu có, có thể giúp cho đại huynh được, tôi sẽ đưa cho đại huynh một trăm
lượng vàng, đại huynh đem về nhà, nghiêm đường trông thấy sẽ không còn nghi là đại huynh lâu nay chơi
bời nữa. Còn nàng Thập Nương, đại huynh cứ giao cho tôi giữ, chừng nào nghiêm đường cho phép tôi sẽ
đưa sang.

Là Giáp nghe nói rụng rời, phần sợ cha già trách mắng, phần sợ công việc bất thành. Chàng ta sùi sụt nói :

­ Lời Tôn huynh nói rất phải, ngặt vì nàng Thập Nương cùng tôi đã nặng tình không nỡ xa nhau, vậy xin để
tôi về bàn lại đã.

Tôn Phúc ân cần dặn :

­ Đại huynh phải dùng lời nhỏ nhẹ mà khuyên nhủ nàng, nếu quả thật nàng yêu đại huynh thì tất nàng phải
tránh cho đại huynh những nỗi khổ tâm.

Hai người uống thêm cạn tuần rượu rồi mới chia tay.

Về đến thuyền mình, Là Giáp thấy Thập Nương thững thờ ngồi đợi, chàng vừa bước vào thì nàng đã vồn vã
hỏi :

­ Chàng đi chơi đâu mà để em mong đợi hoài thế ?

Là Giáp mặt dàu dàu không đáp.

Thập Nương lại nói :

­ Hôm nay chàng đi chơi gặp điều gì mà buồn bã thế kia ?

Là Giáp buông tiếng thở dài... Thập Nương lần hỏi đôi ba phen, Là Giáp mới đem chuyện gặp Tôn Phúc kể
lại một hồi.

Thập Nương kinh hoảng, nước mắt dầm dề nghẹn ngào không nói được nữa, giây lâu mới hỏi :

­ Chẳng hay chàng có bằng lòng nghe theo lời Tôn Phúc chăng ?

Là Giáp nói ngớ ngẫn :

­ Tình chúng ta nặng tợ Thái Sơn, biết làm sao phai lạt được. Tuy nhiên, nếu không nghe lời Tôn Phúc thì ắc
mang họa vào thân, xa tình cốt nhục.

Thập Nương chết điếng, ngồi lặng một lúc lâu rồi hỏi :

­ Chẳng hay chàng đã nhận một trăm lạng vàng của Tôn Phúc chưa ?

Là Giáp đáp :

­ Chưa, tôi còn hẹn trở về hỏi à kiến nàng đã.

Như tiếng sét đánh vào tai, dòng nước mắt của Thập Nương ngừng chảy. Nỗi đau đớn đã làm cho nàng như
điên dại. Nàng nói :

­ Người ấy vì chàng bày kế ấy thật đáng mặt trượng phu, vậy chàng cứ lấy trăm lạng vàng để về sống yên
vui dưới mái gia đình đi. Còn thân thiếp, thiếp sẽ liệu.

Sáng hôm sau, tiếng gà vừa eo óc, trời tang tảng trong sương mờ, Thập Nương trang điểm cực kỳ lộng lẫy.

Nhìn thấy vẻ mặt Là Giáp vui vui, Thập Nương đứt từng khúc ruột.

Là Giáp thân hành đến thuyền Tôn Phúc để nhận tiền.

Tôn Phúc nói :

­ Đưa tiền là điều rất dễ, nhưng phải có một vài món đồ gì của Thập Nương đem đến để làm tin.

Là Giáp về nói lại, Thập Nương chỉ chiếc rương lớn và nói :

­ Hãy đem của ấy theo tôi.

Khi thấy người Là Giáp đã nhận đủ số vàng, Thập Nương ngồi tựa mũi thuyền, lấy tay vẫy Tôn Phúc, bảo :
­ Hãy đưa chiếc rương lại đây, trong đó còn có giấy tờ của Là Giáp, tôi cần phải trả lại hết.

Tôn Phúc ngỡ thiệt, trong lòng sung sướng vô hồi, sai đầy tớ khiêng cái rươn của nàng đem trả lại.

Thập Nương mở rương ra, bên trong có rất nhiều ngăn nhỏ đầy những ngọc ngà, châu báu cùng vàng bạc
vô số. Mọi người đều hoa mắt trước số tiền của và bảo vật ấy.

Thập Nương không nói gì cả, lặng lẽ hốt từng nắm vàng bạc, châu báu quăng xuống dòng sông.

Mọi người trông thấy thất kinh, đứng trân trân như những pho tượng gỗ.

Khi đã nép hết vàng bạc, ngọc ngà xuống sông, Thập Nương quay lại mắng vào mặt Tôn Phúc :

­ Ta cùng Là lang nếm bao nhiêu cay đắng, nay mới được sum họp cùng nhau như vầy mà mi nỡ đem lòng
dèm siểm, mang à gian dâm, cắt đứt dây ân ái của ta. Ta chết xuống tuyền đài nguyện cáo với thần minh
trừng phạt mi cho đáng tội.

Mắng xong, Thập Nương quay lại nói với Là Giáp :

­ Lòng thiếp quyết lòng trọn nghĩa, lòng chàng một phút đổi thay, nay thiếp còn sống trên đời này cũng chẳng
ích gì, vậy chàng cứ lấy một trăm lượng vàng của kẻ phản phúc kia mà sinh sống. Trong rương của thiếp
biết bao là bạc tiền, nhưng vì mắt chàng không trông thấy nên không được hưởng.

Nói xong, Thập Nương thừa lúc mọi người bất à, nhảy xuống sông tự vận. Thân ôi ! Vóc ngọc, da ngà, một
kiếp hoa hết nợ.

Mọi thuyền hay tin chèo đến dò cả khúc sông, nhưng xác nàng Thập Nương không còn đâu nữa, chỉ thấy
sóng nước chập chùng dưới bầu trời mưa lạnh toát.

Tôn Phúc và Là Giáp, lúc này quá sợ sệt cùng nhau nhổ neo mỗi người trốn mỗi ngả.

Là Giáp đêm nằm trong thuyền trông thấy bao vàng của Tôn Phúc, như hàng ngàn mũi tên đâm vào dạ, vừa
hổ thẹn, vừa hối hận, ít ngày sau mang bịnh điên, suốt đời không khỏi.

Còn Tôn Phúc, từ ngày hôm đó, đêm nào cũng nằm thấy nàng Thập Nương rủ tóc đứng nơi đầu giường
mắng nhiếc, đòi đền mạng.

Vì quá kinh khủng, chẳng bao lâu Tôn Phúc mang bịnh mà chết.

Một hôm Liễu Ngộ Xuân mãn trường, ghét về thăm quê, đi ngang qua khúc sông ấy múc nước rửa mặt,
bỗng làm rơi chiếc thau đồng xuống sông. Chàng vội vã mướn mấy người chài lưới tìm vớt.

Vớt không được chiếc thau đồng, nhưng họ lại vớt được một chiếc hộp dưới dòng sông, đem đưa cho Liễu
Ngộ Xuân.

Liễu Ngộ Xuân cho là điềm lạ, chưa hiểu ra sao, thì đêm ấy nằm mộng thấy nàng Thập Nương hiện đến nói :

­ Nhớ ơn ân nhân trước kia đã có à giúp đỡ tôi tác thành duyên thắm. Nay tuy giữa đường đứt gánh, song
không quên được nghĩa xưa; vậy gởi lại ân nhân viên ngọc ấy gọi là đáp chút tâm tình. Từ nay xin vĩnh biệt
không bao giờ còn gặp nhau nữa.

Ngộ Xuân giất mình thức dậy, than thở vài lời. Hỏi ra mới biết nàng Thập Nương đã tử tiết trên mặt sông
này.

Đau lòng cho một kiếp tài hoa bạc số. Ngộ Xuân sắm lễ vật tế ngay ở đầu thuyền để tạ lòng chiếu cố.

Sóng nước rập rềnh, hồn oan nhi nữ dật dờ đêm đêm với sông nước tràng giang...
Mảnh Gương Trung Liệt

Triều Minh, vào năm Gia Tỉnh, có tên gian thần họ Nghiêm, tên Tung hiều là Giới Khê, sau khi siểm nịnh, hại
được vị trung thần đại học sĩ Hạ Ngôn, một mình lên đoạt quyền thừa tướng.

Đất nước thuở ấy tuy thanh bình, nhưng triều chính thật là bê bối. Tên gian thần ấy cậy quyền à thế đến nội
trong nước từ dân giả đến các quan, ai nấy đều khiếp sợ. Kẻ dua nịnh thì theo bợ đỡ để được mau thăng
thưởng dễ bề bốc lột dân lành, người trung thần thì vì yếu thế, không dám hở môi, đành ngậm miệng để cho
họ Nghiêm thao túng.

Nghiêm Tung lại có một người con trai tên Thế Phồn. Tên này cũng sâu độc không kém người cha. Nghiêm
Tung nâng đứa con mình lên chức công bộ Thị Lang, để có chỗ trông cậy. Thế Phồn nói gì Nghiêm Tung
cũng nghe, vì vậy trong triều người ta gọi hai cha con là đại Thừa tướng và tiểu Thừa tướng.

Trong thời ấy tại phủ Thiệu Hưng, có một người họ Thẫm tên Luyện, là một tay trung liệt. Xuất thân trong
cảnh bần hàn, từ lúc nhỏ kính mộ Khổng Minh, cho Khổng Minh là một tấm gương sáng đáng kính phục, nên
lúc nào cũng đem hai bài tiền hậu xuất sự ra mà đọc, ông ta cũng lại thường nhắc đến câu nói của Khổng
Minh : “Cúc cung tận tụy, tử nhi hậu sĩ” (hết lòng hết sức, đến chết mới thôi).

Thẫm Luyện văn võ toàn tài, năm mậu tuất, niên hiệu Gia Tỉnh, ông đậu tiến sĩ, tuy nhiên vì tính tình khẳng
khái không muốn bợ đỡ ai, do đó ông ta vẫn lẹt đẹt ở mãi cái chức Châu huyện. Mặc dầu thế, ông ta không
lấy đó làm xấu hổ, trong lúc các tên dua nịnh thăng thưởng như nấm.

Một hôm, Thế Phồn mời tất cả các quan chức đến tư dinh dự tiệc. Các trung thần từ trước đến nay, lớp bị
thanh trừng, lớp bị cách chức, còn một số ít không dám hé môi, ai nấy đều cáo khiếm, duy có Thẫm Luyện
vẫn cứ mạnh dạn đến dự.

Trong tiệc, Thế Phồn hách đủ lối, khoe khoang quyền cao chức cả của mình, rồi dùng chén to ép mọi người
uống đến say mèm, ai nấy không dám cãi lệnh, phải gắng mà cạn chén để làm vui lòng “tiểu thừa tướng”.

Trong số các người đi dự tiệc có Mã Cấp Sự, anh chàng này vốn ít hảo rượu, nay bị Thế Phồn ép uổng, cố
sức từ chối đến đôi ba phen. Thế Phồn dở mặt nói :

­ Tiểu quan lại dám khinh ta không chấp thuận lời mời của ta sao ?

Nói xong, Thế Phồn nhảy đến, nắm tay Mã Cấp Sự, bưng ly rượu đổ vào miệng. Mã Cấp Sự nghẹn ngào
nuốt hết.

Uống xong, say quá, không còn làm thế nào gượng được, phải ngã lăn xuống đất. Thế Phồn đắc à cười híp
mắt, cho đó là một độc thú vô cùng khoái trá.

Thẫm Luyện thấy trò chơi ấy quá nóng lòng, bèn đứng dậy đi tìm một ly rượu lớn nhất, mời Thế Phồn uống :

­ Mã Cấp Sự mong ơn đại nhân ban rượu, đáng lẽ phải tạ Ơn, nhưng vì say quá không thể đáp lễ được, vậy
tôi thay mặt và dâng cho đại nhân ly rượu thọ vậy, xin đại nhân cạn chén.

Thế Phồn ngạc nhiên, chưa kịp từ chối thì Thẫm Luyện đã bước đến nắm tai đổ rượu vào mồm. Đổ xong,
Thẫm Luyện quăng chén xuống bàn, rồi vỗ tay cười rối rít trước mặt mọi người.

Các quan ai nấy trông thấy đều sợ sệt không dám hé môi cười.

Thế Phồn quá tức giận, bị Thẫm Luyện khinh mình trước mặt bá quan, muốn xáp lại đánh, nhưng không
dám, đành nuốt hận, giả say, cáo từ ra về.

Mọi người đều âm thầm giải tán.

Khi về đến nhà, Thẫm Luyện ngồi một mình nghĩ đến hậu quả không hay của câu chuyện khí phách xảy ra
vừa rồi.

Ông ta lẩm bẩm :

­ Hai tôi trung nịnh không bao giờ sống chung nhau một triều được. Thế Phồn một tay thâm độc, bị ta làm
nhục trước mặt mọi người, thế nào hắn cũng cậy quyền để trả thù. Nay chẳng lẽ ta lại ngồi yên để chờ hắn
hảm hại sao. Tốt hơn ta nên ra tay trước thì hơn.

Nghĩ xong, ông ta viết một đạo sớ văn, lời lẽ rất bi thiết. Trong sớ ấy, Thẫm Luyện trình bày tất cả tội lỗi cha
con Thế Phồn, siểm nịnh, hối lộ, hãm hại lương dân trước sau đều trọng tội, và đề nghị xin tru lục toàn gia
họ Nghiêm để mua lòng thiên hạ.

Cha con họ Nghiêm hay được việc ấy, vội vã vào triều, kiếm lời nịnh bợ nhà vua, kết tội cho Thẫm Luyện là
phỉ báng đại thần, muốn làm loạn triều đình.

Nhà vua nghe theo lời, cách chức Thẫm Luyện đày ra ngoài ải làm dân.

Thẫm Luyện thấy vua không chấp chánh lời phải, nghe lời lũ nịnh, phần cô thế, không biết làm sao đành
phải tuân lời.

Tuy nhiên, Thế Phồn lòng dạ thâm độc, thấy vua cách chức Thẫm Luyện cũng chưa vừa à, bèn tâu với vua
xin phạt Thẫm Luyện một trăm trượng trước triều thần để làm gương cho kẻ khác.

Bị ép uổng, nhà vua buộc lòng phải y tấu.

Than ôi ! kẻ trung thần lúc cô thế chỉ biết lấy sanh mạng mà gìn lòng trung can, chứ biết làm sao hơn.

Thế Phồn bí mật dặn nhỏ cận vệ đánh Thẫm Luyện cho đến chết để trừ hậu hoạn. May thay viên cận thần
này họ Lục tên Bính, vốn có lòng trọng kẻ khí tiết, tuy ngoài mặt làm ra vẻ sốt sắng tuân hành nhưng trong
lòng không nỡ. Vì vậy, người nàyđ ã tìm cách riêng che chở cho Thẫm Luyện không tổn hại gì đến thân cả.

Đánh xong, Thẫm Luyện bị đày ra Bảo An châu làm dân. Thẫm Luyện đem cả vợ con theo.

Ông có tất cả bốn người con. Người chín trưởng là Thẫm Trương đỗ tú tài, ở quê nhà để trông nom phòng
một. Đứa con thứ là Thẫm Côn, đứa thứ ba là Thẫm Bao, đứa con út là Thẫm Cừu. Cả ba cùng với người
lão bộc trung thành theo Thẫm Luyện, dầu giải gió sương trên khoảng đường dài vô tận, trèo non lặn suối đi
mãi mà chưa đến nơi.

Một hôm trời u ám, mưa phùn lả chả, gió lạnh rít từng hồi, dân chúng quận Bảo An thấy một chiếc xe nhỏ
thấp thếu trên đường, mọi người ngạc nhiên xúm đến xem hỏi ra mới biết Thẫm Công bị nhà vua cách chức
đày ra nơi đó.

Trong lúc cảnh lạ quê người, lại gặp khi trời mưa ảm đạm, đoàn người của Thẫm Công trông có một cái gì
thê thảm vô cùng.

Giữa lúc đó trong đám dân chúng, có một người thấy Thẫm Công khí phách bời bời, biết là một kẻ tôi trung
mắc nạn, động lòng đến hỏi thăm lai lịch.

Thẫm Công đang lúc bỡ ngỡ thấy có một người ân cần hỏi han, lòng rất cảm động, nói tên họ và hoàn cảnh
mình, rồi hỏi lại :

­ Ngài là ai ? chẳng hay có à gì mà lại đoái thương đến chúng tôi như vậy ?

Người lạ mặt đáp :

­ Tôi họ Giá tên Thạch, ở đây đã lâu. Hôm trước tôi có nghe đồn rằng ngài vì hết lòng trung nghĩa, làm sớ
mười điều dâng lên nhà vua kể tội gian thần, vì vậy mới bị cách chức. Hành động ấy thật là một hành động
cao cả, tôi rất thán phục. Hôm nay ngài bị đày ra đây, tôi ước mong sẽ giúp đỡ ngài một phần nào để tỏ chút
lòng tri ngộ.

Nói xong, Giá Thạch cúi xuống thi lễ.

Thẫm Luyện bảo vợ con ra chào hỏi và mọi người trong gia đình đều tỏ lòng cảm ơn Giá Thạch khôn cùng.

Giá Thạch nói :

­ Bây giờ ngài đã đến đây, nhiệm vụ tôi là phải nghinh đón. Vậy để tôi cho người đến thu dọn hành là và đưa
gia đình ngài về nhà tôi tạm trú cho đỡ nhọc.

Thẫm Công nói :

­ Tôi mang ơn ngài như thế cũng quá nhiều rồi. Việc ăn ở xin để mặc tôi thu xếp lấy. Giá Thạch nhất định
không nghe, khiến gia nhân ra đem tất cả hành là của Thẫm Công vào nhà mình, dọn phòng ở sạch sẽ và
làm tiệc thết đãi.

Trong lúc ăn uống, Giá Thạch lễ mễ nói :

­ Xin ngài đừng ngại, cứ lưu trú nơi tệ xá một thời gian, tôi xin đưa gia đình tôi đến ở nơi khác, nhường nhà
này lại cho gia đình ngài. Chừng nào thánh thượng hồi tâm phục chức cho ngài, chừng ấy ngài trở về triều,
và tôi sẽ dọn trở về. Tôi tuy là một kẻ dân dã, nhưng cũng có đọc sách thánh hiền, lòng rất hâm mộ những
kẻ trung thần khẳng khái.

Thẫm Luyện không ngờ trong chốn cùng cư ấy lại có người có những hành vi nghĩa hiệp như vậy, bèn đề
nghị kết làm anh em.

Giá Thạch nói :

­ Tôi là phận dân hèn đâu xứng đánh sánh vai với đại nhân, xin đại nhân thứ cho.

Thẫm Luyện đáp :

­ Những kẻ trượng phu chỉ cần trọng đại nghĩa chứ đâu phải nghĩ đến giàu sang, chức tước hay tài năng.

Nói xong, Thẫm Luyện khiến người bày bàn hương án tế trời đất, hai người nhận làm anh em.

Thẫm Công hơn Giá Thạch năm tuổi nên Giá Thạch gọi Thẫm Công bằng anh. Cả hai gia đình đều gọi vợ
con ra để thi lễ cùng nhau theo thứ bậc.

Bữa tiệc hoan hỉ vừa xong, Giá Thạch dọn nhà đi cư ngụ nơi khác. Thẫm Công ở lại, lòng bùi ngùi nghĩ đến
tương lai đen tối của mình, song cũng thấy vui vui trước mối tình nồng nàn thống thiết của con người đất
khách bơ vơ ấy.

Thẫm Công ở đó được một thời gian, tiếng đồn là một bậc trung thần khẳng khái, nên các bậc nho lão mến
thương, ai nấy kẻ ít người nhiều đem vàng bạc, lễ vật đến giúp đỡ.

Thẫm Luyện nhất nhất không nhận một món gì cả, đành chịu sống cuộc đời thanh đạm nghèo nàn thế thôi.

Được lòng dân mến chuộng, Thẫm Luyện vơi được nỗi buồn xa xứ bơ vơ. Nhiều người nghe tiếng Thẫm
Công là một nhà văn võ toàn tài, đều rủ nhau cho con em đến học. Thẫm Luyện lại tùy theo năng khiếu của
mỗi người mà dạy.

Có một số thanh niên ham chuộng nghề võ, thấy Thẫm Công có tài bắn rất giỏi, có thể bắn rơi chim bay giữa
trời, bèn xin theo học nghề bắn.
Thẫm Luyện làm ba con hình nhơn, cho mặc gấm vóc tử tế; mỗi hình nhơn trên đầu có cắm một cây thẻ.

Cây thẻ thứ nhứt đề tên : “Là Lâm Phủ, tên gian thần của triều Đường”.

Cây thẻ thứ hai đề tên : “Nghiêm Tung, gian tướng của triều Minh”.

Cây thẻ thứ ba đề tên : “Tần Cối, gian thần triều Tống”.

Ba hình nhân này làm mục tiêu để những người tập bắn. Khi bắn, Thẫm Luyện lại bắt học trò kể tội từng tên
ra rồi mắng nhiếc thậm tệ.

Học trò khoái lắm, chúng mắng chưởi rất hăng, và bắn rất dữ. Dân chúng khắp vùng đều lần lượt đến xem.

Ngày tháng trôi qua, trò chơi tập bắn ấy lần lần thấu đến tai cha con họ Nghiêm. Hai tên nịnh thần này rất
căm phẫn, muốn trừ cho tuyệt hậu quả nhưng chưa biết phải làm sao, thì thời ấy có chức Tổng đốc Tuyên
đại khuyết, Nghiêm Tung vận động bổ con nuôi ông ta là Dương Thuận đến đó trấn nhậm.

Dụng à của cha con họ Nghiêm đưa Dương Thuận ra đó, để tra xét những lỗi lầm của. Thẫm Luyện vu cáo
cho tội “tập họp đồ đảng để phản quốc”. Hơn nữa, Dương Thuận cũng là một tay dua nịnh, đê hèn không
kém.

Khi Dương Thuận vừa đến nhậm sở ít lâu, thì có giặc Thát Đát nổi lên quấy nhiễu biên cương. Chàng này
vốn là một tên hèn nhát, thừa nhàn vỗ bụng ăn xôi, lúc bát loạn đâu có dám đương đầu ra trước vòng nguy
hiểm, vì thế cho nên cứ im hơi bặt tiếng, không dám phát lính cứu viện, để mặt cho dân chúng sống với cảnh
lầm than.

Đã thế, Dương Thuận lại còn cho người đi khắp các châu huyện, thúc dục lương tiền lấy cớ gởi ra mặt trận
để bỏ vào túi.

Đến khi các quận huyện đã họp nhau đánh tan được giặc. Dương Thuận mới bắt mấy ngàn lương dân vô tội
ra ngoài cửa ải chém đầu rồi đem về nạp cho triều đình dâng công rằng y đã dẹp được giặc.

Thẫm Luyện nghe được tin ấy, lòng sôi lửa hận, đau thương cho mấy ngàn dân lành vô tội bị thác oan chỉ vì
tên phản tạc; ông làm một bài thơ, rồi mặc áo xanh, đội mũ vải, thân hành đến trước cửa nha môn đứng chờ
lúc Dương Thuận bước ra thì đệ nạp. Trong thơ đại à nói : “Công danh của một người là việc nhỏ, sanh
mạng của bá tánh là việc lớn, há lại giết dân lành để lập công sao !”

Dương Thuận xem bài thơ, mặt giận phừng phừng, xét nát ra từng mảnh rồi ném vào mặt Thẫm Luyện.
Thẫm Luyện cũng nhìn vào mặt, cười khinh bỉ rồi bỏ đi.

Hai hôm sau, Thẫm Luyện lại viết một bản văn tế rất thảm thiết, rồi dắt cả học trò của mình ra nơi biên ải,
đem theo lễ vật để tế những vong hồn bị Dương Thuận giết oan.

Tế xong, ông ta còn viết thêm một bài thơ :

Vân trung nhất phiến lỗ phong cao

Xuất tái tướng quân dĩ trước lao

Bất trảm đơn vu, tru bách tính

Khả lân oan huyết mãn sương đao

Dịch :

Khí giặc bừng lên vút tận mây


Tướng quân cực nhọc đến nơi đây

Đơn vu chẳng giết, giết dân chúng

Thương những oan hồn, nương gió bay

Dương Thuận hay được tin ấy lại càng tức tối hơn nữa, vội vã làm biểu, sai tên tùy cận là Lộ Khải đệ về
triều, đưa vào Nghiêm tướng phủ, nói rằng : “Thẫm Luyện vì cừu hận với Thế Phồn nên chiêu tập các dũng
sĩ ở biên ải, ngày đêm âm mưu nổi loạn”.

Thế Phồn nhận được tin giận căm gan, nhưng không biết phải tìm âm mưu nào sâu độc để trừ được Thẫm
Luyện cho tuyệt gốc, bèn sai quan triệu Lộ Khải là người tâm phúc đến để thương nghị.

Lộ Khải nói :

­ Xin cử hạ quan đến tuần án Bảo An để họp với Dương Thuận mà trừ tên khốn nạn ấy mới được.

Thế Phồn mừng rỡ vội đến nói với Đô sát viện, cử Lộ Khải đi tuần án ở quan ải lập tức. Lộ Khải lãnh lệnh lên
đường ra đến quan ải tỏ bày những lời ủy thác của Thế Phồn với Dương Thuận.

Dương Thuận nói :

­ Trước kia Nghiêm Thị Lang sai tôi ra trấn nhậm nơi đây, mục đích ủy thác cho tôi lo việc ấy, hiềm vì chưa
có cơ hội nào để triệt hạ nổi tên cứng đầu đó. Nay có tướng quân ra đây chúng ta đồng liệu mưu chước thì
việc ắc phải thành.

Lộ Khải thấy Dương Thuận khiêm tốn như vậy rất thích thú, vỗ tay cười nghiêng ngửa và khoe khoang :

­ Ngài chớ có lo, tôi đã đến đây rồi thì tên khốn kiếp đó không thoát khỏi tay của tôi đâu.

Dương Thuận truyền gia nhân lập bày yến tiệc đãi đằng. Hai người ăn uống say sưa hỉ hạ. Trong lúc đang
uống rượu, lửa tham trong lòng nồng nực, Dương Thuận hỏi Lộ Khải :

­ Chẳng hay Nghiêm Thị Lang có hứa với ngài điều chi chăng ?

Lộ Khải cười híp mắt nói :

­ Nếu không có lời hứa thì chúng ta dại gì mà chịu khổ để làm việc này.

Dương Thuận hỏi nhỏ :

­ Nghiêm Thị Lang hứa với ngài như thế nào ?

Lộ Khải chỉ tay lên trời nói :

­ Công việc này mà xong thì tôi sẽ lên đến chức hầu bá.

Dương Thuận nói :

­ Còn tôi ?

­ Ngài chớ lo gì cả ! ngài cũng rõ rằng trong triều còn ai quyền hành hơn Nghiêm Thị Lang nữa, nếu chúng ta
làm cho “tiểu thừa tướng” vừa à thì muốn chức gì chả được.

Dương Thuận nghe nói khoan khoái cười ồ. Kế đó hai người vừa uống rượu vừa bàn tính âm mưu.

Lộ Khải nói :
­ Hôm nay chúng ta cứ uống cho say mèm một bữa đã. Công việc ấy ngày mai sẽ nói đến.

Sáng hôm sau, Dương Thuận thăng trướng. Bên ngoài có mấy tên quân canh la hét inh ỏi. Dương Thuận
thất kinh, hỏi ra mới rõ nơi biên ải vừa bắt được mấy tên tàn quân giặc Thát Đát trước kia vì thất cơ lẫn trốn,
giải đến.

Dương Thuận vỗ bàn, truyền dẫn vào. Đó là hai tên Bạch Hạo và Dương Nhất Quỳ, ăn mặc rách rưới.
Dương Thuận mừng rỡ không cùng, nghĩ thầm :

­ Đây là một cơ hội thuận tiện để đưa Thẫm Luyện vào cõi chết rồi. Ta có thể mượn chuyện này mà diệt trừ
kẻ thù được.

Nghĩ rồi lập tức truyền đem tống giam hai tên giặc, và đến tư dinh Lộ Khải để bí mật thượng nghị.

Dương Thuận nói :

­ Nhân việc này chúng ta đệ chiếu về Trường An vu cho Thẫm Luyện tư thông cùng giặc, tụ tập côn đồ để
mưu việc đại nghịch thì thế nào Hoàng Thượng cũng nổi giận mà trừng trị Thẫm Luyện. Hơn nữa, tội này là
tội chết, hắn có thể bị toàn gia tru lục nữa là khác.

Lộ Khải đắc à vỗ tay khen diệu kế. Hai người cùng nhau thảo tờ biểu, và khiến người giải hai tên tàn quân
giặc Thát Đát về triều giao cho Thế Phồn. Một mặt viết thơ riêng ân cần căn dặn Thế Phồn phải kịp thời hạ
sát.

Thế Phồn nhận được thơ, vội vã đưa hai tên tàn quân sang Tuần án ngự sử để chém đầu, rồi làm biểu phụ
họa theo tờ trình của Dương Thuận và Lộ Khải trình tâu với vua, lại đề nghị phong cho con lớn của Dương
Thuận làm Cẩm y vệ thiên hộ, còn Lộ Khải thì được thăng lên ba trật.

Trong thời gian đó, Dương Thuận và Lộ Khải bắt Thẫm Luyện hạ ngục. Gia đình Thẫm Luyện bối rối không
biết đường nào mà nói. Hai đứa con trai là Thẫm Côn và Thẫm Bao vội vã đến tìm Giá Thạch để hỏi thăm.

Giá Thạch nói :

­ Đó là do hai tên chó săn Dương Thuận và Lộ Khải âm mưu để trả thù cho Thế Phồn đó. Nếu đại ca đã bị
bắt giam vào ngục thì tánh mạng ắc khó toàn. Hơn nữa, việc này chúng không để cho gia đình đại ca được
yên đâu. Vậy hai cháu cùng tẩu tẩu phải tìm nơi trốn tránh, đợi lúc nào họ Nghiêm suy yếu rồi hãy ra mặt mà
minh oan cho nghiêm phụ, nếu chần chờ e tai họa đến không kịp trở tay đó. Công việc Tôn đại nhân trong
ngục xin cứ để mặc tôi lo liệu.

Hai người đem câu chuyện của Giá Thạch kể cho Thẫm phủ nhơn nghe. Thẫm phu nhơn không tin chồng
mình sẽ bị giết oan như vậy, nên cứ chần chờ mãi không quyết đoán gì cả.

Giá Thạch đành than thở, không biết phải làm sao. Cách vài hôm sau, Giá Thạch cho người vào ngục dò
xét, mới hay Thẫm Luyện đã bị triều đình khép vào tọi tư thông với giặc, và buộc tội tử hình.

Thẫm Luyện ở trong ngục chửi mắng hai cha con họ Nghiêm và hai tên chó săn kia luôn mồm.

Dương Thuận lại sợ ngày đem ra hành quyết, Thẫm Luyện chưởi rủa chúng trước mặt ba quân, nên bắt viên
chủ ngục làm tờ cáo bệnh trạng của Thẫm Luyện rồi âm thầm giết chết Thẫm Luyện ngay trong ngục tối.

Giá Thạch, vì thường ngày mua chuộc được những kẻ tâm phúc, tới lui bên trong nên hay được tin, liền nhờ
chuộc xác Thẫm Công khâm liệm tử tế, đem chôn tại một nơi rất bí mật. Xong đến tin cho Thẫm Bao biết.

Mấy mẹ con Thẫm Bao khóc lóc khôn cùng.

Giá Thạch nói :


­ Bây giờ cớ sự đã ra dường ấy. Thi thể đại ca tôi đã bảo toàn việc chôn cất xong rồi. Nay chưa thể tiết lậu
được. Vậy thì tẩu tẩu và hai cháu phải lập tức tránh mau kẻo bọn chó săn không để yên đâu.

Thẫm phu nhơn sụt sùi nói :

­ Thẫm Công bị chết oan, việc ấy cần phải được minh oan, chúng tôi đợi lúc nào vỡ lẽ, sẽ đem linh cữu trở
về tống táng chớ nỡ nào lại bỏ đi nơi khác sao đành.

Giá Thạch ngậm ngùi, suy nghĩ một lúc rồi nói :

­ Nếu tẩu tẩu không chịu lánh mình thì thôi, tôi không dám nói nữa, song hiện nay tôi có việc cần phải đi xa,
không hẹn trước ngày về. Hai cháu ở lại nên đề phòng tình thế mà xử sự.

Giữa lúc đó, Giá Thạch ngửa mặt lên trời van vái, bỗng nhác thấy những bài biểu tiền hậu xuất sư của
Khổng Minh do Thẫm Luyện chép dán đầy trên vách.

Giá Thạch nói :

­ Xin hai cháu gỡ cho ta những bài biểu này để làm vật kỷ niệm, hòng sau này có gặp gỡ.

Thẫm Bao bước đến, gỡ các tờ biểu trao cho Giá Thạch. Giá Thạch cầm lấy, đôi mắt rươm rươm, từ giả
Thẫm phu nhơn và hai con rồi ra đi không ai rõ đi đâu.

Nhắc qua việc hai tên Dương Thuận và Lộ Khải sau khi hành quyết Thẫm Luyện rồi, bèn đệ chiếu về triều
trình tấu.

Một hôm hai người bày tiệc rượu để ăn uống, chuyện trò với nhau, Dương Thuận hỏi Lộ Khải :

­ Trước kia Nghiêm Thị Lang có hứa với tôi, nếu tôi hại được Thẫm Luyện sẽ cho thăng chức hầu bá, thế mà
chẳng biết vì sao mãi đến nay Nghiêm Thị Lang mới phong cho đứa con trai tôi chức Thiên Hộ, còn tôi
chẳng được gì hết vậy ?

Lộ Khải suy nghĩ một lát rồi nói :

­ Có lẽ vì ta chỉ giết được có mình Thẫm Luyện mà chưa tru được toàn gia, nên Nghiêm Thị Lang chưa vừa
à, vì sợ bọn con cái còn có thể gieo hậu quả sau này.

Dương Thuận mỉm một nụ cười nham hiểm trên đôi môi tím, nói :

­ Việc ấy có khó gì. Nay ta chỉ dâng về triều một tờ biểu, nói rằng Thẫm Luyện tuy đã đền tội song vợ con va
vẫn nuôi chí phục thù, vậy muốn cho nước nhà khỏi sanh hậu hoạn, xin đem hết toàn gia Thẫm Luyện ra mà
tru lục thì yên. Ngoài ra, chúng ta còn tra xét thêm những kẻ thường ngày đi lại, giao thiệp với Thẫm Luyện,
chúng ta bắt đem hạ ngục và hành quyết là dứt dây tận gốc. Như thế thì Nghiêm Thị Lang làm gì mà không
hả giận.

Lộ Khải vỗ tay khen phải, và nói :

­ Được vậy thì chúng ta muốn chức gì mà chả được.

Chỉ cách ít hôm sau, triều đình đệ thánh chỉ đến, truyền bắt hết gia đình của Thẫm Luyện hạ sát, và cả đến
những kẻ thường lui tới với Thẫm Luyện nữa.

Dương Thuận thi hành ráo riết, không để lọt một kẻ nào, riêng có Giá Thạch vì đề phòng trước, bỏ trốn, nên
không biết đâu mà bắt.

Thương thay ! cả gia đình Thẫm Luyện đều buộc vào tội thông đồng với giặc Thát Đát, đều bị xử tử cả, riêng
đứa con nhỏ của Thẫm Luyện mới có một tuổi nên được miễn chết cùng với Từ phu nhân, nhưng lại bị đày
ra xứ Vân Nam.

Giết xong mọi người thân của Thẫm Luyện ở đấy, Dương Thuận đề nghị với Lộ Khải cho người đến Triết
Giang bắt đứa con trưởng của phạm nhân là Thẫm Tương nữa. Thẫm Tương tự là Tiểu Hà đã đỗ tú tài, từ
lâu nay vẫn ở nơi quê quán để phụng thờ hương hỏa.

Lâu nay Thẫm Tương cũng nghe tin cha mình vì nói lời trung mà mang tội, bị đày ra Bảo An, nửa muốn đi
thăm, lại sợ gia đình chưa có người săn sóc, nên vẫn còn chần chờ.

Ngày kia, Thẫm Tương đang uống trà nơi nhà khách, bỗng thấy hai tên quân sai áp vào nhà, bắt Thẫm
Tương trói lại. Thẫm Tương hỏi nguyên cớ, thì viên phủ đưa văn thư ra cho Thẫm Tương xem.

Bấy giờ Thẫm Tương mới biết cha và hai em mình đã bị hành hình nơi biên ải, còn mẹ và đứa em nhỏ bị đài
đi xa rồi, lòng cuồn cuộn lên những mối bi ai thống thiết.

Than ôi ! giữa một thời mà bọn dua nịnh lộng quyền tránh sao cho khỏi mối tang tóc thê lương gieo vào đầu
những kẻ trung thần khí phách.

Thẫm Tương vừa thất thểu bước ra khỏi nhà thì đàng sau con cái, bé lớn trong gia đình đồng khốc rống lên
một lược. Đứng trước cảnh nát lòng ấy, Thẫm Tương chỉ còn biết ngước mặt lên kêu trời mà thôi. Thì ra cả
tài sản của Thẫm Tương đều bị nha quan tịch thu hết. Vợ con bị xua đuổi dắt nhau ra khỏi nhà, vừa kêu vừa
khóc.

Một lúc sau, bà con, họ hàng của Thẫm Tương xúm đến, kẻ này an ủi, kẻ kia sụt sùi, thật là một cảnh não
lòng.

Ông nhạc của Thẫm Tương là Mạnh Xuân Nguyên, đưa ra một gói bạc cống hiến cho nha quan, để nhờ họ
che chở cho rễ mình được bình an trên con đường vạn dặm. Tuy nhiên, bọn đầu trâu mặt ngựa này có à chê
ít, sừng sộ không chịu lấy.

Thấy vậy, Mạnh tiểu thơ vội cổi cả vàng xuyến của mình đưa thêm vào đó, chúng mới chịu nhận. Thẫm
Tương nắm lấy tay vợ khóc lóc :

­ Từ lúc chúng ta sống chung với nhau, anh vẫn biết em là con nhà thi lễ, vậy em hãy gắng mà gìn vàng giữ
ngọc. Em có thể về bên nhạc gia mà trú ngụ cho qua ngày, còn thân phận của anh em chớ nên lo lắng mà
bịnh hoạn. Còn Văn thị, người vợ lẻ của anh hiện nay có mang ba tháng, em nên đem về nhà ngoại mà
nương náu chờ đến ngày khai hoa nở nhụy, nếu sinh đặng con trai thì đó là giọt máu cuối cùng của giòng họ
Thẫm đó. Thôi, vĩnh biệt em nhé !

Thẫm Tương nói vừa dứt lời thì người vợ lẻ Văn thị bước đến, đôi mắt đỏ ngầu, quần áo xốc xét, ôm chân
Thẫm Tương nói :

­ Chàng đi chuyến này chưa biết sinh mạng ra sao, cần phải có người đi theo để trông nom săn sóc. Chị cả
trở về nhà ngoại, còn em, em xin theo chàng để hầu hạ dọc đường, và nếu xuống đó chàng có bề nào, em ở
ngoài lo lắng cho chàng mới tiện.

Thẫm Tương nói :

­ Đường xa ngàn dặm, phải dầm mưa giãi nắng, thân em là phận liễu bồ, yếu ớt lại có mang, đi sao cho tiện.
Thôi, hãy ở nhà, để mặc anh thì hơn.

Văn thị sụt sùi nói :

­ Phụ thân ta làm quan tại triều, bị bọn gian thần vu oan giá họa như vậy, còn chàng thì ở quê hương, lo kiếp
khói hương, nay lại bị chúng bắt oan như vầy, chẳng lẽ đành chịu chết, vậy chàng cứ để cho em đi theo
xuống đó may ra tùy cơ mà minh oan cho chàng.
Thấy Văn thị nói có là, Thẫm Tương ưng thuận.

Mãi còn dùng dằn thì bọn công sai đã vực Thẫm Tương lên đường. Văn thị vội vàng thay bỏ tất cả áo quần,
chỉ mặc áo vải, quần thô, khoác khăn gói lên vai, lau nước mắt giã biệt mọi người rồi theo chồng cất bước.

Hai tên công sai theo giải Thẫm Tương là Trương Thiên và Là Vạn. Hai người này có mật lệnh đem Thẫm
Tương đến giữa đường rồi giết đi cho biệt tích, về được hậu thưởng.

Tuy nhiên, vì chúng đã nhận vàng bạc của Mạnh Xuân Nguyên, hứa bảo vệ sinh mạng của Thẫm Tương dọc
đường, vả lại có Văn thị theo bén gót, nên ban đầu chúng không dám dở trò bỉ ổi.

Khi đi được mấy hôm, đến vùng rừng núi kia, qua khỏi sông Dương Tử, chúng bắt đầu tỏ thái độ bạc đãi,
làm khó dễ vợ chồng phạm nhân.

Văn thị nhìn thấy thái độ dã man của chúng, nên nói nhỏ với chồng :

­ Thiếp xem bọn công sai này có ác à, e chúng âm mưu gì đây, vậy chúng ta phải đề phòng mới được.

Thẫm Tương cũng cảm thấy thế nên gật đầu. Đi được hai hôm nữa, thì hai tên công sai ấy lấy dao đeo vào
mình và thường thầm thì nháy nhó với nhau.

Thẫm Tương nói nhỏ với vợ :

­ Ngày mai đến địa phận Tế Ninh, nơi đó là một nơi hiểm trở, con đường phải quanh theo dãy núi Thái Hàng
và Lương Sơn. Trước đây bọn cướp thường đồn trú ở đó để chận khách qua đường giết người lấy của. Nếu
bọn công sai thừa nơi hiểm trở ấy mà hạ sát chúng ta thì chúng ta liệu làm sao đây ?

Văn thị nói :

­ Xin chàng hãy định liệu kế thoát thân sớm thì hơn.

Thẫm Tương bấm trán suy nghĩ một lúc rồi nói :

­ Cửa đông thành Tế Ninh có Phùng chủ sự là một kẻ nghĩa khí, xưa kia là bạn đồng khoa với cha chúng ta,
nay về đó cư tang. Ngày mai nếu anh được trốn đến đó kêu oan thì thế nào ông ta cũng che chở, ngặt vì
không có cách gì để gạt được hai tên công sai này.

Văn thị nói :

­ Nếu được dịp thế thì em có cách.

Thẫm Tương nhìn vợ hỏi vội :

­ Cách gì vậy ?

Văn thị nói :

­ Hai tên công sai này là bọn đê hèn, tham lam vô hạn. Đêm nay chàng nói với chúng rằng trước kia quan
Chủ sự có mắc nợ cha chúng ta một số tiền lớn chưa trả, nay nhân dịp qua đây, chàng đến đó đòi. Nếu
được số tiền ấy sẽ chia cho chúng, thì thế nào chúng cũng bằng lòng.

Thẫm Tương cho là phải. Tối hôm ấy, chàng đem câu chuyện nói lại với hai tên công sai. Trương Thiên nghe
nói động lòng tham, bèn nói nhỏ với Là Vạn :

­ Ta xem chàng công tử này ngô nghê và thật thà lắm, vả lại vợ của y còn ở trong tay ta, y đâu dám trốn một
mình, vậy chúng ta cứ cho nó đi đòi nợ may được thì số tiền lớn ấy chúng ta tha hồ mà chè chén.
Là Vạn nói :

­ Chúng ta có hai đứa, nên chia nhau mà làm việc. Bây giờ chúng ta tìm đến một quán cơm gởi hành là rồi
anh ở đấy trông vợ của hắn, để tôi dẫn hắn đi đòi nợ. Như thế chắc chắn hơn.

Trương Thiên cho à đó rất hay. Hai người vừa đi vừa nói chuyện cười tít mắt. Chẳng bao lâu đã đến một cái
quán cơm bên đường, mọi người đều dắt nhau vào.

Thẫm Tương hỏi hai tên công sai :

­ Bây giờ anh nào dẫn tôi đi đòi nợ đây ?

Là Vạn nói :

­ Tôi đi cùng công tử cho. Biết đâu đến đó người ta chẳng mời tôi cùng công tử say sưa một bữa.

Văn thị giả vờ nói :

­ Đời bây giờ lòng người điên đảo rất khó mà dò. Biết đâu trước kia họ là kẻ thân, mà bây giờ đến lúc hoạn
nạn, họ lại khinh bỉ mình cũng không biết chừng. Vậy xin chàng cứ dùng cơm rồi hãy đi cho chắc à.

Là Vạn nghĩ đến số bạc to tát kia, lòng say sưa hồi hộp, dục Thẫm Tương đi gấp rồi trở về sẽ ăn cũng không
muộn.

Văn thị nhìn chồng nói :

­ Chàng có đi thì nên về gấp kẻo thiếp nóng lòng mong.

Là Vạn cười và nói :

­ Đi một chút thôi, có gì mà phải căn dặn thế.

Nói xong, Là Vạn nắm tay kéo Thẫm Tương ra khỏi cửa quán. Vừa ra khỏi cửa, nhân lúc Là Vạn đang đi
tiểu, Thẫm Tương rảo bước đi rất mau.

Là Vạn đã từng quen thuộc đất Tế Ninh, cũng đã biết qua nhà Phùng chủ sự nên không có gì lo lắng, chậm
rãi đi theo sau.

Khi đến công nha Phùng chủ sự, Thẫm Tương quay lại không thấy bóng Là Vạn đâu, bèn vội chui vào cửa
cổng, đi thẳng vào nhà.

Giữa lúc ấy Phùng Công đang ngồi một mình ở phòng khách, thấy Thẫm Tương bước vào, nét mặt hơ hãi,
thì thất kinh vội hỏi duyên cớ. Thẫm Tương đem tất cả mọi việc cha mình bị hai tên nịnh thần mưu sát trong
ngục, và hiện nay còn tìm bắt mình để vấn tội.

Phùng Công hỏi :

­ Thế cháu làm sao đến được nơi đây ?

Thẫm Tương nói :

­ Cháu bị hai tên công sai giải ngang qua đây. Hai tên này có à định thủ tiêu cháu dọc đường, do đó cháu lập
mưu đến đây nhờ bá phụ cứu mạng.

Phùng chủ sự khẳng khái nói :


­ Cháu đừng sợ, ta đưa cháu đến một nơi kín đáo để lẫn tránh một vài hôm, chờ chúng nói đi rồi sẽ liệu định.

Nói xong, ông ta nắm tay Thẫm Tương dắt đến sau phòng ngủ, nâng một tấm ván lên, bên trong bày ra một
cửa hầm đen ngòm. Trong gian hầm bí mật ấy có ba căn rất rộng rãi, có thể nương náu được.

Thẫm Tương chui xuống đấy, rất an lòng. Sớm chiều Phùng Công cho người mang cơm nước xuống nuôi
nấng Thẫm Tương rất tử tế.

Là Vạn khi chạy đến cổng nhà Phùng Công, người gác cửa đón lại không cho vào. Là Vạn hỏi :

­ Vừa rồi có người mặc áo trắng đến yết kiến lão gia đã được hội diện chưa ?

Người giữ cửa lạnh lùng đáp :

­ Lão gia mời ở lại dùng cơm tại thư phòng.

Nghe nói như vậy, Là Vạn an lòng ngồi phệch trước cổng chờ.

Chờ mãi, lúc bóng tối đã buông dần, Là Vạn nóng lòng, không biết Thẫm Tương làm gì trong đó mà lâu thế,
quá sức bực bội, muốn vào hối thúc, nhưng người gác cổng nhứt định không cho vào. Chàng phải năn nỉ,
nói :

­ Trong phòng khách, lão gia còn tiếp ai trong đó không ?

Người giữ cửa nói :

­ Không biết.

Là Vạn nói :

­ Chẳng giấu gì anh, tôi là lính công sai của quan Tổng đốc Tuyên Đại, được lệnh giải phạm nhân của triều
đình, tên Thẫm Tương về phủ. Lúc đi ngang qua đây, Thẫm công tử xin vào yết kiến lão gia. Tôi vị tình nên
để cho vào. Bây giờ đợi mãi đã gần tối mà chưa thấy ra, vậy phiền anh vào hối thúc giùm một tí.

Người giữ cửa giả vờ nặng tai, nheo mắt nhìn Là Vạn rồi hỏi giọng ngớ ngẩn :

­ Sao ? Anh nói gì tôi chưa hiểu.

Là Vạn phải thuật lại lần nữa rõ ràng hơn, và người giữ cửa vẫn với vẻ ba lơn, nói :

­ Thẫm công tử nào ? Làm gì có người khách lạ vào đây. Lão gia tôi hiện đang cư tang, không bao giờ tiếp ai
hết cả. Thôi, đừng có nói vớ vẩn mãi, hãy đi đi, làm rầy mãi...

Nói xong, người gác cổng quay gót trở vào.

Thấy cổng hé mở, Là Vạn nghĩ thầm :

­ Mình vâng lệnh thượng cấp thi hành công vụ chứ phải việc chơi sao, nay can phạm trốn trong đó, ta có
quyền vào nã tróc chứ.

Là Vạn bèn sấn vào gọi to :

­ Thẫm công tử đâu ? hãy ra mau ! ra mau !

Trong nhà im lặng, không một tiếng nào đáp cả.

Giữa lúc đó bên ngoài có tiếng cãi cọ xôn xao. Là Vạn quay ra thì thấy Trương Thiên đang đi tìm mình, và
đang hỏi thăm người gác cổng.

Trông thấy Là Vạn, Trương Thiên nổi giận, mắng :

­ Thật là thứ ham ăn hóc uống, chỉ lo ăn uống cho thỏa thích, không lo gì đến công vụ, và ai trông chờ cả !

Là Vạn lòng cũng đang hậm hực, thấy bạn mắng oan mình, cũng vội nói lại :

­ Én uống thứ gì ? hồi chiều giờ đứng đợi mãi ngoài cổng suốt buổi, khổ muốn chết, bụng đói như cào, còn
phạm nhân thì đi đâu mất chẳng thấy tăm tích gì cả.

Trương Thiên nghe nói, trợn đôi mắt ốc nhìn sững vào Là Vạn, rồi hỏi :

­ Thế anh không dẫn phạm nhân đến đây sao ?

Là Vạn nói :

­ Thì dẫn đến đây chứ sao nữa, nhưng phạm nhân vào nhà không thấy ra, còn người gác cổng thì không
cho tôi vô, tôi đứng đợi mãi nơi đây suốt buổi đó.

Trương Thiên càu nhàu :

­ Anh lãnh phần dẫn đi thì anh chịu trách nhiệm chứ tôi biết đâu.

Nói xong, Trương Thiên co cẳng bỏ chạy, Là Vạn nắm áo níu lại nói :

­ Thì cũng chung nhau mà chịu chứ tôi ăn uống gì sao ! hắn vào nhà này thì hắn còn đó chứ trốn đàng nào
được.Trương Thiên nói :

­ Suốt mai giờ chưa ăn, đói muốn chết, mụ vợ của hắn ở nhà cằn rằn mãi, bảo tôi đi chồng của y thị về. Bây
giờ anh để cho hắn trốn mấ, anh còn bảo tôi làm gì nữa.

Là Vạn nói :

­ Vợ hắn còn trong tay ta, hắn lại dám trốn đi một mình, bỏ vợ lại sao. Vậy anh trở về nhà giữ mụ vợ hắn lại
cho kỹ, để tôi vào nhà Phùng chủ sự mà đòi phạm nhân.

Nói xong, Là Vạn giục Trương Thiên trở về.

Trương Thiên đi rồi, Là Vạn thơ thẩn mãi trước cổng cho đến lúc vừng trăng le lói mọc khỏi đầu non, hồi
trống thâu canh chậm rãi buông từng tiếng trầm trầm buồn bã, bụng Là Vạn lúc bấy giờ đói như cào, mặt
mày buồn xo, hắn bèn tìm một cái quán ăn gần đấy, ăn qua loa vài miếng rồi trở lại trước cổng nhà Phùng
chủ sự, ôm gối ngồi đó ngủ gà ngủ gật cho đến sáng.

Trời vừa mờ sáng, hắn đã thấy Trương Thiên chạy đến nữa. Là Vạn hỏi :

­ Tại sao lại không canh giữ mụ vợ hắn, đến đây làm gì ?

Trương Thiên quạu quọ nói :

­ Ôi thôi ! suốt đêm y thị dục tôi đi tìm chồng y thị, tôi không chợp mắt được một chút nào. Con mụ này nhỏ
tuổi mà dữ lắm. Hắn hăm rằng nếu làm mất chồng hắn thì hắn đưa chúng mình ra pháp luật.

Là Vạn cau mày nói :

­ Thẫm Tương ở trong nhà này chớ chưa đi đâu cả, hiềm vì chúng ta không biết làm thế nào vào nã tróc hắn
mà thôi.
Trương Thiên nói :

­ Tôi có mang theo công văn soái phủ và trát giải của tri phủ Thiệu Hưng đây, vậy chúng ta cứ vào bừa đi có
sao.

Là Vạn nói :

­ Phùng chủ sự thuộc hàng quan lại, còn chúng ta là phận lính tráng, thực khó lòng.

Trương Thiên nói :

­ Mặc dầu là lính, nhưng chúng ta thi hành lệnh trên.

Là Vạn ngẫm nghĩ một lúc, cho lời nói của Trương Thiên là có là.

Khi chiếc trục cổng vừa rít lên, lăn đều một vòng trên ngưỡng cửa, hai gã công sai đều sấn vào kêu gọi ầm ĩ.

Bọn gia nhân trong nhà chạy đến lôi hai tên công sai ra, chúng phản đối la ó om sòm. Giữa lúc đó, bên trong
có tiếng ho quan liêu, và quen thuộc. Bọn tôi đòi đều đứng dang ra hai bên, chừa đường cho Phùng Công từ
từ bước đến.

Bằng một giọng nghiêm khắc, Phùng Công hỏi hai tên công sai :

­ Các ngươi có việc gì mà dám đến nhà ta làm huyên náo như thế ?

Trương Thiên và Là Vạn đồng sụp xuống đất lạy và nói :

­ Xin lão gia rộng lượng xét cho chúng tôi, chúng tôi là công sai được lệnh trên phái đến Triết Giang để nã
tróc Thẫm Tương là phạm nhân của triều đình. Lúc đi ngang qua đây, Thẫm Tương xin được vào yết kiến lão
gia. Chúng tôi không dám ngăn trở nên đứng ngoài chờ, chẳng ngờ Thẫm Tương vào nhà rồi không thấy trở
ra, vậy nhờ lão gia thương phận chung tôi cho gã lên đường, chúng tôi xin đội ơn lão gia trọn kiếp.

Phùng Công làm bộ hỏi :

­ Thẫm Tương nào ? có phải Thẫm Tương là con trai lớn của Thẫm Lượng đó không ?

Hai tên công sai nghe hỏi đồng dạ một lượt.

Phùng Công trợn mắt nhìn chúng nói :

­ Thẫm Tương này chẳng những là khâm phạm của triều đình mà còn là kẻ thù của Nghiêm Các Lão, ai mà
dám chứa chấp trong nhà, sao các ngươi lại dám đến đây nói bậy làm bậy. Nếu Nghiêm Các Lão mà hay
được có phải ta bị mang họa không ? quân bay đâu ? mau đuổi cổ hai tên này ra đóng cửa lại, kẻo chúng
nói xàm như thế có hại cho nhà ta không nhỏ.

Nói xong Phùng Công bỏ vào trong; bọn gia nhân đồng hè nhau một lượt, bắt hai tên công sai tống ra ngoài
đóng chặc cổng lại.

Trương Thiên tức giận quá nhưng không biết nói với ai, bèn chỉ vào mặt Là Vạn nói :

­ Hôm qua mi phụng mạng dẫn nó đến đây, bây giờ nó trốn mất rồi, vậy mi liệu sao thì liệu.

Là Vạn thở ra nói :

­ Thôi, chúng ta trách cứ với nhau như thế cũng không ích lợi gì. Chi bằng trở về quán trọ tra hỏi vợ hắn xem
may ra có biết được tung tích gì không.
Hai người dắt nhau thất thỉu trở về phạn điếm. Văn thị vừa mới nghe tiếng hai người léo nhéo ở đàng xa, đã
chạy ra đón lại, gay gắt hỏi :

­ Chồng tôi đâu ? sao không cùng về với các người ?

Là Vạn đem các việc nơi nhà Phùng Công kể lại đầu đuôi tự sự.

Văn thị không nghe, nổi giận chưởi mắng đùng đùng, vừa khóc sướt mướt vừa nói :

­ Thế là hai người đã dẫn chồng tôi đem giết đi nơi nào cho mất tích rồi trở về nói dối với tôi như vậy chớ gì
?

Nói xong, nàng lại khóc òa lên làm náo động cả phạn điếm. Là Vạn và Trương Thiên tức muốn nghẹn cổ
họng, không nói ra lời. Chủ quán bước đến hỏi thăm tự sự, nàng Văn thị một mặt buộc tội cho hai tên công
sai kia đã giết chồng nàng.

Chủ quán nói :

­ Hai người đó không có thù oán gì với công tử, không lẽ họ giết để làm gì ?

Văn thị nói :

­ Chồng tôi là kẻ thù của Nghiêm Tung, chắc là Nghiêm Tung đã thuê hai người này giết chồng tôi dọc
đường để làm cho biệt tích. Còn hai người này nhất định đã làm như thế để lập công.

Trương Thiên cãi lẽ :

­ Nếu chúng tôi mà mưu sát chồng nàng thì chúng tôi tẩu thoát cho rồi chứ còn trở về đây làm gì ?

Văn thị không vừa, đáp ngay :

­ Các người khinh tôi là đàn bà, không biết gì, nên đã giết chồng tôi, còn toan trở về đây để tính chuyện bất
lương, đồi phong bại tục nữa !

Hai tên công sai thấy Văn thị già mồm thì cứng là không biết cãi vào đâu nữa, đứng yên mà nhìn nhau.

Trong điếm lúc đó có đông người ăn uống, thấy Văn thị kể lể nỗi khổ tình, ai nấy đều động lòng thương, oán
ghét hai tên công sai, và nói :

­ Nếu công nương muốn tố giác nỗi oan tình ấy, chúng tôi sẽ đưa giùm đến binh bị đạo. Văn thị cúi đầu cảm
tạ, và nói :

­ Mong ơn liệc vị có lòng thương tưởng đến kẻ lâm nạn, vậy nhờ liệc vị đừng để cho hai tên giết người nầy
trốn thoát.

Mọi người trong quán áp lại dẫn Trương Thiên và Là Vạn đến sở binh bị đạo. Văn thị theo sau vừa khóc vừa
kể, uất hận tràn trề.

Khi đến thính đường, Vương binh bị xét hỏi thì Văn thị lạy phục xuống nói :

­ Cảnh nhà tôi gặp cơn tai biến cho chồng tôi và hai em tôi đều chết một cách oan uổng. Chồng tôi là Thẫm
Tương, lâu nay ở nhà trông nom phần mộ của ông bà, không hề làm một điều gì phạm pháp, thế mà họ lại
sai bọn công sai lùng bắt dẫn đến nửa đường âm mưu giết đi...

Trương Thiên và Là Vạn đều ngưởng cổ lên cãi lại, nhưng chúng nói đến câu nào đều bị Văn thị dùng là sự
bắt bẻ đến nỗi cả hai không còn biết nói làm sao nữa.
Vương binh bị thấy thế cho là một việc áp bức của công sai, bèn giải ngay nội vụ qua phủ đường tra xét.

Quan phủ Tế Ninh nghe Văn thị kể nỗi oan tình và buộc tội hai tên công sai rất chặc chẽ, thì lòng mến phục
vô cùng.

Trương Thiên và Là Vạn vì có lỗi để phạm nhân đi, nên không biết khai làm sao, cứ ấp a ấp úng, chối đàng
này ló đàng kia mãi.

Quan phủ Tế Ninh nổi giận, truyền đánh mỗi đứa một trăm trượng, bảo phải khai sự thật. Chúng đau quá
phải bày tỏ việc cho Thẫm Tương đến yết kiến Phùng chủ sự.

Quan phủ Tế Ninh truyền giam cả ba vào ngục, rồi thân hành đến nhà Phùng Công để dọ hỏi. Hay được tin
có quan phủ đến, Phùng Công vội vàng ra tiếp đón. Khi trà nước xong, quan tri phủ hỏi qua câu chuyện
Thẫm Tương. Phùng Công ra vẻ nhăn nhó đáp :

­ Bọn ấy là kẻ thù của Nghiêm Thị Lang, tôi tuy có tình đồng khoa thực, song đâu lại dại gì giao thiệp với
chúng để mang họa vào thân. Xin ngài đừng hỏi đến việc ấy vô ích, e rằng tai tiếng đến Nghiêm phủ thì họa
cho gia đình tôi chẳng nhỏ.

Quan phủ Tế Ninh thấy thái độ sợ sệt của Phùng Công như thế, lòng không nghi ngờ gì cả. Nói qua loa vài
câu chuyện nữa rồi vội vã cáo từ ra về.

Đi dọc đường, Hạ tri phủ nghĩ thầm : “Con người nhúc nhác như Phùng Công thì có lẽ nào lại dám chứa
Thẫm Tương, đây có lẽ là một sự mưu sát thực”.

Về đến phủ đường, ông ta truyền đòi Là Vạn và Trương Thiên ra công đường hỏi lại. Hai tên công sai vẫn
một mực chối dài. Chúng khai không có dự tính giết Thẫm Tương và Thẫm Tương hiện chưa chết.

Tri phủ nổi giận vỗ bàn nói :

­ Bây là công sai, có phận sự giữ phạm nhân tại sao lại để cho phạm nhân đi nơi nào không biết, có phải bay
đã nhận tiền một kẻ nào để thủ tiêu phạm nhân cho mất tích đi không.

Hai tên công sai khóc lóc lạy lục nhất định không chịu thú nhìn âm mưu Lộ Khải và Dương Thuận đã căn
dặn trước khi đi, mặc dầu chúng chưa làm thành.

Quan phủ truyền đánh mỗi đứa ba trăm trượng, nát cả mình mẩy rồi cắp cho bốn tên tráng đinh khí giới hẳn
hòi dẫn hai tên công sai đi tìm Thẫm Tương.

Còn Văn thị thì hạ lịnh cho đến am của một vị ni cô gần đó mà tạm trú.

Hai tên công sai biết tìm đâu cho ra Thẫm Tương, chúng đi ngất ngơ ngất ngưởng suốt ngày này sang ngày
kia như hai con chó dại. Còn Văn thị cứ cách vài bữa lại đến phủ đường khóc lóc khiếu nại, và mỗi lần như
thế là Trương Thiên và Là Vạn bị một trận đòn chí tử.

Lâu ngày, Trương Thiên không chịu nỗi phải bỏ mình, Là Vạn tuy còn sống, song không còn đi đâu nổi nữa,
một hôm lần đến am tự quỳ lạy Văn thị, kể hết sự tình :

­ Kẻ tiểu nhân này sắp chết rồi, xin công nương niệm tình dung thứ. Hai đứa tôi quả thật có nhận tiền nơi Lộ
Khải và Dương Thuận để thủ tiêu Thẫm công tử dọc đường thật, nhưng chưa thi hành được thì Thẫm công
tử đã trốn thoát. Hiện nay Thẫm công tử chưa chết, vậy xin công nương tha mạng cho tôi, tôi nguyện đội ơn
vạn thưở.

Văn thị thấy chúng một đứa đã chết, một đứa đã ăn năn, kông còn chối cãi nữa, nên động lòng thương, từ
đó không đến phủ đường khiếu nại.
Quan phủ thấy việc chầy ngày tháng, không đi đến đâu, lại thấy Văn thị lơ là nên không còn quan tâm đến
nữa. Do đó, một hôm Là Vạn thừa cơ hội, cuốn gói trốn đi biệt tích.

Ngày tháng trôi qua, trôi âm thầm trong uất hận của lòng dân do họ Nghiêm thao túng.

Một hôm nhà vua phái binh khoa cấp sự Ngô Thời Trung ra biên ải để xem xét công việc binh bị.

Ngô Thời Trung vốn là một kẻ trung thần. Khi ra đến nơi biết được việc Dương Thuận chém bá tánh, lấy đầu
nạp về dâng công, bèn làm sớ tâu với triều đình.

Hiện lúc ấy vua Gia Tỉnh đang thiết đàn làm chay cầu phúc, gặp tờ sớ ấy lòng phừng lửa giận, truyền chỉ cho
cẩm y vệ bắt hai con chó săn ấy đưa về kinh hỏi tội.

Thẫm Tương lúc bấy giờ trốn tại nhà Phùng Công, nghe hai tên ấy đã bị bắt, trong lòng khoan khoái vô
cùng, bèn xuất đầu lộ diện, đàng hoàng ra nơi thư phòng của Phùng Công đọc sách, không còn trốn tránh
nữa.

Thời gian trôi qua rất nhanh. Mới đó đã tám năm qua. Việc đời hết lúc thịnh đến lúc suy. Hành động của nịnh
thần xưa nay như ngọn lửa rơm, cháy bừng lên để rồi tắt lụi.

Ñu Dương phu nhân là vợ của Nghiêm Tung bị bịnh, từ trần. Nghiêm Thế Phồn xin phép cha được về quê
cư tang.

Trong thời gian cư tang, Thế Phồn là một thanh niên đã quen thói trụylạc, ngang tàng, hà hiếp lương dân,
nên khi về quê vẫn giữ thói ấy, ngày đêm dâm dật, rượu chè, bắt gái đẹp khắp trong vùng đến đó bày trò bỉ
ổi. Dân chúng uất hận, tiếng đồn thấu đến tai vua Gia Tỉnh.

Nhà vua vốn là một kẻ chí hiếu, nghe việc ấy trong lòng cay đắng vô cùng. Gặp lúc có người phương sĩ Lam
Đạo Hành giỏi về nghề phụ tiên. Nhà vua triệu đến, truyền chỉ Lam Đạo Hành cầu thỉnh tiên để hỏi việc cha
con Nghiêm tướng quốc “hiền hay không hiền”.

Lam Đạo Hành tâu :

­ Tâu bệ hạ, thần thánh thường nói thẳng, e có điều gì không vừa à, bệ hạ bắt tội hạ thần chăng ?

Nhà vua mỉm cười đáp :

­ Nếu thế thì ta thỉnh cầu làm gì ?

Rõ được lòng vua, Lam Đạo Hành tâu thêm :

­ Nếu vạn nhất có lời nào trái à, xin Thánh Thượng miễn tội cho.

Nói xong, Lam Đạo Hành đặt bàn hương án, niệm chú, đọc lời cầu tiên. Một lúc sau thần bút cử động chập
chờn như mây gió, và viết ra mấy câu sau đây :

Cao sơn phiên thảo

Phụ tử các lão

Nhật nguyệt vô quang

Thiên địa điên đảo

Nghĩa là :

Núi cao phiên thảo


Cha con các lão

Ngày đêm tối tăm

Đất trời điên đảo

Vua Gia Tỉnh xem qua mỉm cười nói :

­ Chữ sơn trên chữ cao tức là chữ Tung. Chữ phiên có thảo đầu là chữ Phồn. Như thế là trẫm đã biết rồi.

Lam Đạo Hành thấy vua đã hiểu, vội vàng cúi đầu lui ra không nhận lễ vật gì cả.

Từ đó vua Gia Tỉnh lần lần không tin dùng Nghiêm Tung nữa.

Ngự sử Trâu ứng Long thấy đã đến lúc cần diệt trừ kẻ nịnh để củng cố triều đình, mua lại lòng dân, bèn làm
sớ kể tội lỗi của cha con Thế Phồn mưu hại trung thần, tham ô nhũng loạn từ trước đến nay, mỗi mỗi đều
trưng ra một bằng chứng, lời lẽ rất thiết tha, và yêu cầu trừ khử để cho lòng dân được an.

Nhà vua thấy sớ y tấu, thăng chức Trâu ứng Long làm thông chính hữu tham nghị, lại truyền bắt Thế Phồn
giáng chức sung vào quân ngũ, còn Nghiêm Tung thì cất hết chức đuổi về làng.

Tuy nhiên, Thế Phồn vẫn quen thói ngang tàng không coi lệnh vua ra sao cả, cứ lo việc dâm dật, bạo ngược,
không chịu vào quân ngũ.

Đã vậy, do lòng bất mãn, Thế Phồn còn tụ tập một số gian nhân hòng mưu toan nổi loạn.

Quan ngự sử tuần án Giang Tây hay tin được, về tâu với nhà vua, nhà vua nổi giận, truyền chỉ chém Thế
Phồn tại chỗ, tịch thu hết tài sản. Còn Nghiêm Tung thì chho vào viện tế bần, sống với bọn ăn xin nghèo khổ.

Mỗi khi Nghiêm Tung xách gậy đi xin, dân chúng người người phỉ nhổ vào mặt, thật là thảm hại.

Lẽ ra từng tuổi ấy, Nghiêm Tung cũng nên tự tử chết cho rồi, để khỏi phải sống cuộc đời xấu xa tàn tệ ấy.
Thế mà Nghiêm Tung vẫn cố bám lấy cái sống, hình như trời muốn đày những kẻ gian thần ác đức ấy, hoặc
giả những bọn húy tử tham sinh không đủ can đảm để tự xử lấy mình.

Trong thời gian ấy, những người trung nghĩa bị hại bởi tay cha con họ Nghiêm đều được minh oan.

Phùng Công hay tin ấy lòng mừng không xiết, liền báo cho Thẫm Tương hay. Thẫm Tương lật đật đến am ni
cô tìm vợ. Văn thị thời gian sống nơi đó, đã sinh đặng một đứa con trai lên mười tuổi.

Suốt mười hai năm trời nuôi con sống xa chồng, nàng đã chịu bao nỗi đắng cay, tấm thâm liễu yếu đào tơ,
một mình nơi cô quạnh, ban ngày bắt ốc hái rau, tối về nuôi dưỡng đứa con, chăm lo đèn sách, mối hận lòng
mỗi lúc một sâu.

Nay hay đặng bọn gian thần đã đền tội, lại được gặp mặt chồng, nỗi buồn tủi của dĩ vãng tiêu tan trong lòng
thiếu phụ, nhường lại cho những cái vui của hiện tại và tương lai.

Hai vợ chồng tâm sự cùng nhau, mối tình vừa bi thiết vừa nồng nàng tưởng không bao giờ dứt.

Văn thị ẵm con vào từ giã và cám ơn ni cô, rồi hai người cùng lên đường, xa rời am tự. Bây giờ hai vợ chồng
kéo đến lạy tạ Phùng Công đền ơn bảo dưỡng. Phùng Công thấy bọn gian thần đã tàn rụi, nên định à về
triều xin phục chức, bèn dắt Thẫm Tương cùng về kinh.

Về đến Bắc Kinh, việc đầu tiên Thẫm Tương là lo thanh minh tội chết oan cho cha mình, kế đó mới tìm hài
cốt về quê di táng.
Thẫm Tương vào kết kiến Thông chính tham sự Trâu ứng Long, kể lể nổi oan tình của gia đình mình từ
trước đến nay.

Trâu ứng Long nghe nói rất đau lòng, bảo Thẫm Tương làm tờ tố oan đưa đến, rồi thân hành vào triều tâu
với vua.

Chẳng bao lâu, thánh chỉ truyền xuống sắc phong cho Thẫm Luyện vì trung nghĩa mà chịu chết oan nay
phục hồi nguyên chức, lại phong ba cấp để làm sáng tỏ khí tiết trung thần. Lại truyền cho các phủ huyện
những tài sản tịch thu trước kia phải hoàn lại đủ số. Thẫm Tương đã đỗ tú tài và phải chịu nhiều điều oan
khổ, nay đặt cách bổ làm Tri huyện.

Lúc bấy giờ hai tên chó săn Lộ Khải và Dương Thuận còn nhốt nơi ngục thất. Thẫm Tương thấy hai kẻ thù
cần phải đền tội để cho vong hồn cha mình ở suối vàng được cởi mở bèn làm sớ dâng lên nhà vua nói :

­ Cha hạ thần là Thẫm Luyện, vì mắt thấy Dương Thuận giết hại dân lành để lập công, vì thế mà ngâm thơ
cảm thán. Chẳng may gặp ngự sử Lộ Khải bí mật cùng Dương Thuận họp mưu hãm hại kẻ tôi hiền. Cha và
hai em của hạ thần bị hai tên gian nịnh ấy tra tấn đến chết. Nay xin bệ hạ trừ khử những kẻ ấy để vừa lòng
những tôi trung, làm gương cho kẻ nịnh.

Nhà vua chuẩn tấu.

Dương Thuận và Lộ Khải bị ghép vào tội tử hình. Chẳng bao lâu, bản án ấy được thi hành xứng đáng.

Thẫm Tương thấy bao nhiêu kẻ thù đã đền tội, trong lòng cởi mở, bèn từ biệt Phùng Công để đến Vân Nam
đón mẹ và em về.

Phùng Công nói :

­ Thẫm phu nhân và quà đệ Ở Vân Nam vẫn được mạnh giỏi. Mới đây, ta đã có cho người đến đón, chẳng
bao lâu nữa hai mẹ con cũng về đến đây. Điều đó cháu không nên nhọc lòng. Chỉ có việc di cốt lệnh tôn là
điều hệ trọng, hiện nay không ai biết trước kia đã chôn cất nơi đâu, vậy cháu cố công tìm kiếm để lo việc cải
táng.

Thẫm Tương vâng lời đến Bảo An tìm hỏi.

Qua một thời gian, Thẫm Tương vẫn không tìm ra được mối manh gì cả.

Suốt ngày đêm Thẫm Tương dò hỏi, nhưng không một ai biết được di cốt của Thẫm Công nơi đâu, lòng
Thẫm Tương bùi ngùi rơi lụy. Một hôm vì quá mệt nhọc, Thẫm Tương đứng dựa nơi một túp lều tranh tạm
nghỉ, bỗng có một cụ già quắc thước bước ra mời vào uống nước.

Thẫm Tương vừa bước vào nhà thì thấy trên vách có dán mấy bài “tiền hậu xuất sư”, rõ ràng là bút tích của
cha mình.

Thẫm Tương dè dặt hỏi :

­ Thưa lão trượng, bản chữ này ai viết mà tốt vậy ?

Ông già lau nước mắt đáp :

­ Đây là bút tự của Thẫm Luyện, một người bạn kết làm anh em với tôi để lại. Nguyên Thẫm Công là một bậc
trung nghĩa bị gian thần hãm hại, đày ra xứ này. Lão họ Giá, tên Thạch, vì chuộng kẻ trung thần nên hết tình
giúp đỡ. Chẳng may Lộ Khải và Dương Thuận lại bí mật âm mưu giết Thẫm Công và hai con nữa. Còn
Thẫm phu nhân và người nhỏ là Thẫm Cừu bị đày đi Vân Nam. Lão có thường đến đó thăm viếng và giúp
đỡ. Nay bọn gian thần đã bị tận diệt, nên lão mới trở về nơi đây. Lão có tin cho mẹ con Thẫm Cừu biết, thế
nào sớm tối ngày nay cũng đến đây để tìm di hài của Thẫm Công mà cải táng. Còn bức tiền hậu xuất sư đó
là kỷ niệm của lão.
Thẫm Tương nghe nói khóc òa, và nói :

­ Thưa chú, cháu là Thẫm Tương, con lớn của Thẫm Côn, còn bức chữ này là của cha cháu đó.

­ Chú nghe Dương Thuận và Lộ Khải nã bắt cháu để hãm hại, thế tại sao cháu còn sống sót được.

Thẫm Tương kể hết sự tình.

Khóc một hồi, Giá Thạch nói :

­ Nếu cháu muốn tìm hài cốt của cha cháu thì không khó gì, vì chính trước đây chú đã chuộc xác đại ca mà
mai táng. Vậy cháu cứ an lòng vào đây dùng bữa đã, rồi sẽ lo đến việc ấy.

Cơm nước xong, Giá Thạch định dắt Thẫm Tương đi chỉ mồ mả, thì phía ngoài có một tên gia nhân dẫn một
thanh niên bước vào.

Giá Thạch mừng rỡ chỉ chàng thanh niên kia và nói :

­ May lắm ! Thẫm Cừu đã đến đây rồi.

Ông già lại chỉ Thẫm Tương và nói :

­ Còn đây là anh cả của cháu.

Hai anh em nhìn nhau, ôm chầm lấy nhau, khóc trong vui sướng.

Một lúc sau, hai anh em cùng đi với Giá Thạch đến tìm mả Thẫm Công và Thẫm Bao, Thẫm Côn.

Đồ khâm liệm đã sắm sửa đủ, người ta trục hài cốt lên thì thi thể ba người vẫn tươi như người sống.

Đó là khí tiết của kẻ trung, mà đến lúc chết vẫn còn kết tinh lại.

Mối Ơn Thầm

Vào năm Chính Thống triều Minh, tại đất Hưng An tỉnh Quảng Tây có một người họ Tiễn, tên Vu Đồng, nhà
tuy nghèo nhưng tánh ham học. Năm mười một tuổi đã vào trường, năm mười hai tuổi được nhà nước cấp
học bổng, chăm lo đèn sách rất gắng công.

Tuy nhiên học tài thi phận là câu cổ ngữ từ xưa đến nay đã linh ứng, biết bao nhiêu trong cảnh lều chõng
của thí sinh, Tiễn Vu Đồng thi mãi không đậu, khoa thi nào cũng vác lều vác chõng đi để rồi trở về không.

Tuy thế Vu Đồng không lấy đó làm điều chán nản. Không phải như cụ Tú Xương nhà ta :

Mai mà tớ hỏng tớ đi ngay,

Cúng giỗ từ đây nhớ lấy ngày.

Vu Đồng càng thi hỏng, càng dùi mài kinh sử, và càng dùi mài kinh sử lại càng hỏng nặng hơn.

Năm Thiên Thuận thứ sáu, Vu Đồng đã năm mươi bảy tuổi, mái tóc đã đổi màu xám, thế mà còn chen chúc
với đám thư sinh mơ chiếm bảng vàng, ra tay bẻ quế.

Bọn thư sinh thấy vậy ai nấy đều châm biếm, thấy mặt ông ta ai nấy cũng không nhịn được cười, đến nỗi
người ta đặt riêng cho ông ta một biệt hiệu là “quái vật”.
Mà “quái vật” gì mặc kệ, Vu Đồng không lấy đó làm điều bất mãn, cứ học, cứ thi mãi, không kể đến lời dèm
pha của bọn trẻ trung háo thắng kia.

Thuở ấy tại huyện Hưng An có viên tri huyện họ Bằng, tên Ngô Thời, mới đổi đến trấn nhậm.

Bằng Công vốn là người Thai Châu thuộc tỉnh Triết Giang, thông minh tuyệt thế, năm mười bảy tuổi đã đậu
tiến sĩ, ra làm quan lại có đức, nên tiếng tăm đồn vang trong thiên hạ. Nhưng vì Bằng Công thi đậu sớm, nên
lại phải cái tính chuộng trẻ khinh già, đó là một điều bất hạnh cho cái tên thi sinh Vu Đồng “cụ lão” kia.

Đến kỳ khảo khóa, Bằng Công ra đề.

Sau khi sát hạch, Bằng Công cố tìm quyển văn hay lỗi lạc để xứng đáng làm một kẻ đỗ đầu xứ.

Khi ráp phách để xướng danh thì oái oăm thay ! Cái ông già tóc bạc hoa râm kia lại là kẻ được Bằng Công
lựa chọn.

Nghe kêu tên mình, lão Vu Đồng lểnh mểnh bước đến trình diện. Bằng Công xem thấy ngạc nhiên, trong
lòng không đẹp chút nào, phần thì các thí sinh trẻ tuổi kia vỗ tay vang dậy, không phải để hoan hô, mà để
chế riễu, lấy việc đó làm đề tài cho việc la ó.

Bực lòng quá, nhưng không biết phải làm sao, Bằng Công truyền xướng tiếp những danh sách trúng tuyển
cho qua cảnh bực tức của mình.

May thay ! các thí sinh trúng tuyển sau đó đều là bọn đầu xanh tuổi trẻ, mặt mày tuấn tú chứ không phải tóc
bạc hoa râm như lão Vu Đồng nữa.

Vu Đồng từ nhỏ đến giờ thi hỏng mãi, nay lại bảng hổ đề tên, vui mừng tràn ngập cõi lòng, đâu còn chỗ nào
mà nghĩ đến lời châm biếm của bọn thư sinh. Mà nay lại được đỗ đầu, thì còn hứng thú gì hơn nữa, Vu
Đồng trở về nhà bày một tiệc rượu say sưa lúy túy.

Kịp đến kỳ thi hương, sĩ tử lại tựu trường, mang lều chõng đến. Vu Đồng cũng thế, cũng lểnh mểnh mang
tráp ra đi.

Khi đến thí trường thấy lại có tên Bằng Công sung vào phòng lễ kà khảo quan. Vu Đồng mừng thầm, tưởng
rằng khoa thi hương này có người hiểu tài năng của mình nữa, nên chẳng lo gì cả, trong lòng hớn hở ghé ra
quán rượu uống đến say mèm.

Bằng Công khi được xung vào ban giám khảo, thoáng thấy trong danh sách thí sinh lần này cũng có tên Vu
Đồng, thì trong lòng nghĩ thầm :

­ Tại sao ta cứ gặp cái lão thí sinh già nầy mãi. Kỳ này hẳn ta không thể lầm lạc mà lấy trúng bài của hắn
nữa. Hắn đã già rồi, nếu làm ơn cho hắn thì ích gì, chi bằng lấy những đứa trẻ trung sau này chúng có nhiều
cơ hội nhớ ơn ta.

Nhưng rồi Bằng Công lại nghĩ :

­ Nếu ta cứ lựa bài nào văn chương già dặn, xuất sắc, e lại trúng quyển của lão “quái vật” ấy nữa. Kỳ này
nên lựa một quyển nào văn chương ấu trỉ cho đậu thủ khoa, thế tất lão phải hỏng.

Định à như vậy, Bằng Công vào trường chấm thi.

Đúng ngày hai mươi tháng tám, chính chủ khảo và khảo quan đều hội họp đến chí công đường để ráp
phách, và xướng danh, yết bảng.

Khi mở quyển đầu ra, thì chao ôi ! lại trúng cái tên “quái vật” ở đất Hưng An nữa. Cũng là lão Vu Đồng đậu
đầu.
Ôi ! một trận cười như pháo ngày Tết vang dội cả thí trường.

Bằng Công kinh ngạc, lòng bực tức bội phần, nói với viên chánh chủ khảo :

­ Vu Đồng già cả, nếu lấy va đỗ đầu e bọn hậu sinh không phục, vậy tôi xin đề nghị chọn quyển khác.

Quan chủ khảo lắc đầu, chỉ lên tấm bảng chí công đường nói :

­ Nơi đây là chỗ chí công, chúng ta đang làm việc trong phòng chí công thì còn nghĩ làm gì đến việc trẻ già ?

Bằng Công không biết làm sao hơn, đành để cho Vu Đồng chiếm tên đầu bảng.

Tại làm sao Vu Đồng là một lão uyên thâm học rộng lại trúng quyển đầu trong kỳ này, cái kỳ mà Bằng Công
quyết lựa một thí sinh non nớt ?

Nguyên do là vì Vu Đồng khi đến thí trường thấy có tên Bằng Công trong ban giám thi, thì mừng quành, đinh
ninh rằng khoa này cũng sẽ có người rõ được tài mình nên vào quán uống rượu đến say mèm. Lúc vác lều
chõng tựu trường, trong óc còn ngầy ngật hơi rượu, vội vã viết bậy ba bài cho xong rồi ra về. Ai ngờ lúc ấy
Bằng Công lại lựa quyển nào dở nhứt cho đỗ đầu, thế là Vu Đồng dính vào đó.

Rồi ba năm qua, kỳ thi hội rồn rập đến, các thí sinh lại tựu trường, cái tên Vu Đồng già nua kia vẫn như ai
cũng đệ quyển đi thi. Cái mộng bảng vàng bia đá không vì thời gian mà buông trôi theo dòng nước.

Lần này Vu Đồng không dám khinh thị nữa, vì là kỳ thi hội, có nhiều bậc đàn anh, văn chương xuất chúng.
Vu Đồng cố sức dùi mài kinh sử, học ngày học đêm đến nỗi trong giấc ngủ nào cũng nằm mơ thấy mình vào
trường thi. Mà giám khảo lại ra hai chữ “kinh thi”.

Vu Đồng cho đó là vận mạng đã đến nên có thần linh mách bảo, bèn cứ việc quyển kinh thi học mãi.

Lạ lùng làm sao ! Lúc đó vì Bằng Công văn hay chữ giỏi tiếng tăm lừng lẫy được triều đình triệu về bổ nhiệm
chức Lễ Khoa cấp sự, vì vậy mà Bằng Công lại được sung vào khảo quan kỳ thi hội này nữa.

Cái tên thí sinh Vu Đồng và khảo quan Bằng Công vẫn đeo đuổi nhau như bóng với hình, như cá với nước.

Bằng Công tự nghĩ :

­ Phen này ta lựa cái chỗ sở đoản của cái tên thí sinh già này mà đánh tới thì hắn phải cua tay. Hắn ta thuần
thục về Lễ Kà, bây giờ ta ra đề về Kinh Thi, hắn không tài nào đỗ được.

Khoa thi mở màn, sĩ sinh khắp nơi rộn rịp kéo về đón chờ ngày hoa nở. Lúc ráp phác và xướng danh cái tên
đầu tiên cũng lại con “quái vật” Hưng An tên Vu Đồng nữa.

Bằng Công tức như bò đá, vẻ mặt lầm lì ngồi thừ ra không nói một lời nào cả.

Các ông nghè tân khoa lần lượt vào lạy tạ tại phòng sự, Bằng Công thấy vẽ mặt hí hửng của lão thí sinh già,
gọi lại hỏi :

­ Ông có tài gì mà chiếm được thủ khoa kỳ thi hội này ?

Vu Đồng kể lại giấc mộng của mình.

Bằng Công thở ra, nói :

­ Thực là số mạng vậy.

Vu Đồng đỗ đầu hai khoa giáp được triều đình bổ ngay làm hình bộ chủ sự. Từ đó Vu Đồng lui tới, kính trọng
Bằng Công vô cùng, vì nhớ ơn ba lần trúng tuyển. Còn Bằng Công thấy Vu Đồng biết ơn như vậy trong lòng
cũng kính phục, hai bên đi lại rất tương đắc.

Bằng Công vốn là một kẻ hay nói thẳng, ghét ai không để vào lòng được, thấy việc sai thì không chịu nổi,
cho nên từ khi khi về nhậm chức lễ bộ, nhiều lần làm xúc phạm đến đại học sĩ Lưu Cát. Nên ông này tìm
cách trả thù.

Lưu Cát tìm những lầm lỗi nhỏ mọn, cho bọn ngự sử tay chân dâng sớ tham hặc. Bằng Công bị hạ ngục và
đưa sang hình bộ để làm án.

Nhân viên hình bộ vì sợ thế lực của Lưu Cát nên tìm cách kết án Bằng Công vào tử tội. Vu Đồng thấy thế ra
sức binh vực, tập họp tất cả bạn đồng khoa lại, làm sứ dâng lên xin miễn tội tử cho Bằng Công.

Nhà vua y tấu. Thế là nhờ có Vu Đồng mà Bằng Công được bảo toàn tánh mạng. Khi sắp về quê, Bằng
Công đến đền ơn Vu Đồng.

Vu Đồng nói :

­ Ơn của ngài đã cho tôi ba lần trúng tuyển, chút ơn mọn ấy đâu có sá gì mà ngài phải nhọc lòng như vậy.

Bằng Công nói :

­ Nếu không nhờ ngài thì tánh mạng tôi ắt không còn.

Vu Đồng bày yến tiệc đãi đằng và tiễn hành Bằng Công phản hồi quê quán. Vũ Đồng làm việc tại triều hơn
sáu năm; mọi người đều mến phục. Bộ lại thấy ông tài đức nên muốn đặc cách bổ ông làm một nhiệm vụ
trọng đại, thì giữa lúc đó Vu Đồng nhận được tin con lớn của Bằng Công là Bằng Kính Cộng cùng một nhà
cường hào tranh nhau về địa giới, thành hai bên gây cuộc đánh nhau.

Nhà cường hào kia lại đem giấu một tên gia bộc rồi vu cho Bằng Kính Cộng là giết người. Bằng công tử đuối
là nên bỏ trốn lên Vân Nam, nơi cha chàng bị giáng trích.

Vì việc quan hệ đến sinh mạng, lại vì Kính Cộng bỏ trốn, nên quan huyện cho trát bắt những người thân
thuộc của họ Bằng đem hạ ngục.

Nghe được tin ấy, và biết được phủ Thái Châu bị khuyết, Vu Đồng bèn xin ra đó. Mục đích là để minh oan
cho Bằng Kính Cộng.

Vu Đồng ra trấn nhậm được một thời gian, đều tra bắt được tên gia bộc mà tên cường hào giấu lâu nay để
vu oan cho họ Bằng; ông ta vội vã lên trướng đường để tra xét.

Chứng cớ đã rõ ràng, những người thân thuộc của họ Bằng bị bắt trước kia đều được thả trở về hết. Vu
Đồng lại buộc nhà cường hào kia về tội vu khống, kết án tử hình.

Sau đó Vu Đồng viết một bức thư cho Bằng Công, kể hết mọi sự đã được minh oan.

Bằng Công mừng rỡ khôn cùng, viết bức thư hồi đáp và sai đứa con trai mình là Bằng Kính Cộng về Thái
Châu để bái tạ. Vu Đồng tiếp đãi Bằng Kính Cộng rất nồng hậu.

Làm việc ở Thái Châu được ba năm thì Vu Đồng nổi tiếng là liêm chính, khắp dân gian đều mến đức.

Qua năm thứ tư, Vu Đồng được thăng Hà Nam liêm sứ rồi tuần vũ Triết Giang. Năm ấy Vu Đồng đã ngoài
bảy mươi tuổi mà sức lực vẫn còn cường tráng lắm.

Bằng Công khi ấy trở về nhà tuổi già mắt kém, ông ra rất hối hận trước tấm lòng bạc đãi của mình đối với Vu
Đồng thuở nọ. Hành động và tấm lòng trung thành của Vu Đồng làm cho ông ta thức tỉnh.

Khi nghe Vu Đồng được bổ lên chức Tuần Vũ, Bằng Công bèn đến để chúc mừng, lại dắt theo một đứa con
nhỏ đến yết kiến.

Vu Đồng không lấy thế làm cao, thấy Bằng Công đến ông ta cúi chào sát đất, giữ nghĩa tình xưa.

Bằng Công nói :

­ Lão phu đã mang ơn ngài cứu sống, sau đứa con lớn của lão lại nhờ ngài minh oan cho, khỏi phải liên lụy.
Công ấy dẫu chết không quên. Nay lão có một đứa con nhỏ, nguyện đem đến để nhờ ngài dạy dỗ, mai sau
phỏng có nên người thì nó sẽ thay mặt tôi để đáp đền ơn tri ngộ.

Vu Đồng đứng dậy, chấp tay nói :

­ Tiểu đệ già nua yếu đuối, tài năng không có bao nhiêu, nay được sư huynh phó thác cho việc trọng như
vậy thì dẫu tiểu đệ có bề nào cũng xin nguyện hết lòng.

Bằng Công nghe nói rất thán phục, hai dòng nước mắt chảy ròng ròng, nói :

­ Nếu được ơn ngài chiếu cố cho con lão thì dù nhắm mắt lão cũng vui lòng.

Chuyện vãn một lúc, Bằng Công từ biệt ra về. Còn đứa con nhỏ ở lại để lo việc sách đèn dưới sự giáo huấn
của Vu Đồng.

Bằng Ngô ở tại nha Tuần Vũ được Vu Đồng dạy dỗ rất cần mẫn. Chẳng bao lâu đã thành tài. Ba năm sau,
Vu Đồng thấy Bằng Ngô đã đủ sức ra thi cử với mọi người, bèn lấy ba trăm lạng bạc trong số tiền lương
dành dụm của mình, cấp cho rồi đưa Bằng Ngô về nhà.

Ai ngờ, lúc đó Bằng Công bị bệnh mất đã hai ngày rồi.

Vu Đồng đến trước linh sàn khóc lóc rất là thê thảm.

Vu Đồng ở lại đó cư tang mấy hôm, chôn cất xong mới trở về Triết Giang. Trước khi trở về, Vu Đồng hỏi
Bằng Kính Cộng :

­ Lão sư trước khi chết có dặn dò gì không ?

Bằng Kính Cộng kể lại :

­ Cha tôi trối lại rằng : “Trong đời cha tôi mọi việc đều phân minh chính trực, chỉ có một điều lúc chấm thi,
yêu trẻ ghét già, vì vậy mà suàt đã bạc đãi một ân nhân hiếm có trong đời. Ta thật có mắt mà không ngươi.
Trong đời ta chỉ có người thí sinh già ấy hết lòng hết dạ mà thôi. Còn các người trẻ tuổi khác thật là bạc tình.
Trong lúc lâm nạn, họ không một lời ủi an... Từ nay về sau, cha khuyên các con đừng có khinh những kẻ tuổi
tác mà chưa gặp thời...”

Vu Đồng nói :

­ Hạ quan có gì mà phải chịu ơn làm vậy, chẳng qua đó là sự bồi đáp cho ân sư, để người đời rõ rằng kẻ
thất thời mà giúp đỡ họ thì họ rất biết ơn về sau !

Tình Bằng Hữu

Về đời nhà Đường nguyên niên, tại tỉnh Hà Bắc có một người tên là Quách Trọng Tường, tài kiêm văn võ,
tánh tình hào hiệp, hay cứu giúp người không bao giờ nghĩ đến công ơn.

Người này là cháu của quan Đại quốc công Quách Chấn, tự Nguyên Chấn, hiện đương chức tại triều.

Năm ngoài hai mươi tuổi, Trọng Tường đến kính thăm bác để nhờ sự tiến thân. Nguyên Chấn vốn là người
hào hiệp, thấy cháu mình có à cầu thân như vậy, nên khuyên một câu :

­ Làm trai ở đời, muốn cho xứng đáng với danh dự, không hổ với chức tước của mình, phải đem thân ra vùi
gan nếm mật, lập những chiến công hiển hách, để tiếng lại ngàn thu, còn như việc Cạy thế thần của người
trong tộc họ, để vinh thân phú quà thì điều đó không lâu bền.

Trọng Tường suy nghĩ một hồi rồi lãnh à.

Cách mấy hôm sau có tin cấp báo về triều, quân Man vượt sang biên giới, cướp phá tung hoành, làm cho
nhân dân khiếp đởm.

Triều đình sai Là Mông lãnh chức Diên Châu đô đốc, kéo binh ra biên ải để dẹp loạn. Là Mông lãnh chỉ, sửa
soạn chỉnh tề. Trước ngày đi, chàng đến tướng phủ để từ giã Nguyên Chấn và xin Nguyên Chấn đôi lời chỉ
giáo.

Nguyên Chấn nói :

­ Xưa Khổng Minh Gia Cát đánh quân Man bắt Mạnh Hoạch bảy lần đều tha bảy lần, làm cho quân Man thán
phục hàng đầu. Nay đô đốc kéo binh ra biên ải, lão phu chỉ có một lời khuyên là nên lấy đó làm gương. Tiện
đây lão phu có một người cháu tên Quách Trọng Tường, tuy tuổi trẻ song cũng có chút ít tài năng, lão phu
muốn cho theo đô đốc để dẹp giặc, may ra nhờ cơ hội có thể lập được chút công lao với triều đình.

Nói xong, Nguyên Chấn gọi Trọng Tường ra để yết kiến đô đốc Là Mông.

Nhìn qua tướng mạo, Là Mông thấy Trọng Tường diện mạo phương phi, hình dung tuấn tú, võ khí đường
đường lại là cháu của quan Tể tướng trong triều nên vội vã thu dụng ngay và phong cho Trọng Tường làm
chức Hành quân tư mã. Trọng Tường giã nhà từ biệg bá phụ với tất cả lòng hăng hái và phấn khởi với một
lòng trai đang hăng chiến đấu, trả nợ tang bồng.

Khi đến Kiến Nam, quê hương của Trọng Tường, thì chàng gặp một người bạn tên là Vĩnh Cố, hiện đang
nhậm chức Phương Nghĩa tại quận Đông Xuyên. Hai người này tuy lâu nay chưa hề thân mật, xong hai bên
đã được nghe tiếng tăm nhau, cùng cảm nghĩa.

Vĩnh Cố nghe Trọng Tường xuất quân lòng rạo rực, nên viết một phong thư sai người đem đến cho Trọng
Tường, nhờ Trọng Tường tiến cử mình. Trọng Tường xem thơ thấy lời đầy nghĩa khí, đem lòng mến phục,
nghĩ rằng :

­ Bình sinh ta chưa hề gặp một người nào mới quen biết nhau mà đã thông cảm lòng nhau, đem cả tương lai
và vậnh mệnh ủy thác cho mình như vậy. Kẻ đại trượng phu gặp người chí nghĩa đâu dễ làm ngơ cho được.
Nếu ta chẳng giúp đỡ cho Vĩnh Cố há chẳng thẹn với cố nhân lắm sao.

Ngày hôm ấy, Trọng Tường đem việc Vĩnh Cố xin sung vào quân đội trình lên, đô đốc Là Mông y lời, lập tức
sai người đến quận Đông Xuyên mời Vĩnh Cố đến phong chức quản là quân vụ.

Binh mã vừa chỉnh đốn xong thì ngoài biên ải có quân thám tử về báo rằng : “Quân Man đang tràn vào làng
mạc, cướp của đốt nhà, dân chúng tán loạn, thế giặc đang lừng lẫy một góc trời, người người đều khủng
khiếp.

Được tin ấy, Là Mông liền ra lệnh suốt ngày đêm kéo quân thẳng đến biên giới. Khi đến quận Diên Châu,
gặp lúc quân Man không phòng bị, Là Mông thúc quân vào đánh bất ngờ, quân Man bị một trận thua to phải
rút lui ra khỏi biên giới.

Là Mông thừa thế quân rượt theo tiến sâu vào nội địa của Man quốc.

Xứ Man là một xứ núi rừng hiểm trở, cây đá chập chùng, lại có khí độc bốc lên ngùn ngụt, thật là một hiểm
địa bất lợi cho đàn quân viễn chinh.
Trọng Tường can :

­ Thế giặc đã bị tan tành, rút vào yếu địa, đó là lúc uy vũ của đô đốc được đề cao. Đô đốc nên dùng lợi khí
của mình để chiêu dụ quân Man, làm cho quân Man hàng phục, như thế mới tỏ được lòng đại độ của Thiên
triều và lòng khoan hồng của đô đốc. Nếu tiến sâu vào đất địch, tôi sợ không khéo mắc mưu gian.

Là Mông là người háo thắng, nghe Trọng Tường can gián, tỏ à không bằng lòng, nói :

­ Quân địch hàng ngũ tơi bời, người người vỡ mật, bỏ cả gươm giáo mà chạy, nếu ta không thừa thế kéo
sâu vào Man quốc để phá tan sào huyệt của chúng, thì ai còn cho ta là kẻ lão luyện về binh cơ. Tư Mã đừng
nói nhiều lời, hãy xem ta phá giặc.

Hôm sau, Là Mông truyền nhổ trại kéo rốc vào nội địa Ô Man, qua những núi rừng thăm thẳm cây cối mịt
mùng. Quân Man không có một bóng người thấp thoáng, không biết chúng trốn vào đâu. Thật là một cảnh
hoang vu vậy !

Là Mông truyền lục lạo khắp hang cùng ngõ hẻm cũng không bắt được tên Man nào, phần thì quân lính đi
lâu ngày mệt mỏi đói khát, ngựa thiếu cỏ, người thiếu lương, phần thì quân Man bỏ thuốc độc vào các khe
suối, hễ ai uống vào thì bị bịnh mà chết.

Trong cơn bối rối, Là Mông muốn kéo quân về, bỗng nghe trong các hang động tiếng trống, tiếng kèn, tiếng
phèn la nổi lên, bốn bề quân Man kéo ồ ạt đến phủ vây đầy rừng ngập núi.

Chúa quân Man tên là Tế Nô di xuất lãnh tù trưởng các động, dùng cung tên tẩm thuốc độc bắn giết rất
hăng. Quân của Là Mông phần đông đi mãi trong rừng núi bị nhiễm sơn lam chướng khi, phần thì không
quen thủy thổ miền Man nên bị đau ốm rất nhiều, không còn một ai muốn đánh giặc nữa. Nay lại bị phục
binh như vậy thì làm sao ngăn chống cho nổi.

Quân của Là Mông chết vô số, thây nằm chật cả rừng núi, máu nhuộm đỏ khe, hầu hết các tướng đều vong
mạng. Là Mông hối hận, nhưng đã trễ, đành ngửa mặt lên trời mà than rằng :

­ Nếu trước kia nghe lời Trọng Tường thì đâu đến nỗi cả quan quân mang hại như vầy. Nay ta còn mặt mũi
nào mà trở về Trung Quốc để thấy triều đình.

Than xong, Là Mông rút gươm ra tự vận.

Bao nhiêu tàn quân đều tan rã. Lớp bị bắt, lớp bị chết, lớp đầu hàng. Trọng Tường bị quân Man bắt làm tù
binh.

Tế Nô Di thấy Trọng Tường mặt mũi khôi ngô, khi tiết chói ngời, can đảm chống lại quân Man đến phút kiệt
quệ mới chịu hàng đầu, hỏi ra mới biết đó là cháu của Tể tướng Quách Nguyên Chấn, nên giao Trọng
Tường cho tướng bộ hạ là Đầu mục Ô La canh giữ.

Quân Man vốn không có chí lớn, không mưu cầu chiếm đoạt đất đai, chỉ cướp của đốt nhà, bắt người chuộc
mạng. Do đó, bao nhiêu tù binh đều được Tế Nô Di giữ lại, buộc viết thơ báo cho thân quyến hay để đem
tiền đến chuộc.

Những người nghèo khổ, phải chuộc với giá bốn năm mươi tấm lụa, còn những người giàu có ít ra cũng
phải bốn năm trăm tấm mới được tha về.

Nay Tế Nô Di biết được Trọng Tường là cháu của Tể tướng Quách Nguyên Chấn nên đòi với giá một ngàn
tấm lụa. Trọng Tường phân vân nghĩ rằng nếu quân giặc đòi một số tiền chuộc mạng lớn lao như vậy, thì chỉ
có cách viết thư về cho bá phụ mà xin, may ra mới đủ số.

Nhưng Nguyên Chấn ở tại triều, đường xa cách trở, muôn dậm quan san khó mà thông tin tức được. Lòng
đang bối rối, Trọng Tường nghe được tin Vĩnh Cố vì kéo binh đến chậm nên thoát khỏi vòng vây của địch,
hiện nay đã trở về Diên Châu.
Trọng Tường nghĩ rằng :

­ Từ đây sang Diên Châu các không bao xa. Ta cứ viết thư gởi về cho Vĩnh Cố đem tin đến Trường An là tiện
hơn cả.

Nghĩ xong, Trọng Tường viết một phong thư gởi cho Vĩnh Cố, trong đó kể rõ tất cả các nỗi niềm khổ cực của
mình dưới sự đọa đày tàn nhẫn trên đất Man, nhờ Vĩnh Cố thương tình lo liệu. Nếu không sẽ làm quỷ không
đầu nơi đất khách.

Cuối thơ có đề một bài thơ tứ tuyệt rất là thắm thiết gởi riêng cho Vĩnh Cố.

Cơ tử vi nô nhưng dị vực
Hoang hân Tô Vũ tại sơ niên
Tri quân nghĩa khí thâm tương mẫn
Nguyện thoát chinh tham học cổ hiền

Dịch :

Tấm thân đất khách tôi đòi


Nhờ tay Tô Vũ tình hoài sơ giao
Nghĩa tình thông cảm cùng nhau
Gương xưa xin nguyện lấy màu tri âm

Vừa lúc đó lại gặp dịp viên quan giả lương quận Diên Châu được người thân chuộc về, nên Trọng Tường
gởi lá thư ấy nhờ đưa cho Ngô Vĩnh Cố.

Ngô Vĩnh Cố từ khi được Là Mông xung vào giữ chức quản là trong quân vụ, bỏ nhà, bỏ cả vợ đẹp, con thơ,
một người một ngựa thẳng đến Diên Châu để coi sóc việc quân lương. Khi Là đô đốc thất trận thì chàng
thoát khỏi vòng vây, song chẳng biết Trọng Tường mất còn hay lưu lạc nơi nào, trong lòng bức rức không
an. Nỗi buồn man mác nỗi lên trước những cuộc ly tán bất ngờ trong thế sự. Hoài tưởng đến tri âm Vĩnh Cố
để tâm dò xét, nhưng tháng ngày biền biệt trôi, mà tin người tri kỷ vẫn lạnh lùng như mặt nước hồ thu tan
tác. Thì một hôm Vĩnh Cố nhận được bức thư của Trọng Tường từ Man quốc gởi về với những lời lẽ đau
buồn khôn siết.

Xem thơ, Vĩnh Cố lòng đau như cắt, tưởng đến những cái khổ khắc, đày đọa của người bạn tương tri nơi núi
rừng u tịch trên đất Man, lòng chàng thấy ngậm ngùi đau đớn không yên. Mặc dầu sống tại Diên Châu,
nhưng Vĩnh Cố tưởng như tâm hồn mình đang cùng chung với bạn sống trong cảnh cực hình u uất trên đất
Man vậy.

Vĩnh Cố vội viết lá hồi thư, và gói hai ngàn lượng bạc, mướn người gởi đến đất Man để cho Trọng Tường an
lòng. Kế đó, Vĩnh Cố một mình lên ngựa đi suốt ngày đêm để về Trường An báo tin cho Nguyên Chấn biết.

ở đời, việc rủi ro mà không ai lường biết được “Họa vô đơn chí”. Những cái may thì ít có, mà những cái rủi
không đến một mình, khi Vĩnh Cố về đến Trường An thì Tể tướng Nguyên Chấn đã mất đi trước đó cách một
tháng, vợ con phải đem linh cữu về quê để an táng. Đứng trước cảnh thất vọng tràn trề ấy, Vĩnh Cố đôi dòng
nước mắt ràn rụa nuốt hận trở về, không biết để làm sao. Về đến Toại Châu, Vĩnh Cố gặp mặt vợ con không
nói được lời nào, ngày đêm khóc tức tưởi.

Vợ Vĩnh Cố là Trương phu nhân thấy thế lấy làm ngạc nhiên, than thỉ hỏi duyên cớ. Vĩnh Cố mỗi lần muốn
nói ra lại nghẹn ngào nói không ra tiếng. Khóc được mấy ngày như vậy, Vĩnh Cố mới vơi đi đôi chút trong
lòng mình, kể lại đầu đuôi cho vợ nghe.

­ Nay Trọng Tường bị bắt làm tù binh, bị đày đọa trên đất Man, muốn chuộc về phải có đủ một ngàn tấm lụa.
Nay Tể tướng Nguyên Chấn vừa mới chết, ta có bổn phận phải đi chuộc bạn về, nhưng nhà ta vốn nghèo
nàn và thanh bạch từ lâu, làm gì có một ngàn tấm lụa để chuộc mạng. Mà nếu không có số lụa ấy để cho
Trọng Tường ngày đêm mòn mỏi trông mong dưới sự hành hạ của quân địch thì lòng ta sao yên được ?
Nói xong, Vĩnh Cố lại khóc, khóc mãi không ngớt.

Trương phu nhân bùi ngùi khuyên giải :

­ Sức người làm sao chống nổi với cơ trời. Nay sự thể đã như vậy, nhà mình lại nghèo khổ, dù cho tình
nghĩa có trọng đến bao nhiêu thì cũng đành xuôi tay chịu vậy, phó mặc cho vận mạng chứ làm sao ? Chàng
cứ khóc hoài như vậy phỏng có ích gì ?

Vĩnh Cố sụt sùi nói :

­ Nếu ta không chuộc được Trọng Tường về, nhứt định ta không thể sống trên đời này nữa. Trước kia chỉ
mới quen biết nhau thôi, thế mà ta chỉ gởi một phong thơ Trọng Tường hết lòng tiến cử cho ta. Cái ân nghĩa
ấy dù cho mấy ngàn tấm lụa cũng chưa trả nổi, đừng nói chi một ngàn tấm.

Trương phu nhân tìm hết cách để an ủi và can gián, nhưng Vĩnh Cố vẫn không thôi khóc. Chàng bán cả đồ
đạc trong nhà, góp nhóp được một số tiền trị giá hơn hai trăm tấm lụa, rồi bỏ mặc vợ con, lấy tiền làm vốn ra
đi buôn bán, chỉ ước mong một ngày nào đó kiếp được đủ số tiền để chuộc bạn về.

Nhưng lại sợ bất ngờ có thơ của Trọng Tường ở đất Man gởi về, rủi không gặp thì tủi lòng, nên Vĩnh Cố
không đi xa, cứ lẩn quẩn mãi nơi đất Diên Châu, tìm đủ mọi phương kế để kiếm tiền.

Hễ kiếm được đồng nào Vĩnh Cố lại mua lụa. Cứ mua được một trăm tấm chàng lại đem gởi vào kho Diên
Châu.

Ngày tháng trôi qua, cái con người xuôi ngược hải hồ ấy chỉ biết làm tiền, trước mắt chỉ nghĩ đến lụa, vì thế
mà hình bóng vợ con mỗi ngày một phai lạt. Thoắt đã mười năm qua, một chàng trai khí phách hiên ngang
đường đường một võ tướng như thế, mà phong sương dày dạn biến thành một gã giang hồ, da mặt nám
đen, mắt sâu, má lõm, không còn chút gì đượm nét phong lưu cả.

Thế mà số tiền kiếm được vẫn chưa đủ. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ góp vào được hơn bảy trăm tấm
lụa.

Trong thời gian ấy thì Trương phu nhân ở lại nơi Toại Châu với đứa con thơ, nhà cửa bạc vàng đã bị chồng
góp nhóp bán sạch rồi, cui cúc nuôi con, sống với hai bàn tay trắng, trong cảnh đèn khuya gối chích, vò võ
trông chồng; tháng năm lặng lẽ trôi, tin chồng mỗi ngày một vắng.

Mấy năm đầu, Trương phu nhân còn kiên nhẩn đợi chờ, một mình vá may canh cưởi. Mặc dầu trong cảnh cô
đơn, nhưng nghĩ đến tấm lòng vì nghĩa của chồng, nàng cũng tự an ủi được phần nào. Vả lại làng xóm thấy
thế cũng thương tình, ra ơn giúp đỡ.

Mãi về sau, tin tức Vĩnh Cố không ai còn nhắc đến nữa, cũng chẳng ai biết chàng ta sống thác nơi đâu.
Trương phu nhân đành thất vọng, dắt đứa con thơ đến Diên Châu để tìm chồng.

Hai mẹ con dấn thân trên bước đường lưu linh, ngày đi đêm nghỉ. Trong khoảng thời gian lặn lội, sự nhọc
nhằn kể sao cho xiết. Nàng đi mãi, tay dắt đứa con thơ, mỗi ngày chỉ đi bộ hai dặm đường.

Ngày kia, đến địa giới Nhung Châu thì tiền bạc đã hết sạch. Không biết làm sao, nàng phải vào xóm xin nhờ
từng bữa cơm độ nhựt.

Tuy nhiên, Trương phu nhân vốn là con nhà đài các phong lưu, từ nhỏ đến lớn chưa hề chịu cảnh nhọc
nhằn, nay đột nhiên sa vào cảnh cùng quẩn ấy làm sao mà chịu cho nổi. Nàng tự thấy số phận hẩm hiu,
muốn tự vẫn cho rồi song không nỡ bỏ đứa con thơ nên tủi lòng khóc mãi.

Một hôm, nàng đang ôm con ngồi khóc nơi dưới gốc dâu bên lề đường thì bỗng có một vị quan họ Dương
tên An Cư, vừa được phong chức Đô đốc, từ Trường An đến Diên Châu để nhậm sở.
Khi đi ngang qua Ô Mông, nghe tiếng khóc thê thảm của nàng, An Cư động lòng trắc ẩn, truyền quân dừng
xe lại, bắt người đàn bà kia dẫn đến để hỏi duyên cớ.

Trương phu nhân sụt sùi bước đến trước kiệu quan Đô đốc An Cư, kể lể :

­ Chồng thiếp là Ngô Vĩnh Cố, trước kia có làm bạn với Trọng Tường, cùng nhau sang đánh giặc Man.
Chẳng may Trọng Tường bị quân Man bắt, đòi phải có một ngàn tấm lụa mới cho chuộc mạng. Vì tình tri kỷ,
chồng thiếp không nỡ để cho người bạn phải tuyệt vọng, nên bán nhà bán cửa ra thân xuôi ngược, cố tạo
cho đủ số lụa để chuộc bạn về mà quên cả vợ yếu con thơ sống trong cảnh má hồng răng trắng.

Nay thiếp nghèo khổ, không biết nương tựa vào đâu, dắt con đi tìm chồng, thì nửa đường lương thực tiền
bạc đều hết sạch, phải ăn xin độ nhật. Thiếp nghĩ phận mình mà hờn tủi, khóc than, chẳng ngờ làm xúc
phạm đến đại quan, xin đại quan mở lòng dung thứ.

Dương Đô đốc nghe nói trong lòng bùi ngùi cảm cảnh, nghĩ thầm :

­ Ngô Vĩnh Cố quả là người trọng nghĩa, một tấm gương sáng thuở nay chưa từng thấy. Hiềm vì ta bạc
phước vô duyên không được kết giao cùng người ấy.

Nghĩ như thế, Dương Đố đốc quay lại nói với Trương phu nhân :

­ Xin phu nhân đừng lo. Hạ quan hiện nay lãnh chức Đô đốc, trấn nhậm Diên Châu. Đến đó, hạ quan sẽ cho
người tìm kiếm Ngô quân, dẫn về gặp phu nhân lập tức. Còn bây giờ, hạ quan xin tặng phu nhân một số tiền
lộ phí, để phu nhân cùng công tử có thể đến đó.

Nói xong, ông ta rút trong túi ra đưa cho Trương phu nhân ba trăm lạng bạc, và khiến quân cấp cho nàng
một chiếc xe êm, phái người đưa đến Diên Châu lập tức.

Trước tấm thịnh tình của Dương Đô đốc, Trương phu nhân cảm kích khôn cùng, cúi đầu tạ Ơn rồi ẵm con
lên xe. Khi đến Diên Châu, Dương Đô đốc khiến người đưa mẹ con Trương phu nhân vào quán dịch rồi ra
công văn khắp quận, hễ ai tìm được Ngô Vĩnh Cố thì trọng thưởng. Lại phái người thân thích ngày đêm tủa
ra các nẻo đường để hỏi han tin tức.

Chỉ trong năm ngày, bọn tùy viên đã tìm được Vĩnh Cố. Con người trọng nghĩa ấy lúc bấy giờ mình đen như
cột cháy, mắt sâu, má lõm, không còn chút gì khí phách hiên ngang của vũ tướng. Vừa thấy mặt Vĩnh Cố
bước vào, viên Đô đốc chạy đến nhìn từ đầu đến chân, bùi ngùi nói :

­ Tôi thường nghe cổ nhân có nói đến những người bạn tâm giao hết lòng vì nghĩa. Tuy nhiên, từ xưa đến
nay tôi chưa hề thấy. Hôm nay tôi chỉ thấy ông là một. Tôn phu nhân và công tử, từ xa tìm đến, tôi đã mời
vào quán dịch nghỉ ngơi. Vậy mời ông đến đó để hàn huyên cho thỏa tình tháng năm cách biệt. Còn lụa kia
nếu thiếu bao nhiêu ông cứ để mặc tôi lo liệu.

Vĩnh Cố ngơ ngác nhìn viên Đô đốc nói :

­ Kẻ hèn này chỉ vì chút tình bè bạn bỏ vợ con nheo nhóc, cô đơn trong những ngày ấm lạnh, còn dám đâu
làm phiền đến đại quan, xin đại quan cứ để mặc tôi lo liệu.

Bằng một giọng thành thật và cảm động, viên Đô đốc nói :

­ Bình sanh tôi rất chuộng người trọng nghĩa, nên gặp ông tôi rất cảm mộ. Ông có thể là một tấm gương
sáng cho hậu thế. Vậy tôi xin giúp ông một tay để ông toại được chí cả của ông.

Lòng thành thật của Dương Đô đốc làm cho Vĩnh Cố không còn từ chối được nữa, nên vội vã cùi đầu tạ Ơn :

­ Cảm đức đại quan, kẻ hèn này không dám không tuân. Số lụa còn thiếu hơn ba trăm tấm, xin đại quan cấp
phát cho tôi, để đến đất Man chuộc bạn về, rồi sau sẽ gặp vợ con cũng chẳng muộn.
Dương Đô đốc liền vay tạm một số tiền trong kho, xuất ra mua ba trăm tấm lụa giao cho Vĩnh Cố, lại còn cấp
cả ngựa xe và tiền lộ phí nữa.

Vĩnh Cố mừng rỡ thu xếp một ngàn tấm lụa lên đường thẳng đến Man Quốc. Lòng chàng nặng trĩu với tâm
tư, vừa hy vọng vừa hồi hộp, chẳng biết con người thư sinh trẻ trung ấy, hơn mười năm biền biệt, đày đọa
trên đất Man, nay còn mất lẽ nào.

Khi đến Man Quốc, Vĩnh Cố đem một ngàn tấm lụa, nhờ một người Trung Quốc của đất Man, lâu nay làm
một trung gian cho việc chuộc mạng người, tiến cử chàng gặp mặt Man Vương.

Trong mấy năm trời đằng đẵng, Trọng Tường sống ngoắc ngoải dưới sự đày đọa trong bộ lạc Ô La.

Ô La những tưởng, Trọng Tường là con cái một nhà giàu có ở Trung Quốc, trong một vài năm sẽ đem tiền
đến chuộc mạng. Không ngờ thời gian đằng đẵng, không thấy ai đoái hoài, lâu ngày sinh chán. Ban đầu còn
tử tế, nhưng sau hành hạ đủ bề, mỗi ngày chỉ phát cho một nắm cơm ăn để cầm hơi.

Trong cảnh khổ ấy, Trọng Tường nghĩ đến cha già con dại, ngày đêm tan nát cõi lòng, nơi quê hương cách
trở ngàn trùng, chẳng biết cành liễu kia có giữ được màu xanh trước gió không.

Nỗi buồn ấy cô động trong người, với lại thời gian dằn dặc trong cảnh âm u ngục tối lâu ngày không thể chịu
nổi nữa.

Một hôm, nhân lúc Ô La đi săn, Trọng Tường vượt ngục định bỏ trốn về Trung Quốc, thì bị quân Man bắt lại
được. Ô La về giận dữ, liền đem Trọng Tường bán cho động chủ phía Nam là Tân Đinh để làm nô dịch.

Tân Đinh vốn là người hung bạo, tàn nhẫn, những người làm bất à Tân Đinh là roi vọt đánh người không còn
tiếc sức.

Lúc ấy Trọng Tường thấy vắng người lại trốn đi, nhưng rồi cũng bị bắt trở lại. Tân Đinh tức giận liền đem bán
cho động chủ Bồ Tát Man.

Tên động chủ này vô cùng ác độc và biết rõ Trọng Tường mấy lần đã trốn đi, Bồ Tát Man liền dùng hai
miếng gỗ đóng đinh, bỏ dưới một hầm sâu, chân tay đều khóa cả lại và cho binh sĩ canh giữ cẩn thận.

Khi Vĩnh Cố đến điều đình cùng Ô La, Ô La thấy đủ số một ngàn tấm lụa lòng mừng khắp khởi, sai người
đến điều đình với Tân Đinh, Tân Đinh lại sai người điều đình với Bồ Tát Man.

Bồ Tát Man xem công văn xong liền sai người xuống hầm nhổ đinh đem Trọng Tường lên. Tay chân Trọng
Tường lúc bấy giờ bị đóng đinh lâu ngày nên sưng vù cả, máu mủ thắm đầy nhiều lớp, mấy cây đinh sét rỉ,
nên lúc nhổ ra chàng không chịu nổi, ngất đi hơn mấy giờ đồng hồ mới tỉnh lại.

Bồ Tát Man truyền đem da sống bọc cả hai chân Trọng Tường rồi khiêng trả về cho Ô La.

Ô Tha cốt thu đủ số lụa, có kể gì đến mạng người sống chết mặc kệ. Vĩnh Cố và Trọng Tường gặp nhau,
trong trường hợp ấy họ rất cảm động. Họ Ôm nhau khóc ngất lên, không ai còn nói được câu nào, mà trong
lòng họ như đã nói lên được ngàn vạn chuyện.

Vĩnh Cố thấy Trọng Tường người gầy ốm, tay chân như những cành cây mụt, trong mình đầy những vết sẹo
cũ, mới chất chứa lâu năm, không đi nổi một bước, trong lòng thương xót, cảm cho kiếp sống tài hoa phải
chịu mười năm tan tác, bèn đỡ bạn lên xe, nâng niu như một đứa bé mới lọt lòng vậy.

Khi về đến Diên Châu, hai người vào yết kiến Dương Đô đốc. Dương Đô đốc mừng rỡ khôn cùng, sai người
đi thỉnh các danh y về dinh săn sóc cho Trọng Tường.

Qua một tháng thuốc men đầy đủ, lại ăn uống sung túc nên sức lực của Trọng Tường bình phục như xưa.
Trọng Tường rất cảm kích tấm lòng đại nghĩa của Dương Đô đốc, vội vào thính đường bái tạ.
Dương Đô đốc nói :

­ Giúp ích như vậy là việc nhỏ mọn, đâu có gì gọi là ơn huệ. Sự giúp đỡ của tôi so với tấm lòng Vĩnh Cố
chẳng khác nào một hạt cát giữa bãi trùng dương.

Sau khi đưa bạn về đến soái phủ, Vĩnh Cố mới đến quán dịch thăm vợ con, để hàn gắn lại nỗi chia ly cách
biệt trong mười năm trời, kẻ lênh đênh muôn dặm, người ấp ủ thâm khuê.

Dương Đô đốc vì cảm nghĩa nên biên thư về Trường An, nhờ những tay quyền quà ở đó tâu với vua phong
chức cho Vĩnh Cố, còn Trọng Tường thì ở lại phủ Đô đốc sung vào chức phán quan, trông nom việc văn thư
giao dịch với người Man.

Vĩnh Cố dẫn vợ con từ giả bạn lên đường. Trọng Tường theo đưa đến hơn trăm dặm. Cái cảnh tiễn biệt kẻ ở
người đi, trước tấm tình nồng nhiệt, giọt lệ cảm hoài tuôn chảy đến không bao giờ dứt.

Đôi bạn dùng dằn nhau, cuộc chia tay nửa ngày mà tâm sự chưa vơi.

Khi về đến Kinh Đô, Vĩnh Cố được bổ chức Huyện lệnh Thương Sơn, vội vã dẫn vợ con đi phó nhậm. Trong
thời đó, triều đình nhớ công ơn của Đại quốc công Quách Chấn nên muốn lục con cháu để bổ dụng.

Dương Đô đốc dâng biểu đề cử Trọng Tường, nói rõ Trọng Tường là cháu của Nguyên Chấn, trước kia đi
dẹp giặc Man, bị giặc Man bắt giam cầm nơi khách địa mười năm đằng đẵng mà lòng trung can không một
chút đổi dời. Nay hiện tùng sự tại quận An Diên, xin ơn trên đền đáp.

Triều đình nhận được biểu chương, tức thì phong Trọng Tường làm chức Lục sự tham quân Qùa Châu.

Trọng Tường được lệnh bổ nhậm, lẽ phải lên đường, nhưng vì lâu nay quê nhà cách biệt, hơn mười năm
trời trôi nổi nơi đất khách, nỗi cha già, vợ yếu, tháng ngày khoắc khoải nhớ mong, vì vậy mà trước khi đi
nhậm về, Trọng Tường ghét về nhà thăm quê quán.

Cả thời gian cách biệt, nơi quê hương ai cũng tưởng Trọng Tường đã vùi thân nơi khách địa, nay lại thấy
Trọng Tường trở về với chức tước hiển vinh, cả gia đình mừng vui khôn xiết.

Vui với gia đình ít ngày, Trọng Tường lại sắp sửa sang Qùa Châu, lo tròn nhiệm vụ của mình.

Hai năm qua, Trọng Tường làm quan nổi tiếng là một bậc thanh liêm, gương mẫu. Triều đình bổ dụng chàng,
thăng chức Tham quan Đại Châu.

Trọng Tường là bậc trung hiếu, lại tài ba lỗi lạc, những năm qua lận đận trong chốn chông gia, chẳng qua là
vận thời chưa đến. Nay được thuận gió xuôi buồm, thì con thuyền thẳng tấp trên mặt trùng dương, việc đó
không có gì là lạ lắm.

Chỉ có một điều, chức vị càng cao, Trọng Tường lại càng nhớ đến công đức của những người đã giúp mình
trong thờ hoạn nạn. Chàng cáo với triều đình, xin phép một thời gian để trở về cư tang cho Quách thái công,
bác của mình.

Xong, chàng lại nghĩ đến Ngô Vĩnh Cố.

“Trước kia ta nhờ Ngô Công vì nghĩa cả, không kể đến thân, tạo đủ số vàng lụa để chuộc về, hôm nay hai
đàng trung hiếu ta đã lưỡng toàn, chẳng lẽ để bạn mình sống âm thầm với chức tiểu lại nơi biên ải sao !”

Nghĩ như thế, Trọng Tường nóng ruột, vội vã đến Bành Sơn để thăm bạn.

Khi đến nơi, Ngô Vĩnh Cố đã mãn nhậm. Cảnh gia đình lại thanh bạch, sống trong túng thiếu. Do đó, Vĩnh
Cố không có tiền về Trường An để xin điều bổ.

Vợ chồng sống vất vưởn nơi biên cương, chẳng may bị bịnh dịch, cả hai đều bỏ mạng. Hiện linh cữu còn
đang quàng ở hậu viên chùa Hoàng Long.

Người con trai là Ngô Thiên Tá, trước đây được mẹ dạy dỗ, nên nay rõ thông kinh sử; song trong cảnh túng
thiếu ấy làm gì có tiền để đưa linh cữu cha mẹ về quê tống táng. Chàng nay lưu lạc ở Bành Sơn làm nghề
dạy trẻ để kiếm tiền.

Trọng Tường lâu ngày nhớ nhung định dụng tìm đến, mong gặp bạn để thăm viếng, cạn mối tình hoài, chẳng
ngờ khi đến đó hỏi thăm ra thì vợ chồng Ngô Vĩnh Cố đã chết.

Than ôi ! Trọng Tường như thấy cả một bầu trời tan vỡ. Bao mối tâm tư hầu như khô cạn, chàng mò đến
chùa Hoàng Long tìm linh cữu vợ chồng Ngô Vĩnh Cố, rồi nằm đấy khóc mấy ngày bỏ ăn bỏ uống. Những
dòng nước mắt mông mênh ấy chảy mãi, thấm vào lòng đất lành lạnh muôn đời !

Qua mấy ngày khóc lóc, Ngô Thiên Tá trở về thăm linh cữu của cha mẹ, gặp Trọng Tường trong cảnh bi thiết
ấy, chàng rất đỗi ngạc nhiên, hỏi ra mới biết kẻ trọng nghĩa ấy là Trọng Tường. Hai đàng bái tạ nhau, coi như
anh em ruột.

Trọng Tường bàn với Ngô Thiên Tá rước linh cữu về quê hương an táng.

Ngô Thiên Tá nói :

­ Đó là nhiệm vụ của tôi, vốn tôi đã có dự à từ lâu, song ngặt gia đình sút kém, tiền bạc không còn, đường đi
từ đây về đến quê nhà lại dịu vợi nên kiếm chưa ra tiền, tôi tính dạy học vài năm may ra góp đủ số tiền sẽ lo
việc đó.

Trọng Tường nói :

­ Ngô Công đối với tôi, ơn nghĩa muôn ngàn, dù tôi có lma thân trâu ngựa cũng chưa đủ đền bồi. Vậy việc
này hiền đệ cứ để mặc tôi lo liệu.

Nói xong, Trọng Tường đi mua đủ các thứ lụa là, vàng hương, cùng các đồ tẫn liệm để đem hài cốt vợ chồng
Ngô Vĩnh Cố về quê.

Khi mở nắp quan tài ra, nắm xương của Vĩnh Cố đã rục rũ. Trọng Tường rưới lên đó một lớp phấn thơm và
sắp từng cái vào chiếc bao lụa mới tinh.

Muốn cho chắc à, Trọng Tường còn làm dấu đâu vào đó rất cẩn thận. Đoạn bỏ vào chiếc rương mây, mang
lên vai, thất thểu ra đi.

Thiên Tá kêu lên :

­ Đó là hài cốt của cha mẹ tôi, tôi có bổn phận phải mang nó, sao thúc thúc lại gánh lấy sự phiền phức ấy ?

Trọng Tường sụt sùi đáp :

­ Vĩnh Cố đã vì ta, bỏ vợ bỏ con, lìa nhà lìa cửa trong mười mấy năm trời giữa cảnh gian nan, cơ cực. Dẫu
nay ta có làm một con vật đi nữa cũng chưa đủ báo đền trong muôn một, huống chi ta chỉ mang nắm xương
tàn thì có gì gọi là phiền phức.

Nói xong, Trọng Tường lại vừa đi vừa khóc. Hai dòng lệ đọng mãi trên khóe mắt không lúc nào khô.

Thất thểu trên con đường vạn dặm, lòng Trọng Tường bâng khuâng tình bạn, đau đớn trước cảnh chia lìa,
được mấy ngày thì hai chân Trọng Tường sưng húp không đi nổi nữa.

Bóng chiều buông xuống, cảnh vắng lê thê, trên đỉnh núi cao, cánh chim mịt mù trong mây tím, Trọng Tường
vai mang nắm hài cốt của bạn lê vào một chiếc quán trọ bên đường, lấy vàng hương ra van vái lạy lục suốt
đêm, quên ăn quên ngủ.
Tấm tình chung thủy ấy hình như có một mãnh lực huyền bí, giúp cho con người vì nghĩa được toại chí bình
sinh, nên sáng hôm sau tự nhiên hai bàn chân của Trọng Tường bỗng không còn đau nhức nữa.

Trọng Tường mừng rỡ, mang hài cốt của bạn ra đi. Đi mãi không kể đêm ngày, gió mưa cực nhọc.

Về đến nhà, Trọng Tường cùng với Thiên Tá quét dọn trung đường, mua sắm quan quách cùng đồ tế liệm,
chôn cất rất long trọng.

Hai người mặc đồ tang, suốt ngày này sang ngày kia lo việc xây mộ, lập bia, không nghĩ gì đến cảnh hào
hoa phú quà.

Suốt ba năm trường, Trọng Tường ngày nào cũng lui tới viếng mộ bạn, nhỏ giọt nước mắt khóc cho tìm
thâm của cố nhân chôn vùi dưới nấm cỏ xanh, lòng quằn quại không nguôi. Lúc nào rảnh rổi thì đem kinh
thư, võ nghệ ra dạy Thiên Tá.

Chẳng bao lâu, Thiên Tá trở thành một thiên tài lỗi lạc.

Trọng Tường lại đem người cháu họ của mình gả cho Thiên Tá, rồi chia cho Thiên Tá một nửa gia tài của
mình để sống một cách sung sướng đầy đủ.

Sắp đặt đâu đó xong, Trọng Tường mới trở lại Trường An.

Nhà vua cảm lòng trung nghĩa của Trọng Tường, phong cho chàng thăng chức Thứ sử Lam Châu.

Càng giữ chức lớn bao nhiêu, Trọng Tường lại càng nhớ đến ơn Ngô Vĩnh Cố bấy nhiêu. Một hôm, Trọng
Tường vào triều dâng biểu tâu với vua, kể hết mối tình nồng hậu của bạn mình đối với mình từ trước đến
nay, và xin vua phong cho đứa con của Ngô Vĩnh Cố một chức tước để đáp đền nghĩa bằng hữu.

Nhà vua muốn nêu gương sáng trong dân chúng, nên tức khắc phong cho Ngô Thiên Tá nhậm chức Huyện
úy huyện Lam Cốc.

Huyện Lam Cốc và Lam Châu giáp nhau, vì vậy Trọng Tường và Thiên Tá ở gần nhau rất dễ dàng. Mối tình
bằng hữu liên kết nhau đời đời cho đến lúc chết.

Người sau cảm tấm lòng tri ngộ ấy, dựng lên đền Song Nghĩa (hai cái đền sát nhau) để phụng thờ, cho là
một bậc Siêu nhân vậy.

Tại Song Nghĩa ấy còn một bài thơ lưu truyền đến nay, song không rõ của ai cả.

Tần Tần ác thủ vĩnh căn chân


Lâm nạn phương tri à vị thân !
Thi vân Quách, Ngô chân nghĩa khí
Nguyện phi bình nhật kết giao nhân

Dịch :

Nắm tay giao kết giải đồng


Lâm cơn hoạn nạn có cùng nhau chăng !
Quách, Ngô bình nhật chưa thân
Tấm gương bằng hữu mười phân vẹn mười.

Có những nàng hoa

Về đời Đường, có một nhà ẩn giả họ Thôi tên Huyền Vĩ, là một người mộ đạo. Suốt đời ẩn náu một mình ở
Lạc Đông Thôn xử sĩ không thèm biết dư vị phấn hương của mối tình kháng lệ. Trong mảnh vườn u tịch
muôn sắc thắm tươi của đủ các giống hoa kỳ, cỏ lạ : nào tùng biếc, trúc xanh, mai trắng, đào hồng... đều
tăng vẻ kiều diễm.

Bài thơ tiếc hoa sau nói lên được cái thú tiêu khiển thanh tao, nỗi buồn dịu vợi của con người tài hoa phong
nhã, trọn đời chỉ biết tiêu khiển, chỉ biết bầu bạn với hoa lá, gió trăng. Một đêm mưa nghe lòng mình nằng
nặng.

Liên tiêu phong vũ bế sài môn


Lục tận thâm hồng, chỉ liễu tồn
Dục tảo thương đài thả đình chửu
Giai tiền điểm điểm thị hoa ngân

Dịch :

Cửa sài đóng kín đêm mưa gió


Liễu rụng hồng rơi bóng nhạt phai
Niềm riêng phủ lớp rêu xanh biếc
Lốm đốm hoa in mấy bậc ngoài

Gặp lúc tiết xuân êm ả, trăng vườn hoa muôn cánh rạt rào, sắc hương chìm trong sương lạnh. Đêm thanh,
bản nhạc thanh bình rít lên pha lẫn vào khóm dương đanh thánh thót những giọt sương đục màu sữa. Vừng
trăng lơi lả giữa giấc ngủ im lìm của tạo vật, Huyền Vi thấy lòng mình lâng lâng, một mình đi lẫn thẫn từ
khóm hoa này sang khóm hoa khác, bỗng thấy trong vườn có một mỹ nhân áo xanh non màu lá mạ thất thểu
đi đến... chập chùng dưới ánh trăng màu vàng nhạt.

Huyền Vi lấy làm lạ, tự hỏi :

­ Đêm khuya, canh tỉnh, tại sao lại có người con gái ở vườn hoa này ?

Huyền Vi còn ngơ ngác chưa rõ sự thế ra sao, thì mỹ nhân đã bước đến trước mặt thi lễ.

Huyền Vi bối rối ngước nhìn nét hoa, hỏi :

­ Chẳng hay tiểu thư ở đâu, đêm khuya cảnh vắng lại vào nơi tệ viên, ắc hẳn có điều chi chỉ giáo ?

Cặp môi đào hé mở, vừng ngập chói ngời, như giọng oanh thánh thót, thiếu nữ đáp :

­ Tiện nữ nhà ở gần đây. Nay cùng mấy người bạn đến đông môn để thăm người dì, tiện đây xin tá túc một
đêm biết công tử có khứng cùng chăng.

Tuy trước cảnh bất ngờ, nhưng không lẽ từ chối lời nói của mỹ nhân, nên vui vẻ nhận lời. Mỹ nhân cúi đầu
cảm tạ rồi bước ra lối cũ.

Một lát sau, thiếu nữ kia lại dẫn một đoàn mỹ nhân khác rẽ hoa bước vào. Dưới trăng mờ huyền ão, nét
diễm kiều trong gió bụi vẫn không phai, mỗi người như một cánh hoa phù dung lắc lư trước gió.

Huyền Vi như hoa mắt, miệng không nói được lời nào, lặn đưa các thiếu nữ vào phòng khách, mời ngồi và
hỏi :

­ Thưa quà nương, chẳng hay quà nương phương danh liệt tánh là gì, mà vóc ngọc thân ngà lại lặn lội đến
tệ xá làm vậy.

Một thiếu nữ mặc áo màu lục đứng dậy đáp :

­ Chúng em sống nơi quê mùa, tên họ lại xấu xí, e nói ra làm rát tai công tử chăng !

Huyền Vi mỉm cười, nói :


­ Xin quà nương đừng quá khiêm tốn.

Cô thiếu nữ mặc áo nguyệt bạch đứng dậy đáp :

­ Em đây vốn họ Dương, còn chị mặc áo xanh đây là họ Là, còn chị mặc áo hồng kia là họ Đào...

Mỗi thiếu nữ đều đứng dậy tự giới thiệu tên mình. Cuối cùng đến người mỹ nhân nhỏ tuổi nhất. Dương mỹ
nhân đứng dậy vỗ vai nói :

­ Đây là em út của chúng tôi, họ Thập tên A Thác. Tuy có khác họ thật, song từ lúc nhỏ đến giờ mối tình tha
thiết và gắn bó với nhau lắm.

Đêm nay chúng em hẹn đến Thập Bát Di Nương để chào người, tiện đây chúng em vào yết kiến công tử, để
cảm ơn công tử cho chúng em mượn vườn hoa này làm nơi gặp gỡ.

Nghe các thiếu nữ ăn nói lưu loát, Huyền Vi toan tìm lời văn hoa và cử chỉ nhã nhặn để đối đáp, nhưng
chàng chưa biết nói lời nào thì các thiếu nữ đã đứng dậy nhìn ra vườn hoa, reo to :

­ A ! Thập Bát Di đã đến kìa !!!

Dứt lời, mọi người đều chạy ra vườn để đón. Huyền Vi vội lãng tránh sang một phòng bên để lánh mặt.

Bọn thiếu nữ thi lễ xong đồng nói :

­ Chúng tôi đến đây để đón Di Nương, nhưng được chủ nhân mời vào hỏi chuyện nên tiếp đón có hơi chậm
trễ, xin Di Nương miễn thứ cho.

Di Nương có tên là Phong Di, một thiếu nữ oai vị, tuy vẻ đẹp phong nhã, nhưng có hơi đanh ác, bước tới
nhìn các thiếu nữ kia, mỉm cười nói :

­ Đã mấy lần định đến thăm các em nhưng vì bận việc không đi được, hôm nay mới có dịp, để các em phải
nóng lòng mong đợi, thực chị có lỗi lắm.

Các thiếu nữ đồng thanh đáp :

­ Được quà nương chiếu cố đến thăm các em, các em có gì mừng hơn. Vậy đêm nay trăng sáng, hoa tươi,
xin quà nương vào tạm nơi đây để chúng em được dâng ly rượu thọ.

Phong Di nhìn vào căn phòng trống, hỏi :

­ Hội họp ở đây có gì bất tiện không ?

Dương mỹ nhân đáp :

­ Chủ nhân ở đây là một bậc quân tử, thanh tao và nho nhã, vả lại khu vườn này cũng khá u tịch, không có
gì đáng để cho Di Nương ái ngại cả.

Phong Di hỏi :

­ Thế thì chủ nhân hiện giờ ở đâu ?

Huyền Vi đang ở phòng kế cận, nghe Phong Di hỏi đến mình, liệu khó bề trốn tránh nên vội bước ra thi lễ.

Các cô thiếu nữ vội vàng nhắc ghế mời Phong Di ngồi trên rồi lần lượt nắm tay nhau ngồi chung quanh.
Huyền Vi kéo ghế ngồi bên ngoài để giữ lễ.

Chẳng bao lâu, bên ngoài có một cô tỳ nữ bưng vào một mâm đầy những thứ món ngon vật lạ, tỏa trong
phòng một mùi thơm ngát. Trong đó đủ các thứ bánh, Huyền Vi không biết thứ bánh gì mà gọi. Lại còn có
những thứ rượu gì bay hơi ngọt ngào như mật ong vậy.

Các thiếu nữ rót rượu, mời Phong Di uống trước.

Phong Di cầm ly rượu, tỏ lời mời các thiếu nữ đồng nhau đối ẩm.

Các thiếu nữ tiếp lời mời Huyền Vi.

Đêm thanh trăng tỏ, bên ngoài gió hiu hiu thổi, tiếng trúc rạc rào như muôn nhạc điệu lắng chìm trong cảnh
tịch mịch u huyền.

Cạn nửa tuần rượu, thiếu nữ mặc áo hồng đứng lên, rót thêm đầy chén ngọc tử hà, dâng cho Phong Di và
nói :

­ Tiện nữ có mấy câu hát này xin dâng cho Di Nương giải muộn.

Nói xong nàng cất tiếng hát lâng lâng :

Phi y, phi phất lộ doanh doanh


Đạm nhiễm yên chi, nhất đóa khinh
Tự hận hồng nhan lưu bất tục
Mạc cán xuân phong đạo bạc tình.

Dịch :

áo xiêm phất phới giữa sương lam


Một đóa hương hoa phận yếu mềm
Nghĩ trách hồng nhan thường mệnh bạc
Trách chi ngọn gió chẳng thương tình

Tiếng ca lảnh lót, lâng lâng một mối buồn nhè nhẹ... hòa nhịp theo khúc nhạc trúc êm đềm, tưởng như vũ trụ
đang quay cuồng giữa cảnh bồng lai.

Dứt tiếng hát, thiếu nữ mặc áo màu nguyệt bạch lại đứng dậy dâng rượu cho Phong Di rồi ca tiếp một bài
khác :

Hạo thiết ngọc nhan trăng bạch tuyết


Huống mãi đương niên đối phương nguyệt
Trầm ngâm bất cảm oán đông phong
Tự thán dung hoa ám tiêu yết

Dịch :

Tấm thân trong tợ tuyết sương pha


Bát ngát hơi hương dưới nguyệt tà
Nhìn ngọn gió đông không dám trách
Chỉ than cho một kiếp đời hoa

Tiếng hát rít lên như muôn cung đàn rào rạc trong gió lộng u hoài.

Phong Di lúc đó đã say, lòng vẫn có tánh khinh bạc mọi người, nên lòng trắc ẩn nỗi lên, chưa nghe hết câu
đã vội trách mắng :

­ Đêm thanh trăng tỏ, cuộc hội ngộ này đáng lẽ tìm những lời vui vẻ hát ca, sao các cô lại tấu lên những
khúc nhạc nghe bi thảm làm vậy ? Vả lại trong lời hát, ta cảm thấy như có một cái gì hống hách, ngạo mạn,
ta phạt cho mỗi cô phải uống thêm một chén lớn nữa để rồi mỗi người phải hát lên một khúc hát vui vẻ xem
nào ?

Nói xong, Phong Di lại nâng chén uống một hơi.

Lúc bấy giờ hơi rượu đã thắm vào tâm não, Phong Di say liểng niểng, bưng ly rượu ngất ngưởng ngã xiêu
vẹo đổ vào chiếc áo hồng của nàng A Thác, một thiếu nữ ngồi gần bên cạnh.

Nàng A Thác vốn tánh điềm tĩnh, bị rượu đổ vào áo, nàng phật à, nét mặt cau lại trong hơi men đã chếnh
choán, nàng vụt đứng dậy nói :

­ Tại sao lại có những cử chỉ thô lỗ như vầy ? Bữa tiệc hôm nay là bữa liên hoan, phải đâu để dùng quyền
thế mình mà khinh bạc kẻ khác. Các chị ai muốn cầu cạnh thì ở đó, phần tôi, tôi không cần gì đến ai cả.

Nói xong, A Thác đứng dậy rũ áo bước ra khỏi phòng.

Phong Di tái mặt, chỉ tay ra cửa nói :

­ Khốn nạn, nó dám mượn hơi rượu để mà miệt hạ ta như thế sao ? Ta quyết cho một trận để cho nó biết
phận mình.

Nói xong, Phong Di cũng đứng dậy rũ áo bỏ ra ngoài.

Các thiếu nữ đều một mặt khuyên giải :

­ A Thác tuổi trẻ, lại bị say quá nên xúc phạm đến Di Nương, xin Di Nương để đến hôm khác, chúng tôi sẽ
dẫn A Thác đến mà tạ tội.

Phong Di chẳng cần nghe lời can gián của các thiếu nữ kia, mặt hầm hầm bước xuống thềm.

Các thiếu nữ sợ sệt, từ giã Huyền Vi rồi bước theo, vạch hoa đi tản ra tứ phía.

Huyền Vi lấy cớ tiễn khách, bước ra thềm để xem tông tích cá thiếu nữ ở nơi đâu. Nhưng khi Huyền Vi vừa
bước ra đến thềm thì bóng các cô thiếu nữ kia không còn thấy đâu nữa.

Lấy làm lạ, Huyền Vi nghĩ bụng :

­ Những con người áo xiêm ủy mỵ, ăn nói lưu loát như thế chẳng lẽ lại mà ma quái gì hiện đến sao ? Mà
cũng không lẽ ta đã nằm mộng ?

Nỗi thắc mắc tràn ngập trong lòng Huyền Vi. Chàng lảo đảo bước vào phòng thì mâm chén cùng các đồ ăn
lúc nãy cũng đã biến đi đâu mất, chẳng còn lưu lại một vết tích gì; duy chỉ có mùi hương còn phảng phất
chưa phai.

Huyền Vi càng kinh ngạc, nghĩ bụng :

­ Đây hẳn là một điều quái gỡ, tuy nhiên dù sao cũng không đến nỗi tai hại gì.

Nghĩ như thế, chàng an tâm, và cố tìm hiểu xem các cô nàng kia thuộc vào giống gì cho biết.

Chiều hôm sau, Huyền Vi đang thơ thẩn trong vườn. Vừng trăng bắt đầu buông những tia sáng yếu ớt rải
trên các khóm cây cao, chàng thoáng thấy xa xa có bóng đoàn mỹ nhân hôm trước đang quây quần quanh
một thiếu nữ.

Chàng rón rén bước đến. Thì ra các cô kia đang khuyên nàng A Thác nên đến tạ tội với Phong Di.

A Thác vùng vằng nói :


­ Các chị cứ đầu phục mãi cái con mẹ độc ác ấy sao ? Người ta đã không có lòng thương chúng mình thì dù
chúng mình có cầu khẩn đến đâu cũng không ích gì. Tốt hơn chúng ta nên cầu công tử Huyền Vi đây, có tốt
hơn không ?

Vừa nói, A Thác vừa quay lại. Các thiếu nữ đưa mắt nhìn theo. Thấy bóng Huyền Vi, mọi người đều reo lên.
Huyền Vi cực chẳng đã phải ra mặt bước đến.

A Thác bước đến trước mặt Huyền Vi kính cẩn chào và nói :

­ Chị em chúng em đều trú ngụ trong vườn của công tử. Nhưng phận liễu yếu đào tơ không nơi nương tựa.
Hàng năm thường có trận gió đông thổi đến bắt chúng em phải dập liễu vùi hoa. Vì vậy mà chúng em phải
cầu khẩn nàng Thập Bát Phong Di che chở. Tuy nhiên, tánh Phong Di ác nghiệt, thường hay giận hờn, vì thế
tìm đủ lời sách hạch làm chúng em khổ sở vô cùng. Mới đây Phong Di lên mặt giận dữ em, chúng em đoán
chắc thế nào rồi đây chúng em cũng bị một trận trừng phạt. Nếu công tử đoái lòng thương chúng em, che
chở cho chút phận yếu mềm của kiếp đời hoa thì chúng em nguyện ghi ơn muôn thưở.

Huyền Vi hỏi :

­ Tôi làm sao mà che chở cho các cô được ?

A Thác nhanh nhẩu đáp :

­ Cứ mỗi năm vào ngày nguyên đán, chúng em cầu xin công tử làm cho một lá phan màu đỏ, trong đó vẻ
một tấm bùa bát quái trấn ngũ lôi, dựng ở phía đông hoa viên, như thế chúng em sẽ được bình yên ngay.

Huyền Vi nói :

­ Năm nay nguyên đán đã qua rồi, thì còn làm thế nào được.

­ Ngày hăm mốt tháng hai là ngày tết. Nếu buổi bình minh hôm ấy mà có gió thổi nhiều thì nhờ công tử giúp
cho.

Huyền vi mỉm cười nói :

­ Việc đó đâu có khó gì, chỉ sợ công việc giúp ích của tôi không đem lại cho các cô một kết quả nào thì lòng
tôi không an đó thôi.

­ Nếu được công tử nhận lời thì chúng tôi không còn lo gì nữa cả.

Nói xong, các thiếu nữ đều từ giã Huyền Vi, rẽ hoa, thoăn thoắt bước đi. Chẳng mấy chốc bóng các thiếu nữ
đã biến đi đâu mất. Trong vườn chỉ còn mùi hương thoang thoảng, cái thứ mùi hương quen thuộc thường
ngày.

Muốn chiêm nghiệm thử xem những lời nói của các thiếu nữ kia có đúng không, ngày hôm sau Huyền Vi làm
một cành phan màu đỏ, vẽ bùa ngũ lôi chực sẵn ở đó.

Đúng vào ngày hai mươi mốt tháng hai, trời chưa rạng sáng, Huyền Vi đã thức dậy ra vườn.

Giữa lúc ấy quả có luồn gió lốc từ xa thổi đến; ban đầu còn yếu ớt, nhưng mỗi lúc một mạnh dần, sau thành
một trận cuồng phong rất dữ dội.

Huyền Vi lập tức đem cành phan vẽ bùa ngũ lội, dựng về hướng đông theo lời dặn của các thiếu nữ. Bốn bề
cây cối xao động, các cây cao đổ lá tơi bời, bay phất phới như cánh chuồng. Tuy nhiên, trong vườn các cây
hoa vẫn đứng nguyên vẹn và tươi tốt, khoe màu khoe sắc muôn vẻ.

Huyền Vi nghĩ ra một kế, các thiếu nữ kia là kết tinh của các giống hoa. A Thác là tinh hoa Thạch Lựu, còn
Phong Di là nàng gió...
à ! té ra lại có những nàng hoa sống chung trong vườn thưởng thức, nhưng chàng đâu có hiểu.

Chiều hôm ấy, các thiếu nữ, với vẻ diễm kiều, bước đến tạ Ơn :

­ Được nhờ ơn công tử đoái lòng thương, giúp đỡ cho các em thoát khỏi tai nạn, chúng em không có gì để
đền ơn cho xứng đáng. Chúng em có chất Anh hoa đây là kết tinh của muôn hoa, xin dâng cho công tử. Xin
công tử cứ che chở cho các em mãi như thế thì các em có thể trường sinh mà đạt đến địa vị hoa tiên.

Huyền Vi không nỡ từ chối, tiếp nhận tặng phẩm của mấy cô nàng.

Chất Anh hoa ấy quả nhiên quà hóa vô cùng. Mỗi sáng, Huyền Vi dùng một chút với nước trà, tự nhiên thấy
trong người khoan khoái và vui vẻ suốt ngày. Chẳng bao lâu, dung nhan của Huyền Vi bỗng trẻ lại như
người trai trên tuổi đôi mươi.

Sau đó, chẳng ai hiểu rỗ chàng ta đi đâu, chỉ thấy trong truyện còn lưu lại một bài thơ như vầy :

Lạc Trung, Xử Sĩ ái tài ba


Tuế tuế chu phan hội thái hòa
Học đắc xan anh kham bất lão
Hà tu canh mịnh táo vi qua !

Dịch :

Xử Sĩ yêu hoa chốn Lạc Trung


Năm năm dựng một cánh phan hồng
Anh hoa đã nếm mùi bất lão
Dưa, táo cần gì đợi suốt canh !

Say Hoa

Vào đời vua Nhân Tôn nhà Tống, tại thôn Trường Lạc thuộc huyện Bình Giang, có người họ Thu, tên Tiên là
một nhà ẩn dật, tánh ưa sống trong cảnh an nhàn, cô tịch, không màng đến công danh phú quà. Người
người đều gọi chàng ẩn sĩ này là Thu Công.

Thu Công vợ chết sớm, không con, gia tài gồm có mấy mẫu đất cha mẹ để lại, nếu chàng chịu khó chăm sóc
ruộng vườn thì cũng đủ một cuộc sống phong lưu, đàng này Thu Công tánh lại thích trồng các thứ hoa, và
suốt đời cũng chỉ thích có hoa mà thôi.

Do đó bao nhiêu vườn đất, chàng ta trồng hoa cả. Giữa vườn cất một cái trại khá lớn, năm tháng một mình
thơ thẩn vào ra, lo việc trồng tỉa. Nếu kiếm đâu được một vài thứ hoa nào lạ thì chàng còn quà hơn làm tìm
được châu báu.

Lúc nào rảnh rỗi, dạo chơi các miền lân cận, nếu gặp nhà ai có vườn hoa thì chàng nhứt định xin vào xem
cho kỳ được. Nếu người chủ vườn không bằng lòng, chàng ta cũng ở đó nài nỉ mãi, lúc nào được xem mới
chịu đi.

Gặp những giống hoa bình thường, đương tuần hoa nở thì chàng say sưa thưởng thức, còn gặp cái thứ
danh hoa, thôi thì không thể nào mà tả nổi cái cảm khoái của chàng được. Chàng nhứt thiết hỏi mua, dù
bằng giá nào. Nếu không tiền thì chàng cởi áo thế.

Bọn lái hoa biết tánh Thu Công như vậy, cho nên lúc nào chàng ta hỏi mua thì đòi giá rất cao. Tuy nhiên cái
con người sai hoa ấy chẳng bao giờ chịu bỏ qua.

Lại một bọn lưu manh tinh quái, biết Thu Công là người mến hoa, nên đi tìm nhiều thứ hoa rất lạ đem về bán
với giấ rất đắt, làm cho nhiều lúc vì mê hoa mà Thu Công bỏ cả tiền bạc để mua, không còn một đồng trong
nhà, phải nhịn ăn nhịn mặc.

Tháng ngày trôi qua, trong vườn Thu Công góp nhặt đầy các thứ hoa rất lạ và rất quà, nổi tiếng tại đất Giang
Nam.

Quanh vườn một dậu trúc dày, chính giữ nào là trà mi, mộc hương, tảo mai, mộc cẩn, tường vi... Trong đó
có xen lẫn các thứ hoa thục quỳ, phượng tiên, oanh trúc, kim quang... Thật không làm sao mà kể hết được.

Bốn mùa, tám tiết, lúc nào cũng có hoa nở, hoa, đứng ngoài trông vào như một tấm đệm gấm thêu đủ màu.
Cứ mỗi lúc trăng lên, mùi hương xông lên ngào ngạt. Dù người ta đi cách đó hai dặm cũng còn nghe thoảng
mùi hương.

Hai bên ngõ, những cây tòng, cây bá, sắp theo hai hàng lắc lư trước gió, thỉnh thoảng những cánh lá vàng
lác đác bay như những cánh bướm, trông rất ngoạn mục.

Bên trong vút tận xa mờ, lấp sau ngõ trúc quanh co, một ngôi nhà lá ba gian, tuy là thô sơ, nhưng rất sạch
sẽ. Đó là nhà của Thu Công vậy.

Trong nhà không có trưng bày gì lộng lẫy cả.

Giữa thảo đường có treo một bức họa “Khổng Tử vấn lễ Lão Đam”, một bên có một bộ tràng kỷ để một bộ
đồ trà, một bên có một cái bàn để một chiếc đỉnh đồng to lớn, cắm đủ các thứ hoa, bên đó là một chồng sách
cổ.

Trước mặt nhà, trong góc vườn, chúng ta còn thấy một hồ nước xanh dờn, những cành liễu tha thướt rũ
xuống. Đẹp nhất là những đêm xuân, ánh trăng lả lướt rắc màu vàng nhạt trên mặt hồ, lăn tăn nhảy múa,
trông rất ngoạn mục.

Còn về mùa thu, những ngọn gió vàng hiu hắc, các cành hoa là đà chen chúc nhau, phô muôn màu vạn sắc,
xinh đẹp vô cùng. Nếu gặp tiết đông, khí trời ẩm thấp, mưa phùn lã tã, thì những cành liễu buông mành, như
những bức rèm màu sữa, lồng bên trong muôn hồng ngàn tía, như một tấm đệm kim cương.

Cái cảnh tươi đẹp bốn mùa của vườn hoa chàng Thu Công kể sao cho xiết.

Thời đó người ta có làm rất nhiều bài thơ ca tặng, và đây là một trong những bài ấy :

Hồ trung nhất sắc, thủy liên thiên


Bất xướng ngư ca, tức thái liên
Tiểu tiểu mao đường, hoa vạn chủng
Tà dương nhựt nhựt đối hoa miên

Dịch :

Mặt hồ trong vắc, nước im trời


Mấy lá thuyền rơi, lác đác trôi
Lều cỏ thơ thơ, hoa vạn gốc
Bóng chiều soi dấu bóng hoa rơi

Cứ mỗi sáng, Thu Công dậy sớm quét dọn trong vườn rất sạch sẽ, nhặt những cánh hoa rơi bỏ vào một cái
hộp riêng, cất trong phòng rất cẩn thận, xong xách nước tưới cây.

Nếu có cụm hoa nào mới nở, chàng ta mừng rỡ nưng niu, đứng hàng giờ nơi đó để ngắm nghía, có khi
chàng lại đem cả bầu rượu, nhắc ghế đến ngồi bên gốc cây uống say mèm cả ngày như đứng trước một
người bạn tri âm vậy.

Từ lúc hoa hé nở đến lúc hoa nở đều không khi nào Thu Công rời đi đâu nửa bước. Nếu gặp lúc trời nằng,
thì chàng đem nước phun cho cánh hoa tươi. Nếu gặp lúc trời mưa thì chàng kiếm đồ che đậy cho hoa khỏi
đọng nước. Nhất là những lúc gặp gió lớn, Thu Công ngồi đứng không yên, chạy từ nơi này sang nơi khác,
tìm những đồ chống đỡ. Nếu gặp cành hoa nào yếu kiềm không chịu nổi với gió, gãy đi, thì chàng thương
tiếc, hái đem vào cắm ở lọ hoa nơi đầu giường.

Lúc hoa tàn là lúc làm cho Thu Công đau đớn nhất.

Cứ mỗi cành hoa sắp tàn, Thu Công bắc ghế ngồi một bên nhìn hoa than thở cho đến khi hoa héo, rơi xuống
đất, chàng lượm lên đem rửa sạch, cất vào hộp.

Thu Công rất phản đối hành động bẻ hoa cắm vào lọ. Lọ hoa của chàng chỉ dùng cắm những cành hoa rủi ro
bị gãy mà thôi; ngoài ra, những nhánh tươi trên cành không bao giờ bẻ cả.

Chàng nói :

­ Kiếp hoa mỗi năm chỉ nở một lần, trong bốn mùa chỉ chiếm được một, và mỗi mùa chỉ nở trong mấy ngày
mà thôi. Đời hoa đã mong manh như thế, mà khi hoa nở ta lại nỡ đang tay bẻ đi để làm cho hoa kia chóng
tàn thì lòng ta độc ác biết bao !

Vì vậy chàng không bao giờ bẻ hoa, và cũng rất ghét những kẻ bẻ hoa.

Chẳng những vườn hoa của chàng, chàng không muốn cho ai động đến, mà cả những lúc chàng đi đâu, gặp
ai bẻ hoa, chàng cũng phàn nàn, giải thích. Nếu người ấy không nghe thì chàng năn nỉ, cốt làm sao trước
mắt chàng đừng trông thấy cái cảnh mà chàng cho là tàn nhẫn ấy.

Khu vườn của chàng lúc bấy giờ nổi tiếng là đẹp nhất ở Giang Nam.

Nhiều người làm thơ khen tặng :

Tiên quyền viên hề mộ quyền viên


Quyền thành viên thượng bách hoa tiên
Hoa phai mỗi nhật khan bất túc
Vị ái khan niên, bất khẳng niên

Dịch :

Vườn hoa sớm tối chăm nom


Trăm màu khoe sắc một chòm nước mây
Xem hoa chưa thỏa lòng say
Đêm đêm còn đợi nguyệt lay trước thềm

Thời đó, trong thành Bình Giang có một anh chàng họ Trương tên Uỷ vốn con nhà quyền thế, tánh khí lại
ngang tàn, độc ác, dâm đãng.

Suốt năm tháng chỉ cậy vào thế lực mình để hiếp đáp dân lành. Hễ ai có cái gì đẹp thì nhứt định chiếp đoạt
cho được, bất kỳ là vật gì. Cả đến vợ người ta nữa, nếu kẻ nào có chút nhan sắc mà vô phước lọt vào đôi
mắt vọ ấy thì coi như khó thoát.

Dân chúng khắp vùng đều than oán hành động của Trương Uỷ, nhưng biết làm sao. Dân chúng là những
người ngắn cổ, bé miệng đâu dễ gì kêu thấu đến cửa quan, mà có đến chăng nữa cũng chỉ chuốc lấy phần
thiệt thòi vào mình, vì Trương Uỷ là kẻ có thế lực, rất đỗi các quan phủ huyện còn sợ chàng thay, huống hồ
là dân !

Quen thói bạo ngược, Trương Uỷ bao giờ cũng nghinh ngang, dưới mắt không coi ai ra gì nữa. Trong nhà
chàng có nuôi một số thủ hạ, hễ ra đâu gặp kẻ nào can thiệp vào hành động mình, thì Trương Uỷ lập tức hô
bọn thủ hạ kia xúm lại đánh.

Một buổi sớm, Trương Uỷ dắt bọn thủ hạ kia đi qua vùng Trường Lạc, vào quán uống rượu la cà đến say
mèm.

Khi đi ngang qua vườn hoa của Thu Công, Trương Uỷ liếc mắt vào trong, thấy vườn hoa rực rỡ phô đủ trăm
hồng ngàn tía, à muốn vào tìm, nhưng ngõ trúc then gài kín mít, không biết phải làm sao. Giữa lúc ấy có một
người dân làng đi qua, Trương Uỷ gọi lại hỏi :

­ Đây là vườn nhà ai mà quan cảnh tươi đẹp như thế ?

Người dân làng nghe hỏi khiếp sợ kính cẩn đáp :

­ Thưa công tử đó là vườn hoa của Thu Công, một người suốt đời chỉ biết yêu hoa và vun xới cho hoa mà
thôi.

Trương Uỷ cau mày hỏi :

­ Thu Công trước kia có làm chức tước gì không ?

­ Thưa không. Chàng ta lâu nay chỉ là một nhà ẩn sĩ.

Trương Uỷ nghe nói cười híp mắt lẩm bẩm :

­ Tưởng là một vị quan gia gì ton lớn, chứ một thằng dân quèn như vậy thì khó gì mà ta không vào đó để
thưởng ngoạn.

Nói xong đưa tay vẫy bọn thủ hạ theo mình, thẳng đến cửa vườn hoa của Thu Công. Bọn thủ hạ chạy đến
đập cửa ầm ĩ.

Thu Công đang ngồi trong vườn ngắm các cánh mẫu đơn đang hé nhụy, bỗng nghe bên ngoài có tiếng đập
cửa, vội vàng bước ra xem, thấy năm sáu người lực lưỡng, mặt mày đỏ gay, nồng nặc mùi rượu.

Thu Công bước đến hỏi :

­ Các anh có điều gì gấp rút, muốn hỏi đến tôi ?

Bọn thủ hạ trợn mắt hét :

­ Mày là một người dân ở đây mà không biết chúng tao là thủ hạ của Trương công tử hay sao mà hỏi ngớ
ngẩn như thế chứ ? Nay Trương công tử nghe đồn trong vườn của mi có nhiều hoa đẹp nên muốn vào trong
vườn đó để thưởng thức.

Thu Công nói :

­ Trong vườn của tôi không có trồng được cây hoa nào quà lạ, đáng để cho công tử phải nhọc lòng đến, ở
đây chỉ có mấy gốc cây mận, cây đào đều đã cằn cỗi.

Trương Uỷ bước tới chỉ vào mặt Thu Công nói :

­ Nhân dịp ta đi ngang qua đây, muốn ghé vào vườn của mi, đó cũng là một vinh dự cho mi, sao mi lại dám
kiếm cớ từ chối như vậy. Để ta xem thử trong vườn mi có những thứ hoa gì cho biết.

Nói xong, Trương Uỷ hạ lệnh cho bọn thủ hạ phá ngõ mà vào.

Thu Công giận đỏ mặt, nhưng không làm sao ngăn cản bọn người đầu trâu mặt ngựa ấy được. Chúng hò
nhau đập phá một hồi, xô Thu Công té vào dậu trúc, rồi rước Trương Uỷ vào trong.

Trong vườn lúc đó các thứ hoa tuy nhiều, nhưng chỉ có hoa mẫu đơn đang nở thịnh hơn cả. Giống mẫu đơn
này là chúa của muôn hoa, sản xuất tại Lạc Dương, một giống danh hoa quà nhất trong thiên hạ.
Tục truyền rằng, trước kia Vũ Tắc Thiên hoàng đế (tức là Võ Hậu) nhà Đường, hoang dâm vô đạo, rất yêu
hai tên cận thần : Trương Dịch Chi và Trương Xương Tôn. Một chiều đông lạnh lẽo, mưa lác đác rơi, Võ Hậu
ngự giá, xuất du nơi vườn thượng uyển, thấy cây cỏ xác xơ, trăm hoa ủ rũ, trong lòng hằn học đề bốn câu
thơ :

Lai triều du Thượng uyển


Hỏa tốc báo xuân tư
Bách hoa liên dạ phát
Mạc đãi hiểu phong suy

Dịch :

Bãi triều dạo Thượng uyển


Gấp rút báo xuân hay
Trăm hoa đêm nay nơ?
Không đợi gió xuân lay

Trăm hoa chẳng dám trái mạng chỉ trong một đêm mà đua nhau nở khoe đủ muôn màu, ngàn sắc trong khu
vườn bát ngát giữa bầu trời đông giá lạnh mưa phùn.

Sáng hôm sau Võ Hậu dắt hai tên cận thần ra vườn ngắm cảnh, trông thấy các hoa đua nhau hớn hở đón
chào, chỉ riêng có hoa mẫu đơn bướng bỉnh không chịu phụng mệnh gian thần, bạo chúa, nên lá cành đều
khô khan, không nứt ra một chiếc lá non nào. Võ Hậu nổi giận, giáng chiếu đày hoa mẫu đơn xuống Giang
Nam.

Vì thế mà hoa mẫu đơn tại xứ Lạc Dương đẹp nổi tiếng trong thiên hạ. Người đương thời có làm khúc ca
“Ngọc Lâu xuân từ” để ca tụng chí khí khẳn khái, và tán dương vẻ đẹp yêu kiều của hoa mẫu đơn bị luân lạc
rời khỏi mảnh vườn vương giả của đất Thần kinh :

Danh hoa sước ước đông phong là


Chiếm đoạn thiều hoa đô lại thư?
Lao tâm nhất phiến nhả nhân lân
Xuân sắc tam phân sầu vũ tẩy

Ngọc nhân tận nhật yêm yêm địa


Phước lị Ong ca kinh phá trụy
Sạ lâm trang kính tự kiền tu
Cận nhật thương xuân thâu dữ nhĩ

Dịch :

Mẫu đơn say cả đông phong


Cành hoa mơn mỡn màu hồng đẹp xinh
Yêu hoa giữ tấm lòng trinh
Gió mưa vùi dập xuân tình phôi pha

Sớm hôm nét ngọc không nhòa


Sinh ca khắc khoải đời hoa bẽ bàng
Dáng kiều ấp ủ đãi trang
Thương xuân bỡ ngỡ bóng vàng hắt hiu

Khóm mẫu đơn trong vườn Thu Công rất tươi tốt, mỗi cây có trồng một cột gỗ để chống đỡ, bên trên có
dăng một mành vải thưa để che nắng. Mỗi cây cao chừng một trượng, hoa nở to như những chiếc mâm
ngọc, đủ năm sắc.

Trương Uỷ thấy đẹp mắt, vội chạy đến níu một cành hoa để vào mũi ngửi. Trước cử chỉ sỗ sàng ấy làm cho
Thu Công áy náy, chàng chạy đến bên Trương Uỷ nói :

­ Xin công tử đứng xa mà ngắm, đừng động đến nó e bất tiện.

Trương Uỷ nổi giận mắng :

­ Ta hạ cố đến đây là một điều vinh dự cho nhà ngươi. Ngươi đã không đón tiếp lại còn kiếp cớ để chối từ.
Bây giờ ngươi lại còn khinh ta như thế sao ? Khóm mẫu đơn trong vườn hoa của ngươi giá đáng bao nhiêu
mà ngươi dám buông lời lỗ mãng như vậy ?

Nói xong, Trương Uỷ bẻ một cành hoa mẫu đơn để vào mũi ngửi...

Thu Công giận đỏ mặt, nhưng biết Trương Uỷ là tay quyền thế, động đến hắn là có chuyện nên chẳng dám
làm phật lòng, một mặt năn nỉ, nói :

­ Trong vườn tôi chỉ có mấy cành mẫu đơn, công phu tôi vun trồng hàng mấy năm mới có, xin công tử để nó
ở trên cành mà ngắm cho đẹp mắt.

Trương Uỷ chẳng trả lời, quay lại gọi mấy tên thủ hạ bảo :

­ Hoa nở đẹp thế này, thực ít khi được gặp, vậy chúng bay ra quán mua vài hồ rượu đem vào đây khề khà
cho vui để thưởng ngoạn.

Được lệnh, bọn thủ hạ dạ vang.

Thu Công lòng đau nhói, cúi đầu lễ mễ, nói :

­ Thưa công tử nơi đây chật hẹp, nghèo nàn, không có chỗ nơi xứng đáng, xin công tử thưởng hoa xong trở
về phủ yến ẩm cho thuận tiện.

Trương Uỷ nhe răng cười, nhìn xuống đất nói :

­ Trong vườn rộng và mát mẻ thế này lại không đủ chỗ để ta ngồi uống rượu sao ?

­ Mặt đất gồ ghề làm sao công tử ngồi cho được.

­ Cái đó không hề gì. Ta sẽ truyền bọn thủ hạ của ta đem đệm đến mà trải.

Một lúc sau, bọn thủ hạ mang đủ cả rượu thịt và đệp gấm đến. Chúng ngồi chung quanh, vừa rót rượu uống
vừa nói chuyện với nhau toàn là những lời lẽ tục tằn, thô bỉ.

Thu Công ngồi một bên không biết làm sao, phải bịt tai lại.

Du cho Trương Uỷ là kẻ tham tàn, tục tánh, nhưng đứng trước một vườn hoa lộng lẫy muôn màu, mùi
hương bát ngát, chàng không thể không xúc động được. Chàng đưa đôi mắt nhìn quanh bốn phía thấy đâu
đâu cũng phưởng phất như chốn tiên bồng, bèn hỏi Thu Công :

­ Nhà ngươi là kẻ quê mùa, đần độn, dẫu ngươi có công phu trồng tỉa, song ta nhắm ngươi không có tâm
hồn để thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên, vậy ngươi hãy bán khu vườn cho ta.

Câu nói ấy làm cho Thu Công chạm lòng tự ái, không nhịn được nữa, chàng nói :

­ Khu vườn này là tánh mạng, là đời sống của tôi, chỉ khi nào tôi chết đi thì nó mới thuộc về kẻ khác.

Trương Uỷ trợn đôi mắt tròn vo nhìn Thu Công nói :

­ Nếu mi đã không muốn bán thì ta sẽ chiếm không cho mi xem. Xưa nay có vật gì ta muốn mà không được
đâu.

Thu Công mặt giận xám ngắt, chưa nói ra lời thì bọn thủ hạ của Trương Uỷ đã hùa vào nói rối rít :

­ Ngươi không nghe tiếng Trương công tử quyền thế như thế nào sao ? Nếu khôn thì bán đi, kiếm chút ít tiền
mà độ nhựt kẻo bị mất toi, mà lại bị ngồi tù nữa đấy.

Trương Uỷ cười gằn hỏi tiếp :

­ Sao có bán hay không, cứ nói một lời cho ta biết là đủ.

Thu Công không biết làm sao đành phải nói xuôi cho qua chuyện :

­ Nếu công tử muốn mua cũng thư thả để tôi suy nghĩ đã chớ.

Bọn thủ hạ cười vang nói :

­ à ! như thế mới là khôn chứ. Thôi, hắn đã hứa bán rồi thì trước sau cũng về tay công tử, vậy công tử an
lòng, để thư thẻ vài hôm, bây giờ thì cứ uống cho say cái đã.

Nói xong cả bọn thi nhau rót rượu uống vùi. Một lúc sau chúng đã say mèm, không còn uống nổi nữa,
Trương Uỷ mới truyền lệnh :

­ Thôi, dẹp đồ đạc mà về. Nhưng trước khi về ta muốn bẻ vài cành hoa mẫu đơn đem hteo để ngửi cho thỏa
thích.

Trong lúc ấy bọn thủ hạ cuốn đệm, dọn cả ly chén đem đi, còn Trương Uỷ thì sấn đến khóm mẫu đơn loạng
choạng đưa tay bẻ hoa.

Thu Công vội vã chạy đến, xô Trương Uỷ té nhào và nói :

­ Đừng bẻ hoa của tôi.

Trương Uỷ té ngửa muốn le lưỡi, thở hò he như muốn chết giấc, trong lòng tức giận, hô bọn thủ hạ :

­ A ! thằng khốn kiếp này nó dám vô lễ với ta đến thế. Bây áp lại bẻ hết các cành mẫu đơn cho ta.

Bọn thủ hạ chạy lại, đứa thì đỡ Trương Uỷ dậy, đứa thì áp vào bẻ hoa. Thu Công một mình làm sao ngăn
cản được năm bảy đứa, chúng xô Thu Công té nằm dài xuống đất rồi áp lại bẻ sạch mấy cành mẫu đơn.

Tiếc thay ! những cành hoa quà giá kia, chỉ một phút đã tan tác trong bàn của kẻ độc ác, vùi dập trong cát
bụi.

Cảm cảnh ấy, người đương thời có đề một bài thơ như vầy :

Lão quyền, độc thủ gia giao ha.


Thúy diệp, kiều hoa nhứt nhật hưu
Hảo tự nhất ban phong vũ ác
Loạn hồng linh lạc một nhân thu

Dịch :

Bàn tay độc ác buông lơi


Hoa tươi lá biếc rã rời kiếp hoa
Khác chi một trận phong ba
Lòng người thương tiếc lòng hoa tủi hờn
Thu Công nằm lăn lộn trên mặt đất, không ngớt lời chửi rủa. Những người láng giềng nghe tiếng chạy đến,
thấy hoa mẫu đơn tan nát trên mảnh đất, còn Thu Công ôm bụng nằm rên la. Lại thấy Trương Uỷ cùng bọn
tùy tùng mặt giận hầm hầm kéo nhau ra ngõ.

Dẫu lòng họ có biết Thu Công bị áp bức đi nữa, trước mặt Trương Uỷ cũng không một ai dám nói. Họ đợi
cho bè lũ Trương Uỷ đi rồi mới bước đến đỡ Thu Công dậy, khiêng vào trại, rồi kiếm lời an ủi :

­ Tên quỷ sứ ấy đến đâu mà chẳng sanh chuyện lôi thôi. May chỉ có mấy cụm mẫu đơn chứ không nguy hại
đến bản thân cũng là điều tốt đó.

Thu Công mếu máo nói :

­ Mẫu đơn tôi trồng đã bao năm mới nẩy chồi đâm hoa, ấy thế mà vô cớ, chúng lại đến đây đập phá, thực là
ngang ngược.

Các người lân cận nói :

­ Ai chẳng biết Trương Uỷ là tên ngang ngược. Nhưng nếu không nhịn hắn thì rồi lại mang tai. Thà chịu mất
khóm mẫu đơn sau này có thể trồng lại được.

Ôm lòng hậm hực, Thu Công chẳng biết nói sao, đành bước liểng xiểng ra gốc hoa, nhìn những cánh hoa
tan nát, rồi vừa sụt sùi khóc, vừa nhặt những cành mẫu đơn rơi dưới đất đem rửa thật sạch, định phơi khô
để cất vào hộp.

Mọi người thấy vậy, nhìn Thu Công mỉm cười rồi ra về.

Thu Công ngồi lại một mình lẩm bẩm :

­ Hoa ơi ! đời ta chưa hề nhẫn tâm để mi phải chịu một phút phủ phàng. Nay vì bàn tay của quân độc ác đến
đây phá phách làm cho mi phải rời rã, thật lòng ta đau đớn lắm.

Đương than vãn, bỗng chàng giật mình vì đàng sau có tiếng thỏ thẻ :

­ Việc gì mà Thu Công lại thở than, phiền não như thế ?

Thu Công quay lại, thấy sau lưng mình, một thiếu nữ kiều diễm ăn mặt lộng lẫy, môi hé nụ cười, hai hàm
răng ngọc chói ngời, khuôn mặt như trăng rằm tháng tám.

Thu Công hỏi :

­ Tiểu thư ở nơi nào, chẳng hay đến tệ xá có điều gì chỉ bảo chăng ?

Thiếu nữ đáp :

­ Tiện nữ ở cách đây không xa, vì nghe công tử than khóc nên đến đây để hỏi thăm nỗi buồn của công tử.

Thu Công sụt sùi đem chuyện vừa rồi kể lại cho thiếu nữ nghe.

Thiếu nữ thản nhiên, mỉm cười nói :

­ Hoa đã rụng rồi, song nếu công tử muốn hoa rơi được chấp lại đầu cành cũng không khó khăn gì.

Thu Công nghe nói trợn đôi mắt nhìn thiếu nữ với vẻ ngạc nhiên, hỏi :

­ Tôi đang buồn vì những cánh hoa rơi này, sao cô nương lại đến đây để trêu cợt với tôi làm vậy ? Có bao
giờ hoa rơi mà có thể chắp lại.
Thiếu nữ nói :

­ Tôi có học phép chắp hoa, và tôi đã có nhiều lần thực nghiệm.

Lấy làm lạ, Thu Công ngơ ngẩn nhìn thiếu nữ hồi lâu. Tuy trong lòng nghi ngại, song đang buồn bã vì tiếc
mấy đóa hoa rơi, nay lại được người ta nói là có thể chắp lại đầu cành được, trong lòng bừng lên một tia hy
vọng, hỏi :

­ Cô nương không nói đùa đấy chứ ?

Vẫn với nụ cười tươi thắm, thiếu nữ nói :

­ Tôi nói đùa với công tử làm gì. Nếu tôi không chắp lại được, quyết không đời nào thấy mặt công tử nữa.

Thu Công mừng quành, hỏi :

­ Thế thì bây giờ xin cô nương ra ơn cho.

Thiếu nữ bảo Thu Công đi múc cho mình một bát nước trong.

Thu Công y lịnh lểnh mểnh ra đi.

Khi đã múc nước xong, Thu Công bưng bát nước đến gần khóm mẫu đơn thì thấy khóm mẫu đơn kia đã nở
đầy hoa, đóa nào đóa nấy tươi tốt phô đủ màu sắc như cũ. Các mảnh hoa rơi biến đi đâu mất hết.

Thu Công lấy làm lạ, chẳng biết thiếu nữ kia đã có phép gì thần thông thế, nên vội tìm thiếu nữ để tạ Ơn,
nhưng thiếu nữ lại cũng đi đâu mất, chàng tìm mãi khắp vườn hoa mà không thấy đâu cả.

Sau cùng, Thu Công đoán chừng thiếu nữ kia chắc là ra ngoài phía cổng vườn nên vội vã chạy theo. Nhưng
khi ra đến cổng, thì cổng vẫn còn đóng.

Thu Công mở cổng nhìn ra, thấy hai lão già hàng xóm, Ngu Công và Đơn Lão đang ngồi trước bờ sông xem
các người chài đang phơi lưới.

Thấy Thu Công, hai ông già bước đến chào và hỏi :

­ Nghe nói công tử bị Trương Uỷ đến nhà hiếp, phá phách vườn tược, nhưng chúng tôi đang ở ngoài đồng
chưa đến thăm kịp, xin công tử miễn thứ.

Thu Công cảm tạ và hỏi :

­ Chẳng hay hai ngài có thấy cô thiếu nữ mặc đầo trắng vừa mới ở trong vườn tôi bước ra đây không ?

Hai ông già ngơ ngác đáp :

­ Chúng tôi ngồi đây từ sớm đến giờ nào có thấy ai đi ra đâu ?

Thu Công lấy làm lạ, bấm trán suy nghĩ một hồi lâu, không nói. Hai ông già hỏi :

­ Chẳng hay người thiếu nữ ấy là ai, đã làm gì mà công tử lo lắng đến thế.

Thở ra một hơi dài, Thu Công đưa mắt ngơ ngàng nhìn trời nói :

­ Nếu thế thì nàng này không phải là người phàm, mà là một vị thần thánh gì đây.

Thu Công đem đầu đuôi câu chuyện mình gặp người thiếu nữ ráp hoa đầu cành kể lại cho hai ông lão láng
giềng nghe.
Hai ông lão nghe xong cũng lấy làm lạ, yêu cầu Thu Công cho phép vào vườn hoa để xem hư thật. Thu
Công dẫn hai ông già vào.

Quả nhiên, trên cành hoa mẫu đơn nở dầy đặc, mỗi đóa hoa to bằng chiếc mâm lớn, rực rỡ màu tươi. Hai
ông lão luôn mồm khen ngợi và nói :

­ Nếu vậy thì đúng là thần thánh đã cảm lòng chân thành của công tử nên hiện đến để làm phép lạ đó.

Thu Công cảm động, vào nhà lấy ra mấy nén hương đốt lên và van vái, cảm tạ thần linh đã chiếu cố đến
mình.

Hai ông lão nói :

­ Sáng mai tin cho Trương Uỷ để chúng nó đến đây mà xem, cho nó xấu hổ chết đi cho rồi.

Thu Công xua tay nói :

­ ấy chết ! Cái giống sài lang ấy chúng ta cần phải tránh xa nó đi. Vì khiêu khích với nó chẳng ích lợi gì đâu.

Hai ông già nghĩ một lúc rồi khen phải. Thu Công rất vui mừng, vào nhà xách bình rượu ra, mời hai ông già
lân cận cùng với mình ngồi dưới gốc mẫu đơn uống vùi cho đến tối, trao đổi nhau câu chuyện tâm tình.

Khi bầu rượu đã cạn, câu chuyện đã tàn, hai ông lão mới từ giã Thu Công ra về. Lúc ra đường, hai ông lão
này gặp ai cũng vui vẻ kể lại câu chuyện trong vườn hoa của Thu Công. Vì vậy chẳng mấy chốc, khắp trong
vùng đều rõ câu chuyện kỳ lạ ấy...

Sáng hôm sau, mọi người trong thôn xóm hay được tin đều kéo nhau đến xem. Họ sợ Thu Công không chịu
mở cửa vườn. Nhưng không, lần này Thu Công rất niềm nở, không khó tánh như trước kia nữa.

Chàng ta tự nghĩ rằng việc đời nên hư do trời định, không phải ai muốn làm hại mà được. Đến như bọn
Trương Uỷ, độc ác như thế mà vẫn chưa làm tan nát được vườn hoa chàng thay.

Do đó, lúc dân làng đến xin vào xem, Thu Công tiếp đón mời vào rất nồng hậu. Ông ta nói :

­ Xin mời các ngài nếu muốn vào xem hoa thì cứ tự tiện, miễn đừng bẻ hoa là được.

Trong lúc đó, Trương Uỷ vì bữa trước uống rượu say, lại bị Thu Công xô té, nên trong mình đau đớn như
dần. Đêm ấy chàng ngủ say mèm không hay biết gì hết.

Sáng ra, lúc tỉnh rượu Trương Uỷ trong lòng căm tức, kêu bọn thủ hạ nói :

­ Ta từ lớn đến bây giờ chưa một ai dám trái à ta. Nay thằng Thu Công, một đứa hư danh lại dám vô lễ như
vậy, nếu ta không trừ được nó thì bao nhiêu oai quyền của ta từ trước đến nay đều mất hết.

Bọn thủ hạ nịnh dọc :

­ Lệnh công tử xưa nay có đâu dám chẳng tuân. Nếu hôm qua công tử ra lệnh thì chúng tôi đã đánh chết nó
mất rồi.

Trương Uỷ nói :

­ Hôm nay chúng ta đến nữa để hỏi mua khu vườn, nếu nó bằng lòng bán thì thôi, bằng không chúng bay
phá cho tan hoang hết đi, thử xem nó làm gì cho biết.

Bọn thủ hạ reo lên một lượt, kéo nhau ra cửa.


Trương Uỷ lểnh mểnh theo sau. Khi gần đến nơi, bọn thủ hạ nghe người ta kể lại câu chuyện thần tiên giáng
hạ trong đêm vừa rồi, làm cho hoa bị phá hủy trở lại liền cành như cũ. Chúng thất kinh báo lại với Trương
Uỷ.

Trương Uỷ nói :

­ Khéo đặt chuyện. Rõ là một âm mưu của Thu Công rồi. Vì nó sợ ta đến đó phá phách cho nên nó đặt điều
nói như thế để ta không dám đến đó thôi. Chúng bay cứ đi, không hề gì hết cả.

Khi đến cổng vườn hoa, bọn Trương Uỷ thấy cửa vườn mở rộng, dân chúng tấp nập ra vào, ai ai cũng đều
nói y như vậy.

Bọn thủ hạ đứa nào đứa nấy rởn tóc gáy. Trương Uỷ trong lòng cũng sợ sệt, nhưng chẳng lẽ lui bước để
cho thiên hạ cười chê, bèn làm gan xốc tới, hô kẻ thủ hạ theo mình :

­ Hèn nhát như chúng bây thì làm gì được việc. Dẫu cho có thần tiên ngồi trong vườn ta há sợ sao !

Đi vòng quanh mấy luống hoa, Trương Uỷ quả thấy mấy khóm mẫu đơn bị phá hủy hôm trước nay lại hoàn
như cũ. Các đóa hoa tươi tốt khoe màu dưới nắng xuân, như đang mỉm cười ngạo nghễ trước mắt bọn dã
tâm ấy.

Tuy trong lòng sợ sệt, song vẫn làm ra vẻ thản nhiên, Trương Uỷ nhìn ngắm một hồi rồi loay hoay ra một ác
à. Kẻ có lòng gian ác bao giờ cũng chực sẵn những âm mưu sâu độc trong lòng.

Trương Uỷ kêu bọn tùy tùng nói :

­ Thôi, chúng ta đi hè !

Bọn thủ hạ ngạc nhiên không rõ à định của Trương Uỷ như thế nào, trố mắt hỏi lại :

­ Đi sao ?

­ ừ, đi.

­ Thế công tử không chất vấn hắn về việc bán vườn nà ?

Một nụ cười đanh ác nở trên môi, Trương Uỷ nhìn bọn thủ hạ nói :

­ Không cần phải hỏi đến hắn làm gì... Khu vườn này sớm muộn cũng về ta.

Vốn biết Trương Uỷ là đứa gian ác, đa mưu túc kế, bọn thủ hạ không lấy làm lạ trước thái độ thay đổi bất
ngờ của chàng, song muốn biết chủ mình sẽ thực hiện âm mưu nào, nên vội hỏi :

­ Công tử sẽ thực hành diệu kế nào vậy ?

Trương Uỷ vừa kéo bọn chúng ra ngõ, vừa nói :

­ Hiện nay Vương Tắc ở Bối Châu mưu phản triều đình, chuyên dùng tà thuật để mê hoặc lòng dân, kết bè
kết cánh. Khắp các châu, quận đang có lệnh nã tróc yêu nhân rất gấp. Người nào bắt được yêu thuật thì
được thưởng ba ngàn. Ngày mai, ta sẽ đem việc “hoa rụng về cành” báo cho phủ đường, trong tờ tố cáo
thêm vài chi tiết quan trọng thì thế nào hắn cũng bị bắt.

Một tên bộ hạ vỗ tay khen hay, và nói tiếp :

­ ít ra công tử cũng phải tố giác hắn về tội mưu loạn thì hắn mới bị tội nặng chứ.

­ Dĩ nhiên như vậy rồi. Mà một khi hắn đã bị tội thì khu vườn của hắn phải bị tịch thu đem ra phát mãi.
Chừng đó ai dám tranh với ta. Chỉ nội ba ngàn đồng bạc thưởng, ta cũng đủ mua lấy khu vườn kia rồi.

Bọn thủ hạ đồng reo lên :

­ Thật là diệu kế. Thế thì ngày mai công tử phải thi hành gấp việc này mới được chứ.

Trương Uỷ suy tính rồi nói :

­ Mưu tính ấy rất hay, song ta muốn tránh tiếng đừng để người ngoài biết. Vậy thì ta làm đơn, để một người
trong chúng bay đứng tên đưa đến phủ đường. Phần ta, ta sẽ vận động bên trong.

Trương Bá một tên thủ hạ, nghe nói ứng lên :

­ Thưa công tử, xin công tử để tôi đứng tên tố cáo cho.

­ Được, nếu mày làm việc đó thành công ta sẽ trọng thưởng.

Sáng hôm sau, Trương Uỷ thảo đơn, đưa cho Trương Bá đem nạp vào phủ đường.

Gặp lúc quan phủ được lệnh trên nã trác những người tà thuật thi đua với các quận huyện khác để đoạt tiền
thưởng. Khi gặp lá đơn của Trương Bá đút vào, quan phủ vội vàng ra lệnh phái bọn hộ dịch đi bắt Thu Công
lập tức.

Trương Uỷ lại đi tay trong, đón bọn hộ dịch dặn dò to nhỏ và cho thêm tiền bạc để bọn này đến đó hoành
hành ; một mặt, Trương Uỷ dẫn bọn thủ hạ của mình hùa theo.

Bọn hộ dịch đi thẳng đến vườn Thu Công. Lúc đó Thu Công đang săn sóc mấy khóm hoa trong vườn, thấy
trước cổng tụ tập đông người, tưởng dân chúng đến xem hoa, không để à. Mãi đến khi chúng hò hét, xô ngõ
vào, áp đến thộp cổ, Thu Công mới ngạc nhiên đứng sững sờ, hỏi :

­ Tôi có tội gì mà các người lại đến bắt tôi ,

Khi ấy một bầy quỷ sứ, bọn hộ dịch xỉ vào mặt Thu Công mắng nhiếc :

­ Mày là một yêu nhân phản tặc toan mê hoặc lòng dân để gây loạn triều đình. Nay có lệnh trên nã tróc mi về
trị tội, mi chưa biết thân còn làm ra kẻ ngớ ngẩn à ?

Chúng không để cho Thu Công phân trần một lời nào hết, đứa trói tay, đứa trói chân, đứa nắm đầu lôi ra
khỏi cổng.

Xóm giềng thấy thế thất kinh, bu quanh để hỏi thăm sự việc. Bọn công sai hò hét :

­ Các người muốn liên can với tên bạo loạn này hay sao mà xúm nhau đông đảo như vậy.

Ai nấy nghe nói đều sợ sệt cho thân phận mình, vội lảng tránh ra nơi khác. Duy chỉ có hai ông già Ngu Công
và Đơn Lão xưa nay vốn ái mộ Thu Công, nay thấy Thu Công bị áp bức trong lòng như dao cắt không nỡ bỏ
đi.

Bọn công sai thấy thế chỉ vào mặt hét :

­ Hai lão già này muốn bắt về nha một thể à ?

Ngu Công và Đơn Lão nghe nói hoảng sợ, bỏ đi.

Lúc bọn công sai giải Thu Công đi rồi, Trương Uỷ và những đứa tùy tùng nhân cơ hội ấy vào trại Thu Công
lục lạo, vơ vét hết cả đồ đạc. Lấy xong khóa cửa vườn rồi trở về. Thật là một bọn tham tàn vô đạo.
Bọn công sai dẫn Thu Công về đến phủ đường giao cho giám ngục. Tên giám ngục này vì có ăn tiền của
Trương Uỷ nên hành hạ một cách tàn nhẫn.

Đêm ấy, quan phủ bận việc chưa tra hỏi được, nên giám ngục tống cổ Thu Công vào phòng giam, cùm cả
hai tay hai chân không cho nhúc nhích. Lại còn dùng roi đánh cho mấy cái vào mặt. Thu Công chân tay đau
nhức cả đêm rên siết không ngủ được tí nào.

Trời lờ mờ sáng... Tiếng trống vừa điểm. Quan phủ thăng đường truyền dẫn Thu Công đến. Thu Công mặt
mày sưng húp, lễ mễ đứng trước viên quan phủ, định dùng lời để kêu oan, nhưng viên quan phủ đã vỗ bàn
hét to :

­ Mi là yêu tinh xứ nào lại dám đến đây mê hoặc lòng dân để mưu tạo loạn ?

Câu nói ấy làm cho Thu Công choáng váng, không biết tội lỗi ấy do đâu mà có, vội vã tường trình :

­ Thưa, tôi là người dân thôn Trường Lạc, lâu nay vẫn ở đây, đâu phải yêu tinh ở xứ nào ? Khắp trong vùng
ai ai cũng biết tôi là kẻ lương thiện làm ăn, xin ơn trên suy xét.

Quan phủ vỗ bàn hét :

­ Hôm trước mi dùng tà thuật, ráp hoa rơi trở lại liền cành khắp vùng ai ai cũng biết, chứng cớ ấy đã hiển
nhiên rằng mi muốn gây loạn, phá rối an ninh, mi còn dám chối nữa sao ?

Thu Công ngạc nhiên đoán biết Trương Uỷ tố cáo, vu oan để muốn hại mình, vội vàng ứng khẩu kể lể tất cả
các hành động phá phách của Trương Uỷ nơi vườn hoa mình. Song Thu Công kể chưa được mấy câu, viên
quan phủ đã đập bàn hét lớn, làm cho Thu Công phải im bặt.

Thì ra quan phủ cũng đã được Trương Uỷ bẩm trước, và ông này cũng thuộc vào hạng người ô trọc tham
lam vàng bạc không kể đến công là.

Quan phủ nói :

­ Mi đừng chối cãi nữa. Đúng mi là một yêu nhân làm loạn. Nếu mi không chịu cung khai hành động phá rối
của mi, mi sẽ tan xác tức thì.

Thu Công mới ú ớ, thì quan phủ đã vỗ bàn, hô lính đến bắt Thu Công đem tra khảo. Bọn công lại dạ vang,
áp đến vật Thu Công xuống, đứa dằn đầu đứa dằn chân, trông rất khủng khiếp.

Quan phủ mặt hầm hầm, vừa bước tới cầm trượng, toan đánh Thu Công thì bỗng ông ta mặt mày choáng
váng, té xỉu xuống đất. Tất cả công lại trong phủ đều thất kinh, xúm đến đỡ quan phủ dậy, lay gọi một hồi
lâu, ông ta mới tỉnh.

Lúc tỉnh lại, mặt mày quan phủ còn lơ láo, nhìn chung quanh như kẻ mất hồn. Một tên công sai vào bẩm :

­ Bẩm quan lớn, bây giờ tên Thu Công phải làm thế nào ?

Nhìn tên công sai một lúc, quan phủ mới mở miệng nói được một câu :

­ Đem nó nhốt vào ngục, ngày mai sẽ xét xử.

Nói xong quan phủ vào phòng riêng, nằm vật trên giường. Bên ngoài, bọn công sai lôi Thu Công đi xền xệt.

Thu Công mặt buồn rười rượi. Ra đến cổng phủ đường, Thu Công thấy Trương Uỷ và bọn thủ hạ tụ tập nơi
đố để nghe ngóng. Thu Công tức giận, nhìn vào mặt Trương Uỷ mắng:

­ Trương Uỷ, ta với mi lâu nay không thù oán, sao mi nỡ nào vu oan cho ta để ta phải chịu cảnh cực hình
này.
Trương Uỷ nhìn thẳng vào mặt Thu Công khúc khích cười. Một giọng cười đầy nham hiểm, đanh ác.

Thu Công quá tức giận, nhưng không biết làm sao, nói rằng :

­ Mi cố làm cho ta chết để mi chiếm đoạt vườn hoa của ta phải không ?

Trương Uỷ bĩu môi rồi lặng lẽ dắt bọn thủ hạ ra đi, không đáp. Giữa lúc đó có hai ông già, Ngu Công và Đơn
Lão thấy bọn công sai dẫn Thu Công ra vội chạy đến hỏi thăm.

Thu Công kể lại đầu đuôi sự việc của mình. Hai ông già xít xoa nói :

­ Công tử đừng lo. Công tử bị hàm oan như vậy, ngày mai thế nào chúng tôi cũng rủ nhau đến công đường
để kêu oan cho công tử.

Thấy tấm lòng chân thật của hai ông lão, Thu Công cảm động khóc sướt mướt, nói :

­ Cảm ơn hai ngài có lòng tốt nghĩ đến tôi, ơn ấy tôi không lấy gì đền đáp được. Song đây là tai vạ đến với
tôi, xin các ngài chớ có vì thương tôi mà mang họa vào thân. Bọn Trương Uỷ nay rất thân thế, khó mà kêu
oan lắm.

Thu Công nói vừa dứt lời thì bọn công sai đã kéo cổ đi, không cho nói nữa. Hai ông lão thấy vậy rơi lụy dầm
dề, nhìn Thu Công từ từ bước đi vào ngục.

Khi Thu Công đã khuất bóng, hai ông già vội vàng chạy ra chợ mua bánh trái, rượu thịt đưa vào ngục để
tặng Thu Công. Bọn công sai trông thấy rượu thịt cười híp mắt, tiếp lấy và nói rối rít. Chúng chờ cho hai ông
già ra về, chia nhau ăn uống chứ không đưa cho Thu Công.

Thu Công đêm ấy nằm đói trong ngục, chân tay bị cùm cứng ngắt, không cựa quậy được chút nào. Dần dần,
vì quá mỏi mệt, ông ta thiếp đi.

Trong cái giấc ngủ nặng nề ấy, Thu Công nằm mộng thấy mình nhẹ nhàng tung tăng chạy nhảy trong khung
trời rộng bao la, gió núi mây ngàn.

Bỗng dưng chàng thấy nàng thiếu nữ hôm nọ, nàng thiếu nữ đã gặp chàng nơi vườn hoa, và chắp những
cánh hoa rơi liền lại nơi đầu cành.

Thu Công mừng rỡ gọi to :

­ Xin cô nương cho biết cô nương là ai ? ở đâu vậy ?

Thiếu nữ mỉm cười, bước tới nói :

­ Chẳng hay công tử có muốn thoát khỏi cảnh gông cùm cả tinh thần lẫn thể xác không ?

Câu nói ấy làm cho Thu Công cảm thấy mơ màng nhớ lại mình đang mắc một tai nạn gì đây, vội quỳ xuống
hỏi :

­ Chẳng hay nương tử có phải là một vị tiên giáng trần để ban ơn cho tôi hay không ?

Thiếu nữ se sẽ đáp :

­ Thiếp không phải là tiên, phật, thần thánh gì cả, thiếp chỉ là tinh anh của muôn hoa kết thành, và ở ngay
trong vườn hoa của công tử. Thấy công tử quà trọng bạn bè của thiếp, nên thiếp đền ơn đó thôi.

Thiếu nữ vừa nói đến đó vụt biến mất. Thu Công thất kinh, toan chạy theo, bỗng lúc đó tiếng kiểng tù khua
vang làm cho Thu Công giật mình tỉnh dậy, mồ hôi ướt đẫm. Thu Công thấy tay chân mình vẫn còn cùm chặt
cứng. Chàng mới biết mình vừa nằm mộng, nên buông tiếng thở dài buồn bã.

Chàng nằm lẳng lặng nghe từng hơi thở của mình. Bên ngoài bọn quân canh ăn nhậu say sưa ngủ khì, tiếng
ngáy vo vo.

Mãi cho đến khi mặt trời mọc lên cao, Thu Công mới thấy một vài thằng hé cửa ngục bước vào ném cho Thu
Công một vắt cơm và một hũ nước, nhướng mắt nhìn chiếc cùm một lúc rồi lặng lẽ bước ra không nói gì cả.

Thu Công cũng cứ nằm ì ở đấy, không thèm hỏi han gì. Lúc này chỉ có thầy trò Trương Uỷ là vui vẻ nhất vì
chúng hay được tin Thu Công bị ghép vào tội yêu nhân phiến loạn.

Trương Uỷ nói với bọn thủ hạ :

­ Thằng giặc ấy đã bị ghép vào tội phiến loạn thì sớm tối nó cũng phải chết. Vườn hoa kia thế nào cũng phải
về tay ta.

Bọn thủ hạ nói :

­ Chỉ tiếc là chẳng biết bao giờ quan phủ mới cho đấu giá để thầy trò mình sớm được thưởng ngoạn.

Trương Uỷ mỉm cười nói :

­ Cần gì. Hiện nay nó đã nằm trong ngục rồi, nếu chúng ta muốn vào vườn thưởng ngoạn lúc nào mà chẳng
được.

Bọn thủ hạ reo lên :

­ Như thế thì sung sướng biết bao ! Hôm trước vì thái độ cổ quái của tên giặc ấy làm cho chúng tôi cụt hứng.
Nay nếu công tử chịu dắt chúng tôi đến đó để tự do dạo trong vườn thì còn gì thú hơn.

Làm ra vẻ đắc à, Trương Uỷ truyền cho bọn thủ hạ đem rượu thịt cùng các vật dụng thẳng đến vườn hoa
Thu Công.

Những người lân cận trông thấy bọn Trương Uỷ đến đều sợ sệt, bỏ đi nơi khác. Khu vườn vắng tanh, không
một tiếng động.

Trương Uỷ dắt bọn tùy tùng ồ ạt kéo vào. Lạ thay, lúc ấy hoa mẫu đơn trong vườn đều khô héo, rụng bừa
bãi, cành lá khô đét, không còn lấy một đóa hoa nào.

Trương Uỷ lấy làm lạ, nói với bọn tùy tùng :

­ Mẫu đơn hôm nọ đã trổ lại đầu cành, nở sum sê, đủ màu tươi thắm, thế mà hôm nay lại tàn tạ ! Như vậy
quả Thu Công dùng tà thuật chi đây rồi.

Bọn thủ hạ nghe nói, đứa nào đứa nấy xanh mặt, hỏi :

­ Thế thì thầy trò chúng ta nên trở về đi là hơn.

Trương Uỷ lắc đầu :

­ Đã đem rượu thịt đến đây dầu không có hoa, chúng ta cũng cứ ăn uống cho vui, tội gì mà mang trở về.

Nói xong truyền bọn thủ hạ trãi đệm ngồi dưới gốc hoa chè chén. Tuy mẫu đơn khô héo, rơi rụng đầy đất,
song nhờ khu vườn cây cối rậm rạp, gió hiu hiu thổi nên Trương Uỷ thấy tâm hồn mình cũng khoan khoái.

Chàng ta rót một ly rượu đầy bưng cho tên thủ hạ Trương Bá và nói :
­ Thu Công bị hạ ngục, ấy là công của mi đã cố gắng tận tâm giúp sức ta, vậy ta thưởng cho ngươi một chén
đây.

Trương Bá nâng ly rượu nốc một hơi, thở khà ra, nói :

­ Nếu phải vì công tử mà thác thì bọn tôi cũng vui lòng huống chi một chút việc như vậy có đáng vào đâu.
Song công tử đã ban ơn, tôi không dám từ chối.

Nói xong, Trương Bá lại nốc một hơi nữa cho đến cạn chén. Sau đó, cả bọn xúm nhau ăn uống vui cười mãi
cho đến lúc mặt trời chen lặn, đứa nào đứa nấy say tít.

Trương Uỷ muốn ra về thì bỗng một luồng gió thổi đến nghe lành lạnh, làm cho tất cả các bông hoa rơi trên
mặt đất bay đi đâu mất.

Tiếp đó một đoàn thiếu nữ cao độ một thước, chẳng biết từ đâu hiện đến đứng bao quanh bọn Trương Uỷ,
mắt nhìn chúng chòng chọc. Thầy trò Trương Uỷ thất kinh, hoảng vía, run cầm cập. Có đứa líu lưỡi không
nói được, rét lên như tiếng kêu của loài ác thú.

Một luồng gió thứ hai thổi đến, đoàn thiếu nữ kia bỗng cao lớn như người thường, mặt mày sáng rỡ nước da
mịn màng, ăn mặc lả lướt, cô nào trông cũng xinh đẹp bội phần.

Nếu trong trường hợp thường, thì trước những cặp má đào mơn mởn ấy, Trương Uỷ làm sao khỏi động lòng
ham muốn, nhưng ở đây, chàng ta run như một con thằn lằn đứt đuôi, đứng trân trân không nói ra lời.

Một cô thiếu nữ trong bọn, nhìn các cô kia nói :

­ Chị em chúng ta sống nơi đây bao năm rồi, nhờ Thu Công thăm nom săn sóc, che chở cho. Nay bỗng
nhiên tên vô loại này đến phá phách chúng ta, lại còn vu oan Thu Công để chiếm vườn hoa này. Thế thì hôm
nay chị em chúng ta đã gặp được kẻ thù trước mắt, chúng ta phải rửa hận, trước là trả nghĩa cho Thu Công,
sau là phải tự bảo vệ lấy mình chứ !

Các thiếu nữ kia đồng reo lên một lượt, tỏ à tán thưởng lời đề nghị ấy. Chỉ trong nháy mắt, đoàn thiếu nữ
vây phủ chung quanh bọn Trương Uỷ, xiêm áo tha thướt, dáng điệu mềm mại, múa tưng bừng.

Nhưng lạ thay ! Những tà áo lướt thướt kia vung vút tung ra những luồng gió lạnh buốt, quất vào bọn Trương
Uỷ như những luồng điện đánh vào người, đau thấu xương.

Bọn thủ hạ của Trương Uỷ hét lên, run cầm cập, mạnh đứa nào đứa nấy tìm đường mà chạy. Mặt mày tối
sầm, chúng va vào những gốc cây, té liểng xiểng.

Sau trận gió, các thiếu nữ đã biến đi đâu mất. Bọn thủ hạ của Trương Uỷ mới lòm còm bò ra khỏi cổng vườn
kiểm điểm lại thì không thấy Trương Uỷ và Trương Bá đâu cả.

Chúng hoảng kinh, song không dám trở vô vườn hoa nữa, nên tri hô với hàng xóm. Lúc đó trời đã bắt đầu
tối, khu vườn tỉnh mịch ấy lại lặng ngắt, trong cảnh hoang vu ấy ai cũng phải khiếp vía.

Các người hàng xóm nghe tiếng la cầu cứu vội chạy đến. Bọn thủ hạ của Trương Uỷ rối rít kể lại câu chuyện
đầu đuôi gốc ngọn. Mọi người thắp đuốc vào vườn.

Sau khi tìm khắp nơi, đến bên hồ nước họ nghe tiếng người rên rỉ, nhưng hình như đã kiệt sức. Hai ông già
Ngu Công và Đơn Lão lúc đó cũng có mặt trong đám hàng xóm, thấy thế trong lòng thích thú lắm.

Ngu Công nói nhỏ với Đơn Lão :

­ Cái bọn ác quỷ này ngày đêm cứ lo việc vu oan, giá họa cho dân lành để mong chiếm đoạt tiền của, sắc
đẹp. Nay chúng phải cái tai nạn này kể ra cũng đáng tội. Chúng ta tội gì mà tìm kiếm cho mệt.
Đơn Lão đáp :

­ Đành vậy, nhưng chúng ta hẳn tìm xem chúng nó bị tai nạn gì cho biết.

Hai người nói đến đây thì thấy hai tên thủ hạ của Trương Uỷ theo sau rụt rè bước đến. Ngu Công chỉ tay ra
đàng trước nói :

­ Kìa, trước mặt chúng ta có tiếng ai rên rĩ đó. Vậy hai ngươi hãy bước đến đó xem sao.

Hai tên kia rụt đầu, le lưỡi nói :

­ Nhờ các ngài đến xem chứ chúng tôi vừa bị một trận đến bây giờ chưa hết sợ.

Đơn Lão cười thầm :

­ A ! té ra mấy chú được cái mạnh dạn là lúc bình thường, đi phá phách thiên hạ, còn lúc nguy biến lại co
đầu rút cổ !

Nói xong ông ta bước đến chỗ có tiếng rên, tìm kiếm một lúc mới bắt gặp một người máu me ràng rụa, quần
áo dính đầy đất cát, đang nằm bên gốc cây dương thở thoi thóp.

Lật mặt người ấy lên, Đơn Lão nhận ra là Trương Bá, bèn hô to :

­ Trương Bá đây rồi bà con ơi !

Mọi người chạy đến đỡ Trương Bá dậy, xét thấy thương tích khá nặng, liệu bề khó mà cứu chữa, nên giao
cho hai tên thủ hạ của Trương Uỷ khiêng Trương Bá về nhà.

Tiếp đó mọi người lại lục soát khắp khu vườn để tìm Trương Uỷ. Tìm khắp nơi không nghe tăm hơi gì nữa
cả, mọi người muốn ra về, bỗng Ngu Công chạm phải một vật gì mềm nhũn, giật nẩy người, hét to :

­ Cái gì thế ?

Đơn Lão vội chạy lại, cầm đuốc soi, thì ra một người đang cắm đầu vào vũng bùn, dưới gốc cây đào. áo
quần người ấy tuy sang trọng, song lấm đầy đất cát.

Mọi người xúm nhau vực xác lên thì mặt mày không ai còn nhận định được nữa. Cái xác ấy đã chết đờ tự
bao giờ rồi.

Ngu Công lấy tấm khăn vấn cổ của mình lau cho nạn nhân, bỗng ông ta hốt hoảng la to :

­ Công tử đây rồi !

Thật thế, cái xác chết ấy đúng là Trương Uỷ.

Hàng xóm xúm lại bàn tán rất xôn xao.

­ Tại sao Trương Uỷ lại cắm đầu trong vũng bùn mà chết như vậy ?

Có kẻ thì thầm :

­ ác nhơn ác báo. Sống ở đời tàn ác thì lúc chết như vậy.

Có người nói :

­ Có lẽ khu vườn này linh thiêng lắm nên mới có sự báo oán ghê gớm như vậy. Thôi chúng ta hãy trở về kêu
vợ con của hắn đếnđ ây mà nhận xác đem về chôn cất, còn chúng ta đi báo cho quan trên biết.
Mọi người nghe lời, xúm nhau ra về, làm đơn tả tự sự, và nói rõ hành động của thầy trò Trương Uỷ từ trước
đến nay để minh oan cho Thu Công.

Vợ con Trương Uỷ hai được tin chạy đến khóc sướt mướt, rồi lo y quan tẩm liệm cho chồng. Còn Trương
Bá, vì vết thương quá nặng, rạng ngày hôm sau tắt thở. Hai đám táng của hai kẻ vô lương cùng chung một
lúc. Thiên hạ được dịp nguyền rũa không tiếc lời.

Lúc này bọn thủ hạ của Trương Uỷ như rắn mất đầu, không còn chỗ nương tựa, sợ khiếp vía, không dám ra
khỏi nhà.

Hôm sau, viên tri phủ khỏi bịnh thì ông ta vừa tiếp được lá đơn của hàng xóm hạch tội Trương Uỷ để minh
oan cho Thu Công. Cả bọn công sai cũng tường trình lại cho viên tri phủ nghe cái chết ly kỳ của Trương Uỷ
và Trương Bá.

Bây giờ quan phủ mới thức tỉnh, liền hạ lệnh tha cho Thu Công khỏi tội, lại ra cáo thị cấm mọi người không
được vào vườn hoa của Thu Công, nếu không được Thu Công đồng à.

Thu Công tạ Ơn tri phủ, và cảm kích mối tình nồng thắm của lâng bàng, nhứt là hai ông già Ngu Công và
Đơn Lão.

Thu Công cùng mọi người ra về.

Khi về đến vườn hoa, thì lạ thay, hoa mẫu đơn đua nở muôn màu, mười phần tươi tốt, hương xông ngào
ngạt, cành lán xanh dờn, lắc lư trước gió như hớn hở đón chào người bạn cũ.

Thu Công mời tất cả lâng bàng đến, bày tiệc rượu đãi đằng, để đền đáp ơn sâu.

Từ đó, Thu Công đêm ngày đóng cửa vườn tu luyện phép “thổ nạp dưỡng sinh” của người luyện khí.

Rồi một sớm, ông ta bỏ nhà đi mất, không bao giờ còn thấy trở về nữa.

Giấc Mộng Hèn Sang

Vào năm Thiệu Hưng đời Tống, tại Lâm An, kinh đô hoa lệ của Đông phương, tuy là hàohoa tráng lệ, song
những kẻ hành khất rất đông.

Trong bọn hành khất có bầu ra một “Đầu nậu”, có nhiệm vụ cai quản, xét xử lấy họ. Cứ hàng ngày, bọn ăn
xin đi xin được bao nhiêu tiền bạc lại phải về trình với Đầu nậu một số ít. Vì vậy mà người Đầu nậu tuy
không đi xin vất vả như bọn hành khất, song có rất nhiều tiền bạc.

Bọn hành khất lại kính trọng người Đầu nậu lắm. Người Đầu nậu nói gì chúng cũng phải nghe theo. Thường
thường người Đầu nậu qua một thời gian trở nên giàu có vô cùng.

Thuở ấy, một người họ Kim, tên Lão Đại, đã ba đời lĩnh chức Đầu nậu từ tổ tiên truyền lại. çng ta giàu có
lắm. Tuy không phải là bậc phú gia địch quốc song cũng đứng vào hạng nhì hạng ba trong thành phố.

Kim Lão Đại già nua, xét mình không thể giữ nhiệm vụ ấy mãi nên truyền lại cho người em họ là Kim Lại Tử.

Gia đình sung túc, Lão Đại lại có một người con gái tên Ngọc Nô. çng ta cưng đứa con gái ông lắm.

Nàng Ngọc Nô tuổi mới trăng tròn, mà nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn. Nàng lại thông minh, học hành rất
giỏi.

Lão Đại muốn kén cho con một người chồng xứng đáng, song vì tăm tiếng xưa nay, nên những bậc văn nho,
thế phiệt không ai buồn để à đến.
Lão Đại buồn lắm, ngày đêm ngẫm nghĩ :

­ Nếu tổ tiên ta không làm cái nghề Đầu nậu thì chắc với tài năng, nhan sắc đứa con gái ta, ít ra cũng kén
được người khoa mục. Tiếc thay !

Một hôm, Lão Đại đem à ấy tỏ với người hàng xóm. çng lão hàng xóm thương tình, tỏ à:

­ Dưới cầu Thái Bình có một anh chàng rất nghèo khổ, họ Mặc tên Tư, đã đậu tú tài, nhưng tuổi mới đôi
mươi cha mẹ mất sớm, nếu ngài không chê nghèo khổ thì tôi có thể làm mai cho ái nữ được.

Lão Đại nghe nói rất vui mừng, tỏ à ưng thuận. çng già hàng xóm vội vã đến cầu Thái Bình nói với Mặc Tư.

Mặc Tư lâu nay sống trong cảnh túng thiếu cơ cực, nay được người giàu có để à đến thì còn gì mừng rỡ
hơn.

Thế là cuộc hôn nhân tác thành. Lão Đại chọn ngày lành để làm lễ thành hôn.

Mặc Tư vì nghèo khổ, trăm việc đều nhờ Lão Đại lo liệu cả. Ngày tiệc lễ quan khách đến dự rất đông. Ai nấy
thấy Mặc Tư dung nhan tuấn tú, ra vẻ hào hoa, trong lòng rất phục, cho Lão Đại là một kẻ có phúc.

Mặc Tư thấy nàng Ngọc Nô mười phần xinh đẹp, trong lòng rất cảm khoái.

Tuy nhiên, vì sợ mang tiếng với người rể, nên hôm ấy Lão Đai không mời Lại Tử, người chú họ mà hiện
đang giữ chức Đầu nậu trong bọn hành khất.

Không được mời, Lại Tử hậm hực trong lòng, thầm trách Lão Đại đã khinh mình, bèn xúi bọn hành khất đến
nhà làm nhục để trả đũa.

Vốn kính nể người Đầu nậu, Lại Tử nói gì mà bọn hành khất không nghe. Vì vậy trong lúc quan khách đang
ăn uống thì có vài chục người hành khất xông vào, áo quần dơ dáy, mình mẩy hôi thúi, kéo ghế ngồi, rót
rượu uống, làm huyên náo cả nhà.

Lại Tử ngồi giữa bàn, lớn tiếng nói :

­ Mau gọi cháu rể ra chào chú vợ chớ.

Mặc Tư và cả bạn bè của chàng được mời đến hổ thẹn bỏ đi hết. Lão Đại ngồi chết điếng, nhưng không biết
phải làm sao đành năn nỉ người chú họ và bọn “quà khách” thương tình cho.

Người Đầu nậu và bọn hành khất chẳng nói gì cả, cứ ăn uống và chuyện trò mãi. Đến lúc quan khách bỏ đi
hết, trong nhà vắng tanh mới chịu ra về.

Tối hôm ấy, Lão Đại buồn bã, ngồi đứng không yên...

Nàng Ngọc Nô trong lòng căm tức, thỉnh thoảng bước ra tìm đủ lời để an ủi cha nàng. Nàng nói :

­ Cha đừng buồn làm gì. Dẫu sao số phận của con đã như vậy rồi. Nếu phải duyên nợ thì Mặc Tư sẽ không
vì thế mà khinh nhà mình. Còn nếu như chàng khinh bỉ thì con đành cam số phận vậy.

Lão Đại thấy con tha thiết, trong lòng đau đớn vô ngần.

Mặc Tư sau khi bỏ đi, nghĩ mình đang cảnh khốn khổ, nay lại được vợ đẹp, giàu sang, bỏ đi thì tiếc, nên tối
hôm ấy chàng trở lại...

Lão Đại mừng rỡ, tiếp đón ân cần.


Nàng Ngọc Nô khuyên chồng cố công đèn sách, ăn học để chuộc lại tiếng tăm cho gia đình. Mặc Tư nghe
lời, ở đó học hành.

Thôi thì sách vở, chi phí mỗi mỗi đều sắm sửa cho Mặc Tư, không thiếu một món gì cả. Hễ Mặc Tư muốn gì
thì có nấy.

Qua ba năm đèn sách, Mặc Tư thi đỗ giải nguyên, rồi đỗ luôn tiến sĩ.

áo gấm, hốt ngà. Mặc Tư vinh quy trở về nhà nhạc phụ. Khi đám rước về đến nơi, bọn hành khất xúm lại
bàn tán :

­ Kìa ! Rể người Đầu nậu đỗ tiến sĩ kia !

Câu nói ấy lọt vào tai Mặc Tư làm chàng ta áy náy, hổ thầm. Chàng tự nghĩ :

­ Nếu biết số phần ta có ngày vinh hiển như hôm nay thì thiếu gì nơi trâm anh thế phiệt, tội gì lại chui vào cái
nơi thô bỉ để suốt đời chịu lây tiếng xấu của người.

Vì à nghĩ như vậy, từ khi được đỗ tiến sĩ, chàng về nhà lạt lẽo với nàng Ngọc Nô, và có à khinh dễ gia đình
nhạc phụ.

Một hôm, Mặc Tư được chiếu vua bổ đi nhậm chức Tư bộ trong trại quân Vi Vô. Kim Lão thấy rể mình bước
lên đường danh vọng, mừng rỡ làm tiệc đãi đằng để tiễn biệt.

Dự tiệc xong, Mặc Tư đem nàng Ngọc Nô theo và từ giã nhạc phụ. Lão Đại thương con không nỡ rời, song
nghĩ đến câu “xuất giá tùng phu” nên phải cam lòng, cắp cho bốn đứa a hườn và hai tên tùy tùng để theo
phò tá Ngọc Nô.

Thuyền của Mặc Tư đi được mấy ngày thì đến ven sông Thái Thạnh. Mặc Tư lòng buồn, nghĩ đến tăm tiếng
của mình, nên ra nơi đầu thuyền ngồi ngắm trăng than thở.

Bỗng chàng sanh ra một ác à, gọi con a hườn mời nàng Ngọc Nô ra đầu thuyền thưởng nguyệt. Nàng Ngọc
Nô bỗng nhiên thấy được chồng lưu luyến, lòng mừng khôn tả, vội sửa soạn xiêm y ra ngồi một bên chồng
âu yếm.

Trăng khuya, gió lạnh, chờ cho bọn tùy tùng ngủ hết, Mặc Tư xô nàng Ngọc Nô xuống sông, rồi hô oán rằng
nàng đã vô à rơi xuống nước.

Bọn tùy tùng đâu biết được ác à ấy, khi thức dậy thì Mặc Tư đã cho thuyền chạy cách đó năm mươi thước
rồi cắm lại. Mặc Tư sai người lặn xuống sông tìm kiếm để tránh tiếng. Nhưng làm sao tìm được khi người rơi
một nơi mà tìm một ngả.

Nàng Ngọc Nô khi rơi xuống nước tâm thần mê loạn, khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên một chiếc
thuyền lạ. Chiếc thuyền này là chiếc thuyền của Hứa Công, quan tổng trấn tại Vi Vô.

Nguyên Hứa Công đi kinh là, đêm ấy cắm thuyền xem trăng, bỗng thấy xác một người đàn bà trôi tấp bên
ven thuyền nên vội vàng rớt lên, và cùng vợ là Hứa phu nhân săn sóc.

Khi nàng Ngọc Nô tỉnh dậy, vợ chồng Hứa Công gạn hỏi, nàng đem đầu đuôi công việc kể lại cho vợ chồng
Hứa Công nghe.

Hứa Công nói :

­ Con đừng buồn, con cứ ở với ta, làm nghĩa nữ, một ngày nào đó ta sẽ tác thành con một nơi xứng đáng.

Từ đó, nàng Ngọc Nô là con gái của Hứa Công.


Hứa Công lại làm quan Tổng trấn ở Vi Vô, nên chức tư bộ của Mặc Tư vẫn là chức trong thuộc hạ của ông
ta.

Một hôm, thấy Mặc Tư, Hứa Công đau đớn thầm trách :

­ Đáng tiếc con người thanh niên tuấn tú như vậy mà lòng dạ lại bạc bẽo vô luân.

Rồi cách đó vài tháng, Hứa Công tỏ à cho mọi người biết là ông đang tìm cho con gái ông một người rể.

Mặc Tư lúc đó mang tiếng là góa vợ, nay thấy quan Tổng trấn có à kén chọn khách đông sàn, lòng mừng
khắp khởi, gắm ghé tỏ à muốn cầu hôn.

Hứa Công thấy vậy vào hỏi nàng Ngọc Nô :

­ Nay cha đã lựa cho con được một người chồng xứng đáng, tuổi trẻ, học giỏi, vậy à con như thế nào ?

Nàng Ngọc Nô khóc sướt mướt nói :

­ Tuy Mặc Tư bạc bẽo, nhưng thân con gái chỉ lấy một lần chồng thôi, con xin nguyện thủ tiết trọn đời, không
màn đến chồng con nữa.

Thấy Ngọc Nô có lòng trung nghĩa, Hứa Công thương tình, đem câu chuyện chàng Mặc Tư cầu thân tỏ bày
với con gái nuôi mình.

Nàng Ngọc Nô cảm thấy tấm lòng tham của Mặc Tư đáng khinh bỉ, tuy nhiên, muốn được trọn vẹn câu “bất
sự nhị phu”, nàng buộc lòng ưng thuận. Ngày lễ thành hôn đến, Mặc Tư trong lòng rất vui đẹp. Chàng nghĩ
thầm :

­ Nếu trước kia ta không tàn nhẫn như thế thì làm sao hôm nay có được một nơi danh giá như vầy.

Tối hôm ấy cửa phòng hương hé mở, Mặc Tư bước vào làm lễ hoa chúc, vừa bước vào liếc thấy dung nhan
của vị hôn thê hoa nhường nguyệt thẹn, trong lòng chàng rộn lên một niềm hoan lạc, nhưng khi bước đến
gần, nhìn tận mặt thì bỗng chàng ré lên :

­ Ma ! ma !

Mặc Tư kinh ngạc là phải, vì chàng có ngờ đâu trước măt chàng người vợ mới cưới của mình lại là nàng
Ngọc Nô thuở nọ.

Nàng Ngọc Nô mỉm cười nói :

­ Tôi là người thật, đâu phải là ma. Có gì mà sợ thiếp như thế ! Chàng nỡ đang tâm giết vợ để lấy một người
vợ danh giá hơn.

Mặc Tư ấp úng :

­ Tại sao nàng lại còn sống được ?

Nàng Ngọc Nô đem đầu đuôi câu chuyện chết đuối của mình kể lại cho Mặc Tư nghe. Mặc Tư cảm động,
biết lỗi mình, ân hận vô cùng. Chàng quỳ xuống đất tạ tội, rồi gục đầu vào chiếc gối khóc rả rít.

Thấy chồng đã hối ngộ, dù có mắng nhiếc đến đâu cũng bằng thừa, nàng Ngọc Nô vội đỡ Mặc Tư dậy.

Từ đó hai vợ chồng rất quà nhau, coi Hứa Công như cha nuôi, lại rước Lão Đại về ở chung với mình, phụng
thờ như cha đẻ vậy, không bao giờ còn có à nghĩ sang hèn nữa.

Những Kẻ Chết Đói


(Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh,

Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt)

Vào đời nhà Hán Văn Đế, có một người bề tôi tên Đặng Thông, vốn kẻ trung nghĩa. Đối với dân, ông ta là
bậc thanh liêm, đối với vua, ông ta là kẻ chính trực, đối với nước, ông ta là kẻ trung thành.

Với những bản tính đó, Đặng Thông được vua Văn Đế yêu dùng và biệt đãi hơn các quan cận thần khác.
Vua Văn Đế trao cho Đặng Thông tất cả mọi quyền hành, khi ra xa giá, lúc ở lâu đài, mỗi mỗi đều tỏ ra một
người phong lưu thế phiệt.

Tài đức như thế, cao sang như thế, trong đời còn ai dám sánh. Thế mà một hôm, Đặng Thông ra khỏi thành
độ vài dặm thì gặp một gã xem tướng số tên Huỳnh Liên, ăn mặt rách rưới, mặt mày bẩn thỉu, trông thấy ông
liền ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi chỉ vào mặt nói :

­ Kìa, Đặng quan nhân, chớ thấy sang trọng nhất thời mà mừng ! Tôi e ngài chết đói một ngày không xa đấy.

Đoàn quân tùy tùng thấy Huỳnh Liên, gã thầy tướng có cử chỉ vô lễ với đại quan, thất kinh vội xúm lại bắt, và
toan giải về triều trị tội. Nhưng Đặng Thông lại không lấy thế làm giận, truyền bộ hạ dẫn Huỳnh Liên đến
trước kiệu, hỏi :

­ Ta là một bậc đại quan tại triều đình, phú quà có thừa, quyền uy có một, sao ngươi dám bảo ta là kể chết
đói ?

Huỳnh Liên lễ mễ nói :

­ Thưa đại quan, kẻ hèn này dám vô lễ nói lời ấy, xét ra rất có tội ! Nhưng kẻ hèn này cũng không phải biết
nói sao hơn, vì sự thật là thế. Chẳng bao lâu đại quan sẽ là một người chết vì đói khát.

Đặng Thông mỉm cười hỏi lại :

­ Chết sống là chuyện thường của người có trách nhiệm với nước với dân. Nhưng ngươi căn cứ vào đâu mà
bảo ta sẽ bị chết đói ?

Huỳnh Liên thưa :

­ Tiện nhân có nghề xem tướng lưu truyền đã mấy đời, kẻ nào chết đói khi trông thấy đã biết ngay. Kìa nơi
miệng đại quan có một đường vạch chạy thẳng từ cầm đến mép, đó là tướng chết đói rồi. Dẫu đại quan có
sang trọng đến đâu bạc vàng đầu kho, cũng không thể nào tránh khỏi.

Đặng Thông không tin. Bọn quân hầu khúc khích cười bảo nhau :

­ Thật là kẻ điên cuồng ! Một vị quan giàu có nhất triều mà hắn dám bảo là chết đói !

Có kẻ thưa với Đặng Thông :

­ Gã này muốn dùng nghề xem tướng xỉ mạ đại quan. Xin đại quan cho phép chúng tôi bắt nó đem về triều
đình cho một bữa để nó chừa tính ngông cuồng ấy.

Đặng Thông xưa nay vốn tính nhân từ, không muốn hành hạ ai nên cười lớn, khoác tay bảo bọn thủ hạ :

­ Nó bảo ta chết đói nhưng ta không chết đói thì thôi, có hại gì mà phải bắt nó đánh đập làm gì ?

Dứt lời, Đặng Thông truyền quân khiêng kiệu trở về tư dinh, không lưu tâm đến câu nói của gã Huỳnh Liên
nữa. Hai hôm sau, có kẻ hay việc ấy vội vào triều tâu với vua Văn Đế.

Vua Văn Đế tức giận phán :


­ Chết sống số mạng do trời định, còn giàu sang là do ta. Ai dám làm cho Đặng Thông nghèo khổ mà đến nỗi
phải chết đói ?

Dứt lời nhà vua truyền xuất kho cấp cho Đặng Thông mấy xe lụa là châu báu để làm của riêng, lại đặc ân
ban cho Đặng Thông cả một hòn núi “Thiết đồng” để đúc tiền tiêu xài nữa.

Đặng Thông thấy nhà vua quá hậu đãi mình, lòng cảm kích vô cùng. Tuy nhiên, ông ta là kẻ không tham lam,
nên cố à từ chối không nhận.

Vua Văn Đế nói :

­ Ta thuở nay không tin vào tướng số, nay có gã thầy tướng bảo khanh có tướng chết đói, vậy ta cấp cho
khanh của tiền châu báu, khanh cứ nhận lấy xem thử làm thế nào chết đói được ?

Đặng Thông tâu :

­ Hạ thần đã được Bệ hạ ưu đãi thế này, kể cũng quá lắm rồi ! Tiền của hạ thần dẫu tiêu suốt đời cũng chưa
hết, vậy xin Bệ hạ để của ấy cấp phát cho dân nghèo.

Vua Văn Đế không nghe, nhất quyết buộc Đặng Thông phải nhận lụa là châu báu và hòn núi “Thiết đồng” kia
! Do đó, Đặng Thông trở thành một người giàu có nhất trong nước, sang trọng vô cùng.

Trong thời gian đó, mỗi lần vua Văn Đế thấy mặt Đặng Thông vào chầu, mỉm cười bảo:

­ Ta ra lệnh cho khanh phải ăn tiêu cho thật sang trọng đấy nhé.

Triều thần ai nấy đều lắc đầu, le lưỡi thầm bảo nhau :

­ Gã thầy tướng đã làm giàu cho Đặng Thông như thế thì làm sao Đặng Thông chết đói được ?

Thời gian chẳng bao lâu, vua Văn Đế bị bệnh nặng, thổ huyết, máu luôn đầy miệng, nghẹt thở nằm xỉu trên
long sàng. Đặng Thông cảm nghĩa, xem thân vua như thân mình, vội cúi xuống ghé mồm hút huyết tiếp hơi,
cứu nhà vua tỉnh lại.

Ngay lúc đó, Thái tử vào thăm, thấy máu ra ràn rụa, và cử chỉ của Đặng Thông trông rất ghớm ghiết, làm cho
Thái tử trở về cung không ăn uống được, nhất là các món ăn tươi có máu, Thái tử thấy rợn cả người.

Và từ đấy, Thái tử cũng ít lui tới, viếng thăm vua cha.

Văn Đế biết được việc ấy, tức giận than :

­ Bây giờ ta mới rõ, chỉ có Đặng Thông là bầy tôi trung thành mà thôi ! Rất đỗi Thái tử còn gớm ghiếc ta, tình
nghĩa cha con thực không bằng người ngoài vậy.

Câu nói ấy tuy Văn Đế chỉ nói riêng với Đặng Thông, nhưng về sau cũng lọt vào tai Thái tử, làm cho Thái tử
bất bình, đem lòng căm tức Đặng Thông vô cùng.

Đối với Đặng Thông là kẻ tôi trung, hành động của ông ta là hành động đền đáp ơn vua. Tuy nhiên, Thái tử
lại cho đó là hành động dua nịnh, để vua cha ghét mình, thế mới rắc rối.

Rủi thay, bịnh tình Văn Đế mỗi lúc một nặng thêm, rồi chẳng bao lâu nhà vua phải băng hà, để lại một mối
cừu thù sâu sắc trong lòng vị Thải tử non trẻ kia.

Thái tử lên ngôi kế vị, lấy hiệu là Cảnh Đế.

Lòng đã sẵn thâm thù, Cảnh Đế liền hạ lệnh bắt Đặng Thông trị tội, sung công hết tài sản, giam Đặng Thông
vào ngục, và cấm không cho đem cơm nước.

Thế là Đặng Thông phải chịu chết đói trong ngục, không có một lời thán oán.

Lời tiên đoán của gã Huỳnh Liên đến lúc ấy mới thấy là đúng. Các quan trong triều lớn bé đều kinh khủng,
cho rằng tướng mạo con người đã hình ra không thể nào tránh khỏi được.

Bấy giờ, tại triều Cảnh Đế có quan Thái sư tên Châu á Phú vốn là kẻ tham giàu sang, thấy mình đang trọng
chức, sợ ngày sau có điều gì rủi ro chăng nên lẻn ra ngoại thành đến nhà gã Huỳnh Liên hỏi thăm tướng
mạo.

Huỳnh Liên xem qua thấy quan Thái sư họ Châu lại cũng có một vằn chỉ chạy xéo vào miệng, nên vỗ tay
cười lớn, nói :

­ çi thôi ! Quan Thái sư lại cũng có tướng chết đói rồi ! Đường chỉ “chết đói” đã hiện rồi thì ngày chết đói
cũng chẳng bao lâu nữa.

Quan Thái sư buồn bã vô cùng, trở về dinh lo thu xếp bạc vàng gởi đến một nhà người thân cách kinh đô
trăm dặm, để phòng khi có xảy ra tai nạn thì trốn đến đó dung thân. Việc làm của quan Thái sư tuy kín đáo,
nhưng không thoát khỏi tai mắt của các cận thần.

Các quan cho là quan Thái sư sanh dị tâm nên mậu tâu với vua Cảnh Đế.

Vua Cảnh Đế lập tức cho ngự lâm quân vây phục tư dinh quan Thái sư họ Châu, bắt quan Thái sư hạ ngục
và tịch thâu tài sản.

Chẳng bao lâu Châu á Phú cũng bị chết đói như Đặng Thông trước kia.

Lúc này, chẳng những quan quân trong triều, mà khắp cả kinh đô, ai cũng ca tụng Huỳnh Liên là một nhà
tướng số giỏi vào bậc nhất.

Đặc biệt hơn nữa, thời bấy giờ, trên mặt người nào có đường vạch chạy xéo vào miệng, thì dân chúng hoặc
phỉ nhổ, hoặc thương hại, cho là kẻ “chết đói” vậy.

Trong lúc dân chúng đang sợ những người có tướng chết đói, thì nơi một làng kia có gã Bùi Độ, tuổi trẻ nhà
nghèo, đi bán dầu lang thang khắp đó đây, lại xuất hiện nơi miệng một đường chỉ “chết đói”.

Một hôm, Bùi Độ đi qua kinh thành. Huỳnh Liên đứng ở đầu chợ trông thấy lấy tay vẫy gọi chàng lại, và nói :

­ Kìa, ông bạn ! çng bạn đã nghèo khổ mà lại bị đường chỉ vạch xéo trên miệng thế kia tránh sao khỏi bị chết
đói.

Bùi Độ thản nhiên nói :

­ Tôi nghèo khổ, buôn bán độ nhật thì việc chết đói là chuyện thường, có gì lạ ?

Dứt lời, chàng gánh dầu đi vào thôn quê bán, không lấy thế làm buồn bã.

Ngày kia Bùi Độ đi ngang qua một khu đồng vắng, trời mới tinh sương bỗng thấy một cô gái tuổi độ đôi
mươi, nhan sắc diễm lệ, đang ngồi trên bờ giếng lạnh, khóc nỉ non.

Lấy làm lạ, Bùi Độ bước đến hỏi :

­ Cô nương từ đâu đến, có việc gì đau buồn ?

Thiếu nữ ngẩng mặt lên, thấy Bùi Độ anh chàng bán dầu, quần áo tươm tả, mồ hôi nhễ nhại, tuy nghèo nàn
nhưng khuôn mặt có vẻ hiền từ, nàng lau nước mắt đáp :
­ Tôi quả đang có việc buồn, nhưng nói với anh cũng chẳng ích gì, xin đừng hỏi đến làm chi !

Bùi Độ trông thấy nàng con gái nét hoa ủ rũ, thương tình hỏi :

­ Xin quà nương chớ ngại ! Tôi tuy là kẻ nghèo khó, hèn hạ, song nếu được quà nương cần tôi việc gì, tôi xin
nguyện hết lòng. Chẳng hay quà nương từ đâu đến. Tại sao phải ngồi nơi đây khóc than ?

Thiếu nữ thở dài nói :

­ Tôi là con gái của quan huyện Lạc Châu, nhà ở cách đây mười dặm. Cha tôi đã già, làm quan thuở nay rất
thanh liêm chính trực. Vừa rồi, chẳng may cha tôi bị gian thần sàm tấu, bươi móc những lỗi nhỏ nhen, khiến
cho Hoàng đế nổi giận, truyền bắt cha tôi hạ ngục tại triều. Tôi đã đến đó thăm viếng và kêu oan nhiều lần,
nhưng tên gian thần đó đã không xét đơn, còn hạ lệnh tịch thu hết tài sản của cha tôi nữa !

Thiếu nữ nói đến đấy khóc òa.

Bùi Độ cũng thở dài, để gánh dầu xuống đất nói :

­ Vì mất hết cả nhà cửa, tài sản mà quà nương buồn đi lang thang đây đó chăng ?

Thiếu nữ lắc đầu :

­ Không ! Tên gian thần buộc tôi phải chạy đủ ba nén vàng mới chịu dâng sớ xin tha cho cha tôi. Vì vậy đã
sáu tháng nay, tôi đem cả tư trang bán hết, và đi xin xỏ các người trong thân tộc, góp nhóp đủ ba lượng
vàng, định sáng mai đem vềkinh lo việc cho cha tôi. Chẳng ngờ vừa rồi tôi đi lễ chùa vô à đánh rơi ba lượng
vàng ấy dưới giếng lạng này...

Nói đến đó, thiếu nữ khóc nức nở, không sao nói được nữa.

Bùi Độ biết nàng đang đau lòng vì cha nàng, nên không dám hỏi, rón rén bước tới nhìn xuống giếng lạng.

Giếng không sâu lắm, nhưng vì bỏ hoang lâu ngày lá khô rụng đầy, không ai còn rõ được bề sâu bao nhiêu
nữa. Nhất là mùi hôi tanh xông lên nồng nực.

Bùi Độ thở dài, bảo thầm :

­ Ba nén vàng mà đánh rơi xuống đáy giếng này thì còn biết làm sao vớt lên được ! Khốn thay !

Nhưng chàng lại nghĩ :

­ Ba nén vàng ấy là sinh mạng của cha nàng ! Nàng đã góp nhóp, cực khổ sáu tháng trường mới tìm ra. Nếu
mất đi tức là mất mạng cha nàng rồi ! Thế thì nàng đau đớn khóc than cũng là lẽ phải.

Nhìn thấy vẻ mặt thất vọng, đầy nước mắt của thiếu nữ, Bùi Độ động lòng nhân, nói :

­ Xin quà nương cứ an lòng, tôi xin vì quà nương lặn xuống giếng nầy tìm thử, may ra có hy vọng !

Thiếu nữ khoa tay bảo :

­ Không được ! Anh có lòng tốt như vậy tôi rất đội ơn ! Nhưng dưới giếng này có con trăn rất dữ. Từ hôm
qua tôi đã tìm người trong thôn xóm thuê vớt, nhưng ai cũng sợ trăn không dám mạo hiểm.

Bùi Độ nhìn xuống giếng, thấy lá khô nổi lềnh bềnh, bất giác thở dài, than :

­ Nếu vậy thì biết làm sao giải thoát được hoàn cảnh rủi ro đau đớn của quà nương ?
Thiếu nữ nói :

­ Tôi đành chịu chết mà thôi ! Trời đã muốn hại mạng cha tôi tức như đã cắt đứt tình máu mủ. Tôi còn sống
trên đời nầy làm gì nữa !

Bùi Độ biết nàng đã có à định nhảy xuống giếng quyên sinh, nên không nỡ bỏ đi, cứ đứng nhìn mặt giếng
thở ngắn than dài mãi.

Bỗng chàng nhớ đến lời gã thầy tướng Huỳnh Liên, và đường gạch “chết đói” nơi miệng, thầm bảo :

­ Ta đã có tướng chết đói thì trước sau cũng chết. Vậy cứ hy sinh để cứu nàng còn hơn.

Chàng nhìn thiếu nữ bảo :

­ Thưa quà nương, tôi thật đau đớn trước hoàn cảnh của quà nương, muốn được quà nương cho phép tôi
hy sinh giúp đỡ.

Vừa nói, Bùi Độ vừa xăm xuối bước tới bờ giếng lạng.

Thiếu nữ thất kinh hét lên :

­ Trời ơi ! Xin chớ vì tôi mà chết như vậy thực chẳng ích gì !

Nàng nhào đến, nắm vạt áo Bùi Độ kéo lại.

Bùi Độ thật tình bảo :

­ Thưa quà nương, tôi vốn chẳng may sinh vào cảnh nghèo khổ, lại có tướng chết đói. Nếu ham sống sợ
ngày gần đây chẳng tránh khỏi cảnh chết thảm. Vậy quà nương cứ để tôi xuống giếng tìm vàng. May ra lấy
được vàng tôi có thể giúp ích quà nương, bằng không nếu rủi ro chết vào bụng trăn thì tôi cũng chẳng ân
hận gì !

Thiếu nữ không hiểu tướng chết đói là gì, còn đang ngơ ngác thì Bùi Độ đã co chân nhảy ùm xuống giếng.

Nhờ có sức mạnh, và nhờ biết bơi giỏi, Bùi Độ lặn xuống, chẳng mấy chốc đã mò được khăn gói vàng trồi
lên mặt nước.

Chàng mừng quá, bấu vào các rễ cây lần lần leo lên.

Thiếu nữ vừa mừng vừa sợ, trố mắt nhìn, nói hổn hển :

­ Người ta bảo dưới giếng này có con trăn lớn lắm, anh có thấy nó không ?

Bùi Độ lắc đầu đáp :

­ Không ! Đáy giếng đầy cả bùn, mà không thấy có trăn. Chắc họ đồn ngoa đó.

Chàng trao gói vàng lại cho thiếu nữ với niềm hoan hỉ vô biên.

Thiếu nữ tiếp lấy gói vàng, rũ xiêm sụp lạy đền ơn.

Bùi Độ cản lại :

­ Thưa quà nương, công tôi một chút chẳng có là bao. Miễn sao quà nương cứu được đại quan là tốt lắm rồi,
xin chớ bảo là ân huệ.

Thiếu nữ nhoẻn cười, nụ cười như đóa hoa xuân :


­ Thưa ân nhân, xin ân nhân cho tiện nữ biết họ tên, để còn có ngày đền đáp.

Bùi Độ nói :

­ Tôi chỉ là một kẻ nghèo hèn, bán dầu khắp đó đây, không gia cư, sự nghiệp. Xin quà nương chớ bận lòng.
Từ trước đến nay dân chúng trong vùng vẫn quen gọi là Bùi Độ.

Thiếu nữ cuối đầu tạ Ơn rồi mang vàng vào kinh đô lo việc chuộc tội cho cha. Trong lúc đó, Bùi Độ vẫn gánh
dầu lang thang đây đó, khắp làng mạc.

Một hôm, Bùi Độ gánh dầu đi ngang qua đầu chợ, gặp gã Huỳnh Liên. Nhưng làn này Huỳnh Liên không
nhìn Bùi Độ với đôi mắt khinh khi nữa, mà với vẻ kính trọng.

Lấy làm lạ, Bùi Độ toan hỏi thì Huỳnh Liên đã nói :

­ à ! Anh thật tốt phước ! Tướng chết đói của anh biến mất rồi, mà thay vào đấy tướng mạo của kẻ công
khanh, giàu sang tuyệt đỉnh. Tôi chúc cho anh sớm được vinh hoa.

Bùi Độ cười hề hề :

­ Thôi, xin ông chớ nhạo báng tôi. Kẻ nghèo khổ này không đủ cơm ăn, lại có tướng chết đói, chẳng biết chết
vào lúc nào, xin chớ đùa nhau.

Huỳnh Liên chấp tay xá dài, nói :

­ Đã mấy đời làm nghề tướng số, tôi chẳng hề đoán sai. Chẳng bao lâu nữa anh trở nên một kẻ công hầu
phú quà đó.

Bùi Độ hỏi lại :

­ Thế tại sao thời gian trước đây ông bảo là tôi sắp chết đói ?

Huỳnh Liên giảng giải :

­ Đúng vậy ! Thời gian gần đây tôi đã thấy anh có tướng chết đói, chẳng biết vì sao nay lại có tướng quan
sang ! Chắc có lẽ anh đã ra công thi ân bố đức nhiều lắm ?

Bùi Độ nói :

­ Tôi chỉ vừa mới cứu một thiếu nữ trong lúc hoạn nạn mà thôi.

Huỳnh Liên nở một nụ cười :

­ à ! Thế chỉ vì việc ấy mà anh đã đổi tướng mạo. Sách có nói : “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu
tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt”.

Bùi Độ không tin, chỉ cười hề hề rồi gánh dầu đi bán như cũ.

Ngày kia, vì mỏi mệt, chàng nằm ngủ quên nơi một quán vắng. Khi thức dậy, thấy gánh dầu biến đi đâu mất.

Chàng thất kinh, chạy đi tìm khắp nơi nhưng không thấy đâu cả. Thật là nguy khốn ! một kẻ nghèo khổ thế
kia, chỉ biết gánh dầu đi bán kiếm lời độ nhựt, mà nay mất cả gánh gióng thì biết tiền đâu đem về trả cho
chủ, tiền đâu nuôi sống trong ngày.

Bùi Độ chạy như ma đuổi, mặt mày tái nhợt, miệng lẩm bẩm chửi gã thầy tướng Huỳnh Liên :
­ Cái thằng râu quặp, mày cố nhạo tao ! Hôm nay tao mất cả gánh dầu thế là ngày chết đói đã đến rồi, mày
lại bảo tao sắp được vinh hoa phú quà ! çi, khổ quá !

Chạy một lúc đã mệt, Bùi Độ đến một mé rừng, thấy có một tảng đá bằng, chàng bèn trèo lên đó nghỉ, và tự
bảo :

­ Thôi ! Số ta là số chết đói ! Ta cứ nằm đây mà chết cho xong.

Chàng nhắm mắt để chờ chết. Bỗng trong rừng có hai người xông ra, nắm chân Bùi Độ lay gọi :

­ Này này ! Gã bán dầu ! Hãy bán dầu cho chúng ta rồi sẽ ngủ.

Bùi Độ mở mắt, nhìn thấy hai người ấy mặt mày sáng sủa, ăn mặc sang trọng, lại có vẻ đùa cợt, nên tức
giận đáp :

­ Thôi thôi ! Để cho ta chết ! Gánh dầu của ta đã bị quân gian lấy mất còn đâu nữa.

Hai người nhìn nhau cười ngặt nghẽo, nói :

­ Gánh dầu của anh đã có người mua rồi, giờ đây anh theo chúng tôi đến đó lấy tiền.

Bùi Độ ngơ ngác hỏi :

­ Sao lại có chuyện lạ vậy ?

Một người đáp :

­ Có gì mà lạ ! Anh bán dầu thì người ta mua. Mà đã mua thì trả tiền. Anh có bằng lòng theo chúng tôi để
nhận tiền hay không thì nói.

Bùi Độ nửa mừng nửa ngại, lủi thủi theo hai người lạ xuyên rừng đi thẳng.

Chẳng bao lâu, hai người dẫn Bùi Độ đến trước một cửa cổng lớn, có đề bốn chữ “Lạc Châu huyện đường”,
và dắt Bùi Độ vào đấy.

Bùi Độ sợ hãi hỏi :

­ Sao các người lại dẫn tôi vào đây ?

Một người nói :

­ Vì đây là khách mua hàng của anh.

Hai người dẫn Bùi Độ đi vòng quanh một lúc, vào hậu đường. Chàng thấy trước cửa một ngôi nhà mát có để
hai thùng dầu của chàng, nên chàng mừng quá, chạy xổ đến, nói lớn:

­ Gánh dầu của tôi đây rồi !

Chợt sau vườn hoa có bóng xiêm y phất phới, lả lướt tiến dần đến. Một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ, mặt hoa da
phấn, vóc ngọc mày ngài, vừa trông thấy Bùi Độ đã nhoẻn miệng cười, cất tiếng oanh thỏ thẻ :

­ Ân nhân vẫn mạnh giỏi đấy chứ ?

Bùi Độ ngơ ngác, nhìn thấy thiếu nữ ấy chính là cô gái mà chàng đã lặn xuống giếng tìm vàng để giúp nàng
chuộc cha hôm nọ.

Tuy nhiên, khác với hôm ấy, ở đây nàng đẹp như một tiên nga, tươi như một đóa trà mi buổi sáng.
Gặp lại người cũ, Bùi Độ vui mừng, vồn vã hỏi :

­ Qùa nương đã chuộc được tội cho đại quan rồi chớ ?

Thiếu nữ mỉm cười nói :

­ Nhờ anh mà cha con tôi đã đoàn tụ. Cha tôi lại được phục chức huyện quan, nên nhớ ơn anh cho người
đến thỉnh, tìm mãi mới gặp, lại sợ anh không đến, nên tôi lập kế cho người mạo muội gánh hai thùng dầu về
đây trước, xin anh chớ trách.

Dứt lời, thiếu nữ ra hiệu cho mấy tên quân hầu đưa Bùi Độ vào một căn phòng trang bày lộng lẫy, đồ đạc
sang trọng.

Bùi Độ thấy chỗ nào cũng sạch sẽ uy nghi, chưa biết ngồi vào đâu, thì bọn lính hầu đã bưng lên một mâm
rượu thịt ê hề, món ăn toàn là những món cao quà.

Đang đói bụng lại gặp cảnh này, Bùi Độ không còn biết ngại ngùng gì nữa, ngồi lại ăn uống no say.

Én xong, thấy buồn ngủ, chàng trèo lên bộ ván đánh một giấc, mơ màng theo men rượu. Đến lúc tỉnh giấc,
Bùi Độ thấy trời đã tối, trong phòng leo lét ánh đèn dầu, cái mùi dầu quen thuộc của chàng thường ngày.

Ngoài cửa có tên quân hầu bước vào bảo chàng :

­ Xin mời quà nhân qua phòng hương dùng cơm tối.

Bùi Độ vội bước theo tên quân hầu, rẽ qua đến một căn phòng rất mỹ lệ, ánh đèn le lói, các cửa đều có treo
màn thêu nhiều hoa bướm.

Tên quân hầu đưa chàng đến cửa lập tức lui gót. Tức thì bên trong có một tỳ nữ, phất tay áo bước ra cung
kính rước Bùi Độ vào.

Qua khỏi bức màn, một mùi thơm ngào ngạt. Giữa phòng có một chiếc bàn xinh xắn, hai bên có hai chiếc
ghế thêu. Trên bàn sắp sẵn thức ăn và rượu.

Tỳ nữ đưa Bùi Độ vào ngồi đấy chưa bao lâu thì phòng bên cạnh bức màn nhung lay động, tỳ nữ chấp tay
thưa với Bùi Độ :

­ Cô nương tôi đến.

Bùi Độ vừa quay mặt lại đã thấy thiếu nữ khuê các mà chàng cứu nạn trước kia ung dung trong bộ y phục
màu hồng từ từ bước đến, nhoẻn cười nói :

­ Thưa ân nhân chớ lấy làm lạ. Tiện nữ xin tạm bỏ chút lễ nghi để đền ơn ân nhân thuở nọ.

Bùi Độ đứng dậy đáp lễ, nói :

­ Qùa nương là con chí hiếu, trên đời này thật ít có. Phận tôi là kẻ hèn mọn dám đâu chịu lấy ân huệ của cô
nương. Chẳng hay cô nưrơng danh hiệu là gì ?

Thiếu nữ đáp :

­ Em là Ngọc Hà, từ thuở bé đến giờ theo cha trấn nhậm nơi đây, mẹ mất sớm, cố noi theo nề nếp gia
phong. Nhưng vì đối với chàng ơn sâu, không thể vì phận gái mà không báo đáp.

Dứt lời, Ngọc Hà cầm lấy chung rượu, rót đầy dâng tận tay Bùi Độ.
Trước cảnh người đẹp, rượu ngon, Bùi Độ ngây ngất cả lòng. Chàng uống mãi. Càng uống càng thấy ngon.

Cho đến khuya, rượu say lúy túy, ngọn huyền đăng chập chờn ánh sáng, lung linh tỏa khắp phòng một màu
huyền ảo, Bùi Độ thần trí mơ màng như lạc đến cõi tiên bồng, không cầm được dục vọng, không còn nghĩ
đến phận hèn mọn của mình, liền cầm tay Ngọc Hà thở hổn hển, nói :

­ Qùa nương !

Ngọc Hà nghiêm nét mặt, bảo :

­ Em tiếp đãi ân nhân là để đáp đền lòng hiếu đạo, đâu phải kẻ trên bộc trong dâu, xin ân nhân chớ làm thế.

Bùi Độ sợ hãi buông tay Ngọc Hà, nói run rẩy :

­ Kẻ hèn nầy biết phận, không được quà nương chiếu cố, vậy thì kẻ hèn này xin từ giả, chẳng còn dám lưu
lại đây để nhìn mặt quà nương nữa.

Thấy vẻ mặt thật thà của Bùi Độ, Ngọc Hà thương hại, nói :

­ Qùa nhân thành thật muốn cùng tiện thiếp xe duyên sao ? Điều đó không khó gì. Tiện thiếp đã mang ơn
quà nhân, đâu còn kể đến chuyện sang hèn, chỉ sợ quà nhân hiểu lầm, xem tiện thiếp là kẻ không đứng đắn
mà thôi.

Bùi Độ như cởi mở, chớp chớp đôi mi, nhìn thẳng vào mặt Ngọc Hà nói :

­ Nếu được cùng quà nương gầy duyên can lệ thì phận hèn này suốt đời xin ở bên gối để phụng sự quà
nương !

Ngọc Hà cầm tay Bùi Độ nói :

­ Em chỉ sợ không làm tròn phận sự nâng khăn sửa trắp cho chàng ! Chàng là người ân của em, dẫu em có
đem thân thờ chàng trọn đời cũng là lẽ phải ! Nhưng việc đó còn phải đợi lệnh nghiêm đường, chúng ta sẽ
tính sau.

Bùi Độ lửa lòng phừng cháy, không cầm được yêu đương trước sắc đẹp diễm kiều, và giọng nói trong như
suối ngọc của Ngọc Hà. Chàng ôm Ngọc Hà vào lòng, và không còn biết gì đến trời đất nữa.

Thế rồi từ đấy, Bùi Độ Ở luôn trong một phòng riêng, cách phòng hương của Ngọc Hà không xa lắm. Đêm
đêm yến tiệc vui vầy. Đôi trai gái vì nghĩa mà kết nên tình cầm sắc.

Nàng Ngọc Hà vốn là gái trăm anh, từ nhỏ đã theo đòi nghiêng bút, nên các môn đờn ca thi họa đều xuất
quền. Bùi Độ được nàng đem hết khả năng con nhà khuê các ra phụng sự, làm cho chàng chẳng bao lâu
cũng nhuốm mùi phong lưu, không còn có cử chỉ như một gã bán dầu ngày nào ở thôn xóm nữa.

Trong thời gian đó, Ngọc Hà giấu cha nàng, không nói. Vì nàng thấy cha nàng là kể môn phong quà tộc,
chẳng lẽ kén rể dốt nát quê mùa. Do đó, Ngọc Hà cố tâm rèn luyện cho Bùi Độ nên người trang nhả trước
khi tỏ à với phụ thân.

Do đó, hàng ngày Ngọc Hà gần gũi Bùi Độ, đem sách vở, chữ nghĩa ra giảng dạy, khuyên Bùi Độ cố gắng
học hành để tìm đường tiến thân về sau.

Được Ngọc Hà yêu mến, Bùi Độ như cởi mở tâm hồn, mỗi mỗi đều nghe lời nàng, học hành tiến bộ vượt
bực.

Mối tình đôi bạn vì thế mà thấm thiết, mỗi ngày một chặc chẽ thêm. Thời gian qua mau như bóng ngựa,
thấm thoát đã ba năm, Bùi Độ trở thành một khách phong lưu, văn chương thông suốt, tướng mạo đoan
trang, hào hoa đến mực.
Và cũng trong thời gian đó, Ngọc Hà đã hiến trọn chữ trinh cho Bùi Độ, đến lúc thành tài thì đóa trà mi không
còn giữ được mùi thanh khiết nữa.

Giữa lúc hương lửa đang nồng, Ngọc Hà nghĩ đến tương lai của Bùi Độ, quyết không để chàng ở mãi địa vị
thấp hèn, nên một hôm, nàng đem câu chuyện ân nghĩa ấy thuật lại với cha nàng, xin cha nàng dung tha cho
tội bất hiếu.

Cha nàng Ngọc Nữ vốn đã già, lại thương con. Hơn nữa từ nhỏ đến lớn, Ngọc Nữ thờ cha chíhiếu, nên ông
không nỡ trái à, liền cho dời Bùi Độ đến yết kiến.

Bùi Độ sợ sệt vào hầu. Ngọc Lão thấy Bùi Độ đoan trang, ăn nói nhã nhặn, văn chương thông suốt nên có à
mừng thầm, bèn tính việc xe duyên.

Ngọc Hà thưa :

­ Thưa cha, việc lương duyên tuy quan hệ, nhưng chẳng muộn gì. Con muốn cho chồng con trước khi thành
gia thất phải có một địa vị nào trong xã hội đã. Xin cha nghĩ đến đường tiến thân trước.

Ngọc Lão gật đầu nói :

­ Con tính như thế cũng phải. Song cha chức phận nhỏ nhen, không đủ tư cách để tiến cử hiền tế. Vậy cha
có một người bạn thân hiện giữ chức Đô úy ở Thiểm Tây, nếu Bùi hiền tế chịu hạ mình đến đó, nhờ quan Đô
úy tiến cử thì mới nên danh phận. Ngặt vì từ đây đến Thiểm Tây đường xa diệu vợi, chẳng biết à con thế
nào ?

Ngọc Nữ thưa :

­ Việc đó không hề gì, miễn chồng con được thành danh, sau này đoàn tụ, hạnh phúc lâu dài.

Ngọc Lão rất hài lòng, liền viết bức tâm thư trao cho Bùi Độ, để sáng hôm sau Bùi Độ đến Thiểm Tây.

Bùi Độ lạy tạ Ngọc Lão, rồi lãnh thư trở về phòng riêng, mà lòng nghĩ đến việc phải xa cách Ngọc Hà, áy náy
không an.

Đêm đó, Ngọc Nữ bày tiệc rượu, thết đãi Bùi Độ trọng thể chẳng khác nào buổi ban đầu. Bùi Độ gạt nước
mắt nói :

­ Anh muốn trọn đời ở mãi gần em, không muốn có địa vị cao sang làm chi.

Ngọc Nữ buồn bã nói :

­ Làm người phải trọng đến thân danh. Nếu cứ say mê ân ái mà không nghĩ đến tương lai thì còn gì thân trai
bảy thước ? Xa anh em cũng đau buồn lắm, chỉ mong sao ngày thành danh, lòng anh cũng như ngày nay
không đổi khác là được. Từ đây, em đóng cửa phòng khuê, ấp mình trong chăn đơn gối lẽ, để chờ ngày anh
thành đạt trở về.

Bùi Độ khóc sướt mướt.

­ à em đã muốn, anh không dám trái lời ! Nhưng lòng anh luôn luôn hướng về đất Lạc Châu này để tưởng
nhớ đến em, chẳng phút nào quên.

Đêm đó, đôi trai gái tâm sự cho đến sáng, nước mắt vơi đầy, không một cái gì còn giấu giếm, bao nhiêu yêu
đương được cởi mở cạn nguồn, mà coi như chưa đủ.

Mờ sáng hôm sau, Bùi Độ từ giã lên đường, thẳng tới Thiểm Tây, lòng đau như cắt.
Quan Đô úy Thiểm Tây họ Đõ tên Tâm Giao, vốn là kẻ quen thân với Ngọc Lão từ thuở còn bé. Mối tình tri
âm thống thiết ! Do đó, khi được thư Ngọc Lão gởi đến, Đỗ Lão quà trọng Bùi Độ chẳng khác nào một vị tân
khách.

Bùi Độ được Đỗ trưởng lão cho ở một phòng riêng, cấp cho hai kẻ hầu hạ, rồi chọn ngày về triều để vận
động cho Bùi Độ được bổ dụng quan chức.

Trong thời gian vắng mặt ở Thiểm Tây, Đỗ trưởng lão giao cả công việc cho người con gái là Tiểu Oanh xử
là.

Tiểu Oanh là đứa con gái duy nhất của Đỗ Đô úy, từ nhỏ đến lớn theo cha trấn nhậm khắp nơi, nên công
việc văn từ đã thông thạo. Gia dĩ nàng là người thông minh đỉnh ngộ, mới mười tám tuổi đầu tài kiêm văn võ,
bậc râu mày cũng ít ai sánh kịp.

Từ khi Đỗ Đô úy về triều, nàng Tiểu Oanh sớm tối thường lui tới thính đường để giải quyết các công văn,
giấy má.

Một đêm kia nhằm tiết trung thu, trăng vàng rực rỡ, hoa viên trăm màu sắc phô diễn dưới bầu trời sao, Bùi
Độ chợt nhớ đến Ngọc Hà, mới độ nào đây, cũng cùng chàng dạo gót dưới trăng, trăm lời tâm sự. Nay
chàng tấm thân vò võ một mình, thấy trăng mà nhớ đến tình xưa nghĩa cũ, bồi hồi không sau ngủ được.

Chàng thả gót ra huê viên, dạo một vòng, mặt buồn vời vợi.

Bỗng phía tây có một ánh đèn le lói, chiếu qua khe cửa sổ. Chàng lẩm bẩm :

­ Nơi đây là thính đường, mà Đỗ Đô úy đã lai kinh, còn ai ở đó ? Tại sao đêm khuya vẫn còn có ánh đèn ?

Chàng tò mò bước đến, ghé mắt nhìn vào trong. Một hình ảnh quen thuộc tự ngày nào lại diễn ra trước mắt.

Trong phòng đó, một thiếu nữ diễm kiều, vẻ đẹp như tiên nga, mắt phụng mày ngài, đang ngồi trước án thư
bóc từng công văn ra xem. Thỉnh thoảng môi hồng chóm nở, vẻ uy nghi không thể tả.

Hai bên lại có hai viên lại thuộc đứng hầu. Mỗi lần xem xong một công văn, nàng cầm bút phê vào đấy, rồi
trao cho hai tên thuộc hạ.

Bùi Độ say sưa, ngây ngất cả người. Chẳng những chàng say sưa vì vẻ đẹp của thiếu nữ, mà chàng còn
thâm phục cái uy nghi của con người khuê tú đó.

Chàng thở dài lẩm bẩm :

­ Ta những tưởng chỉ có nàng Ngọc Hà của ta là đẹp hơn cả, ngờ đâu trong thế gian này có nhiều người đẹp
gấp bội. çi ! Trong khuê môn là cả một vũ trụ huyền bí, là cả một bầu trời thiên thai, ước gì ta được làm thân
gái, để được lui tới nơi khuê môn của các quan chức, chiêm ngưỡng những nét diễm kiều của các cô tiểu
thơ cho thoa? thích.

Chàng đứng đó ngắm mải, say sưa như đang chìm sâu trong men rượu tình.

Thời gian chẳng biết là bao lâu, mãi cho đến lúc nàng Tiểu Oanh xem hết các công văn, giải quyết hết mọi
việc, truyền cho thuộc lại tắt đèn, và nàng trở gót về phòng, Bùi Độ mới giật mình sực tỉnh.

Bấy giờ nàng Tiểu Oanh đã tung xiêm bước ra cửa thính đường. Bùi Độ ngượng ngịu, muốn lánh mặt,
nhưng chân chàng không sao bước nổi, chỉ kịp lê vài bước ra khỏi chỗ núp mà thôi.

Nàng Tiểu Oanh trông thấy bóng chàng, vội cất tiếng hỏi :

­ Người là ai ? Sao đêm đã khuya còn làm gì nơi đây ?


Bùi Độ lễ mễ thưa :

­ Kính tiểu thư, kẻ hèn này có tên là Bùi Độ, được quan Đô úy thương tình lưu lại tư dinh đã hơn nửa tháng
nay. Vì đêm khuya chạnh lòng nhớ quê hương nên lén ra đây nhìn trăng giải muộn, chẳng may bị tiểu thư
đến bất ngờ, không kịp lánh mặt.

Nàng Tiểu Oanh thấy Bùi Độ ăn nói trang nhã, tướng mạo có vẻ đoan trang, đoán chàng là con nhà thế
phiệt. Vả lại lúc cha nàng lai kinh có nói cho nàng biết việc Bùi Độ, và mục đích cha nàng về triều cũng chỉ
để vận động xin cho Bùi Độ được bổ dụng.

Nghe Bùi Độ nói thế, Tiểu Oanh mỉm cười bảo :

­ Tôi đã được nghe công tử vốn là người ở Lạc Châu, văn tài có một. Nay đến đâychờ ngày tiến thân. Làm
trai đứng ở trong đời công danh là trọng, cớ sao lại còn mang nặng tình quê hương ?

Bùi Độ nói :

­ Tiện nhân từ thuở bé đến giờ chưa quen đi xa, nên trước cảnh xứ lạ quê người lòng không tự chủ được,
xin tiểu thư tha lỗi cho.

Tiểu Oanh nói :

­ Nếu thấy buồn xin công tử lấy việc văn chương thi phú giải khuây, việc đó còn ích lợi hơn là cứ vò võ trông
tin nhà.

Nói đến đó, Tiểu Oanh nhoẻn miệng cười rồi tung xiêm bước về phòng hương, thân hình uyển chuyển
chẳng khác một cánh bướm vờn hoa.

Dưới bầu trăng sáng, Bùi Độ ngây ngất nhìn theo, hình ảnh của nàng Ngọc Hà ngày nào như hiện lên trước
mắt chàng, nỗi nhớ nhung tràn ngập cõi lòng người lử thứ.

Chàng không sao chịu nỗi, và cũng không thể để cho hình bóng của người khuê tú kia khuất mắt chàng.
Chàng vội bước theo, đôi mắt đăm đăm nhìn vào tấm lưng ong uyển chuyển, vòng ngực nở tròn của mỹ
nhân, đang vạch hoa lã lướt. Chàng thấy như muôn ngàn cánh ong bướm đang tung tăng trước mắt.

Nhưng khổ thay, cửa phong hương cách hoa viên chẳng bao xa, chỉ phút chốc mỹ nhân đã bước vào phòng,
rồi cánh cửa đóng sầm lại, hình bóng mỹ nhân đâu còn nữa.

Bùi Độ thở dài, ngồi dưới gốc cây hòe than thở, những lời nói của Ngọc Hà lúc biệt ly như còn văng vẳng
bên tai. Chàng khóc ! Khóc vì nhớ nhung, vì không còn thưởng thức được cái cảnh đầm ấm tự thuở nào
nữa.

Đêm khuya, bốn bề lặng ngắt, ngoài tiếng dế tỉ tê, tiếng xào xạc của gió khóc hoa rơi, thì hình như chỉ còn có
tiếng thở dài của Bùi Độ mà thôi.

Chàng ngồi mãi cho đến trời hừng sáng, ánh trăng đổi màu, chàng mới lê gót về phòng, áo quần ướt đẫm.

Rồi đêm nào cũng thế, cứ mỗi tối là chàng lại lén ra vườn hoa để âm thầm nhìn bóng dáng Tiểu Oanh, nhớ
đến Ngọc Hà, ôm vào lòng một niềm nhớ nhung mỗi lúc một tha thiết thêm.

Tâm tư chàng trai si tình không thể nào tả hết. Lúc khóc, lúc cười, một mình trong đêm vắng. Chàng trai đó
đêm nào cũng nhuốm sương, mượn hình bóng của Tiểu Oanh để tưởng tượng đến Ngọc Hà, người vợ
tương lai của chàng.

Có nhiều lúc chàng đem Ngọc Hà so sánh với Tiểu Oanh thì thấy mặc dầu Ngọc Hà đượm tình nghĩa sâu,
nhưng cái đẹp lộng lẫy còn kém Tiểu Oanh mấy bực.
Thế là Bùi Độ, chàng trai bán dầu học đòi phong lưu kia, chẳng biết vì nhớ Ngọc Hà hay vì say nhan sắc
Tiểu Oanh mà đêm nào cũng lén ra vườn hoa, thật khó lòng biết được.

Mãi mấy đêm trường, lòng Bùi Độ nóng nung như đốt, còn Tiểu Oanh đêm nào cũng thấy vẽ mặt âu sầu của
Bùi Độ nơi hoa viên, áy náy không yên. Nàng muốn tìm cách giúp cho Bùi Độ giải khuây nên một hôm bảo
chàng :

­ Mỗi đêm công tử ra huê viên nhìn trăng than thở chỉ thêm buồn và hại sức khỏe. Thôi thì từ nay, mỗi tối
công tử nên đến thính đường, xem tôi giải quyết công việc, đọc giúp cho tôi các công văn còn ích lợi hơn.
Một là để công tử quên sầu bớt nhớ, hai là để cho công tử quen dần việc quan, mai sau nhậm chức khỏi qua
một thời gian bỡ ngỡ.

Bùi Độ đang mong ước được dịp gần mỹ nữ, nay nghe Tiểu Oanh nói như vậy có khác nào kẻ sắp chết đói
được bữa ăn, chàng vui vẽ nhận lời :

­ Được tiểu thư chiếu cố, kẻ hèn này nguyện đổi buồn làm vui để theo hầu hạ tiểu thư.

Thế là từ đấy, hàng đêm Bùi Độ quần áo chỉnh tề, dung nghi chải chuốt đến thỉnh đường ngồi song song với
Tiểu Oanh để xem các văn án.

Việc đó quả đã làm cho Bùi Độ vơi sầu. Lòng nhớ nhung Ngọc Hà mỗi ngày một dịu đi. Tuy nhiên, lòng
chàng lại tràn ngập lòng yêu mến Tiểu Oan. Vắng Tiểu Oan, chàng không chịu nỗi.

Qua một thời gian, Bùi Độ lại được phong thư của Đỗ Đô úy từ Kinh đô gởi về, tin cho biết chàng sắp được
triều đình bổ dụng vào chức huyện quan, một ngày gần đây phải lên đường đi trấn nhậm. Công việc của
chàng đã lo xong, nhưng quan Đô úy còn ở nán lại kinh đô thù tiếp mấy người bạn thân chưa về ngay được.

Tin ấy làm cho Tiểu Oanh mừng vô hạn, nói với Bùi Độ :

­ Đường công danh công tử đã may mắn đạt được. Ngày gần đây công tử phải nhậm chức rồi.

Bùi Độ nghĩ đến ngày ra làm quan phải xa cách Tiểu Oanh, lòng không vui. Nhưng nhớ đến lời nói của
Huỳnh Liên, gã thầy tướng thuở nọ, chàng khâm phục vô cùng, và thầm nghĩ :

­ Ta đã có địa vị giàu sang trong xã hội như thế này thì việc gần gũi người đẹp không khó nữa. Vả lại trong
trời đất, gái nữ lưu khuê tú đâu đâu chẳng có. Biết đâu, sau này ta còn gặp được người đẹp hơn Tiểu Oanh
nữa.

Thế là mộng quan sang đã chiếm cả cõi lòng Bùi Độ, làm cho Bùi Độ nhìn thấy trước mắt chàng một bầu trời
thăm thẳm, trong đó là một cõi thiên đàng, và những gì dĩ vãng chàng đều quên mất hết.

Một ngày kia, Bùi Độ giã từ Tiểu Oanh, trở về làng cũ để thăm viếng Huỳnh Liên, đồng thời cũng để tạ Ơn
Huỳnh Liên đã cho chàng biệt được tướng quan sang ấy.

Tiểu Oanh nói :

­ Xin công tử hãy mau mau trở lại đây để tiếp nhận chỉ dụ của Thánh Thượng, kẻo thân phụ tôi về đây mà
không thấy công tử ắt quở trách.

Bùi Độ nói :

­ Tiểu thư chớ lo ! Tôi chỉ đi một thời gian ngắn sẽ trở về ngay.

Với khăn gói đầy vàng bạc, với mộng cao sang tràn ngập cõi lòng, nét mặt Bùi Độ tươi vui trẩy bước về làng
cũ.

Chẳng mấy hôm, chàng đã đến đầu chợ tìm gặp Huỳnh Liên.
Gã Huỳnh Liên râu quặp vẫn còn làm nghề tướng số như thuở nào. Vừa thấy mặt, Bùi Độ đã vồn vã nói :

­ Này thánh nhân ! Tôi sắp được bổ dụng quan chức rồi đấy. Lời nói của thánh nhân ngày nào thật đúng lắm.

Huỳnh Liên nhìn nét mặt Bùi Độ rồi âu sầu bảo :

­ Anh phải là người bán dầu thuở xưa không ?

Bùi Độ nói :

­ Đúng vậy ! Và là một quan chức trong tương lai đó.

Huỳnh Liên lắc đầu nói :

­ Không không ! Tướng chết đói của anh ngày nào lại xuất hiện như cũ. Kìa, đường vạch chạy xéo nơi
miệng kia thì dầu giàu có đến đâu cũng không tránh khỏi.

Bùi Độ trợn mắt hét :

­ Lão chớ nói bậy ! Ta hiện được triều đình bổ dụng làm quan ! Trước kia ta nghèo khổ có thể chết đói, còn
ngày nay ta đang vinh hiển kia mà !

Huỳnh Liên chỉ mỉm cười khinh bỉ. Bùi Độ không vui, bỏ đi và nghĩ :

­ Được ! Lão này chỉ nói bậy. Đợi lúc ta có đủ quyền hành trong tay sẽ bắt lão trị tội, nhốt vào ngục không
cho ăn xem ai chết đói cho biết.

Chàng hậm hực trở về Thiểm Tây, đến dinh quan Đô úy họ Đỗ.

Bấy giờ quan Đô úy đã trở về mang sắc dụ của nhà vua bổ dụng Bùi Độ làm quan huyện ở Hà Lạc.

Bùi Độ liền sửa soạn hành trang, từ giả cha con Đô úy Thiểm Tây đến đó trấn nhậm, với mộng là sẽ tìm cho
mình một tuyệt thế giai nhân, để tận hưởng trong ngày xuân xanh bù lại những ngày nhớ nhung khao khát.

Lòng dục đã khiến anh chàng bán dầu lang thang trước kia đổi tánh.

Chỉ một thời gian ngắn, Bùi Độ đã dùng quyền hành mình lục lạo khắp nơi trong huyện, tìm đến những danh
gia phú hộ để kiếm giai nhân.

Khổ thay, các mỹ nữ khuê môn trông thấy tư cách của Bùi Độ là kẻ si tình đốn mạt đều khinh bỉ, chẳng ai
chịu hòa thân.

Bùi Độ uất quá, nghĩ mình địa vị cao sang, giàu có rất mực, thế mà nữ nhi không phục tùng, chàng dùng
quyền hành ép buộc, cưỡng bức.

Trong lúc đó, thì nàng Ngọc Hà ở tại huyện nhà, ngong ngóng tin chồng, những mong đến ngày vinh thân
chàng sẽ về thăm để tỏ tình chỉ thắm.

Nào ngờ, mỗi ngày mỗi bặt tin. Đến lúc sau, nàng được biết Bùi Độ đã đến trấn nhậm Hà Lạc, giữ chức
huyện quan. Nàng muốn tìm đến. Nhưng than ôi ! bấy giờ tiếng đồn đã rộn bên tai, Bùi Độ đã trở thành
người bất liêm bất chính, cậy thế cậy quyền, hiếp đáp dân lành.

Nàng Ngọc Hà quá đau lòng tủi phận, cố lòng đến đó một phen để dò xét cho tận mắt. Nhưng Ngọc Lão còn
ngờ chưa dám cho nàng đi, chỉ sai người đến dọ thám trước xem sao đã.

Thời gian chưa bao lâu, đã có tin về báo :


­ Quan huyện Hà Lạc vì hiếp đáp gái lành, nên bị dân chúng kiện thưa, quan trên cách chức, và triệu về kinh
để trị tội rồi !

Thật vậy, tin ấy chẳng lầm ! Hành động cuồng si của Bùi Độ đã làm chấn động khắp nơi, do đó chàng bị cất
chức.

Bùi Độ tự biết mình không thoát khỏi tội nên chẳng dám về triều, trốn vào rừng núi.

Rồi một ngày kia, không có cơm ăn, đói khát, hơn nữa đã thất bại trên đường đời, Bùi Độ không còn muốn
sống nữa, chàng nằm trên mặt tảng đả, chết giữa một cánh rừng hoang vu.

Nàng Ngọc Hà đau lòng quá, không biết tin tức của chồng ra sao, vội lén cha về kinh để được gặp tận mặt
Bùi Độ.

Nhưng khổ thay, nàng về kinh tìm hỏi suốt tháng trời, vẫn không biết được. Sau đó, nàng mới được tin :
“Quan huyện Hà Lạc đã sợ tội bỏ trốn rồi, không dám về kinh trần tố”.

Nàng thất thểu ra đi, hết nơi này đến nơi nọ, hỏi thăm mãi vẫn chẳng thấy bóng chồng. Sáu tháng trời trôi
qua, Ngọc Hà đi từ huyện này sang huyện khác, mỏi gối chồn chân, quần áo rách nát, tấm thân tiều tụy
tưởng không còn bút nào tả nổi. Nàng khóc đã cạn nước mắt mà nỗi buồn chưa vơi.

Một hôm, nàng đi qua khu rừng vắng, thấy có một bộ xương khô của ai đã chết rũ tự bao giờ. Nàng ngờ đó
là bộ xương chồng, nên ngồi đó khóc mãi. Bao nhiêu giọt lệ thừa nhỏ xuống rưới trên đống xương tàn quyết
trả nghĩa cho chồng.

Đau đớn thay ! Một người đàn bà có nghĩa như vậy lại vướng phải kẻ vô tình như Bùi Độ, quả đã uổng đời
hồng nhan.

Chẳng biết nắm xương khô của Bùi Độ có vì giòng nước mắt chân thành kia mà ân hận nơi chốn suối vàng
chăng.

Ngọc Hà khóc đến mấy ngày đêm, sau đó vì quá đau đớn, buồn duyên tủi phận, nàng đã ngất xỉu trên đống
xương khô kia, và chết tại đấy.

Ôi ! Hồng nhan bạc mệnh thay !

Bùi Tấn Công Vì Nghĩa Trả Nàng Hầu

Đời Đường Hiến Tông niên hiệu Ngươn Hòa thứ 13 có bọn giặc Ngô Tế Quang làm phản ở Hoài Tây. Vua
phái Bùi Tấn Công đi đánh dẹp. Khi Bùi Tấn Công bình định xong đất Hoài Tây trở về, được vua phong Tể
tướng và thăng trật Tấn Quốc Công.

ở trong xứ, các vùng hẻo lánh còn nhiều bọn cướp dữ, nghe danh tiếng Bùi Tấn Công cũng lần lần dâng đất
chuộc tội.

Nhờ vậy mà trong nước được thái bình thịnh trị...

Vua Hiến Tông thấy trong nước được mưa hòa gió thuận, dân sự yên ổn làm ăn, nên muốn bắt chước người
xưa, xua quân đi tìm thuốc “Sống đời” mà Hiến Đế định là do cỏ cây, đất đá hòa hợp mới chế thành vị thuốc
trường sinh.

Bùi Tấn Công và các trung thần dâng sớ cực lực phản đối và xin từ quan. Hiến Đế không chấp thuận và quở
rằng :

­ Bùi Công và các ông muốn lập phe đảng chi đó.
Từ đấy Bùi Tấn Công ngao ngán cho tham vọng con người và không đoái tưởng đến sự giàu sang nữa.
Nhưng Bùi Tấn Công sợ từ chức sẽ có hại cho mình, nên miễn cưỡng đi chầu hầu việc. Về các vấn đề ở
triều đình, dù một lời nói Bùi Tấn Công cũng không muốn bàn đến nữa.

Và cũng kể từ đấy Tấn Công giả bộ thơ thẩn vui say bên giọng đàn tiếng hát và Phủ Tấn Công chỉ thâu nạp
ca nhi vũ nữ chớ không nhận lễ vật bạc vàng.

Bấy giờ tại phủ Tấn Châu, huyện Vạn Tuyến có một người tên Đường Bích hiệu Quốc Bửu thi đỗ cử võ Hiếu
Liệm, được bổ cai trị xứ Hoát Châu, huyện Long Tuyền với chức vụ huyện uà. Rồi đổi sang làm huyện ùa
huyện Việt Châu.

Khi chưa làm quan, Đường Bích có đi hỏi con gái ông Huỳnh Thái Học làm vợ, tên là Huỳnh Tiểu Nga.
Nhưng Tiểu Nga còn quá nhỏ nên Thái Học chưa giao về cho chàng.

Thắm thoát Đường Bích đổi đi trấn nhậm hai nơi mà vẫn cô thân chích bóng.

Về nàng Tiểu Nga thì nhan sắc hoa nhường, nguyệt thẹn, má phấn môi hồng, rành rọt về âm ba nhạc điệu,
đàn hay hát giỏi nổi tiếng nhất đất Tấn Châu.

Tại dinh Thứ sử Tấn Châu, quan Thứ sử muốn thành lập một ban nữ nhạc để tiến dâng Tấn Công, nhưng
chỉ tìm được năm cô gái đẹp mà không xuất sắc lắm về âm nhạc. Nghe đồn nàng Tiểu Nga con ông Huỳnh
Thái Học, nhưng Thứ sử ngại lão Thái Học dễ gì chịu cho con gái gia nhập đoàn hát của ông, nên ông trích
ra 30 muôn bạc gởi đến quan huyện Vạn Tuyến nhờ huyện đường giúp sức.

Huyện quan được chỉ thị cấp trên nên cấp tốc đến nhà Huỳnh lão để thảo thuận. Gặp Huỳnh lão huyện quan
hết sức biện minh và tỏ à Thứ sử Tấn Châu nhờ mình giúp và cũng là lệnh thượng cấp nữa.

Huỳnh Thái Học từ chối ngay :

­ Tôi đã nhận lễ hỏi gả cháu rồi, cảm phiền huyện quan tìm nơi khác, tôi không dám vưng lời !!!

Lão huyện thất bại trở về, thầm tính bắt cóc Tiểu Nga, và cho người dò la ở nhà Huỳnh Thái Học.

Nhân tiết thanh minh, gia đình Huỳnh Thái Học đi đốt mả cúng vong chỉ để một mình Tiểu Nga trông nom
nhà cửa. Quan huyện được tin này, tức tốc trang bị một chiếc kiệu và mang theo 30 muôn bạc đến nhà Thái
Học, dùng lời khéo léo gạt nàng Tiểu Nga lên kiệu và cho chở thẳng đến phủ Tấn Châu, giao cho vệ môn
của quan Thứ sử, đồng thời niêm phong cẩn mật 30 muôn bạc một trác văn để lại tại Huỳnh gia.

Khi Thái Học trở về gia đình mới hay tự sự, thì huyện quan cho biết đã đưa nàng về cho quan Thứ sử rồi.

çng bèn thẳng đến Tấn Châu lấy sự tình đau khổ của mình, mà kêu nài quan Thứ sử, và mang theo 30
muôn bạc;

Thứ sử Tấn Châu tiếp ông tử tế và mời ngồi đoạn nói :

­ Huỳnh lão bá khéo sanh một gái tài sắc song toàn, nay mai sẽ được Tấn công lưu à là một điều vinh hạnh
nhứt trần đời, ít có ai may mắn và tốt phúc hơn lão bá. Thí dụ lão bá có nhận 60 muôn lượng mà gả con thật
cũng không bằng nữa !

Cá mắc câu, chồn mắc rọ, rồi thì người ta muốn làm thế nào lại không được, lão Thái Học biết thế, nhưng cố
gắng năn nỉ, van xin cả buổi trời, làm cho Thứ sử quan nổi cáu hét lên :

­ Tôi đã hết lời nói với ông mà ông không nghe, cứ khóc lóc kêu ca mãi, tôi có làm tội lệ gì con ông đâu ?

Giờ ông có ức lòng cứ thẳng đến phủ Tấn Công mà khiếu nại.
Huỳnh Thái Học thấy quan Thứ sử quá giận biết rằng có nói nữa cũng vô ích, bèn mang số bạc 30 muôn
lượng ra về. Khi Huỳnh Thái Học về rồi, Thứ sử Tấn Châu lo sửa soạn ban nữ nhạc, mang quần áo, sắm nữ
trang, tô son trát phấn, chỉnh bị nhạc cụ, cho kịp ngày lễ Khánh chúc sanh nhựt của Tấn Công, để dâng vào
trước Tấn Công.

Biết bao nhiêu là châu huyện các xứ các nơi đem về hàng ngàn gái đẹp để dâng hiến cho Tấn Công, và sáu
cô nữ nhạc Tấn Châu cũng được trình qua tể tướng...

Bấy giờ Đường Bích vừa mãn nhiệm vụ, lại được thăng cấp lãnh trát văn về kinh để nhận việc mới. Chàng
thầm tính giờ đây Tiểu Nga đã trưởng thành, nên sửa sang hành là nhắm quê nhà trở về.

Về đến huyện Vạn Tuyuến, đặng vài ngày, chàng liền tìm đến nhà cha vợ để thăm. Huỳnh Thái Học thấy
chàng, giọt lệ tuôn trào, lòng già quặn thắc, bèn kể lể công việc nhà cho Đường Bích nghe.

Đường Bích nghe xong nghiến răng và than :

­ Người con trai đứng trong cõi đời thân phiêu bạt nổi trôi, đến nỗi người vợ cũng bảo đảm không nổi, huống
gì đời sống của mình ?

Dứt lời chàng khóc òa lên.

Huỳnh Thái Học ân cần khuyên giải :

­ Hiền tế là kẻ anh tài lương đống, ắt còn nhiều mối duyên may phận đẹp, lão chỉ tủi thân con gái lão, số
phận mỏng manh gặp điều ngang trái nên không giữ được lời ước hẹn xưa.

Đường Bích nóng giận :

­ Tôi quyết gặp huyện quan và Thứ sử để tranh luận.

Huỳnh Thái Học khuyên giải :

­ Không nên đâu hiền tế ạ ! Hiền tế có tranh luận chỉ vô ích mà thôi, vả chăng việc này vướng líu đến Bùi
Tấn Công, e hiền tế mắc tội, và bất lợi cho bước đường công danh của hiền tế. Hiện nay huyện quan và Thứ
sử còn giữ lại nhà 30 muôn bạc, còn tang chứng “lễ hỏi” là chiếc vòng bích ngọc Tiểu Nga đã mang theo khi
bị đòi hầu ! Mọi việc lão nghĩ khó quá hiền tế ạ !

Đường Bích ngồi nghe mắt mờ đẫm lệ và tức tửi :

­ Tôi đã gần 30 tuổi rồi, nếu mất Tiểu Nga, sắt cầm gẫy đổ, loạn phụng chia lìa, chung thân thể ở vậy cho
trọn lời nguyền với Tiểu Nga. Còn đường công danh tôi không muốn vướng bận nữa.

Huỳnh Thái Học nghẹn ngào đầy lệ.

Đường Bích không lấy tiền và lũi thũi ra về. Qua ngày sau Huỳnh Thái Học đích thân đến nhà Đường Bích.

Sau ba lần khuyên giải, Đường Bích đáp :

­ Để tôi đến kinh đô nghe ngóng tình hình, chớ ngồi nhà bực bội và chẳng ích gì. May ra gặp đặng tin tức
Tiểu Nga.

Đường Bích thuê thuyền để đến kinh. Huỳnh Thái Học mang số bạc 30 muôn lượng xuống giấu dưới thuyền
và tiễn đưa chàng rể.

Đường Bích ra đi chỉ có một mình.

Qua hôm sau mới trông thấy gói bạc, chàng quá xúc động nên chê trách lão Thái Học bán con như bán đồ,
và chàng không sờ mó vào đống tiền vô nghĩa này.

Đến Trường An chàng mướn phòng ngủ kế bên Bùi Tướng phủ. Qua ngày sau chàng đến sứ bộ ghi tên,
trình giấy tờ và nhiệm vụ mình để chờ sự bổ nhiệm nơi mới.

Chàng đi ăn sáng tại một quán ăn kế cửa Bùi Tướng phủ để nghe ngóng tình hình nhưng không đặng tin tức
gì cả.

Thật là : Cửa thế quyền còn sâu hơn biển !

Một ngày kia chàng đến sứ bộ, thấy bảng văn ở sứ bộ yết rằng : “Đường Bích vinh thăng Lục sự tham quân
Hồ Châu, phải lo sửa soạn hành là và đến lấy trát văn lên đường trấn nhậm Hồ Châu”.

Đường Bích vào lãnh giấy tờ để trở về. Vì bận mang 30 muôn bạc lên bờ, xuống thuyền, vào phủ, ra nha,
thành thử bọn cướp đường sông lưu à. Chúng toa rập với chủ thuyền để cướp của Đường Bích.

Khi thuyền tách bến qua khúc rạch vắng, bọn cướp dữ xông vào tính giết chết Đường Bích để đoạt của vào
khoảng nửa đêm. May thay, Đường Bích đã khổ lại sầu nên chưa chớp mắt, nghe ồn ào và thấy bọn cướp
xông vào, Đường Bích nhảy phóc lên bờ, chạy trối chết. Chừng tỉnh hồn thì cả cướp lẫn thuyền đà mất
dạng.

Ngồi dựa lề đường giữa đêm khuya khoắt chàng ôm đầu khổ sở và nghĩ suy :

­ Giờ đây tiền cũng mất, vợ cũng mất, hành là cũng mất. Những thứ ấy không quan hệ bằng trát văn ấn tín
vua ban. Mất ấn tín có thể bị tử tội ! Giờ thì biết về đâu ? làm sao ?

Cùng phương hết kế, chàng rất tủi nhục, khổ sở, nên ngồi tại lề đường chờ sáng và khóc lóc rất thảm hại !

Chàng ủ ê buồn khổ nên sáng lúc nào cũng không hay. Bỗng nghe giọng một ông lão gọi :

­ Này ông bạn ! Vì sao mà khóc lóc đau buồn như vậy.

Đường Bích nghẹn ngào không trả lời được. Lão già hỏi :

­ Thôi, ông bạn bớt ưu phiền, hãy vào nhà lão nghỉ đỡ rồi liệu toan. Chuyện đâu còn có đó mà !

Đường Bích theo ông lão vào nhà, sau khi phân ngôi chủ khách xong, Đường Bích bèn kể rõ sự tình cho
ông lão nghe... çng lão lễ phép nói :

­ Tôi tên là Tô Khuyển tự Phụng Hoa, giữ chức võ huyện ùa ở Hồ Châu, vừa nghe ông, đến kinh để gặp ông,
không ngờ ông lại lạc ở đây.

Nói đoạn ông lão mời Đường Bích vào phòng thay áo, đổi giày và gởi biếu Đường Bích 20 lượng bạc.
Đường Bích cáo từ và trở lại kinh sư, đến tại khách sạn mà chàng thuê ở hôm trước, và cấp tốc đến sứ bộ
khai việc mất cướp để nài nỉ xin một trát văn mới đi trấn nhậm.

Sứ bộ quan mỉm cười nói :

­ Giấy tờ đã mất vô cớ, vậy phiền ông ít hôm trở lại, đợi tôi phúc trình cấp trên đã.

Đường Bích ngày qua ngày, đứng trước cửa hầu môn chầu chực, hết năn nỉ van xin, đến khóc lóc khẩn cầu.
Đã năm ngày qua số bạc 20 lượng của Tô lão cho, chỉ còn có 2 lượng mà thôi. Đường Bích rầu rĩ về khách
sạn, đau khổ dập dồn, tâm hồn thổn thức.

Đang lúc rầu rĩ thấy một ông lão tuổi trạc 50, da hồng râu điểm bạc, đầu bịt khăn tiêu diêu, mặc áo rộng tím,
thắt lưng lụa vàng, tướng mạo phi phàm, có vẻ phú hào viên ngoại, xâm xâm đi vào khách sạn ngay chỗ
Đường Bích, rồi kéo ghế ngồi ngang Đường Bích.
Qua một lúc, ông lão áo tím hỏi :

­ Này ông bạn, ông bạn quê quán ở đâu, vì sao mà có vẻ buồn quá vậy.

Đường Bích che mặt không đáp.

çng áo tím lại hỏi :

­ çng bạn ! Có chuyện gì đau khổ, có thể cho lão biết phần nào, may lão có thể giúp ích ông bạn được ?

Đường Bích tức tưởi đáp :

­ Tôi tên Đường Bích quê ở Tấn Châu, giữ chức Lục sự tham quân Hồ Châu, giấy tờ trác văn vừa nhận ở
Thứ sử quan, trên đường đi trấn nhậm bị cướp bóc, mất cả hành là và tiền bạc, cho nên tôi vô phương tính
rồi !

çng áo tím hỏi :

­ Thế sao ông bạn không đến dinh quan Thứ sử xin họ cấp giấy tờ khác có được không?

Đường Bích đáp :

­ Tôi đã làm rồi nhưng không kết quả ! Cửa quyền môn còn sâu hơn biển, thời suy tàn cũng khó lạy cầu ! Tôi
đã hết lời biện luận mà Thứ sử không cho.

çng áo tím hỏi :

­ Lão ở đây đã lâu, thường nghe Bùi Tấn Công là người nhân hậu giúp đỡ khốn khó, sao ông bạn không đến
đó một lần xem ra sao.

Đường Bích khoát tay lia lịa đáp :

­ Tôi xin bác ! Bác có thương tôi thì đừng nói đến ba chữ Bùi... Tấn... Công... nữa !

çng áo tím ngạc nhiên hỏi :

­ Tại sao có chuyện lạ vậy ông bạn ?

Đường Bích bèn kể lể :

­ Để tôi nói rõ bác nghe : Thuở tôi còn nhỏ, tôi có đi hỏi một cô gái đẹp ở cùng làng. Nhân lúc tôi đi làm việc
nơi xa vắng, và nàng còn nhỏ chưa tiện đem theo, thì bị lão huyện ùa Tri Châu đến cướp mất, sung vào ban
nữ nhạc để hiến Tấn Công. Việc này, tôi cũng rõ không phải do à của Tấn Công mà do sự dua nịnh của các
quan nha, châu huyện. Nhưng xét về là thì chính là Tấn Công đã chia rẽ vợ chồng tôi. Tôi còn hy vọng gì gia
đình tôi được vui vầy sum họp nữa.

çng áo tím lại nói :

­ çng bạn à quyết sum họp gia đình lắm sao ? Thế nàng tên họ gì mà tốt phước vậy ? Vả chăng, lễ hỏi của
ông bạn có nạp sính lễ gì cho nhà gái không ? Phải có bằng cớ gì chớ ?

Đường Bích đáp nhanh :

­ Nàng họ Huỳnh, tên Tiểu Nga. Lễ hỏi tôi có nạp chiếc vòng bằng ngọc bích làm sính lễ, hiện nàng đang
đeo giữ !
çng áo tím ra vẻ ngẫm nghĩ giây lâu nói :

­ Thú thật với ông bạn, tôi có bà con với Tấn Công nên ra vào phủ tự do. çng bạn muốn hỏi gì thêm, hay
nhắn với Tiểu Nga, tôi sẽ nói lại giúp ông bạn ?

Đường Bích than :

­ Cửa quyền thế sâu như biển đã vào ắt khó gặp. Nếu bác có lòng tốt nghĩ đến thân hèn này, thì bác vui lòng
giúp đỡ thế nào cho cháu gặp Tiểu Nga nói vài lời tâm sự, dầu chết cháu cũng mát dạ yên lòng.

çng áo tím bảo :

­ Ngày mai giờ này ắt có tin vui đến ông bạn. Giờ thì xin cáo từ.

Dứt lời, ông lão đứng dậy ra về. Đường Bích lúc bấy giờ đã tỉnh trí lắm rồi, nhớ những lời nói vừa qua với
ông áo tím, chàng hoảng hồn và quá hối hận, bèn kéo ông áo tím lại xá dài thưa :

­ Mong đội ơn bác có lòng đoái nghĩ đến cháu. Phận cháu là kẻ hèn mọn đâu dám phê bình chuyện làm của
Tấn Công. Thoảng như bác có vào phủ xin che chở giùm, đừng nói những lời vừa qua ắt cháu có tội với Tấn
phủ, xin bác nhé !

çng áo tím mỉm cười và cáo biệt. Đường Bích ngồi lại một mình suốt đêm không ngủ được, đến lúc trời sáng
Bích sửa soạn ra đường, thẳng đến phủ Tướng công để nghe ngóng. Vừa đi chàng vừa nhủ thầm :

­ çng áo tím hứa với ta chiều nay, nhưng ta cũng nên là cà hỏi thăm xem sao ?

Và chàng nghe người ta nói :

­ Hôm nay Tướng công không tiếp khách, mà sao trong phủ nhộn nhịp khác thường ?

Chàng đi suốt buổi sáng, chiều, mà không gặp, không nghe tin tức gì của ông áo tím cả. Buồn bã trở về
khách sạn thì nhà trọ đã lên đèn rồi. Chàng bèn ngồi thừ ra đó. Bỗng có hai người hấp tấp chạy vào khách
điếm hỏi lớn :

­ Qùa ông ở đây có vị nào là Đường Bích tham quân ở Hồ Châu không ?

Đường Bích ngại quá không dám lên tiếng, thì hai người nọ đã đến hỏi chủ khách điếm:

­ Tôi là tùy viên ở Bùi Tướng phủ, vâng lệnh đến đây mời ông Đường Bích tham quân đến cho Tướng công
trò chuyện, vậy chủ quán vui lòng cho biết xem ông nào ?

Chủ khách sạn hướng về chỗ Đường Bích ngồi và nói :

­ çng Đường tham quân ! Có người tìm ông đây.

Đường Bích nói :

­ Tôi và Tướng công là chỗ không quen thì đâu có chuyện mời thỉnh đó ? Có lẽ quà ông lầm rồi. Hơn nữa kẻ
quần bô áo vải đâu dám vào tướng phủ hầu tiếp Tấn Công ?

Hai tùy viên Tấn phủ đáp :

­ çng đừng ngại gì cả, Bùi Công lòng rộng như biển, giao tiếp đủ hạng người. Hơn nữa, lúc ra đi ông còn dặn
đôi ba phen “Hãy đến mời Đường tướng quân, bảo ta ngồi phòng khách đợi ông ấy !”

Túng thế Đường Bích phải theo hai tùy viên vào Tấn phủ... Vào đến phủ đường... Hai bên đèn đuốc sáng
choang, quang cảnh trang nghiêm tráng lệ.
Hai tùy viên dắt chàng vào một căn phòng họp của Tấn phủ thì thấy Bùi Tấn Công đã ngồi ở đấy đợi chàng.

Tấn Công đầu bịt khăn the mặc áo rộng trắng, thắt lưng hường, chòm râu điểm bạc.

Đường Bích nhìn tỏ tường hoảng sợ quỳ phục sát đất làm lễ. Tấn Công cho người đỡ dậy và mời ngồi.
Đường Bích từ chối ba phen mới dám ngồi một ghế thấp hơn, mà mồ hôi ướt áo, run rẩy kinh sợ khác
thường. Bởi vì Tấn Công là người áo tím mà Bích hội ngộ Ở khách sạn tối qua ! Nguyên Tấn Công hay giả
dạng thường dân để di hành khắp chỗ.

Hôm qua may phước cho Đường Bích gặp được Bùi Công và tỏ tâm sự. Khi về tới phủ, Tấn Công cho soát
lại tên họ các nhóm mỹ nữ. Quả nhiên thấy có tên Huỳnh Tiểu Nga, Vạn Tuyến huyện. Tấn Công liền cho đòi
nàng đến yết kiến, thì nàng quả là một trang mỹ mạo hoàn toàn. Tấn Công bèn hỏi lai lịch, nàng nhứt nhứt
kể ra giống y lời Đường Bích. Khi hỏi đến chiếc vòng ngọc làm sính lễ, thì nàng bèn trình ra cho tướng công
xem.

Biết rõ các điều bí ẩn của hai người, Tấn Công bèn giả bộ hỏi nàng :

­ Tiểu Nga, hiện giờ chồng của nàng ở đâu ? Và nàng có muốn gặp mặt không ?

Tiểu Nga ứa lệ trả lời :

­ Thưa tướng công, vì nỗi má hồng thường bạc phận, từ nay ắt thiếp không còn gặp chàng nữa. Còn việc
tìm chàng là quyền do tướng công, chớ thiếp đâu dám tự chuyên.

Tấn Công nghe qua, xoa đầu nàng và bảo theo thế nữ vào trong. Đoạn Tấn Công ra lệnh cấp cho nàng một
ngàn quan tiền mua sắm trang sức áo quần và sửa soạn hành là cho nàng, để Tấn Công trả nàng lại cho
Đường Bích. Một mặt Tấn Công sai gia nhân cấm thiếp lại sử bộ bảo sửa soạn cho xong nộ nhựt “Văn kiện
giấy chứng trát văn đáo nhậm của tên Đường Bích tham quân quận Hồ Châu”, và đem lại Tấn phủ. Một mặt
bí mật nhờ khách sạn tổ chức cuộc hôn lễ phòng hoa, rồi mới sai mời Đường Bích. Đường Bích tâm hồn
xáo trộn, à tưởng hoang mang chỉ biết ngồi thừ ra, mặt cúi xuống đất mà thôi.

Chợt nghe Tấn Công bảo :

­ Này ông bạn ! Hôm qua lão phu được tiếp chuyện với ông bạn và rõ cớ sự. Nay lão lấy tấm lòng thành thật
mà đáp lại ông bạn nhé. Vì lão phu ham vui, làm chia rẽ phượng loan của bạn, với lỗi ấy, hôm nay lão cho
mời ông bạn đến để xin lỗi !

Đường Bích hoảng kinh quỳ mọp xuống đất, lòng suy nghĩ.

Dưới nhà quan có gươm có thép, “không biết sự lành sự dữ thế nào”. Chàng quỳ lạy như tế sao.

Bùi Tấn Công nghiêm trang bảo :

­ çng bạn hãy đứng dậy và ngồi nghe lão phu nói hết lời đã ?

Đường Bích cúi đầu thưa :

­ Thưa tướng công, kẻ hèn này vô phước rủi gặp tai ương nên tâm thần điên đảo, hôm qua lỡ lời mạo phạm
đến tướng công, đáng muôn thác.

Tấn Công khoát tay bảo ngồi và tươi cười bảo :

­ Lão phu đâu dám chấp nhứt chuyện hôm qua ! Lão đã mời ông bạn đến để xin lỗi mà! Vậy hôm nay là ngày
lành tháng tốt, lão muốn thay quyền cha mẹ của ông bạn, đứng làm chủ hôn, trả Tiểu Nga về cho ông bạn,
và lão đã biếu cho Tiểu Nga một ngàn quan trang phục cho hai họ, để tượng trưng sự chuộc tội của lão phu
? Vậy ông bạn nghĩ thế nào cho lão biết ?
Đường Bích nghe qua như từ trên trời rơi xuống, ngỡ là chiêm bao. Vì ông áo tím vẫn ngồi rõ ràng kia mà.

Chàng không biết nói sao, chỉ biết cúi đầu lạy tạ Ơn Bùi Tấn Công ân đức.

Nhạc thiều trổi dậy đèn đuốc sáng choang, có hai thế nữ phò Tiểu Nga đến gặp Đường Bích. Bích Nga vui
mừng vô kể. Tấn Công ra lệnh cho tùy nhơn đưa Đường Bích vào phòng thay đồ để ra làm lễ trước bàn thờ
tơ hồng.

Hai người sửa soạn xong ra trước mặt Tướng công quỳ lạy bốn lạy đền ơn. Tướng công vui vẻ thấy đôi trẻ
hoan hỉ, bèn chúc rằng :

­ Đường, Huỳnh hai họ sớm được con hiền cháu thảo, sau được phước lộc vinh hoa.

Tấn Công ra tiễn Đường Bích, Tiểu Nga khỏi cổng, người người hoan hỉ. Bích, Nga cúi lạy tạ Ơn lần nữa,
bỗng nghe sứ giả Bùi phủ trổi nhạc lên đường và hướng dẫn Bích, Nga về khách sạn.

Đường Bích ngước lên, thấy cửa khách sạn đã gắn sẵn hai chữ “Đường Huỳnh” bằng hoa kết treo ở cửa
khách sạn. Nhạc phủ tưng bừng.

Đứng tại cửa khách sạn, hai tùy viên Tấn phủ lễ phục nghiêm trang dâng lên chàng một cái hộp nhỏ, trên có
đề chữ “Bùi Tấn Công thân tặng Đường tham quân”.

Chàng mở ra xem thì đủ cả giấy tờ ấn tín.

Đường Bích vui mừng vô hạn, thầm kính phục và cảm ơn Bùi Tấn Công đã lo giúp mình vô cùng chu đáo.

Kế đến lễ quan mời Đường Bích, Tiểu Nga vào tiệc và làm lễ động phòng...

Thế mới biết :

Lúc lên, gió đẩy đến lầu vua

Thời mạt, sấm tàn bia tiến phúc

Hôm nay Nga, Bích được hòa âm

Bù lại những ngày đầy khổ cực.

Hôm sau Bích, Nga qua tướng phủ bái tạ. Tấn Công cho người đáp lễ mà không tiếp kiến. Hai người bèn
nhắm ngay trung đường lạy bốn lạy đền ơn, rồi trở về khách sạn gom góp hành là, mướn thuyền về quê, rồi
đi tái nhậm.

Về đến nhà Huỳnh Thái Học trông thấy mừng tủi, nói ríu rít :

­ Bĩ cực có hồi thái lai ! Lão không dè còn có ngày nay.

Huỳnh Thái Học tổ chức một tiệc mừng ngày đoàn tụ và làm lễ tạ Ơn trời Phật.

Vài ngày sau vợ chồng Đường Bích lại lên đường trấn nhậm đến Hồ Châu. Đường Bích cảm công ơn Bùi
Tấn Công, bèn thuê thợ chạm một cái tượng bằng trầm hương để ngày đêm thờ phụng.

Về phần Tấn Công sống được 80 tuổi, con cháu đều được sang cả vinh xương.

Về đời sau người đời có đề thơ rằng :

Vô thất, vô quan, khả mạc luân


Châu hoàn hảo sự, lãi hồng ân

Nhơn năng bộ bộ tầm âm đức

Phước lộc miên miên cập tử tôn

Dịch :

Nói chi ? không phận với không nhà

Chắc gì ? chuyện tốt đến cùng ta !

Nếu ai mỗi bước tìm âm đức

Con cháu ngày sau phước thuận hòa

Thôi Hộ

Thôi Hộ là một nho sĩ tài danh, nổi tiếng một nhà thơ hay. Một năm kia, Thôi Hộ lều chõng lên đường ra kinh
kỳ thi, nhằm tiết thanh minh.

Thôi Hộ vừa đi vừa ngắm cảnh dọc đường dẫn ra chốn kinh kỳ kẻ chợ. Vào buổi xế chiều chàng Thôi đến
một ngôi nhà có một vườn đào tuyệt đẹp hoa đào đang đua nở. Thôi Hộ nhìn vào trong vườn thấy một giai
nhân tuyệt sắc đứng trong cửa. Thôi Hộ ghé vào trong trại xin nước uống. Giai nhân vồn vã mời chàng uống
nước trà Vũ Di. Vừa uống nước, Thôi Hộ vừa nói chuyện với giai nhân.

Đôi bên tâm đầu à hiệp, hai người đều tỏ lòng quyến luyến nên lúc tiễn chàng Thôi ra, người đẹp và chàng
Thôi còn đứng dưới gốc đào chuyện vãn hồi lâu mới chia tay.

Qua năm sau, Thôi Hộ đi qua chốn ấy vào buổi đầu xuân. Nhìn vào trong nhà thấy vắng bóng gia nhân, Thôi
Hộ buồn rầu nhìn cảnh cũ hoa đào vẫn nở hoa, cội đào còn đó mà nhà ai cửa đóng then cài.

Thôi Hộ dạo qua trong vườn một lát rồi lấy bút mực ra đề bài thơ nơi cánh cửa chỗ người đẹp đứng năm
xưa :

Khứ niên kim nhựt thử môn Trung


Nhơn diện đào hoa tương ánh hồng
Nhơn diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong !

Dịch :

Hôm nay năm ngoái cửa cài,


Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi
Mặt người chẳng biết đâu rồi
Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông

Viết xong bài thơ trên vách cửa, Thôi Hộ buồn rầu ra đi khỏi đào gia trang, quay về quê cũ.

Ngày tháng trôi qua như bóng câu qua cửa sổ. Xuân về trong hơi gió heo may, mưa bụi giăng tím cả bầu
trời. Tiếng pháo mừng xuân nổ vang khắp thôn xóm, Thôi Hộ lại nhớ đến người đẹp ở vườn đào. Chàng lên
đường sang thăm nơi vườn cũ.

Hoa đào trong vườn khoe sắc thắm dưới bầu trời xuân ấm áp. Thôi Hộ lần bước vào vường, bỗng nghe
tiếng khóc thảm thiết. Thôi Hộ giật mình vì tiếng khóc não nuột đớn đau. Chàng gõ cửa hỏi thăm. Một vị lão
trượng da mồi tóc bạc, chống gậy trúc đi ra mở cửa mời chàng vào. Thôi Hộ cung kính hỏi thăm mới biết vị
lão trượng chống gậy trúc là thân phụ của người đẹp đứng trong cửa sổ mà chàng Thôi đã gặp năm xưa.

Vị lão trượng kể lại cho chàng Thôi nghe :

­ Lão là Đào Bạch Phụng, năm nay đã ngoài 60 tuổi, chỉ có một con gái là Đào Phụng Trinh năm nay vừa độ
trăng tròn. Cha con lão ở trong vườn đào này từ thuở Phụng Trinh mới chào đời và thân mẫu của Phụng
Trinh cũng mất ở đây.

Cách đây hai năm, Phụng Trinh kể lại khi lão đi vắng, có một chàng nho sĩ đi qua đây vào xin uống nước.
Rồi một năm qua, nhân ngày xuân mới, lão và Phụng Trinh ra chùa dâng hương thì chàng nho sĩ ấy lại đến
thăm không gặp ai ở nhà. Nho sĩ viết một bài thơ trên vách cửa.

Đến lúc về, đọc bài thơ trên vách Phụng Trinh tưởng tượng nhớ đến chàng nho sĩ tài hoa kia mà thành đau
tương tư. Con gái lão đau luôn trong một năm nay và vừa thở hơi cuối cùng trước lúc ông đến đây độ một
khắc.

Thôi Hộ nghe lão trượng, thân phụ nàng Phụng Trinh kể lại, liền ôm mặt khóc. Chàng không ngờ bài thơ của
chàng đã gieo cho Phụng Trinh một nỗi buồn đau, ôm một mối tình tuyệt vọng. Thôi Hộ mới thú thực với vị
lão trượng rằng chính chàng là chàng nho sõ đã đề thơ trên vách năm xưa.

Thôi Hộ đến nơi Phụng Trinh nằm, vật mình lăn khóc chàng ôm lấy Phụng Trinh mà gọi lớn rằng :

­ Phụng Trinh nàng ơi ! Thôi Hộ đã về đây !

Chàng Thôi gọi ba tiếng liền thì Phụng Trinh từ từ mở mắt, cất tiếng thở dài, miệng mỉm cười sung sướng.
Phụng Trinh đã sống lại. Đào Bạch Phụng lão trượng thấy con sống lại, lòng già mừng rỡ.

Thôi Hộ thấy Đào Phụng Trinh sống lại vội đỡ nàng ngồi dậy. Lão trượng Đào Bạch Phụng bằng lòng cho
Phụng Trinh gá duyên cầm sắt với Thôi Hộ.

Kiết Phụ

Thu Hồ Tử là một chàng nho sĩ tài tuấn, thông minh, văn chương thi phú rất giỏi, chỉ hiềm một nỗi chàng Thu
thường có tánh gió trăng hay trêu ghẹo người đẹp.

Thu Hồ Tử thi đỗ chờ ngày bổ đi làm quan Đại đăng khoa, vinh quy bái tổ, về quê nhà, Thu Hồ Tử lại Tiểu
đăng khoa.

Lấy vợ được năm ngày, Thu Hồ Tử nhận được chiếu vua ban xuống cử chàng Thu đi làm quan ở nước Trần.

Từ giã mẹ già, vợ dại, Thu Hồ Tử thu xếp hành trang lên đường sang Trần quốc nhận việc. Làm quan ở
nước Trần được năm năm, Thu Hồ Tử được phép trở về quê thăm mẹ già. Rong ruổi trên đường thiên là
ngót ba tháng trời, từ nước Trần, Thu Hồ Tử về đến cố hương. Nhìn ruộng dâu xanh ngát một màu, con
sông uốn khúc quanh co như một giải lụa trắng quấn quanh thân áo xanh của nàng thôn nữ tuyệt sắc nơi
đồng nội, Thu Hồ Tử vui mừng nhìn thấy quê hương sau bao năm xa cách.

Thu Hồ Tử đang mãi ngắm phong cảnh cũ, bỗng chàng liếc thấy một thôn nữ tuyệt sắc, tuổi vừa đôi chín,
má ửng hồng, đôi mày lá liễu, cặp mắt nhung huyền, bàn tay búp măng thoăn thoắt hái những lá dâu xanh
bên đường đê thẳng tắp.

Thấy người đẹp, Thu Hồ Tử xuống ngựa bước tới gần buông lời trêu ghẹo. Người đẹp hái dâu không trả lời
Thu Hồ Tử. Nàng vẫn lặng lẽ hái dâu non.

Thu Hồ Tử định dùng hư danh cám dỗ nàng thôn nữ diễm kiều. Chàng bảo nàng rằng :
­ Nương tử đẹp như hằng nga giáng thế. Hình dáng nàng phải xứng với bậc phu nhân. Bây giờ nàng dùng
hết sức để làm ruộng cũng không bằng một năm trúng mùa. Nàng nhọc sức hái dâu nuôi tằm, cũng chẳng
bằng gặp một ông chồng làm quan trong nước. Ta đây sẵn có vàng bạc, châu báu, ngọc ngà. Nếu nàng
thuận cùng ta gá nghĩa đá vàng thì có thiếu gì thứ nàng muốn, có hơn cặm cụi hái dâu, chăn tầm không ,

Nàng thôn nữ không ưng thuận, mắng Thu Hồ Tử một hồi rồi bỏ ra về không hái dâu nữa. Thu Hồ Tử bị
mắng mà vẫn trơ trơ lên ngựa thẳng về nhà thăm mẹ.

Thu Hồ Tử lạy chào mẹ rồi tới chừng vợ chàng ra chào mới hay nàng thôn nữ hái dâu mà chàng chọc ghẹo
hồi nãy là vợ chàng. Thu Hồ Tử giật mình tự hổ.

Lúc ấy, vợ chàng, nàng Vạn Quốc Trinh mới nói với chồng rằng :

­ Chàng đi làm quan năm năm mới về xứ, lẽ thì phải hối hả về nhà thăm mẹ già cho phải đạo hiếu tử. Chàng
đọc sách đã nhiều, thi đỗ ra làm quan để dắt dẫn dân lành, là đâu chàng không hiểu điều lễ nghĩa nhỏ mọn
ấy ? Nào ngờ về đã gần tới nhà, mà gặp đàn bà ngoài đường liền xuống ngựa để trêu ghẹo, quên cả mẹ Ở
nhà năm năm trời ngong ngóng trông con, và cũng không cần biết người đàn bà ấy có chồng hay không
nữa.

Quên mẹ là đại tội bất hiếu, ưa sắc thì lòng dâm, hạnh nhơ thì bất nghĩa. Làm quan mà bất nghĩa thì trị
chúng bất minh. Người như vậy không đáng là chồng thiếp nữa.

Thiếp chẳng may lầm chàng là người đọc sách, tưởng đem thân bồ liễu gởi được vào bóng tùng quân, à
thuyền quyên tưởng nhờ được người sĩ quân tử. Bây giờ mới được biết rõ chí của chàng. çi thôi ! nhục nhã !

Nói rồi Vạn Quốc Trinh nhảy xuống giếng sâu mà chết.

Người đời sau cho nàng Vạn Quốc Trinh vợ của Thu Hồ Tử là Kiết Phụ.

Thôi Giao

Vào đời Khai Nguyên, có chàng Thôi giao đã đỗ tú tài, nhưng buồn thay lại là con nhà nghèo. Và cũng chỉ vì
gia cảnh túng thiếu, nên tuy chàng đã nặng tình với một thiếu nữ kiều diễm, và được nàng yêu lại, mà hai
người vẫn không lấy được nhau.

Thiếu nữ ấy vốn là một mỹ nhân ở Hán Nam, giỏi cả thi phú và ca hát, hiện đang làm thị tỳ cho người cô của
Thôi Giao.

Và người cô ấy cũng nghèo không kém Thôi Giao, nên tới một thời kỳ, vì trong nhà quá túng bấn, bà đã phải
bán nàng thị tỳ cho một vị Liên Súy tên là Vũ Địch, để lấy bốn mươi vạn đồng tiền.

Khi về hầu hạ Vũ Liên Súy, nàng thị tỳ đã được Liên Sùa hết mực yêu thương, và tặng thưởng nàng rất hậu
hỹ.

Về phần chàng Thôi Giao, thì khi người yêu đã về phủ đường Liên Sùa mất rồi, chàng nhớ tiếc nàng ngày
quên ăn, đêm quên ngủ, rồi lâu dần chỉ vì quá tương tư mà lâm bệnh. Sức đã yếu mòn, nhưng chàng vẫn
gắng gượng lần ra đứng trước cửa phủ đường Liên Suà, hy vọng được trông thấy dung nhan con người mà
chàng đang mong nhớ.

Và công phu của chàng chờ đợi rốt cuộc đã không uổng phí. Một bữa kia vào tiết hàn thực, quả nhiên người
đẹp đã cỡi ngựa dạo chơi ra tận ngoài dinh.

Gặp chàng đang ủ rũ đứng ngóng nàng dưới một bóng cây dương liễu, người thị tỳ của Vũ Liên Sùa quá
cảm xúc, ngồi trên ngựa khóc nức nở.

Chàng và nàng đứng bên nhau kể lể bao nhiêu nghĩa cũ, tình xưa. Nay nàng lại một phen thề sẽ sống chết
với chàng. Khi hai người từ giã nhau, Thôi Giao có tặng biết nàng một bài thơ nguyên tác như sau :

Công tử Vương tôn trục hậu trần


Lục châu thủy lệ thấp la câu
Hàu môn nhất nhập thâm như hải
Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân

Nhà văn Ngô Tất Tố đã dịch bài thơ như sau :

Theo chân bao kẻ ngớp mùi hương


Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tợ bê?
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường...

Trong bài thơ của Thôi Giao chàng không gọi rõ tên nàng, có lẽ là vì nàng đang ở nơi quyền quà mà đã
mượn tên Lục Châu để chỉ nàng.

Lục Châu cũng là một nàng hầu, nàng hầu mến yêu của Thạch Sùng và cũng là một trang giai nhân tuyệt
thế.

Còn về phần chàng, thì Thôi Giao tự gọi mình là Tiêu Lang, tức là chàng Tiêu, à là một con người tầm
thường không chức tước, vì có tài thổi sáo rất hay.

Bài thơ của Thôi Giao tặng nàng hầu của Vũ Liên Suà, bị một người thù ghét chàng, mang ra viết lại nguyên
văn trên vách tường của phủ đường Liên Suỳ, cố để hãm hại chàng.

Tới khi Vũ Liên Sùa đi qua, liếc trông thấy bài thơ, liền đứng lại ngâm đọc vài lượt, rồi sai lính triệu Thôi Giao
tới phủ đường ngay, làm ai cũng lo cho số phận của chàng.

Vì chính ngay Thôi Giao cũng lo sợ hơn ai hết. Nhưng biết lẫn trốn đi đâu bây giờ, chàng tú tài si tình đành
phải vào hầu Vũ Liên Suà, và cúi đầu quỳ xuống để chịu tội.

Không ngờ, Vũ Liên Sùa lại cầm tay Thôi Giao đỡ lên, hỏi :

­ “Một tới cửa hầu sâu tựa bể. Chàng Tiêu từ đó khách qua đường...” Những câu thơ đó của chàng, thầy làm
phải không ?

Trời, bốn mươi vạn đồng tiêu có là bao, sao thầy tiếc gì một lá thơ mà không chịu viết cho tôi, để tôi biết
chuyện ?

Nói xong, Vũ Liên Sùa liền cho mời người yêu của Thôi Giao ra, tặng nàng thêm tiền bạc và nữ trang, rồi
dạy nàng trang sức xiêm y rất lộng lẫy để về với người tình cũ.

Nhờ lòng quân tử của Liên Suà, Thôi Giao từ ngày đó không những đã chiếm lại được người yêu, mà còn
trở nên giàu có nữa.

Cắt Nửa Mảnh Tình

Vào đời nhà Minh, tại huyện Nhơn An thuộc xã Thọ Nhơn, có nhà họ Phan vốn giòng danh gia quà tộc, mấy
đời khoa mục, nổi tiếng một gia đình hay chữ nhất đương thời.

Thừa kế nhà họ Phan ấy có chàng Phan Trung, lúc tuổi mười bốn đã nổi tiếng văn hay, chữ tốt, được mọi
người ca tụng là “thức giả”.

Phan Trung tánh tình hào phóng, không thích bó thân trong chốn ruộng vườn, phiêu lưu đây đó, tìm cảnh
đẹp núi non để làm thơ, vịnh nguyệt.
Thời ấy, có quan Thứ sử họ Huỳnh, biết chàng là kẻ tài ba, liền gọi về kinh bổ dụng quan chức.

Phan Trung mỉm cười nói :

­ Tôi tuy nhỏ tuổi, nhưng tánh phóng đãng đã quen, bê tha biếng nhác, e không làm tròn nhiệm vụ của triều
đình giao phó chăng ?

Huỳnh Thứ sử nói :

­ Bậc tài ba không cứ gì lớn tuổi mới làm được việc. Vả lại, trong lúc nước nhà đang loạn, giặc cướp quấy
nhiễu mọi nơi, thân trai cần phải ra gánh vác, hiền đệ cứ mãi làm thơ, uống rượu phỏng có lợi gì cho dân ?

Tuy không thích ra làm quan, nhưng cũng không dám chối từ lời của quan Thứ sử, Phan Trung gật đầu nói :

­ Thưa ngài, ngài đã dạy kẻ hèn này đâu dám chẳng tuân. Nhưng kẻ này ước nguyện được làm một việc gì
hợp với à thích và nhẹ nhàng một chút.

Huỳnh Thứ sử mỉm cười nói :

­ Được, ta sẽ chọn cho hiền đệ một nhiệm vu hợp với khả năng. Vậy hiền đệ thích gì ?

Không cần suy nghĩ, Phan Trung đáp ngay :

­ Tôi thích ngao du đây đó, ngắm cảnh đẹp quê người, không muốn ở yên một chỗ. Quan Thứ sử có việc gì
hợp với à muốn tôi chăng ?

Huỳnh Thứ sử mỉm cười nói :

­ Được lắm, hiện nay nơi vùng biên ải quân giặc nhiễu nhương, các vụ kiện không đòi được nhân chứng đến
thẩm vấn nên đình đốn rất nhiều. Vừa rồi quan Thái sư có dâng sớ xin vua chọn một người thay mặt triều
đình đến đó đòi các nhân chứng xét hỏi và quyết đoán. Việc này nếu làm được sẽ giúp ích cho dân khỏi bị
hàm oan. Nhân đây ta bổ dụng hiền đệ làm chức ấy.

Phan Trung hỏi :

­ Thế thì các quan phủ, huyện nơi biên ải không làm được việc ấy sao ?

Thứ sử đáp :

­ Họ vẫn làm, nhưng quyền quyết đoán là nơi triều đình, họ không đủ thẩm quyền.

Phan Trung gật đầu ưng thuận.

Thế là hai hôm sau, Phan Trung cùng với tùy tùng xếp đặt hành trang, nhậm chức Phán quan đặc biệt, đi
vào vùng Giang Cầu trấn đóng để làm cái việc xét xử tội nhân.

Bấy giờ vào tiết mùa thu, gió vàng heo hắc, miền rừng núi khói bụi phủ mờ, thầy trò Phan Trung phải mải
miết lê chân suốt tháng trường mới đến vùng biên ải.

Tuy khổ cực, song Phan Trung không lấy làm buồn, vì tánh chàng ưa ngao du nơi đất lạ xứ người. Khi đã
đến Giang Cầu, Phan Trung vào dịch xá nghỉ nơi đợi sáng hôm sau xuống thuyền đến nha huyện, vì nơi đây
đường bộ bị quân giặc đón, phải đi bằng đường thủy.

Dân cư nơi đây trải mấy năm loạn lạc, khổ cực trăm bề, nhà cửa xiêu vẹo, chợ búa thưa người. Nhìn thấy
cảnh điêu linh, Phan Trung không khỏi động lòng thương xót.
Cảnh đẹp trước kia đã làm cho Phan Trung cảm xúc lai láng nguồn thơ, thì nay cảnh điêu tàn ấy cũng làm
cho Phan Trung bùi ngùi không kém. Nhà thơ đất Nhơn An lại phải đổ lệ dệt thơ, khóc cho cảnh đau buồn
của thời loạn.

Thuyền rời bến độ nửa ngày, qua các đô thị bị cướp phá ở ven sông, không thấy bóng một người, dù là một
kẻ nông phu nghèo khó. Họ sợ giặc cướp, trốn mãi vào tận làng mạc xa xăm.

Trưa hôm ấy thuyền đến chợ Cầu, nơi đây có một quán xá xiêu vẹo, đó đây vài cô hàng nước, liếc mắt nhìn
đám người của Phan Trung đi trấn nhiệm, mà mặt lơ láo tưởng như trông thấy người xứ lạ nước ngoài.

Họ không mấy thiện cảm với triều đình nhà Minh, vì các quan lại nhà Minh thuở ấy phần nhiều là những
tham quan lợi dụng tình thế nhiễu nhương hiếp đáp dân lành. Cuộc sống của họ hầu như xa ánh nắng mặt
trời, gần với lạnh lùng hoang dại.

Những kẻ nghèo khổ không đủ sống, ăn mặc lam lũ đã đành, những kẻ giàu sang, hoặc có chút ít của tiền
cũng không dám tỏ ra sang trọng. Vì sang trọng là nguy hại, không bị giặc cướp lấy của thì cũng bị quan
tham sạch hách làm tiền.

Cảnh sống như thế biến người dân dù thật thà chất phát đến đâu cũng không khỏi đem lòng thán oán.

Chợ cầu lưa thưa vài túp lều xiêu vẹo làm chỗ che mưa, đụt nắng cho khách bán hàng. Người mua rải rác
khắp vùng, đến đó với bộ áo vải quần nâu. Nhìn vào họ, người ta thấy ngay cảnh sống khổ cực trăm bề.

Phan Trung cho đậu thuyến sát mé, dắt vài tên tùy tùng tản bộ vào chợ để tìm thức ăn, đồng thời xem khách
hàng buôn bán.

Vừa bước lên bờ, Phan Trung thoáng thấy trong đám người lam lũ, da nám nắng, quần áo ướt đẩm mồ hôi,
cát bụi bám đầy kia lại có xen hai thiếu nữ vóc ngọc da ngà, cốt cách đoan trang, đứng đi kiều diễm.

Hai thiếu nữ ấy có lẽ nhà ở gần đâu đây đến mua thức ăn là phải ? Với khổ người yểu điệu, mặt trắng như
ngà, môi đỏ như son, Phan Trung đoán ngay họ là gái phòng khuê, con nhà quà tộc.

Có điều lạ là, mặc dầu có được sắp đẹp khuynh thành ấy, hai thiếu nữ vẫn ăn mặc như thường dân, quần sô
áo vải, giấu hẳn cái phong lưu kiều diễm bên trong.

Chàng chăm chú nhìn, theo dõi từng cử chỉ của hai thiếu nữ kia, lòng thấy như có điều gì ngờ vực.

Hai thiếu nữ vẫn thản nhiên, không biết có kẻ đang để à đến mình.

...

Phan Trung bảo :

­ Ngươi ra mời bà lão ấy vào đây.

Tên lính lệ ra đi một lúc rồi trở vào thưa :

­ Bà lão đi đâu mất dạng, chúng tôi tìm khắp nơi chẳng thấy đâu cả.

Phan Trung buồn bã nghĩ thầm :

­ Theo lời trong thơ thì người này có à khuyên ta việc gì đây, nhưng không nói rõ. Tiếc rằng không gặp được
người.

Lòng lâng lâng buồn ! Chiều hôm ấy, Phan Trung thả gót ra ngoài phố. Phố xá nơi đây tiêu điều, hàng hóa
lưa thưa các món thổ sản. Các dãy nhà lầu bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại những đống gạch vụn.
Người mua kẻ bán đi lại thưa thớt.
Chàng lướt qua vài con đường, đến một quán nước kia, bỗng thấy bên trong có bóng một thiếu nữ đang
ngồi ủ rũ, tóc mây buông lả, đôi mắt lệ tràn mi.

Nhìn qua một lúc, Phan Trung giật mình, vì đó là một trong hai thiếu nữ mà chàng đã trông thấy nơi chợ Cầu
hôm nọ.

Nàng cũng với áo vải quần thô, nhưng dung nghi kiều diễm. Cái đẹp tìm tàng gói kín trong nếp áo quần
phong trần trông rất đau thương.

Nhưng tại sao nàng khóc ? Một thắc mắc nổi lên ở cõi lòng, Phan Trung không thể nào làm lơ cất bước.
Chàng quay gót bước vào quán nước gọi bà chủ quán :

­ Xin bà cho tôi một bát nước trà tươi.

Gọi là uống nước, nhưng mục đích Phan Trung chỉ để dò xét thiếu nữ kia xem nàng có đau buồn gì.

Chàng nhớ lại lời tên tùy tùng bữa nọ, và biết đích nàng này tên Mỹ Dung, liền cất tiếng hỏi :

­ Nếu tôi không lầm thì cô là khách hàng của quán này, tại sao có việc đau buồn ?

Mỹ Dung thở dài, lể mể quay mặt lau nước mắt, chưa kịp đáp, thì bà chủ đã đỡ lời :

­ Bẩm đại quan, cha nàng bị hàm oan, quan huyện bắt giữ ở huyện đường, nên đã một tuần nay nàng đến
đây tìm cách thăm viếng, nhưng huyện quan không cho vào.

Thật vậy, nàng đó chính là Mỹ Dung, con gái lớn của Trần Lão. Vừa rồi, huyện quan sai người đến bách
sách, bảo phải đem nạp ba lượng vàng. Trần Lão không có đủ nên bị huyện quan ghép vào tội thông mưu
với giặc, bắt giam tại huyện.

Tội nghiệm, Trần Lão già cả, gặp tiết trời đông rét mướt mà phải hảm mình nơi lao xá thật đáng thương.
Thấy cha già mắc nạn, Mỹ Dung ăn ngủ không an, để đứa em gái nàng là Kim Thanh ở lại trông nom gia
trang, còn nàng mang gói lần đến huyện đường thăm viếng, và tìm cách gỡ tội cho cha.

Nhưng ác thay, quan huyện Giang Cầu là kẻ tham lam độc ác, trước muốn bách sách tiền bạc, sau thấy
nhan sắc diễm kiều của Mỹ Dung lại tính chuyện bẻ hoa, vì vậy ông ta giam giữ Trần Lão rất cẩn thận.

Mỹ Dung không còn biết làm sao được, vả lại không dám đến huyện đường, sợ huyện quan giở trò đê tiện.
Nàng lẫn mặt ngoài phố đã quá bảy ngày, tiền bạc đã cạn mà không sao dò la được tin tức của cha già.

Đau lòng quá, nàng khóc mãi, đêm ngày bỏ ăn bỏ ngủ. May sao, vừa rồig ặp được bà lão hàng nước,
khuyên nàng nên trú lại nơi quán đó.

Bà lão lại được nghe các lính huyện vào quán chuyện trò, nên biết được triều đình vừa sai một vị Phán quan
đến đóng nơi đây để xét xử các việc oan ức trong vùng, bà khuyên Mỹ Dung nên nhẫn nại, để làm đơn đệ
nạp vào cấp trên minh oan.

Mỹ Dung chán nãn nói :

­ Các quan tại triều đình phần đông đều là kẻ không liêm chính, chỉ biết bạc vàng, xem mạng dân như cỏ
rác, dẫu có kêu oan cũng chẳng ích gì.

Bà hàng nước vốn được nghe mọi người bàn tán rằng vị Phán quan của triều đình là một nhà thơ trẻ tuổi,
chỉ thích thơ phú không ham bạc vàng địa vị, nên bà đặt hy vọng vào đấy, nghe ngóng, trông chờ việc làm
minh chính của Phan Trung.

Nhưng đợi mãi, không thấy vị quan trẻ tuổi kia ngao du đây đó, mà cũng không hề xét xử một việc nào.
Cực chẳng đã, bà lão mới sanh ra à nghĩ, bảo Mỹ Dung viết mấy hàng chữ, để bà tự tay đem đến cho Phan
Trung, giục Phan Trung làm việc.

Đó cũng là cử chỉ liều lĩnh, nếu Phan Trung là kẻ nhỏ nhen nóng giận thì bà sẽ đắc tội. Tuy nhiên, Phan
Trung lại thản nhiên trước lời nói có à như dạy đời đó.

Khi Phan Trung vào quán nước, được bà lão gọi mình là đại quan, lại nói cha của Mỹ Dung bị hàm oan nhốt
vào huyện đường, chàng sững sốt nói :

­ Tiện chức mới đến, chưa rõ ràng việc thế nào, vả lại việc ấy còn đang tra cứu ở huyện đường, lúc nào
quan huyện đệ trình sự việc lên, tiện chức sẽ xét lại.

Bà lão nói :

­ Mong ơn đại quan đến đây ra ơn trời biển cho dân chúng được nhờ. Dân chúng nơi đây phần thì khổ vì
giặc giã, phần bị Oan uổng vì tù đày.

Phan Trung nghe nói se lòng, liếc nhìn thiếu nữ với vẻ thương hại :

­ Kẻ hèn này sẽ vì dân chúng mà tận tụy với việc làm của mình.

Dứt lời chàng từ giã bà hàng nước rồi quay chào Mỹ Dung, bước ra ngoài. Hôm sau, Phan Trung thân hành
đến huyện đường, vào lao xá thăm các tù nhân. Huyện quan tiếp đón trọng lễ, và đưa Phan Trung đi dạo
khắp mấy trại giam.

Trời chiều, miền núi không khí lành lạnh như trộn vào một mùi mằn mặn. Khung trời tím ngắt, cảnh đìu hiu
gợi vào lòng người một mối buồn sâu xa vô tận. Trong các trại giam, tội nhân ngồi nằm la liệt, cát bụi tẩm
vào áo quần dày mấy lớp, đầu này chiếu rách, đầu nọ chăn bùn, già có trẻ có, đôi mắt sâu húp chứa đầy sầu
hận xa xôi.

Họ nhìn huyện quan, nhìn Phan Trung với cái gì u uất. Cảnh đó không khỏi gợi vào lòng Phan Trung mối
cảm hoài.

Thật vậy, nét mặt thi sĩ họ Phan sầm lại, u buồn hơn màu tím của không gian. Chàng thở một hơi dài, lặng
thinh triền miên trong à nghĩ. Giữa lúc đó, huyện quan hết mấy tên lính canh cầm roi đứng trước cổng, bảo :

­ Chúng bay phải canh phòng cẩn mật, vùng này gần quân giặc, nếu để đứa nào sẩy ra, đi theo giặc, chúng
bay phải thế mạng đấy.

Bọn quân canh tỏ ra đắc lực trước mắt quan trên, đứa nào cũng lăm le ngọn roi, trừng mắt nhìn vào số tù
nhân như muốn ăn tươi nuốt sống họ.

Huyện quan quay lại nói với Phan Trung :

­ Dân chúng vùng này ươn ngạnh lắm, nếu không trừng trị cho gắt gao, chúng theo giặc hết.

Phan Trung thở dài nói :

­ Họ đã khổ mấy năm về giặc giã, triều đình bất lực không đem lại được an ninh, để họ sống trong lầm than.
Nếu các quan còn không thương họ thì họ biết nương cậy vào đâu.

Lời nói ấy như một gáo nước lạnh xối vào mặt huyện quan. Huyện quan đứng lặng người đi một lúc, mặt
không vui, tiễn chân Phan Trung trở lại thính đường, hối quân đem trà nước đến khoảng đãi.

Phan Trung buồn bã cáo từ trở về, và nói :


­ Thôi được ! Chúng ta còn nhiều ngày gặp nhau ! Phiền huyện quan tra cứu gấp các can phạm hiện bị giam
giữ nơi đây, và gởi hồ sơ sang nha tôi để tôi kịp xét lại.

Huyện quan thấy mặt Phan Trung không vui, có à sợ hãi không dám trả lời, vội tiễn đưa chàng ra đến cổng.
Về đến nha sở, Phan Trung ngày đêm nghĩ đến số người lầm than, sống trong ngục thất ăn ngủ không yên.
Chàng thức suốt mấy đêm, đọc kỹ các hồ sơ và ra lệnh cho huyện quan phóng thích lần hồi hết. Không một
kẻ nào Phan Trung nỡ kết tội.

Qua mấy ngày, hồ sơ đã hết, Phan Trung liền viết công văn, gởi xuống các phủ, huyện trong vùng, bảo đệ
nạp gấp hồ sơ cho chàng để chàng xét việc.

Thế là qua một thời gian ngắn, các nhà lao các phủ, huyện trong vùng đều trống rỗng. Chỉ vụ nào huyện
đường chưa cứu xét xong thì còn lưu giam, mà vụ nào đệ lên Phan Trung thì can cứu được phóng thích
ngay lập tức, bất kỳ có tội hay không.

Việc làm của Phan Trung không đứng trên pháp luật, mà đứng trên lương tri.

Các huyện quan lấy làm ngạc nhiên, thầm bảo nhau :

­ Viên Phán quan này không giữ pháp luật thì làm sao trị được dân ? Nếu vậy e luật pháp triều đình bị mất
hiệu lực !

Trong lúc các quan phủ, huyện thì thầm trách cứ Phan Trung thì các can phạm được tha tội thả về rất hoan
hỉ, rao truyền ra ngoài dân chúng mọi sự công bình chính trực của triều đình.

Và cũng vì thế mà niềm vui trong dân gian rộn rịp, cuộc sống trở nên tươi đẹp bội phần. Họ đã mến triều
đình tất ra công chống lại giặc cướp, nên giặc cướp không còn lợi dụng được lòng dân càn quét thôn quê
như thuở trước nữa.

Càng yêu mến Phan Trung bao nhiêu thì dân chúng lại càng ghét bỏ các quan phủ, huyện bấy nhiêu. Thỉnh
thoảng họ kéo nhau từng đoàn đến yết kiến Phan Trung và dâng tặng lễ vật.

Phan Trung tiếp đãi họ rất ân cần, nhưng tuyệt đối không nhận lễ vật một ai.

Cử chỉ của các dân chúng không khỏi làm cho các quan phủ, huyện ganh ghét Phan Trung. Tuy nhiên, vì
Phan Trung là đại diện cho triều đình, chức phận cao, nên các quan phủ, huyện mặc dầu bất bình, ghen ghét
cũng không dám đá động đến.

Thời gian này, Phan Trung bận lo công việc nên không bước ra khỏi nha sở. Một hôm chàng vừa cứu xong
tập hồ sơ thì bỗng trước cổng có bóng người thiếu nữ đi qua lại khóc sụt sùi.

Chàng bảo quân hầu gọi vào thì đó là nàng Mỹ Dung, con gái của Trần Lão ở chợ Cầu.

Phan Trung ngạc nhiên hỏi :

­ Qùa nương có việc gì buồn khổ ? Thân phụ của quà nương chưa được tha về sao ?

Mỹ Dung ấm ức đáp :

­ Quan nhân đã cứu xét và tha cho nhiều người được hồi hương, nhưng thân phụ tôi vẫn còn bị hàm oan,
chưa được xét đến.

Phan Trung mới nhớ ra, lục lại hồ sơ, thì thấy việc Trần Lão còn ở huyện Giang Cầu chưa đệ đến.

Chàng thở dài nói :

­ Việc Trần Lão công hiện quan huyện còn cứu xét, xin quà nương nán đợi ít ngày, chừng nào huyện đường
đệ nạp hồ sơ ấy, tiện chức sẽ tha cho lão trượng về.

Thiếu nữ cúi đầu, sụt sùi tạ Ơn, rồi lui ra quán nước.

Mấy hôm sau, hồ sơ Trần Lão cũng không thấy đệ nạp. Mỹ Dung nóng lòng cha già cứ thơ thẩn mãi trước
cổng mà không dám vào. Phan Trung trông thấy vội viết công văn, cho người đem đến huyện Giang Cầu hỏi
việc đó, thì được huyện quan trả lời là tra cứu chưa xong.

Công việc cứ đong đưa mãi, chiều nào Phan Trung cũng thấy bóng Mỹ Dung thấp thoáng trước cổng đường
với dáng người buồn bã ủ ê. Chàng nóng lòng quá, đã mấy lần thảo công văn đến hỏi quan huyện cũng trả
lời như thế cả, nên không biết làm sao.

Một hôm, chàng cho người đón Mỹ Dung mời vào, nói :

­ Tiện chức rất lo lắng đến lão trượng nhưng vì viên tri huyện cứ giữ can nhân ở ngục thất vào ậm ự mãi nên
không biết làm sao.

Mỹ Dung, đôi dòng nước mắt đọng tràn trên đôi má, nàng khóc đã hai tháng trường mà vẫn chưa vơi. Lòng
thương cha già đối với nàng thật thống thiết.

Nàng nói :

­ Quan huyện muốn giữ thân phụ tôi ở huyện để hạch sách tiền bạc, và tính chuyện dâm ô ! Xin quan nhân
thương tình gia đình cha con tôi mà liệu giúp.

Phan Trung thở dài nói :

­ Tại sao quà nương biết ,

Mỹ Dung nói :

­ Thường ngày quan huyện cứ cho người đến nói với thân phụ tôi về việc kén tôi làm ái thiếp, nhưng thân
phụ tôi biết quan huyện là kẻ dâm ô, một tay đã bẻ gãy chẳng biết mấy

đóa phù dung rồi, vì vậy thân phụ tôi nhất quyết không khứng. Cũng vì thế mà trước đây quan huyện đã
buộc tội cho người anh tôi, bị lưu đày ra xứ khác, đến nỗi gia đình tôi phải điêu đứng suy vi. Nay chỉ còn một
cha già và hai thân gái;

Phan Trung thở dài hỏi :

­ Thân mẫu quà nương không còn tại thế ư ?

Mỹ Dung khóc òa :

­ Mấy năm loạn lạc, mẹ tôi bị quân cướp giết mất rồi !

Cái khóc của nàng đượm vẻ héo hon, chua xót, làm cho Phan Trung chột dạ, biết bên trong có việc gì đau
khổ hơn.

Phan Trung đoán như thế quả thực không lầm.

Cách đây bốn năm, tuy Mỹ Dung còn trong tuổi thiếu thời, nhưng vì nhan sắc nàng kiều diễm, chữ nghĩa tinh
thông, các thanh niên trong vùng đều mê mẩn. Nhưng Trần gia là nhà danh gia vọng tộc, dễ gì những tay bất
lương mong được bắn sẻ, bẻ hoa.

Phòng khuê đóng kín, gió đông không để lọt mành, nàng quyết không chịu với kẻ thấp hèn làm tri kỷ. Vì vậy,
trong thôn có một chàng thừa cơ quân cướp dấy loạn, theo giặc, dùng vũ lực uy hiếp gia đình họ Trần, buộc
gả Mỹ Dung cho hắn.

Thân mẫu Mỹ Dung vì ra thân chống lại giặc, bị tên giặc cướp ấy giết chết. May thay ! Tên giặc cướp ấy
chẳng bao lâu đi phá phách trong vùng, bị dân chúng giết đi, nên nàng Mỹ Dung mới được an thân.

Mất mẹ là điều đau khổ đối với đứa con chí hiếu, Mỹ Dung đóng cửa cư tang, than khóc suốt ba năm trời,
không lúc nào có một nụ cười trên môi. Cơn đau buồn chưa nguôi ngoai trong lòng người con gái son trẻ, thì
tiếp đến quan huyện Giang Cầu trong thấy dung nhan nàng lại tìm cách bẻ hoa ghẹo nguyệt, làm khó dễ gia
đình nàng.

Từ khi người anh nàng bị quan huyện biếm đày đi khỏi xứ thì gia đình nàng chỉ còn lại một cha già và hai
thân gái, nàng phải đem thân phụng sự cha già. Tiền của mỗi ngày một vơi đi cho đến lúc nghèo hèn cơ cực.

Thật ra, chỉ vì tài năng và nhan sắc của Mỹ Dung đã làm cho gia đình Trần Lão khốn đốn. Nào mẹ chết, nào
anh bị đày, nào cha bị tù, cũng chỉ tại nàng cả;

Nhưng nàng là một kẻ chí hiếu và đoan trang. Trời đã bắt nàng có cái sắc đẹp và tài năng để cho khuynh gia
bại sản thì còn biết làm sao ?

Mỹ Dung nhiều lúc cũng nghĩ đến thân nàng, chỉ tại nàng mới gây nên cớ sự. Nàng muốn chết đi, nhưng cha
già còn đó lấy ai phụng dưỡng. Bổn phận một người con chí hiếu không cho phép nàng trốn nợ đời như vậy
được.

Thế là nàng đành phải sống, mà sống với những chuỗi ngày đầy thảm họa của gia đình. Nàng không còn kể
gì đến sắc đẹp của nàng nữa. Đã bốn năm nay, từ khi mất mẹ, Mỹ Dung mặc toàn là quần sô áo vải, chẳng
bao giờ nghĩ đến chuyện lược giắt trâm cài, mặc dầu nàng là con nhà quà phiệc, đang tuổi hoa niên.

ác hại thay ! Cái đẹp con người không phải ở quần áo. Với tư cách đoan trang, nết na kiều diễm, vóc ngọc
da ngà kia dẫu nàng có mặc quần sô áo vải cũng là hòn ngọc quà của thiên nhiên.

Sau khi tìm hiểu được gia cảnh của nàng, Phan Trung, chàng thi nhân đa cảm kia cũng phải động lòng
thương xót. Chàng bảo :

­ Xin quà nương tạm lưu lại ngoài phố, chờ ít hôm tôi đến huyện đường xem hồ sơ rồi sẽ ra lệnh miễn tố cho
lão công. Chừng ấy quà nương sẽ đưa lão công trở về luôn cho tiện.

Mỹ Dung cảm tạ lui ra, tạm trú nơi quán nước như cũ. Và thấy Phan Trung có cảm tình với gia đành nàng,
nàng cũng vui vui. Vì vậy một nụ cười tươi đã nở trên đôi môi đỏ mọng của nàng trước khi giã biệt.

Từ hôm đó, Phan Trung ngày nào cũng sai người sang huyện để hỏi việc Trần lão, nhưng huyện quan vẫn
cứ một mặt từ chối không chịu đệ nạp hồ sơ.

Một tuần trôi qua, lòng Phan Trung buồn rười rượi. Còn Mỹ Dung thấy mình đã làm phiền Phan Trung nhiều
quá, e ngại không dám đến thúc hối, và cũng chẳng dám đi ngang qua trước cổng nha nữa.

Không phải nàng e thẹn với chàng thi sĩ họ Phan, mà nàng sợ Phan Trung thấy nàng sẽ thẹn thùng vì không
làm tròn được lời hứa. Về phần Phan Trung, lúc Mỹ Dung thường lui tới khóc lóc thì chàng thấy khổ tâm đã
đành, mà lúc Mỹ Dung vắng bóng, chàng lại đau khổ hơn.

Chàng cho người ra phố dọ xét, vẫn không thấy bóng Mỹ Dung đâu. Té ra trong thời gian đó, Mỹ Dung nằm
liệt trong quán nước, đau buồn không dậy nổi.

Thật thảm hại ! Bà hàng nước phải thường ngày cháo lao, săn sóc nàng như tình mẹ con. Không tìm được
Mỹ Dung, Phan Trung đoán rằng Mỹ Dung vì quá đau buồn, không tin ở thiện à của chàng, nên đã bỏ về chợ
Cầu chăng ?

Chàng thấy đau xót quá, không ăn ngủ được nữa.


Một tuần nữa trôi qua, hồ sơ huyện đường vẫn chưa đệ đến, Phan Trung lơ láo, không còn thiết đến công
việc gì nữa, ngày nào cũng nằm mộp trên giường, không dậy.

Thế là cả hai người đều buồn quá đến nỗi lâm bệnh.

Một hôm gió bấc thổi về, mưa phùn lả lướt, Phan Trung nghĩ đến thân phận mình, một kẻ thay mặt triều đình
đến đây cứu xét các việc của can nhân, mà không giải nổi một việc hàm oan, để cho tên quan huyện kia
thao túng thì còn mặt mũi nào đứng trong thiên hạ.

Chàng hậm hực dẫn vài tên tùy tùng thẳng đến huyện đường. Trong lúc trà nước với huyện quan, chàng nói
:

­ Tôi nay thay mặt cho triều đình đến đây cứu xét mọi việc oan ức của dân. Tôi xét thấy vụ Trần lão bên
trong có nhiều uẩn khúc, dính líu đến bản thân quà chức. Nếu quà chức không kết thúc hồ sơ gởi sang tôi
xét lại, thì tôi sẽ lập tờ trình gởi về triều đình lập tức.

Cử chỉ hằn học của Phan Trung làm cho huyện quan sợ hãi, tuy lòng căm hận vô cùng.

Huyện quan đáp :

­ Trần lão là kẻ tiếp tay với giặc, việc đã rõ ràng. Nếu ngài cần xét, ngày mai tôi sẽ đưa hồ sơ và can nhân
đến.

Phan Trung mừng rỡ, từ tạ ra về.

Hôm sau, quả nhiên huyện quan đưa hồ sơ và Trần lão đến.

Chàng tiếp đón Trần lão rất hậu, khiến quân mua gà về làm tiệc đãi đằng Trần lão, và cho Trần lão trú tại hậu
đường, đợi làm đủ giấy tờ sẽ ra về. Trần lão ở đó hai đêm, được Phan Trung đối đãi rất hậu tình không một
chút gì quan khách cả.

Do đó, Trần lão rất có cảm tình đối với chàng, và thân mật như tình gia đình.

Lựa lúc vui trong câu chuyện, Trần lão hỏi đến việc gia đình :

­ Quan nhân tuổi còn trẻ, đi trấn nhậm phương xa sao chẳng đem phu nhân theo ?

Phan Trung mỉm cười, tỏ thật với Trần lão :

­ Cháu chỉ là kẻ bê tha phóng đãng, có chút ít học thức, thuở nay chỉ thích ngao du thi vịnh. Triều đình lầm
tưởng cháu là kẻ có tài, bổ vào chức Phán quan thật hư vị.

Trần lão ôn tồn nói :

­ Quan nhân là kẻ minh chánh, ở đời này ai ai cũng mến đức. Tài năng như thế còn ai dám bì, xin quan nhân
chớ khiêm tốn.

Phan Trung nói :

­ Cháu tuổi còn trẻ, chưa có vợ con, tuy giữ trọng trách triều đình song với tuổi nhỏ, dám đâu tự cho mình là
kẻ đức hạnh.

Trần lão ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói :

­ Lão nay tuổi già, có đứa con gái tuy không tài năng, xinh đẹp lắm, song cũng nên người. Nếu quan nhân
không chê hèn mọn, kết duyên cùng tiện nữ, thì thật quà hóa.
Phan Trung ngẩn người ! Một niềm vui lâng lâng trong tâm hồn, chàng cảm thấy như mình sắp được một
hạnh phúc vô biên.

Chàng cúi đầu bái Trần lão và nói :

­ Lão công thương tình dạy như thế, cháu thật cảm nghĩa. Nhưng việc đó xin gác lại về sau. Hiện nay lão
công mới được tha về, nếu có bề nào e thiên hạ dị nghị.

Trần lão nói :

­ Một lời đã hứa bốn ngựa khó theo. Thời gian đâu có nghĩa gì.

Hôm sau, Trần lão lên đường hồi hương. Phan Trung cho người tìm khắp phố vẫn không gặp Mỹ Dung, nên
chàng đành để Trần lão về một mình.

Từ hôm đó, lòng Phan Trung như cởi mở dưới bầu trời xuân.

Tuy nhiên, đêm ngày chàng không khỏi đem lòng nhung nhớ Mỹ Dung. Hình bóng khuê các của cô gái đoan
trang kia như đã in sâu vào đáy lòng chàng một niềm ân ái, mặc dù chưa cùng Mỹ Dung trao đổi một lời nào
ái ân.

Thời gian trôi trong buồn mơ, mộng ảo...

Một hôm, Phan Trung áy náy trong lòng, không biết Mỹ Dung cô gái đẹp chợ Cầu, đã trở về nhà chưa, hay đi
đâu mất tích, hoặc bị tai nạn gì chăng ?

Chàng liền thu xếp một chiếc thuyền con, mướn hai tay chèo rất giỏi, vượt sóng tìm đến chợ Cầu. Hỏi thăm
ra thì nhà Trần lão cách chợ Cầu không xa, dựa bên ven sông, núp sau một rừng thùy liễu rậm.

Phan Trung cho hai người chèo thuyền ở lại giữ thuyền, một mình vạch liễu tiến vào trong. Bấy giờ đã cuối
đông, sắp sang xuân nên khí trờ dịu mát, không lạnh lẽo lắm. ánh hoàng hôn lần lần buông xuống, mọi vật
như chìm đắm trong mộng ảo;

Nhà Trần lão là một trang viên nguy nga, trước có tường bao quanh, có cổng vào, cũng hồ sen ao cá, cũng
khóm trúc chậu hoa, đượm vẻ phong quang.

Chàng lướt qua khỏi cổng, vào bên trong thì than ôi ! Những mái ngói đồ sộ kia đã rách nát, tường vôi rêu
phủ, cỏ mọc đầy sân, chỉ còn lại cái mã bên ngoài, mà bên trong thì thật hoang vắng.

Qúa e ngại, chàng lần bước rẽ hoa bước vòng ra đàng sau, thì thấy nơi một ngôi nhà nhỏ trước kia làm
phòng ngủ, nay được đổi lại phòng khách, có trang bày đôi chút mỹ thuật.

Một làng khói lam quyện trên mái ngói, Phan Trung đoán biết nhà có người ở, bèn lần vào gõ cửa.

Một tràng ho từ bên trong dội ra, rồi cánh cửa hé mở.

Vừa thoáng vào, Phan Trung đã tươi cười ngay, vì chính là Trần lão.

Trần lão trong thấy Phan Trung, người ân của mình, mừng quá rú lên :

­ Quan nhân ! çi chao ! Ngài có dịp quá bộ đến tệ xá thật quà hóa !

Nỗi mừng vui tràn ngập trên nét mặt nhăn nheo của Trần lão khiến Phan Trung cảm động không ít.

Đoạn ông tay quay xuống dưới nhà gọi :


­ Các con, hãy lên đây yết kiết ân nhân của nhà ta.

Chẳng bao lâu, từ dưới nhà có bóng xiêm y lả lướt, rồi hai thiếu nữ đẹp như hai nàng tiên bước đến. Qua
ánh đèn dầu, không sáng lắm, nhưng Phan Trung đã nhận ra ngay là hai chị em Mỹ Dung !

Nhưng Mỹ Dung lúc này không ăn mặc quần sô áo vải, mà lả lướt trong bộ xiêm y màu hồng rực mùi quà
phái. Vẻ đẹp không sao tả xiết.

Chẳng những chỉ có cái đẹp bên ngoài mà cái đẹp còn len lỏi vào cả tâm hồn nàng.

Kìa, khuôn mặt nõn nà, đôi mắt lóng lánh như nước suối mùa thu, đôi môi tươi như hoa nở, đã làm cho
Phan Trung thấy được niềm hân hoan ấy.

Nhưng nàng hơi thẹn, vì hai gò má hơi ửng hồng.

Trần lão mở lời :

­ Đây là hai tiện nữ, xin phép được gác bỏ chút ít lễ giáo để được ra chào người ân.

Phan Trung tuy là một chàng trai, song trước tình cảnh nồng nàn ấy, không biết nói lời nào.

Mỹ Dung dắt em đến trước mặt Phan Trung làm lễ, rồi hớn hở lui gót.

Nàng không còn khóc nữa. Nét hoa ủ dột trước kia đã làm Phan Trung đau lòng lâm bệnh, thì nay nét tươi
vui kia cũng đã làm cho chàng lơ láo như kẻ mất hồn.

Sung sướng quá, Phan Trung nhìn cảnh đoàn tụ của cha con Trần lão mà vui lây. Chàng tự xem mình như
người trong gia đình, và nói những lời tâm tình mật thiết.

Câu chuyện nồng nàn thì Mỹ Dung đã pha trà bưng lên, tự tay rót cho chàng một chén. Trần lão nâng chung
đón mời. Phan Trung cùng Trần lão đối ẩm.

Bên ngoài vầng trăng bắt đầu lên khỏi núi, tỏa ánh sáng dịu hiền xuống các chậu hoa trước cửa, làm cho
lòng người càng đượm tâm tình.

Chàng xin bút mực, viết một bài thơ tâm tình, rồi cất vào túi áo.

Nguyệt bán ngô đồng nhật vi ti


Độ thành huề cổ dị nan qui
Tâm tình ước cân thiên trương chi?
Đối diện phanh trà thị ngã thê

Dịch :

Trăng nửa cành ngô bóng xế tà


Đô thành tiếng trống vọng còn xa
Tình mơ khép kín ngàn trang giấy
Đối diện pha trà ấy vợ ta

Đêm ấy, bên ngoài trăng sáng, bên trong chủ khách trò chuyện mãi đến canh khuya mà câu chuyện vẫn
đượm tình.

Mỹ Dung lo bày tiệc ăn uống trà rượu ngát hương. Cặp trai tài gái sắc tuy không được nói với nhau câu nào
mà bốn mắt hình như đã nói lên tất cả nỗi lòng mình.

Sáng hôm sau, trước giờ giã biệt, Phan Trung nhận được bài thơ tống biệt của Mỹ Dung do Kim Thanh đưa
đến như sau :
Nhứt họp xuân giao vạn là tình
Đoạn trường phương thảo đoạn trường oanh
Nguyên tương song lệ hoàn vi vũ
Minh nhựt lưu quan xuất bất hành

Dịch :

Muôn dặm tình xuân khéo để dành


Nhìn hoa đau ruột khóc cùng oanh
úớc thành mưa lệ tràn đôi mắt
Đón bạn ngày mai bước trở hành

Bài thơ này, Phan Trung biết Mỹ Dung đã viết ra trong đêm vừa rồi. Chàng nhận thơ, và trao cho Mỹ Dung
một bài thơ hứa hẹn, rồi giã biệt.

Tình yêu chan chứa, Phan Trung mỗi bước một ngừng, ra đi mến tiếc như mất một vật gì trong tâm khảm.

Về đến nha sở, Phan Trung buồn bã không còn muốn làm việc gì nữa, định thu xếp về kinh, tiện đường ghé
về nhà để lo tìm người mối lái đến chợ Cầu cầu hôn.

Nhưng công việc chưa xếp đặt xong, một tin đến với chàng như xét đánh.

Nguyên các quan phủ, huyện trong vùng, từ khi chàng đến trấn nhậm, mọi việc đều bị chàng cứù xét rành
mạch, không còn dùng quyền riêng áp bức dân lành để bách sách tiền bạc nữa, do đó họ ngấm ngầm trong
lòng tìm mưu ám hại.

Họ góp nhóp vàng bạc, lễ vật gởi về kinh, nhờ tay quan Thái sư là kẻ dua mị, biếm chức Phan Trung. Quan
Thái sư được vàng bạc quá nhiều còn kể gì nghĩa nhân, liền ra lệnh cách chức Phan Trung, đòi về triều trị
tội lấy cớ là Phan Trung đã ăn hối lộ của dân, thả nhiều can phạm.

Phan Trung còn trẻ tuổi, đâu có ngờ những tai vạ có thể đến cho mình trong khi xã hội bị thối nát đó.

Thế là Phan Trung bị triều đình vấn tội, đày ra chốn rừng sâu nước độc. Mộng tình tan vỡ theo khói mây !
Chàng ấp ủ tình thương nỗi nhớ trong lòng mà không biết nói cùng ai.

Từ khi Phan Trung bị biếm chức đày đi, thì giặc giã lúc một lan tràn, lửa binh chấn động khắp vùng, dân gian
sống trong cảnh điêu linh khổ sở.

Chàng thi sĩ nằm bốn năm trong ngục thất, bệnh hoạn, khổ cực đủ bề, lòng ấp ủ mộng tình không lúc nào
nguôi, thân xác gầy gò như một con ma đói.

Cũng may, bấy giờ có một thiếu phụ, trước kia ở trong vùng giặc cướp, gia đình bị hàm oan được Phan
Trung cứu xét tha cho, nay tản cư đến ở gần vùng lao xá. Nghe tin Phan Trung bị nạn, lưu đày đến đó, nàng
nhớ ân xưa, liền bỏ tiền mua chuộc tên chủ ngục để được phép vào thăm và đem đến thuốc men cơm áo.

Thiếu phụ ấy là Hồng Nương, vốn một kẻ giàu lòng từ thiện hay thương người nghèo kó. Đối với Phan Trung
là người ân, lâm hoạn nạn, nàng một mặt giúp đỡ không nại khó khăn. Phan Trung nhờ đó mà qua khỏi
những ngày bệnh tật trong cảnh lưu đày khổ hận.

Thời gian trôi qua, những chuổi ngày đau buồn thống thiết của chàng thi sĩ họ Phan, chẳng biết Mỹ dung có
biết hay không.

Nhưng còn làm sao rõ được tin tức nữa. Trong loạn lạc, mỗi gia đình phải tản cư đi mỗi nơi lo sinh sống.
Chính trong thời gian đó, cha con Trần lão phải khổ cực vô cùng. Còn nàng Mỹ Dung cũng đang mãi ôm ấp
một mối tình riêng, đau buồn vô hạn.
Thời gian, không gian, hoàn cảnh đã bẻ gãy mối tình tươi đẹp của đôi trai gái Phan, Trần mà hận lòng dẫu
chết cũng khó nguôi được.

Hồng Nương mấy năm trôi nổi, vẫn với nghề buôn gánh bán bưng, thỉnh thoảng vào lao xá thăm Phan
Trung, và giúp đỡ thuốc men, lương thực.

Cảm nghĩa ấy, Phan Trung coi Hồng Nương như một người ân độc nhất trên đời.

May thay, qua năm năm, triều đình dẹp yên giặc cướp, có lệnh đại xá tội nhân. Phan Trung cũng ở trong số
người được may mắn ấy.

Ra khỏi ngục, cuộc đời xuân xanh của Phan Trung như đã héo tàn. Trải năm năm tù tội, cha mẹ chàng vì
buồn bực, lâm bệnh qua đời, gia đình chỉ còn lại anh chị em mà thôi.

Nghĩ mình là đấng nam nhi, không lập được thân, bước công danh đã lỡ, lại không được phụng dưỡng song
thân tuổi già, chàng cho là bất hiếu, nên buồn bã bỏ gia đình ra đi phiêu bạt nữa.

Cũng có nhiều bạn bè biết chàng là kẻ sĩ thất thời, đem lòng thương muốn giúp đỡ để phục hồi quan chức,
nhưng chàng một mặt chối từ :

­ Đã lâu nay tôi sống biếng nhát quen thân, nay ra làm quan phải ngồi ở công đường đúng giờ đúng khắc,
thật tôi không chịu nổi.

Thật ra Phan Trung đã chán đời quan hoạn, không muốn bước vào con đường mà bùn lầy đã nhuộm cả
cuộc đời chàng.

Phan Trung tìm đến một thành phố thuê một túp lều tranh, dạy năm ba đứa học trò và viết mướn để độ nhật.
Nhưng không đủ sống ! Hồng Nương được tin lại phải đến thăm viếng và đem tiền bạc đến giúp.

Ba năm trôi qua trong đau ốm, Hồng Nương phải chạy chữa săn sóc chàng. Sau đó, Hồng Nương thấy Phan
Trung cô độc lại đem đứa cháu mình đến ở chung với Phan Trung. Và mỗi tháng, nàng đến thăm, có lúc ở
với chàng mười bữa, nửa tháng rồi mới ra đi.

Dân chúng trong vùng thấy cảnh ấy, gọi Hồng Nương là vợ chàng, và Phan Trung cũng chẳng thèm cải
chính.

May thay, nghề viết mướn của Phan Trung mỗi lúc một phát đạt, được thiên hạ ca tụng nhiều, do đó chàng
đắt mối, kiếm được tiền bạc cũng khá, chàng tậu được ngôi nhà xấu xấu, và sống cuộc sống cũng đỡ cơ
cực như thuở hàn vi.

Bỗng một hôm, chàng được người bạn quen thuở nhỏ đến thăm, cho biết cha con Trần lão hiện nay trở nên
giàu có, hiện đang sống phong lưu, và nàng Mỹ Dung vẫn sống độc thân, chưa hề xe duyên tơ tóc.

Nghe tin ấy, Phan Trung nghĩ đến tình xưa, động lòng thở dài :

­ Ôi ! Đã mười năm mà nàng vẫn chịu cảnh phòng the chích bóng sao ! Nàng vì tôi mà sống như thế ư ?

Người bạn của Phan Trung là Đà Lê, vốn kẻ chân thành, biết mối duyên tình của chàng thuở trước, nên ái
ngại nhìn chàng nói :

­ Nếu không vì quà huynh thì nàng đã thành gia thất lâu rồi, vì nàng là gái khuê môn, nết na đứng đắn, gần
đây lại cao sang, thiếu gì kẻ gắm ghé trương cung bắn sẻ.

Phan Trung mơ màng nói :

­ Trải mười năm... Đến nay nàng cũng đã lớn tuổi rồi nhỉ.
Đà Lê mỉm cười :

­ Đúng vậy ! Nàng đã lớn tuổi nhưng sắc đẹp vẫn chưa phai, nét diễm kiều vẫn như thuở nào.

Phan Trung buồn bã hỏi :

­ Lê huynh, anh có biết cuộc sống của gia đình nàng qua mười năm như thế nào không?

Đà Lê đáp :

­ Trước kia thì gia đình nàng khổ cực lắm, nhưng ba năm nay, Trần Tự Thiên, anh của nàng, được phục hồi
quan chức, gia đình nàng sống rất mực phong phú.

Phan Trung gật đầu :

­ Tôi có nghe Trần Tự Thiên là một người văn học, lược thao gồm tài, được triều đình tái bổ cũng phải.
Nhưng hiện thời gia đình nàng ở đâu ?

­ Đang ở nơi đô thị này;

Phan Trung trố mắt nhìn bạn :

­ Thật thế sao ? Còn nhà ở chợ Cầu ?

Đà Lê giảng giải :

­ Tự Thiên vừa bổ nhậm đến đây nên đem cả gia đình đến nha đở. Riêng Trần lão và Mỹ Dung thì vừa đến
đây để thăm Tự Thiên.

Phan Trung gật đầu :

­ Lê huynh biết rõ như thế à ?

Đà Lê đáp :

­ Tôi vừa đến thăm Tự Thiên hôm qua, có gặp Trần lão, và cả nàng Mỹ Dung ở đấy nữa.

Phan Trung ngắt lời bạn :

­ Lê huynh có nói là hiện tôi sinh sống nơi đây chăng ?

­ Có ! Nhưng không chỉ nhà ! Trần lão ước mong được gặp mặt Phan huynh để thăm viếng.

Phan Trung thở dài :

­ Mình đang trong lúc nghèo khổ quá !

Đà Lê ngắt lời bạn :

­ Phan huynh đừng nghĩ thế. Trần lão vẫn nhớ ân Phan huynh và tình nghĩa thuở nào vẫn không phai !

Phan Trung bùi ngùi nói :

­ Lê huynh, anh biết chắc Mỹ Dung vẫn chưa xe duyên với ai chớ ?

Đà Lê thở dài :
­ Chắc chắn như vậy ! Nhưng... Phan huynh hình như... đã có vợ !

Phan Trung nghẹn ngào, không biết phải nói sao, nhìn bạn nói vu vơ :

­ à, tôi... có vợ...

Lời nói chàng như ngất nghẹn ! Mặc dù là bạn thân, Phan Trung không đủ can đảm bày tỏ hoàn cảnh riêng
của mình.

Qua một phút yên lặng, Đà Lê nói :

­ Anh cũng nên đến thăm Trần lão một bữa.

Phan Trung như sực tỉnh hỏi lại :

­ Tôi có nên đến thăm không, Lê huynh ?

­ Nên lắm, vì Trần lão là kẻ ân hậu kia mà !

Ấp úng một lúc, Phan Trung như nói một mình :

­ Nhưng nàng tưởng tôi có vợ...

Đôi bạn nhìn nhau không ai nói gì thêm, Đà Lê từ giã bạn.

Cách mấy hôm sau, Phan Trung đến thăm Trần lão. Tình nhớ nhung nồng nàn vẫn thắm thiết như xưa,
nhưng việc hôn nhân hình như không ai dám nhắc đến.

Tuy nhiên, Phan Trung không khỏi khâm phục Trần lão là người chung thủy, thâm hậu.

Cuộc thăm viếng chỉ mang lại cho Phan Trung những đau buồn. Nhất là đối với Mỹ Dung, nàng làm sao hiểu
nổi tâm trạng của chàng được.

Tâm hồn của Phan Trung đang trầm lặng bỗng nhiên gợi sóng. Rồi bỗng một hôm, vào tiết đầu xuân, Mỹ
Dung tìm đến thăm chàng.

Thật vậy, như lời Đà Lê đã nói, tuy nàng lớn tuổi, nét diễm kiều không phai nhạt trong gió bụi của thời gian.

Bàn tay thon ngón nhỏ này xưa, nàng đã rót trà đưa mời Phan Trung uống, thì nay vẫn còn dịu dàng óng
chuốc. Nàng bưng chung trà nhìn Phan Trung hỏi :

­ Anh đã có vợ rồi sao ?

Phan Trung luống cuống một lúc, rồi ú ớ :

­ Vâng, tôi đã có vợ... nhưng...

Mỹ Dung nhoẻn một nụ cười làm cho Phan Trung nóng cháy cả mặt mày.

Nàng xin giã biệt !

Phan Trung tiễn nàng ra cổng lòng thấy bồi hồi, nhìn bầu trời tím ngắt.

Đợi cho mỹ nhân khuất bóng chàng mới bước vào, cầm bút viết mấy vần thơ !

Hữu duyên thiên là năng tương ngô.


Vô duyên đối diện bất tương phùng
ẩm ngã trà hề hoàn ngã trảng
Đô thành huề cổ dĩ chinh đông

Dịch :

Có duyên ngàn dặm xa càng gặp


Vô duyên tận mặt vẫn cách lòng
Uống trà xin trả ly không
Đô thành trống đã thì thùng về trưa

Người Bán Dầu Chiếm Trọn Nàng Hoa

Vào triều Đại Tống, cách kinh đô Hạ Lương vài dặm, có vợ chồng lão Tân Thiện, thôn An Lạc, năm bốn
mươi tuổi sanh đặng một gái nhỏ đặt tên Tân Diên Cầm.

Diên Cầm vốn thông minh. Năm bảy tuổi đã biết đọc sách làm thơ, năm mười tuổi biết cả các môn cầm kỳ thi
họa. Ngoài ra, các việc nữ công như thêu thùa, vá may đều khéo léo.

Vì được một cô gái công dung ngôn hạnh vẹn toàn, nên Tân Thiện ước chọn được một rể tài hoa lương
đống, hòng nuôi dưỡng mình lúc tuổi già.

Nhưng chưa có bậc anh tài nào rắp ranh bắn sẻ, thì một sáng kia, giặc Kim ồ ạc kéo đến chiếm thành Hạ
lương, vua Nhị Đế phải dời đô, bá tánh đua nhau chạy trốn.

Gia đình lão Tân Thiện, sau một cuộc ruồng bố của giặc, cha con, chồng vợ đều lạc nhau.

Riêng về nàng Diêm Cầm, vì thương mến cha mẹ, nên lúc bị lạc khóc lóc không nguôi. Nàng chạy theo lớp
sóng người tị nạn để tìm gặp mẹ cha. Nhưng trong hỗn loạn không thể nào tìm được.

Qua hai ngày trong đói khát, buồn bã, bỗng nàng gặp được lão Bốc Kiêu là người hàng xóm. Còn gì mừng
rỡ hơn trong lúc tứ cố vô thân, lại gặp được người quen, Diên Cầm liền chạy đến gọi :

­ Bác Bốc ! Bác có gặp cha mẹ cháu không ?

Bốc Kiêu vốn là tay gian ác, xảo trá trên đời. Nhìn thấy cô gái dung nhan diễm lệ kia, thoạt nảy ra một à nghĩ
bất lương, thầm bảo :

­ Tản cư chạy giặc, tiền bạc đã hết, lương khô sắp cạn. May gặp con bé này, âu là ta bắt nó theo ! Biết đâu
“nuôi gà chẳng đẻ được trứng vàng” ?

Lão liền thân mật bảo Diên Cầm :

­ çi chao ! Cháu Diên Cầm đây sao ? Bác vừa gặp cha mẹ cháu lúc sáng nay, cha mẹ cháu có nhờ bác nếu
gặp cháu thì dẫn theo, đến Kiến Khương sẽ gặp.

Diên Cầm tuy còn trẻ, song đã có trí khôn, biết Bốc Kiêu là người xảo trá, nhưng trước tình thế cô đơn đành
phải nhắm mắt đưa chân, nương nhờ Bốc Kiêu chứ còn biết làm sao hơn.

Bốc Kiêu dẫn Diên Cầm thẳng đường đến phủ Kiến Khương. Nhưng đi được nửa đường, Bốc Kiêu được tin
vua Khương Vương vừa lên ngôi, đóng đô ở Lâm An, nên Bốc Kiêu lại dắt Diên Cầm rẽ về hướng ấy.

Đường sá quân giặc chiếm đóng nhiều chỗ, Bốc Kiêu phải bắt Diên Cầm len lỏi tránh vào làng mạc lần mò
đến Kinh đô.

Khi đến nơi thì lưng túi đã cạn, lương thực không còn, Bốc Kiêu thầm tính chuyện bán nàng Diên Cầm để
lấy tiền sinh sống.
Đã định à như vậy, nên Bốc Kiêu thuê một căn nhà nhỏ nơi xóm nghèo, rồi dặn Diên Cầm :

­ Cháu ở đây coi nhà để bác đi tìm thử đó đây, may có gặp người bà con nào chăng.

Diên Cầm vâng lời, ở nhà một mình. Trong lúc đó Bốc Kiêu lểnh mểnh ra phố, hỏi thăm đến các thanh lâu,
và được nghe đồn nơi bến Yên Lạc có mụ Vương Bà danh tiếng nhất ở đế đô, kết nạp rát nhiều “mầm trinh
giống tốt”.

Bốc Kiêu liền tìm đến tỏ bày à kiến, và dắt mụ Vương Bà đến nhà trọ, lén xem nhan sắc Diên Cầm.

Trông thấy Diên Cầm là một đóa hoa xuất sắc, Vương Bà không ngần ngại trả cho Bốc Kiêu một giá rất cao
là năm chục lạng vàng.

Được một số vàng lớn, Bốc Kiêu hớn hở tiễn Vương Bà trở về lầu xanh. Hôm sau lão tìm cách nói dối với
Diên Cầm :

­ Trong lúc chạy hối hả, bác mang theo quá ít tiền, nay ăn tiêu đã hết, bác cần phải đi tìm người quen vay
mượn sống đỡ qua ngày. Vậy từ nay cháu đến ở tạm với người em gái của bác ở đầu phố, đợi bác về sẽ
liệu.

Diên Cầm đâu ngờ dụng tâm của Bốc Kiêu, riu ríu tuân theo, nối gót Bốc Kiêu đến thanh lâu, yết kiến mụ
Vương.

Mụ Vương đón tiếp Diên Cầm và Bốc Kiêu rất nồng hậu, xem như người thân trong gia đình. Bốc Kiêu lưu
lại hai hôm, và dặn Diên Cầm :

­ Cháu ở đây phải tuân theo lời dì Vương. Bác sẽ đi tìm cha mẹ cháu. Nếu gặp, bác trở về đây tức khắc.

Diên Cầm tuân lời. Bốc Kiêu nhận đủ số vàng lánh mặt.

Thế là Diên Cầm phải nương náu nơi lầu xanh, không biết ai làm thân, ngày ngày chỉ trò chuyện với Vương
bà.

Mụ Vương là kẻ sành đời, dụng tâm nuôi Diên Cầm, để chờ ngày bán hoa thu lợi, nên một mực chiều
chuộng Diên Cầm, nay bánh ngọt, mai trà thơm, không thiếu những món ngon thức lạ.

Diên Cầm tuổi còn nhỏ, chưa hiểu việc đời, thấy mụ Vương tử tế với mình ngở bà ta thương yêu nên cũng
đem lòng mến.

Qua một thời gian, Diên Cầm thấy Bốc Kiêu đi biền biệt không về, phần nhớ cha mẹ, ăn ngủ không được,
nàng thỏ thẻ hỏi mụ Vương :

­ Thưa dì, chẳng hay bác Bốc đi đâu mà mãi không trở lại. Cháu ở đây lâu ngày e làm phiền đến dì nhiều
quá ?

Mụ Vương giã cách ngạc nhiên nói :

­ Con không phải là con gái của người họ Bốc đấy sao ?

Diên Cầm đem tình thật, kể rõ hoàn cảnh mình bị tản cư xa cha mẹ, gặp Bốc Kiêu là người hàng xóm.

Mụ Vương lúc ấy mới hay sự tình, mắng thầm :

­ Thế là gã họ Bốc đã đem con người khác bán đứng cho ta, lấy một số vàng lớn như vậy.

Tuy có lầm họ Bốc, nhưng được Diên Cầm cũng chẳng thua lỗ vào đâu, mụ Vương nói với Diên Cầm :
­ Cháu ạ ! Người họ Bốc bảo cháu là con gái của lão, lão đã đem bán cho ta năm chục lạng vàng. Thế thì từ
nay con là con của ta, đừng trông mong gì đến ai nữa.

Diên Cầm nghe nói khóc rống lên, bỏ ăn bỏ ngủ mấy ngày.

Mụ Vương phải nhọc lòng tìm lời dỗ dành :

­ Con chớ buồn ! Ta không hiềm gì con gái, nhưng thấy con thực thà dễ mến, nên ta đem lòng thương, muốn
mua về làm con để phụng dưỡng ta lúc tuổi già. Từ nay con gọi ta bằng má, và cứ ăn ở cho phải đạo làm
con. Con ở với ta cũng như ở với cha mẹ con vậy.

Ban đầu, Diên Cầm buồn bực, nhưng sau đó thấy mụ Vương an ủi mãi và sắm đủ thứ quần áo sang trọng
cùng các món ngon vật lạ đem đến cho nàng, nên nàng cũng vị tình mà nguôi ngoai.

Từ đấy, mụ Vương cho một nàng kỵ nữ thường ngày lui tới trò chuyện và dạy cho Diên Cầm các môn đờn
ca vũ nhạc.

Mụ Vương lại cải tên Diên Cầm ra tên Ngọc Mỹ cho đẹp hơn.

Nhà mụ Vương là nơi lầu xanh rất sang trọng, phòng the rất nhiều, thường ngày các vương tôn công tử
ngựa xe lui tới nườm nượp, cảnh sốnng hỗn loạn ngày cũng như đêm,

nhưng mụ Vương đã khéo léo để Ngọc Mỹ sống biệt một gian phòng, không cho tiếp xúc với ai. Vả lại, Ngọc
Mỹ lúc đó còn trẻ, chưa biết thế nào là bướm ong, nên không để à.

Suốt một năm, nàng chỉ chuyên chú về đờn ca hát xướng, lúc buồn lấy thơ phú làm vui. Năm nàng lên mười
lăm tuổi, sắc đẹp bắt đầu chúm nở, thân hình cân đối nở nang, má phấn môi son, mày thu mắt sáng, trông
chẳng khác đóa phù dung trong buổi đầu xuân.

Bóng hồng thấp thoáng ở lầu xanh, mà mành thưa không để lọt gió đông, các công tử đều ra vào háo hức
bẻ hoa nước trước. Nhưng mụ Vương đã tốn một số vàng mua nàng lại có công nuôi nấng suốt năm trời, dễ
gì để ai phá phách. Bà âm thầm treo một giá rất cao. Ai có đủ ba trăm lượng bạc mới mong mở cửa động
đào, vào vườn hoa mới.

Giá ngọc càng cao thì phẩm cách càng quà, tiếng đồn dội cả đế đô. Ngọc Mỹ trở thành một đóa hoa khôi bậc
nhất trong chốn phồn hoa muôn mặt.

Các vương tôn công tử trẻ tuổi phần nhiều là những người còn lệ thuộc cha mẹ, sống bám trong gia đình
làm sao có đủ số bạc lớn lao ấy, nên mặc dù ao ước cũng đành chịu lấy mắt mà nhìn, chẳng ai dám vung
tay bẻ khóa.

Bấy giờ vào tiết Trung thu, đêm trăng tỏ rạng, có người viên ngoại họ Kim, ở xa nghe tiếng tìm đến.

Sau khi đã nhìn rõ nét hoa, mặc dầu tuổi cao tác lớn, viên ngoại cũng không khỏi mê mẩn cả người. Tiền
này giá ấy không đắt, lão phú hào nhất xứ liền mở gói lấy đủ ba trăm lạng bạc trao cho mụ Vương và xin
được vào việc.

Cửa hàng đã đến lúc khai trương, mụ Vương còn tiếc gì mà không thu lợi.

Ngặt vì Ngọc Mỹ là đóa hoa xuân, chưa một lần gần gũi bướm ong, nay phải tiếp một lão già thì thật là khó.

Tuy nhiên, vàng bạc là tất cả, dẫu khó khăn đến đâu người ta cũng phải tìm cách làm cho đượ. Mụ Vương
liền nghĩ ra một kế, bày cho viên ngoại theo đó mà làm.

Thế là ngay đêm ấy, viên ngoại sắm sửa một chiếc thuyền, đem đủ các thức ăn uống, treo đèn kết hoa rực
muôn vẻ đẹp.
Mụ Vương vào nói với Ngọc Mỹ :

­ Có người cậu ở quê lai kinh dự lễ Trung thu, đêm nay có cuộc du thuyền, con muốn đi chơi giải khuây thì
xuống thuyền, dạo một chút rồi về.

Ngọc Mỹ tánh trẻ ham vui, bằng lòng ngay. Thế là nàng xuống thuyền, được viên ngoại họ Kim đón tiếp rất
hậu. Thuyền chèo khắp mặt hồ, để viên ngoại uống trà, nhìn trăng ngắm người đẹp.

Sau khi nhìn ngắm đã thỏa mãn đóa hoa trinh bạch kia, viên ngoại không cầm được lòng dục, liền theo kế
hoạch mụ Vương đã vạch sẵn.

Lão rót một chung trà hương có bỏ thuốc mê, đưa mời Ngọc Mỹ uống. Ngọc Mỹ uống xong chung trà tháy
tâm thần rối loạn ngất xỉu trên khoang thuyền, không còn biết gì nữa.

Viên ngoại giả cách kinh hãi, bảo là nàng bị gió độc, sai bọn tùy nhân vực nàng lên bờ, khiêng về thanh lâu.

Đến nơi mụ Vương đã chực sẵn, và đã dọn sẵn một căn phòng tươm tất để tiếp đón viên ngoại họ Kim.

Mụ cho người đưa Ngọc Mỹ lên phòng, tự tay đấm bóp khắp người nàng, đợi cho nàng thật thấm thuốc mê
rồi mới gọi viên ngoại lên.

Lão viên ngoại lọt được động đào còn biết đâu đến đất trời cao rộng. Gió mưa tầm tã đêm trường, đóa hoa
xuân tan tác.

Khi nàng Ngọc Mỹ tỉnh lại thì mưa tạnh gió tan, người nàng bải hoải. Lão viên ngoại vẫn còn say ngủ bên
nàng.

Biết mình đã mắc mưu, tấm thân đã nhơ nhuốc, Ngọc Mỹ nhỏm dậy, nhào xuống đất ôm mặt khóc.

Mụ Vương chạy đến tìm cách dỗ dành, trong lúc đó lão viên ngoại đắc à, hớn hở ra khỏi thanh lâu trở về
trang viện.

Ngọc Mỹ khóc sướt mướt mấy ngày không ăn uống, nghĩ mình cũng biết đọc sách thánh hiền, gương trung
trinh tiết nghĩa đã từng xem đến, mà tấm thân giữ không trọn thì còn sống trên đời làm chi. Nàng có à tự tử
chết đi cho xong.

Mụ Vương biết được à định của nàng, sợ hãi thầm nghĩ :

­ Bao nhiêu vốn liến bỏ ra cốt để sau này thu lợi, nếu nó chết đi thì còn mong gì làm giàu.

Nghĩ mình khó bề khuyên giải, mụ Vương tính cậy mụ Lưu, người bạn láng giềng đến lựa lời giúp sức. Mụ
Lưu vốn là kẻ miệng lưỡi đa đoan, một tay quyền biến, nên nghe mụ Vương triệu đến đã hiểu ngay.

Tuy nhiên, là một kẻ sống vì tiền, đâu có chịu làm mà không thủ lợi. Vì vậy, khi mới giáp mặt mụ Vương, mụ
Lưu đã nói ngay :

­ Hẳn có điều rắc rối nên phải nhờ đến miệng lưỡi Tô Tần sao ?

Mụ Vương buồn bã đáp :

­ Cũng vì con bé ấy “trở máng” nên tôi phải nhờ đến chị. Xin chị vì tôi khéo dùng lời giúp đỡ.

Mụ Lưu nói :

­ Việc gì tôi đã nói đến ắt phải xong. Nhưng công cán phải nghĩ cho sòng phẳng.
Mụ Vương cười ha hả nói :

­ Chị lo gì việc ấy ! Có khi nào tôi khá mà tôi lại không nghĩ đến chị.

Vừa nói, mụ Vương vừa mở tủ lấy năm lạng bạc trao ra. Mụ Lưu bỏ tiền vào túi, vừa bước lên thang lầu vừa
nói :

­ Cành hoa quốc sắc thiên hương ấy nếu dùng được có thể lập thêm năm bảy kỹ viện. Số tiền công của tôi
có là bao ! Phải thế không chị Vương ?

Mụ Vương cười xòa không đáp. Mụ Lưu bước lên cầu thang, thấy nơi góc trái có một căn phòng đẹp, màn
treo cánh phượng, trướng rủ màu hồng, biết đó là biệt phòng của Ngọc Mỹ.

Mụ rón rén bước vào. Lúc đó Ngọc Mỹ tóc mây buông xỏa, rối bời. Quần áo hoen ố vì nước mắt, nàng đang
gục đầu xuống tấm đệm nhung khóc nỉ non.

Mụ Lưu cười lớn, nói :

­ Cháu ! Có việc gì buồn bã khóc than như vậy ? Hãy vui lên, nói chuyện với dì.

Đang lúc đau đớn, tâm tình chẳng biết tỏ cùng ai, thấy mụ Lưu là người hàng xóm, Ngọc Mỹ sụt sùi nói :

­ Dì ạ ! Thân con còn có ra gì ! Con nghĩ tủi phận mà buồn, không còn muốn sống !

Mụ Lưu bước đến ngồi bên Ngọc Mỹ, vuốt ve làn tóc rối, lấy khăn lau nước mắt cho nàng và nói :

­ Cháu đừng nói dại ! Hễ ở núi sống nhờ cây rừng, ở sông sống nhờ lộc nước. Làm gái thì sống nhờ cái
duyên lúc tuổi còn xanh. Vả lại chị Vương nuôi cháu hai năm trời, công lao cực nhọc, chẳng lẽ cháu không
đền.

Ngọc Mỹ nghe mụ Lưu nói thế, bất bình đáp :

­ Sao dì nghĩ như vậy ! Cháu có thể vì người ân mà nuôi nấng phụng dưỡng để trả nghĩa, còn như việc đem
thân tiếp khách thì thật ê chề, đau đớn. Cháu không thể nào chịu như vậy.

Mụ Lưu mỉm cười, nói xa xôi :

­ Cháu chưa hiểu, mảnh đất mới khai phá lần đầu thì có hơi cực nhọc thật, nhưng sau đó cày cấy bao nhiêu
thì đất xớp bấy nhiêu, hoa lợi thu vào nườm nượp. Cháu tiếc mảnh đất

mà không để cày cấy khai thác, lấy đó mà làm vốn liếng nuôi thân, sống một cuộc đời sung sướng.

Ngọc Mỹ hét lên :

­ Thôi thôi, dì chớ nói như thế nữa, cháu chẳng muốn nghe đâu. Cháu chỉ muốn nghe dì bày cho một chuyện
làm ăn lương thiện mà thôi.

Mụ Lưu vừa cười, vừa nói :

­ Làm ăn trong đời không có gì là lương thiện đâu cháu ạ ! Kẻ mong làm giàu thì bất nhân thất đức, cướp
của người mới làm giàu. Kẻ muốn cao sang địa vị tất phải nịnh hót, làm đủ điều hèn hạ. Kẻ muốn sống cho
thanh nhàn an phận tất phải có một nghề nghiệp của ông bà để lại. Chỉ trừ đi ở đợ, làm thuê cho kẻ khác
mới mong gọi là lương thiện. Nhưng trong đời này đi ở đợ làm thuê cũng khó tránh khỏi bị người ta hành hạ,
cực nhọc.

Ngọc Mỹ nói :
­ Thà con bị hành hạ cực nhọc còn hơn để tấm thân ô nhục.

Mụ Lưu nói :

­ Đó là dì nói với hạng người xấu xa, cục mịch ! Còn như cháu có sắc đẹp ngàn vàng, dẫu đi làm thuê ở
mướn, đời cũng không để cho cháu được yên thân giữ lấy trinh khiết. Cái quà của người con gái là ở chỗ
trinh khiết, nay cháu đã mất trinh rồi, thì còn giữ tấm thân làm chi. Theo dì thì cháu nên dùng nó lấy của thiên
hạ, sống một cuộc đời sung sướng là hơn. Đời này không có cái gì gọi là thanh bạch hết !

Ngọc Mỹ hét lên :

­ Không, không ! Cháu nhất định không làm như vậy.

Mụ Lưu nói :

­ Hoàn cảnh cháu hiện nay cá chậu chim lồng, dù cháu có muốn theo à cháu cũng không được. Đây này, dì
nói thật cho con biết, chị Vương đã bỏ ngàn vàng mua cháu về đây, thì quyền sống chết của cháu là do ở chị
Vương định đoạt, trừ khi cháu đủ số tiền chuộc thân cháu lại. Nếu cháu không có số tiền, mà trái à chị
Vương, chị ấy sẽ hành hạ, đánh đập, làm khổ thân cháu, mà kết cuộc, tấm thân liễu yếu đào tơ của cháu
liệu có chống lại được sức mạnh đang đè nặng ngoài xã hội không.

Ngọc Mỹ nghe nói khóc òa :

­ Cháu còn thơ bé, biết làm gì có số tiền để chuộc lấy thân, thoát khỏi cảnh này. çi ! Độc ác thay lão Bốc
Kiêu, lão nỡ đem bán cháu để khổ thân cháu thế này ?

Mụ Lưu được lời thỏ thẻ :

­ Này cháu ! Cháu nên nghe lời dì, sau này dì sẽ giúp cho cháu giải thoát. Hiện nay trinh tiết của cháu không
còn, thôi thì cũng liều tiếp khách đi cho xong, để vui nhà vui cửa, một là trả ân cho chị Vương có công nuôi
dưỡng săn sóc cháu suốt hai năm trời, hai là trong thời gian tiếp khách, cháu dành dụm tiền bạc, lúc nào đủ
số, dì sẽ giúp cho cháu chuộc lấy thân. Vả lại trong khách làng chơi biết đâu chẳng có người vì nghĩa ra tay
Mạnh Thường Quân giúp cháu.

Ngọc Mỹ như nghe lọt vào tai, lau nước mắt, nhìn mụ Lưu nói :

­ Trăm việc sau này nhờ dì ! Cháu tiếp khách là để kiếm tiền chuộc lấy thân, để đi tìm cha mẹ cháu mà thôi.

Mụ Lưu mừng rỡ, hứa :

­ Được rồi, cháu cứ an tâm, sau này đã có dì liệu định. Cháu mà có đủ số bạc thì dì chỉ nói một lời chị
Vương sẽ cho cháu tự do ngay.

Thế là cuộc “du thuyết” của mụ Lưu đã có kết quả. Mụ Vương vui mừng quá sức, tiễn chân mụ Lưu về nhà
với lời cảm tạ nồng hậu.

Từ đó Ngọc Mỹ ra mặt tiếp khách rất vui vẻ.

Các vương tôn công tử xa gần nghe nức tiếng đồn, ngựa xe đến thanh lâu rộn rịp. Mụ Vương mỗi ngày thâu
vào một trăm lượng bạc, và hoan hỉ cho Ngọc Mỹ mười lượng.

Nét hoa lại không vì ong bướm gần gũi mà lạt phai, trái lại Ngọc Mỹ càng ngày sắc đẹp càng lộng lẫy, nức
tiếng là đệ nhất hoa khôi ở kinh thành.

Cách ba năm về trước, lúc ly hoạn có một người họ Tần tên Lương, góa vợ sớm, chỉ sanh được một trai là
Tần Trọng.
Lúc Tần Trọng lên mười ba tuổi, vì hoàn cảnh túng thiếu nên Tần lão đem bán Trọng cho một hiệu buôn dầu
ở Thạnh Hóa, thuộc kinh đô Lâm An.

Chủ hiệu buôn này là Châu lão, tánh tình hiền đức, lúc nào cũng vui vẻ đối với mọi người, hiềm vì Châu lão
góa vợ, không con, nên mua Tần Trọng làm con nuôi, để sau này nối giõi và phụng thờ hương khói.

Do đó, Tần Trọng được đổi ra là Châu Trọng, vẫn sống với Tần lão một niềm hiếu thuận. Năm Châu Trọng
mười lăm tuổi thì Châu lão bị bạo bệnh, nên tê liệt ít hay dòm ngó được chuyện nhà, bèn giao cho Tần Trọng
quán xuyến mọi việc, kim cả việc quản thủ tiền nong.

Thấy Châu Trọng hiếu đạo, tuổi đã lớn khôn, Châu lão muốn kiếm cho chàng một người vợ, bèn cưới cô gái
làm công ở kế cận cho chàng.

Cô bé này tên Lan Hoa, cũng có chút ít nhan sắc, song vì nàng lớn hơn Châu Trọng đến năm tuổi, nên tình
ái vì thế mà chênh lệch, thiếu mặn nồng.

Lan Hoa đang trong lứa tuổi thanh xuân, không chịu nổi sự thờ ơ của Châu Trọng, nên lén tư dâm với Na
Quyền, người làm công trong tiệm.

Tuy là tình ái vụng trộm, nhưng hai bên khắn khít nhau, yêu thương rất mực, và Lan Hoa càng ngày càng
phai lạt đối với Châu Trọng, chồng nàng.

Bởi vậy, thấy Châu Trọng thực thà ít nói, Lan Hoa tỏ ra cử chỉ ghét chàng ra mặt, và mỗi khi Châu Trọng
vắng nhà, Lan Hoa đặt điều nói xấu Châu Trọng với Châu lão.

Châu lão đang bệnh hoạn, tánh hay cau có bực dọc, lại bị Lan Hoa đâm thọc, lời ra tiếng vào, nên mỗi ngày
mỗi ghét Châu Trọng. Cho đến một hôm, Châu lão không chịu nỗi nữa, quát mắng Châu Trọng và đuổi Châu
Trọng ra khỏi nhà.

Châu Trọng chỉ biết buồn tủi phận mình chứ không hề dám cãi lại Châu lão một lời nào. Chàng vào lạy Châu
lão và góm góp ít quần áo để ra đi. Châu lão cho Châu Trọng năm lạng bạc, và hối người nhà đẩy chàng ra
khỏi cửa.

Châu Trọng bỏ nhà ra đi, lang thang trên con đường vô định... Chàng đi mãi, không định hướng, không biết
về đâu. Hai ngày trôi qua, Châu Trọng ngủ nơi gầm cầu, xó miễu, mua một mảnh bánh vụn để ăn lót lòng
cho đỡ đói mà thôi. Chàng nhớ đến cha già, muốn trở về quê nơi Hạ Lương để tìm, nhưng từ đây đến đó
đường còn xa, có chút ít tiền để nuôi thân, nếu đem làm lộ phí hết thì còn đâu sinh sống.

Từ nhỏ đến giờ, chàng chỉ biết có một nghề buôn bán dầu mà thôi, không biết làm thuê làm mướn cho ai cả.
Bởi vậy muốn nuôi sống qua ngày, chàng chỉ có cách là bán dầu. Chàng đến thuê một căn nhà lá nhỏ ở đầu
cầu Lâm An, rồi bỏ ra một ít tiền mua đôi thùng và gióng gánh. Còn lại bao nhiêu tiền, chàng làm vốn, đến
các tiệm dầu mua đi bán dạo.

Chàng quảy gánh, lằm lũi trong nắng sớm mưa chiều, mặt mày nám sạn, các người quen ai trông thấy, nếu
tỏ vẻ khinh bỉ chàng cũng mặc kệ không thèm để à đến.

Chàng lại nhớ đến cha già, nhớ đến quê hương, chỗ chôn nhao cắt rốn, nên chàng thầm bảo :

­ Bây giờ mình đã ra khỏi nhà Châu lão, tức là đã trở lại họ Tần, vậy ta phải nhớ lấy dòng họ và quê hương.

Chàng mua sơn viết trên hai thùng dầu của chàng, một thùng chữ “Tần” là họ, một thùng chữ “Hạ Lương” là
quê quán.

Thắm thoát đã hai tháng trôi qua, nhờ lòng chân thật và tánh cần cù nhẫn nhục, Tần Trọng bán rong khắp
làng mạc, số lời cũng đủ sống qua ngày. Hôm nọ, vào tiết hạ ngươn (rằm tháng mười), ở chùa Thiệu Trị có
mở cuộc chay đàn rất lớn để bố thí cho kẻ nghèo gạo thóc, muối mắm.
Tân Trọng hay được, đoán chắc nơi chùa làm chay ắt tiêu thụ nhiều dầu, nên trước đó ba hôm, chàng đã lần
đến chùa để chịu mối bán. Chàng được lão Thủ tự hứa mua giúp cho chàng mỗi kỳ rằm và mồng một nữa,
ngoài những cuộc lễ lớn ; vì vậy, chàng gặp được mối khá, vui mừng không kể xiết.

Đến ngày rằm, chàng còn mang thêm dầu đến, để ở cổng chùa, để khách thập phương đi lễ chùa mua tặng
cúng Phật. Vì có sáng kiến như vậy, nên dầu chàng hôm ấy bán rất đắt.

Lúc đó đã quá trưa, hai thùng dầu đã cạn, Tần Trọng toan thu xếp góng giánh trở về, chợt một đoàn người
sang trọng, kiệu hoa tấp nập, từ từ rẽ đám đông tiền gần đến cổng.

Thấy quá rộn rịp, Tần Trọng để gánh dầu nép vào góc tường rồi đứng xem. Đoàn người xuống kiệu. Đi trước
là hai bà lão trạc tuổi tứ tuần, mặt đầy phấn son. Đằng sau là một số ca nhi, theo sau một thiếu nữ vóc ngọc
da ngà, môi son mắt phụng, tuổi mới trăng tròn, xiêm y lộng lẫy chẳng khác một nàng tiên.

Gót sen lửng thửng, vạch đám đông vào trước cửa điện.

Tần Trọng thấy sắc đẹp của thiếu nữ ngây ngất cả lòng. Chàng há mồm đứng nhìn theo không chớp mắt.
Cho đến lúc thiếu nữ đã khuất bóng trong cửa tam quan, mà chàng vẫn không nhúc nhích.

Nàng đó là ai, chàng làm sao biết được ! Chàng chỉ thấy cái sắc đẹp lộng lẫy của giai nhân tuyệt thế mà thất
thần thế thôi. Chàng chưa trở về vội, đợi đoàn người lễ bái ra về xem lại một lượt nữa cho thỏa thích.

Chẳng bao lâu, nàng tiên ấy lễ Phật xong, trở ra cổng.

Tần Trọng lại một lần nữa, ngơ ngác như thả tâm hồn lên cành quế cung trăng.

Thiếu nữ đi qua trước chùa thấy hai thùng dầu của chàng có viết hai chữ “Tần” và “Hạ Lương”, liền cất tiếng
hỏi bà lão đi trước :

­ Má ơi ! Tại sao người kia lại viết trên hai thùng dầu những chữ ấy để làm gì.

Bà lão nhìn Tần Trọng, rồi đáp lời thiếu nữ :

­ Má cũng chẳng rõ ! Để má hỏi người bán dầu xem.

Bà lão bước đến chỗ Tần Trọng :

­ Này chú bán dầu ! Dầu còn hết đem lại nhà tôi mua dùm cho ? Trên đôi thùng, chú viết chữ “Tần” và “Hạ
Lương” có nghĩa gì thế ?

Tần Trọng có dịp để trò chuyện, và muốn biết nhà người đẹp, nên vội vã đáp :

­ Dầu tôi đã bán hết, nếu bà cần thì tôi sẽ đem đến tận nhà. Còn chữ “Tần” là họ và “Hạ Lương” là quê quán
của tôi.

Thiếu nữ ấy chính là nàng Ngọc Mỹ, còn bà lão kia là mụ Vương.

Ngọc Mỹ thấy Tần Trọng quê ở Hạ Lương, nhưng không quen thuộc nên bỏ qua, không hỏi đến. Mụ Vương
trước khi bước lên kiệu còn ngoái cổ lại dặn :

­ Nhà tôi phía Tây Hồ, tại viện thanh lâu đấy nhé.

Kiệu hoa bắt đầu chuyển động, bóng người đẹp đã khuất sau rèm mà đôi mắt Tần Trọng vẫn chẳng rời.
Chàng nhìn theo cho đến lúc kiệu hoa khuất bóng, chàng mới thở dài, lững thững gánh hai thùng dầu nối gót
bước theo xa xa.

Kiệu hoa đến bờ Tây Hồ thì vào viện thanh lâu, Tần Trọng như bị mất một vật gì, ngơ ngáo một lúc rồi ghét
vào một quán rượu, uống vài chén cho ấm, đồng thời dọ hỏi tin tức thiếu nữ kia.

Người chủ quán cho chàng biết :

­ Nàng đó tên Ngọc Mỹ gái lầu xanh, nổi tiếng là hoa khôi của Đế kinh, chỉ có hạng con vua cháu chúa hoặc
phú hộ sang giàu mới dám đến đó. Vì sau một đêm chăn gối với nàng, kẻ sai hoa phải mất mười lượng bạc
ròng, đó là chưa kể tiền chi phí về ăn uống, hoặc cho kẻ hầu người hạ.

Tần Trọng thở dài, nghĩ thầm :

­ Ta là kẻ hèn mọn, buôn bán qua ngày nuôi miệng, lấy đâu ra tiền mà mơ ước được gần người ngọc. Giá
được gần nàng một đêm dẫu chết cũng cam.

Suy nghĩ mong lung mãi trong đầu óc, và hình bóng mỹ nhân cứ lảng vảng trước mặt chàng, chàng cố xua
đuổi hình bóng mỹ nhân, rồi tự an ủi :

­ Thôi phận mình nghèo, không được may mắn gần nàng thì cứ thỉnh thoảng vài hôm ta đến thanh lâu bán
dầu một lần, nhìn thấy người ngọc cũng được chứ biết sao.

Chiều hôm ấy chàng gánh dầu đến thanh lâu bán cho mụ Vương, mắt luôn luôn nhìn quanh quất, để à xem
người ngọc có xuất hiện đâu chăng ? Nhưng thanh lâu rèm che cửa kín, rặc màu nhung gấm, bóng mỹ nhân
đâu có thể lọt vào đôi mắt của anh chàng bán dầu hèn hạ đó.

Tuy vậy, chàng vẫn không nản lòng, đoán rằng mỹ nhân đi vắng, nên chàng lại quảy gánh ra đi, và hy vọng ở
lần khác.

Sau đó, cứ cách vài ngày chàng lại gánh dầu đến thanh lâu, mà lần nào chàng cũng không thấy người ngọc,
chàng chỉ tự an ủi lòng mình một câu cho khỏi thất vọng để rồi bữa khác lại mang hy vọng đến.

Đã hai tháng, lần nào dầu gánh đến mụ Vương cũng mua cho năm cân, số tiền lời rất khá, nhưng chàng
không lấy thế làm hài lòng, vì không được thấy bóng dáng Ngọc Mỹ.

Chàng buồn quá, biết phận mình hèn hạ, cũng muốn bỏ à nghĩ thẩn thờ ấy, nhưng không sao được, hình
bóng Ngọc Mỹ cứ len lỏi trong đầu óc chàng, tưởng như có thể phát đau lên được.

Thời gian sau đó, được chùa Thiệu Trị và thanh lâu mụ Vương mua dầu quá nhiều, và còn hứa tiếp tục mua
mãi, nên Tần Trọng dư ăn dư để, dành dụm được một số tiền con.

Chàng sanh ra một à nghĩ :

­ Nếu cứ đà mua bán như vầy thì lối chừng một năm ta nhịn ăn, nhịn tiêu sẽ để dành được một số bạc mười
lượng, có thể chung gối với người đẹp một đêm.

Chao ôi ! Thật là táo bạo ! Một anh chàng bán dầu nghèo khổ, dám hy sinh một năm làm việc, nhịn cả ăn
mặc để chung gối với người đẹp một đêm !

Tuy à nghĩ ngông cuồng, song lại là một nguồn hy vọng đẹp nhất gieo vào cuộc sống người nghèo khó.

Thế là từ đó, Tần Trọng không còn buồn bã nữa, hớn hở gánh dầu đi bán, thực hiện theo à nghĩ riêng, có
đồng nào dư bỏ vào đấy, nhất định không dám tiêu pha. Quần áo bị rách, chàng chịu khó vá lại, không may
cái mới. Đôi khi thèm rượu hoặc bánh kẹo, chàng nhủ thầm :

­ Gần người đẹp một đêm còn thú vị hơn bánh, rượu nhiều !

Chàng ráng buôn bán và nhịn nhục suốt năm trời, mở đãy tiền đếm lại thì thấy để dành trên mười lạng bạc,
đúng như dự tính của chàng.
Thế là mộng ước chàng đã thành, tuy chưa được gần người đẹp.

Bấy giờ vào đầu xuân, khí trời ấm áp, hoa cỏ tươi màu, lòng chàng cũng ấm áp và tươi đẹp chẳng khác mùa
xuân.

Hôm ấy, chàng không gánh dầu đi bán nữa, mở đãy lấy mười lượng bạc trắng tinh gói thành một gói, lại đếm
thêm hai lượng nữa để dành trả tiền ăn uống tại thanh lâu, còn thừa hơn một lượng, chàng cất vào túi lểnh
mểnh ra phố lựa mua một bộ đồ thật đẹp, áo gấm, khăn sô, giày da cá lóc.

áo quần đã đủ, Tần Trọng trở về căn nhà lá nghèo nàn của chàng tắm rửa sạch sẽ, sửa soạn cho mày râu
nhẵn nhụi, rồi mặc quần áo mới ngắm nghía suốt buổi mà chưa ra khỏi nhà.

Chàng quan niệm hôm nay đến gần người đẹp nhất tất phải đàng hoàng sạch sẽ mới được. Thật vậy, với
quần áo bảnh bao, sửa soạn tươm tất, Tần Trọng nghiễm nhiên trở thành một vị công tử phong lưu, cách
biệt với chàng bán dầu ngày qua một trời một vực.

Tuy vậy, Tần Trọng vẫn chưa hài lòng, vì chàng cứ tưởng mình còn có nhiều cái vụng về, không xứng với
người đẹp, cho nên chàng ngần ngừ mãi, đến chiều mà chàng sửa soạn chưa xong, chưa ra khỏi nhà.

Tối hôm ấy chàng không ngủ được, và ngày hôm sau chàng lại dậy sớm để mặc áo chít khăn, sửa soạn hơn
một buổi tròn nữa mới ra khỏi nhà.

Khi đến cửa thanh lâu, chàng hồi hộp quá, thẹn thùng muốn bỏ trốn. Nhưng chàng lại đánh bạo, cắn răng,
bụng bảo dạ :

­ Nếu ngượng ngùng thì làm sao gần được người đẹp !

Mụ Vương từ bên trong bước ra thấy Tần Trọng ăn mặc cao sang, cử chỉ đạo mạo, ngạc nhiên hỏi :

­ Hôm nay chú sang đây hẳn có việc gì quan trọng ?

Tần Trọng chào mụ Vương, và đường đột nói :

­ Thưa bà, cháu đến thăm bà với mục đích được hầu tiếp Ngọc Mỹ người đẹp một đêm.

Mụ Vương nghe rõ lời nói của Tần Trọng, nhưng cứ tưởng mình nghe lầm, vì có bao giờ gã bán dầu nghèo
nàn như thế lại dám rớ tới cành hoa khôi, mà những kẻ phong lưu phú quà vẫn phải e dè với số tiền chi phí.

Mụ liền hỏi lại :

­ Chú muốn gặp Ngọc Mỹ với mục đích gì ?

Tần Trọng đáp ngay :

­ Thưa bà, cháu muốn được một đêm chung gối như khách làng chơi.

Mụ Vương khoác tay, nhìn Tần Trọng có à khuyên nhủ :

­ Đừng, đừng ! Thanh lâu của mụ không thiếu gì gái trẻ, nếu chú muốn giải buồn thì mụ sẽ lựa cho một đứa
vừa sạch sẽ, vừa ít tiền, còn Ngọc Mỹ là một hoa khôi đế đô, chú làm sao có số tiền to tác đủ chi phí ?

Tần Trọng nói :

­ Thưa bà, cháu đã có à định, xin bà vui lòng cho phép cháu được gặp mặt nàng.

Vừa nói, Tần Trọng vừa móc túi lấy ra mười lượng bạc trắng tinh, trao cho mụ Vương. Mụ Vương thấy bạc
tối mặt, vội vã mời Tần Trọng vào bên trong, hối bọn ca nhi đem trà nước đến, rồi mở tủ cất mười nén bạc kỹ
lưỡng.

Sau khi Tân Trọng uống cạn chung trà thơm, mụ Vương ân cần nói :

­ Cháu thật rủi ro ! Vì không biết trước có cháu đến, nên Ngọc Mỹ đã chịu lỡ với các vị vương tôn công tử.
Ngày hôm nay Ngọc Mỹ phải tiếp con quan thượng thư, ngày mai nàng phải tiếp con quan Đô úy, vậy phiền
cháu ráng đợi đến ngày mốt nàng mới có dịp.

Tần Trọng vui vẻ nói :

­ Được, cháu xin chờ, miễn nàng Ngọc Mỹ dành cho cháu một bữa là tốt.

Dứt lời, chàng chào mụ Vương ra về.

Về đến túp lều tranh nhỏ, chàng cởi quần áo mới, thay quần áo rách vào, và gánh dầu đi bán như cũ, lòng
mong chờ giờ khắc chóng qua để sớm được gần người ngọc.

Tuy chưa được gần Ngọc Mỹ, nhưng lòng chàng thấy vui sướng quá, lúc nào cũng hớn hở vui tươi.

Đến ngày hẹn, Tần Trọng lại mặc áo chít khăn tử tế, lểnh mểnh qua thanh lâu họ Vương. Mụ Vương tiếp
chàng rất niềm nỡ rồi nói :

­ Khổ quá, bác hẹn với cháu hôm nay Ngọc Mỹ sẽ tiếp cháu, nhưng khổ thay chiều hôm qua quan Đại phu
trong triều lại cho người sang đây rước nàng vào dinh ca chúc trăng tròn. Rồi ngày mai thì con trai Du Thứ
sử mời nàng uống rượu ngâm thơ. Vậy phiền cháu hẵn đợi đến ngày mốt mới được.

Tần Trọng vui vẻ nói :

­ Được ! Cháu xin chờ nàng đến ngày ấy.

Thế rồi Tần Trọng lểnh mểnh ra về, lòng mang niềm hy vọng không nguôi. Cho đến ngày hẹn hôm sau, Tần
Trọng đến thì mụ Vương lại nói :

­ Chết nỗi, rủi cho cháu quá ! Hôm nay Ngọc Mỹ lại phải dạo thuyền với con trai quan huyện.

Tần Trọng hơi buồn, ngỡ là mụ Vương không muốn cho người đẹp tiếp mình, nên nói :

­ Thưa bà, cháu chỉ sợ nàng Ngọc Mỹ chê cháu hèn hạ không tiếp. Còn việc chờ đợi đến bao lâu cháu cũng
chẳng ngại.

Mụ Vương nói :

­ Không phải thế ! Ngọc Mỹ đâu dám chê cháu, chỉ vì các vương tôn công tử có nhiều quyền uy, nếu làm
phật lòng họ thì việc làm ăn của bác sanh điều rắc rối đó thôi.

Tần Trọng như hiểu ra, tươi cười nói :

­ Nếu vậy cháu xin chờ đến khi nào Ngọc Mỹ rảnh rang cũng được.

Mụ Vương vồn vã bảo :

­ Thôi, ngày mốt ! Ngày mốt cháu đến đây thế nào bác cũng dành cho cháu.

Tần Trọng ra về, bụng bảo dạ :

­ Ta chờ nàng suốt một năm trời còn được huống hồ hai hôm nữa, vội gì ! Miễn nàng đừng khi dễ ta là hèn
hạ không chịu tiếp thì thôi.
Cái mộng được gần người đẹp đã ấp ủ vào lòng Tần Trọng, làm cho chàng như say sưa trong men rượu
hương tình, niềm ái ân như đã mặn nồng thắm thiết.

Hai hôm sau chàng lại đến.

Mụ Vương không từ chối nữa, chỉ nói :

­ Sáng này Ngọc Mỹ phải sang dinh tể tướng hầu thơ, cháu ở đây chơi chờ đến chiều tối thế nào nàng cũng
về.

Tần Trọng không từ chối, theo mụ Vương đi quanh co một lúc rồi lên đến một căn phòng màn treo trướng
phủ thơm ngát mùi hương.

Đó là phòng riêng của Ngọc Mỹ ở.

Tần Trọng đưa mắt nhìn quanh, thấy giường trải đệm gấm, gối thêu hoa, chung quanh các món văn phòng
tứ bửu đều bày ra đấy. Bên vách lại có mấy bức họa đồng quê tự tay nàng vẽ trông rất đẹp. Một phía có để
một cây đàn tỳ bà, một cây đàn tranh.

Tần Trọng là kẻ quê mùa, từ nhỏ đến giờ chỉ lo buôn bán, có được học hành gì đâu. Nay thấy đồ đạc như
vậy chàng ngơ ngác. Tuy nhiên, chàng cũng biết Ngọc Mỹ là gái trâm anh, gồm đủ các môn cầm kỳ thi họa.

Chàng ngồi thừ ra đó, không nói được lời nào, trong lúc mụ Vương kể chuyện huyên thiên, nào chuyện này,
tích nọ.

Chàng thầm nghĩ :

­ Với số bạc mười lượng mà được ngồi ở phòng này trò chuyện với người đẹp thì cũng đã thỏa mãn lắm rồi,
cần gì phải chăn gối.

Chàng đang nghĩ vẩn vơ thì thị tỳ đã đem trà ngon, bánh ngọt đến bày ra bàn. Mụ Vương tự tay rót trà mời
mọc Tần Trọng. Cho đến trưa, mụ Vương lại mời Tần Trọng xuống nhà dùng cơm. Én xong, chàng được thị
tỳ đưa qua phòng, tắm rửa mát mẻ rồi lên lầu uống trà mà đợi.

Chiều hôm ấy, Tần Trọng cũng được mụ Vương mời ăn cơm, đối đãi rất trọng hậu. Cho đến lúc hoàng hôn
rủ xuống, thanh lâu rực ánh đèn màu, mà cũng chẳng thấy mỹ nhân đâu.

Tần Trọng rất bực mình ! Không phải chàng bực dọc vì chờ đợi mỹ nhân, mà chàng bực dọc trước cảnh
cơm dâng nước rót, kẻ hầu người hạ trước sau.

Xưa nay, Tần Trọng chỉ quen với cơm hẩm canh rau, ngủ ở xó miễu đầu đình, tự do thong thả đã quen. Tuy
nhiên, trót chờ đợi suốt ngày không lẽ bỏ ra về, còn ngồi lại thì nóng ruột quá sức.

May thay, chẳng bao lâu trước cửa viện đèn đuốc rực trời, một chiếc kiệu hoa từ từ đỗ lại, có tiếng một tên
phu kiệu nói với mụ Vương :

­ Ngọc Mỹ vì hầu rượu quan Tể tướng bị quá chén nên bị say mèm.

Hai đứa nữ tỳ vội vén màn, đỡ Ngọc Mỹ ra khỏi kiệu.

Nàng Ngọc Mỹ mặt mày phờ phạc, đôi mắt nhắm nghiền xiêm y nhàu nát, không còn tỉnh táo nữa. Men rượu
đã làm cho nàng mê man rồi !

Mụ Vương truyền thiếu nữ bế nàng lên phòng hương, đặt lên giường gấm, và nói với Tần Trọng :

­ Ngọc Mỹ bị quá chén nên đang say, phiền cháu ngồi đây với nàng, đợi lúc nàng tỉnh lại sẽ cùng cháu tâm
sự nhé.

Tần Trọng được trông thấy người đẹp mừng quá, gật đầu thưa :

­ Thưa bà, không sao. Đã có cháu ở đây, xin bà cứ an tâm.

Mụ Vương cùng với bọn nữ tỳ xuống nhà dưới, chỉ để một mình Tần Trọng ở lại phòng.

Chàng ngồi nơi chiếc tràng kỷ, bên giường, mắt đăm đăm nhìn vào mặt mỹ nhân. Khuôn mặt đẹp nỏn nà,
thiêm thiếp giấc nồng, thân hình mảnh mai kiều diễm, khiến cho Tần Trọng ngất ngây.

Suốt một năm trời, hình bóng ấy chôn trong mơ ảo của chàng, đến hôm nay chàng mới được chiêm
ngưỡng. Chàng đang trầm ngâm mê mẩn thì Ngọc Mỹ cựa mình buông thỏng hai chân ra ngoài. Chàng thấy
đôi hài thêu của nàng vẫn còn để nguyên chưa cổi, chàng vội bước tới, rón rén cổi hài, và nâng nhẹ bàn
chân nàng đặt vào giường ngay ngắn.

Hơi thở của Ngọc Mỹ sặc mùi men rượu, tóc mây óng ả của nàng rũ xuống mặt, Tần Trọng lấy tay tém nhẹ
mái tóc, và không dám có cử động nào mạnh, sợ nàng mất giấc ngủ.

Chàng trở lại ngồi trên tràng kỷ, vuốt lại nếp áo mới của chàng cho thẳng thắn, vì chàng sợ lúc Ngọc Mỹ tỉnh
lại thấy quần áo chàng không ngay ngắn nàng sẽ không hài lòng. Qua một lúc lâu, Ngọc Mỹ lại cựa mình,
đầu nghiêng ra khỏi chiếc gối thêu, nghẻo qua một bên, và hơi thở có vẻ mệt nhọc.

Tần Trọng thấy thế vội bước đến đỡ đầu nàng, đặt lên gối. Bỗng nàng oẹ mấy tiếng, rồi mửa xối vào mặt
Tần Trọng, vọt vào ướt cả áo quần. Mùi chua nồng nặc không sao chịu nổi. Tuy vậy, Tần Trọng không thấy
gớm ghiếc, mà chỉ lo cho người đẹp. Chàng rút khăn lau mặt Ngọc Mỹ sạch sẽ, đỡ nàng nằm ngay ngắn, rồi
bước ra khỏi giường cổi áo để lau vết bẩn. Nào ngờ áo chàng dính đầy cả thức ăn lẫn rượu tanh chua
không thể tả.

çi ! Chiếc áo mới của chàng đã hơn một tuần nay, được chàng gìn giữ cẩn thận để hội ngộ với người
thương, ngờ đâu chưa được nàng chiêm ngưỡng mà đã hỏng mất rồi còn biết làm sao.

Chàng đành cuốn nó lại thành một cục, bỏ xuống đất để ngày mai trở về giặt giũ. Ngọc Mỹ mửa xong thấy
khỏe người, đánh một giấc say sưa.

Tần Trọng ngồi ở ghế, đêm khuya bốn bề vắng lặng, chàng cũng buồn ngủ nhưng không dám, sợ Ngọc Mỹ
có bề nào không ai săn sóc, cứ chốc chốc chàng lại bước đến bên giường thăm chừng.

Sau khi nhận thấy Ngọc Mỹ khỏe khoắn, ngủ ngon lành, chàng mới an tâm, bước lại tràng kỷ, đặt lưng
xuống đấy. Cơn mệt mỏi đến với chàng, chẳng biết chàng ngủ thiếp đi lúc nào chẳng rõ.

Trời tang tảng sáng, Ngọc Mỹ tỉnh say, mở mắt nhìn thì thấy nơi phòng mình một anh chàng cổi trần trùng
trục, đang nằm trên chiếc ghế dài.

Nàng lấy làm lạ, bấm trán suy nghĩ. Nhưng nàng chỉ nhớ cuộc hầu rượu với quan Tể tướng ngày hôm qua,
còn việc gì đã xảy ra trong đêm nàng không hề nhớ. Nàng xỏ giày bước xuống giường, bỗng thấy một đống
giẻ để dưới đất, nàng lấy chânh banh ra xem thử thì thấy đó là một chiếc áo, dính đầy chất mà nàng đã mửa
đêm vừa rồi.

Như chợt hiểu nàng lẩm bẩm :

­ Người này là ai ? Chắc đêm vừa rồi ta đã say, và mửa vào áo hắn.

Có tiếng động, Tần Trọng giật mình tỉnh dậy, thấy Ngọc Mỹ đứng trước mặt mình. Chàng rối rít hỏi :

­ Qùa nương, quà nương đã khỏe rồi chứ ? Khổ quá, quà nương uống rượu nhiều quá đến nỗi say mèm,
suốt đêm nay tôi chỉ sợ quà nương có bề nào nên thỉnh thoảng đến thăm chừng mãi.
Ngọc Mỹ hỏi :

­ Tại sao anh lại đến đây để săn sóc tôi ?

Tần Trọng kể lại chuyện chàng dành dụm suốt một năm trời để có đủ số tiền đến gần nàng, và chàng đã chờ
đợi nàng suốt một tuần nay. Đêm vừa rồi nàng lại say rượu, mửa vào áo chàng nên chàng phải đành ngủ
trần trên ghế.

Ngọc Mỹ nghe qua hết câu chuyện rất cảm động, thấy rõ lòng thành thực yêu đương của anh chàng bán dầu
và nói :

­ Đã mấy năm trời em sống ở thanh lâu này, khách chơi hoa phần nhiều là kẻ háo sắc đê hèn, không ai có
được mảnh tình cao quà như anh. Tuy anh là người nghèo khó, khổ sở song đã làm cho lòng em cảm mến
không ít.

Ngọc Mỹ và Tần Trọng chưa trò chuyện được mấy câu thì dưới nhà mụ Vương đã sai thị tỳ giục Tần Trọng
ra về, bảo là có khách đến. Tần Trọng cúi xuống, vói tay lấy chiếc áo ôm vào lòng, sắp sửa từ giã Ngọc Mỹ
ra đi. Ngọc Mỹ lưu luyến nói :

­ Anh đến đây không được cùng em chăn gối mà phải mất số tiền, vậy em xin lấy tiền riêng của em để đền
lại cho anh.

Tần Trọng khẳng khái đáp :

­ Tôi đã vì quà nương, ước được gặp mặt, giờ thì đã mãn nguyện rồi, cần gì tiền bạc nữa.

Ngọc Mỹ nói :

­ Thế thì thỉnh thoảng anh đến đây với em, em sẽ dành mọi sự tiếp đón nồng hậu.

Tần Trọng nói :

­ Tôi làm sao có được tiền mà đến đây nữa. Số tiền vừa rồi tôi phải dành dụm mãi suốt một năm trường đấy.

Ngọc Mỹ thở dài thương hại :

­ Em cũng có một chút ít tiền dư, xin trao tặng anh để lúc nào anh muốn đến thăm em cũng được.

Tần Trọng thấy Ngọc Mỹ thương tưởng đến mình, sung sướng muốn khóc lên được, nhưng chàng khoa tay
nói :

­ Không nên, quà nương cứ để tiền chi phí. Vì quà nương là người đẹp, mọi chi phí tốn kém nhiều, còn tôi
sống cực khổ đã quen, chẳng cần đến tiền bạc bao nhiêu. Vả lại, tôi được quà nương đoái tưởng như thế
cũng đủ, năng lui tới chỉ làm phiền quà nương !

Dứt lời, chàng ôm áo bước xuống cầu thang. Ngọc Mỹ thương mến bước theo tiễn chân và nói :

­ Anh cứ để áo cho bọn nữ tỳ ở đây giặt ! Em sẽ sai chúng đi mua áo khác cho anh mặc.

Tần Trọng lắc đầu :

­ áo này chỉ dính chút ít hơi rượu, bỏ đi phí lắm. Vả lại, tôi cần giữ áo này cũng như giữ một kỷ niệm được
gần quà nương.

Tần Trọng ra về, để lại một mối bâng khuâng trong lòng người kỵ nữ. Thật vậy, từ lúc Ngọc Mỹ gần gũi với
dục vọng ái tình, phần nhiều là bậc vương tôn quà tộc, nhưng chưa có ai có một tình ái chân thành như Tần
Trọng, khiến cho lòng nàng nhớ mãi không sao quên được.

Tần Trọng trở về căn nhà lá tí hon và lại phải ngày ngày đi gánh dầu bán dạo như cũ.

Trong lúc đó Châu lão, người chủ tiệm dầu, mà cũng là cha nuôi của Tần Trọng, đã đuổi Tần Trọng trước
kia, bệnh tình mỗi ngày một nặng, không sao lo việc buôn bán được nữa, bèn giao cho Lan Hoa chăm nom.

Lan Hoa và Na Quyền, từ khi Tần Trọng bị đuổi khỏi nhà, mối tình lại khắn khít thêm, ngày đêm ân ái ra mặt,
không còn phải thầm lén nữa.

Thời gian không lâu, Lan Hoa đánh cắp một số tiền lớn dắt Na Quyền đi xây tổ ấm. Châu lão bệnh hoạn
không để à, đến khi hay được thì đôi gian dâm kia đã trốn đi mất dạng rồi. Từ đó Châu lão mới biết hối hận
rằng ông ta đã đuổi Tần Trọng ra đi một cách oan uổng.

Nhưng còn biết làm sao nữa ! May thay, trước đây Châu lão có chôn giấu một trăm lượng bạc, nay mới còn
vốn, không thì tiệm buôn đó đã tiêu tùng rồi.

Châu lão thương nhớ Tần Trọng vô cùng, ngày đêm than khóc. Có người hàng xóm đến thăm, nói cho Châu
lão biết Tần Trọng vẫn còn ở nơi kinh đô đi bán dầu dạo.

Châu lão mừng quá, vội sai người đến đón, và nói rõ lòng ăn năn của Châu lão, yêu cầu Tần Trọng trở về
nối lại tình xưa. Tần Trọng vốn người trung hậu, nghe được tin, vội trở về thăm Châu lão.

Hai cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Châu lão giao hết tiền bạc và cửa hàng cho Tần Trọng lo việc
khuếch trương. Tần Trọng đem hết sức mình, ngày đêm lo việc buôn bán chẳng bao lâu cửa hàng phát đạt,
thu lợi rất nhiều.

Châu lão bệnh tình mỗi ngày một nặng, không chịu nổi với tuổi già, một hôm ông ta gọi Tần Trọng vào giao
hết sự nghiệp rồi nhắm mắt thiên thu.

Tần Trọng lo việc chôn cất người cha nuôi, dây rơm mũ bạc, cư tang chí hiếu như con đẻ vậy. Sau đó, công
việc buôn bán vì mỗi ngày mỗi phát đạt, nên Tần Trọng không phút nào rảnh rang bước ra khỏi nhà. Chàng
nhớ đến người cha đẻ, muốn cho người đi tìm rước về để phụng dưỡng, nhưng tìm mãi không thấy ở đâu.

Một hôm có một người nghèo khổ quê ở Hạ Lương đi lang thang tìm việc. Tần Trọng thấy là người quê cha
đất tổ của mình lập tức thâu dụng, giao cho công việc quản gia.

Chàng hỏi ra thì được biết ông lão đó tên Tân Thiện, trước đây ba năm bị giặc Kim đến quấy nhiễu, gia đình
tản cư thất lạc, nay chỉ còn hai vợ chồng già, mà đứa con gái bị mất tích, không tìm thấy đâu cả !

Tần Trọng thương tình, cho hai vợ chồng Tân Thiện ở chung với chàng và sớm hôm chuyện vãn, chẳng
khác người trong gia đình.

Vợ chồng Tân Thiện thấy Tần Trọng làm ăn khá giả, lại chân thật, có tánh thương người, nên yêu mến lắm.

Thường ngày vợ chồng nhớ con gái, sụt sùi bảo nhau :

­ úớc gì đứa con gái mình không bị thất lạc, đem gả cho Tần Trọng, thì thật xứng đôi vừa lứa, mà Tần Trọng
là kẻ chí hiếu, ắt mai sau nhờ được tuổi già.

Tần Trọng từ khi gặp được Ngọc Mỹ, hình bóng nàng như đã in sâu vào tư tưởng của Tần Trọng, nên chàng
chẳng bao giờ còn để à đến ai, hoặc nghĩ đến chuyện tình ái nữa.

Còn Ngọc Mỹ từ đêm gặp Tần Trọng, tánh nết đổi khác. Nàng khinh dể tất cả các vương tôn, công tử có
những dục tánh hèn hạ. Nhiều lúc nàng từ chối không tiếp ai, đóng cửa nằm một mình trong phòng hương
mở tưởng đến Tần Trọng, anh chàng bán dầu có mối tâm tình thành thật ấy.
Nàng nhớ Tần Trọng, muốn gặp mặt chàng, nhưng ngày tháng trôi mãi qua cảnh gối chăn, mà bóng dáng
người yêu vẫn không thấy đâu.

Càng gần với chăn gối, Ngọc Mỹ càng thấy lạt lẽo với ái tình.

Các công tử vương tôn trước đây được nàng tiếp đón thịnh tình, nay thấy nàng đổi tánh thờ ơn cũng không
hiểu ra sao cả.

Đã nhiều lúc, nàng hỏi thăm mụ Vương về Tần Trọng, thì mụ Vương cũng chẳng biết vì sao chàng tự nhiên
bặt tích, không lang thang bán dầu dạo nữa;

Ngọc Mỹ lại sai bọn thị tỳ tìm đến những nơi chàng bán dạo trước kia dọ hỏi, nhưng không ai biết. Nỗi nhớ
nhung lắng đọng trong tâm hồn người kỵ nữ làm cho nàng sanh ra tánh gắt gỏng với khách mua hương.

Một hôm, có chàng Ngô công tử là kẻ háo sắc, đã từng nước trước bẻ hoa, tiếng tăm lừng lẫy, nghe tiếng
Ngọc Mỹ liền lần đến kinh đô để tìm hoa.

Ngô công tử là con quan Đô đốc tại triều, theo người anh ra trấn nhậm ở hạt thành, nên quyền uy rất mực,
tánh khí ngang tàng không ai dám trái à.

Khi đến viện thanh lâu, Ngô công tử bảo mụ Vương phải để cho nàng Ngọc Mỹ đến tư dinh hầu chàng một
đêm. Mụ Vương sợ hãi vâng lời, nhưng Ngọc Mỹ lại giã đau từ chối không tiếp.

Bị phật à, Ngô công tử liền trở về, đem một lủ gia đinh đến thanh lâu đập phá tan tành, đánh đuổi mụ Vương
và bọn nữ tỳ chạy trối chết. Chàng lần lên phòng hương thì thấy Ngọc Mỹ đang đóng cửa họa bức chân
dung của một chàng trai trong mộng.

Ngô công tử nổi giận đang tay đánh Ngọc Mỹ hai tát, nói :

­ Khốn kiếp ! Mày dám khinh bỉ ta đến thế sao ?

Tội nghiệp thân hoa bị một phen mưa vùi gió dập. Tuy là giận dữ, song thấy hình bóng kiều diễm của Ngọc
Mỹ, ngực nở lưng ong, mày ngài da phấn, Ngô công tử phát động lòng dâm, liền gọi bọn gia nhân vực nàgn
xuống mé sông, đem lên một chiếc thuyền để tính chuyện trăng hoa.

Ngọc Mỹ la hét vang trời, làm náo loạn cả xóm Tây Hồ.

Tuy nhiên, thân liễu yếu mai gầy làm sao chống lại được sức mạnh của bọn đầu trâu mặt ngựa kia. Bọn lính
tuần nghe việc náo loạn chạy đến, thấy lũ gia đinh của phủ Đô đốc nên chẳng ai dám cản ngăn.

Thế là Ngô công tử đem Ngọc Mỹ xuống thuyền giữa sự sợ hãi của mọi người. Mụ Vương thở ngắn than
dài, không biết số phận của Ngọc Mỹ ra sao, và cũng chẳng dám nom theo dò la nữa, đành ở nhà dọn dẹp
thanh lâu sửa lại những chỗ bị Ngô công tử đập phá.

Dẫn được Ngọc Mỹ xuống thuyền, Ngô công tử khiến gia nhân mua đủ rượu trà quà bánh các thức ngon vật
lạ để đãi Ngọc Mỹ, mua chuộc cảm tình, nhưng Ngọc Mỹ nhất định không chịu ăn uống gì cả.

Khi thấy Ngô công tử ép uổng việc gió trăng, Ngọc Mỹ nhổ nước miếng vào mặt chàng và mắng :

­ Hèn hạ ! Mày ỷ quyền thế, áp bức dân lành, không biết nhục à ?

Ngô công tử tánh khí ngang tàng đã quen, thuở nay chưa ai dám trái à, nay bị Ngọc Mỹ mắng chưởi, nhổ
nước bọt vào mặt, nên tức giận đánh nàng một trận nên thân. Mặt mày nàng tím bầm hết.

Như thế, Ngô công tử vẫn chưa thỏa, truyền bọn gia nhân lột cả nữ trang ném xuống sông, rồi xé nát xiêm
áo của nàng, làm cho thân nàng lộ liễu, rồi chèo thuyền thả nàng vào bến.
Ngô công tử thấy thân nàng hở hang, đắc à cười lớn, nói :

­ Ta cho mày xấu hổ một trận để chừa cái tánh khinh người !

Đau thương tủi nhục, Ngọc Mỹ ôm mặt khóc rưng rức, và ngồi phệt xuống mặt đường, không dám trở lại
đường phố. Trong lúc đó, Ngô công tử đã cùng bọn gia nhân chèo thuyền đi mất.

May thay, giữa lúc bơ vơ, chưa biết nhờ cậy ai, thì đàng xa có bóng một chàng trai đi tới. Ngọc Mỹ trông thấy
nhận ra là Tần Trọng, vội kêu lớn :

­ Anh ơi ! Đến cứu em !

Tần Trọng thấy một thiếu phụ ngồi bên lề đường kêu cứu, vội chạy đến thì thấy Ngọc Mỹ áo quần tả tơi, mặt
mũi tím bầm.

Chàng hổn hển hỏi :

­ Tại sao tấm thân quà nương ra nỗi này ?

Ngọc Mỹ kể lại chuyện Ngô công tử ác tâm dập liễu vùi hoa, và hỏi :

­ Lâu nay anh đi đâu vắng bóng ?

Tần Trọng kể lại thời gian chàng mắc lo buôn bán và cư tang người cha nuôi.

Hai bên gặp nhau tuy mừng rỡ, nhưng không biết nói lời gì cho tỏ được nỗi nhớ nhung cô đọng trong lòng
mình qua bao thời gian cách biệt.

Thấy để Ngọc Mỹ ở lâu ngoài đường bất tiện, Tần Trọng vội chạy vào đầu phố thuê một chiếc kiệu đem đến,
đưa Ngọc Mỹ trở về viện thanh lâu.

Mụ Vương suốt ngày nơm nớp lo âu, sợ Ngô công tử bắt mất Ngọc Mỹ thì kỷ viện không còn đắt khách, và
bà mất cả số vốn lẫn lời.

Thật ra từ ngày Ngọc Mỹ tiếp khách, mụ Vương thu được tiền bạc không biết đâu mà tính. Số tiền vô có lẽ
đã chất đống cao bằng người. Tuy nhiên, lòng tham không đáy, mụ vẫn còn tiếc rẻ, chưa chịu cho là đủ.

Thấy Tần Trọng đưa Ngọc Mỹ về đến, mụ Trương mừng rối rít, vội đưa Ngọc Mỹ vào phòng hương để nghỉ
ngơi, và dắt tay Tần Trọng vào trong pha trà tiếp đãi để tạ Ơn.

Sau khi hỏi qua vì đâu chàng lại gặp được Ngọc Mỹ để cứu giúp, mụ Vương ân cần nói:

­ Đêm nay cháu ở lại đây dùng bữa cơm tối với bác.

Tần Trọng đáp :

­ Cháu giúp quà nương một chút có gì ân huệ, cháu xin cáo biệt vậy.

Ngọc Mỹ nghe nói vội xen vào :

­ ơn anh em chưa đền đáp, vậy anh cũng nên nghe theo lời má của em, ở lại đây đêm nay để được cùng em
tâm sự cho vui.

Tần Trọng thật thà nói :

­ Thật lòng tôi cũng muốn thế, song hôm nay tôi không mang tiền theo, vậy xin hẹn gặp quà nương dịp khác.
Ngọc Mỹ khóc rống lên, nói :

­ Tôi từ mười lăm tuổi đã trôi giạt đến đây, tưởng chân bèo bọt không còn có ai đoái hoài đến, ngờ đâu lại
gặp được kẻ chân thật yêu đương. çi ! Tình yêu sao lại trao đổi bằng tiền bạc ? Em tuy là gái giang hồ, song
lúc nào cũng nghĩ đến ngày trở về đời, làm ăn lương thiện, một túp lều tranh, một người chồng hiền đức
cũng đủ làm cho đời sống của em thỏa mãn, sung sướng lắm rồi. Xét lại, những kẻ yêu hoa ở đời này chỉ là
những kẻ ham sắc dục, không ai có một tâm hồn cao thượng đáng để cho em tôn thờ như anh. Nay anh
cũng khinh em như vậy thì đời em còn sống làm gì nữa.

Dứt lời Ngọc Mỹ toan đập đầu vào cột tự vận.

Mụ Vương thất kinh chạy lại khuyên nhủ :

­ Con chớ nên làm thế ! Cháu Trọng đã có lòng thương con thì một ngày gần đây cháu kiếm đủ tiền sẽ chuộc
con ra khỏi kỷ viện, hai trẻ sẽ yêu nhau sống cuộc đời nhàn rỗi đâu khó gì.

Nói câu ấy, mụ Vương đã đoán biết Tần Trọng là kẻ bán dầu nghèo khó làm gì có đủ số tiền to tác để chuộc
nàng. Chẳng qua mụ nói thế để lừa phỉnh và an ủi Ngọc Mỹ đừng liều thân mà thôi.

Tuy nhiên, câu nói ấy lại làm cho Ngọc Mỹ nảy ra một hy vọng. Nàng ngẩng dậy hỏi :

­ Má hứa chắc như vậy chứ ,

Mụ Vương nói :

­ Má là người lớn, một lời đã nói ra không thể chối cãi.

Ngọc Mỹ chưa tin, còn hỏi thêm :

­ Giữa đây có mặt nhiều người, nếu sau này má sai lời thì sao.

Mụ Vương nói :

­ Má sai lời thề không thấy mặt con.

Ngọc Mỹ vui vẻ, đứng dậy thay đổi xiêm y, rồi hỏi Tần Trọng :

­ Anh có chê em là gái giang hồ, hư thân mất nết chăng ?

Tần Trọng đáp :

­ Qùa nương cành vàng lá ngọc, tôi đâu dám nghĩ thế.

Ngọc Mỹ nói :

­ Nếu anh không chê em là đứa hèn mạt, em xin sẽ cùng chung sống với anh, anh nghĩ sao ?

Tần Trọng đáp :

­ Được thế thì đời tôi còn gì hạnh phúc hơn. Tôi chỉ sợ quà nương chê tôi là kẻ nghèo nàn.

Ngọc Mỹ nói :

­ Thôi được ! Chúng ta còn có ngày gặp gỡ. Xin anh trở về để em thu xếp công việc.

Chiều hôm ấy Ngọc Mỹ tính việc lấy tiền dành dụm của mình lâu nay chuộc lấy thân, để về chung sống với
Tần Trọng.
Nguyên Ngọc Mỹ từ lúc xả thân tiếp khách làm giàu cho mụ Vương, nàng đã tính đến ngày chuộc mình, nên
có để dành một số tiền lớn. Vì số tiền quá to tát, nàng không thể cất nơi kỷ viện, nên đem gởi cho con quan
Lâm Thượng thư là Huỳnh Thái úy.

Trong số các quan trẻ tuổi năng lui tới với nàng, chỉ có Huỳnh Thái ùa là người nhân đức, đáng tin cậy hơn
cả, nên Ngọc Mỹ mới chọn mặt gởi vàng.

Vì vậy, sáng hôm sau, nàng dậy thật sớm, ngồi kiệu đến dinh Thượng thư, nói dối với mụ Vương là đi đánh
cờ.

Khi đến nơi, nàng trình bày à kiến cho Thái úy nghe. Thái úy chấp thuận giao cả số tiền lại cho nàng, và hứa
nếu còn thiếu, ông ta sẽ giúp.

Lấy tiền xong, Ngọc Mỹ nghĩ nay đến mụ Lưu là người miệng lưỡi, trước kia đã hứa với nàng, nay tất phải vì
nàng giúp đỡ.

Nàng cho kiệu thẳng đến nhà mụ Lưu.

Mụ Lưu đang nằm trên ván, thấy Ngọc Mỹ, vội đon đả bước ra, đón hỏi :

­ A ! Hôm nay có gió lạ nào đưa quà nương đến đây. Hẳn có điều gì quan hệ ?

Ngọc Mỹ xuống kiệu, miệng chúm chím cười, nói :

­ Cháu đến nhắc lại lời hứa của dì trước kia đấy.

Mụ Lưu nhăn mặt suy nghĩ :

­ Trước kia dì hứa với cháu lời gì thế ?

Ngọc Mỹ nhắc lại lời của mụ Lưu hứa giúp nàng nếu nàng góp đủ số tiền để chuộc mình. Mụ Lưu nhớ lại,
cười ha hả :

­ A ! Cháu không nhắc lại thì lâu ngày dì quên mất ! Thế hôm nay cháu có đủ số bạc năm trăm lượng rồi sao
?

Ngọc Mỹ nói :

­ Tiền ấy cháu đã có đủ, chỉ nhờ dì đứng trung gian nói với má Vương một lời.

Mụ Lưu ngẫm nghĩ nói :

­ Tuy dì với chị Vương là chỗ thâm tình, song việc này e khó lắm. Vì cháu là nguồn lợi của chị Vương. Chuộc
cháu ra chị Vương mất một mối lợi lớn, đời nào chị ấy chịu.

Ngọc Mỹ nói :

­ Hôm qua bà đã hứa với cháu nếu chừng nào cháu có đủ số tiền thì bà ấy cho cháu chuộc mình. Song dì
đừng nói là tiền của cháu, mà bảo là có người đứng ra bỏ tiền chuộc cháu.

Mụ Lưu ngạc nhiên hỏi :

­ Chị Vương quả đã có hứa với cháu như thế sao ?

Ngọc Mỹ gật đầu.


Mụ Lưu thấy có hy vọng làm tiền được, tuy nhiên, mụ vẫn làm bộ khó khăn nói :

­ Tuy thế cũng khó lắm cháu ạ ! Dì phải bỏ ra bao nhiêu hơi sức để thuyết phục may ra mới có kết quả. Công
lao của dì quá nhiều.

Ngọc Mỹ biết mụ Lưu muốn đòi tiền công, liền nói thẳng :

­ Xin dì thương cháu làm phước, cháu chẳng quên ơn dì đâu.

Vừa nói nàng vừa thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc, trao cho mụ Lưu :

­ Đây, cháu kính dì một số tiền trước, nếu thành công cháu sẽ còn hậu tạ.

Được số tiền quá hậu, mụ Lưu sung sướng quá, quyết đem tài Tô Tàn đi thuyết phục mụ Vương. Mụ dặn dò
Ngọc Mỹ ở lại nhà mụ chơi, để mụ sang nói chuyện với bà Vương một chút. Mụ Lưu vừa đến nơi đã được
mụ Vương đón tiếp ân cần.

Mụ Lưu hỏi :

­ Sao ? Kỷ viện lâu nay làm ăn phát tài lắm chứ ?

Mụ Vương buồn bã đáp :

­ Vừa rồi có Ngô công tử đến đây phá phách, bắt cóc con bé dẫn đi, may mà trời thương, không đến nỗi hại
đến thân thể. Thật chán quá !

Mụ Lưu thừa cơ hội hỏi :

­ Thoảng như có kẻ đem số tiền đến chuộc Ngọc Mỹ thì chị nghĩ sao ?

Mụ Vương thản nhiên đáp :

­ Miễn có đủ năm trăm lượng thì tôi bằng lòng.

Thấy mụ Vương nói một cách dễ dàng, mụ Lưu chưa tin hỏi lại :

­ Chị nói thật đấy chứ ?

Mụ Vương thở dài :

­ Thực đấy ! Tôi nay tuổi đã lớn không còn đủ sức làm những việc cực nhọc, chỉ muốn sống cho yên thân.
Sở dĩ tôi đòi số bạc ấy là để dưỡng già.

Mụ Lưu không ngờ một người ham tiền bạc, suốt đời xảo quyệt như mụ Vương mà có lúc cũng chán đời.
Cho hay, dù ngựa có dữ đến đâu lúc về già cũng phải hiền từ.

Vả lại mụ Lưu cũng biết qua thời gian nuôi nấng Ngọc Mỹ, mụ Vương cũng đã thu được một số tiền quá lớn
lao, ăn tiêu đến chết cũng chưa hết, nay dẫu có buông tha nàng Ngọc Mỹ cũng là phải.

Thấy việc đã kết quả, mụ Lưu ở lại trà nước, nói thêm mấy câu gắn bó rồi từ giã.

Khi mụ về đến cửa, nàng Ngọc Mỹ ra đón hỏi :

­ Thế nào ? Việc ấy có kết quả chứ ?

Mụ Lưu làm ra bộ mệt nhọc nói :


­ çi chao ! Dì phải ráo nước miếng mới thuyệt phục chị ấy được. Nay việc đã thành, vậy cháu đem số bạc ấy
đưa cho dì, để dì trao lại cho chị Vương, rút giấy nợ ra. Còn cháu cũng lo thu xếp để ra đi cho sớm. Giờ thì
cháu được tự do rồi.

Ngọc Mỹ mừng quá, bước ra cỗ kiệu, lấy một hộp lớn mở ra, trong đó đầy cả bạc vàng, châu báu, làm cho
mụ Lưu lóe mắt.

Sau khi đếm đủ số bạc năm trăm lượng trao cho mụ lưu, nàng lại lấy một số vàng ròng tặng cho mụ nữa.

Thật là dịp may hiếm có. Mụ Lưu ríu rít vui mừng.

Ngay chiều hôm ấy, mụ Lưu đem bạc đến nạp đủ cho mụ Vương và lấy giấy nợ trao lại cho Ngọc Mỹ. Giờ
phút này, Ngọc Mỹ như con chim sổ lồng, muốn cất cánh bay đi đâu chẳng được.

Đêm đó nàng trở về kỷ viện, làm tiệc đãi đằng các chị em quen biết, đã cùng nàng gần gũi hoặc sống chung
với nhau suốt năm trời.

Én uống xong, nàng thu xếp đồ đạc để sáng sớm ra đi. Nàng chỉ lấy những món đồ người ta cho riêng nàng,
và một ít quần áo, còn bao nhiêu nàng giao trả cho mụ Vương hết. Hành là vỏn vẹn chỉ có hai gói nhỏ mà
thôi.

Sáng hôm sau, lúc tiễn hành, các chị em trong kỷ viện đưa đón tấp nập, ai nấy đều quyến luyến. Đến như
mụ Vương, lúc ấy cũng bùi ngùi rơi lệ cho cảnh kẻ ở người đi.

Ra khỏi thanh lâu, Ngọc Mỹ hỏi thăm tiệm buôn dầu của Tần Trọng lần đến. Tần Trọng đang tính tiền với lão
quản gia, bỗng thấy Ngọc Mỹ đứng sừng sửng trước cửa, đẹp như một tiên nữ hiện xuống, chàng ngỡ như
mình đang trong giấc chiêm bao.

Ngọc Mỹ gọi lớn :

­ Anh ! Em đã ra khỏi kỷ viện, về ở với anh đây.

Tần Trọng sung sướng như người phát điên người, vội vã chạy ra đón nàng dắt vào, nói với lão quản gia rối
rít :

­ Đây là vợ của tôi, nàng tiên của tôi.

Người quản gia là Tân Thiện, nghe tiếng nói Ngọc Mỹ quen quen, nhìn thấy hình vóc tuy có khác song
phảng phất giống con mình, liền hỏi :

­ Qùa nương sao giống con gái tôi là Diên Cầm ?

Ngọc Mỹ nghe gọi đến tên mình, trố mắt nhìn lão quản gia, thì thấy rõ là cha mình, liền chạy xổ đến ôm ông
lão, khóc xướt mướt !

­ Cha ơi ! Con gái cha là Diên Cầm đây. Vì mấy năm lưu lạc thân con đến nỗi này.

Tân lão như chết đứng, lặng thinh một lúc rồi gọi bà vợ đến. Ngọc Mỹ, tức Diên Cầm, gặp lại mẹ cha, khóc
rống như mưa, nguồn vui nỗi nhớ nghẹn ngào không nói nên lời.

Tần Trọng đứng trơ người. Không ngờ vợ chồng người quản gia của chàng lại là cha mẹ người đẹp ở thanh
lâu.

Đêm ấy, gia đình Tân lão được đoàn tụ, thức suốt đêm kể nỗi hàn huyên. Và sáng hôm sau, vợ chồng Tân
lão mua sắm lễ vật cho hai trẻ thành hôn.

Nàng Ngọc Mỹ từ nay bỏ cái tên Ngọc Mỹ ở lầu xanh, trở lại cái tên Diên Cầm lương thiện, sống một cuộc
sống tuy đơn sơ nhưng thanh đạm, đầy tình yêu ấm áp.

Tần Trọng sau khi lấy được nàng hoa, hạnh phúc tràn đầy, nhưng chàng nhớ đến cha già, chẳng biết lưu lạc
nơi đâu, nên chàng bỏ cả thời gian và tiền bạc đi tìm, mãi không thấy.

Sau đó chàng đành phải trở về nơi tiệm buôn, vợ chồng xum họp, phụng dưỡng cha mẹ nàng Diên Cầm coi
như cha mẹ mình vậy.

Bấy giờ ở kinh đô Lâm An, có người làm thơ tặng Tần Trọng như sau :

Xuân lai xứ xứ bá hoa tân


Phong diệp phân phân cạnh thể xuân
Kham tiếu hào hoa chư tử đê.
Phòng lưu bất quá mại dầu nhân

Dịch :

Trăm hoa xứ xứ đón xuân sang


Ong bướm đua nhau hút nhụy vàng
Em cháu hào hoa đừng tự đắc
Đâu bằng một kẻ bán dầu nhang

You might also like