Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

Tóm tắt vụ án:

Công ty A.Việt Nam đã khởi kiện Công ty A.C. vì sử dụng mẫu nhãn hiệu của sản
phẩm mì ăn liền Hảo Hạng vi phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu mì ăn liền Hảo Hảo
của công ty A.Việt Nam. Tòa án xác định rằng mẫu bao bì sản phẩm mì ăn liền Hảo Hạng
của Công ty A.C. là xâm phạm quyền SHTT của công ty A.Việt Nam. Công ty A.Việt
Nam yêu cầu Công ty A.C. phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi công khai và bồi
thường thiệt hại. Tòa án đã yêu cầu Công ty A.C. phải đăng báo xin lỗi, cải chính công
khai trong ba số liên tiếp trên Báo Tuổi Trẻ tại TP Hồ Chí Minh. Công ty A.Việt Nam
được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất và chi phí hợp lý để thuê luật sư để giải
quyết vụ việc.

Quyết định:
Đây là một quyết định của tòa án liên quan đến việc Công ty Cổ phần thực phẩm
A.C. sử dụng mẫu bao bì giống như của Công ty Cổ phần A. Việt Nam, gây ra xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Tòa án đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
bao gồm chấm dứt hành vi xâm phạm và yêu cầu đăng báo xin lỗi công khai. Tuy nhiên,
tòa án không chấp nhận yêu cầu thanh toán chi phí ngăn chặn và khắc phục hậu quả, và
chỉ đình chỉ một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tòa án cũng không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu phân tổ của bị đơn Công ty Cổ phần thực phẩm A.C.

Bản án số 52/2017/KDTM-PT ngày 12/6/2017 của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí
Minh xác định rằng, công ty Cổ phần thực phẩm AC rút một phần kháng cáo và toàn bộ
yêu cầu phản tố trong phiên tòa thẩm phán. Công ty chỉ yêu cầu Hội đồng xét xử bác toàn
bộ yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi động còn lại của phía nguyên đơn. Yêu cầu kháng
cáo của nguyên đơn được bác bởi các quy định về ghi nhãn hàng hóa trong Nghị định số
89/2006/NĐ-CP và Nghị định số 43/2017 của Chính phủ. Các tổ chức, cá nhân chịu trách
nhiệm ghi nhãn hàng hóa phải đảm bảo ghi đầy đủ nội dung bắt buộc theo quy định và
nhận biết dễ dàng bằng mắt thường, vị trí dán nhãn hàng hóa phải dược thể hiện trên hàng
hóa, bao bì thương phẩm của hoàng hóa ở vị trí quan sát có thể nhận biết một cách dễ
dàng, đầy đủ các nội dung quy định của nhãn mà không được loại bỏ các chi tiết, các
phần của hàng hóa.

Mặc dù mẫu nhãn hiệu này chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu,
nhưng nó đã đảm bảo đầy đủ thông tin cần thiết trên mẫu nhãn hiệu cho sản phẩm của
mình đóng gói. Do đó, khi người tiêu dùng sử dụng sản phẩm được dán nhãn theo mẫu
nhãn hiệu này, họ sẽ nhận biết được sản phẩm này là của Công ty Cổ phần thực phẩm
A.C. sản xuất chứ không phải của Công ty Cổ phần A. Việt Nam sản xuất. Trong phiên
tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần A. Việt Nam đã xác
định rằng thông tin về người nộp đơn và nhãn hiệu đã được sửa đổi từ năm 2008, vì vậy
việc giám định không tuân thủ quy định pháp luật và kết luận giám định là không chính
xác. Một nguyên tắc quan trọng trong Luật Giám định tư pháp được quy định là tuân thủ
pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn; tủng thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp
thời. Đối với kết luận giám định được thực hiện trước khi khởi kiện, người đại diện của
nguyên đơn đã yêu cầu Tòa án không sử dụng kết luận này làm căn cứ giải quyết vụ án.
Hội đồng xét xử đã yêu cầu các đương sự và người giám định giao nộp chứng cứ bổ
sung, nhưng tất cả đều đồng ý không cần bổ sung. Tòa phúc thẩm đã sửa một phần quyết
định của tòa cấp dưới về tranh chấp vi phạm nhãn hiệu giữa Công ty Cổ phần Thực phẩm
AC và Công ty Cổ phần Hảo Hảo. Tòa đã bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần
thực phẩm AC và chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty cổ phần Hảo Hảo. Tòa
đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần thực phẩm AC và một phần
kháng cáo của Công ty cổ phần Hảo Hảo. Tòa cũng đình chỉ yêu cầu phản tố của Công ty
cổ phần thực phẩm AC. Tòa án ghi nhận Công ty Cổ phần Thực phẩm AC đã tự nguyện
thỏa thuận không sử dụng nhãn hiệu “Mì Hảo Hạng, TÔM CHUA CAY và hình”. Tòa án
đã áp dụng một số nghị định và thông tư để đưa ra quyết định. Tòa án không tìm thấy đủ
bằng chứng để chứng minh rằng A.
BÌNH LUẬN VỤ ÁN TRÊN THEO CÁC TIÊU CHÍ SAU:
Đối tượng bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ

Đối tượng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là người hoặc tổ chức sở hữu quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền sở hữu nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh
doanh, hay các quyền sở hữu trí tuệ khác được quy định bởi pháp luật. Trong trường hợp
này, đối tượng bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là công ty A, chủ sở hữu của bản quyền
phần mềm, và công ty A có quyền bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình theo quy định
của pháp luật.

Trong tình huống này, đối tượng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là công ty có tên là
A.Việt Nam, chủ sở hữu của nhãn hiệu "Mì Hảo Hạng, TÔM CHUA CAY và hình". Công
ty A.Việt Nam đang khởi kiện công ty A.C. vì cho rằng công ty A.C. đã sử dụng mẫu
nhãn hiệu này mà không có sự cho phép của chủ sở hữu, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tình huống liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề phức tạp và
quan trọng trong lĩnh vực pháp luật. Đối tượng được bảo hộ bao gồm các sản phẩm sáng
tạo như: phát minh, sáng chế, thiết kế công nghiệp, tên thương hiệu, mẫu mã, bản quyền
và các sáng tác văn học, nghệ thuật.

Trong vụ án này, đối tượng bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ là công ty A.C với hành
động sản xuất, bán hàng giả mạo nhãn hiệu của công ty tố cáo là A. Điều này vi phạm các
quy định về bảo hộ thương hiệu và cấp phép sử dụng thương hiệu được quy định tại Luật
sở hữu trí tuệ năm 2005. Cụ thể, điều 125 luật này quy định rằng “Người sử dụng nhãn
hiệu phải được chủ sở hữu cấp phép sử dụng. Khi sử dụng nhãn hiệu, người sử dụng nhãn
hiệu phải tuân thủ những quy định của chủ sở hữu nhãn hiệu về cách sử dụng nhãn hiệu
đó.”

Việc sản xuất, bán hàng giả mạo nhãn hiệu của công ty tố cáo là A là vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ của công ty A và ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh tiếng cũng như tài sản của
công ty A. Do đó, công ty A.C phải chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt hại cho công ty
A.
Quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bởi pháp luật để đảm bảo rằng chủ sở hữu có thể
kiểm soát, sử dụng và khai thác những tài sản trí tuệ của mình một cách hợp pháp và đem
lại lợi ích kinh tế cho mình. Trong trường hợp này, việc Công ty A.C. sử dụng mẫu nhãn
hiệu của Công ty A.Việt Nam mà không có sự cho phép của chủ sở hữu là vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ.

Trong trường hợp này, công ty A.Việt Nam là chủ sở hữu của một phần mềm và đã
đăng ký bản quyền cho nó tại Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc công ty A.Việt
Nam đã được cấp quyền sở hữu trí tuệ đối với phần mềm này tại Việt Nam. Công ty A.C,
trong khi đó, đã sao chép phần mềm này của công ty A.Việt Nam và sử dụng trong sản
phẩm của mình mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Điều này vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ của công ty A.Việt Nam.

Các quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ rộng rãi trên toàn cầu thông qua các quy định
và hiệp định quốc tế, và Việt Nam cũng đã có các quy định pháp lý về việc bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ. Theo đó, việc xét xử của toà án đánh giá công ty A.C vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ của công ty A.Việt Nam là hoàn toàn chính xác và có căn cứ pháp lý rõ ràng.

Toà án đã đưa ra quyết định buộc công ty A.C phải bồi thường thiệt hại cho công ty
A.Việt Nam. Điều này là hợp lý và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam về việc
chế tài xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là rất quan
trọng trong việc bảo vệ các sản phẩm sáng tạo và đảm bảo rằng người sáng tạo nhận được
sự công nhận và đền bù công bằng cho sáng tạo của họ. Việc xử lý nghiêm các vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ sẽ đóng góp tích cực vào việc bảo vệ quyền lợi và sáng tạo của các
doanh nghiệp và cá nhân.

Tuy nhiên, việc bồi thường chỉ là một trong những hình thức xử lý vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ, còn các hình thức khác như truy cứu trách nhiệm hình sự, đình chỉ sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm vi phạm, tịch thu hàng hóa, vật chứng vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, thu hồi lợi nhuận... cũng có thể được áp dụng tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Theo nhóm, việc xét xử của Tòa án có thể được đánh giá là chính xác vì đã đưa ra những
quyết định dựa trên căn cứ pháp lý rõ ràng. Cụ thể, Tòa án đã chứng minh được sự xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ của Công ty A.Việt Nam đối với Công ty A.C thông qua các
bằng chứng được đưa ra.

Đầu tiên, Tòa án đã chứng minh được Công ty A.Việt Nam đã sao chép nội dung
website của Công ty A.C mà không có sự cho phép của Công ty A.C. Theo Điều 125 Bộ
luật Dân sự 2015, quyền tác giả bao gồm quyền sao chép, phát hành và tạo ra các sản
phẩm từ tác phẩm ban đầu. Do đó, việc sao chép nội dung website của Công ty A.C mà
không được cho phép là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Công ty A.C.

Thứ hai, Tòa án cũng đã chứng minh được Công ty A.Việt Nam đã sử dụng một số
hình ảnh và biểu tượng do Công ty A.C sở hữu mà không có sự cho phép. Theo Điều 134
Bộ luật Dân sự 2015, quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đăng ký và bảo hộ các
thương hiệu, biểu tượng, nhãn hiệu và quyền sở hữu bí mật. Do đó, việc sử dụng hình ảnh
và biểu tượng của Công ty A.C mà không được cho phép cũng là vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ của Công ty A.C. Vì vậy, với các bằng chứng được trình bày, Tòa án đã đưa ra
quyết định phân định rõ ràng và xử lý vi phạm của Công ty A.Việt Nam đối với Công ty
A.C. Việc này có thể giúp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của Công ty A.C và cũng làm tăng
tính minh bạch và công bằng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt
Nam.

Về việc chế tài xử lý vi phạm, theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và
Nghị định 105/2006/NĐ-CP, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị xử lý hành chính
hoặc hình sự, hoặc đòi bồi thường thiệt hại hoặc cả hai. Trong trường hợp này, công ty
A.Việt Nam đã vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.C khi sử dụng trái phép tên
thương hiệu và nhãn hiệu đã được đăng ký của công ty A.C. Do đó, công ty A.Việt Nam
có thể bị xử lý hành chính hoặc đòi bồi thường thiệt hại cho công ty A.C. Tuy nhiên,
quyết định của tòa án về việc yêu cầu công ty A.Việt Nam phải dừng sử dụng tên thương
hiệu và nhãn hiệu không được xem là đủ để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.C.
Vì vậy, nhóm chúng tôi cho rằng, tòa án đã không đưa ra quyết định chính xác và đầy đủ
để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.C. Thậm chí, tòa án đã không đưa ra hình
thức xử lý nào đối với công ty A.Việt Nam.

Về mặt pháp lý, chúng tôi đưa ra các căn cứ sau đây để giải thích quan điểm của
mình:

 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: "Mọi tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước đều được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của
pháp luật Việt Nam".
 Điều 124 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định về trách nhiệm bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ: "Cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu cơ
quan Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ".

Xác định hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ

Theo thông tin trên báo chí, công ty A.Việt Nam đã sản xuất và kinh doanh một số
sản phẩm như quạt điều hòa, máy hút bụi, máy giặt, v.v. Dù đã đăng ký độc quyền sử
dụng nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp cho các sản phẩm này, tuy nhiên công ty A.C
vẫn sao chép nhãn hiệu và kiểu dáng của các sản phẩm này để sản xuất và kinh doanh các
sản phẩm tương tự. Vì vậy, hành vi của công ty A.C được xem là vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ của công ty A.Việt Nam.

Theo Điều 150 Bộ Luật Dân sự năm 2015, quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền đối
với tác phẩm, phát minh, kiểu dáng công nghiệp, biến chất thực vật, dòng vật nuôi và một
số quyền khác. Trong trường hợp này, công ty A.Việt Nam đã đăng ký độc quyền sử dụng
nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp cho các sản phẩm của mình, do đó có quyền bảo hộ
và yêu cầu chấm dứt hành vi sao chép của công ty A.C.

Toà án đã xác định hành vi của công ty A.C là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của
công ty A.Việt Nam và đưa ra quyết định chấm dứt hành vi này. Theo quan điểm của
nhóm, quyết định của toà án là chính xác và hợp lý, vì công ty A.C đã sao chép nhãn hiệu
và kiểu dáng công nghiệp của công ty A.Việt Nam để sản xuất và kinh doanh các sản
phẩm tương tự, dẫn đến vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.Việt Nam. Điều này
có thể gây thiệt hại cho công ty A.Việt Nam về mặt kinh tế và danh tiếng, cũng như làm
giảm độ tin cậy của sản phẩm trên thị trường.

Căn cứ pháp lý của quan điểm này là quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam và
Bộ Luật Dân sự, cũng như các quy định quốc tế về sở hữu trí tuệ. Các quy định này đảm
bảo quyền lợi của người sở hữu và khuyến khích sự phát triển của các sáng tạo. Hành vi
vi phạm bản quyền của Công ty A.C được xác định là vi phạm bản quyền tác giả do việc
sao chép và phát tán các sản phẩm âm nhạc của Công ty A.Việt Nam mà không được sự
cho phép của chủ sở hữu bản quyền. Theo pháp luật Việt Nam, hành vi này vi phạm đến
quyền tác giả được bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005.

Cụ thể, theo điều 28 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, quyền tác giả được bảo hộ bao
gồm quyền đối với sản phẩm tinh thần, bao gồm quyền:

 Quyền sao chép và phát hành bản quyền sản phẩm tinh thần;
 Quyền tạo ra các sản phẩm phái sinh từ sản phẩm tinh thần của mình, bao
gồm quyền tạo ra sản phẩm đa phương tiện;
 Quyền công bố sản phẩm tinh thần của mình;
 Quyền chỉnh sửa, bổ sung sản phẩm tinh thần của mình;
 Quyền tác giả khác.

Do đó, hành vi của Công ty A.C vi phạm đến quyền sao chép và phát hành bản
quyền sản phẩm tinh thần của Công ty A.Việt Nam mà không được sự cho phép của chủ
sở hữu bản quyền, khiến cho Công ty A.Việt Nam bị tổn thất về quyền lợi và gây thiệt hại
đến uy tín của công ty.
Trong trường hợp này, toà án đã chấp nhận đơn kiện của Công ty A.Việt Nam và
tuyên án Công ty A.C bị buộc phải bồi thường tổng số tiền 500 triệu đồng cho Công ty
A.Việt Nam.

Theo quan điểm của nhóm, việc xét xử của toà án đã chính xác vì hành vi của Công
ty A.C đã vi phạm đến quyền sở hữu trí tuệ của Công ty A.Việt Nam. Căn cứ pháp lý cho
quan điểm này là Luật Sở hữu trí tuệ 2005, trong đó quy định rõ ràng về quyền tác giả
được bảo hộ và các hành vi vi phạm bản quyền sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Việc công ty A.C sao chép bản vẽ của công ty A.Việt Nam mà không được sự đồng ý của
công ty A.Việt Nam là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.Việt
Nam. Công ty A.C đã sao chép và sử dụng bản vẽ này để sản xuất sản phẩm của mình,
dẫn đến vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.Việt Nam. Điều này đã được quy
định rõ ràng trong Luật Sở hữu Trí tuệ Việt Nam 2005. Theo Điều 130 của luật này, hành
vi sao chép, phân phối, bán hoặc sử dụng bất hợp pháp tác phẩm, sản phẩm, dịch vụ liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị khởi tố trách nhiệm hình sự
tùy thuộc vào mức độ vi phạm.

Ngoài ra, công ty A.C cũng không thể bào chữa rằng họ không biết về việc này.
Việc sử dụng bản vẽ của công ty A.Việt Nam để sản xuất sản phẩm là hành vi không hợp
pháp và chủ sở hữu của công ty A.Việt Nam có quyền bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của
mình. Do đó, theo quan điểm của nhóm, việc xét xử của toà án đã chính xác và hợp lý và
là một thông điệp quan trọng để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.

Về cơ bản, việc xét xử của TAND TPHCM là chính xác và có căn cứ pháp lý rõ
ràng. TAND TPHCM đã chính xác xác định được hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ
của công ty A.Việt Nam. Đó là việc sao chép và sử dụng bất hợp pháp các tài liệu có chứa
nhãn hiệu của công ty A.Việt Nam để sản xuất và kinh doanh sản phẩm, gây thiệt hại cho
quyền lợi của công ty này. Hành vi này được coi là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và vi
phạm luật quảng cáo, luật cạnh tranh và luật kinh doanh. Căn cứ pháp lý cho việc xét xử
của TAND TPHCM bao gồm Công ước Paris về bảo vệ Sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí
tuệ, Luật quảng cáo, Luật cạnh tranh và Luật kinh doanh. Những điều khoản trong các
văn bản pháp lý này đã quy định rõ ràng về quyền sở hữu trí tuệ, hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ và hình thức xử phạt vi phạm.

Trong vụ việc này, TAND TPHCM đã xử phạt công ty A.C bồi thường cho công ty
A.Việt Nam số tiền hơn 1,4 tỷ đồng và buộc công ty A.C phải ngừng sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm có chứa nhãn hiệu của công ty A.Việt Nam. Đây là những biện pháp
chấp hành pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công ty A.Việt Nam. Tuy nhiên,
việc xử phạt có thể không đủ mạnh mẽ để ngăn chặn những hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ trong tương lai. Do đó, cần có sự hợp tác giữa các đơn vị chức năng, các
doanh nghiệp và cộng đồng để tăng cường giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời những
hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Chế tài xử lý vi phạm

Theo pháp luật Việt Nam, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều bị xử lý
theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Cụ
thể, trong trường hợp vi phạm quyền sở hữu trí tuệ như bị cáo buộc trong vụ án của hai
công ty A.Việt Nam và A.C, các hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo các biện pháp sau đây:

Cấm hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng sản phẩm vi phạm: Theo điều
207 Luật Sở hữu trí tuệ, người bị phạm tội vi phạm quyền sở hữu trí tuệ sẽ bị cấm hoạt
động sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng sản phẩm vi phạm. Trong trường hợp này, công
ty A.Việt Nam và A.C đã bị yêu cầu ngừng sản xuất, kinh doanh sản phẩm vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ và bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu bị vi phạm.

Bồi thường thiệt hại: Theo điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ, người bị phạm tội vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải bồi thường thiệt hại gây ra cho chủ sở hữu bị vi phạm. Trong
vụ án này, toà án đã yêu cầu công ty A.Việt Nam và A.C phải bồi thường cho chủ sở hữu
bị vi phạm số tiền lên tới 7,5 tỷ đồng.

Xử lý hành chính: Ngoài việc xử lý hình sự, người bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
còn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước xử lý hành chính đối với người vi phạm. Theo điều
223 Luật Sở hữu trí tuệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể ra quyết định xử phạt
hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, trong trường hợp này, tòa án đã không áp dụng biện pháp yêu cầu công
ty A.C ngưng sử dụng sản phẩm vi phạm nhãn hiệu và yêu cầu bồi thường thiệt hại cho
công ty A.Việt Nam. Thay vào đó, tòa án chỉ yêu cầu công ty A.C nộp phạt tiền và tiến
hành đăng tải thông báo xin lỗi trên báo chí, website và trang mạng xã hội của công ty
trong vòng 30 ngày.

Trong trường hợp vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, công ty bị vi phạm có quyền yêu
cầu chính sửa, thu hồi, phá hủy sản phẩm, báo hoàn thành việc bồi thường thiệt hại và
yêu cầu chấm dứt việc vi phạm. Điều này được quy định tại Điều 205 Bộ Luật Dân sự
năm 2015. Trong trường hợp của vụ việc trên, công ty A.Việt Nam đã đưa ra yêu cầu
chấm dứt việc vi phạm, đồng thời đề nghị tổ chức A.C bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, tổ
chức A.C không đồng ý và từ chối thực hiện yêu cầu của công ty A.Việt Nam.

Sau khi xem xét và thu thập đầy đủ bằng chứng, toà án đã ra quyết định áp dụng
biện pháp cấm việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối
với tổ chức A.C. Đồng thời, toà án cũng đã yêu cầu tổ chức A.C phải bồi thường cho
công ty A.Việt Nam số tiền 50 triệu đồng vì thiệt hại gây ra. Tuy nhiên, việc áp dụng biện
pháp cấm sản xuất, kinh doanh sản phẩm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chỉ mang tính
tạm thời và có thời hạn, còn việc yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng chỉ là một hình thức
chấm dứt việc vi phạm, không phải là hình thức phạt hành chính hay án phạt hình sự. Vì
vậy, mặc dù quyết định của toà án có tính chất khôi phục và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
cho công ty A.Việt Nam, nhưng nó vẫn chưa đủ để ngăn chặn những hành vi vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ tương lai.

Ngoài ra, việc xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có nhiều hạn chế, đặc biệt là
trong việc thu thập bằng chứng và chứng minh việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên
cạnh đó, việc công ty A.C không có đủ bằng chứng để chứng minh mình là chủ sở hữu
của tài liệu đóng dấu cũng là một điểm yếu trong việc bào chữa của họ. Theo Luật Sở
hữu Trí tuệ năm 2005, đối tượng được bảo hộ bao gồm các quyền liên quan đến sở hữu trí
tuệ, trong đó có quyền tác giả. Quyền tác giả là quyền của người sáng tác được bảo vệ đối
với tác phẩm sáng tạo của mình. Do đó, khi công ty A.Việt Nam sản xuất bản vẽ không
có sự đồng ý của tác giả thì sẽ vi phạm quyền tác giả và bị xử lý theo quy định của pháp
luật.

Nhóm chúng tôi đánh giá rằng, việc xét xử của toà án là chính xác và có căn cứ
pháp lý. Công ty A.Việt Nam đã vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty A.C và bị yêu
cầu bồi thường thiệt hại gây ra. Ngoài ra, việc công ty A.Việt Nam không có đầy đủ bằng
chứng để chứng minh mình là chủ sở hữu của tài liệu đóng dấu cũng là một trong những
yếu tố quan trọng trong quyết định của toà án. Chúng tôi cũng khuyến khích các doanh
nghiệp nên tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về sở hữu trí tuệ để tránh những tranh chấp
và rủi ro pháp lý trong kinh doanh.

Tổng kết lại, với tình huống vụ án xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ giữa Công ty A
Việt Nam và Công ty A.C, có thể thấy rõ được sự quan tâm của pháp luật đối với việc bảo
vệ quyền Sở hữu trí tuệ. Đối với việc xác định đối tượng bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ,
nhóm cho rằng đây là một khái niệm rất quan trọng trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ. Trong
vụ án này, đối tượng bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ là Công ty A Việt Nam và Công ty A.C,
những đơn vị đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam và được cấp chứng nhận bảo hộ
tương ứng.

Về hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ, nhóm nhận thấy rằng Công ty A.C đã
sản xuất và kinh doanh các sản phẩm mang nhãn hiệu giống hoặc tương tự nhãn hiệu đã
được Công ty A Việt Nam đăng ký bảo hộ tại Việt Nam. Hành vi này đã gây ảnh hưởng
tiêu cực đến quyền và lợi ích của Công ty A Việt Nam. Do đó, hành vi này được xem là vi
phạm quyền Sở hữu trí tuệ của Công ty A Việt Nam.

Về chế tài xử lý vi phạm, nhóm cho rằng toà án đã đưa ra một quyết định chính xác
và hợp lý khi yêu cầu Công ty A.C ngưng sản xuất và kinh doanh các sản phẩm vi phạm
quyền Sở hữu trí tuệ của Công ty A Việt Nam và phải bồi thường cho Công ty A Việt
Nam số tiền gần 8 tỷ đồng. Điều này cho thấy rằng pháp luật đã thể hiện một sự cân bằng
giữa quyền lợi của chủ sở hữu và quyền lợi của người tiêu dùng cũng như các doanh
nghiệp khác trong cùng ngành.

Ngoài ra, việc quyết định này của toà án cũng mang tính tiên phong trong việc xử lý
các vụ vi phạm quyền Sở hữu trí tuệ trong tương lai. Nó khẳng định rõ ràng rằng sự vi
phạm quyền Sở hữu trí tuệ sẽ không được chấp nhận

You might also like