Professional Documents
Culture Documents
Tổng Quan - Quy Trình Nông Sản
Tổng Quan - Quy Trình Nông Sản
Tổng Quan - Quy Trình Nông Sản
Phương pháp nuôi Thành phần trong tế bào Chất lượng nấm men
Chất khô Độ ẩmHoạt lực làm cô bột Tính nhạy cảm thẩm thấu
(phút)
Không thêm NaCl 34,7 65,3 60-75 5-20
Có thêm NaCl 40,0 60.0 45-55 0-6
Chất dinh dưỡng sau khi vào tế bào nấm men sẽ được biến đổi theo một trong
hai con đường sau, tùy điều kiện môi trường và phương pháp nuôi cấy:
Trong đó con đường chủ yếu tạo cồn. Theo quan điểm năng lượng, quá trình
C6H12O6
2CH3-CO-COOH + 2H2
CH3CH2OH +3CO2 (1)
6H2O + 6CO2
này ít kinh tế hơn vì còn nhiều năng lượng trong rượu, trong khi còn đường tạo
ra các thành phần chủ yếu của tế bào. Từ những thành phần này khối lượng tế
bào gia tăng đến một giới hạn nhất định, sau đó tế bào bắt đầu nảy chồi. Vách
tế bào mềm đi, chất nguyên sinh của tế bào chui qua vách này, và bắt đầu hình
thành vách cho túi sinh chất con. Chồi tăng dần kích thước cho đến khi tách
khỏi tế bào mẹ. Tùy chủng và điều kiện nuôi, quá trình này thường mất từ 1-1,5
giờ. Cho đến nay chưa rõ là có bao nhiêu tế bào con có thể được sinh ra từ tế
bào mẹ. Theo dữ kiện của A.Kyker mỗi tế bào nấm men có khả năng tạo được
trung bình 25-40 tế bào mới.
2.6. Nấm men bánh mì
Nấm men được dùng để sản xuất bánh mì thuộc giống Saccharomyces, loài
cerevisae, lớp Ascomycetes, ngành nấm. Nấm men Saccharomyces cerevisae
có khả năng sử dụng glucose, galactose, saccharose, maltose như nguồn
carbon, sử dụng acid amin, muối ammonium như nguồn nito. Chức năng chính
của nấm men là sinh khí CO2 làm tang thể tích khối bột nhào. Ngoài ra, các
sản phẩm của quá trình lên men được tích lũy trong khối bột sẽ tạo nên các
hương vị đặc trưng cho bánh mì thành phẩm.
Phân loại nấm men dùng trong sản xuất bánh mì
Theo đặc tính sử dụng
- Men lạt: men dùng cho sản xuất bánh mì lạt (hàm lượng đường thấp). Những
chủng men này chỉ sống và phát triển trong môi trường có nồng độ đường thấp
(nhỏ hơn 20%).
- Men ngọt: men dùng cho sản xuất bánh mì ngọt (hàm lượng đường cao).
Những chủng men này chỉ sống và phát triển tốt trong môi trường có nồng độ
đường cao (cao hơn 20%).
Theo dạng thu nhận
Trong sản xuất bánh mì hiện nay ở các nước châu Âu, người ta sử dụng 3 dạng
nấm men để làm nở bánh:
- Dạng Nấm men lỏng
- Dạng Nấm men nhão (paste)
- Dạng Nấm men khô
Nấm men dạng lỏng:
Nấm men lỏng có ưu điểm là dễ sử dụng và hoạt lực làm nở bánh cao. Tuy
nhiên, nấm men lỏng cũng có nhược điểm rất lớn là khó bảo quản: thời gian sử
dụng chỉ nằm trong giới hạn 24 giờ sau khi sản xuất. Chính vì thế, việc sử dụng
và sản xuất nấm men dạng lỏng thườn được tổ chức như một phân xưởng riêng
trong cơ sỏ sản xuất bánh mì mang tính chất tự cung tự cấp mà không mang
tính thương phẩm bán trên thị trường.
Nấm men lỏng là một sản phẩm thu nhận được ngay sau khi lên men hiếu khí
kết thúc. Người ta thu nhận dịch lên men có chứa sinh khối nấm men đang phát
triển này để sản xuất bánh mì. Khi sử dụng dịch nấm men này làm bánh mì,
người ta thường phải sử dụng với khối lượng lớn (thường từ 1-10% so với khối
lượng bột mì đem sử dụng). Khi sử dụng nấm men lỏng cần lưu ý đến chất
lượng dịch nấm men. Trong trường hợp dịch nấm men này bị nhiễm VSV lạ
sẽmgây ra quá nhiều quá trình lên men khác nhau khi ta tiến hành ủ bột mì.
Mặt khác, ta sử dụng toàn bộ dịch sau khi lên men cũng có nghĩa sử dụng cả
sản phẩm trao đổi chất của quá trình lên men này. Như thế nếu dịch lên men bị
lẫn quá nhiều các sản phẩm khác nhau từ quá trình lên men thu sinh khối sẽ
làm giảm chất lượng cảm quan của bánh mì. Hiện nay nhiều cơ sở sản xuất
bánh mì của các nước châu Âu và châu Mỹ không sử dụng nấm men lỏng mà
sử dụng nấm men dạng paste và dạng khô.
Nấm men dạng nhão (còn gọi là nấm men dạng paste)
Nấm men paste là khối nấm men thu được sau khi ly tâm nấm men lỏng. Nấm
men paste thường có độ ẩm 70-75%w. Nấm men paste thường có hoạt lực làm
nở bánh kém hơn nấm men lỏng do quá trình ly tâm và thời gian kéo dài, nhiều
tế bào nấm men bị chết. Nếu được bảo quản ở 4-70C, ta có thể sử dụng nấm
men paste trong khoảng 10 ngày. Như vậy, nếu chuyển nấm men lỏng sang
nấm men paste ta kéo dài được thời gian sử dụng và thuận lợi trong vận
chuyển. Ở nhiều nước, các cơ sở sản xuất bánh mì cũng sử dụng nấm men
paste. Ở việt Nam, các cơ sở sản xuất bánh mì cũng thường sử dụng nấm men
paste. Liều lượng sử dụng nấm men paste khoảng 1-5% tùy theo chất lượng
nấm men.
Nấm men khô
Nấm men khô được sản xuất từ nấm men paste. Người ta sấy nấm men paste ở
nhiệt độ <400C hoặc sử dụng phương pháp sấy thăng hoa. Nấm men khô
thường có lực nở không cao nhưng có ưu điểm rất lớn là thời gian sử dụng rất
lâu và dễ dàng vận chuyển
Yêu cầu chất lượng nấm men bánh mì
Nấm men saccharomyces cereviae dùng cho sản xuất bánh mì phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
- Chỉ tiêu cảm quan của men ép là màu vàng sẫm, mặt ngoài không có chấm
đen, không có mùi mốc, mùi lạ, đặc chắc, dễ bẽ, không dính tay. Chỉ tiêu cảm
quan của men khô là dạng hạt nhỏ hay sợi ngắn, màu vàng sáng, có mùi thơm
đặc trưng của nấm men.
- Tế bào nấm men có kích thước lớn, có khả năng phát triển mạnh và chịu được
nhiệt độ cao.
- Hoạt lực maltase <70 phút (giá trị biểu diễn theo thời gian cần thiết để giải
phóng ra được 10ml CO2 khi lên men 20ml dung dịch 5% maltose với hàm
lượng nấm men 2.5%).
- Hoạt lực làm dậy bột: hoạt lực làm dậy bột biểu thị thời gian 5 g nấm men ép
làm nở khối bột 280g thêm chiều cao 1,5cm trong khuôn chuyên dùng để xác
định hoạt lực nở bột. Khuôn có hình dạng thang, kích thước đáy là 12,6 X 8.5
cm, kích thước miệng khuôn là 14,3 X 9,2 cm và chiều cao 8,5 cm. Hoạt lực
làm dậy bột không quá 45 phút.
- Độ bền của nấm men: độ bền của nấm men là sự thay đổi thời gian làm nở bột
của nấm men lúc ban đầu và sau một thời gian bảo quản nhất định. Nếu độ bền
của nấm men cao thì sau 72 giờ bảo quản ở nhiệt độ 0-40C, sự thay đổi thời
gian làm nở bánh không được quá 5 phút.
2.7. Vai trò của nấm men trong quy trình sản xuất
Trong quy trình sản xuất bánh mì, giai đoạn lên men bột mì đóng vai trò quyết
định đến chất lượng bánh mì.
- Nấm men chuyển hóa đường có trong bột mì thành cồn và CO2 theo phương
trình:
C6 H12O6 -> 2C2H5OH + 2CO2
- Chính CO2 là tác nhân làm bánh mì nở. CO2 tạo thành được giữ lại trong các
mạng gluten trong bột mì, là loại protein đặc biệt, chúng có tính chất đàn hồi và
tạo mạng. Các protein khác không có tính chất này.
- Khi nướng bánh mì ở nhiệt độ cao, CO2 tăng thể tích, mạng gluten căng ->
túi chứa CO2. Khi nhiệt độ cao hơn, CO2 thoát khỏi túi chứa đó -> những lỗ
xốp
trong bánh,làm bánh có độ xốp. - Khả năng lên men càng mạnh -> độ xốp của
bánh càng nhiều -> bánh càng nở > thể tích bánh càng tăng.
- Song song với quá trình lên men, bao giờ cũng xảy ra quá trình lên men acid
sinh ra các sản phẩm như acid axetic, acid lactic,gây độ acid cho bột.
- Trong suốt quá trình lên men bột nhào và lên men kết thúc, luôn sảy ra những
phản ứng sinh hóa sinh ra các sản phẩm như: rượu, acid, este, andehyd, ceton,
furfurol… nhằm tích tụ hương thơm và mùi vị đặc trưng cho bánh mì.
- Đặc biệt khi nướng bánh, gần 70 chất gây hương vị được tạo thành và có xảy
ra phản ứng maillard sinh ra melanoidin (là các polyme không no hòa tan được
trong nước, sau đó là các polyme không no và không hòa tan trong nước,
nhưng đều có màu đậm và gọi chung là melanoidin).
- Nấm men cũng giúp chuyển hóa những chất có cấu chúc phức tạp trong bột
mì thành những chất đơn giản giúp cho hệ tiêu hóa của người sử dụng.
3. Nước:
Nước dùng trong sản xuất nếu không do hệ thống nước của thành phố cung
cấp,thì cần được lọc và để lắng cặn, sau đó kiểm tra nước xem có bảo đảm vệ
sinh không. Trước khi đưa vào nhào bột, nước phải đạt tới nhiệt độ quy định.
4. Muối:
Tuỳ theo phương pháp sản xuất và khai thác, muối ăn có mấy dạng sau:
+ Muối mỏ
+ Muối biển
+ Muối kết tủa
+ Muối ăn (muối phơi)
Muối chia ra làm 4 loại: muối tinh, muối thượng hạng, loại I và loại II.
Các chỉ tiêu cảm quan của muối ăn:
• Muối tinh có màu trắng, còn các loại muối khác màu xám nhạt, vàng nhạt,
hồng nhạt.
• Muối không có mùi, không lẫn với những tạp chất bẩn khi nhìn bằng mắt
thường. Pha 5% muối trong dung dịch, có vị mặn, không có các vị lạ khác.
• Thử bằng rượu quỳ, muối có phản ứng trung tính. Muối là những tinh thể nhỏ
có các dạng sau đây: muối cục, muối mảnh, muối hạt.
• Các chỉ tiêu lý, hoá của muối ăn:
Chỉ tiêu
+Độ ẩm( tính theo %) không quá:
- Muối mỏ.
- Muối biển và muối kết tủa.
- Muối ăn
+Natri clorua ( tính theo % chất khô)
không dưới
+Các chất không hoà tan trong nước
(tính theo % chất khô) không quá
+Tạp chất hoá học (% chất khô)
Nguyên liệu
Bột mì
Định lượng Muối
nguyên liệu Men
Chia bột
Vê bột
50 - 60 phút
Tạo hình Nhiệt độ: 30 – 40oC
30 - 40 phút
Ủ bột Nhiệt độ: 200 – 220oC
Nướng
Bánh mì
Cấu tạo:
- Máy cán bột công nghiệp 1 chiều được thiết kế dạng hình hộp đứng, kết
cấu vững chắc, chân đế cao chắc chắn, không bị rung lắc khi hoạt động
- Khung máy được làm bằng thép sơn tĩnh điện chống gỉ, chống chịu va
đập tốt, độ bền cao.
- Các chi tiết tiếp xúc trực tiếp với bột như: khay nhận nguyên liệu, khay
ra thành phẩm, con lăn bột đều được làm bằng inox, đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm. Chất liệu này còn hạn chế dính bột, hạn chế hao hụt
nguyên liệu, dễ vệ sinh.
- Thiết kế trục lăn của máy có nhiệm vụ cán bột thành những lớp mỏng.
Nguyên lí hoạt động:
Đầu tiên chỉnh trục lăn cho phù hợp với độ dày yêu cầu đối với bánh mì,
sau đó cho khối bột vào khay nhận nguyên liệu và khối bột được cán dẹt
nhờ con lăn bột. Sau khi cán xong thì bột được đẩy ra khay thành phẩm.
Nếu cảm thấy vẫn còn dày thì có thể chỉnh lại trục lăn để khe cán bột nhỏ
hơn và cho bột qua con lăn thêm lần nữa.
Tủ ủ:
Cấu tạo:
- Tủ thành lập dáng đứng với các bộ phận được phân chia cụ thể:
- Bảng điều khiển.
- Màn hình hiển thị nhiệt độ.
- Tay kéo cửa tủ.
- Khay chứa bột (số lượng khay tuỳ vào loại tủ sử dụng).
- Khoang chứa nước.
- Buồng nhiệt chứa các thanh nhiệt.
- Dây nguồn.
- Chân tủ có lắp đặt 4 bánh xe di chuyển.
Nguyên lí hoạt động:
- Trong quá trình ủ bột, tủ ủ bột sẽ giúp giảm thời gian phải ủ bột. Thông
thường, bạn phải mất 4 – 8 tiếng đồng hồ nếu bạn để bánh mì nở tự nhiên
trong nhiệt độ ngoài trời (tùy thuộc vào nhiệt độ ngoài trời). Nhưng với tủ
ủ bạn chỉ mất thời gian khoảng 45 – 60 phút (tùy thuộc kích cỡ bánh,
nguyên liệu,…).
- Sau khi bạn đã chia bột bằng máy chia bột xong, bạn cho vào máy se
bánh mì để định hình bánh, sau đó cho vào tủ ủ để bột nở. Bạn có thể
điều chỉnh nhiệt độ tùy vào cơ chế hoạt động bạn muốn (dùng điện trở
khô hoặc nở bằng hơi nước).
- Khi bạn dùng điện khô, trước khi cho bột vào tủ, bạn cần xịt trên mặt
bánh mì một ít nước để khi ủ bột để bánh sẽ không bị khô. Với nhiệt độ
ngoài trời khoảng 30oC (thời tiết mùa hè), bột nở trong khoảng 3 – 4
tiếng. Vì vậy, bạn để nhiệt độ cao hơn để có thời gian kích nở nhanh hơn
(thông thường khoảng 35oC – 45oC). Với điện trở nước thì bạn không cần
xịt nước trước, nhiệt độ cũng tương tự với điện trở khô.
Khi nhiệt độ đã đạt được yêu cầu thì bạn mở cửa tủ và cho khay bánh
vào. Đậy nắp tủ và quan sát đến khi bột đã bở đúng với kích thước của
loại bánh mì bạn muốn (thường là nở gấp đôi) thì lấy bánh ra, xếp vào
khay và cho vào lò nướng bánh mì.
Máy nướng bánh
Cấu tạo:
- Cấu tạo bằng inox nên có độ sáng bóng nhất định. Vỏ lò chịu lực, chịu
nhiệt tốt.
- Bộ điều khiển tự động bao gồm công tắc nguồn điện, công tắc đèn chiếu
sáng, đèn chiếu sáng bên trong. Giúp bạn quan sát bên trong và theo dõi
một cách dễ dàng.
- Tay khóa chắc chắn, chốt khóa an toàn.
- Cửa lò có lớp kính dày 2 lớp, trong suốt. Giúp người dùng có thể quan
sát được độ chín của bánh bên trong.
- Phía sau lò là bộ phận quạt đối lưu thổi khí nóng đi khắp các vị trí bên
trong
- Khoang nướng rộng lớn, với khả năng chống dính vô cùng tốt.
Nguyên lí hoạt động:
- Trong lò nướng có một số thanh nhiệt được gắn ở đỉnh lò phía trên và ở
đáy lò. Bộ phận này có dạng thẳng hoặc uốn cong và có chức năng tạo
nhiệt làm chín thực phẩm. Với yêu cầu của từng món ăn, bạn có thể sử
dụng chế độ nướng với thanh nhiệt trên, hoặc thanh nhiệt dưới hoặc cả
hai.
– Quạt đối lưu được đặt ở mặt giữa khoang lò, giúp thổi khí nóng đều
khắp, bao trùm toàn bộ thực phẩm. Nhờ vậy món nướng ngon hơn và
chín đều các mặt. Đây là một bộ phận quan trọng giúp món nướng ngon
hơn, do vậy khi mua thiết bị bạn nên lựa chọn loại lò nướng có quạt đối
lưu.