Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 44

Chỉ riêng khóa 2k4, cô Sương Mai đã có 2.

477 học sinh theo học, 731 điểm 8+, 247 điểm 8,5+,
193 điểm 9+

HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI TUYỂN SINH


KHOÁ LIVE LUYỆN THI NGỮ VĂN TOÀN DIỆN 2024

Tháng 4.2023 - tháng 8.2023 Tháng 9.2023 - tháng 3.2024 Tháng 4 - thi Đại học 2024

GIAI ĐOẠN 1 GIAI ĐOẠN 2 GIAI ĐOẠN 3


Học nền tảng trên Website 48 Livestream phân tích Luyện đề tăng cường chấm
chuyên sâu, nâng cao từng chữa 1:1 (2 đề/tuần)
Nền tảng kiến thức đọc hiểu tác phẩm
- NLXH - NLVH
(Từ tháng 5) Thi thử thực
Phân tích cơ bản các tác Củng cố kĩ năng: Đọc hiểu - NLXH chiến hàng tuần
phẩm trọng tâm - NLVH
33 đề tự luyện - chữa đề
Củng cố kiến thức một số
qua video Bổ sung kiến thức lý luận văn học
tác phẩm lớp 11 để liên hệ
Học Livestream phụ đạo mở rộng
Luyện đề chấm chữa 1:1 hàng tuần
hàng tháng (Đề biên soạn độc quyền theo
Rà soát kiến thức trước
cấu trúc đề thi THPTQG)
khi thi
Luyện đề chấm chữa 1:1
hàng tuần (4 đề/tháng) 5 bài thi thử theo chuyên đề Ôn tập tác phẩm trọng tâm
theo sơ đồ tư duy
Hoạt động ngoại khóa hàng tháng Ôn tập đánh giá vấn đề nghị luận phụ
rèn luyện kĩ năng mềm
Ôn tập đánh giá nội dung nghệ thuật
đặc sắc
Ôn tập đánh giá liên hệ mở rộng

Cô Sương Mai là ai 80+ livestream 60+ đề luyện

88+ 12+
9,9 điểm video thi thử
tổng kết môn Văn - lớp chuyên trường
Chu Văn An
Cô bài giảng thực chiến
03 năm kinh nghiệm Sương Mai
ôn thi Ngữ văn THPT

08 năm kinh nghiệm


hoạt động trong lĩnh vực MC/BTV/Diễn
giả/Voice Talent nên có khả năng
truyền tải nội dung tốt
Nổi tiếng với: Reviewer tại kênh
Phê Phim, chị SiSi trong chương trình
Lớp học cầu vồng.
03 sách kĩ năng
+ tài liệu độc quyền

Phong cách giảng dạy


Học đến đâu - Luyện đề đến đó - Chấm

FEEDBACK
chữa tay chi tiết 100%
Học văn để chữa lành - Truyền cảm hứng
yêu văn
Học văn theo lối tư duy, kích thích
trí tưởng tượng TEAM 2K6

Nhắn tin cho cô để được tư vấn ngay:


Hoặc scan mã QR
1 | #hocvancosuongmai

HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI


ĐỀ CƯƠNG GIỮA KÌ I NGỮ VĂN 12
(Tài liệu nội bộ vui lòng không chia sẻ, copy)

PHẦN I. Tổng hợp mở bài tham khảo về bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng) và
“Việt Bắc” (Tố Hữu)

AI
Tây Tiến - Quang Dũng

Mở bài tham khảo 1:


M
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh
của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã
NG
khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con
anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt
trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang
Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách
Ơ

mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là
bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong

những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

Mở bài tham khảo 2:


“Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”
Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Nếu
như Giang Nam gửi nỗi nhớ về quê hương của mình qua bài thơ cùng tên (Quê
hương), Hoàng Cầm gửi tình yêu vùng đất Kinh Bắc qua bài thơ “ Bên kia sông
Đuống” thì Quang Dũng – nhà thơ đa tài và cũng rất mình đa tình lại lựa chọn và

Trang 1
2 | #hocvancosuongmai

khai phá một nỗi nhớ thương mới – nỗi nhớ thương về đoàn quân, nhớ thương về
vùng đất, về con người qua một thi phẩm với tựa đề: “Tây Tiến”….

Mở bài tham khảo 3:


Thơ ca cách mạng đã in dấu bao ngòi bút thơ chiến sĩ. Hòa mình vào công
cuộc kháng chiến, tham gia chiến đấu nên nhà thơ cách mạng thấu hiểu đến tận
cùng nỗi khó khăn, rung cảm sâu đậm trước mất mát và cất vang lời ca ngợi lòng
dũng cảm xông pha. Rời quê hương để chiến đấu nơi xa xôi, Quang Dũng gắn bó
với mảnh đất Tây Bắc bằng những ngày tháng hành quân bên đồng đội, bằng
những nghĩa tình của khói cơm nếp quẩn quanh cùng gió sương. Đến khi phải rời

AI
xa, quá khữ thắm thiết nghĩa tình ấy vẫn ùa về để chảy tràn trong cảm xúc, cất
thành lời thương lời nhớ trong “Tây Tiến” - nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên và
con người trong cơn sóng trào thiết tha
Mở bài tham khảo 4:
M
“Có một không gian nào,
Đo chiều dài nỗi nhớ?
NG
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?”

(Trần Đình Chính)


Ơ

​ Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là

nỗi nhớ thương mà Hoàng Cầm đã gửi lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên
kia sông Đuống”, là nỗi nhớ thương của người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa”
của Bằng Việt. Đôi khi đó còn là nỗi nhớ thương trong tình yêu mà người bên ấy
chỉ dám gửi cho người bên này trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh
Nhàn. Và Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi
đặt tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”.
Mở bài tham khảo 5:
“Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên

Trang 2
3 | #hocvancosuongmai

Nhưng họ đã làm ra đất nước”


Những vấn thơ trên trong tác phẩm “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm đã bày tỏ niềm biết ơn cao cả đối với những người lính vô danh. Trong lịch
sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc, mảnh đất hình chữ S của ta đã ghi danh
biết bao bậc anh hùng can trường, kể cả những người lính mà không ai nhớ mặt,
cũng chẳng biết tên. Vì họ là một phần của lịch sử, là đồng bào máu mủ ruột thịt
và vì họ đã cống hiến cả đời cho nền độc lập quý giá. Với nền văn học Việt Nam,
đề tài về người lính luôn được các nhà thơ chú trọng đào sâu và để lại những dấu
ấn đặc biệt. Trong đó có bài thơ “Tây Tiến”, mà theo nhà phê bình Vũ Thu Hương
cho rằng: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính vô danh”.

Việt Bắc - Tố Hữu

AI
Mở bài tham khảo 1:
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói ra rằng: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi ở .. Khi ta đi

M
đất bỗng hóa tâm hồn ”. Và cũng từ đó bỗng có một có một mảnh đất tình người
đã hóa thân thành hồn thành nỗi nhớ trong lòng người cán bộ về xuôi. Nơi là
mảnh đất Việt Bắc chan chứa ân tình – quê hương của kháng chiến, quê hương
NG
của những con người khoác áo chàm nghèo khó mà “đậm đà lòng son” khiến
những ai mà đã từng đặt chân đến nơi đây cũng phải bồi hồi và xao xuyến .
Mảnh đất Việt Bắc đã trở thành niềm thương và nỗi nhớ thương , thành cảm
hứng bùng cháy cho thơ ca. Và có một bài thơ từ đó đã ra đời vì mảnh đất Việt
Ơ

Bắc yêu thương nghĩa tình ấy – đó ai cũng biết chính là bài thơ Việt Bắc của nhà
thơ cách mạng Tố Hữu.

Mở bài tham khảo 2:


Nhà thơ Tố Hữu đã từng bộc bạch : “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống
đã thật đầy”, chính những niềm thương vô bờ bến ,là những nỗi nhớ trào dâng
không ngừng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca
đã trào ra bao niềm thương nỗi nhớ vô bờ bến . Việt Bắc chính xác là những rung
động mãnh liệt ấy của nhà thơ Tố Hữu. Bài thơ cũng là kết tinh, là di sản của
“mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” giữa biết những cán bộ cách mạng và nhân
dân Việt Bắc. Tác phẩm đích đáng là một khúc tình hào hùng về cuộc kháng
chiến và con người trong kháng chiến. Bài thơ Việt Bắc được viết ra như là những
lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa những con người

Trang 3
4 | #hocvancosuongmai

kháng chiến đối với đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình kết
hợp chính trị, mang đậm tính tình dân tộc và ngòi bút phiêu cảm xúc của thi
nhân.

Mở bài tham khảo 3:


“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)

AI
Đã từ rất lâu rồi mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên đã được coi là quê hương của
kháng chiến chống giặc, quê hương của những biết bao anh hùng, đây hẳn là

M
mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng trĩu những ân tình khiến ai nấy mà đã đặt
chân đến đây cũng phải bồi hồi, xao xuyến . Mảnh đất này đã trở thành niềm
thương, cũng như trở thành nỗi nhớ cho những ai đã từng đến rồi lại phải cất
bước rời đi. Để rồi nhà thơ Tố Hữu – Một người lính đã từng có khoảng thời gian
NG
gắn bó sâu đậm với mảnh đất này viết nên tác phẩm “Việt Bắc” – tuyệt tác xuất
sắc của đời mình. Tác phẩm là một khúc tình ca và đồng thời cũng là khúc hùng
ca về cuộc kháng chiến và những con người trong cuộc kháng chiến . Bài thơ
Ơ

được viết ra như biết bao lời hát về tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu
luyến giữa những con người kháng chiến cùng với đồng bào Việt Bắc đã được
thể hiện qua lăng kính trữ tình kết hợp với chính trị, đậm đà tính dân tộc và ngòi

bút dạt dào cảm xúc của một thi nhân nổi tiếng .

Mở bài tham khảo 4:


Cổ nhân từng có nói rằng “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”. Một tác phẩm
thơ mang ca giàu chất nhạc làm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ. Gợi ra biết bao điều
mà từ ngữ không nói hết. Một tác phẩm thơ ca mang giàu chất họa giúp cho
người đọc sẽ cảm nhận rõ hơn bức tranh đời sống và tâm hồn con người. Việt
Bắc chính là một tác phẩm hội tụ đầy đủ tất cả những điều đó. Với đứa con tinh
thần tiêu biểu này, chất họa chất nhạc được kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn làm
cho nỗi nhớ niềm thương được bộc lộ một cách chân thực và tự nhiên nhất. Đó

Trang 4
5 | #hocvancosuongmai

cũng chính là sự tìm tòi, sáng tạo công phu tuyệt vời của người nghệ sĩ, đã làm
cho tác phẩm sống mãi trong lòng các độc giả.

Mở bài tham khảo 5:


Trong bài thơ “Tạm biệt”, Tố Hữu viết:
“Xin tạm biệt đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường tro gửi đất
Sống là cho, chết cũng là cho”
Phải chăng, đó là tâm nguyện của những nhà thơ, nhà văn, người trọn đời
đã hiến dâng tài năng cho Tổ quốc, cho Đảng và nhân dân? Văn chương, thơ ca
chính là sự kết tinh vẻ đẹp của thời đại. Âm vang của lịch sử dường như đọng lại

AI
đẹp nhất, rực rỡ nhất qua những trang văn, trang thơ. Chiến tranh đã qua đi, bụi
thời gian phủ dày lên chiến trường, lên bia mộ những anh hùng. Nhưng văn học
nghệ thuật bằng sứ mệnh thiêng liêng của mình đã tái hiện và khắc sâu những

M
hình ảnh oanh liệt thời khói lửa ấy. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi sự kiện cách mạng qua
đu lại để lại vô số hoài niệm, lưu luyến cho các tác phẩm văn chương. Và khi nhắc
đến nhà thơ của thời đại, của cách mạng ta phải nhắc đến tên tuổi của Tố Hữu.
Hầu hết các tác phẩm của ông luôn song hành cùng cách mạng. Một trong những
NG
tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã tái hiện chân
thực kỷ niệm cách mạng và nỗi nhớ da diết của kẻ ở người đi qua những lượt lời
hỏi đáp giữa cán bộ về xuôi và nhân dân Việt Bắc.
Ơ

PHẦN II. Tổng hợp kết bài tham khảo về bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng) và “
Việt Bắc (Tố Hữu)

Tây Tiến - Quang Dũng

Kết bài tham khảo 1:


Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự
ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp
hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong
việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại
trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây tiến ta
sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về đất nước

Trang 5
6 | #hocvancosuongmai

ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta
trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.

Kết bài tham khảo 2:


Tây Tiến là cuộc sống, là tấm lòng, là cảm xúc chân thành của Quang Dũng. Bài
thơ có nhạc, có họa. Bên cạnh cái dữ dội là cái tươi mát, bên cạnh cái bi thương
là cái hào hùng. Tây Tiến là một phần bức tranh hoành tráng về cuộc kháng chiến
chống Pháp gian khổ và vĩ đại của dân tộc ta. Tây Tiến là cột mốc quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ, người đọc nhớ
ngay đến bài thơ Tây Tiến và ngược lại. Thơ Quang Dũng nói với chúng ta về cái

AI
thật, cái đẹp và cái tốt của cuộc đời ; vì thế mà nó sống mãi với thời gian.

Kết bài tham khảo 3:

M
Đọc “ Tây Tiến”, cái ta cảm nhận được không phải chỉ là vẻ đẹp hào hùng, hào
hoa, sự bi tráng của người lính mà còn là vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên
nhiên. Tất cả hiện lên thật rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Có thể nói,
NG
Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài bất hủ về người lính trong
kháng chiến chống Pháp. Khói lửa chiến tranh đã qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã
bước sang trang mới, nhiều người thuộc đoàn quân Tây Tiến năm xưa giờ đây đã
trở thành thiên cổ. Thế nhưng, đúng như những gì mà Gian Nam từng viết:
Ơ

“ Tây Tiến biên cương mờ khói lửa


Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy, con người ấy


Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

Kết bài tham khảo 4:


Thơ ca nếu không có người tôi đã mồ côi” Nếu không có thơ ca Quang Dũng
vẫn có thể sáng tác nhạc, vẽ tranh. Nhưng chỉ có những vần thơ thì ông mới thể
hiện được hết những cảm xúc chân thành nhất được cất lên từ chính dòng máu
nóng của ông để rồi bài thơ Tây Tiến mãi chạm khắc vào lòng người đọc những
ấn tượng riêng về bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc qua đó làm nổi bật hình
ảnh những người lính- họ là tiêu biểu cho một thế hệ những con người kháng

Trang 6
7 | #hocvancosuongmai

chiến chống Pháp ân tình, thuỷ chung mà nhạy cảm tinh tế đồng thời cũng hết sức
tài hoa, lãng mạn.
Kết bài tham khảo 5:
Quả thật bài thơ “Tây Tiến” đã ghi lại một cách chân thực và cảm động về
hình ảnh người lính Tây Tiến. Với “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thật sự gửi vào thơ
ca kháng chiến chống Pháp một bức tranh chung về người lính trong những năm
đầu kháng chiến chống Pháp. Gương mặt người lính thủ đô dũng cảm, hào hoa
thật sự chiếm được cảm tình người đọc. Hình ảnh đó sẽ mãi mãi đẹp trong lòng
mọi người để nhớ mãi quân Tây Tiến, khúc độc hành ca của một thời. Quả thật,
nhận xét trên của Nguyễn Đăng Điệp là vô cùng xác đáng nếu như “Tây Tiến"-
Quang Dũng thiếu đi cái chất lãng mạn thì nó thật sự đánh mất đi vẻ đẹp toàn bích
và những giá trị nhân văn, nhân bản mà nó đã và luôn đem lại, khích lệ tinh thần

AI
người chiến sĩ.

Việt Bắc - Tố Hữu

Kết bài tham khảo 1:

M
Như vậy, thông qua tác phẩm “Việt Bắc”, chúng ta có thể thấy được sự thay đổi và
chuyển hóa từ “cái tôi” của người thanh niên cộng sản sau khi bắt gặp lí tưởng
NG
cách mạng ở tập thơ “Từ ấy” đến tiếng nói của cái ta chung đại diện cho quần
chúng cách mạng, nhân dân diễn ra trong hồn thơ Tố Hữu. Điều đó đã được thể
hiện rõ thông qua việc khắc họa tình cảm “cá nước” giữa quân và dân ta trong sự
gắn bó tâm tình, tha thiết. Bởi vậy, khi gấp trang thơ lại, dư âm của khúc ca ân
Ơ

tình thủy chung của tình quân dân trong những năm tháng kháng chiến gian khổ
vẫn còn vang vọng da diết trong tâm trí độc giả:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

(Trích “Việt Bắc”)

Kết bài tham khảo 2:


Nghĩa tình cách mạng như một sợi chỉ đỏ, xuyên suốt mạch bài thơ Việt Bắc.
Mạch cảm xúc mạnh mẽ ấy chính là sự trân trọng, ngợi ca tình cảm gắn bó, keo
sơn của nhân dân ta trên suốt hành trình kháng chiến đầy gian lao, khốn khổ. Vẻ
đẹp ngời sáng của tinh thần yêu nước, quyết chiến hy sinh đã khiến bài thơ thật

Trang 7
8 | #hocvancosuongmai

sự trở thành một khúc trường ca của tình nghĩa quê hương, đất nước. Tình cảm
thiêng liêng đó đã được Tố Hữu tái hiện qua nhiều chi tiết phong phú, đặc biệt là
hình ảnh ấm áp qua khung cảnh sinh hoạt của quân dân giữa thiên nhiên núi rừng
rộng lớn. Đọc Việt Bắc, ta thêm tự hào về những năm tháng dẫu có gian khổ
nhưng lại hết sức vẻ vang của dân tộc.

Kết bài tham khảo 3:


Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc
sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại
thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản

AI
nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và
trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên
mình vì sự độc lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện

M
tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết
lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải
biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào
NG
hùng đẫm máu và nước nước.

Kết bài tham khảo 4:


Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc
Ơ

tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những
con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà

thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng
núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả
cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc,
những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm
đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.

Kết bài tham khảo 5:

Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, bài thơ “Việt Bắc” như tiếng nói
thiết tha vẫn rung cảm lòng người. Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong
lòng của người hôm nay. Tiếng lòng ân tình thủy chung ngày ấy phải chăng, đã
thấm sâu vào ân tình thủy chung của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời

Trang 8
9 | #hocvancosuongmai

gian không làm nhạt nhòa đi ấn tượng về một vùng đất hào hùng chiến đấu đầy
gian lao, nguy hiểm về những anh bộ đội Cụ Hồ vẫn chiến đấu kiên cường để
dành được độc lập cho Tổ quốc. Nếu thơ ca là những dòng sông thì thơ của Tố
Hữu là một dòng sông trong xanh mà ta thương mến, dòng sông ấy đang hợp lưu
trong lòng thế hệ bạn đọc hôm nay và mai sau.

PHẦN III. Tổng hợp khái quát tác giả, tác phẩm về bài thơ “Tây Tiến”(Quang
Dũng) và “Việt Bắc (Tố Hữu)
1. Tây Tiến - Quang Dũng

AI
Tác giả:
• Quang Dũng là một nhà thơ mặc áo lính → ông dùng những trải nghiệm và cảm
xúc của một người đã từng lăn xả nơi chiến trường, đã thấu hiểu nỗi đau của bom

M
đạn để viết nên những áng thơ mang đậm tính hiện thực
• Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài. Ông vừa là hoạ sĩ, nhạc sĩ và cả thi sĩ.
→ Chính vì thế mà chất nhạc, chất hoạ đã được ông đưa vào bài thơ một cách vô
NG
cùng tinh tế và ngọt ngào, khiến người đọc phải mê đắm.
• PCST: Ngòi bút phóng khoáng, đan xen giữa bút pháp hiện thực (bám sát thực
tế) và cảm hứng lãng mạn (khơi dậy cảm xúc nơi nhân vật trữ tình và nơi người
Ơ

đọc)
Đọc thêm:
• Quang Dũng còn là một người lãng mạn đến mức nhiều khi ông không tổng hợp

được các bản thảo, tác phẩm của mình khi sáng tác. Vì ông chỉ ghi vào những
cuốn sổ tay bằng những cảm xúc bay bổng của mình.
• Quang Dũng sáng tác thơ từ rất sớm, nhưng không ai biết một cách chính xác là
từ năm nào (Có nguồn thông tin cho rằng bài thơ đầu tiên mà ông sáng tác là vào
năm 16 tuổi)

Tác phẩm:
• Được sáng tác vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh, bên dòng sông Đáy hiền hòa
và thơ mộng, ở thời điểm Quang Dũng đã không còn đồng hành cùng đoàn quân
Tây Tiến
• “Tây Tiến” là tác phẩm có thể xem như một cánh chim sải rộng cánh để “bay

Trang 9
10 | #hocvancosuongmai

theo đường dân tộc đang bay” (chữ của Chế Lan Viên) bởi thi phẩm được sáng
tạo vào thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm của đất nước, phản ánh sự ác
liệt của chiến tranh và hơn cả là đã làm nổi bật được phẩm chất kiên cường, bất
khuất của dân tộc ta trong thời kỳ đó.
• “Tây Tiến” còn là một bài thơ rất đặc biệt vì có thời điểm Văn học Cách mạng từ
chối những gì lãng mạn, phủ nhận những gì cá nhân như: nỗi nhớ, tình yêu riêng
tư, ... vì quan điểm những điều ấy sẽ làm cho người lính trở nên chùn bước, nhụt
chí.
➔ Đây là lí do khi mới ra đời “Tây Tiến” nhận ra rất nhiều ý kiến trái chiều, thậm
chí là có thời gian tác phẩm đã bị bài trừ. Tuy nhiên sau này khi người đọc nhìn

AI
nhận lại giá trị của văn học cũng như kiếm tìm lại nhiều tác phẩm đã bị lãng quên
thì khi đó “Tây Tiến” mới có chỗ đứng cho riêng mình và văn phong của nhà thơ
Quang Dũng mới thực sự được công nhận đúng với những sự tài hoa trong ngòi
bút của người nghệ sĩ xứ Đoài mây trắng.

2. Việt Bắc - Tố Hữu


M
NG
Tác giả:
Tố Hữu là một nhà thơ “trữ tình chính trị”:
Ơ

+ Thơ ông chủ yếu khai thác và bắt nguồn từ cảm hứng trong đời sống chính trị
của đất nước, từ những hoạt động của cách mạng. (yếu tố chính trị)
+ Nhưng thơ ông không chỉ đơn thuần phản ánh những sự kiện lịch sử hay cột

mốc thời gian mà còn là “tiếng lòng của người cầm bút”, là xúc cảm dạt dào trong
chính bản thân tác giả được bộc lộ rõ nét qua từng từ ngữ, dấu câu, thể thơ, biện
pháp tu từ hay cách ngắt nhịp đầy dụng ý nghệ thuật. (Yếu tố trữ tình)
➔ Hai yếu tố này được ông kết hợp và quyện hoà với nhau để tạo thành nên
những áng thơ lay động trái tim bao độc giả qua từng thế hệ. “Tố Hữu đã đưa thơ
chính trị lên rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu)
+ Phải nói rằng vì xuất thân là nhà thơ mang trong mình lí tưởng cộng sản; thế
nên trong thơ Tố Hữu, lí tưởng cách mạng là ngọn đuốc soi sáng và xuyên suốt
trong hầu hết các tác phẩm. Đây cũng là nguồn cảm hứng để ông sáng tác nên
“Việt Bắc”. Người thi sĩ ấy đã dùng cây bút của mình như một “vũ khí” để kháng

Trang 10
11 | #hocvancosuongmai

chiến chống giặc, bởi “giết giặc không gươm cũng chẳng cần dao” – tiếng thơ
chính là tiếng nói mạnh mẽ nhất.
• Tố Hữu là một người luôn luôn hướng đến: “lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm
vui lớn”: Đó là sự hoà quyện giữa cái chung và cái riêng trong thơ ông – những
vần thơ như nói lên những vui buồn của dân tộc sau những chặng đường dài của
lịch sử.
➔ Có thể nói rằng Tố Hữu đã dùng những con sóng trong lòng, trong trái tim mình
và trong chính cuộc đời của mình để hoà quyện vào biển cả mênh mông, rộng lớn
mang tên Tổ quốc thân yêu. Bởi người thi sĩ ấy đã cầm bút để viết nên những gì
hùng tráng nhất, bất khuất nhất của dân tộc, của cộng đồng. Bởi người thi sĩ ấy đã

AI
hòa quyện cái tôi cá nhân của mình vào với cái ta chung của Đất Nước, đã “buộc
hồn tôi với mọi người”, với muôn dân. Đấy là điều mà không phải nhà thơ hay
người nghệ sĩ nào cũng làm được.

Tác phẩm:
M
a. Khuynh hướng sử thi & cảm hứng lãng mạn trong thơ “Việt Bắc” :
NG
+Khuynh hướng sử thi: được thể hiện ở các yếu tố như:
- Tác giả đưa những sự kiện lịch sử trọng đại, có tính quyết định tới vận mệnh
dân tộc, của cộng đồng vào trong thơ.
- Điều ấy được thể hiện rất rõ trong hoàn cảnh sáng tác của “Việt Bắc” [ Hoàn
Ơ

cảnh sáng tác: vào 10/1954 khi trung ương Đảng tạm biệt Việt Bắc -nơi gọi là “Thủ
đô gió ngàn của Cách mạng Việt Nam” để về với Hà Nội – thủ đô Ba Đình nắng
vàng, ngập màu đỏ của lá cờ bay phất phơ trong gió để tiếp tục phong trào cách

mạng.]
+Cảm hứng lãng mạn:
- Thể thơ lục bát (thể thơ truyền thống, giàu nhạc điệu, trữ tình, kết hợp với giọng
thơ thiết tha, mặn nồng)
- Các vấn đề chính trị được nói bằng cách đối đáp, xưng hô quen thuộc trong ca
dao <cặp đại từ “mình”- “ta”>
- Kết cấu đối đáp luân phiên, tạo sự trôi chảy, tự nhiên, uyển chuyển trong mạch
cảm xúc
- Cảm hứng lãng mạn trong “Việt Bắc” còn được thể hiện ở trong khung cảnh chia
tay đầy bịn rịn, nhớ thương của kẻ ở người đi.

Trang 11
12 | #hocvancosuongmai

→ “Việt Bắc” như một bản tình ca cất lên những khúc nhạc buồn, nhớ nhung luyến
tiếc của tình quân dân khi chia li. Thế nhưng nó cũng là khúc nhạc du dương, vui
tươi thể hiện tình thần kháng chiến kiên cường, bất khuất của toàn dân tộc ta
trong suốt chặng đường lịch sử dài đằng đẵng không một phút giây chùn bước
hay dừng lại.
→ “Việt Bắc” còn là một thước phim quay chậm mang con người ta trở về , chạm
vào một mảng kỉ ức, một góc nhỏ trong tim với những kỉ niệm gian khổ mà nghĩa
tình nơi “Thủ đô gió ngàn” của cách mạng, của kháng chiến - mà phương tiện để
thực hiện thước phim ấy chính là “nỗi nhớ” da diết của kẻ ở, người đi lắm bịn rịn,
nhớ thương được gửi gắm qua sức mạnh diệu kì của thơ ca.

AI
PHẦN IV. Tổng hợp các nhận định hay khi phân tích bài thơ “Tây Tiến”(Quang
Dũng) và “ Việt Bắc (Tố Hữu)

M
Tây Tiến (Quang Dũng)
NG
1. “Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả
thổi vào một hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não
nùng…” (Vũ Thu Hương – Vẻ đẹp văn học cách mạng)
Ơ

“… Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” (Vũ Thu Hương)
2. “ Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút Quang Dũng vừa được cảm nhận với vẻ
đẹp đa dạng , vừa độc đáo vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp”

(bình giảng VHVN)


3. “ Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của Quang Dũng. Nó như cánh cửa dẫn
dắt anh bước vào làng thơ cách mạng. Như mối duyên ràng buộc, bài thơ
gắn bó với người làm ra nó đến mức nói đến Quang Dũng là người ta nhắc
đến bài thơ Tây Tiến và ngược lại” ( Trần Lê Văn)
4. “Tây Tiến – sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn” (Đinh Minh Hằng)
5. Với cảm hứng và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình
tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây
hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng
mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.(Ngữ
văn 12 tập 1, Nxb Giáo dục, 2008, tr.87.)
Trang 12
13 | #hocvancosuongmai

6. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: Nhớ về rừng núi nhớ chơi
vơi...Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội
hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài, người viết không che
giấu những gian khổ, hy sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều, nó được
thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng
trở thành cái hùng (bi tráng) (GS. Nguyễn Đăng Mạnh & TS. Trần Đăng
Xuyền, Những bài văn hay, Nxb Đồng Nai, 1993, 110.)
7. Sách Những bài văn hay-“ Tây Tiến là bài thơ có giá trị về tư tưởng, về nghệ
thuật. bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú”(Hà Minh
Đức)
8. -“ Đọc Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng” (Xuân Diệu)

AI
9. Tôi làm thơ này rất nhanh, làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan
nghênh nhiệt liệt. Hồi đó, tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy.

M
Tôi chả chút lí luận gì về thơ cả ( Quang Dũng)
10. “ bút pháp của Quang Dũng thích tung hoành trong biên độ rất rộng, giữa
những nét khỏe khoắn dữ dằn và những nét tinh vi, e ấp” (Vũ Quỳnh
NG
Phương)

Việt Bắc (Tố Hữu)


1. Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi; máu thịt tôi, Việt Bắc như
Ơ

đã ở trong tôi”- (Tố Hữu)


2. Những vần thơ miêu tả thiên nhiên trong “Việt Bắc” có thể so sánh với bất kì

câu thơ nào trong thơ ca cổ điển”. (Hoài Thanh)


3. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô
khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ
nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ
của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý”. (Chế Lan Viên)
4. “Việt Bắc” trước hết là một bài thơ trữ tình – chính trị… Bài thơ là một khúc
hát ân tình thủy chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên
sức ngân vang sâu thẳm, lâu bền của bài thơ…”. (Trần Đình Sử)
5. “Bài thơ “Việt Bắc” là kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách
mạng, thơ ca kháng chiến.” (Nguyễn Đức Quyền)​

Trang 13
14 | #hocvancosuongmai

PHẦN IV. Tổng hợp các bài phân tích 9+ về bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng)
và “ Việt Bắc (Tố Hữu)
1. Bài phân tích 9+ về bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng)
BÀI SỐ 1
“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực
thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến
men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng... Nếu thiếu đi cái chất lãng
mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.” (Nguyễn Đăng Điệp)
Hãy phân tích khổ thơ sau để làm rõ bút pháp hiện thực và “đôi cánh lãng
mạn” trong hình tượng người lính của Quang Dũng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

AI
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

M
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích “Tây Tiến”)
NG
BÀI LÀM
Từng nhớ Hàn Mặc Tử năm xưa đã từng tâm niệm “Máu đã khô rồi, thơ cũng
khô-Tình ta chết yểu tự bao giờ”. Nếu với thi sĩ đau thương, máu là sự sống của thơ
Ơ

ca, của văn chương thì tôi tin những trang viết của Quang Dũng trong “Tây Tiến” sẽ
mãi bất tử với thời gian. Bởi đó là những trang viết với những vần thơ được thể hiện
tài tình qua bút pháp hiện thực và “đôi cánh lãng mạn” trong hình tượng người lính
của Quang Dũng. Nói như Nguyễn Đăng Điệp: “Nếu như Chính Hữu viết về những

chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người
lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình
tượng... Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích
của nó”. Những điều đó được minh chứng rõ nét qua những vần thơ sau:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích “Tây Tiến”)

Trang 14
15 | #hocvancosuongmai

Platon đã nói: “Thơ là thần hứng” – thơ chỉ ra đời trong những giây phút thăng
hoa của người nghệ sĩ. Quang Dũng đã có được giây phút ấy khi viết Tây Tiến. Từ
xa xưa đến nay, thơ phải là tiếng hát thật sự của tâm hồn, khi tâm hồn lên tiếng, thì
nhà thơ không cần lý luận. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Đăng Điệp mới đưa ra lời nhận
xét như vậy. Cái chất lãng mạn trong bài thơ được thể hiện thông qua nỗi nhớ da
diết của tác giả, của khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc nên thơ, hùng vỹ và cảnh sinh
hoạt của người dân qua con mắt nghệ sĩ của người lính. Hay trong bút pháp hiện
thực, cái khó khăn, cái khắc nghiệt, chông gai luôn hiện hữu thế nhưng trong cái khó
khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn hướng đến những điều
tốt đẹp. Và ta bắt gặp hình tượng người chiến sĩ bất khuất, oai phong, lẫm liệt,
những điều trên không hề bi lụy mà lại mang tinh thần bi tráng vô cùng
Có lẽ khi nhắc đến một nhà thơ trẻ ở miền Bắc, trưởng thành trong kháng
chiến chống Pháp mang hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa và “đứng riêng
một cõi” thì chắc chắn ai cũng sẽ nghĩ đến Quang Dũng. Quả thực đúng như vậy,

AI
Quang Dũng một nghệ sĩ rất đa tài, ngoài là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc ông còn
là một họa sĩ, nhạc sĩ rất nổi tiếng. Từ xưa đến nay, vạn vật trong kí ức vốn chỉ như
những tĩnh vật trong bảo tàng, dù là kí ức của một thời chưa xa. Nếu không có thần

M
sắc của cảm xúc thổi vào, vạn vật dù có mĩ lệ trữ tình đến mấy cũng chỉ là hóa
thạch. Và kí ức "Tây Tiến" trong Quang Dũng cũng thế, nó được xây đắp nên từ sự
chân thành trong xúc cảm của tác giả vào năm 1948 khi nhà thơ rời xa đơn vị Tây
Tiến, nhớ về một thời chiến đấu gian khổ trong đoàn quân. Trong lúc ấy, ông đã “
NG
xuất thần trên đầu ngọn bút”, một mạch viết nên bài thơ này từ những nỗi nhớ cuộn
trào như thác lũ trong tâm trí. Đó là “thần hứng”, một niềm cảm hứng sâu sắc và dồn
dập, cho ra đời những vần thơ bồi hồi trở thành bất tử. Thế mới biết, dù là một bài
thơ chỉ được làm vỏn vẹn trong vài mươi phút, nhưng nó đủ sức gợi, đủ sức ngân
vang trong suốt vài mươi năm, hay thậm chí vài mươi thế kỉ. Đó là sự bất diệt của
Ơ

thi hứng, của thơ ca, những “nguyên liệu” góp vào sự vĩnh cửu của Tây Tiến không
gì khác
Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối

hợp với bộ đội Lào tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên giới Tây Bắc của tổ quốc.
Các anh chủ yếu là thanh niên Hà Nội , những chàng trai hào hoa phong nhã, vừa
gác bút nghiên đi theo tiếng gọi của kháng chiến. Họ ra đi với một quyết tâm cao độ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước". Nếu như ở các đoạn thơ trước đó, nhà thơ tập
trung bút lực khắc hoạ lại chặng đường hành quân đầy kỉ niệm vừa thơ mộng, lại
vừa thấm đẫm vết hằn tháng năm. Thì ở đoạn thơ này, Quang Dũng đưa ta trở lại
với lăng kính hiện thực nhằm tôn vinh vẻ đẹp của người lính kiêu hùng. Đoạn thơ đã
trở thành một bức tượng đài về hình ảnh người chiến sĩ với vẻ đẹp hào hùng của lí
tưởng cao cả, của ý chí kiên cường, của sự gan góc, hy sinh dũng cảm cùng với vẻ
đẹp hào hoa lãng mạn của tâm hồn đằm thắm mộng mơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Trang 15
16 | #hocvancosuongmai

Những tháng năm “hoa lửa", những cuộc chiến khắc nghiệt, những thiếu thốn
vất vả đều là những sự thật không thể chối bỏ. Quang DŨng không những không
trốn tránh những vất vả, những gian lao ấy, ngược lại ông đã tái hiện cuộc sống
chiến đấu gian khổ, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến bằng bút pháp hiện thực đậm
nét qua bốn câu đầu của khổ ba. Thế nhưng không vì vậy mà ông khiến cho bài thơ
ảm đạm một màu đau đớn, chính chất lãng mạn của những chàng trai Hà Thành
năm ấy đã thực khiến cho sức mạnh niềm tin trở nên mãnh liệt đến phi thường,
vượt qua cả những gian khó chồng chất trước mặt, để lý tưởng một thời hoa lửa cứ
rực cháy trên bầu trời mong mỏi màu xanh hoà bình. Quả thực, nó không khiến cho
bài thơ ủy mị hay khiến con người ta nản chí, nhụt lòng mà trái lại, nó trở thành đôi
cánh nâng đỡ người lính vững bước bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ những dòng đầu, người đọc đã ấn tượng với hình ảnh “đoàn binh
không mọc tóc” Hình ảnh đó phản ánh trận sốt rét rừng trong hoàn cảnh chiến đấu
gian khổ, thiếu thốn. Những cơn sốt rét đã làm tóc các anh rụng nhiều, nên có người

AI
gọi người lính thời kì này là những anh vệ trọc. Không chỉ vậy, nhà thơ còn sử dụng
phép đảo ngữ, đảo “Tây Tiến đoàn binh” lên đầu đã góp phần tô đậm chân dung
hình ảnh những người chiến sĩ. Tiếp đến câu thơ sau với ý đối lập nhau: hình ảnh

M
“quân xanh màu lá” vừa gợi lại trang phục người lính, đó là màu xanh của lá ngụy
trang. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc hơn vẫn là màu da xanh xao vì bệnh tật, mặc
dù vậy người lính vẫn tràn đầy dũng khí, vẫn “dữ oai hùm”. Với hình ảnh đối lập đó,
tác giả đã tạo sự tương phản giữa ngoại hình và tính chất, giữa hình thức bên ngoài
NG
có phân xanh xao với phẩm chất kiên cường đầy dũng khí của người lính Tây Tiến.
Nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng mỗi lúc một cao vút lên, nhớ một dáng hình, một
ánh mắt kiên quyết, căm thù. Đồng thờ nhớ lại cả tâm tư, tình cảm của người lính.
Có lẽ đặc điểm của người lính Tây Tiến được tập trung thể hiện rõ nhất ở hai câu
thơ:
Ơ

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hình ảnh mắt trừng gửi mộng biểu hiện ý chí quyết tâm, một lòng căm thù

cao độ, một hoài bão lớn sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ biên cương tổ quốc.
Nhưng nếu như viết về một người lính mà chỉ có được cái hào hùng dũng cảm, cái
quyết tâm chiến đấu thì dường như chúng ta vẫn chưa hiểu rõ về tâm hồn họ. Bởi ở
họ còn có tình cảm nhớ thương , biểu hiện một nét đẹp trong trái tim người lính.
Điều đó cũng được nhiều nhà thơ khắc họa , trong thi ca kháng chiến chống Pháp ,
người lính trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu ra đi từ những miền quê nghèo
khó thì nỗi nhớ của họ cũng thật chân thực, mộc mạc. Đó là nhớ quê nhà, nhớ về
những miền quê "nước mặn đồng chua" hay đất cày lên sỏi đá, hoặc có lãng mạn
hơn một chút là nhớ về giếng nước gốc đa- nơi đã từng hẹn hò, tâm sự. Còn người
lính trong bài "nhớ" của Hồng Nguyên là những người tứ xứ: "gặp nhau hồi chưa
biết chữ, quen nhau từ thuở một hai". Nỗi nhớ của họ vẫn là nhớ quê nhà:
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"

Trang 16
17 | #hocvancosuongmai

Còn người lính Tây Tiến ra đi từ Hà Nội, dĩ nhiên nỗi nhớ của họ là nhớ về Hà
Nội thân yêu. Nhưng nỗi nhớ của họ đâu chỉ là "hương cốm mới", hay "những phố
dài xao xác hơi may" mà rất lãng mạn trong giấc mơ về những cô gái hà thành: 'đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Quang Dũng đã thật sự khái quát lên được chất lính
của người lính Tây Tiến: đó là người lính thật hào hùng, dũng cảm nhưng rất hào
hoa lãng mạn, cái lãng mạn đó không hề hạn chế hay làm giảm đi nhiệt tình của tuổi
trẻ mà trái lại đó là biểu hiện của tâm hồn mang nặng tình nghĩa tình cảm. Đó sẽ là
động lực để người lính Tây Tiến nói riêng và người lính thời kì kháng chiến chống
Pháp nói chung vượt lên trên mọi thử thách để chiến thắng kẻ thù.
Quang Dũng như dõi theo từng bước chân của người lính tây tiến, nhớ lại
những cảnh rùng rợn, những tâm sự, những nỗi niềm xót xa của đồng đội trước
những nấm mồ viễn xứ. Nhưng cảm hứng chung của bài thơ nhưng vẫn là cảm
hứng chung mạnh mẽ, bi tráng. Họ sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ cho sự nghiệp đấu tranh
của đất nước: 'chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Câu thơ nổi lên một phương

AI
châm, một triết lí sống đẹp của tuổi trẻ. Đã nhiều lần Quang Dũng không dấu diếm
sự thật, thậm chí là sự mất mát hi sinh. Chính vì vậy, khi nhắc đến điều này nhà thơ
đã thể hiện được sự bi tráng, thiêng liêng:

M
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “áo bào thay chiếu” một lần nữa gợi lên sự thiếu thốn của người
lính, nhưng nhà thơ đã dùng từ “áo bào” đầy trân trọng để nâng cao giá trị, nâng cao
NG
ý nghĩa của sự hi sinh. Người lính nằm xuống: "anh về đất" là về với đất mẹ, về với
non sông tổ quốc, về với sự trường tồn. Sự mất mát của người lính nơi biên cương,
chẳng những làm xúc động đồng đội mà dường như còn làm động đến cả đất trời ,
tiếng thác dữ gầm lên như tiếng kèn bi tráng, tiễn đưa người lính về nơi vĩnh cửu
với bao tiếc thương.
Ơ

Có thể thấy, cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn đi liền với nhau trong suốt
tác phẩm. Nhờ có hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã có thể tạc nên
bức tượng đài bất tử về người lính trên nền thiên nhiên với nhiều màu sắc đẹp đẽ.

Cả nội dung và nghệ thuật của bài thơ một lần nữa lại được in đậm.
Quả thật bài thơ “Tây Tiến” đã ghi lại một cách chân thực và cảm động về
hình ảnh người lính Tây Tiến. Với “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thật sự gửi vào thơ ca
kháng chiến chống Pháp một bức tranh chung về người lính trong những năm đầu
kháng chiến chống Pháp. Gương mặt người lính thủ đô dũng cảm, hào hoa thật sự
chiếm được cảm tình người đọc. Hình ảnh đó sẽ mãi mãi đẹp trong lòng mọi người
để nhớ mãi quân Tây Tiến, khúc độc hành ca của một thời. Quả thật, nhận xét trên
của Nguyễn Đăng Điệp là vô cùng xác đáng nếu như “Tây Tiến"- Quang Dũng thiếu
đi cái chất lãng mạn thì nó thật sự đánh mất đi vẻ đẹp toàn bích và những giá trị
nhân văn, nhân bản mà nó đã và luôn đem lại, khích lệ tinh thần người chiến sĩ.

BÀI SỐ 2
Nhà phê bình Vũ Thu Hương từng nhận định: “Tây Tiến là tượng đài bất tử về người
lính vô danh”.

Trang 17
18 | #hocvancosuongmai

Bằng việc cảm nhận đoạn thơ sau trong thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ
Quang Dũng, anh/chị hãy chứng minh nhận định trên.
“...Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...”

BÀI LÀM SỐ 1
Họ và tên: Hồ Thị Bảo Quỳnh

AI
MHV: K23076
Điểm: 4.75/5.0
“Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

M
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
NG
Những vấn thơ trên trong tác phẩm “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm đã bày tỏ niềm biết ơn cao cả đối với những người lính vô danh. Trong lịch sử
bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc, mảnh đất hình chữ S của ta đã ghi danh biết
bao bậc anh hùng can trường, kể cả những người lính mà không ai nhớ mặt, cũng
chẳng biết tên. Vì họ là một phần của lịch sử, là đồng bào máu mủ ruột thịt và vì họ
Ơ

đã cống hiến cả đời cho nền độc lập quý giá. Với nền văn học Việt Nam, đề tài về
người lính luôn được các nhà thơ chú trọng đào sâu và để lại những dấu ấn đặc
biệt. Trong đó có bài thơ “Tây Tiến”, mà theo nhà phê bình Vũ Thu Hương cho rằng:
“Tây Tiến là tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Đoạn thơ dưới đây đã khắc

họa chân thật hình ảnh của “người lính vô danh” ấy:
“...Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...”
Quang Dũng- một nhà thơ khoác áo lính vốn là sinh viên của vùng đất thủ đô
Hà Nội, là người từng lăn xả dưới mưa bom bão đạn, ông đã chứng kiến biết bao
đau thương và mất mát của chiến tranh. Vì vậy, trong từng con chữ ông viết ra đều
mang đậm nét hiện thực. Không những thế, ông còn là một chàng nghệ sĩ đa tài,
trước khi gác bút ra trận, ông vừa là họa sĩ, nhạc sĩ và cả thi sĩ. Trong những áng
Trang 18
19 | #hocvancosuongmai

thơ nhuốm màu hiện thực ấy, luôn ẩn hiện chất nhạc, chất họa vừa lãng mạn, vừa
tinh tế. Quang Dũng mang trong mình một hồn thơ phóng khoáng cùng với những
cảm xúc bay bổng mà chân thành. Thơ của ông mở ra một thế giới mới có sự độc
đáo, phá cách bởi tài hoa nghệ sĩ, mà nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Một
người chiến sĩ trẻ, tài hoa trong đoàn quân Tây Tiến ngày đó, sau này là nhà thơ
Quang Dũng”. Dẫu các sáng tác của ông không nhiều nhưng “nhà thơ xứ Đoài mây
trắng” vẫn ghi dấu ấn đậm nét với ngòi bút sắc bén, đặc biệt là ở đề tài người lính.
Tác phẩm “Tây Tiến” chính là nét điển hình cho đề tài ấy. Bài thơ “Tây Tiến” được
viết năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi rời đơn vị cũ không lâu thế nhưng kỉ niệm về
binh đoàn Tây Tiến vẫn cứ mãi vấn vương trong lòng người đại đội trưởng. Nỗi nhớ
tha thiết về những người đồng đội, những ngày hành quân gian khổ đã thôi thúc thi
sĩ áo lính đặt bút.
“Tây Tiến” không chỉ là nỗi nhớ tha thiết của cây bút Sơn Tây mà còn âm
thầm khắc họa chân dung của những người lính không biết tên, không biết tuổi.

AI
Chính vì vậy, nhà phê bình Vũ Thu Hương đã quả quyết rằng: “Tây Tiến là tượng đài
bất tử về người lính vô danh”. Dẫu tháng năm trôi qua, cuộc sống xoay vần thì hình
tượng người lính Cụ Hồ vẫn sẽ tồn tại ngay trong những trang sách, vần thơ. Bởi

M
không một ai có thể phủ nhận sự hy sinh, họ đã hóa thân thành một phần của lịch
sử ngàn đời, thân xác và linh hồn của họ đã hòa làm một với Tổ quốc. Dù cho là
“người lính vô danh” thì họ cũng không bao giờ phải đặt dấu chấm hết cho cuộc đời
vì “con người chỉ chết đi khi không còn ai nhớ về họ nữa”. Những người lính trong
NG
trang văn của Quang Dũng sẽ còn sống mãi, vẹn nguyên trên cuộc đời.
Vẻ đẹp của những người lính trong “Tây Tiến” là sự kết hợp giữa hào hùng và
hào hoa. Hai câu thơ đầu của đoạn thơ đã gợi lên nét kiêu hãnh, hùng dũng giữa
hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc kháng chiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Ơ

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”


Quang Dũng mở đầu đoạn thơ với bốn chữ “Tây Tiến đoàn binh” đã bộc lộ sự
trân trọng, kiêu hãnh với đơn vị công tác của mình. Phép đảo ngữ không chỉ gợi lên

sự đặc biệt ở câu thơ mà còn nhấn mạnh ý chí và khí phách hiên ngang ngút trời
của những anh lính trẻ. Vì ngay sau đó là sự khắc nghiệt gợi lên từ ngoại hình-
“không mọc tóc”. Đó là dấu hiệu của căn bệnh sốt rét rừng đã bào mòn đi cơ thể và
sức khỏe của họ. Từng cơn sốt miên man khiến tóc của những người lính rụng dần,
căn bệnh ấy không chỉ làm kiệt quệ sức lực mà còn cướp đi sinh mạng của nhiều
người. Ngòi bút của Quang Dũng đã không ngần ngại vẽ lại một bức tranh hiện thực
thảm khốc, để rồi ta chợt nhớ đến trong áng thơ của Chính Hữu cùng từng khắc họa
căn bệnh ám ảnh này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
(“Đồng chí”- Chính Hữu)
Chiến tranh chưa bao giờ là dễ dàng cũng như những người lính chưa bao
giờ nghĩ đến việc ngừng tiến bước, dù họ chỉ là những người còn rất trẻ tuổi vốn là
tri thức bước ra từ giảng đường. Sự khắc nghiệt ấy chỉ có thể tấn công ngoại hình

Trang 19
20 | #hocvancosuongmai

chứ không thể nào bòn rút được nhiệt huyết trong tâm hồn người lính, là khi mà
chính họ đã chủ động và tự nguyện chọn đối mặt với khó khăn nơi rừng thiêng nước
độc. Đoàn binh “không mọc tóc” đã chỉ rõ được nét ngang tàng, hóm hỉnh của
những người lính trẻ. Phải chăng họ đã cạo đi mái tóc của mình để quyết chí chiến
đấu cũng như an ủi đồng đội mắc phải căn bệnh sốt rét nguy hiểm này? Dưới cánh
lá ngụy trang cũng không thể che đậy đi được khí thế tinh thần “dữ oai hùm” của
đoàn binh. Câu thơ đã gợi lên cảnh một đoàn bình đầu trọc lọc nhưng vẫn hiên
ngang, ồ ạt đi tới như chúa tể sơn lâm, họ náu mình vào núi rừng để xuất hiện chiến
đấu giữa thiên nhiên, thử thách. Dưới ngòi bút kì diệu của “bóng mây qua đỉnh Việt”,
những mái đầu trọc, những nước da xanh xao vì đau ốm vẫn mang trong mình tinh
thần bất khuất, oai hùng. Sự kiêu hãnh ấy tựa như ngọn đuốc dẫn lối đoàn binh in
dấu chân mình nơi núi rừng Tây Bắc.
Không chỉ xuất sắc trong việc sử dụng bút pháp tả thực, nhà thơ Hà Nội còn
tinh tế đan cài nét đẹp hào hoa của người lính Cụ Hồ:

AI
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Câu thơ mở đầu với hình ảnh “mắt trừng” đã gợi lên nhiều cảm xúc, đôi mắt

M
ấy là một ánh nhìn kiên định, mạnh mẽ, luôn nhìn thẳng về nơi có kẻ thù với tinh
thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Dường như không có một sự đe dọa nào đủ
lớn để khiến đôi mắt ấy chợp xuống cũng như chẳng thể níu được giấc mộng gửi
sang phía bên kia biên thùy. Đó là giấc mộng giết giặc, là giấc mộng độc lập- tự do,
NG
giấc mộng chung của cả dân tộc. Thế nhưng ta cũng có thể hiểu rằng đôi mắt trừng
ấy cũng đang thao thức nhớ về quê hương, gia đình, về Hà Nội, sách vở cùng giảng
đường thân thuộc. Dù có hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì khoảng cách địa lý xa
xôi cũng không thể cản bước giấc mơ bay cao, bay xa mãi.
Nỗi nhớ dường như luôn khắc khoải trong tâm tưởng của những người ra
Ơ

trận để rồi khi đêm về họ lại dành chút thời gian nghỉ ngơi ít ỏi để mơ về xứ thủ độ
ngập tràn ánh sáng. Làm sao mà họ quên đi được hơi “gió mùa thu hương cốm
mới”, hay làm sao ngừng nhớ “những phố dài xao xác hơi may”? Có lẽ dẫu thân xác

người lính đang ở nơi khói bụi mịt mù nhưng trái tim của họ vẫn còn mắc kẹt trong
những mối tình còn dang dở, những tấm thư tay chưa kịp gửi đi và cả trong lời hứa
khó lòng thực hiện “Mẹ ơi, con sẽ về!”. Nhưng cũng chính những cảm xúc dạt dào
và “dáng kiều thơm” thướt tha đã tiếp bước cho họ trên con đường làm tròn nghĩa
vụ với đất nước. Hình ảnh “dáng kiều thơm” đã thổi vào hồn thơ phóng khoáng của
Quang Dũng cảm xúc xao xuyến. Nét bút lãng mạn ở “Tây Tiến” đã vô tình nhắc lại
những câu thơ nhung nhớ người mình yêu trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Dường như hình ảnh người chiến sĩ trong cái vẫy vùng của khói lửa luôn đi
liền với dáng hình người con gái, có phải chăng khi người lính nơi tiền tuyến vẫn
khao khát về tình yêu của riêng mình? Và những mong ước thầm kín đó đã trở
thành sức mạnh để họ thêm vững tay súng, chắc đôi chân của mình. Quan bốn câu
thơ trên của đoạn trích đã mô tả lại bức chân dung của những người lính vô danh.

Trang 20
21 | #hocvancosuongmai

Ở đó có sự hào hùng, hào hoa và cả bi thương, nhưng cái bị này là bi hùng chứ
không hề bi lụy. Hình ảnh chân thực của bộ đội qua sự khắc nghiệt của thiên nhiên
cùng với nét lãng mạn trẻ trung trong tâm hồn đã đưa “Tây Tiến” xứng đáng với tinh
thần là “tượng đài bất tử của những người lính vô danh”.
Nếu ở bốn câu thơ trước, Quang Dũng đã vẽ lại nét đẹp hào hoa đan xen hào
hùng thì ở bốn câu tiếp, nhà thơ xứ Đoài đã phác họa chân dung người lính rõ ràng
hơn qua sự hy sinh của họ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...”
Quang Dũng đặt đầu câu thơ với từ láy “rải rác” đã tạo ra một không gian
chiến trường trở thành “nghĩa trang”- nơi không biết bao nhiêu thân lính đã ngã
xuống. Những chàng lính còn đang tuổi hai mươi đã ngã xuống vì bom đạn để lại

AI
tuổi xuân còn đang phơi phới. Nhưng đằng sau từ “rải rác” ấy lại là các từ Hán Việt
“biên cương”, “mồ viễn xứ” đã làm giảm đi sự mất mát, đau thương. Dẫu những
người lính đã hy sinh nơi biên thùy xa xôi nhưng sự trang trọng, tôn nghiêm đã biến

M
những nấm mồ vô danh trở thành ngôi mộ vĩnh hằng. Quang Dũng nhìn vào sự thật
xót xa để viết nên câu thơ đầy day dứt, vậy nhưng ngay dòng thơ sau đó lại khẳng
định được tư thế hiên ngang cùng tinh thần bất khuất của những người lính. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”, hai từ “chẳng tiếc” vang lên như một nốt cao trong
NG
bản hòa ca đã kéo cảm xúc lên đến đỉnh cao. Họ coi cái chết là một phần của sự lựa
chọn khi ra nơi biên cương. Bước vào chiến trường nghĩa là đã đặt một chân vào
cõi chết, nghĩa là phải khép lại “đời xanh” còn bao hoài bão đang bỏ ngỏ. Thế nhưng
người lính vẫn sẵn sàng quên mình vì sứ mệnh độc lập của dân tộc. Tinh thần
khẳng khái, phong trần này có lẽ không chỉ ở trong “Tây Tiến” mà ta còn bắt gặp
Ơ

trong những câu thơ sau:


“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
(Trường ca “Những người đi tới biển” - Thanh Thảo)
Dòng cảm xúc còn âm ỉ cho đến hai câu cuối đoạn, thi sĩ đã tiếp tục dùng từ
Hán Việt để thiêng liêng hóa sự ra đi của đồng đội. “Áo bào”- “thay chiếu” vừa có bi
vừa có tráng, vừa đau thương lại vừa hào hùng. Thực chất “áo bào” vốn là chiếc áo
lính đã bạc màu, sứt chỉ thế nhưng qua lăng kính lãng mạn, nó đã trở thành chiếc áo
trang trọng che chở các anh nơi vĩnh hằng. Các anh ngã xuống nơi chiến trường
khốc liệt, một manh chiếu đắp cũng không có. Động từ “về” là một cách nói giảm, nói
tránh về cái chết khiến sự ra đi cũng những người lính bớt đi sự nặng nề, xót xa.
Ngày anh ngã xuống đơn giản chỉ là ngày anh kết thúc cuộc hành quân gian khổ để
về với đất mẹ, sự cống hiến của anh sẽ còn sống mãi với cuộc đời, thiên nhiên, cội
nguồn giống như lời thơ bất tử của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất

Trang 21
22 | #hocvancosuongmai

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất


Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(“Đất nước”- Nguyễn Đình Thi)
Đoạn thơ khép lại bằng tiếng gầm của Sông Mã khiến cho sự ra đi mang đậm
chất sử thi. Con sông Mã là chứng nhân của lịch sử, là người bạn đồng hành cũng
là người đồng đội trên chiến trường của những người lính đã nhỏ lệ tiễn đưa các
anh về với đất mẹ. “Khúc độc hành” vừa mạnh mẽ lại vừa xót thương tựa như lời
chào cuối cùng dành cho người bạn đã đi xa mãi. Một lần nữa, nhà thơ Quang Dũng
đã thể hiện chất hào hùng ngày từ sự hy sinh của những người lính trẻ, ở họ có bi
nhưng không bao giờ có lụy!
“Tây Tiến” giống như một bức tranh đủ màu sắc phác họa chân dung của
những người lính trẻ. Những hình ảnh giàu sức gợi đã khiến cho hiện thực thêm rõ
nét làm nổi bật hơn vẻ đẹp bất khuất, kiên trung của anh lính. Đoạn thơ sử dụng từ
ngữ tinh tế, lãng mạn và các từ Hán Việt đã đưa mạch cảm xúc lên xuống hợp tình

AI
hợp lý. Quả thực, Quang Dũng chính là một chàng nghệ sĩ đa tài, những dòng thơ
của ông chính là minh chứng cho tài kết hợp tinh tế, hài hòa của bút pháp hiện thực
với cảm hứng lãng mạn. Sự kết hợp cảm xúc tài tình đã làm cho bài thơ dẫu có gian

M
khổ, mất mát nhưng cũng tràn đầy niềm lạc quan, khỏe khoắn. Một thời đại chiến
tranh khói lửa đã đi qua, Quang Dũng không chỉ khắc họa trọn vẹn mà đặc biệt hơn
cả ông còn thành công trong việc dựng lên bức tượng đài bất tử về hình ảnh những
người lính vô danh. Bức tượng đài đấy sẽ sừng sững và hiên ngang trong trái tim
NG
con người Việt Nam, nhất định sẽ tồn tại mãi với cuộc đời.
Bức chân dung về người lính vô danh đã được nhà thi sĩ Quang Dũng viết
bằng những vần thơ chân thành, xao xuyến. Có lẽ, nhà phê bình Vũ Thu Hương đã
hoàn toàn đúng khi nhận định về hình tượng của người lính “không ai nhớ mặt đặt
tên” qua bài thơ “Tây Tiến “. Và không chỉ riêng Quang Dũng hay Vũ Thu Hương,
Ơ

dường như chẳng ai có thể lãng quên đi công lao, sự cống hiến bất tận của những
vị anh hùng đã ở mãi nơi chiến trường.

BÀI SỐ 3
Đề bài: Cho đoạn trích sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
("Tây Tiến" - Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ trên, từ đó nhận xét phong cách nghệ thuật
của nhà thơ Quang Dũng.

BÀI LÀM
Khi bàn về sức mạnh của thơ ca, nhà văn Mayakovsky đã từng viết: “Trên đời
có những thứ chỉ được giải quyết bằng thơ”. Quả thực, trong những tháng ngày
mưa bom bão đạn, chỉ có thơ ca mới đem toàn bộ đau đớn, tình cảm còn ứ nghẹn
Trang 22
23 | #hocvancosuongmai

ra bên ngoài. Người ta tìm đến thơ để phơi mình trong chất trữ tình, để đem cảm
xúc riêng tư hóa thành con chữ. Và Quang Dũng- nhà thơ mặc áo linh cũng đem
nghệ thuật hòa vào cảm hứng của thời đại với sự thành công khi viết về người lính.
Bài thơ “Tây Tiến” không chỉ ẩn chứa nét họa về người lính vô danh, một nỗi nhớ
miền Tây tha thiết mà còn là thi phẩm tiên phong cho lối viết phóng khoáng, hồn
hậu, tài hoa của thi nhân Hà Thành. Đặc biệt qua đoạn trích sau, người đọc càng
cảm nhận được rõ nét phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ Quang Dũng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Quang Dũng xuất thân là thanh niên tri thức của vùng đất Thủ đô. Ông là một
người nghệ sĩ đa tài khi bản thân vừa là họa sĩ, vừa là nhạc sĩ và cả thi sĩ. Chính vì
hoạt động ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật nên trong thơ ông bao giờ cũng thấp thoáng

AI
chất nhạc, chất họa một cách tinh tế. Khi kết hợp chất họa và chất nhạc với hồn thơ
phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ lãng mạn đầy lưu luyến ấy đã giữ
chân bạn đọc, mang sáng tác của mình vượt qua sự băng hoại của thời gian. Ở

M
“nhà thơ xứ Đoài mây trắng” mang cảm giác rất thu hút, rất riêng biệt. Văn Long-
“nhà thơ sống nhiều hơn một đời” nhận xét rằng: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một
cách hồn nhiên, ông cứ tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc
đáo”.
NG
Năm 1947, phân hiệu bộ đội “Tây Tiến” được thành lập để phối hợp với quân
đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm
Nứa. Quang Dũng đã gắn bó với binh đoàn qua những lần hành quân gian khổ, qua
những thiếu thốn và khó khăn nơi rừng thiêng nước độc. Tuy thời gian không lâu
nhưng cũng khiến ông mãi khắc ghi trong tim, để rồi không kìm được lòng mà viết
Ơ

nên bài thơ cùng tên với binh đoàn mà không cần sửa ý thơ nào. Ban đầu, thi phẩm
có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng do thấy cả bài thơ vốn dạt dào nỗi nhớ rồi nên chữ
“nhớ” dường như là thừa thãi. Hơn thế, đối với Quang Dũng, kỉ niệm về chiến dịch

ấy vẫn luôn hiện hữu từng ngày, miền kí ức đó đã trở thành một phần của cuộc
sống. Nếu đặt chữ “nhớ” vào lại vô tình đẩy nỗi nhớ ấy đi xa hơn, không còn sự cô
đọng và hàm súc nữa.
Trong giai đoạn văn học Cách mạng phổ biến, đã có thời điểm “Tây Tiến” bị
cấm lưu hành vì tác phẩm hàm chứa hồn thơ lãng mạn và những cảm xúc cá nhân.
Người ta cho rằng những điều ấy sẽ làm cho người lính sợ hãi, chùn bước trước
gian nan, thử thách. Tuy nhiên, ở một góc độ tích cực hơn, ta lại đem “cái bị bài trừ”
trở thành động lực thúc đẩy bước chân bộ đội thêm phần chắc chắn, mạnh mẽ. Họ
chiến đấu không chỉ vì khao khát độc lập, tự do; không chỉ vì lòng yêu nước và lý
tưởng cách mạng mà còn xông pha vì những mối tình đang còn dang dở hẹn thề, vì
những lời hứa của tuổi trẻ nhiệt huyết. Tất cả những giá trị trường tồn vĩnh cửu ấy
đã đưa “Tây Tiến” trở lại với nền văn học Việt và sống mãi cùng thời gian.
Bài thơ vốn được dệt nên từ nỗi nhớ nên ở bất cứ đâu ta cũng có thể thấy
Quang Dũng gửi gắm cảm xúc của mình vào từng con chữ, dù là thầm kín hay trực

Trang 23
24 | #hocvancosuongmai

tiếp. Những câu thơ bảy chữ vừa nghiêm trang, vừa phóng khoáng, lại thấp thoáng
một không khí bâng khuâng, hào hùng, ngập tràn kỉ niệm, đủ để thấy mối tình đậm
sâu với đoàn binh của tác giả.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ về cảnh núi rừng
miền Tây thân thuộc. Hai câu đầu đã tạo nên tiết tấu của một bản nhạc miên man,
vô tận trong nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hình ảnh “sông Mã” hiện lên trong tâm trí của người cầm bút mang theo một
tiếng gọi tha thiết về những ngày đã qua. Con sông ấy là chứng nhân lịch sử khi tận
mắt thấy những trận đánh quyết liệt của bộ đội ta. Bao nhiêu mưa bom, bão đạn,
bao nhiêu thân lính nằm xuống thì dòng sông ấy vẫn còn nhớ mãi. Nhưng trong tâm
tư của Quang Dũng, sông Mã còn là một người bạn đồng hành qua bao cuộc hành
quân của đoàn binh Tây Tiến. Nhớ về con sông cũng chính là nhớ về đồng đội “vào

AI
sinh ra tử”- những thanh niên đã gác bút nghiên theo việc binh đao. Thế nhưng họ
vẫn ra trận vì một nền độc lập quý giá, vì một lý tưởng chung cao đẹp. Được đặt
ngang hàng với dòng sông thiên nhiên chính là hình ảnh con người- đoàn binh Tây

M
Tiến. Câu thơ như vẽ ra hình ảnh người lính mặc áo xanh hòa cùng với cây cối của
thiên nhiên dìu dắt nhau qua từng chặng đường hành quân gập ghềnh, trắc trở. Hơn
thế, câu thơ còn gợi lên dụng ý thầm kín của nhà thơ áo lính về sức mạnh của con
người, nhất là người lính cụ Hồ, họ sẽ không vì thiên nhiên gầm thét mà lui về,
NG
ngược lại họ là điểm sáng cho núi rừng Tây Bắc bạt ngàn. Hai hình ảnh trên cách
nhau bởi chữ “xa rồi” tạo nên một bức tường ngăn cách giữa quá khứ và hiện tại.
Cách nói ấy tạo nên sự hụt hẫng, da diết khó tả. Ngăn cách về thời gian thì chẳng
thể lội núi, vượt đèo để gặp lại nhau mà chỉ có thể giữ chặt nỗi nhớ ấy ở trong tim
của mình.
Ơ

Âm “ơi” kết thúc câu trên bắt vần với từ láy “chơi vơi” ở câu dưới làm cuộn
lên một cảm giác chênh vênh, trơ trọi. Vần “ơi” cất lên như một thanh âm của thế
giới hoài niệm, một vùng đất chỉ còn tồn tại trong tâm tưởng của tác giả. Cách gieo

vần độc đáo cùng với từ láy “chơi vơi” đã đưa câu thơ trở thành bản lề của đôi bờ
hư- thực. Nỗi nhớ được viết không rõ ràng, trong bao kỉ niệm ấy tác giả đang nhớ về
điều gì? Tuy không cụ thể hóa nỗi nhớ của mình thế nhưng Quang Dũng vẫn khiến
sự chông chênh cứ vương mãi trong lòng độc giả bằng cách gắn định danh “chơi
vơi” độc lạ. Ông không nhớ cái gì cụ thể, cũng chẳng cần ý thức để nhớ về điều gì
xa xôi vì cảnh vật và con người Tây Bắc vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí của chàng
nghệ sĩ Sơn Tây. Nỗi khắc khoải chơi vơi ấy ta cũng từng bắt gặp trong áng thơ của
ông hoàng thơ tình- Xuân Diệu:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(“Nhị hồ”)
Với Xuân Diệu, “chơi vơi” chính là tương tư, là đem nỗi lòng mình vượt không
gian vô hạn. Còn ở Quang Dũng thì lại là tiếng bật trong vô thức, từ một quá khứ

Trang 24
25 | #hocvancosuongmai

chứa chan kỷ niệm. Quả thực, cách gieo vần và ngụ ý trong từng con chữ rất sáng
tạo, độc đáo như lời nhà văn Vân Long đã nhận xét.
Và trong miền ký ức vô tận ấy, núi rừng miền Tây dường như đã để lại ấn
tượng sâu đậm với thi sĩ. Ở đất thủ có hồ Gươm, có đường làng nhưng trên vùng
cao toàn cây cối, những con dốc dựng thẳng cheo leo mới chính là chốn dừng chân
của binh đoàn. Nơi núi rừng dữ dội, hiểm huy ấy là nơi bộ đội Cụ Hồ chiến đấu hết
sức lực, quên mình vì an nguy của đồng bào. Là nơi những người chiến sĩ chia
nhau từng manh áo, miếng cơm, dành cho nhau nghĩa tình quý giá. Quang Dũng đã
điệp từ “nhớ” hai lần để khẳng định nỗi nhớ khắc khoải đậm sâu và ngắt câu theo
nhịp 4/3 để tạo nên khoảng lặng nghẹn ngào.
Chắc hẳn mỗi người chúng ta khi đọc những câu thơ chân thành này đều
phải thốt lên câu hỏi rằng làm sao mà người nghệ sĩ ấy lại đau đáu một miền kí ức
đến vậy. Để rồi ta chợt nhớ đến nhân vật trữ tình trong bài thơ “Ánh trăng” đã quên
mất khoảng thời gian “hồn nhiên như cây cỏ” trước cảnh sáng sáng lập lòe từ phố

AI
thị và chợt thức tỉnh khi “ngửa mặt lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng”. Không phải ai
cũng dễ dàng quên đi quá khứ, nhất là giai đoạn nặng tình nặng nghĩa của miền quá
vãng. Một phần của binh đoàn Tây Tiến vẫn luôn nhớ về chốn hành quân với những
người đồng đội thân thương của mình.

M
Vượt qua nỗi nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, “Tây Tiến” lại đưa chúng ta về
những cuộc hành quân gian khổ giữa núi rừng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
NG
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ tiếp vẫn xuất hiện những địa danh quen thuộc với đoàn binh, đó
là “Sài Khao”, “Mường Lát” tượng trưng cho đoạn kí ức mà họ từng gắn bó với
nhau. Đằng sau mỗi cái tên là những vùng đất chất chứa kỉ niệm dù vui hay buồn,
dù xót xa hay hạnh phúc. Việc nhà thơ đặt vào áng thơ của mình những địa danh
Ơ

có phần xa lạ với người miền xuôi như một cách khắc sâu hơn nhiệm vụ Cách
mạng, in đậm sứ mệnh “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Bản làng nơi vùng Tây
Bắc vừa heo hút, vừa lạnh lẽo. Sương mù giăng lối che lấp đường đi, như muốn trở

thành một hòn đá tảng đè lên đôi chân đã mỏi mệt của người lính. Nếu như trong lời
thơ của Tố Hữu với “Nhớ từng bản khói cùng sương” thật lãng mạn thì ở “Tây Tiến”
lại ánh lên vẻ nặng nề đến lạ. Bởi nó là thử thách, là hiện thực khốc liệt mà bộ đội
phải đối mặt, phải vượt qua dẫu đã sức cùng lực kiệt. Tính từ “mỏi” càng tô đậm
thêm sự rệu rã, mỏi mệt, đôi vai mang theo hành trang nặng nề như bị chùng xuống
bởi sương rơi ướt sũng. Thế nhưng, đoàn binh chỉ cảm nhận cái mệt của cơ thể chứ
không thấy cái mỏi trong tinh thần. Người lính trẻ vẫn bước đi trong màn sương, vẫn
can trường băng qua cánh rừng gồ ghề. Những thanh niên Hà thành vẫn lạc quan,
họ tìm trong nỗi gian truân ấy sự lãng mạn, trữ tình của hình ảnh “hoa về”
Có lẽ, hình ảnh “hoa” tượng trưng cho vẻ đẹp bồng bềnh của bông đuốc rực
sáng một góc rừng. Đuốc thắp lên dẫn đầu niềm niên và sức mạnh tinh thần, đồng
hành cùng đoàn binh dưới màn đêm trăng rọi. Ánh sáng vẫn còn cháy nghĩa là hy
vọng còn, mà hy vọng còn thì bộ đội Cụ Hồ không bao giờ dừng bước. Hoặc đó
cũng có thể là màu sắc rực rỡ của khóm hoa rừng đang tỏa hương. Nếu ai có dịp

Trang 25
26 | #hocvancosuongmai

đặt chân đến vùng đất miền Tây, hẳn cũng đã một lần ngắm nhìn vẻ đẹp của bông
hoa ban. Dường như vì Tây Tiến có những người trẻ, họ say mê nét đẹp của loài
hoa thế nên đã đem những đóa hoa ấy trở thành một điểm nhấn trên quãng đường
dài, để con đường hành quân chẳng còn mờ mịt. Dù hiểu theo cách nào, thì hình
ảnh “hoa” vẫn là một hình ảnh rất thơ và ngọt ngào. Phải chăng, hoa tượng trưng
cho những giây phút trữ tình, nhẹ nhàng nên Quang Dũng đã ghép nó với từ “về” để
tăng thêm sự ấm áp, gần gũi. Là một nhân chứng đi ra từ gian khổ, là người lính
bước chân ra chiến trường nên ông hiểu rõ khắc nghiệt của chiến tranh nhưng ông
không né tránh cảm hứng lãng mạn. Ngược lại, ông còn dùng chất trữ tình để thăng
hoa tâm hồn của mình.
Với bút pháp tả thực, Quang Dũng đã khắc họa một hiện thực khắc nghiệt mà
người lính phải trải qua mỗi ngày, khó khăn này chồng chất khó khăn kia, nhưng đâu
có khiên binh đoàn chật vật vì họ tiến về phía trước với màu cờ trong tim. Cách ngắt
nhịp 4/3 và 2/5 ở hai câu thơ như phác họa đường nét của ngoại cảnh, cho thấy

AI
được sự linh hoạt trong cách gieo vần của tác giả.
Tác phẩm “Tây Tiến” chính là phép khẳng định cho phong cách nghệ thuật
của người nghệ sĩ đa tài. Chính nét bút phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn đã giúp

M
Quang Dũng “kiến tạo bộ mặt” của riêng mình. Với xuất phát là tầng lớp trí thức trẻ
nên giọng thơ ông có phần trẻ trung, hóm hỉnh, lạc quan dẫu hiện thực có ác liệt thế
nào. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp cùng giọng điệu hào hùng, ông đã viết nên
áng thơ bi mà không lụy. Hơn hết, chất nhạc cùng chất họa cũng là điểm nhấn của
NG
những trang thơ đầy cảm xúc người nghệ sĩ này. Đó là lí do vì sao mà tờ báo “Văn
chương phương Nam” nhận xét rằng: “Nhà thơ Quang Dũng khu biệt, độc lập như
một ốc đảo cheo leo giữa trùng khơi thi ca và lẻ loi, hiu quạnh như một vì sao cô độc
trong không gian văn chương kháng chiến, nhưng là một người thơ tài năng hiếm
hoi, không khác chi một loài hoa lạ, ngan ngát hương rừng… Ông đáng được xem là
Ơ

ngòi bút thơ áo lính trữ tình tài hoa trong thi đàn dân tộc”
Khép lại “Tây Tiến” ta khép lại nỗi nhớ về một miền Tây Bắc, một binh đoàn
nghĩa tình cùng những kỉ niệm không thể có lần thứ hai. Bài thơ chính là tiếng lòng,

là lời “tuyên ngôn” cho những cảm xúc còn giấu kín. Quang Dũng đã thật tài ba và
sáng tạo khi viết thi phẩm bởi sự tài hoa và phong cách nghệ thuật độc đáo, đồng
thời góp phần tô đậm sức mạnh của thơ ca mà nói như Nhecrasov : “Trong tâm hồn
của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được”.

2. Bài phân tích 9+ về bài thơ “Việt Bắc” ( Tố Hữu)


3.
BÀI SỐ 1
Đề bài: Đọc đoạn trích sau:

- Mình về mình có nhớ ta?


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Trang 26
27 | #hocvancosuongmai

Mình về mình có nhớ không


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
(“Việt Bắc” – Tố Hữu)
Phân tích đoạn thơ trên, từ đó nhận xét ngòi bút trữ tình chính trị của nhà thơ.

BÀI LÀM
Trong bài thơ “Tạm biệt”, Tố Hữu viết:
“Xin tạm biệt đời yêu quý nhất

AI
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường tro gửi đất
Sống là cho, chết cũng là cho”

M
Phải chăng, đó là tâm nguyện của những nhà thơ, nhà văn, người trọn đời đã
hiến dâng tài năng cho Tổ quốc, cho Đảng và nhân dân? Văn chương, thơ ca chính
là sự kết tinh vẻ đẹp của thời đại. Âm vang của lịch sử dường như đọng lại đẹp
nhất, rực rỡ nhất qua những trang văn, trang thơ. Chiến tranh đã qua đi, bụi thời
NG
gian phủ dày lên chiến trường, lên bia mộ những anh hùng. Nhưng văn học nghệ
thuật bằng sứ mệnh thiêng liêng của mình đã tái hiện và khắc sâu những hình ảnh
oanh liệt thời khói lửa ấy. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi sự kiện cách mạng qua đu lại để
lại vô số hoài niệm, lưu luyến cho các tác phẩm văn chương. Và khi nhắc đến nhà
thơ của thời đại, của cách mạng ta phải nhắc đến tên tuổi của Tố Hữu. Hầu hết các
Ơ

tác phẩm của ông luôn song hành cùng cách mạng. Một trong những tác phẩm tiêu
biểu nhất của ông là bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã tái hiện chân thực kỷ niệm cách
mạng và nỗi nhớ da diết của kẻ ở người đi qua những lượt lời hỏi đáp giữa cán bộ
về xuôi và nhân dân Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy đặc biệt được thể hiện qua đoạn thơ như

một lời nhắc nhở ở đầu tác phẩm, qua đó ta thấy được ngòi bút trữ tình chính trị
sâu sắc của nhà thơ:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
……
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…?”
Thơ Tố Hữu là dòng thơ trữ tình chính trị. Cái tôi trữ tình trong thơ ông ngay
từ đầu đã là cái tôi chiến sĩ (Từ ấy), càng về sau càng xác định là cái tôi nhân danh
đảng, nhân danh dân tộc (Ta đi tới). Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ
vững chắc của bộ đội ta trong kháng chiến chống Pháp. Tại nơi đây,người dân Việt
Bắc đã che chở. đùm bọc cho Đảng, kề vai sát cánh cùng bộ đội ta. Sau chiến thắng
lịch sử Điện Biên Phủ (1954), hiệp định Giơnevơ được ký kết, một trang sử mới của
đất nước được mở ra. Tháng 10/1954, các cơ quan của trung ương Đảng và chính
Trang 27
28 | #hocvancosuongmai

phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Cuộc sống thay đổi có tính bước ngoặt: từ
chiến tranh sang hòa bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao băn khoăn, trăn trở về
tấm lòng son sắt, thủy chung nơi những người từng được đùm bọc, che chở, bao
lưu luyến với những tấm lòng “đồng cam cộng khổ”, “chia ngọt sẻ bùi”, những bâng
khuâng thương nhớ của kẻ ở người đi đã tuôn trào ra.
Khổ thơ đầu tiên của Việt Bắc là một bằng chứng trong thơ ca có họa (thi
trung hữu họa). Bốn câu thơ trong khổ thơ chính là lời nhắn nhủ của người ở lại,
khơi gợi những kỉ niệm nghĩa tình. Trong đó, ở hai câu thơ đầu tiên ta bắt gặp
những nỗi nhớ về thời gian:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Dấu “-” ở đầu đoạn trích như đánh dấu lượt lời mới, mở đầu cho cuộc đối
thoại của kẻ ở người đi. Nó khiến lời thơ như có chất văn xuôi, như một câu chuyện
kể tuần tự từng lượt thoại của các nhân vật. Trước khoảnh khắc chia tay đầu lưu

AI
luyến ấy, đồng bào đã không thể kiềm nổi mà kết thành một câu hỏi. Đó là một câu
hỏi tu từ, một câu hỏi như sự trăn trở không biết rằng cán bộ khi về tới thủ đô rồi liệu
có nhớ đến họ hay không. Câu hỏi này vốn dĩ đã không cần câu trả louwf. Nó như

M
một cách để nhân dân Việt Bắc bày tỏ nỗi nhớ nhưng, quyến luyến một đoạn tình
cảm sắp rời xa. Tác giả tiếp tục đề cập đến nỗi nhớ qua cụm từ chỉ thời gian “Mười
lăm năm ấy”, vừa là một danh từ chỉ thời gian vừa là một cụm danh từ để ấp êm
những hoài niệm. Mười lăm năm là một con số cụ thể, ấy vậy mà Tố Hữu lại dùng
NG
nó với từ ngữ mang tính phiếm chỉ “ấy”. Đó là khoảng thời gian gắn bó với biết bao
ân tình của nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng (từ 19401954). Từ “ấy” như mở
ra một miền cảm xúc dạt dào khiến con người trở nên mơ hồ và xúc động trước sự
chảy trôi vô tình của thời gian, khiến cho khoảng thời gian vốn đã gắn bó nay càng
trở nên lãng mạn. Và dường như con số “mười lăm năm” không khó để chúng ta có
Ơ

thể bắt gặp trong văn chương:


“Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”

Con số ấy đã từng được nhắc đến trong “Truyện Kiều”. Cũng là mười lăm
năm, cũng biết bao tình nghĩa, các tác giả đều muốn nhắn nhủ rằng: càng gắn bó
lâu, con người ta càng day dứt khi phải nói lời tạm biệt
Ở hai câu tiếp theo, nhân dân dường như muốn nhắc đến cảm xúc gắn bó và
nỗi nhớ trong không gian thiên nhiên Việt Bắc:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Tác giả sử dụng điệp từ “nhìn”, “nhớ” thể hiện nỗi nhớ bao trùm cả không
gian luôn tha thiết, thường trực trong lòng người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở
người đi về tình cảm của người ở lại. Liệu về với Hà Nội của đèn đường, của phố
thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây liệu có khiến người quên đi
không? Với những hình ảnh được liệt kê “cây”, “núi”, “sông”, “nguồn”,.. Tố Hữu như
lồng vào đó ý tứ của câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” bên cạnh việc khắc họa
hình ảnh núi rừng thân thương nơi Việt Bắc.

Trang 28
29 | #hocvancosuongmai

Qua bốn câu thơ đầu tiên, người đọc thấy được cách sử dụng linh hoạt,
nhuần nhuyễn lối xưng hô mình ta của tác giả. Trong ca dao Việt Nam, “mình ta”
như kucs hát ví dặm của người ở người về, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Ta có
thể bắt gặp lối xưng joo này trong rất nhiều ca dao Việt Nam:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Hay:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ”
Sáng tạo của Tố Hữu đã diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ trở
nên gần gũi thân thiết. Cũng bởi quá thân thiết nên những người ở lại nơi núi rừng
ai cũng bồi hồi, lo lắng mình sẽ bị lãng quên giữa muôn vàn niềm vui nơi thủ đô hoa
lệ kia. Đó có lẽ cũng là câu trả lời cho câu hỏi vì sao “Việt Bác” bắt đầu bằng lời của
người ở lại chứ không phải của người ra đi? Phải chăng là người ra đi sẽ ít day dứt

AI
hơn khi bước về phía trước với bao điều mới mẻ đang chờ đón, còn người ở lại sẽ
khắc khoải nơi chốn cũ, sẽ mãi ôm bóng hình của những khung cảnh cũ, đau đớn
khôn nguôi. Hay người ở mở lời trước vì họ sợ bị lãng quên, khi thời gian qua đi,

quên ấy trong thơ của Nguyễn Duy:


“Từ hồi về thành phốM
người vì niềm vui chốn xa kia mà bỏ lại ta ở ngày xưa cũ. Ta từng bắt gặp sự lãng

Quen ánh điện cửa gương


NG
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”
Khi con người trở về với phố thị, ánh trăng thủy chung, cái ánh trăng “hồn
nhiên như cây cỏ” cũng hóa “người dưng qua đường”. Nỗi lo lắng của người ở
không phải không có căn cứ; thậm chí nó còn là một biểu hiện tâm lí thường gặp:
Ơ

nỗi lo âu bị quên lãng khi ly biệt.


Tố Hữu từng nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”. Tác
giả là người mang tâm trạng của người ra đi, chính từ những niềm thương, những

lưu luyến với đồng bào Việt Bắc đã trào ra trong tim mà thi nhân đã viết nên những
lời đáp của cán bộ về xuôi ở khổ thơ thứ hai:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
“Đi” chính là người ở lại. Với đại từ phiếm chỉ “ai”, tác giả như xóa mờ đôi
chút bóng hình người ở lại. Dụng ý nghệ thuật ấy đã tô đậm thêm nỗi nhớ nhung,
luyến tiếc trong lòng người cán bộ về xuôi. Ta còn bắt gặp được điểm sáng nghệ
thuật qua từ láy “tha thiết”. Ông đảo lại từ
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Trang 29
30 | #hocvancosuongmai

Họ cầm tay nhau trong không khí bịn rịn, nghẹn ngào mà “không nói nên lời”.
“Biết nói gì hôm nay” không phải là không có gì để nói mà là có quá nhiều điều
nhưng lại như nghẹn lại, như bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt. Dấu ba
chấm cuối khổ thơ xuất hiện như một nốt nhạc ngân dài sự lưu luyến, tình cảm cứ
nối tiếp tình cảm…
“Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong”
(“Bao giờ trở lại “- Hoàng Trung Thông)

Trong những bài thơ về kháng chiến, chúng ta bắt gặp không ít những dòng
thơ thấm đẫm tình quân dân. Tố Hữu một chiến sĩ cách mạng luôn lồng ghép vào
thơ ông không khí cách mạng và những sự kiện lịch sử. Song chúng không khô

AI
khan mà lại vô cùng tha thiết, dịu dàng. Tố Hữu với ngòi bút trữ tình chính trị đã biến
sự kiện lịch sử năm 1954 ấy thành một thời khắc sâu sắc và quyến luyến giữa quân
và dân. Thơ ca chính là nơi nuôi dưỡng tình cảm, giáo dục luân lí và truyền tụng đạo

M
đức. “Việt bắc” bằng ngòi bút trữ tình chính trị của nhà văn đã thành công mang đến
cho người đọc kiến thức lịch sử, chính trị thời cuộc mà thắm tình, đẫm lệ vô cùng.
Bài thơ “Việt Bắc” để lại ấn tượng bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt
Bắc. Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ
NG
tâm tình cùng các biện pháp tu từ hoán dụ, điệp ngữ,... Tố Hữu đã mang đến cho
người đọc sự khâm phục tinh thần bất khuất, đoàn kết giữa một thời khói lửa hào
hùng đã qua. Quả thật không sai “Thái độ toàn tâm toàn ý với Cách mạng là nguyên
nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố Hữu”.
Chế Lan Viên từng nhận xét thơ Tố Hữu: “Thơ anh mà ru người trong nhạc,
Ơ

vừa thức người bằng ý”. Những trang thơ “Việt Bắc” không chỉ thu hút chúng ta bởi
sắc điệu trữ tình mà còn chín bằng tình cảm con người trong chiến tranh bom đạn.
Tố Hữu vừa làm cách mạng, vừa làm thư. Làm thơ để phục vụ cách mạng, làm cách

mạng để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp,
Tố Hữu đã tạo nên một thế giới trong kiệt tác của mình. Những vần thơ ấy biết bao
gian khổ, nhưng rất đời, rất tình ở Việt Bắc. Mà nói như Hoài Thanh “văn chương
gây cho ta những tình cảm ta không có và luyện những tình cảm ta sẵn có”

BÀI SỐ 2
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh
tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình
cảm và trái tim trần.”
Hãy phân tích 8 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc” (Tố Hữu) để làm rõ nhận định
trên.
BÀI LÀM

Trang 30
31 | #hocvancosuongmai

Khi bàn về thơ, Tố Hữu đã bày tỏ quan điểm của mình: “Thơ chỉ bật ra khi
trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Đúng vậy, thơ là nơi dừng chân của tâm hồn thi
sĩ, nó phản ánh cuộc sống, con người để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng
của mình. Hay nói cách khác mỗi bài thơ như tấm gương phản chiếu tâm hồn thi sĩ.
Ta biết đến Tố Hữu với phong cách thơ khác lạ mà như Chế Lan Viên cho rằng:
“Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố
Hữu, anh chỉ dụng dụng tình cảm và trái tim trần”. Được mệnh danh là “cánh chim
đầu đàn của thơ ca Cách mạng Việt Nam”, “Việt Bắc” là một thi phẩm đặc biệt trong
sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và là một minh chứng tiêu biểu cho nhận định của
Chế Lan Viên, đặc biệt ở 8 câu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

AI
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li

M
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Trong lời nhận định của Chế Lan Viên, ông nói về sự đa dạng trong phong
cách sáng tác của mỗi người nghệ sĩ. “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà
thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo”. Nhưng có lẽ, mục đích chính là Chế Lan Viên muốn
NG
đề cao phong cách độc lạ của Tố Hữu, khi tác giả này làm thơ “chỉ sử dụng tình cảm
và trái tim trần”. Nhận định của Chế Lan Viên muốn khen ngợi con người nội tâm
của Tố Hữu- sống tình cảm và điều đó được thể hiện ngay trong các tác phẩm của
ông. “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa
nhận cái chết (Saltykov Shchedrin). Vậy điều gì đã làm cho các tác phẩm văn học
Ơ

nói chung và thơ ca nói riêng trở nên bất tử, ở tài năng hay tấm lòng của người cầm
bút? Và phải chăng yếu tố cốt lõi để thi sĩ viết nên một tác phẩm nghệ thuật chính là
bắt nguồn từ tình cảm chân thành của tác giả. Thi sĩ không thể làm thơ khi trong tâm

không có cảm xúc, đó phải là một thứ tình cảm mạnh mẽ thôi thúc họ viết nên con
chữ để gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình. Cảm xúc trong thơ phải chân
thành, sâu lắng để độc giả có thể đồng cảm được, khi đó những vần thơ mới thực
sự giá trị. “Việt Bắc” của Tố Hữu chính là một tác phẩm như thế.
Tố Hữu là một người thi sĩ làm cách mạng, một nhà cách mạng làm thơ. Khi
được giác ngộ lí tưởng cách mạng, ông đã thực sự xác định được hướng đi cho
mình. Tố Hữu như một “thư kí trung thành của thời đại” bởi những chặng đường thơ
của ông đều gắn với những sự kiện cách mạng lịch sử. Ông đã dành cả đời mình để
phục vụ cho công cuộc cách mạng. “Việt Bắc” là kết quả của những cảm xúc lưu
luyến khi Tố Hữu cùng cán bộ cách mạng rời xa căn cứ Việt Bắc về Hà Nội sau
mười lăm năm gắn bó. Đó là khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi,
hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết và hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Bằng tình
cảm mến thương của mình, Tố Hữu đã cho ra đời “Việt Bắc” để lưu lại những kỉ
niệm đẹp suốt quãng thời gian gắn bó. Trong đó 8 câu thơ đầu là khung cảnh chia

Trang 31
32 | #hocvancosuongmai

tay giữa người dân Việt Bắc và các cán bộ cách mạng với nhiều cung bậc cảm xúc
đan xen lẫn lộn.
Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng đã đồng hành, giúp đỡ những cán bộ và
chiến sĩ trong thời kì chống Pháp. Mảnh đất ấy tuy vất vả, nghèo khó nhưng giàu
tình nghĩa, nơi đây đã đùm bọc và che chở cho bộ đội, cán bộ trong suốt những
năm tháng kháng chiến gian nan. Chính vì thế mà khi phải rời xa vùng đất đã gắn bó
và thân thuộc, một loạt câu hỏi được đặt ra rằng liệu những người ở lại có nhớ
những ngày tháng đồng cam cộng khổ trong kháng chiến? Liệu những người ra đi
về với nơi phồn hoa đô hội có còn giữ tấm lòng thủy chung với Việt Bắc hay không?
Mở đầu bài thơ, người ở lại cất lên câu hỏi băn khoăn để khơi gợi lại những năm
tháng gắn bó đã qua trong khung cảnh chia tay bịn rịn:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Đọc những câu thơ đầu tiên, ta đã thấy phảng phất âm hưởng của câu ca

AI
dao tình yêu thuở trước:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”
Hay:

M
“Mình về có nhớ ta chăng
Ta về nhớ nhớ hàm răng mình cười”
Tố Hữu đã rất tinh tế khi mượn lời đối đáp quen thuộc mình-ta của ca dao
NG
dân gian để thể hiện tình nghĩa đong đầy của người ở lại. Trong câu hỏi thứ nhất
“Mình về mình có nhớ ta”, “mình” chỉ người ra đi, “ta” chỉ người ở lại. Liệu mình đi rồi
có còn nhớ đến những người ở lại, có còn nhớ “mười lăm năm ấy”. Đó là mười lăm
năm “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”, là quãng thời gian ta với mình “Thương
nhau, chia củ sắn lùi/ Bát cơ sử nửa, chăn sui đắp cùng”. Từ “ấy” được tác giả sử
Ơ

dụng đã làm tăng thêm tính cá nhân hóa của kỉ niệm, những cảm xúc “thiết tha mặn
nồng” của khoảng thời gian ấy càng nhấn mạnh thêm tình cảm keo sơn giữa người
dân Việt Bắc với cán bộ cách mạng.

Câu hỏi thứ hai của người ở lại đã hướng tới không gian nguồn cội:
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Câu thơ tám chữ đan xen hình ảnh cây- sông của miền xuôi và hình ảnh núi-
nguồn của miền núi. Người ở lại băn khoăn rằng khi cán bộ về xuôi nhìn cây liệu có
nhớ đến núi Việt Bắc, nhìn sông có nghĩ về cội nguồn hay không? Điệp từ “nhìn”,
“nhớ” được nhắn lại hai lần muốn nhắc nhở đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Cho dù
hoàn cảnh có đổi thay thì tấm lòng sắt son, thủy chung cũng không thể phai mờ.
Người ra đi khi về miền xuôi xin đừng quên Việt Bắc- “Quê hương cách mạng dựng
nên Cộng hòa”.
Người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng bao cảm xúc
của họ đã được giãi bày qua bốn câu thơ tiếp:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Trang 32
33 | #hocvancosuongmai

Áo chàm đưa buổi phân li


Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Đại từ phiếm chỉ “ai” làm cho câu thơ có chút mơ hồ, không rõ đối tượng
được nhắc đến, “tiếng ai” phải chăng là tiếng lòng của người ở lại nhưng cũng chính
là sự đồng vọng trong tâm tư người ra đi. Âm thanh “tha thiết” gợi ra bao ân tình, trìu
mến, đó là thứ cảm xúc cánh cánh trong lòng, là sự khắc khoải khôn nguôi. “Bâng
khuâng” , “bồn chồn” hai từ láy gợi tả trạng thái cảm xúc hỗn độn với một chút
thương, một chút nhớ, một chút bồi hồi, một chút bịn rịn. Tất cả những cảm xúc ấy
dường như đều đang chồng lấn lên nhau trong lòng người ra đi. Lòng người “bâng
khuâng”, “bồn chồn” khiến bước chân đi cũng trở nên lưu luyến chẳng muốn rời.
Hình ảnh “áo chàm” ở câu thơ tiếp theo là hình ảnh hoán dụ kéo lấy dấu hiệu của sự
vật để chỉ sự vật, lấy bộ phận để chỉ toàn thể. “Áo chàm” là trang phục đặc trưng của
người dân Việt Bắc, là đại diện cho những người ở lại. Màu áo chàm là màu của
những con người Việt Bắc mộc mạc, giản dị, lam lũ và cũng rất thủy chung, nghĩa

AI
tình với cách mạng và với kháng chiến.
Trước giây phút chia li, họ chỉ biết “cầm tay nhau” xao xuyến trong không khí
lặng im “biết nói gì hôm nay”. Không phải họ không có gì để nói mà là có quá nhiều

M
điều muốn nói cho nên giây phút ấy mới nghẹn ngào không biết bắt đầu mở lời từ
đâu. Quãng thời gian mười lăm năm không phải ngắn, giữa họ có biết bao kỉ niệm
không thể kể hết. Ngôn từ bất lực trước giây phút cảm xúc dâng trào và chỉ “cầm
tay” thôi là đủ rồi. Cái cầm tay ấy là biểu hiện cho tình keo sơn bền chặt, để truyền
NG
cho nhau tình cảm. Ta cũng bắt gặp cái nắm tay nhau của những người lính để
truyền cho nhau hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Ơ

Chân không giày


Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(“Đồng chí”- Chính Hữu)

Người lính Cụ Hồ nắm tay nhau để truyền động lực vượt qua khó khăn, khắc
nghiệt. Còn người dân Việt Bắc và các cán bộ cách mạng cầm tay nhau để gắn kết
tấm lòng son sắc, thủy chung đầy xúc động , xao xuyến. Dấu ba chấm cuối câu như
một nốt nhạc ngân dài cho cảm xúc lưu luyến trào dâng trong lòng cứ thế kéo dài
mãi.
Mạch cảm xúc xuyên suốt đoạn trích là nỗi xao xuyến, bồn chồn không nỡ rời
xa giữa cán bộ cách mạng và người dân Việt Bắc nghĩa tình mộc mạc. Để có được
những vần thơ đong đầy cảm xúc như thế, không thể không xuất phát từ những cảm
xúc chân thành của Tố Hữu, đó chính là “tình cảm và trái tim trần” mà Chế Lan Viên
muốn nói tới. Tuy nhiên, cái tâm luôn phải đi đôi với cái tài mới có thể làm nên giá trị
đích thực cho một tác phẩm. Cái tâm của Tố Hữu đã được tô điểm thêm bằng tài
năng qua cách ông sử dụng từ ngữ cô đọng, kết hợp với các biện pháp tu từ, đặc
biệt là thể thơ lục bát truyền thống cùng lối đối đáp mình-ta làm cho cuộc chia tay

Trang 33
34 | #hocvancosuongmai

chính trị lưu luyến như cuộc chia tay của lứa đôi, qua đó nhấn mạnh sự khăng khít,
mặn nồng giữa người đi và kẻ ở.
Nhà thơ Bằng Việt cho rằng: “Tiêu chuẩn vĩnh cửu của nhà thơ là tình cảm”.
Để làm nên một tác phẩm chân chính, chắc chắn người nghệ sĩ phải có cảm xúc
xuất phát từ trái tim. Và Tố Hữu là một người như vậy, ông dồn bút lực của mình chỉ
để “viết cho hết cái lí tưởng cộng sản” bằng một tấm lòng yêu nước thiết tha. Với
giọng điệu tâm tình và cảm hứng lãng mạn, “Việt Bắc” sẽ sống mãi trong lòng người
đọc, gợi về một thời kì lịch sử với biết bao kỉ niệm gắn bó giữa người đi, kẻ ở nơi
căn cứ địa kháng chiến chống Pháp hào hùng.

BÀI SỐ 3

Đề bài: Nêu cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

AI
“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

M
Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”


NG
(Việt Bắc – Tố Hữu)

Từ đó, liên hệ với đoạn thơ trong “Tây Tiến" (Quang Dũng):

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Ơ

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

BÀI LÀM

Chế Lan Viên từng viết :

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn!”

Trang 34
35 | #hocvancosuongmai

Từ xưa đến nay, “nỗi nhớ” luôn là nguồn cảm hứng mãnh liệt của biết bao thi
nhân. “Nỗi nhớ” chính là tác nhân thúc đẩy những cảm xúc, những rung động mạnh
mẽ từ sâu bên trong trái tim. Đúng như Tố Hữu từng nói: “Thơ chỉ trào là khi trong
tim cuộc sống đã ứ đầy”. Chính nỗi nhớ làm đầy ắp , thậm chí tràn ngập những tình
cảm bên trong những người nghệ sĩ để họ tạo nên những công trình vĩ đại. Và có lẽ
vì thế mà Tố Hữu đã gửi gắm hết những tâm tư, tình cảm và nỗi nhớ của mình đối
với chiến khu Việt Bắc qua bài thơ “Việt Bắc”. Đặc biệt, nỗi nhớ đong đầy, mãnh liệt
nhất được thể hiện qua khổ thơ sau :

“ Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

AI
Sớm khuya bếp lửa, người thương đi về .”

Tố Hữu được coi là “ cánh chim đầu đàn “ của nền thơ ca cách mạng Việt

M
Nam. Ông dùng ngòi bút của mình như thứ vũ khí để chiến đấu và “bay theo đường
dân tộc đang bay” ( Chế Lan Viên ). Là một nhà thơ luôn hướng đến “ lẽ sống lớn,
tình cảm lớn”, cống hiến hết mình vì sự nghiệp của dân tộc. Thơ của Tố Hữu chủ
yếu khai thác các vấn đề chính trị nhưng không chỉ là các sự kiện lịch sử khô khan
NG
mà còn là “ tiếng lòng của người cầm bút”. Vì thế, Xuân Diệu mới cho rằng “Tố Hữu
đã đưa thơ chính trị lên rất đỗi trữ tình”. Và “Việt Bắc” là một tác phẩm như thế. Bài
thơ được sáng tác năm 1954, khi các cơ quan, cán bộ rời khỏi thủ đô gió ngàn để
trở về thủ đô ánh sáng, Hà Nội. Thi nhân viết tác phẩm để lưu giữ lại khoảnh khắc
đáng nhớ. Đồng thời bày tỏ tình cảm, nỗi nhớ với chiến khu thân thương đã gắn bó
Ơ

bấy lâu. “Việt Bắc” còn là một thước phim quay chậm mang ta trở về với quá khứ
nghĩa tình, chạm vào một mảng kí ức, một góc nhỏ trong tim của cán bộ về xuôi
cũng như nhân dân Việt Bắc.

Khổ thơ trên như một bức tâm thư của thi nhân về nỗi nhớ dành cho thiên
nhiên nơi thủ đô gió ngàn lắm vất vả nhưng chan chứa tình nghĩa. “Nỗi nhớ người
yêu” là nỗi nhớ vô cùng khắc khoải, thường trực trong trái tim mỗi người đang yêu.
Có lẽ vì thế mà Xuân Quỳnh cũng từng tâm sự rằng :

“ Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức “

Đó là một nỗi nhớ khiến con người ta thao thức, đắm say. Nhà thơ Tố Hữu đã
rất khéo léo khi so sánh nỗi nhớ của mình với nỗi nhớ người yêu để làm bật lên
Trang 35
36 | #hocvancosuongmai

những xúc cảm mạnh mẽ. Qua đó, ông cho người đọc thấy được tình cảm sâu đậm
mà ông dành cho mảnh đất đau thương nhưng anh dũng vô ngần này. Nỗi nhớ
không chỉ trở nên sâu đậm mà còn thiêng liêng, cao cả. Những người dân Việt Bắc
luôn luôn giúp đỡ, sẵn sàng chia sẻ miếng cơm, manh áo cho bộ đội. Có thể nói,
câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” tác giả đã sử dụng phép tiểu
đối giữa khung cảnh cao vút của bầu trời và ánh nắng vàng dưới nương ngô. Điều
đó làm bật lên nỗi nhớ da diết, kéo dài cả ngày lẫn đêm. Ánh trăng là biểu hiện của
ánh sáng nghĩa tình, gắn bó, mang đến cho người đọc cảm giác bồi hồi, nhớ
thương. Ta cảm giác được hòa mình vào cảnh sắc nơi đây để tận hưởng, cảm nhận
về miền kí ức đã xa. “Nắng chiều lưng nương” là màu vàng óng ả của những ruộng
lúa, bã ngô. Thể hiện một vụ mùa bội thu, một năm sản xuất thành công. Mặt khác,
những hình ảnh “trăng” và “nắng” ấy cũng gợi lên một không khí bình yên, êm ả, ấm
áp khiến ta có thể sống chậm lại để trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại. Tất cả
hòa quyện tạo nên một nỗi nhớ lớn lao, sâu sắc vượt lên cả không gian, thời gian

AI
thậm chí vượt qua cả quy luật của tạo hóa

Nỗi nhớ khắc khoải ấy không chỉ tồn tại cùng với ánh “trăng” và “nắng chiều”

M
mà còn gắn với “những bản khói cùng sương”. Điều đó tạo nên một không gian bình
dị, thơ mộng khiến ta đắm say. Nhà thơ da diết nhớ về từng chi tiết, từng sự vật, con
người nơi đây. Mọi thứ đều như khắc sâu trong tâm thức của thi nhân để rồi trào ra
qua những vần thơ đầy lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ còn tạo nên một bức tranh đồng
NG
quê chân thực, mộc mạc. Tác giả như dẫn người đọc đi tham quan vùng đất mà ông
đã gửi gắm biết bao niềm thương, nỗi nhớ. “Việt Bắc” trong Tố Hữu còn hiện lên qua
hình ảnh bếp lửa. “Bếp lửa” là biểu tượng cho những gia đình Việt Nam, những gì
thân thuộc, gần gũi nhất. Nó là thứ đã sưởi ấm con người trong những đêm đông
giá rét nơi thiên nhiên hùng vĩ nhưng có phần khắc nghiệt. Ta cũng từng bắt gặp
Ơ

hình ảnh này trong lời thơ da diết của Bằng Việt. Bếp lửa là nơi ấm cúng, chứa chan
tình cảm gia đình, là tình yêu thương thắm thiết giữa người với người. Những lúc
các cán bộ và người dân Việt Bắc cùng quây quần bên bếp lửa và những cuộc trò

chuyện thân mật có lẽ đó là kí ức tươi đẹp mà ai dù đã rời xa chốn cũ cũng sẽ


không bao giờ quên. Nỗi nhớ luôn thường trực từ sáng sớm đến tận khuya, hiện
hữu trong bóng dáng người thương nồng đậm, ân tình.

Cùng viết về nỗi nhớ nơi chiến trường xưa cũ, Quang Dũng cũng có đoạn thơ
sau :

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Trang 36
37 | #hocvancosuongmai

Đều là những nỗi nhớ khắc khoải về thiên nhiên Tây Bắc. Một thiên nhiên
hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng nguy hiểm vô lường. Giống với Tố Hữu, Quang Dũng
cũng khắc ghi từng khung cảnh, địa điểm mà nhà thơ đã từng đi qua. Là nỗi nhớ
luôn trực chờ, tha thiết. Từ “ơi” thể hiện tiếng gọi đầy xúc cảm và tràn trề như “nỗi
nhớ người yêu” trong Việt Bắc. Chỉ với một từ ngữ, nhà thơ đã bộc lộ hết cả tấm
lòng của mình dành cho thiên nhiên nơi đây. Một nỗi nhớ “chơi vơi”, vô định. Có lẽ vì
nỗi nhớ quá lớn đến nỗi không thể diễn tả bằng lời. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã
tái hiện cho bạn đọc về cảnh sắc đẹp đẽ trên con đường hành quân “Mường Lát hoa
về trong đêm hơi”. Cuộc hành quân không chỉ có những khó khăn gian khổ mà còn
có những giây phút bình yên ngắm nhìn trong cảnh xung quanh.

Bằng tài năng và tình cảm sâu sắc dành cho vùng đèo cao Tây Bắc, Tố Hữu
đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc mộc mạc, giản dị, gần gũi. Giọng thơ ngọt
ngào, tha thiết, tâm tình mang đến cảm giác thân thuộc, gắn bó và khơi gợi nguồn

AI
cảm xúc nơi độc giả. Thi phẩm là khúc tình ca về nỗi nhớ mà nhà thơ gửi gắm đến
chiến khu Việt Bắc và người dân nơi đây. Đồng thời, thi nhân muốn bày tỏ tấm lòng,
sự hiến dâng cho Tổ quốc cách mạng.

M
Khép lại tác phẩm nhưng những dư âm về nỗi nhớ vẫn còn mãi trong lòng
bạn đọc. Từ đó, tác phẩm nhắc nhở thế hệ mai sau phải luôn biết khắc ghi, nhớ ơn
những công lao to lớn của ông cha ta. “Việt Bắc” sẽ luôn sống mãi với thời gian và
NG
ghi dấu ấn đậm nét với mỗi thế hệ bạn đọc. Đặc biệt, tác phẩm một lần nữa khẳng
định tấm lòng kiên trung với Đảng và sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Đúng như nhà thơ từng nhận định :

“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ


Ơ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu.”


BÀI SỐ 4

Đề bài: Cho đoạn thơ sau:

“-Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Trang 37
38 | #hocvancosuongmai

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”

("Việt Bắc" - Tố Hữu)

Phân tích đoạn thơ trên, từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thi phẩm của Tố
Hữu.

BÀI LÀM
“Chín năm làm một Điện Biên

AI
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
Trong dòng lịch sử, mảnh đất Tây Bắc- Điện Biên được coi là quê hương của

M
những cuộc kháng chiến cứu quốc, quê hương của biết bao người anh hùng, mảnh
đất trung du và miền núi phía Bắc trĩu nặng ân tình, khiến ai từng đặt chân đến đều
cảm mến, bồi hồi, đều để đau đáu niềm thương, nỗi nhớ khi phải nói lời tạm biệt. Tố
Hữu cũng không phải là ngoại lệ. Đã có khoảng thời gian gắn bó sâu sắc với chiến
NG
khu Việt Bắc, nhà thơ mặc áo lính đã không khỏi bịn rịn trong giờ phút chia tay, để
rồi thi phẩm “Việt Bắc” ra đời như đặt trọn nỗi niềm trong từng lời thơ, con chữ.
“Việt Bắc” không chỉ thấm đẫm nghĩa tình mà còn là bản hùng ca bi tráng về những
con người hiên ngang, bất khuất, luôn hết lòng vì lý tưởng vĩ đại của dân tộc. Đoạn
trích dưới đây không chỉ khắc họa khoảnh khắc chia ly đầy lưu luyến mà còn thể
Ơ

hiện được rõ tính dân tộc trong thi phẩm của nhà thơ:
“-Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Trong thời kì văn học cách mạng, nhà thơ Tố Hữu là “lá cờ đầu của thơ ca
cách mạng Việt Nam”. Ông là nhà thơ mặc áo lính với những lý tưởng cao đẹp,
hồn thơ luôn hướng về cái ta chung với lẽ sống lớn, niềm vui lớn của con người,
Trang 38
39 | #hocvancosuongmai

cách mạng và cả dân tộc. Tố Hữu còn là nhà thơ “trữ tình chính trị” , hai kiểu thơ
này vốn ngược nhau nhưng khi được ông quyện hòa với nhau nó đã tạo nên những
áng thơ lay động trái tim bao độc giả qua từng thế hệ. Như Xuân Diệu đã từng nói
“Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên rất đỗi trữ tình”. Bài thơ “ Việt Bắc” là tiêu biểu cho
phong cách sáng tác đó. Thi phẩm được sáng tác vào năm 1954 khi hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết, Trung ương Đảng và Chính Phủ dời chiến khu Việt Bắc để
về với thủ đô ánh sáng.“ Việt Bắc” còn là một thước phim quay chậm mang con
người ta trở về , chạm vào một mảng ký ức, trong tim với những kỉ niệm gian khổ
mà nghĩa tình nơi “thủ đô gió ngàn” của cách mạng, của kháng chiến- nó đã chiếu
những nỗi nhớ da diết của kẻ ở, người đi với nhiều bịn rịn, nhớ thương. Tám câu
thơ đầu là giây phút đầu khi nói những lời tạm biệt đầy lưu luyện qua đó ta thấy
được tính dân tộc được thể hiện rõ qua thơ Tố Hữu.
Bốn câu thơ đầu là những lời chân tình của người ở lại trong khoảnh khắc ly

AI
biệt:

“-Mình về mình có nhớ ta

M
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Một cuộc chia ly thông thường sẽ có người đi và kẻ ở. Dẫu nhân vật trữ tình
NG
đang là những người chuẩn bị ra đi, chào tạm biệt “Thủ đô gió ngàn”, nhưng Tố
Hữu lại bắt đầu cuộc trò chuyện với lời của người ở lại. Đó là một sự tinh tế trong
trái tim của người cầm bút, ông không chỉ thấu hiểu nỗi lòng của người đi mà còn
thấm thía những rung động sâu xa bên trong tâm hồn người ở lại. Người ở lại sẽ
tiếp tục sống trong không gian hoài niệm, nơi cất giữ bao hồi ức của “mười lăm
Ơ

năm ấy thiết tha mặn nồng; có lẽ vì vậy mà nỗi nhớ của họ thường sẽ day dứt hơn.
Trong khi đó, người ra đi sẽ thường bắt đầu một hành trình mới, đến chân trời mới,
có thể lãng quên những gì đã từng có ở nơi chiến khu nghĩa tình. Như trong bài thơ

“Ánh trăng” nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã nói về sự lãng quên này:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Nỗi lo lắng của người ở lại không phải không có căn cứ; thậm chí nó còn là
một biểu hiện tâm lý thường gặp: đó là nỗi lo âu bị quên lãng khi phải nói lời ly
biệt. Từ ngữ mang hình thức của một lời ướm hỏi nhẹ nhàng, tinh tế, hoàn toàn
không mang hàm ý trách móc. Người ở lại sợ mình sẽ bị quên lãng, sợ “ta” sẽ chỉ
còn là trong hoài ức của người về xuôi... Họ đặt câu hỏi nhưng không yêu cầu
người ra đi phải đáp lại. Câu hỏi ấy như để bộc bạch những trăn trở rất thường
tình của người ở lại mà thôi. Tuyệt nhiên, cuộc chia ly không hề có sự níu kéo,

Trang 39
40 | #hocvancosuongmai

không phải vì nỗi nhớ thương không đủ mạnh mẽ, mà là bởi người ở hiểu rõ lý do
phải nói lời tạm biệt. Đại từ “ mình- ta” là cách xưng hô khá quen thuộc trong các
câu thơ giao duyên:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Cách nói ngọt ngào của ca dao đã thấm vào thơ Tố Hữu tạo nên giọng đằm
thắm, gợi nghĩa tình thủy chung. Hai từ “mình-ta” được đặt ở hai đầu câu thơ đã
gợi nỗi ly biệt, gợi cảm giác chia xa. “Ta” là người ở lại là nhân dân Việt Bắc; “mình”
là người đi, là các cán bộ kháng chiến, trung ương Đảng, Chính phủ. Cuộc chia ly
mang ý nghĩa lịch sử, mang màu sắc chính trị bỗng được khoác lên bộ áo dẫm ca
dao, dân ca để trở thành cuộc biệt ly của tình yêu đôi lứa. Đại từ “mình-ta” gợi sự
thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái chung, giữa nỗi niềm cá nhân và nỗi niềm
tập thể. Chính vì vậy nó đã thể hiện được tính dân tộc trong thơ Tố Hữu-đây là nét

AI
độc đáo trong cảnh chia ly của Việt Bắc giúp cho tình cảm của kẻ ở người đi trong
tứ thơ này trở nên lớn lao cao cả mà sâu sắc thấm thía. Từ chỉ thời gian cụ thể
“mười lăm năm” kết hợp với đại từ phiếm chỉ mơ hồ “ấy” tạo nên sự bay bổng, lãng

M
mạn rất riêng của câu thơ. Khoảng thời gian lịch sử bỗng trở nên thiêng liêng trong
trái tim của người ở. Có lẽ, đối với những người dân Việt Bắc, đó là khoảng thời
gian thật đáng nhớ- đáng trân trọng. Mười lăm năm đó chắc hẳn đã đem đến nhiều
xúc cảm, nhiều gắn bó, giúp họ trở thành một phần quan trọng trong trái tim nhau.
NG
Thời gian ấy là thời gian tâm trạng, thời gian của biết bao kỉ niệm vì thế mà “thiết
tha mặn nồng”. Tác giả đã dùng hai tính từ liên tiếp nhau thể hiện tình cảm sâu đậm,
khẳng định chiều sâu của nỗi nhớ.
Những kỉ niệm về núi rừng nơi thủ đô gió ngàn vẫn còn trong lời gợi nhắc của
người ở:
Ơ

“Mình về mình có nhớ không


Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ hồ”

Câu hỏi tu từ thứ hai cũng là một câu hỏi khơi gợi cảm xúc, nó như một lời
thăm dò, hỏi han và nhắc nhở rằng người ra đi liệu có còn nhớ kẻ ở lại hay không.
Câu hỏi này cũng đồng thời bộc lộ nỗi lo âu mà ta có cảm nhận được ngay từ khi
người ở lại cất lời. Điệp từ “nhớ” vang lên như một điệp khúc thể hiện niềm băn
khoăn, day dứt khôn nguôi. Trong những cuộc ly biệt xưa nay, người ở lại bao giờ
cũng thấp thỏm, lo âu sợ người ra đi sẽ quên mình, giống như trong thơ ca truyền
thống

“Thuyền về có nhớ bến chăng


Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Khi xa cách, nỗi nhớ chính là sợi dây gắn kết bền chặt nhất, là cách để
những người thương nhau chiến thắng được khoảng cách của địa lý – để trái tim
luôn gần nhau. Có lẽ đó là lý do mà người ở lại nhắc đến niềm nhớ nhiều như vậy.
Chữ “nhớ” tạo nên linh hồn của đoạn thơ, bộc bạch nỗi lòng của người ở lại. Với

Trang 40
41 | #hocvancosuongmai

những hình ảnh được liệt kê: “cây” ,” núi”, “ sông”,” nguồn” – Tố Hữu đã thể hiện sự
vận dụng linh hoạt , tài tình câu tục ngữ “ uống nước nhớ nguồn” đồng thời khắc
họa bức tranh cảnh vật nơi núi rừng Việt Bắc thân thương. Qua hình ảnh này,
dường như tác giả cũng ngầm khẳng định lòng biết ơn vô hạn với nhân dân Việt
Bắc, với Thủ đô gió ngàn; khẳng định rằng người về xuôi sẽ không bao giờ lãng
quên những ân tình đã có. Bên cạnh đó, khổ thơ còn sử dụng lối ngắt nhịp chẵn :
đây là cách ngắt nhịp thông thường của thơ lục bát cũng là một trong yếu tố để cấu
thành nên xúc cảm dạt dào cho câu thơ. Bốn câu thơ đầu như lời nhắc nhở, hỏi
thăm rằng những người cán bộ về xuôi có còn nhớ vùng đất và con người Việt Bắc
nghĩa tình. Đây cũng là bước đệm để sau đó – người ở lại cất lời, đáp lại tình cảm
cùng sự lo lắng của những người dân nơi Thủ đô gió ngàn.
Bốn câu thơ này là lời của kẻ ra đi trong cuộc chia tay lịch sử, vang lên cùng
với giọng điệu thiết tha, bồi hồi, lưu luyến.

AI
“ - Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ , bồn chồn bước đi

M
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Dòng thơ đầu tiên gián tiếp thể hiện tâm trạng của người đi. “Tiếng ai” hay
chính là tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát ... của người ở lại vọng đến nỗi lòng của
NG
người đi. Một tiếng “ai” gợi sự gắn bó của người trong cuộc, như lời giã từ người
yêu với người yêu. “Ai” vừa xóa nhòa đi hình bóng, lại vừa khắc ghi sâu những kỉ
niệm. Sau khi chia ly, họ có thể không còn nhìn thấy nhau, nhưng những thanh âm,
những hoài niệm thì sẽ còn mãi mãi. Đại từ phiếm chỉ “ai” không chỉ một cá nhân cụ
thể, mà có thể chỉ tất cả những người đang chung nỗi nhớ thương. “Thiết tha” để
Ơ

bộc bạch nỗi lòng của người ra đi cũng sâu nặng như người ở lại. Như một cách để
khẳng định rằng họ sẽ không bao giờ quên những gì đã từng có. Nhà thơ đã sử
dụng các từ láy để khắc họa tâm trạng của người ra đi “bâng khuâng” và “bồn

chồn”. “Bâng khuâng” là sự chênh vênh của nỗi lòng, sự xao xuyến của tâm hồn
khi phải nói lời tạm biệt khi bản thân chưa sẵn sàng. Tuy nhiên có ai đủ sẵn sàng
để nói lời tạm biệt nơi mình từng gắn bó đâu? “Bồn chồn” thể hiện sự ngập ngừng
trong bước chân, tạo sự bối rối, phân vân, luyến lưu của người ở lại; dẫu biết mình
phải ra đi – nhưng con tim vẫn để lại một phần nơi mảnh đất ấy. Nghệ thuật tiểu đối
diễn tả thật đầy đủ những cảm xúc không chỉ hiện hữu trong những thế giới tâm
hồn mà còn hiện hữu thật cụ thể trong dáng đứng, bước đi, nó cho thấy tình cảm
sâu sắc, chân thành của người ra đi. Câu thơ ngắt nhịp 4/4 như cái phập phồng
của trái tim đang loạn nhịp bởi nhiều cung bậc cảm xúc. Nó gợi ta đến nỗi lòng của
người ra đi trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Đầu không ngoảnh lại nhưng bước chân lưu luyến, vấn vương, cả cõi lòng

Trang 41
42 | #hocvancosuongmai

như lá úa chiều thu. Ấn tượng sâu sắc hình ảnh “áo chàm” là màu áo bình dị , mộc
mạc , phảng phất màu gian khó của nhân dân Việt Bắc. Chính vì thế nó hoán dụ
cho nhân dân Việt Bắc – những con người luôn mang trong mình ân nặng, nghĩa
tình, luôn san sẻ, gánh vác những khó khăn , nguy hiểm với các cán bộ cách mạng
nói chung và những người lính ở đây nói riêng. Màu áo chàm đã trở thành một dấu
hiệu đặc biệt để cán bộ về xuôi nhận diện hay nghĩ về người dân Việt Bắc, “nhìn vật
nhớ người”. Tin rằng, kể cả sau này khi đã cách xa nhau, màu áo chàm ấy vẫn luôn
là một tín hiệu riêng mang theo nỗi nhớ về Việt Bắc trào dâng trong trái tim mỗi
người về xuôi hôm ấy – bởi họ sẽ không bao giờ quên hình ảnh người dân Việt Bắc
yêu thương. Nếu tác giả sử dụng từ “chia ly” hay “chia tay” để thế chỗ từ “phân li” thì
nội dung câu thơ vẫn không thay đổi. Thế nhưng ông sử dụng từ “phân li” (từ cổ)
còn một ý nghĩa khác đó là vì để khoảnh khắc chia ly giữa kẻ ở người đi trở thành
một nỗi niềm hoài cổ, trở thành một khoảnh khắc thiêng liêng vô cùng. Và dường
như từ “phân li” cũng gợi cảm giác buồn hơn , sâu lắng và “ tình” hơn rất nhiều bởi

AI
sự chia đôi rẻ ngã của người ở kẻ đi trong nhớ thương, luyến tiếc mà không gì có
thể diễn tả hết. Người ra đi không nói lên lời, chỉ thầm lặng cầm tay nhau nghẹn
ngào “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói gì với
nhau, chỉ có bàn tay nắm lấy bàn tay nói lên tất cả. Bao cảm xúc, bao nhớ thương

M
đã dồn tụ trong bàn tay ấy. Người ra đi không đáp lại câu hỏi của người ở lại mà
bằng sự im lặng, bằng cái nắm tay để lắng nghe tiếng lòng đang thổn thức. Đôi bàn
tay ấy khiến ta nhớ đến cái cầm tay đầy bịn rịn trong “Chinh phụ ngâm”
NG
“Thủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước, giây giây lại dừng”
Đoạn thơ khép lại bằng dấu “...” tạo nên một khoảng lặng trong xúc cảm,
thể hiện những nỗi niềm như còn miên man kéo dài mãi không dứt. Cả người ở
Ơ

và kẻ đi đều chẳng thể bộc bạch hết nỗi lòng họ dành cho nhau. Đôi khi, sự lặng
im cũng là một hình thức biểu hiện xúc cảm, có lúc còn mạnh mẽ hơn cả những từ
ngữ trực tiếp. Ý thơ đã khép lại, nhưng tình thơ dường như vẫn còn mãi.

Bằng ngòi bút trữ tình chính trị, Tố Hữu đã cho thấy tính dân tộc thấm đượm
vào từng ý thơ trong Việt Bắc. Nhà thơ đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống,
tha thiết dễ đi vào lòng người để diễn tả sự thủy chung và nghĩa tình sâu nặng. Lối
đối đáp đầy tình tứ tạo nên giọng điệu ngọt ngào cho đoạn thơ. Lối xưng hô “mình
- ta” ấy bắt nguồn những câu ca dao, dân ca mang đậm phong vị quê hương vô
cùng quen thuộc thuở thơ ấy. Bên cạnh đó, lời thơ mộc mặc với ngôn từ giản dị,
gần gũi, chân phương đã tạo nên một Việt Bắc không chỉ đậm đà tính dân tộc về
cả hình thức lẫn nội dung. Đề tài quen thuộc, xoay quanh sự kiện đã xảy ra trong
lịch sử dân tộc với những biến đổi trong tình hình chính trị của đất nước nhằm ca
ngợi lòng yêu nước và khẳng định tính dân tộc đã biến thi phẩm “Việt Bắc” trở
thành một khúc tình ca kháng chiến mang đậm tính dân tộc và những những ý vị.
Tóm lại, đoạn trích trên đã thể hiện được những giây phút lưu luyến, nghẹn
ngào trong những giây phút đầu của buổi chia ly từ đó ta cảm nhận được sâu sắc
tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu. Xuân Diệu đã từng nói: “Với Việt Bắc, hồn thơ

Trang 42
43 | #hocvancosuongmai

cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ,...,không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu
nữa mà là nhiều ngòi bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người.
Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ,
nên nhạc...”.
Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, bài thơ “Việt Bắc” như tiếng nói
thiết tha vẫn rung cảm lòng người. Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong
lòng của người hôm nay. Tiếng lòng ân tình thủy chung ngày ấy phải chăng, đã
thấm sâu vào ân tình thủy chung của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời gian
không làm nhạt nhòa đi ấn tượng về một vùng đất hào hùng chiến đấu đầy gian
lao, nguy hiểm về những anh bộ đội Cụ Hồ vẫn chiến đấu kiên cường để dành
được độc lập cho Tổ quốc. Nếu thơ ca là những dòng sông thì thơ của Tố Hữu là
một dòng sông trong xanh mà ta thương mến, dòng sông ấy đang hợp lưu trong
lòng thế hệ bạn đọc hôm nay và mai sau.

AI
_ Chúc các bạn ôn thi thật hiệu quả! _

M
NG
Ơ

Trang 43

You might also like