Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

Chu kỳ kinh tế là gì?

Những giai đoạn


của chu kỳ kinh tế?
Chu kỳ kinh tế (Business Cycle) là gì?
Thạc sỹ Đinh Thùy Dung
21/02/2022
Kinh tế tài chính
0

Chu kỳ kinh tế (Business Cycle) là gì? Chu kỳ kinh tế tiếng anh là gì?
Những giai đoạn của chu kỳ kinh tế? Các pha của chu kì kinh tế?

Trong các bước phát triển của một nền kinh tế sẽ có rất nhiều giai đoạn và
nó biến động liên tục khó có thể kiểm soát và đây cũng chính là những đặc
điểm chung của một nền kinh tế thị trường, qua góc nhìn lịch sử, mỗi nền
kinh tế sẽ không tăng trưởng theo một trạng thái ổn định mà sẽ có lúc
thịnh, lúc suy. Những biến đổi đó có tính chu kỳ, và được gọi là Chu kỳ
kinh tế. Vậy để hiểu rõ nhất về chu kỳ kinh tế là gì? Những giai đoạn của
chu kỳ kinh tế? Hãy theo dõi ngay dưới đây nhé.

1. Chu kỳ kinh tế là gì?


Chu kì kinh tế hay chu kì kinh doanh (tiếng anh: Business Cycle) là sự biến
động của GDP thực tế tạo nên sự luân phiên của nền kinh tế theo trình tự
ba giai đoạn lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Một cuộc suy
thoái được xem là đã bắt đầu khi một nền kinh tế trải qua hai quý liên tiếp
với tình trạng tăng trưởng GDP thực tế có giá trị âm.

GDP (Gross Domestic Product): Là tổng giá trị bằng tiền của tất cả sản
phẩm, dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nước, trong một thời gian
nhất định.

GDP danh nghĩa: Là tổng giá trị bằng tiền của tất cả sản phẩm, dịch vụ
cuối cùng được sản xuất ra trong nước tính theo giá hiện hành (giá của
năm hiện tại). Nguyên nhân của chu kỳ kinh tế như sau:
Theo Sismondi, các chu kì kinh tế ngắn hạn là kết quả tự nhiên của các
yếu tố thị trường, do sản xuất dư thừa, tiêu dùng thấp. Quan điểm này đối
lập với những quan điểm trước đó cho rằng nguyên nhân của chu kì kinh
tế ngắn hạn là do các điều kiện bên ngoài như chiến tranh, bệnh dịch,…

Khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp phát triển -> mức lương người
lao động tăng, họ có nhiều tiền hơn để chi tiêu -> sản lượng hàng hóa tăng
lên -> doanh nghiệp lại phát triển và mở rộng quy mô.
Khi đó, các doanh nghiệp gia tăng cạnh tranh bằng cách sản xuất lượng
lớn hàng hóa dẫn tới tình trạng dư cung. Họ buộc phải giảm giá để kích
cầu -> lợi nhuận doanh nghiệp giảm -> cắt giảm người lao động -> suy
thoái kinh tế.

Sau cùng, mức giá đủ thấp để khiến cầu tăng, lợi nhuận lại tăng lên và một
chu kì kinh tế mới lại bắt đầu. Và đây là cách mà một chu kỳ kinh tế diễn
ra.

2. Chu kỳ kinh tế tiếng anh là gì?


Chu kì kinh tế tiếng anh là “ Business Cycle”

3. Những giai đoạn của chu kỳ kinh tế:


Một chu kỳ kinh tế điển hình bao gồm bốn giai đoạn:

Giai đoạn đáу (điểm thấp nhất – TROUGH) : là giai đoạn ѕuу thoái nhất
của nền kinh tếGiai đoạn tăng trưởng: là giai đoạn bắt đầu từ đáу phát
triển lên đến đỉnh của một chu kỳ kinh tế Giai đoạn đỉnh (điểm cao nhất –
PEAK): là giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất của nền kinh tế Giai đoạn
ѕuу thoái: là khoảng thời gian từ ѕau nền kinh tế đã tăng trưởng đến đỉnh
rồi bắt đầu ѕuу giảm хuống đáу.

Trong giai đoạn tăng trưởng, hầu hết các hoạt động kinh tế đều mở rộng,
gia tăng (dù một ѕố lĩnh ᴠực kinh tế riêng lẻ có thể không tăng trưởng).

Trong giai đoạn ѕuу thoái (ở mức độ trầm trọng là khủng hoảng), hầu hết
các hoạt động kinh tế đều ѕuу giảm (mặc dù một ѕố lĩnh ᴠực riêng lẻ có thể
ᴠẫn tăng trưởng). Đỉnh ᴠà đáу được хem là các điểm ngoặt (turning point)
của một chu kỳ kinh tế. Đặc điểm nhận biết các giai đoạn của chu kỳ kinh
tế cụ thể như sau:
Giai đoạn tăng
Giai đoạn phục hồi Giai đoạn đỉnh Giai đoạn ѕuу thoái 6-
trưởng (tăng
(đáy-2) 5 1
trưởng mạnh) 3-4

– Tổng ѕản phẩm quốc nội Các chỉ tiêu đo


Các chỉ tiêu đo
Các hoạt (GDP), hoạt động ѕản хuất lường cho thấу Các chỉ tiêu đo lường
lường cho thấу có
động kinh công nghiệp, ᴠà các hoạt có ѕự giảm tốc cho thấу ѕự ѕuу giảm
ѕự tăng tốc trong
tế động kinh tế khác ổn định trong tăng hoàn toàn
tăng trưởng kinh tế
ᴠà bắt đầu tăng trưởng trưởng kinh tế

– Việc ѕa thải giảm, nhưng – Doanh nghiệp – Doanh nghiệp trước


tỷ lệ thất nghiệp ᴠẫn còn – Doanh nghiệp bắt giảm tốc độ tiên chỉ giảm giờ làm
cao– Doanh nghiệp chưa đầu tuуển nhân tuуển dụng– Tỷ ᴠiệc, ngừng tuуển thêm
Tình hình có хu hướng tuуển lao ᴠiên làm ᴠiệc toàn lệ thất nghiệp lao động mới. Nếu tình
ᴠiệc làm động mới, mà chỉ tạm thời gian (full- ᴠẫn tiếp tục hình ᴠẫn tiếp tục хấu đi
tuуển lao động thời ᴠụ ᴠà time) – Tỷ lệ thất giảm nhưng ᴠới thì bắt đầu ѕa thải lao
уêu cầu lao động hiện tại nghiệp giảm tốc độ giảm động– Tỷ lệ thất nghiệp
làm tăng ca dần tăng

– Xu hướng đầu tư,


– Giảm chi tiêu trong
– Xu hướng tăng trong ᴠiệc chi tiêu tăng rõ ràng
– Chi tiêu cho các ngành ѕản хuất
đầu tư bất động ѕản, chi hơn– Doanh nghiệp
Tình hình tài ѕản cố định công nghiệp– Giảm đầu
tiêu cho hàng hóa lâu bền bắt đầu đặt hàng
chi tiêu ᴠẫn tăng, tư bất động ѕản– Giảm
(Durable goodѕ) – Xu các trang thiết bị
ᴠà Đầu tư nhưng tốc độ chi tiêu cho hàng hóa
hướng tăng các đơn đặt phức tạp trong các
ѕản хuất bắt đầu chậm lâu bền – Giảm đơn đặt
hàng của những trang thiết ngành công nghiệp
lại hàng của các trang thiết
bị ѕản хuất đơn giản nặng ᴠà các ngành
bị mới
хâу dựng

Lạm phát ᴠừa phải ᴠà tiếp Lạm phát tăng Lạm phát giảm tốc
Lạm phát Lạm phát tăng nhẹ
tục giảm tốc nhưng có độ trễ

Vậy Khi nào thì giai đoạn ѕuу thoái bắt đầu?

Một cuộc ѕuу thoái được хem là đã bắt đầu khi một nền kinh tế trải qua hai
quý liên tiếp ᴠới tình trạng tăng trưởng GDP thực tế (Real GDP) có giá trị
âm. Tăng trưởng GDP thực tế là thước đo của mức tăng trưởng đã có điều
chỉnh lạm phát của một nền kinh tế. Quу tắc nàу có thể không chỉ ra ѕuу
thoái nếu tăng trưởng GDP thực tế là âm trong một quý, hơi tích cực trong
quý tiếp theo ᴠà một lần nữa lại âm trong quý tiếp theo.

Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia (The National Bureau of Economic
Reѕearch – NBER) là tổ chức chuуên cung cấp báo cáo ᴠề chu kỳ kinh tế
tại Hoa Kỳ. NBER phân tích nhiều chuỗi dữ liệu ᴠề ᴠiệc làm, ѕản хuất công
nghiệp ᴠà tình hình bán hàng. Do tính chất “trễ” (lag) của dữ liệu (các dữ
liệu ѕơ bộ đã được phát hành có thể bị thaу đổi/điều chỉnh lại ѕau thời gian
cả năm trời).

Như vây ta thấy khi xét về lý thuуết, thuật ngữ chu kỳ kinh tế có thể khiến
chúng ta nghĩ rằng các biến động kinh tế nàу luôn diễn ra đều đặn ᴠà có
thể được dự báo trước. Tuу nhiên trên thực tế, các biến động kinh tế diễn
ra không đều đặn ᴠà khó dự báo chính хác. Các chu kỳ ѕẽ lặp đi lặp lại
theo thời gian, nhưng không mang tính định kỳ. Quу mô ảnh hưởng ᴠà tác
động của các chu kỳ cũng khác nhau. Mặc dù lịch ѕử không bao giờ được
lặp lại một cách chính хác, những kiến thức ᴠề các mẫu hình của chu kỳ
kinh tế có thể giúp chúng ta trong ᴠiệc phân tích tình hình kinh tế hiện tại
cũng như dự báo хu hướng tương lai của một nền kinh tế.

4. Các pha của chu kì kinh tế:


Quá trình biến động này về cơ bản có thể chia ra làm 03 giai đoạn:

Suy thoái: Là pha thu hẹp của nền kinh tế, sản lượng thực tế rời từ đỉnh
xuống dưới sản lượng tiềm năng và tiến tới đáy của chu kỳ. Trong giai
đoạn suy thoái có thể thấy rõ nhất sản lượng kinh tế giảm sút, tỉ lệ thất
nghiệp tăng cao, thị trường hàng hóa, dịch vụ, vốn…bị thu hẹp đáng kể và
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

Đặc trưng của pha suy thoái là sự sụt giảm GDP thực tế, ở Mỹ và Nhật
Bản thì quy định rằng khi tốc độ tăng trưởng GDP bị âm trong 2 quý liên
tiếp thì đó là pha suy thoái.

Phục hồi: Là pha mở rộng, tăng trưởng trở lại của nền kinh tế. Trong đó
sản lượng thực tế từ vị trí đáy của chu kỳ tăng trở lại mức sản lượng tiềm
năng và tiến tới đỉnh mới của chu kỳ. Giai đoạn này đặc trưng bởi tỷ lệ thất
nghiệp giảm, thu nhập tăng, thị trường hàng hóa và dịch vụ sôi động trở
lại, tỷ lệ hàng tồn kho giảm để đáp ứng theo nhu cầu tái thiết của thị
trường.

GDP trong giai đoạn này sẽ tăng trở lại bằng với mức trước suy thoái,
điểm ngoặt giữa hai giai đoạn suy thoái-phục hồi chính là đáy của chu kỳ
kinh tế.

Hưng thịnh:Đây là giai đoạn đạt đỉnh của chu kỳ kinh tế. Sản lượng thực
tế, năng suất, công ăn việc làm, hoạt động tiêu dùng, sản xuất của nền
kinh tế đạt đến mức cực đại. Về cơ bản, đây là giai đoạn mà nền kinh tế đã
chạm tới mức cao nhất, thị trường đã phát triển hết tiềm năng của nó.
GDP trong giai đoạn này tiếp tục tăng nhanh và vượt qua mức trước lúc
suy thoái. Nền kinh tế đang ở đỉnh cao của nó, trước khi bắt đầu một pha
suy thoái mới thể hiện bởi điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy
thoái, và được gọi là đỉnh của một chu kỳ kinh tế.

Tầm quan trọng của chu kỳ kinh tế

Với đa phần những nền kinh tế thị trường hiện nay thì yếu tố quyết định sự
thành công của mô hình kinh tế này chính là sự luân chuyển giữa cung và
cầu, hay về cơ bản làm cho cuộc sống của mỗi người dân tốt hơn bằng
cách sản xuất và tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ theo thời gian.

GDP thể hiện lên mức sống của một quốc gia, phản ánh lượng hàng hóa
sản xuất và tiêu dùng. Việc GDP tăng đồng nghĩa với một nền kinh tế phát
triển thành công. GDP chính là con số để chúng ta có thể đánh giá xem
nền kinh tế đang ở giai đoạn nào của chu kỳ, hay nói cách khác tất cả mọi
hoạt động kinh tế đều bị tác động bởi trạng thái của chu kỳ kinh tế đó.

Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, mở rộng thì các doanh nghiệp sẽ
tạo ra lợi nhuận nhiều hơn, nhu cầu về hàng hóa và sản xuất được ổn
định, chi tiêu tiêu dùng tăng cao từ đó dẫn tới nhiều hệ quả tích cực như
tạo ra nhiều việc làm hơn, giữ lạm phát ở mức ổn định…

Ngược lại khi nền kinh tế bước vào giai đoạn suy thoái thì nguồn lợi từ các
hoạt động kinh tế cũng giảm đi, việc làm cũng ít đi, thu nhập khả dụng và
chi tiêu tiêu dùng cũng từ đó giảm sút, thị trường hàng hóa và sản xuất
hoạt động kém linh hoạt.

Kinh tế là một vòng luẩn quẩn và có tính lặp nên cần được mở rộng liên
tục. Tuy nhiên, cần có các biện pháp để kiểm soát tốt nhằm đảm bảo nền
kinh tế nằm trong tầm kiểm soát và không phát triển quá nóng. Một nền
kinh tế phát triển quá nóng, quá nhanh là một nền kinh tế đã tăng trưởng
mạnh mẽ trong một thời gian dài nhưng dễ đẩy lạm phát tăng cao. Và lạm
phát quá cao dẫn đến sự kém hiệu quả trong một nền kinh tế thị trường.

Nếu không có biện pháp giúp kiểm soát tốt nền kinh tế đang tăng trưởng
quá nhanh thì có thể dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực từ đầu cơ, bong bóng
tài chính, lạm phát cao và cuối cùng là “Khủng hoảng kinh tế”.
CÁC NGÀNH NGHỀ/ LĨNH VỰC ĐẦU TƯ TIỀM NĂNG
Ở TỪNG GIAI ĐOẠN THỊ TRƯỜNG
Hầu hết các biểu đồ chu kỳ kinh tế và chu kỳ thị trường cho thấy
chu kỳ thị trường đi trước chu kỳ kinh tế. Nguyên nhân là bởi là các
chuyên gia tài chính và các nhà đầu tư nhìn thấy các dấu hiệu của
chu kỳ kinh tế trước khi báo cáo thực tế về một giai đoạn kinh tế
xảy ra, do đó thị trường chứng khoán luôn đi trước như một chỉ báo
của nền kinh tế.

Đồng hồ thị trường ở hình trên cho thấy thời điểm tốt nhất để mua
cổ phiếu là khi cuộc suy thoái kết thúc và sự phục hồi bắt đầu. Các
tín hiệu kinh tế khác xuất hiện quanh đồng hồ là những chỉ báo để
hỗ trợ cho việc xác định chu kỳ kinh tế, ví dụ: “giai đoạn Giữa hồi
phục kinh tế” có các dấu hiệu gồm tài nguyên tăng, cổ phiếu giá trị
tăng, các trái phiếu liên kết lạm phát tăng.

Dưới đây trình bày về Các lĩnh vực chiếm ưu thế (là các lĩnh vực
mà cổ phiếu có thể tăng giá tốt hơn phần còn lại) trong mỗi giai
đoạn thị trường và giai đoạn của chu kỳ kinh tế nhất định. Thị
trường được thể hiện đầu tiên, thứ hai là kinh tế, và thứ ba là các
tín hiệu của giai đoạn kinh tế.
1. Hàng tiêu dùng không theo chu kỳ: Đầu tư ở đầu giai đoạn thị
trường gấu, tương ứng cuối giai đoạn kinh tế phục hồi; Tín hiệu: dự
trữ ngoại hối gia tăng, Cổ phiếu vốn hoá lớn tăng giá, hàng hoá
tăng giá.
2. Hàng tiêu dùng theo chu kỳ (lâu bền hoặc không lâu bền): Đầu tư ở
Cuối giai đoạn thị trường gấu, tương ứng đỉnh của chu kỳ kinh tế
(đầu giai đoạn suy thoái kinh tế); Tín hiệu: tỷ lệ lãi suất tăng và trái
phiếu chính phủ ngắn hạn tăng.
3. Chăm sóc sức khỏe: Đầu tư ở giai đoạn đầu thị trường gấu, tương
ứng cuối giai đoạn kinh thế phục hồi; Tín hiệu: dự trữ ngoại hối
tăng, Cổ phiếu vốn hoá lớn tăng, và hàng hoá tăng.
4. Tài chính: Chiếm ưu thế trong 2 giai đoạn: Cuối giai đoạn thị trường
Gấu, tương ứng đỉnh chu kỳ kinh tế (giai đoạn đầu suy thoái kinh
tế); Tín hiệu: tỷ lệ thất nghiệp tăng và trái phiếu doanh nghiệp
tăng. Giai đoạn đầu thị trường bò tót tương ứng giai đoạn cuối suy
thoái kinh tế; Tín hiệu: tỷ lệ lãi suất tăng (ND-sau khi lãi suất đã
được cắt giảm sâu để hỗ trợ kinh tế giai đoạn trước đó) và trái
phiếu chính phủ ngắn hạn tăng.
5. Công nghệ: Đầu tư từ phần giữa của giai đoạn đầu thị trường bò
tót đến giữa thị trường bò tót, tương ứng đầu giai đoạn kinh tế hồi
phục; Tín hiệu: tỷ lệ lãi suất rơi (falling), trái phiếu rác tăng, và các
cổ phiếu vốn hoá nhỏ tăng.
6. Công nghiệp cơ bản: Đầu tư ở giai đoạn cuối của thị trường bò tót,
tương ứng trước của giai đoạn giữa phục hồi kinh tế; Tín hiệu: tỷ lệ
lãi suất rơi (falling) và các cổ phiếu tăng giá.
7. Tư liệu sản xuất: Đầu tư từ giai đoạn giữa đến giai đoạn cuối thị
trường bò tót, tương ứng từ đầu giai đoạn kinh tế hồi phục đến
giữa giai đoạn kinh tết phục hồi; Tín hiệu: tỷ lệ lãi suất rơi và cổ
phiếu tăng.
8. Vận tải: Đầu tư ở đầu thị trường bò tót, tương ứng cuối suy thoái
kinh tế; Tín hiệu: thất nghiệp tăng và trái phiếu doanh nghiệp tăng.
9. Lĩnh vực năng lượng: Đầu tư ở Đỉnh thị trường chứng khoán,
tương ứng với giai đoạn Giữa chu kỳ kinh tế hồi phục; Tín hiệu: tài
nguyên tăng, cổ phiếu giá trị tăng, các trái phiếu liên kết lạm phát
tăng (inflation linked bonds hay inflation-indexed bonds, là loại trái
phiếu bảo đảm suất sinh lợi cao hơn tỷ lệ lạm phát nếu nó được
nắm giữ cho đến đáo hạn).
10. Lĩnh vực tiện ích: Đầu tư từ đầu đến giữa thị trường con gấu,
tương ứng với cuối chu kỳ kinh tế hồi phục; Tín hiệu: bất động sản
tăng.
11. Kim loại quý: Đầu tư nhóm này ở giai đoạn đỉnh thị trường
chứng khoán, tương ứng giai đoạn giữa phục hồi kinh tế; Tín hiệu:
Tài nguyên tăng, Các cổ phiếu giá trị tăng, và các trái phiếu liên kết
lạm phát tăng.
Các giai đoạn của chu kỳ kinh tế là gì?
Một chu kỳ kinh tế điển hình sẽ bao gồm 4 giai đoạn chính, cụ thể:

Các giai đoạn của chu kỳ kinh tế

Giai đoạn phục hồi: Ở giai đoạn này, tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hoạt
động sản xuất công nghiệp và các hoạt động kinh tế khác ổn định và bắt đầu
tăng trưởng. Việc sa thải nhân viên tại các doanh nghiệp đã giảm dần nhưng
tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội vẫn còn cao, doanh nghiệp có xu hướng tuyển
lao động thời vụ và yêu cầu lao động hiện tại làm tăng ca thay vì tuyển mới.
Tại giai đoạn này, việc đầu tư vào bất động sản, chi tiêu cho hàng hóa lâu bền
có xu hướng tăng và các đơn đặt hàng các trang thiết bị sản xuất đơn giản
cũng tăng theo. Lạm phát ở mức vừa phải và tiếp tục giảm.

Giai đoạn tăng trưởng mạnh: Các chỉ tiêu đo lường như GDP bắt đầu tăng
mạnh, doanh nghiệp bắt đầu tuyển nhân viên toàn thời gian và tỷ lệ thất
nghiệp giảm. Việc đầu tư và chi tiêu bắt đầu tăng rõ rệt cùng với việc các
doanh nghiệp chú trọng đặt hàng các thiết bị phức tạp với các ngành công
nghiệp nặng và xây dựng. Lạm phát ở giai đoạn này có xu hướng tăng nhẹ.

Giai đoạn đỉnh: Các chỉ tiêu đo lường có sự giảm tốc trong tăng trưởng kinh
tế, doanh nghiệp bắt đầu giảm việc tuyển dụng và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục
giảm với tốc độ chậm. Việc chi tiêu cho bất động sản và tài sản cố định tăng
nhưng với tốc độ chậm. Lạm phát bắt đầu tăng tốc.

Giai đoạn suy thoái: Ở giai đoạn suy thoái, các chỉ tiêu đo lường bắt đầu suy
giảm hoàn toàn. Các doanh nghiệp thực hiện việc giảm giờ giảm việc, ngừng
tuyển thêm lao động mới và nếu tình hình vẫn tiếp tục xấu đi sẽ bắt đầu sa
thải nhân viên khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng. Việc chi tiêu trong các ngành công
nghiệp, đầu tư bất động sản và các hàng hóa lâu bền cũng giảm. Lạm phát
bắt đầu giảm tốc nhưng có độ trễ nhất định.

Đặc điểm của chu kỳ kinh tế là gì?


 Chu kỳ kinh tế xảy ra định kỳ. Các chu kỳ kinh tế xảy ra theo thời gian
nhưng không thể xác định được thời điểm cụ thể, khoảng thời gian giữa
các chu kỳ thay đổi theo ngành và điều kiện kinh tế. Khoảng cách giữa
các chu kỳ có thể thay đổi từ 2 đến 10 năm,thậm chí 12 năm một lần.
 Cường độ của các giai đoạn trong chu kỳ kinh tế cũng khác nhau. Có
những công ty chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc nhưng sau đó là
giai đoạn suy thoái nhẹ trong thời gian ngắn.
 Chu kỳ kinh tế ảnh hưởng đồng bộ lên các lĩnh vực. Chu kỳ kinh tế
không giới hạn ở một công ty hay một ngành mà mang tính đồng bộ.
Sự biến động trong một ngành sẽ nhanh chóng lan sang các ngành
khác và ảnh hưởng lên toàn bộ nền kinh tế. Ví dụ, sự suy thoái của
ngành thép sẽ tạo nên phản ứng dây chuyển cho đến khi toàn bộ nền
kinh tế rơi vào suy thoái.
 Chu kỳ kinh tế ảnh hưởng lên tất cả các lĩnh vực. Tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế sẽ phải đối mặt với ảnh hưởng bất lợi của chu kỳ kinh
doanh. Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư và hàng tiêu dùng bị tác động mạnh
hơn so với các hàng hóa lâu bền như bất động sản hay tài sản cố định
khác.
 Chu kỳ kinh doanh là một hiện tượng phức tạp. Chu kỳ kinh tế là một
hiện tượng phức tạp và không có sự đồng nhất giữa các chu kỳ với
nhau. Không hề có bất kỳ nguyên nhân cụ thể nào hình thành nên chu
kỳ kinh tế nên rất khó để dự đoán hay chuẩn bị trước cho việc xảy ra
các chu kỳ.
 Chu kỳ kinh tế mang tính chất toàn cầu. Chu kỳ kinh tế mang tính chất
lây lan toàn cầu, nó không giới hạn tại một quốc gia hay một nền kinh
tế. Khi chu kỳ kinh tế xảy ra ở một quốc gia,nó sẽ nhanh chóng lây lan
sang các quốc gia và nền kinh tế khác thông qua các quan hệ thương
mại.

Đặc điểm của chu kỳ kinh tế

Ý nghĩa của việc xác định chu kỳ kinh tế


Chu kỳ kinh tế là một đề tài thực tiễn được các nhà kinh tế học vĩ mô quan
tâm vì mỗi dao động của chu kỳ đều hàm chứa các biến động của các biến số
kinh tế vĩ mô.

Với các nhà kinh tế học, việc xác định chính xác diễn biến của chu kỳ kinh tế
là chủ đề được quan tâm hàng đầu và là mục tiêu quan trọng để chứng minh
các lý thuyết kinh tế vĩ mô bởi các lý thuyết này được rút ra từ thực tiễn và
được sử dụng để phân tích các vấn đề và tình huống kinh tế đang và sẽ xảy
ra. Mỗi giai đoạn trong chu kỳ kinh tế đều là kết quả của các tác động tổng
hợp gồm nhiều yếu tố và các yếu tố này đều có quan hệ với nhau.

Với các nhà hoạch định chính sách, việc tính được quy luật của chu kỳ kinh tế
sẽ giúp họ đề ra các chính sách hữu hiệu, ngăn cản giai đoạn sa sút và sự
phát triển quá nóng của nền kinh tế. Tức là, các nhà chính trị cần có thông tin
đầy đủ và phương pháp dự báo của chu kỳ kinh tế hợp lý nhằm chủ động đối
phó với những thăng trầm trong chu kỳ kinh tế.

Với những người nghiên cứu kinh tế không chuyên, việc nghiên cứu chu kỳ
kinh tế là bước đầu tiên và đơn giản nhất để tiếp cận khoa học kinh tế. Các lý
thuyết vĩ mô giúp chúng ta làm sáng tỏ nguồn gốc của các dao động trong
một chu kỳ nên người nghiên cứu sẽ dễ dàng hơn khi tiếp cận các kiến thức
trừu tượng khác của kinh tế học.
Ví dụ về chu kỳ kinh tế
Cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2008 đã khiến nền kinh tế ngay lập tức thu
hẹp 2,3% trong quý đầu tiên của năm 2008 và phục hồi 2,1% trong quý thứ
hai. Tiếp theo đó, nó thu hẹp thêm 2,1% trong quý thứ ba và giảm mạnh 8,4%
trong quý thứ tư. Nền kinh tế đã trong quý đầu tiên của năm 2009 giảm mạnh
4,4%. Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 4,9% trong tháng 1 lên 7,2% vào
tháng 12.12

Theo Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia, mức đáy xảy ra vào cuối quý hai năm
2009 khi GDP chỉ giảm 0,6% nhưng tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 9,5% do tính
chất tụt hậu của nó.

Giai đoạn mở rộng bắt đầu vào quý 3 năm 2009 khi GDP tăng 1,5% nhờ các
gói hỗ trợ kích thích tiêu dùng từ Đạo luật Phục hồi và Tái đầu tư của Mỹ. Tỷ
lệ thất nghiệp tiếp tục trầm trọng hơn, chạm mốc 10,2% vào tháng 10. Bốn
năm sau giai đoạn mở rộng, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức trên 7%, bởi vì giai
đoạn suy thoái quá khắc nghiệt.

Chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về nội dung của chu kỳ kinh tế. Có thể thấy
rằng, hậu quả mà chu kỳ gây ra tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế -
xã hội nên việc tìm hiểu về chu kỳ kinh tế là gì và đưa ra những phán đoán
để dự bị là điều cần thiết nhằm duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh
tế. Luanvan99.com hy vọng những kiến thức này đã mang lại cho bạn nguồn
thông tin hữu ích.

You might also like