Líchudang

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

2.2.

Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941.
2.2.1 Trong những năm 1930-1935
a) Hoàn cảnh lịch sử
*Ngoài nước : Quốc tế đang trải qua những biến động to lớn. Tại Liên Xô, cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chấn động thế giới và tạo ra nguồn cảm
hứng mạnh mẽ cho các phong trào cách mạng trên khắp thế giới.
*Trong nước: Trong giai đoạn này, Đông Dương (nay là Việt Nam) đang chịu sự áp
bức và thống trị của chế độ thuộc địa Pháp. Tình hình xã hội và kinh tế rất khó khăn
với sự gia tăng của nạn đói và bất bình đẳng. Người dân đang phải chịu sự tác động
tiêu cực từ chế độ thuế và bất công xã hội. Điều này đã tạo điều kiện cho sự phản đối
và sự phát triển của các phong trào cách mạng.
=> Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới có ảnh hưởng tích cực đến
cách mạng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy phong trào đấu tranh
cách mạng ở Việt Nam.
b) Chủ trương và đường lối của Đảng
Thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương: Giai đoạn này chứng kiến sự thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930. Mục tiêu ban đầu của Đảng là tập hợp
người lao động và nông dân để tham gia vào cuộc cách mạng.
Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhấttại
Hương Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất: đổi tên Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thông qua Luận cương chính
trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo; cử Trần Phú làm Tổng Bí
thư.
Ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành
phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930-
1931): Trong các tháng 9 và 10 – 1930, trước khí thế cách mạng của quần chúng, bộ
máy chính quyền địch ở nhiều nơi tan rã. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, Ban
Chấp hành Nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn,
thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng lao động, làm chức năng,
nhiệm vụ của một chính quyền nhà nước dưới hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu
Xô viết.
Xô viết Nghệ – Tĩnh là mẫu hình chính quyền cách mạng đầu tiên ở Việt Nam, một
chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các Xô viết được thành lập và thực thi
những chính sách tiến bộ chứng tỏ rằng Xô viết Nghệ – Tĩnh là đỉnh cao của phong
trào cách mạng 1930 – 1931
Giai đoạn 1930-1935 là giai đoạn quan trọng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam. Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập và phát triển trong hoàn cảnh
lịch sử phức tạp trong và ngoài nước. Chính sách của Đảng tập trung vào việc thúc
đẩy sự phản đối và tham gia của người lao động và nông dân thông qua các cuộc biểu
tình và đình công, cũng như tạo ra các tình hình xung đột để tăng cường tham gia của
họ. Giai đoạn này đã đặt nền móng cho những phần tiếp theo của cuộc cách mạng và
thể hiện sự kiên trì và quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong việc đấu tranh cho độc
lập và tự do.

2.2.2 Trong những năm 1935-1939


a) Hoàn cảnh lịch sử
Giai đoạn 1935-1939 là một thời kỳ căng thẳng trong lịch sử thế giới với sự gia tăng
của các xung đột và sự sẵn sàng chiến tranh. Một số nước đi vào con đường phát xít
hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ
trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật,
chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát
động chiến tranh chia lại thế giới.Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ
nghiêm trọng nền hoà bình và an ninhquốc tế.
Ở Việt Nam, ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế (1929 – 1933) vẫn tiếp diễn.
Trong khi đó, thực dân Pháp lại tiến hành một chiến dịch khủng bố để đàn áp phong
trào cách mạng 1930 – 1931. Đời sống chính trị và kinh tế rất căng thẳng. Yêu cầu của
của mọi tầng lớp xã hội là các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống, yêu cầu có
những cải cách dân chủ.
b) Chủ trương ,đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương
Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung
Quốc) để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Nội dung chính của hội nghị
này bao gồm:
Đánh giá Tình Hình Cách Mạng: Hội nghị đã đánh giá tình hình cách mạng tại Đông
Dương và trình bày tình hình kinh tế, xã hội, và chính trị trong thời điểm đó. Điều này
giúp Đảng có cái nhìn tổng quan về tình hình và những thách thức mà họ đang đối
mặt.
Xác Định Chiến Lược và Đường Lối: Hội nghị đã thảo luận và quyết định về chiến
lược và đường lối cách mạng trong giai đoạn tiếp theo. Điều này bao gồm việc xác
định mục tiêu chính của cuộc cách mạng và cách thức thực hiện chúng.
Vai Trò của Đảng và Nhân Dân: Hội nghị đã tập trung vào vai trò của Đảng và sự
đoàn kết của nhân dân trong cuộc cách mạng. Nó đã nhấn mạnh sự cần thiết của sự
đoàn kết và hỗ trợ của toàn bộ xã hội để đối phó với thách thức từ chế độ thuộc địa
Pháp.
Thúc Đẩy Công Tác Tổ Chức: Hội nghị đã thảo luận về việc thúc đẩy công tác tổ chức
và cơ cấu của Đảng. Điều này bao gồm việc tăng cường khả năng quản lý và lãnh đạo
của Đảng để đối phó với áp lực nội và ngoại.
Quan Điểm Về Quốc Tế: Hội nghị đã thảo luận về quan điểm của Đảng về các sự kiện
quốc tế và tạo điều kiện cho việc thiết lập mối quan hệ với các phong trào cách mạng
và các đảng cộng sản trên thế giới.
 Hội nghị tại Thượng Hải năm 1936 đã đánh dấu sự thống nhất của Đảng trong
việc xác định chiến lược và đường lối cách mạng trong bối cảnh khó khăn. Nó là
một bước quan trọng trong việc chuẩn bị cho các giai đoạn cách mạng sau này và
thể hiện sự đoàn kết của Đảng trong việc đấu tranh cho độc lập và tự do của Việt
Nam.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm1936 trở đi khẳng định
sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng.Hội nghị lần thứ ba (3-1937),
lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ
chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt
động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc
địa,chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp năm 1937 và 1938 đã bổ sung và phát triển nội dung Nghị quyết Hội
nghị Trung ương tháng 7/1936.
b) Ưu điểm và hạn chế của chủ trương đường lối
*Ưu điểm
Sự Thúc Đẩy Cách Mạng Đa Tầng Lớp: Một trong những ưu điểm lớn của chính sách
và đường lối của Đảng trong giai đoạn này là sự thúc đẩy cách mạng đa tầng lớp.
Đảng đã tập trung vào việc kêu gọi và tổ chức tham gia của nhiều tầng lớp xã hội khác
nhau, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, và các phân khúc xã hội khác.
Điều này đã tạo ra sự đoàn kết mạnh mẽ hơn trong cuộc cách mạng và làm gia tăng
sức mạnh của nó.
Xây Dựng Cơ Cấu Tổ Chức Mạnh Mẽ: Đảng đã tập trung vào việc xây dựng cơ cấu tổ
chức chặt chẽ và hiệu quả hơn. Sự phân chia rõ ràng về trách nhiệm và cơ cấu lãnh
đạo đã giúp cải thiện khả năng quản lý và đối phó với áp lực nội và ngoại.
Chuẩn Bị Cho Cuộc Kháng Chiến: Việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trước đã tạo
nền móng cho cuộc chiến tranh giành độc lập và tự do sau này. Đảng đã xây dựng lực
lượng quân đội cách mạng và cơ quan chính quyền cách mạng, sẵn sàng cho cuộc
kháng chiến.
*Hạn chế
Sự Đối Đầu Với Áp Lực Ngoại Việt: Đảng đã phải đối mặt với áp lực từ Pháp, Đức,
và Nhật Bản, đặc biệt là sau khi Nhật Bản xâm lược Đông Dương vào năm 1939. Sự
đối đầu này làm gia tăng tình hình căng thẳng và đe dọa cuộc cách mạng.
Xung Đột Nội Bộ: Trong giai đoạn này, Đảng đã phải đối mặt với sự xung đột và
tranh chấp về đường lối và chiến thuật với một số thành viên và nhóm trong nội bộ
Đảng. Sự không thống nhất trong một số vấn đề quan trọng có thể đã làm yếu đi sự
đoàn kết trong Đảng.
Khó Khăn Kinh Tế và Xã Hội: Cuộc cách mạng phải đối mặt với những khó khăn
kinh tế và xã hội lớn trong giai đoạn này, bao gồm nạn đói và bất bình đẳng xã hội.
Điều này có thể làm suy yếu sự ủng hộ của một số tầng lớp xã hội.
 Giai đoạn 1935-1939 đã thấy sự tập trung và quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc. Chính sách đa tầng lớp, cơ cấu tổ chức mạnh mẽ và chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến đã là những bước đi quan trọng trong hành trình đấu tranh cho độc
lập và tự do của Việt Nam. Tuy nhiên, áp lực từ bên ngoài và xung đột nội bộ
cũng là những thách thức đáng kể mà Đảng phải đối mặt.
2.2.3 Trong những năm 1939-1941
a)Hoàn cảnh lịch sử
Trong giai đoạn từ 1939 đến 1941, cả thế giới đang đối mặt với những biến động lớn
do chiến tranh thế giới thứ hai đang bùng nổ. Đây là một thời kỳ căng thẳng và quan
trọng trong lịch sử Việt Nam và thế giới.
Ngoài nước :
Chiến tranh Thế Giới II: Năm 1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ khi Đức
xâm lược Ba Lan. Cuộc chiến này đã tác động lớn đến tình hình thế giới và cả Việt
Nam. Pháp và Anh đã bị đánh bại, và Đức đã chiếm đóng một phần lớn châu Âu.
Cuộc chiến này đã tạo ra cơ hội và thách thức cho nhiều phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới, bao gồm Việt Nam.
Xâm lược Nhật Bản: Trong khi chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra ở châu Âu,
Nhật Bản đã mở cuộc xâm lược vào Đông Á. Năm 1940, Nhật Bản đã xâm lược và
chiếm đóng Đông Dương (Việt Nam), Lào và Campuchia. Điều này đã tạo ra một
thách thức lớn cho việc duy trì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong nước :
Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay
đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét
sứcngười, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.
Chuẩn bị cho cuộc kháng chiến: Trong bối cảnh áp lực từ Nhật Bản và cuộc chiến
tranh thế giới, Đảng Cộng sản Đông Dương (sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã
tập trung vào chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Điều này bao gồm việc xây dựng lực
lượng quân đội cách mạng và cơ quan chính quyền cách mạng, sẵn sàng cho cuộc
kháng chiến chống lại xâm lược của thực dân.
 Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và xâm lược của Nhật Bản đã tạo ra những thách
thức lớn cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng làm
nổi bật sự quyết tâm của Đảng và nhân dân Việt Nam trong việc đối phó với
những tình huống phức tạp và đe dọa độc lập.
b) Chủ trương và đường lối của Đảng
Thể hiện qua: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939); Hội nghị Trung ương lần thứ
7 (11-1940); Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941).
*Hội nghị Trung ương lần thứ 6(11-1939)
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 11 tháng 11 năm 1939.
Hội nghị này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy sự đoàn kết và
hợp nhất các phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Nó là sự tổng hợp của nhiều
phong trào kháng chiến và cách mạng trong nước.
Mục tiêu chính của hội nghị này là thảo luận về tình hình chính trị và quân sự ở Đông
Dương trong bối cảnh xâm lược của Nhật Bản và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Đặc biệt, hội nghị quyết định cần tập trung vào chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống
lại xâm lược của Nhật Bản.
Hội nghị cũng thảo luận về việc tăng cường hợp tác với các phong trào giải phóng dân
tộc và các đảng cộng sản trên thế giới để tạo điều kiện cho sự hỗ trợ quốc tế.
Một trong những quyết định quan trọng của hội nghị là việc thành lập "Liên Việt"
(Việt Minh), một tổ chức đa phong trào chống xâm lược và đánh đối thủ thuộc địa,
bao gồm Pháp và Nhật Bản.
Ý nghĩa của hội nghị Trung ương lần thứ 6(11-1939):
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đã góp phần quan trọng trong việc hợp nhất các phong
trào giải phóng dân tộc trong nước, đặc biệt là sự hợp nhất giữa Đảng Cộng sản Đông
Dương và các phong trào dân tộc khác.
Nó đã xác định chiến lược và đường lối cho cuộc kháng chiến chống lại xâm lược của
Nhật Bản và cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Thật vượt qua, nó là bước quan trọng
trong việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lớn hơn trong giai đoạn sau này.
Hội nghị cũng đánh dấu sự gia nhập của Việt Nam vào cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai và việc đấu tranh cho độc lập và tự do trước những áp lực ngoại viễn và thuộc địa.
*Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)
Hội nghị Trung ương lần thứ 7 diễn ra vào tháng 11 năm 1940.
Từ ngày 6-9/11/1940, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 dođồng chí
Trường Chinh chủ trì đã được tổ chức tại làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh).
Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hạ Bá Cang,Hoàng Văn Thụ, Phan
Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh.
Hội nghị khẳng định: “Tình thế hiện tại không thay đổi gì tính chất cơbản của cuộc
cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương”, chủ trương chuyểnhướng về chỉ đạo chiến
lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩuhiệu cách mạng ruộng đất của
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng11-1939 là đúng. Hội nghị cũng
khẳng định sự chuyển hướng đề ra trong Hộinghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 6 là hoàn toàn đúng đắn.
Hội nghị xác định tính chất của cách mạng Đông Dương là cách mạng giải phóng dân
tộc với hai nhiệm vụ phản đế và thổ địa. Cách mạng phản đế vàcách mạng thổ địa phải
đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau.1 Hộinghị chỉ ra rõ, kẻ thù chính
của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc chủnghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là
phong kiến bản xứ. Kẻ thù nguy hiểm nhất là“đội quân thứ nǎm” của bọn phát xít
Nhật và bọn Việt gian thân Pháp
Phương pháp cách mạng được hội nghị đề ra đó là phương pháp khởi nghĩa vũ trang.
Chủ trương đi liền với việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhấtphản đế, phải tổ chức
các đội tự vệ trực tiếp, vũ trang cho quần chúng, tiến lên vũ trang bạo động.
Hội nghị Trung ương lần 7 chưa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải thống nhất ý
chí và hành động, phải mật thiết liên lạc với quần chúng, phải có vũ trang lý luận cách
mạng phải lập tức khôi phục hệ thống tổ chức Đảng Trung - Nam - Bắc, phải khuếch
trương và củng cố cơ sở Đảng thực hiện tự phê bình và đấu tranh, đặc biệt chú trọng
sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, đây là bước thụt lùi so với Hội
nghị Trung ương lần 6.
* Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì:
+ Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất,
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức thiết
nhất”; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu
giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công.
Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.
Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có
đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đũng thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa.
Ý nghĩa:
Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939.
Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận
cương Chính trị tháng 10 – 1930.
Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách mạng cho thắng lợi của Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.

You might also like