Truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
Tác phẩm này có tiền thân là tiểu
thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tiểu thuyết Xóm ngụ cư lấy bối cảnh nạn đói 1945 nhưng sau đó bị lạc mất bản thảo. Năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết nên tác phẩm hoàn chỉnh như hiện tại. Trong quá trình cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác giả đã gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Bởi lẽ, cưới vợ vốn là một việc trọng đại trong đời người, được tiến hành một cách thận trọng trang nghiêm. Đối lứa đến với nhau thường thông qua một quá trình tìm hiểu kỹ càng hay có sự mai mối. Thế mà, ở đây lại là nhặt vợ. "Nhặt" thường gợi ra việc vô tình nhặt được một cách dễ dàng, thường là những thứ nhỏ nhoi không có giá trị. Có ai có thể tưởng tượng được vợ cũng có thể nhặt được như nhặt rơm nhặt rác bên đường. Nhan đề “Vợ nhặt” đã phần nào nói lên thân phận rẻ rúng bèo bọt của người phụ nữ trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Truyện kể về một gia đình nghèo trong nạn đói Ất Dậu năm 1945. Tràng là một thanh niên chưa vợ, sống cùng mẹ ở xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói đang diễn ra, thì Tràng lại dắt thêm một người phụ nữ về nhà làm vợ. Trước tình cảnh ấy, không chỉ người dân xóm ngụ cư mà cả mẹ Tràng là bà cụ Tứ cũng rất ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng với tấm lòng cảm thông sâu sắc, mẹ Tràng đã đồng ý. Và họ bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới với niềm tin hy vọng về tương lai. Tràng là người dân ngụ cư nghèo, thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội, thuộc hạng cùng đinh lúc bấy giờ. Tràng cũng không có công việc ổn định, anh làm nghèo đẩy xe bò thuê, một cuộc sống vất vả và không ổn định. Không có địa vị xã hội, ngay cả ngoại hình của không có nét nổi bật. Tràng có ngoại hình bình thường nếu không muốn nói là thô kệch. Nhà cửa luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”, sau tấm phên rách nát là “niêu bát, sống áo vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất”, cuộc sống bấp bênh đang bị cái đói đe dọa, Tràng không nghĩ mình có thể có cơ hội cưới vợ, đặc biệt là thời điểm đói khát lầm than lúc bấy giờ. Thế nhưng, nà văn Kim Lân qua tình huống truyện đặc sắc đã “đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết” (Nguyễn Đăng Mạnh) để nhân vật tự tỏa sáng từ chính hoàn cảnh éo le của mình. Cuộc đời Tràng là một số không tròn trĩnh, mọi thứ diễn ra mang tính tạm bợ, qua ngày qua tháng. Hoàn cảnh ấy còn bi thảm hơn trong những ngày đói. Một không khí u ám tiêu điều. Xung quanh nơi xóm ngụ cư, Tràng ở nhà cửa thì “úp úp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa”, “tối sầm lại vì đói khát”. Trong “không khí vẩn lên vì mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi ngây của xác người”, thì những thanh âm đáng sợ thê lương vang lên. Đó là tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”, tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Người đói khắp nơi “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp liều chợ”. Người “chết như ngả rạ”, không sáng nào “không lại gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Tràng cũng như những người dân khác trong xóm ngụ cư vẫn cứ lê lết từng ngày từng ngày trong nạn đói ấy. Họ đang chờ đợi cái chết hay chờ đợi một tươi lai tương lai? Ta cũng không biết rõ. Bởi hoàn cảnh ấy đã tô đậm hiện thực cuộc sống người dân nghèo trong nạn đói 1945, thể hiện sự cảm thông sâu sắc của nhà văn dành cho những kiếp người nghèo khổ lầm than. Đồng thời, hoàn cảnh ấy còn góp phần thể hiện vẻ đẹp của Tràng – giàu tình yêu thương và lòng vị tha. Nhà văn Thạch Lam từng cho rằng “Cái đẹp nằm trong cuộc sống. Cái đẹp len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, và cái đẹp tiềm tàng che lấp đi sự vật”. Với Tràng, người đọc cũng nhận ra bên lề sự ngờ nghệch, bên lề cuộc sống túng quẫn khi bị cái đói rình rập đến tận cùng, anh cũng như những người nông dân khác, vẫn luôn ánh lên vẻ đẹp của sự chân chất, giàu niềm tin và hi vọng. 1. Tràng là nhân vật có tính cách nhân hậu và cởi mở Giữa lúc đói, anh vẫn sẵn sàng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc khi chỉ biết người đàn bà ấy qua vài câu nói đùa tầm phơ tầm phào; và sau hai lần gặp ấy, Tràng đã quyết định cưu mang cô gái, đưa cô về làm vợ. Tràng còn đưa cô ra chợ mua vài thứ lặt vặt rồi dắt cô về nhà, điều đó thể hiện sự trân trọng và quan tâm của anh. Có lúc, anh đã chợn nghĩ “đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, dù vẫn có những lo sợ cho cuộc sống quá bấp bênh, khó khăn nhưng cuối cùng anh chỉ “tặc lưỡi một cái: Chậc, kệ!” – cái chậc lưỡi muốn đánh cuộc một lần với cái đói để có được một cuộc sống bình thường như bao người, cái chậc lưỡi sẵn sàng cưu mang người khác trong cơn hoạn nạn. Việc Tràng lấy vợ vốn đã là một điều kỳ lạ. Kỳ lạ hơn, Tràng lại quyết định lấy vợ trong hoàn cảnh gia đình đang khốn khó vì nghèo vì đói. Bản thân anh cũng phải làm lụng chạy vạy từng bữa ăn, nay lại còn “đèo bòng” thêm người vợ nhặt. Họ sẽ sống thế nào và liệu có thể vượt qua được nạn đói đang đe dọa tính mạng của cả xóm ngụ cư hay không? Tuy ý thức được điều đó, nhưng Tràng vẫn bỏ qua mọi suy nghĩ về hiện tại nghèo khó về tương lai mịt mờ mà đi đến một quyết định ít ai làm được – cưu mang người phụ nữ xa lạ. Nếu không phải là một người có tấm lòng nhân hậu, sao Tràng có thể hào phóng đãi người đàn bà mới quen ấy một bữa ăn, sao Tràng có thể chấp nhận người đàn bà kia về chung sống với mình. Vì bởi, Tràng sống trong hoàn cảnh nghèo khó, túng thiếu, bị xem thường nên hơn ai hết, Tràng hiểu được cảm giác của người vợ nhặt lúc bấy giờ – chấp nhận bỏ qua danh dự chỉ bản thân để được một bữa ăn no. Thấu hiểu và thông cảm cho người phụ nữ là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành động có vẻ lạ lùng này của Tràng. Nếu người ta đến với nhau bằng tình yêu nam nữ, thì trước hết Tràng và người phụ nữ xa lạ này lại đến với nhau bằng tình thương, tình người trong cơn hoạn nạn. Có thể nói, Tràng như một chiếc phao cứu sinh cho người vợ nhặt. Tràng đã làm một điều tốt mà ít người có thể làm được trong lúc mạng sống luôn bị đe dọa bởi nạn đói này, nhưng Tràng không vênh váo vì điều đó và anh cũng không cần báo đáp. Đó mới chính là vẻ đẹp của người nông dân nghèo. Tuy họ không có gì cả, nhưng vẫn sẵn sàng cứu giúp người khác. Họ không cần ai tuyên dương vì việc làm tốt của mình. Tràng là hiện thân chân thật nhất của vẻ đẹp ấy. 2. Tràng là người có khát khao và ý thức xây dựng hạnh phúc Câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng với người vợ nhặt cũng đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình, từ trong sâu thẳm tiềm thức, con người ấy vẫn khát khao được hạnh phúc bất chấp sự đe dọa của cái đói cái chết đang chực chờ cướp đi tính mạng con người. Niềm khát khao ấy cũng chính là một nguồn động lực to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Trên đường về nhà, xen lẫn với tâm trạng vui sướng là những hành động vụng về, lóng ngóng “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Từ khi ý thức thực được mình có vợ, Tràng như một con người khác. Niềm vui có vợ đã khiến Tràng quên đi nỗi lo lắng, bất an với cuộc sống hiện tại. Nếu thường ngày, cái đói khiến bước chân Tràng trở nên nặng nhọc và mệt mỏi thì hôm nay vẫn trên con đường quen thuộc, vẫn lúc nạn đói đang diễn ra nhưng Tràng lại vô tư yêu đời hơn bao giờ hết… Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, Tràng không hề lúng túng bối rối mà ngược lại Tràng “thích lắm, cái mặt cứ vênh vênh như tự đắc với chính mình”. Tràng hãnh diện, hạnh phúc với mình của hiện tại. Tràng được tận hưởng niềm vui mà trước đây chưa bao giờ anh dám nghĩ tới, như trong một giấc mơ. Khi chờ mẹ về, anh ngượng nghịu lúng túng “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, rồi chợt hắn thấy sờ sợ”. Thậm chí anh chưa dám tin chắc là mình đã có vợ, khi hạnh phúc đến quá bất ngờ thường khiến cho con người cảm thấy không chân thật “nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ “kìa nhà tôi nó chào u” nghe như có cái gì nỏ ruột nở gan, như một sự xác nhận rành rọt, một lời khẳng định chắc chắn về việc Tràng đã có vợ. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, khi thức dậy Tràng thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Ngôi nhà đã có những thay đổi – nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm “hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch”, mấy chiếc áo quần rách bươm đã được đem ra phơi. Mẹ thì rạng rỡ tươi tỉnh, vợ thì không còn vẻ chao chát, đanh đá. Khi đứng trước những sự thay đổi ấy, Tràng cảm thấy thấm thía vô cùng, cảm động yêu thương và muốn gắn bó với gia đình đồng thời cũng thấy mình cần có trách nhiệm với gia đình: “Bỗng nhiên hắn lại thấy hắn yêu thương và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ ở cái nơi đấy. Cái nhà như cái tổ ấm, che mưa che nắng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận là phải lo lắng cho vợ con sau này.”. Tràng đã xúc động vô cùng trước sự thay đổi của căn nhà, và vào giây phút ấy, Tràng thấy mình trưởng thành nên người. Niềm vui sướng còn gắn với ý thức về bổn phận trách nhiệm với gia đình nhỏ bé của mình. Từ một con người chỉ nghĩ đến việc làm sao cho khỏi đói, làm sao sống qua được hết ngày hôm nay, Tràng đã bắt đầu suy nghĩ đến tương lai. Tràng cũng nghĩ tới những sự đổi thay trong tương lai cho dù vẫn chưa có ý thức thật đầy đủ khi trong đầu hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới cùng với đoàn người phá kho thóc. Quả thật, tuy Tràng lấy vợ không có hình thức trang trọng nhưng lại rất nghiêm túc trong suy nghĩ về trách nhiệm, bổn phận của mình đối với gia đình. Quả thật, ẩn sau con người có vẻ ngờ nghệch kia là một tấm lòng yêu thương, một khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình vô cùng mãnh liệt. Tràng là nhân vật tiêu biểu chi những nghèo lao động nghèo khổ trước nạn đói. Qua nhân vật Tràng, người đọc cảm nhận được phẩm chất cao quý và sức sống mãnh liệt của người lao động. Bên cạnh đó, nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến người đọc niềm tin vào tương lai, dù kề cận cái đói, cái chết nhưng con người vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng vào ánh sáng tương lai. Kim Lân đã dành trọn yêu thương, tấm lòng nhân đạo sâu sắc vào từng nhân vật, để rồi như một nhà văn từng nhận xét: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu, nguyên thủy của làng quê Việt Nam…”. Vợ nhặt không chỉ phản ánh tình cảnh bi thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp 1945, mà còn thể hiện tấm lòng của Kim Lân đối với cuộc đời. Kim Lân đã đồng cảm xót thương cho số phận những người nghèo khổ, thấu hiểu và trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khát khao hạnh phúc và niềm tin vào tươi lai tươi sáng của họ. “Thời gian có thể phủ bụi một số thứ, nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp” (Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên). Có lẽ, tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân chính là minh chứng rõ ràng nhất về quan điểm trên. Nhân vật Tràng, cũng như hình ảnh người vợ hay bà cụ Tứ sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc bao thế hệ.